SỰ TÍCH TRÌ TỤNG
KINH PHÁP-HOA
ĐƯỢC LINH NGHIỆM
I.- CUỐNG LƯỠI KHÔNG RÃ
1.- ĐỒNG TỬ
Về thời nhà Tống, khi ông Thích Đạo sanh ở xứ Bán Đường tụng kinh
Pháp-Hoa, có gã đồng tử theo ông xuất gia, cũng tụng kinh Pháp-Hoa,
không bịnh hoạn chi, bỗng chết đi, mới đem chôn trong cạnh rừng. Ít lâu
sau, một đêm kia xảy nghe có tiếng tụng kinh cạnh rừng ấy, người trong
làng lấy làm lạ, đào lên xem coi, bèn gặp một cái lưỡi mọc hoa sen xanh.
Nhơn đó người làng mới dựng tháp phụng thờ, đến sau sửa sang lại thành
một ngôi chùa đồ sộ.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
2.- ĐẦU LÂU TỤNG KINH
Nhà Đường, niên hiệu Trinh Quán có ông thầy ở chùa Ngộ Chơn trên
núi Vương Thuận. Ban đêm đi qua đất Lam Khê, bỗng nghe tiếng người tụng
kinh Pháp-Hoa văng vẳng ở đàng xa. Lúc ấy trăng sao tỏ rạng, thầy mới
ngó trông bốn phía xa xa vài mươi dậm, vẫn im lìm vắng vẻ, không thấy ai
cả. Trong tâm thầy rất nao nao rung sợ.
Về đến chùa rồi, thầy tường thuật lại với chúng tăng. Qua đêm
sau, chúng tăng đồng đến Lam-Khê để nghe. Bèn nghe tiếng tụng kinh từ
dưới đất phát lên, mới lấy cây cắm nêu làm dấu chỗ ấy.
Rạng ngày, qua đào chỗ ấy gặp đặng một bộ xương sọ (đầu lâu)
trong gò đất. Xương ấy đã khô, duy còn cái môi trên, môi dưới và cuống
lưỡi hồng đỏ tươi thắm, bèn đem về chùa đựng trong hộp đá để dưới hiên
phía Tây điện Thiên Phật.
Từ đó về sau mỗi đêm thường có tiếng tụng kinh Pháp-Hoa ở trong
hộp đá. Kẻ nam nữ ở Trường An đến xem rất đông có đến số nghìn.
Sau đó ông thầy ở nước Tân-La đến ngụ trong chùa vừa hơn một năm.
Ngày kia, chúng tăng trong chùa có việc xuống núi hết, chỉ còn ông thầy
nước Tân-La ở lại, ông bèn trộm lấy hộp đá mà đi. Chúng tăng theo tìm
thời đã đem về miền Hải-Đông rồi.
(Trích trong bộ Tuyên Thất Chí)
* * *
3.- THÍCH ĐẠO TỤC
Nhà Đường, ông Thích Đạo Tục, không biết do lai ở đâu, ở trên núi
Lệ Tuyền chuyên ròng tụng kinh Pháp-Hoa đến vài nghìn biến.
Trong niên hiệu Trinh Quán, nhơn bịnh sắp chết, dặn người bạn là
ông Huệ Khoách Thiền Sư rằng: “Tôi ở đây, dù rằng tụng kinh, nhưng ý
trông mong có sự hiệu nghiệm. Vậy sau khi tôi chết rồi, sẽ hẹn chừng
mười năm sẽ đào mả lên xem coi, nếu cuống lưỡi tiêu rã, biết rằng tụng
kinh không công hiệu, nếu cuống lưỡi còn nguyên, xin dựng một cái tháp
để cho người đời sinh lòng kính tin”. Nói rồi viên tịch.
Đến mười một năm sau, Thiền sư y lời đào mả lên coi thấy thân
thịt đều tiêu hết, chỉ còn cuống lưỡi không mục rã, mà lại tươi thắm như
của người sống. Bấy giờ cả huyện ấy kẻ nam người nữ đều khen ngợi, mới
đem cuống lưỡi đựng vào hộp đá, dựng tháp thờ ở trên gò Cam-Đốc.
(Rút trong bộ Pháp-Uyển Châu-Lâm)
* * *
II.- VÃNG SANH
1.- THÍCH HUỆ TẤN
Niên hiệu Vĩnh Minh, xứ Dương Đô, chùa Cao Tòa, ông Thích Huệ Tấn
lúc niên thiếu rất mạnh mẻ, thích giao du, có chí hào hiệp, đến tuổi bốn
mươi bỗng ngộ lý vô thường, bèn đi xuất gia học Đạo. Chỉ dùng tương rau,
mặc bô vải, thệ nguyện trì tụng kinh Pháp-Hoa mà thôi.
Do ông dụng tâm quá lao khổ nên phát bịnh. Ông mới phát nguyện ấn
tống trăm bộ kinh để sám hối nghiệp chướng đời trước. Ông vừa quyên tiền
được một nghìn sáu trăm đồng thì có bọn giặc cướp đến tra hỏi tài vật,
ông bèn chỉ tiền và nói cho họ biết đó là tiền in kinh. Bọn cướp hổ thẹn
bỏ đi.
Về sau, ông in được trăm bộ kinh rồi bịnh cũ cũng lành mạnh. Ông
tụng kinh đã nhiều, tâm niệm hoàn mãn hồi hướng công đức tụng kinh cầu
sanh về nước Cực Lạc.
Một ngày nọ bỗng nghe trên hư không có tiếng bảo rằng: “Pháp
nguyện đã đủ, tất đặng vãng sanh”. Ông không bịnh hoạn chi mà chết,
hưởng thọ được hơn tám mươi tuổi.
(Rút trong bộ Tường Di Ký)
* * *
2.- VƯƠNG YÊM
Đời Đường, quan Huỳnh-môn thị-lang tên Vương Yêm, bình sanh căn
tánh tối dốt chậm lụt, chỉ có một bộ kinh Pháp-Hoa mà ông học lâu ngày
mới tụng thông được. Sau ông phải bịnh từ trần, về mách mộng cho người
em làm quan Thái-Thú ở đất Tân An rằng: “Ta nhờ tụng kinh được sanh về
Tây Phương, song vì tôi dốt nên còn ở trong thai bào hoa sen. Nay về nói
cho các người biết, từ nay phải chuyên siêng trì tụng kinh điển chớ nên
biếng nhác trễ nải”. Nói rồi liền từ biệt.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì Nghiệm)
* * *
III.- KHỎI NẠN
1.- THÍCH HUỆ KHÁNH
Đời Tống, ông Thích Huệ Khánh là người xứ Quảng Lăng, đi xuất gia
ở chùa Lô Sơn, học thông kinh luật, giới hạnh tinh nghiêm thanh khiết.
Ông thường trì tụng kinh Pháp-Hoa, kinh Thập Địa, kinh Tư Ích, kinh Duy
Ma. Hằng đêm tụng kinh, thường nghe trên hư không có tiếng khảy móng tay
khen ngợi.
Một ngày nọ ông đi thuyền bỗng gặp trận giông to mưa lớn, sấm sét
dữ dội, sóng dậy ba đào, chiếc thuyền lắc đảo gần chìm úp, mà ông Khánh
cứ tụng kinh mãi không thôi. Xảy nghe thuyền ở giữa giòng sông dường như
có người kéo dắt nưng đỡ, phút chốc liền đến bờ.
Từ đó về sau ông Khánh lại càng gắng tinh cần hơn nữa.
