QUYỂN
THỨ BẢY
Đời Diêu Tần ngài
Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng chiếu dịch. Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt
Dịch
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM "PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT KHUYẾN PHÁT"
THỨ
HAI MƯƠI TÁM
1. Lúc bấy
giờ, ngài Phổ-Hiền Bồ-tát dùng sức thần thông tự tại oai đức danh văn, cùng
vô-lượng vô biên bất khả xưng sỗ chúng đại Bồ-tát từ phương Đông mà đến, các
nước đi ngang qua khắp đều rúng động, rưới hoa sen báu, trổi vô-lượng trăm
nghìn muôn ức các thứ kỹ nhạc.
Lại cùng vô số các đại chúng: Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà,
A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, Nhơn, Phi nhơn v.v... vây
quanh, đều hiện sức oai đức thần thông đến cõi Ta-bà trong núi Kỳ-xà-quật,
đầu măt lạy Đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật, đi quanh bên hữu bảy vòng, bạch Phật
rằng: "Thế-Tôn! Con ở nơi nước của Đức Bảo-Oai-Đức-Thượng-Vương Phật, xa
nghe cõi Ta-bà này nói Kinh Pháp-Hoa, nên cùng với vô-lượng vô biên trăm
nghìn muôn ức chúng Bồ-tát đồng đến để nghe thọ, cúi mong Đức Thế-Tôn nên vì
chúng con nói đó.
Nếu
Thiện-nam-tử, Thiện-nữ-nhơn sau khi Như-Lai diệt độ, thế nào mà có thể đặng
Kinh Pháp-Hoa này?"
2. Phật bảo
Phổ-Hiền Bồ-tát rằng: "Nếu Thiện-nam-tử, Thiện-nữ-nhơn thành tựu bốn pháp,
thời sau khi Như-Lai diệt độ, sẽ đặng Kinh Pháp-Hoa này:
một là được các Đức Phật hộ niệm, hai
là trồng các cội công đức, ba là vào trong Chánh định, bốn là phát lòng cứu
tất cả chúng sanh.
Thiện-nam-tử, Thiện-nữ-nhơn thành tựu bốn pháp như thế, sau khi Như-Lai diệt
độ quyết đặng Kinh này.
3. Lúc đó,
ngài Phổ-Hiền Bồ-tát bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Năm trăm năm sau trong đời ác
trược, nếu có người thọ trì Kinh điển này, con sẽ giữ gìn trừ các sự khổ
hoạn làm cho đặng an ổn, khiến không ai đặng tiện lợi rình tìm làm hại, hoặc
ma, hoặc con trai của ma, hoặc con gái của ma, hoặc dân ma, hoặc người bị ma
dựa, hoặc Dạ-xoa, hoặc La-sát, hoặc Cưu-bàn trà, hoặc Tỳ-xá-xà, hoặc
Kiết-giá, hoặc Phú-đơn-na, hoặc Vi-đà-la v.v... những kẻ làm hại người đều
chẳng đặng tiện lợi.
Người đó
hoặc đi, hoặc đứng, đọc tụng Kinh này, bấy giờ con cỡi Tượng vương trắng sáu
ngà cùng chúng đại Bồ-tát, đều đến chỗ người đó mà tự hiện thân ra, để cúng
dường thủ hộ an ủi tâm người đó, cùng để cúng dường Kinh Pháp-Hoa.
Người đó
nếu ngồi suy nghĩ Kinh này, bấy giờ con lại cỡi Tượng vương trắng hiện ra
trước người đó, người đó nếu ở trong Kinh Pháp-Hoa có quên mất một câu một
bài kệ, con sẽ dạy đó chung cùng đọc tụng làm cho thông thuộc.
Bấy giờ,
người thọ trì đọc tụng Kinh Pháp-Hoa đặng thấy thân con, lòng rất vui mừng
lại càng tin tấn, do thấy thân con nên liền đặng Tam-muội và Đà-la-ni tên
là: "Triền-đà-la-ni", trăm nghìn muôn ức "Triền-đà-la-ni", "Pháp-âm
phương-tiện Đà-la-ni", đặng những môn Đà-la-ni như thế.
