1. Kỳ Viên đại hội.
Ta nghe như vầy: Một thuở nọ đức
Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc nước Xá-Vệ, cùng với một
nghìn hai trăm năm mươi vị đại tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La
Hán mọi người đều quen biết, như là: Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Đại
Mục-Kiền-Liên, Đại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha
Câu-Hy-La, Ly-Bà-Đa, Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già, Nan-Đà, A-Nan-Đà,
La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Đề, Tân Đầu-Lư-Phả-La-Đọa, Ca-Lưu-Đà-Di,
Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nậu-Lâu-Đà, những vị đại đệ tử
như thế. Và hàng Đại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi: Pháp-Vương-Tử,
A-Dật-Đa Bồ Tát, Càn-Đà-Ha-Đề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ Tát...
cùng với các vị Đại Bồ Tát như thế và với vô lượng chư Thiên như
ông Thích-Đề-Hoàn-Nhơn v.v... đại chúng cùng đến dự hội.
2.
Y báo, Chánh báo.
Bấy giờ đức
Phật bảo ngài trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: "Từ đây qua phương
Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong
thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.
3.
Y báo trang nghiêm
Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là
Cực Lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ,
chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng
mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp
vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu,
trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát
vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những
thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều
nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã
não.
Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng
xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc
trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm
dường ấy.
Xá Lợi Phất!
Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất
bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la. Chúng
sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng
những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương
khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành.
Xá Lợi Phất! Cõi
nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc
xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng-tước, Anh-võ,
Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng; những giống chim đó ngày đêm
sáu thời kêu tiếng hòa nhã.
Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ
đề phần, bát thánh đạo phần v.v... Chúng sanh trong cõi đó nghe
tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!
Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do
tội báo sanh ra. Vì sao? Vì cõi của đức Phật đó không có ba
đường dữ.
Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống
gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà
muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy
thôi.
Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động
các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi
diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người
nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang
nghiêm dường ấy.
4.
Chánh báo vô lượng thù thắng.
Xá-Lợi-Phất!
Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt
các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên
hiệu là A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng
vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn nại đến nay, đã
được mười kiếp.
Xá-Lợi-Phất! Lại đức
Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán,
chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ Tát chúng cũng
đông như thế.
Xá-Lợi-Phất! Cõi
nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá-Lợi-Phất! Lại
trong cõi Cực Lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực
bất thối chuyển.
Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông,
chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô
biên a-tăng-kỳ để nói thôi!
Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải
phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các
bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.
5. Nhơn sanh vãng
lai.
Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn
duyên mà được sanh về cõi đó.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức
Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong
một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm
ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn.
Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh
Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần
không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức
Phật A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.
Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát
nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.
6.
Sáu phương Phật đồng khuyên tin.
Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức
A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang
Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở
tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam
Thiên Đại Thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các
ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất
Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam có đức Nhật- Nguyệt-Đăng Phật,
Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Đăng Phật,
Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế,
đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam
thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các
ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất
Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế
giới phương Tây có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật,
Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bửu-Tướng
Phật, Tịnh-Quang Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế,
đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam
thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các
ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất
Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật,
Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh
Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều tại nước mình,
hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà
nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin
kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở
Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn
Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp
Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình,
hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà
nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin
Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở
Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương
Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật,
Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa
Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật... Hằng
hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra
tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời
thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng
Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm
Này".
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là Kinh:
Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?
Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh
này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những
thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật
hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của
các đức Phật nói.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có
người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn
sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà thời những người ấy đều
đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác;
nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về,
hoặc sẽ sanh về.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người
nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
7.
Thuyết kinh rất khó.
Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ
bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức
chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy:
"Đức Thích Ca Mâu Ni
Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi
Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não
trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được
ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói
kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này".
Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật
hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất
cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó!
Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo,
tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La v.v... nghe lời của đức
Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra.
Phật nói kinh A
Di Đà chung
Thích Nghĩa
1. Trong kinh này, đức
Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng
trang nghiêm của đức Phật A Di Đà Phật.
2. Triều Tấn (Tàu),
Diêu Hưng chiếm một phần đất xưng vương, quốc hiệu là Tần nên
gọi là Diêu (Dao) Tần. Bậc thông hiểu tam tạng kinh, luật và
luận, có thể giảng nói để dạy mọi người nên gọi là Tam Tạng Pháp
Sư. Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Tàu làm một nhà
dịch kinh chữ Phạn ra chữ Tàu có danh tiếng nhất.