(Rút trong bộ Pháp-Uyển Châu-Lâm)
* * *
2.- THÍCH PHÁP LÂM
Đời Lương, thầy Thích Pháp Lâm họ Nghiêm, người huyện Chi Giang,
xuất gia ở chùa Ngọc Tuyền, thường tụng kinh Pháp-Hoa, hằng ngày chỉ
dùng một ngọ trai, ngồi luôn, không nằm. Thầy thích đi du phương, thường
quải gậy dạo khắp các miền núi non như Lô-Sơn, Thai-Đảnh, Hoành-Lãnh,
La-Phù v.v... không chỗ xa nào mà thầy không rảo bước đến; chỉ nương đổ
nơi hang cùng gộp thẩm, một bề chuyên tu thiền định.
Thầy lại thường đến non Đại, phải đi ngang qua Châu Từ, có quan
huyện xét hỏi để nghiệm coi chơn giả, thấy thầy chỉ đem theo có một bộ
kinh Pháp-Hoa. Quan Huyện không tin, nổi giận bắt thầy giam lại. Bảy
ngày thầy không ăn, tụng kinh không ngớt. Quan Huyện ngủ thấy ác mộng,
bèn đảnh lễ xin thầy cầu sám hối.
Sau rồi, thầy về ở ẩn nơi chốn u tịch, chuyên bề thiền tụng làm
nghiệp. Đến khi chết, có mùi hương lạ ngào ngạt phưởng phất cả mười ngày
mới tan.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
3.- SẦM VĂN BỔN
Đời nhà Đường có ông Sầm Văn Bổn tự Cảnh Nhơn, người ở đất Lạc
Dương. Thuở nhỏ tin Phật, tụng phẩm Phổ-Môn trong kinh Pháp-Hoa. Có một
lúc ông đi ghe tới sông Ngô, giữa sông ghe úp, mọi người đều bị chết
chìm, ông Văn Bổn cũng đắm trong nước, bỗng nghe có tiếng nói rằng:
“Người tụng kinh Pháp-Hoa được khỏi chết”. Nói như thế ba lần, ông liền
nổi lên mặt nước, giây phút tấp vào bờ.
* * *
IV.- LÀNH BỊNH
1.- NGƯỜI BỊNH HỦI
Đời Đường ở Bồ-Châu ông Thích Pháp Triệt tuổi trẻ mà tánh siêng
năng chịu khó tụng kinh Pháp-Hoa, thường đem kinh này dẫn dắt giáo hóa
mọi người. Trong ấp có ngài Cô-Sơn, ông Pháp Triệt đến y chỉ với ngài mà
tu hành, sáng lập cảnh Lang-Nhã. Ông từng đi các nơi đương gặp một người
bịnh hủi, dẫn về trong núi, đục một cái hang cho ở và nuôi dưỡng. Bảo
tụng kinh Pháp-Hoa, nhưng người bịnh hủi ấy không biết chữ, lại thêm đần
độn. Ông Pháp Triệt dạy học từng câu, không nệ mệt mỏi. Học đến quyển
thứ sáu, bịnh hủi lần lành, học rồi thì bộ lông mày và tóc mọc lại, và
da cũng lành như xưa.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
2.- BÀ PHÍ THỊ
Đời nhà Tống, bà họ Phí, vợ của ông La-Dự, người ở đất Thục-Ninh,
cha tên Duyệt làm quan Thứ Sử châu Ninh. Bà Phí thuở nhỏ kính tin Tam
Bảo. Bà tụng kinh Pháp-Hoa được vài năm siêng năng không biết mỏi mệt.
Sau bỗng mắc bịnh đau tim. Bà đóng cửa buồn rầu lo sợ dặn dò
người nhà sắm sửa đồ tẩn liệm để đợi thời. Bà Phí tâm nghĩ rằng: “Mình
tụng kinh siêng năng chắc là có phước lành họa may khỏi chết”. Nghĩ thế
rồi an tâm nằm ngủ chốc lát thức dậy nhưng còn mơ màng thấy Phật bên
song cửa đưa tay rờ chỗ trái tim mình, bịnh liền lành ngay lúc ấy, cả
nhà trai gái tôi tớ đều thấy hào quang sắc vàng chói sáng khắp nhà, lại
cũng có mùi hương sực nức. Em gái ông Dự đến thăm bịnh đương ở trước
giường cũng thấy rõ hết.
Từ bấy giờ, bà Phí càng sanh tín tâm, tự răn gắng trọn đời,
thường đem điều đó để sách tấn dạy dỗ con cháu.
(Rút trong bộ Dị Ký)
* * *
V.- TRỪ TÀ MA
1.- THÍCH TĂNG LÃNG
Ngài Thích Tăng Lãng họ Hứa, người huyện Nam-Dương, có nuôi một
con khỉ và một con chó.
Cuối nhà Trần, bắt đầu nhà Tùy, thầy đi du ngoạn các miền giang
lãnh, nay sông này, mai núi kia, chỉ mặc y phục sơ sài, song oai nghi
rất nghiêm chỉnh, theo phép khất thực nuôi mình.
Thầy thường đọc tụng các kinh, nhưng chỉ thích riêng về kinh
Pháp-Hoa hơn. Bình thường tiếng giọng ồ ề không rõ, thầy chí nguyện tụng
kinh cho tiếng được thanh tao, nên một phen ngồi tụng suốt đến bảy biến
mới thôi. Như vậy, chẳng bao lâu tiếng nói như sấm vang, biết rằng đã có
phước lực rồi. Thầy tụng kinh lấy số bảy làm chừng, tụng đến bảy mươi,
bảy trăm, bảy nghìn, đến bảy muôn biến thời tiếng giọng rất thanh thao
trong suốt, tự nhiên thốt ra rõ ràng trong trẻo như tiếng đờn tranh ống
sáo. Vì thế, nên khi thầy tụng kinh, môi mép không động, chỉ chuyển hơi
trong cổ mà tiếng giọng phát phù trầm lãnh lót, người đến xem nghe sửng
sốt quên thôi. Từ đó thầy được nổi danh.
Đương thời, có một vị ni cô bị quỷ ám nhập, quỷ làm cho cô thông
suốt kinh văn thấu rõ nghĩa mầu, chuyên sự giảng kinh giáo hóa; thính
giả đến nghe rất đông, nhưng không ai lường được sức thần tài kia, thảy
đều khen ngợi là bực thông ngộ. Thầy Tăng Lãng nghe việc ấy, nói rằng:
“Đó là tà quỷ ám nhập gia hộ chớ có gì là chánh lý, ta phải qua xét
nghiệm”.
Rạng ngày sáng sớm, con khỉ và con chó đi trước thẳng đến chùa ni
cô. Thầy đi theo sau, vừa đến, vào lạy Phật, nhiễu tháp rồi, mới tới
trước giảng đường, lúc ấy ni cô còn đương giảng thuyết trên pháp tòa.
Thầy bèn nạt lớn quở rằng: “Tiểu tỳ! ta đã đến đây, sao chẳng chịu xuống
pháp tòa, còn đợi gì nữa?” Ni cô nhơn nghe tiếng quở liền ngã té xuống
đất, chạy đến trước giảng đường, quì gối trước mặt thầy từ giờ Mẹo cho
đến giờ Thân, không dám nhúc nhích, mồ hôi chảy dầm mình ngậm thinh
không nói được lời chi.
Thầy gạn hỏi chỗ kiến giải, cô vẫn im nhiên như ngây như điếc.
Qua trăm ngày sau, tâm tánh cô mới hoàn phục lại như cũ.