4. Thế-Tôn!
Nếu đời sau, sau năm trăm năm trong đời ác trược, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, người cầu tìm, người thọ trì, người đọc tụng, người
biên chép, mà muốn tu tập Kinh Pháp-Hoa này, thời trong hai mươi mốt ngày,
phải một lòng tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cỡi Tượng trắng
sáu ngà, cùng vô-lượng Bồ-tát vây quanh, dùng thân mà tất cả chúng sanh ưa
thấy, hiện nơi trước người đó để vì nói pháp chỉ dạy cho lợi ích vui mừng
cũng lại cho chú Đà-la-ni.
Đặng chú Đà-la-ni này thời không có Phi nhơn nào có thể phá hoại được
cũng chẳng bị người nữ làm hoặc loạn. Con cũng đích thân thường hộ người đó.
Cúi mong đức Thế-Tôn nghe con nói chú Đà-la-ni này, liền ở trước Phật mà nói
chú rằng:
A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà
tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba chuyên nể, tát bà đà la ni a
bà đa ni, tát bà bà sa a bà đa ni, tu la bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni,
tăng già niết dà đà ni, a tăng kỳ, tăng già bà dà địa, đế lệ a nọa tăng già
đâu lược, a la đế ba la đế, tát bà tăng già địa, tam ma địa, già lan địa,
tát bà đạt mạ tu ba lợi sát đế, tát bà tát đỏa lâu đà kiêu xá lược, a nâu dà
địa, tân a tỳ kiết lợi địa đế.
Thế-Tôn!
Nếu có Bồ-tát nào đặng nghe chú Đà-la-ni này, phải biết đó là sức thần thông
của Phổ-Hiền.
5. Nếu Kinh
Pháp-Hoa lưu hành trong Diêm-Phù-Đề có người thọ trì, thời nên nghĩ rằng:
đều là sức oai thần của Phổ-Hiền.
Nếu có
người thọ trì đọc tụng ghi nhớ chơn chánh hiểu nghĩa thú trong Kinh đúng như
lời mà tu hành, phải biết người đó tu hạnh Phổ-Hiền, ở nơi vô-lượng vô biên
các đức Phật, sâu trồng cội lành, được các Như-Lai, lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ
biên chép người này mạng chung sẽ sanh lên Trời Đao-Lợi.
Bấy giờ,
bốn muôn tám nghìn thiên nữ trỗi các kỹ nhạc mà đến rước đó, người đó liền
đội mão bảy báu ở trong hàng thể nữ, vui chơi khoái lạc, huống là thọ trì
đọc tụng ghi nhớ chơn chánh hiểu nghĩa thú Kinh, đúng như lời mà tu hành.
Nếu có
người nào thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa thú Kinh này, người đó khi mạng
chung được nghìn đức Phật trao tay, khiến chẳng sợ sệt, chẳng đọa vào đường
dữ, liền lên cung trời Đâu-Suất, chỗ Di-Lặc Bồ-tát mà sanh vào hàng quyến
thuộc trăm nghìn muôn ức thiên nữ. Đức Di-Lặc Bồ-tát có ba mươi hai tướng,
chúng đại Bồ-tát cùng nhau vây quanh. Có công đức lợi ích như thế cho nên
người trí phải một lòng tự chép hoặc bảo người chép thọ trì đọc tụng, ghi
nhớ chơn chánh đúng như lời tu hành.
Thế-Tôn!
Con nay dùng sức thần thông giữ gìn Kinh này, sau khi Như-Lai diệt độ, làm
cho rộng lưu bố trong Diêm-phù-đề khiến chẳng dứt mất.
6. Lúc bấy
giờ, Đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Phổ-Hiền! Ông
có thể hộ trợ Kinh này làm cho nhiều chúng sanh an vui lợi ích. Ông đã thành
tựu bất khả tư nghì công đức, lòng từ-bi sâu lớn, từ lâu xa đến nay phát tâm
Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, mà có thể thật hành nguyện thần thông đó,
để giữ gìn Kinh này.