3. Ông Cấp Cô Độc
Trưởng Giả mua khu vườn của ông Kỳ Đà Thái Tử, con vua
Ba-Tư-Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn rừng cây trong đó, rồi
hai người chung sức nhau dựng Tịnh Xá dể thỉnh Phật cùng chúng
hội về ở. Do đó nên hiệp cả hai tên của hai người để đặt tên
chốn ấy mà gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên vậy. Đệ tử của đức Phật
rất đông, không phải chỉ có 1.250 người, nhưng vì 1.250 vị Đại
A-La-Hán nầy là những vị được Phật độ trước và theo hầu cận bên
Phật luôn, nên trong kinh thường ước lược nói số đó.
4. A-Dật-Đa là tên của
đức Di-Lặc Bồ Tát. - Càn-Đà Ha-Đề Bồ Tát là ngài Bất-Hưu-Tức Bồ
Tát - Thích-Đề-Hoàn-Nhân là tên của Đế Thích, vua cõi trời Đao
Lợi.
5. Y báo là chỗ nương
ở, nhà cửa, ao rừng v..v.. gọi chung là cõi nước, trong đây y
báo là nước Cực Lạc. - Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là
loài người, trời, chim thú v.v... trong đây chánh báo là đức
Phật A Di Đà cùng Bồ tát, Thanh Văn v.v...
6. Cõi nước ta đương ở
đây gọi là Ta Bà có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam
khổ, bát khổ. Trái lại, bên cõi Cực Lạc chỉ thuần có những điều
vui sướng, nào tam lạc, bát lạc.
6.1
Khổ ở cõi Ta Bà
Tam Khổ:
1. Khổ khổ:
mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, sống nay chết mai nầy đã
khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chồng thêm không biết
bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng
rét..v..v..
2. Hoại khổ:
vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành, tang thương xoay
chuyển, như sương đầu cỏ.
3. Hành khổ:
trong mỗi niệm, tâm tưởng, biến chuyển luôn không ngừng.
Bát Khổ:
1. Sanh khổ:
ở thai bào tối tăm nhơ uế, lọt lòng khổ trăm bề.
2. Lão khổ:
lụm cụm già nua, mắt mờ tai điếc, trí lãng, lưng mỏi, gối dùn,
mặt nhăn đầu bạc.
3. Bệnh khổ:
đau rên bức rức, nhức nhối xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng
không được.
4. Tử khổ:
ngộp mệt, lộn tròng, méo miệng, chuyển xương, gân rút.
5. Cầu bất đắc
khổ: lợi danh không toại, muốn phước trở mang họa, cầu
thọ mà yểu vong.
6. Ái biệt ly
khổ: cốt nhục phân tán, sanh biệt tử ly.
7. Oán tắng tội
khổ: oan gia, đối đầu, cừu thù gặp gỡ.
8. Ngũ ấm xí
thạnh khổ: thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng
dừng, như ngọn lửa phừng phừng không khác.
6.2
Vui ở Cực Lạc
Tam Lạc:
1. Lạc trung lạc:
thân cùng độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi xinh, ấm no, khương
kiện...
2. Bất biến hoại
lạc: thân mạng trường tồn, cõi nước không thiêu diệt...
3. Bất động trí
lạc: định huệ dung thông, chánh tri bất động...
Bát lạc:
1. Sanh Lạc:
thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa sanh..
2. Vô lão lạc:
mãi mãi trẻ trung, không già không yếu...
3. Vô bịnh lạc:
hằng hằng khương kiện, không bệnh, không đau yếu...
4. Vô tử lạc:
thọ mạng vô cùng, trường sanh bất diệt...
5. Toại nguyện
lạc: tùy ý quả toại, y thực tự nhiên...
6. Vô ái biệt ly
lạc: bạn lành hải chúng, thân cận không rời..
7. Vô oán tắng
hội lạc: thuần là Thượng-Thiện-Nhân, đồng tâm xứng ý..
8. Vô ngũ ấm
thạnh lạc: thân tâm thanh tịnh, thường trụ không dời..
Không đâu khổ bằng Ta
Bà, không đâu vui bằng Cực Lạc, vì thế mọi người nên nhàm lìa
chốn Ta Bà mà nguyện về chốn Cực Lạc.
7. Bốn báu:
vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm
bảy báu: vàng ,bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, và mã não.