(Rút trong bộ Cao Tăng Truyện)
* * *
2.- THÍCH ĐẠO LÂM
Đời nhà Lương, Thích Đạo Lâm người huyện Sơn Âm, có giới hạnh
nghiêm khiết, giỏi về kinh Pháp-Hoa và kinh Niết-Bàn. Ông Trương Tự ở
nước Ngô rất mực kính thờ thầy.
Niên hiệu Thiên Giám, chùa Tuyền Lâm ở huyện Phú Dương có quỷ
quái nổi lộng quấy nhiễu người. Khi thầy đến, quỷ đều tiêu hết.
Ông Huệ Thiều là đệ tử của thầy bị nhà sập đè, đầu quẹo cúp vào
ngực. Thầy bèn tụng kinh Pháp-Hoa cầu nguyện cho. Ông Thiều nằm chiêm
bao thấy có hai vị đạo nhơn người Tây Vứt kéo cái đầu ông thẳng ra, sáng
ngày mạnh như thường. Ai nấy cũng đều khâm phục sự linh cảm thần dị của
thầy.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
VI.- SIÊU ĐỘ
1.- CON NGỰA CỦA THẦY TÂY LÂM
Triều Minh, niên hiệu Gia Tịnh, thầy trụ trì chùa Bảo Ấn tên là
Vĩnh Ninh biệt hiệu Tây Lâm có nuôi một con ngựa. Mỗi khi thầy đi phó
trai nơi dinh quan Lễ Bộ đều cỡi con ngựa ấy. Từ chùa, bắt đầu lên lưng
ngựa, thầy thường tụng kinh Pháp-Hoa cho đến khi tới dinh xuống ngựa
thời vừa rồi một quyển, lần nào đi cũng thường tụng như thế.
Ít lâu sau có một người đàn bà chửa ở ngang cửa chùa ban đêm nằm
mộng thấy con ngựa ấy vào nhà bèn sanh được một đứa con trai. Sáng ngày,
tới chùa hỏi thăm, thời té ra con ngựa chết cũng đúng giờ đó.
Đến sau, nhà ấy cho con theo làm đệ tử thầy Tây Lâm. Tính nó rất
đần độn, thầy dạy nó học, một chữ cũng không thông, duy truyền miệng cho
nó một quyển kinh Pháp-Hoa nó bèn thuộc lòng. Do đó thầy tin rằng: Ngựa
nghe kinh được thoát thân thú vậy.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
2.- THÔI QUỶ
Đời Đường, ông Vương Hoằng Chi trong niên hiệu Trung Quán, làm
quan Lịnh ở huyện Hòa Xuyên, châu Thấm, có con gái gả cho ông Thôi-Quỷ ở
đất Bác Lăng.
Ông Quỷ đi qua huyện Hòa-Xuyên (bên vợ) xảy lâm bịnh chết. Trải
qua vài mươi ngày, trong nhà ông Vương bỗng nửa đêm nghe tiếng nói của
ông Thôi-Quỷ. Ban đầu cả nhà đều sợ hãi, sau lần quen coi là sự thường.
Ông Quỷ nói rằng: “Tôi là bổn phận con rể, dầu rằng không phải cách lập
bàn linh ở bên nhà vợ, song vì khổ không có chỗ nương tựa, xin vì tôi mà
lập vậy”. Vợ ông bèn theo lời lập bàn linh, mai chiều đều cúng kiến, ông
về không cho cúng thịt, duy phải cúng đồ chay thôi. Ông thường khuyên
niệm Phật, lại nói việc trong ngục rằng: “Người ta một đời thường khó
khỏi tội, sát sanh và bất hiếu là nặng hơn hết, ngoài ra các tội khác
thời nhẹ hơn”. Lại nói rằng: “Tôi tuy không tội chi, song phải cần nhờ
phước lực giúp trợ, vậy xin vì tôi thiết trai cúng dường Tam Bảo và tả
kinh Pháp-Hoa, kinh Kim-Cang, kinh Quán-Âm, mỗi thứ 2, 3 bộ, thời từ đây
về sau tôi không còn trở lại nữa”.
Nhà họ Vương đều y lời yêu cầu, mướn tả kinh, thiết trai cúng
dường. Bỗng một hôm, ông Quỷ lại đến có vẻ thẹn thuồng tạ ơn và nói
rằng: “Từ nay xin từ biệt”. Cả nhà đều buồn khóc mà đưa đi. Ông Quỷ lúc
chết có để lại một đứa con năm, sáu tuổi. Ông Quỷ lại dặn rằng: “Đứa con
tôi đó, sau tất có danh trong trường quan, xin khéo nuôi nấng giùm”. Từ
đó bặt luôn không còn trở lại nữa.
(Rút trong bộ Pháp-Uyển Châu-Lâm)
* * *
3.- BÀ LÝ THỊ
Đời Đường, châu Kỳ, huyện Phong Khưu có bà lão mẫu họ Lý, tuổi đã
bảy mươi, không con cái chi, một thân già cô quạnh, chỉ có một tớ trai
và một tớ gái. Bà làm nghề bán rượu ở thành phố rất lanh xảo, rượu thời
pha thêm vôi nước và đong thiếu lường hụt.
Đến niên hiệu Trinh Quán, bà nhơn bịnh chết trải qua hai ngày, đồ
an táng đã sắm đủ, nhưng chưa tẩn liệm vì trên ngực bà còn hơi ấm. Bỗng
bà sống lại nói rằng: “Ban đầu có hai người toàn mặc áo đỏ, đứng ngoài
cửa kêu tôi ra, nói rằng: có lịnh trên đòi. Tôi lật đật đi theo, đến một
thành kia giống như cái thành ngoài của châu này. Sứ giả dẫn tôi đến
dinh bên cạnh, thấy một ông quan đội mão mặc áo tay rộng ngồi ghế dựa,
hai bên tả hữu hầu hạ rất đông, dưới thềm lại có người mang gông xiềng,
lính canh giữ như chốn quan trên này. Ông quan ấy hỏi tôi rằng: “Tại sao
bán rượu làm những việc gian lận để tham lấy của người cho nhiều, còn
việc tính in kinh Pháp-Hoa đã mười năm rồi sao không làm?” Tôi thưa
rằng: “Rượu thời tôi bảo tớ gái làm, đong cũng đứa tớ tôi đong. Còn kinh
kia tôi đã đưa tiền một ngàn đồng cho ngài Ẩn-Sư rồi”. Quan liền sai sứ
đến bắt đứa tớ, giây lát đứa tớ đến, liền đánh bốn chục trượng rồi thả
về. Lại sai người đến hỏi ngài Ẩn-Sư, trả lời là có thật. Quan bèn bảo
tôi rằng: “Nay thả cho ngươi về bảy ngày, tạo kinh xong, sẽ đến đây sanh
về cõi lành”. Nhơn đó đặng sống lại.”
Xét khi bà lão mẫu mới chết, đứa tớ gái bỗng mắc bịnh ác nghịch
chết ngang, giây lâu tỉnh lại nơi lưng sưng bầm, đó là lằn vết bị đòn
bốn chục trượng vậy. Còn ngài Ẩn-Sư là vị khách tăng, tuổi đã sáu mươi
bảy, từ khi xuất gia tu hạnh đầu đà đi khất thực, thường ngày dùng một
bữa chay chưa từng gián đoạn, các vị đại đức xa gần đều kỉnh mộ. Đêm bà
lão mẫu bịnh chết, ngài Ẩn-Sư nằm mộng thấy có người mặc áo đỏ đến hỏi.