Ta sẽ dùng
sức thần thông giữ gìn người hay thọ trì danh hiệu Phổ-Hiền Bồ-tát.
Phổ-Hiền! Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chơn chánh tu tập biên
chép Kinh Pháp-Hoa này, phải biết người đó thời là thấy Đức Thích-Ca-Mâu-Ni
Phật, như từ miệng Phật mà nghe Kinh điển này. Phải biết người đó cúng dường
cho Đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật, phải biết người đó được Phật, Ngài khen lành
thay, phải biết người đó được Thích-Ca-Mâu-Ni Phật lấy tay xoa đầu. Phải
biết người đó được Đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật lấy y trùm cho. Người như
thế chẳng còn lại ham ưa sự vui trong đời, chẳng ưa Kinh sách viết chép của
ngoại đạo, cũng lại chẳng ưa gần gũi ngoại đạo và các kẻ ác, hoặc kẻ hàng
thịt, hoặc kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, hoặc thợ săn, hoặc kẻ buôn bán sắc gái.
Người đó tâm ý ngay thật, có lòng nghĩ nhớ chơn chánh, có sức phước đức.
Người đó cũng chẳng bị ba món độc làm não hại, cũng chẳng bị tánh ganh ghét,
ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn làm não hại. Người đó ít muốn biết đủ, có
thể tu hạnh Phổ-Hiền.
7. Phổ-Hiền!
Sau khi Như-Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nào thấy người thọ
trì đọc tụng Kinh Pháp-Hoa phải nghĩ rằng: Người này chẳng bao lâu sẽ đến
đạo tràng, phá các chúng ma thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, chuyển
Pháp-luân, đánh Pháp cổ, thổi Pháp loa, rưới Pháp vũ, sẽ ngồi trên pháp tòa
sư tử trong đại chúng Trời, Người.
Phổ-Hiền!
Nếu ở đời sau, có người thọ trì đọc tụng Kinh điển này, người đó chẳng còn
lại ham ưa y phục, giường nằm, những vật nuôi sống, chỗ mong cầu chẳng
luống, cùng ở trong hiện đời đặng phước báo đó.
Nếu có
người khinh chê đó rằng: "Ông là người điên cuồng vậy, luống làm hạnh ấy
trọn không đặng lợi ích". Tội báo như thế sẽ đời đời không mắt. Nếu có người
cúng dường khen ngợi đó, sẽ ở trong đời nay đặng quả báo hiện tại.
Nếu lại
thấy người thọ trì Kinh này mà nói bày lỗi quấy của người đó, hoặc thiệt,
hoặc chẳng thiệt, người này trong hiện đời mắc bịnh bạch lại(1).
Nếu khinh cười
người trì Kinh sẽ đời đời răng nướu thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay chân
cong quẹo, mắt lé, thân thể hôi dơ, ghẻ dữ máu mũ, bụng thủng hơi ngắn, bị
các bịnh nặng dữ.
Cho nên
Phổ-Hiền! Nếu thấy người thọ trì Kinh điển này phải đứng dậy xa rước, phải
như kính Phật.
8. Lúc Phật
nói phẩm “Phổ-Hiền Bồ-tát Khuyến Phát” này có hằng-hà-sa vô-lượng vô biên
Bồ-tát đặng trăm nghìn muôn ức môn "Triền-đà-la-ni", Tam-thiên Đại-thiên thế
giới vi trần số chư đại Bồ-tát, đủ đạo Phổ-Hiền.
Lúc Phật
nói Kinh này, Phổ-Hiền v.v... các vị Bồ-tát, Xá-Lợi-Phất v.v... các vị
Thanh-văn và hàng Trời, Rồng, Nhơn, Phi nhơn v.v... tất cả đại chúng đều rất
vui thọ trì lời Phật làm lễ mà đi.