Trong mộng đáp rằng: “Việc tả kinh có thiệt”.
Lúc ấy, bà lão mẫu mời cả bà con chòm xóm và ngài Ẩn-Sư đến làm
Phật sự, lại mướn nhiều người tả kinh, nhờ đông tay nên đúng trong bảy
ngày kinh tả đã xong. Bà lại thấy hai người sứ trước kia đến nữa. Bà nói
rằng: “Sứ nhơn đã đến rồi, xin bà con ở lại mạnh giỏi”. Vừa dứt tiếng
liền chết.
Ngài Ẩn-Sư hiện còn, kẻ đạo người tục đều khâm kính.
(Rút trong bộ Minh Tường Ký)
* * *
4.- TIÊU THỊ
Đời Đường, quan Thiếu-Thường-Bá Thôi-Nghĩa-Khởi, cha vợ là ông
Tiêu Văn Khanh bình sanh chuyên trì kinh Pháp-Hoa được vài nghìn biến,
bỏ hẳn rượu thịt, chỉ dùng trai tố. Vợ của ông Khởi là họ Tiêu đến niên
hiệu Long-Sóc năm thứ ba, tháng năm phải bịnh chết. Trong nhà luôn ba
tuần thất làm Phật sự, tu trai cúng dường, bỗng cô tớ gái tên Tố Ngọc
nói tiếng của phu nhơn rằng: “Ta hồi còn sống không tin Tam Bảo, nay thọ
khổ không thế nói được, do nhờ các ông vì ta tụng kinh, tu trai thiết
cúng mới đặng thả về. Đến ngày thứ hai mươi sẽ trở lại đem Tố Ngọc đi
xem ta thọ tội”. Đúng kỳ hẹn, Tố Ngọc thiệt quả chết. Ba ngày sau sống
lại nói rằng: “Thấy cung phủ trong thành lớn kia, phu nhơn vào cái nhà
riêng, giây lát có vạc lửa, giường sắt tự nhiên đem đến hành tội, chịu
đủ sự khổ sở thảm độc.
Chợt thấy ông Khanh ngồi trên đài hoa sen nói với tôi (Tố Ngọc)
rằng: “Con ta hồi còn sống tánh hay sân hận tật đố, không tin nhơn quả,
nay phải chịu nỗi khổ đó, ta cũng không thể cứu được. Ngươi về nói lại
với người nhà bảo phải gắng tu công đức, họa may mới thoát khỏi”. Lại
thấy ông Phạm-Tăng từ trên hư không bay xuống, dạy tôi tụng kinh
Pháp-Hoa, bảo rằng: “Ngươi phải ghi nhớ kinh này vì người trong cõi
Diêm-Phù-Đề mà truyền tụng, sẽ có người tin”.
Niên hiệu Lân-Đức năm đầu, tháng giêng, nhà quan Tiết Tướng Quân
thiết lập trai đàn, rước nàng Tố Ngọc đến thử tụng minh kinh, có ông
Phạm Tăng nghe, rồi chấp tay khen rằng: “Thật đúng như bổn bên Tây quốc,
không khác chút nào”. Ai nấy đều kính phục.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
____________
VII.- CẢM ĐỘNG THÁNH LINH
1.- ĐỨC PHỔ-HIỀN GIẢI BỊNH
Trong bộ Trí-Độ Luận quyển chín của ngài Long-Thọ Bồ-Tát có nói:
Có một người bịnh hủi đến trước tượng Đức Phổ-Hiền Bồ-Tát chí tâm quy y
chiêm lễ, xưng niệm công đức Đức Phổ-Hiền Bồ-Tát cầu nguyện cho hết
bịnh. Lúc ấy tượng Phổ-Hiền Bồ-Tát liền dũi tay bên hữu hào quang sáng
chói rờ xoa trên thân người kia, bịnh liền trừ hết.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
2.- ĐỨC PHỔ-HIỀN HIỆN THÂN
Trong nước kia có thầy tỳ khưu ở A-Lan-Nhả chuyên đọc tụng kinh
Đại thừa, ông vua trong nước thường trải tóc cho thầy đi qua. Có thầy tỳ
khưu khác bạch với vua rằng: “Ông ấy ngu dốt, đọc tụng kinh điển không
bao nhiêu, sao Đại vương lại cúng dường long trọng như thế?”
Vua đáp rằng: “Ta một ngày kia vừa lúc nửa đêm muốn yết kiến thầy
tỳ khưu ấy, liền đi đến chỗ của thầy ở, thấy thầy ở trong hang đá tụng
kinh Pháp-Hoa, có một người thân ánh hào quang sắc vàng chói cỡi con
bạch tượng chấp tay cúng dường, ta đi lần tới liền biến mất. Ta mới hỏi
vị đại đức: “Tại sao tôi vừa đến, người thân có hào quang sắc vàng kia
biến mất đi?”
Thầy tỳ khưu đáp rằng: “Đó là ngài Phổ-Hiền Bồ-Tát. Ngài Phổ-Hiền
Bồ-Tát tự nói rằng: “Nếu có người nào đọc tụng kinh Pháp-Hoa, ta sẽ cỡi
voi trắng sáu ngà đến dạy bảo nhắc nhở cho. Do tôi tụng kinh Pháp-Hoa
nên ngài Phổ-Hiền Bồ-Tát hiện thân đến vậy”.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
3.- THẦN THỈNH GIẢNG KINH
Đời Tấn, thầy Thích Đàm Thúy, không rõ người quê quán ở đâu, thuở
nhỏ đi xuất gia, tu ở chùa Bạch Mã, huyện Hà Âm, tương rau qua bữa, bô
vải che thân, thường mỗi ngày đều tụng một bộ kinh Pháp-Hoa, lại tinh
thông kinh giáo, cũng hằng giải nói cho người nghe.
Ban đêm, bỗng nghe có tiếng gõ cửa nói rằng: “Muốn thỉnh Pháp-sư
thuyết pháp trong chín tuần”. Thầy Thúy không hứa, nhưng củng cố cầu
thỉnh, thầy bèn chịu đi, lúc đó vẫn còn mơ màng trong giấc ngủ, chừng
thức dậy, thân thầy đã ở trong miễu Thần nơi đảo Bạch Mã và một người đệ
tử của thầy. Từ đó, hằng ngày âm thầm đi qua không ai hay biết.
Sau, các thầy trong chùa có việc đi ngang qua miễu ấy, thấy có
hai cái pháp-tòa rất cao, ông Thúy ở tòa phía Bắc, đệ tử ở tòa phía Nam,
dường như có tiếng giảng kinh thuyết pháp, lại nghe có mùi hương lạ ngào
ngạt. Bây giờ kẻ đạo người tục truyền nhau cho là việc thần dị.
Đến mãn Hạ, vị Thần trong miếu cúng dường cho ông một con ngựa
bạch, năm con dê trắng và chín mươi xấp lụa. Thầy chú nguyện xong, cùng
nhau từ biệt không còn qua lại nữa.
(Rút trong bộ Lương Cao Tăng Truyện)
* * *
VIII.- CẢM CÁCH DỊ LOẠI
1.- THÍCH TRÍ THÔNG
Đời Đường, thầy Thích Trí Thông ở chùa Thê Hà, non Nhiếp, đất
Thuận Châu, từng qua ở chùa An Lạc xứ Dương Châu.
Đến niên hiệu Đại Nghiệp, trong nước loạn ly, thầy nghĩ muốn về
xứ nhưng không có cách chi đi được, mới ở ẩn trong đám lau rậm dựa bờ
sông tụng kinh Pháp-Hoa, bảy ngày không ăn, thường thấy có cọp đi nhiễu
xung quanh. Thầy nói rằng: “Mạng ta chỉ còn trong giây phút, vậy các
ngươi hãy ăn đi”. Cọp bỗng phát tiếng nói rằng: “Từ tạo Thiên lập Địa
đến nay, chưa từng có lẽ đó”. Xảy có một ông già chèo ghe đến nói rằng:
“Thầy muốn qua sông về chùa Thê Hà, hãy mau lên thuyền đây”. Lúc ấy con
cọp đồng sa nước mắt.
Thầy hỏi rằng: “Các ngươi cùng ta có duyên chăng?”, liền dắt bốn
con cọp đồng xuống thuyền, qua sông rất nhanh. Đến bờ phía Nam, trông
lại chiếc thuyền và ông già đâu mất. Thầy mới dẫn bốn con cọp về chùa
Thê Hà, ở phía Tây tháp Xá Lợi mà đi kinh hành và thiền tọa.
Đồ chúng trong chùa có đến tám mươi vị không ai dám ra tháp cả.
Khi có việc cần, thời một vị cọp vào chùa gầm kêu, lấy đó để làm thường
lệ.
Thầy đến niên hiệu Trịnh-Quán thời tịch, hưởng thọ được chín mươi
chín tuổi.
(Trong bộ Tống Cao Tăng Truyện)
* * *
IX.- LINH CẢM
1.- PHÁP-TÍN NI
Đời Đường, niên hiệu Võ-Đức, có ni cô hiệu là Pháp-Tín, thường
tụng kinh Pháp-Hoa. Cô cất một gian tịnh thất, mướn một người viết chữ
tốt để tả kinh Pháp-Hoa, trả tiền công rất mắc, bội hơn giá thường.
Phàm mỗi khi vào tịnh thất tả kinh, phải mỗi lần tắm gội sạch sẽ,
thay đổi y phục, xông ướp hương trầm. Lại nơi vách tịnh thất xoi trống
một lỗ đặt ống trúc thông ra phía ngoài để cho người tả kinh mỗi khi
muốn thở ra thời kê vào ống trúc mà thở, vì khi tả kinh cần phải nín hơi
mà viết mới thanh khiết tinh nghiêm. Như vậy tám năm tả mới xong bảy
quyển. Cô hết lòng cung kính, cúng dường rất long trọng.
Ngày kia, có ông thầy ở chùa Long-Môn hiệu là Pháp-Đoan thường
nhóm chúng giảng kinh Pháp-Hoa, cho bộ kinh của ni cô đó là đúng hơn
hết, không bộ nào bằng. Thầy mới sai người qua mượn. Ni cô cố chối từ
không cho, vì e mất sự thanh khiết. Thầy Pháp-Đoan phiền trách. Cô không
biết làm sao, bất đắc dĩ phải đưa cho mượn. Đem về, thầy Pháp-Đoan và
các đồ chúng giở ra đọc, chỉ thấy toàn là giấy vàng, không có chữ nào
hết, lại giở quyển khác coi, cũng đều như vậy cả. Thầy và đồ chúng hổ
thẹn và lo sợ, liền đem trả lại cho ni cô.
Cô buồn bã khóc lóc mà lãnh lấy, dùng nước hương thơm rửa kỹ hộp
đựng kinh. Rồi cô tắm gội sạch sẽ, lễ bái, nhiễu Phật cầu nguyện đến bảy
ngày đêm không nghỉ. Bấy giờ mở quyển kinh ra xem, thời nét chữ lộ bày
như cũ.
Nên biết rằng sao tả kinh pháp cần phải hết sức chí thành cho
tinh khiết nghiêm tịnh mới có sự linh cảm hiện tiền. Đời này, không có
linh nghiệm, chỉ vì không chuyên lòng cung kính đó thôi.
(Rút trong bộ Minh Báo Ký)
* * *
2.- TRỜI RƯỚI HOA HƯƠNG
Đời Tùy, châu Ích, nơi chùa Chiêu-Đề có thầy Thích Huệ Cung cùng
bạn đồng học là ông Huệ Viễn kết bạn tâm đầu ý hiệp. Lúc sau, ông Viễn
qua xứ Dương Châu tầm sư học đạo xong trở về. Thời gian ba mươi năm xa
cách, một đêm cùng nhau trò chuyện, ông Viễn thời bàn bàn luận luận,
ngôn ngữ lưu loát, còn thầy Huệ Cung thời lặng thinh không đối đáp chi.
Ông Viễn hỏi rằng: “Ngài mấy mươi năm không đặng chi sao?” Thầy đáp
rằng: “Tôi vì tánh tối dốt nên không biết chi nhiều”. Ông Viễn nói: “Sao
chẳng chuyên tụng một bộ kinh ư?” Thầy nói: “Thường ngày tôi chỉ có tụng
một quyển Phổ-Môn trong kinh Pháp-Hoa, nay tôi xin tụng, nhưng ngài phải
chí thành lòng nghe”. Bèn kiết lập đàn tràng, thầy lên tòa cao vừa cất
tiếng xướng đề kinh, liền nghe có mùi hương thơm bát ngát, giây lâu lại
nghe trên hư không nhạc trời reo trổi, mưa hoa tướp nượp rơi xuống, đến
khi tụng kinh xong mới hết. Ông Viễn thấy sự linh cảm như vậy biết mình
không có đạo lực bằng thầy, trong lòng hổ thẹn, mới cung kính đảnh lễ mà
tạ lỗi.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
3.- CHÍCH MÁU TẢ KINH
Cuối đời nhà Đường, châu Hoành, ngài Thích Sở Vân đi xuất gia ở
non Hoành Nhạc, từng chích thân lấy máu tả một bộ kinh Pháp-Hoa, bề dài
bảy tấc, bề rộng bốn tấc, bề dày hai tấc (tấc Tàu), làm hộp chiên đàn
đựng cất ở tạng Tam Sanh chùa Phước Nghiêm. Lại trên hộp có khắc tám
chữ: “Nhược kha thử, kinh thệ đồng Từ-Thị”.
Niên hiệu Hoàng-Hựu, có vị quới nhơn đi du lịch trên núi, thấy đó
nghi cho là dối không thiệt, mới bảo người lấy kềm mở ra coi, thấy có
một lằn máu chảy ra. Bỗng chốc, sấm nổi gió dậy rúng động hang núi, khói
mây xông tỏa vào nhà ấy mù mịt, ngửa bàn tay không thấy, đến suốt ngày
không thôi. Quới nhơn kinh khủng bèn chí thành đảnh lễ cầu sám hối.
Đến đời Tống, thầy Giác Phạm chùa Thạch Môn ở đất Huân Khê từng
du lịch qua đó, cung kính đảnh lễ, nhìn coi kỹ lằn máu ấy vẫn còn y
nhiên. Đồng thời ấy, thầy Thiền-Nguyệt Quán-Hưu có làm bài thi tặng việc
tả kinh đó rằng:
Rạch da lấy máu khó khôn ngần,
Vì tả Linh-Sơn chín hội văn,
Mười ngón chảy khô xong bảy quyển,
Đời nay cầu pháp mấy ai bằng.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
4.- TRẦN TẾ SANH
Đời nhà Minh, huyện Ngô-Môn, Trần Tế Sanh hiệu Hoằng Sĩ con
trưởng nam của ông Trang Công, bình sanh dốc chí làm lành, phàm tất cả
hạnh lành lời hay Trần Sanh đều tự tay sưu tập biên chép chất để đầy
nhà. Ông rất ưa thích kinh điển nhà Phật, thường kết liên xã trì tụng
kinh Pháp-Hoa, nhiều năm vẫn không bê trễ. Bỗng một đêm nằm mộng thấy
ông già diện mạo phi thường, phong nghi thần dị, tay cầm kinh Pháp-Hoa
chữ vàng và những bộ sự tích nhơn quả trao cho, Trần Sanh vụt dậy đảnh
lễ lãnh lấy. Sáng ngày quả có người chở bộ Pháp-Hoa Cảm-Thông-Lục của họ
Cát ở Lộc Thành khắc bản đưa đến nhà Viễn-Diệu-Đường của Trần Sanh để
lưu thông. Lại một người bạn đem một bộ kinh Pháp-Hoa thếp vàng đến cầm
cho ông cũng đồng trong ngày ấy.