KINH
DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA
QUYỂN
THỨ BẢY
I. Diệu-Âm
hạnh khắp, thành trước nên sau, hoằng dương kinh này, toàn nhờ công tổng trì(2).
Tà ma
ngoại đạo theo hơi gió lánh xa, đạo chơn thường lưu thông, muôn pháp đều
viên dung.
Nam-mô
Pháp-Hoa Hội Thượng Phật Bồ-tát Ma-ha-tát
(3 lần)
II. Pháp-Hoa
Hải-Hội(3)
đức Phật thân tuyên, ba châu(4)
chín dụ
nghĩa kính mầu, bảy cuốn gồm bao trùm hơn sáu muôn lời, xướng tụng lợi
Người, Trời.
Nam-mô
Pháp-Hoa Hải-Hội Chư Phật Chư Đại Bồ-tát Chư Hiền-Thánh-Tăng
(3 lần)
III.
Một câu nhiễm tâm thần
Đều giúp đến bờ kia
Nghĩ suy ròng tu tập
Hẳn dùng làm thuyền bè
Tùy hỷ thấy cùng nghe
Thường làm chủ với bạn
Hoặc lấy hay là bỏ
Qua tai đều thành duyên
Hoặc thuận cùng với nghịch
Trọn nhơn đây được thoát.
Nguyện ngày tôi giải thoát
Y báo cùng chánh báo
Thường tuyên Kinh mầu này
Một cõi đên một trần
Đều là vì lợi vật
Cúi mong các đức Phật
Thầm nhờ hộ trợ cho
Tất cả hàng Bồ-tát
Kín giúp sức oai linh
Nơi nơi chưa nói Kinh
Đều vì chúng khuyến thỉnh
Phàm chỗ có nói pháp
Đích thân thờ cúng dường
Một câu cùng một kệ
Tăng tấn đạo Bồ-đề
Một sắc và một hương
Trọn không hề thối chuyển.
IV.
Trời, A-tu-la, Dạ-xoa thảy
Đến nghe pháp đó nên chí tâm:
Ủng hộ Phật pháp khiến thường còn
Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy.
Bao nhiêu người nghe đến chốn này
Hoặc trên đất liền hoặc hư không
Thường với người đời sanh lòng từ
Ngày đêm tự mình nương pháp ở.
Nguyện các thế giới thường an ổn
Phước trí vô biên lợi quần sanh
Bao nhiêu tội nghiệp thảy tiêu trừ
Xa lìa các khổ về viên tịch.
Hằng dùng giới hương xoa vóc sáng
Thường trì định phục để giúp thân
Hoa mầu bồ đề khắp trang nghiêm
Tùy theo chổ ở thường an lạc.
Nam-mô Hộ-pháp chư tôn Bồ-tát.
(3 lần)
* CHUNG *
Thích nghĩa:
(1) BỊNH BẠCH LẠI: Bịnh hủi (da tróc sân sùi, tóc mày đều rụng).
(2) TỔNG TRÌ: Tức là "Đà-la-ni".
(3) HẢI HỘI: Hội lớn rộng rất đông như biển không thể lường biết!
(4) BA CHÂU: a)- Thuyết pháp châu, b)- Thí dụ châu, c)- Nhơn
duyên châu.
PHỤ:-
Bích-Chi-Phật có hai hạng: a)- Ra đời không gặp Phật, không gặp chánh pháp,
nhơn thấy sự biến đổi trong đời như hoa héo, lá khô, v.v... mà tự ngộ lý
vô-thường, dứt kiến tư hoặc, thoát ly sanh tử luân hồi, gọi vị: Độc-Giác.
b)- Ra đời
gặp Phật, gặp chánh pháp "Thập-nhị nhơn-duyên" quán (xem phẩm Hóa-Thành-Dụ
thứ 7 quyển thứ ba) mà chứng ngộ Vô-sanh, thoát ly sanh tử luân hồi gọi là
vị: Duyên-Giác. Hai bực Độc-Giác cùng Duyên-Giác, cứ quả vị thời ngang với
quả A-La-Hán.
|