Chưa bao lâu, Trần Sanh đi đường lại gặp bộ kinh Pháp-Hoa thếp
vàng của ông Lý-Chánh-Khanh ở Tân An tả ra, ông mua đem về cúng dường để
thành hiệp bích (chiếu đối), thờ phượng trang nghiêm cực kỳ rực rỡ,
người xem ai cũng khen là việc hy hữu.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
X.- GIẢI OAN NGHIỆT
1.- LỤC ÔNG
Đời nhà Tống, ở Hồ Châu, đất Thành Nam có người hàng thịt tên Lục
Ông. Khi Lục Ông được 63 tuổi, một hôm có một vị tăng du phương đến
trước cửa nói rằng: “Ta đến đây để giáo hóa người có duyên”.
Lục Ông nghe nói không hiểu chi cả.
Vị tăng nói rằng: “Ông giết trâu bò dê vô số, tại sao không bỏ
nghiệp ấy đi?”
Lục Ông thưa rằng: “Tôi vì theo nghiệp của ông cha để lại rất khó
bỏ quá!”
Vị tăng nói rằng: “Nếu ông không bỏ, đời sau quyết phải đọa làm
loài ấy, đọa rồi thì luôn luôn bị oan báo chẳng biết lúc nào thoát khỏi!
Tôi xem ông đời trước có căn lành, thế nên bỏ nghiệp ác đi, mà chuyên
tâm thọ trì kinh Pháp-Hoa và kinh Kim-Cang thì nghiệp ác tiêu trừ, phước
lành thêm lớn”. Nói xong vị tăng biến mất.
Lục Ông trơ người ra đứng một mình, tâm rất hổ thẹn vì những việc
làm trước mà tỉnh ngộ lại, liền bỏ mặn ăn chay và phát nguyện thề từ đây
về sau không tạo nghiệp sát hại nữa. Vẽ một bức tượng đủ cả Tây-Phương
Tam Thánh: Phật Di-Đà, Quán-Âm và Thế-Chí hết lòng thành kính cúng
dường, lại đến thầy học tụng cả hai bộ kinh ấy chưa được năm năm thì đã
thuộc làu.
Hằng ngày ở trước bàn Phật dâng hương lễ bái, tụng một quyển
Pháp-Hoa và một quyển Kim-Cang cầu sám hối, nguyện những chúng sanh bị
mình giết mau sanh về Tịnh-Độ.
Năm ông được 81 tuổi lúc sắp từ trần, trước nửa tháng đến các bạn
thân hẹn rằng: “Đến mùng chín tháng mười một tôi có sắm tiệc chay để từ
biệt nhau, đến chừng đó xin mời mấy anh đến dự chay với tôi”. Tới kỳ,
các ông bạn y theo lời đến dự chay. Khi mãn tiệc ông liền xin đi tắm
gội, thay y phục chỉnh tề, ngồi ngay thẳng viết một bài tụng mà tịch.
Tụng rằng:
Sáu mươi dư tuổi mới hồi đầu,
Rời hẳn con dao sát nghiệp sâu,
Nẻo lộ Bồ-đề nay được đến,
Hoa sen trong lửa trổ thêm mầu.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
2.- PHAN QUẢ
Đời nhà Đường, đất Kinh Sư, có ông Phan Quả, tuổi vừa hai mươi,
nhậm chức Tiểu-lại ở Đô-Thủy, huyện Phú-Bình.
Khi về nhà cùng với vài gã thiếu niên, đi dạo chơi ngoài đồng
trống, thấy một con dê ăn cỏ. Quả cùng hai gã thiếu niên bắt đem về. Vừa
về mới nửa đường con dê kêu lớn quá, Quả sợ chủ dê nghe được thì khó,
liền móc lưỡi dê, đem dê về nhà làm thịt ăn.
Qua năm sau, lưỡi ông Quả lần lần teo thụt vào, không nói năng
được, bèn dâng đơn xin thôi chức quan. Quan huyện Trịnh-Du-Khánh nghi
ông nói dối, bảo ông hả miệng ra coi, quả nhiên thấy lưỡi chỉ còn như
hột đậu. Quan Huyện hỏi tại sao như thế? Quả lấy bút giấy trả lời những
việc của mình đã làm. Quan Huyện bảo rằng: “Ông muốn khỏi, phải tả kinh
Pháp-Hoa để cầu siêu cho vong hồn con dê ấy”.
Phan Quả y theo lời quan Huyện phát tâm tả kinh và thọ trì trai
giới không hề biếng trễ. Năm sau, lưỡi ông Quả lần lần dài ra y như cũ.
Khi lành bịnh liền đến quan Huyện dâng đơn trần tố, quan Huyện bổ cho
làm chức Lý-Chánh.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
3.- THÍCH MINH HUÂN
Đời nhà Minh, thầy Thích Minh Huân nguyên danh là Hồ Văn Trụ,
người ở xứ Huy. Thời Thiên-Khải thầy làm quan Trung-Thơ-Xả, vì không
tuân theo mệnh lệnh của ông Ngụy-Đang nên bị lột chức. Đến năm
Bính-Tuất, bỗng bị ghẻ mặt người đau nhức không thể chịu nổi. Mùa Đông
Tân-Mão, nhức quá xỉu ngất, trong khi hoảng hốt nghe mụt ghẻ thốt ra
tiếng người rằng: “Tôi là Lô-Chiêu-Dung đời Lương đây. Lúc ở trong cung
Lạc-Vương bị giặc giết, nay đã 600 năm rồi mà còn mắc ở trong loài quỷ.
Mà ông chính là người giết tôi trong lúc ấy. Nay đã chuyển được thân nam
tử, phải tả kinh Pháp-Hoa và các kinh khác để tự cứu ông và cứu tôi”.
Ông Trụ khẩn cầu cho bớt đau sẽ tả kinh.
Lúc ấy đương triều Nghi-Chơn, ông sắm đủ giấy bút, tả kinh
Pháp-Hoa, Hoa-Nghiêm, Kim-Cang, Lăng-Nghiêm và Thủy-Sám. Mỗi khi tả kinh
thì hết đau nhức, hễ dừng bút thì đau nhức lại. Như vậy hơn một năm tả
mới hết các bộ kinh thời bệnh cũng được lành mạnh.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
XI.- THIÊN THẦN GIA HỘ
1.- THÍCH PHÁP THÀNH
Đời
Tùy, non Chung-Nam, chùa Ngộ-Chơn, ngài Thích Pháp Thành là người họ
Phàn ở châu Ung, chuyên tụng kinh Pháp-Hoa, và ngày thường mang tráp
kinh đi du lịch khắp nơi danh sơn thắng cảnh. Ngài lập nguyện chuyên tu
về phép “Pháp-Hoa Tam-Muội”, cảm đến đức Phổ-Hiền Bồ-Tát ứng mộng cỡi
bạch tượng sáu ngà đến khuyên ngài tả các kinh đại thừa.
Ngài bèn mướn người tả kinh Bát-Nhã tám bộ, lại tạo một cái nhà
“Hoa-Nghiêm Đường”, hết lòng chuyên tinh về việc thơ tả thọ trì.
Lúc bấy giờ có ông Hoằng-Văn Học-Sĩ là Trương-Tịnh trước kia rất
giỏi về văn chương. Ngài thỉnh ông ấy về am trên núi để viết kinh, khi
viết thì ngậm các thứ hương. Vừa tả xong hết bộ, lại cảm đến một con
chim lạ bay đến bàn kinh, coi bộ nó tự nhiên quen dạn dường như đã nuôi
lâu rồi.
Niên hiệu Trinh-Quán năm đầu, chính tay ngài Pháp-Thành có tả
kinh Pháp-Hoa mà ngồi ở ngoài trời trống trải. Nhơn có việc đi qua chỗ
khác chưa kịp dẹp cất, kế gặp trận mưa to lai láng. Khi về tới xem lại,
cả bàn chỗ tả kinh đều khô ráo, mà nơi khác đều bị trôi ngập hết.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
2.- THÍCH PHÁP THÁI
Đời Tùy, ngài Thích-Pháp-Thái, người ở Long-Sơn, châu My, thường
thường trì tụng kinh Pháp-Hoa. Chính tay ngài có tả một bộ kinh, có
nhiều điềm linh ứng hiện. Khi tả xong bộ, đem đến châu Ích để sơn thếp,
đi ngang qua cầu Xạ-Kiều bỗng xảy tay rớt đãy xuống sông, tìm kiếm mãi
không được. Ngài quá buồn bã nghẹn ngào khóc không ra tiếng, cứ quanh
quẩn mãi trên bờ rồi dưới mé sông cũng chẳng thấy gì. Bỗng trông thẳng
xuống bãi bùn, thấy có một cái đãy, liền bảo người tới lấy coi thử té ra
đãy kinh của ngài nhờ để cỏ bên trong nưng đỡ nên không thấm ướt. Ngài
vui mừng chẳng xiết, lập tức đến thành đô sơn thếp rồi dùng cây
đản-hương làm bìa và trang nghiêm rất đẹp.
Sau
ngài đem về cúng vào chùa. Mỗi đêm mùi hương lạ bay khắp chùa. Ngài
chuyên cần trì tụng cứ hằng đêm một bộ kinh Pháp-Hoa.
Lúc bấy giờ có ngài Bưu Pháp-sư giảng kinh ở đó, tối lại đến chỗ
ngài tụng kinh, thấy có nhiều người âm thầm hiện đến, đều quì gối chấp
tay trước bàn. Ngài Bưu Pháp-sư thấy thế liền toát mồ hôi mà lui ra.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
3.- THÍCH ĐÀM VẬN
Ngài Thích Đàm Vận người ở Định-Châu, xuất gia thuở còn nhỏ,
thường tụng kinh Pháp-Hoa. Ngài từng dạo khắp non Ngũ-Đài thấy đủ các
tướng linh dị. Ngài dừng chân ở lại đài phía Bắc nơi chùa Mọc-Quai trải
qua thời gian hơn hai mươi năm, chuyên tu thiền quán niệm tụng không
dứt.
Cuối đời Tùy, quốc gia rối loạn. Lúc đó ngài đã bảy mươi tuổi, ở
ẩn trong non Tỳ-Can, luôn ngày đêm tinh tấn nhiếp tâm, chuyên tu không
hề trễ nải. Ngài thường có chí nguyện tả kinh Pháp-Hoa, mãi tới mấy năm
chưa được như ý muốn. Bỗng đâu có chàng thư sinh đến bạch rằng: “Bạch
thầy, con rất giỏi về việc tả kinh, vậy con xin ở đây làm việc để mãn
chí nguyện của thầy”. Bèn dọn một gian tịnh thất tinh nghiêm, chàng thư
sinh vào thất ngậm hương ngồi yên lặng mà tả kinh. Khi ra ngoài thì dè
giữ ba nghiệp, lúc vào thất thời tắm gội sạch sẽ. Chưa đầy một tuần đã
tả xong bộ kinh, liền đem cúng dường cho ngài Đàm Vận, rồi không thấy
chàng thư sinh đâu nữa.
Sau nhơn giặc Hồ nổi loạn xâm nhiễu, ngài bèn đem kinh giấu trong
hang núi, rồi chạy loạn đến mấy năm. Khi giặc đã yên, trở về kiếm kinh,
bèn thấy trong lùm cỏ dưới ven núi. Rương tráp đều hư nát, mà quyển kinh
màu sơn còn tốt như xưa.
Chuyện này chính mắt ngài Tuyên-Luật-Sư thấy, vào khoảng niên
hiệu Trinh-Quán năm thứ mười một.
(Rút trong bộ Pháp-Uyển Châu-Lâm)
* * *
4.- NGƯỜI VỢ HẦU ÔNG TÔ TRƯỜNG
Trong niên hiệu Võ-Đức, có quan Thứ-Sử tên Tô-Trường. Lúc đi trấn
nhậm, đến sông Gia Lâm bỗng gặp trận sóng to gió lớn nên thuyền bị úp.
Người nhà của ông bị chết chìm hơn sáu mươi, chỉ có một người vợ hầu của
ông vì thường chuyên tụng kinh Pháp-Hoa, nên khi nước tràn vào thuyền,
nàng liền đội tráp kinh phát thệ rằng: “Thà chịu chết chìm với kinh nầy,
chớ quyết định không rời”.
Trong cơn bấp bênh theo làn sóng hãi hùng, không ngờ có thần lực
gia hộ, phút chốc nàng được tấp vào bờ, vì nương theo kinh được thoát
nạn chết chìm. Nàng vội vàng mở tráp ra xem, kinh vẫn khô như trước
không bị ướt tờ nào.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
TẢ KINH PHÁP HOA
ÔNG NGHIÊM CUNG
Nước Tàu, triều nhà Trần niên hiệu Ðại-Kiến năm đầu, ở xứ
Dương-Châu có ông Nghiêm-Cung tả kinh Pháp-Hoa để phát cho người trì
tụng.
Lúc đó có thần ở miếu Cung-Ðình-Hồ mách mộng cho khách buôn đem
hết của trong miếu đưa sang trao cho ông Cung để chi phí về việc tả
kinh.
Lại một hôm ông Cung mang tiền ra phố mua giấy viết lỡ thiếu
3.000 đồng điếu, bỗng thấy từ trong chợ đi ra một người cầm 3.000 đồng
điếu trao cho ông Cung mà nói: 'Giúp ông mua giấy'. Nói xong biến mất.
Rốt đời Tùy, giặc cướp đến Giang-Ðô đều dặn nhau không nên phạm
đến xóm của ông Nghiêm Pháp-Hoa (Nghiêm-Cung). Nhờ đó mà cả xóm an-lành.
Ðến cuối đời Ðường, nhà họ Nghiêm vẫn nối nhau tả kinh không
thôi.
“Vậy thời tả kinh, hay in kinh công-đức lớn biết dường nào, không
nói đến phước báu tốt đẹp ở nhiều đời sau, mà ngay trong hiện-tại cũng
không thể lường được, chẳng những là mình khỏi khổ ngay mà mọi người ở
gần cũng được nhờ, cả thần thánh cũng thường theo hộ trợ như truyện ông
Nghiêm-Cung đây vậy.”
SỰ-TÍCH TẢ KINH THOÁT KHỔ
Nhà Ðường, niên-hiệu Long-sóc năm thứ ba, xứ Trường-An, mẹ vợ ông
Lưu-Công-Tín chết.
Không bao lâu cô họ Trần, vợ ông Tín, cũng bỗng chết, thần-hồn đi
đến một ngục đá, thấy mẹ mình ở trong cửa đá thụ nhiều sự khổ.
Khóc bảo con gái rằng: 'Mau vì mẹ tả một bộ kinh Pháp-Hoa ngõ hầu
thoát khỏi tội này'. Nói vừa xong cửa đá liền khép lại.
Cô họ Trần sống lại, thuật chuyện gặp mẹ với chồng. Ông Tín nhờ
ông Triệu-Sư-Tử tả kinh, ông Triệu bèn đem một bộ kinh Pháp-Hoa hiện đã
thành tả rất tốt giao cho ông Tín sửa sang, mà bộ kinh đó vốn là của một
người họ Phạm ra tiền mướn tả, mà ông Tín thực chưa biết cũng tin là ông
Triệu tả cho mình.
Không bao lâu, cô họ Trần lại nằm chiêm bao thấy mẹ đòi kinh, cô
nói rằng đã tả xong rồi. Mẹ liền khóc rằng: 'Mẹ chính vì bộ kinh đó mà
càng bị khổ thêm. Bộ kinh đó vốn là nhà của họ Phạm tu phước, sao lại
cướp làm công của mình?' 'Sau khi thức dậy, cô Trần và ông Tín đi hỏi
thăm lại, thời quả thực họ Phạm ra hai trăm tả kinh mà chính là bộ trên
đó.
Vợ chồng liền thuê người tả một bộ khác để cúng-dàng hồi-hướng
công-đức cho mẹ.
Than-ôi! Công-đức tả kinh hay ấn tống lớn biết là dường nào? tội
nặng bị khổ ở địa-ngục nhờ người tả một bộ kinh Pháp-Hoa mà còn có đủ
phước để thoát khổ huống nữa là mình tự ra công tiền ư!
* * *
TUNG ÐỀ KINH
MÌNH VÀ NGƯỜI ÐỀU THOÁT KHỔ
Quận Phùng-Dực, ông Lý-sơn-Long làm chức Tả-giám môn Hiệu-úy
trong niên hiệu Võ-Ðức bạo chết, mà trên ngực khoảng bằng bàn tay không
lạnh, người nhà chưa nỡ tẩn-liệm. Ðên ngày thứ bảy sống lại thuật rằng:
"Ðang lúc chết bị người bắt dẫn đến một dinh quan rất hùng tráng rộng
lớn. Trong sân có bọn tù vài nghìn người, hoặc mang gông, hoặc xiềng
xích đều đứng xây mặt về hướng Bắc, chật cả sân.
Quân hầu dắt Sơn-Long đến dưới dinh. Có một vị Thiên-Quan ngồi
giường cao kẻ hầu hạ nghi-vệ như hàng vua chúa. Sơn-Long hỏi quân hầu:
"Quan nào đó?" - Quân hầu đáp: "Vua đãy". Sơn-Long đến dưới thềm - Vua
hỏi: "Người thuở sanh bình làm phước nghiệp gì?" Sơn-Long thưa: "Tôi
tụng thuộc kinh Pháp-Hoa hai quyển" Vua nói: "Rất hay! Ðược lên thềm".
Ông Long đã lên trên nhà thấy phía Ðông-Bắc có một tòa cao giống như tòa
diễn giảng. Vua chỉ tòa nói với Sơn-Long rằng: "Nên lên tòa này tụng
kinh". Sơn-Long vâng lệnh đến bên tòa. Vua liền đứng dậy nói: "Thỉnh
Ngài Pháp-sư lên tòa". Sơn-Long lên tòa xong. Vua liền xây về phía tòa
mà ngồi. Sơn-Long khai kinh tụng rằng: "Diệu-Pháp Liên -Hoa kinh, tự
phẩm đệ nhứt". Vua nói "Thỉnh Pháp-sư thôi" Sơn-Long liền thôi xuống tòa
lại đứng dưới thềm đoái xem trong sân, bọn tù nhân vừa rồi không còn một
người. Vua bảo Sơn-Long rằng: "Phước đức tụng kinh của ông chẳng những
là tự lợi, nhẫn đến làm cho bọn tù trong sân nhân nghe đề kinh Pháp-Hoa
mà đều được thoát khổ, há chẳng hay lắm thay! Nay tha ngươi trở về".
Sơn-Long lạy từ. Ði được vài mươi bước, vua kêu trở lại rồi bảo
quân hầu: "Nên dắt người này đi xem các ngục".
Quân hầu liền dắt Sơn-Long đi qua phía Ðông hơn trăm bước thấy
một thành bằng sắt rất rộng lớn, trên có mái trùm kín". Quanh thành cỏ
nhiều lỗ nhỏ, thấy các nam nữ từ dưới đất bay vào trong lỗ liền chẳng
trở ra. Sơn-Long lấy làm lạ hỏi quân hầu . ---Ðáp: "Ðây là dại địa ngục,
trong đó nhiều lớp phân cách theo tội riêng khác. Các người đó đều theo
nghiệp dữ của mình đã tạo. Vào ngục chịu khổ" - Sơn-Long nghe xong buồn
sợ xưng "Nam-mô Phật" xin quân hầu dắt ra. Ðến cửa viện thấy một vạc lớn
lửa mạnh nước sôi,, bên vạc có hai người ngồi ngủ. Sơn-Long hỏi đó. Hai
người đáp: "Tôi bị tội báo vào vạc nước sôi này. Nhờ Hiền giả xưng
Nam-mô Phật cho nên các người tội trong ngục đều được một ngày nghỉ mệt
nên chúng tôi ngủ". Sơn-Long lại xưng "Nam-mô Phật".
Quân hầu đưa Sơn-Long về nhà, thấy hàng thân thuộc đương khóc,
sắm-sửa những đồ tẩn liệm. Sơn-Long vào đến bên thấy thời liền sống lại.
Chuyện trên đây là chính ông Lý-Sơn-Long nói với chủ chùa
Tổng-Trì. Chủ chùa thuật lại với tôi.
(Rút trong bộ "Minh-báo-ký")
"Nhiệm-mầu thay kinh
Pháp-Hoa! Người tụng trì được công-đức, ngoài Phật ra không ai có thể
nghĩ lường được. Ðọa địa-ngục, vì tội nghiệp nặng, lên tòa vừa khai tụng
đề kinh mà cả mấy ngàn tù nhân dưới sân đều thoát khổ. Thoát khổ là bởi
tội nghiệp tiêu. Tội nghiệp nặng mà tức khắc tiêu tan, nếu không phải
công-đức rộng lớn quyết không thể được nghe đề kinh Pháp-Hoa mà công-đức
còn lớn dường ấy, huống là người trì tụng đề kinh, huống là người trì
tụng một phẩm, một quyển đến toàn bộ, nhẫn đến người giải nói, biên chép
ấn tống. Ông Sơn-Long được thoát ngục, được vua trọng, được quân hầu
kính, phải chăng là do uy-lực của kinh Pháp-Hoa. Ta đối với kinh
Pháp-Hoa, thật nên chí thành đảnh đới, thụ trì, đọc tụng, giải nói, biên
chép, ấn tống, nếu ta có chí tự thoát khổ và thoát khổ cho người. |
| |