Trong Quán Kinh nói: hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có
thứ cây thuần bằng bạc v.v... hoặc có thứ cây thân vàng lá bạc,
nhánh lưu ly..v..v.. - Dầu bằng chất thất bửu chớ vẫn là cây
sống, cũng như cây bên này bằng chất gỗ.
8. Trong đây nói đất
là chỉ thuận theo tiếng nầy mà gọi thế, chớ chính thật cõi Cực
Lạc thuần bằng chất vàng.. Tuyệt không có thứ đất bùn cát sỏi. -
Tám công đức của nước trong ao bên Cực Lạc: trong sạch, nhẹ
nhàng, mát mẻ, ngon ngọt, đượm thuần, êm đềm hòa huỡn, uống vào
hết đói khát, và bổ khỏe thân tâm.
9. Người nước Cực Lạc
đều có thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi trải qua vô
lượng thế giới. Đi kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi
vừa suy gẫm tưởng niệm những pháp lành, Phật, Pháp và Tăng...
Đi kinh hành có hai
điều lợi ích: (1) Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ
tà niệm loạn tưởng cùng biếng lười ngủ nghỉ, và (2) điều hoà
thân thể, huyết khí lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.
10. Tinh, tấn, niệm,
định, huệ: người tu hành có năm đức nầy thời vững chắc trên
đường đạo như cây có rễ nên gọi là ngũ căn (cội rễ). Nếu tất cả
cảnh duyên không thể khuấy rối làm lay động được, thời năm đức
trên gọi là ngũ lực (sức mạnh). Thất Bồ Đề Phần cũng gọi là Thất
Giác Chi (7 đức giác ngộ) là Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Hỉ,
Khinh An, Định và Xả. Bát Thánh Đạo Phần là Chánh Kiến, Chánh Tư
Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh
Niệm và Chánh Ðịnh.
Trong cõi Ta Bà nầy,
những loài chim nhiếp thuộc vào súc sanh đạo, một ác đạo trong
lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim
bên Cực Lạc thời khác hẳn, không phải là giống vật do tội báo
cảm vời sanh ra, mà do thần lực của đức A Di Đà biến hóa ra để
làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.
11. Đoạn nầy là đức
Phật tự định danh nghĩa của ba đức A di Đà, vì có hai điều vô
lượng: (1) Vô lượng quang, (2) Vô lượng thọ, nên đức Phật bên
nước Cực Lạc hiệu là Aa Di Đà.
12. A-bệ-bạt-trí (Phạn
âm) Hán dịch là bất thối chuyển, vào bực này thời một mực đi
trên đường Thánh thẳng đến thành Phật, không còn bị thối sụt
xuống phàm phu hay Tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về
cõi Cực Lạc đều vào bực bất thối cả, trong hàng bất thối lại có
vô số bậc nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát (vì Bồ Tát chỉ còn là Bồ Tát
trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thời thành Phật, như
hiện nay đức Di Lặc Bồ Tát ở cung trời Đâu Suất nội viện là bậc
nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát vậy). Các bậc thượng thiện nhân là chỉ
các bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.
13. Cõi Cực Lạc thù
thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức mới được
sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu
căn lành phước đức rất lớn, đến khi lâm chung đức Phật A Di Đà
cùng Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát... phóng quang đến
rước, quyết định đặng sanh cõi Cực Lạc. - Niệm Phật không còn
móng tưởng gì khác, không có mảy may thinh sắc gì khác xen vào,
vững vàng không xao động gọi là nhứt tâm bất loạn.
14. Người tu Tịnh Độ
phải có đủ ba điều: Tín (tin thật), Hạnh (chuyên tâm niệm Phật)
và Nguyện (thiết tha muốn được sanh về cõi Cực Lạc) Trong ba
điều nầy, lòng tin đứng trước cả mà cũng là nền tảng của tất cả
căn lành vì thế nên chư Phật ở sáu phương đồng khuyên bảo, cho
mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.
Hằng hà sa số: là số
cát sông Hằng. Sông Hằng là con sống lớn bên Thiên Trúc, nguồn
từ dãy núi Hi Mã, chảy ngang xứ Thiên Trúc, đổ vào Ấn Độ Dương.
Lòng sông và hai bên bãi có cát rất nhiều và rất mịn. Đương thời
đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một
số lớn quá nhiều thời mượn số cát trong sông Hằng mà nói.
Tướng lưỡi rộng dài
biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi
liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có
một lời nói dối. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn như thế, huống
nữa là rộng dài trùm khắp cả thế giới?
Một thái dương hệ là
một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế
giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới.
Một nghìn trung thiên thế giới là một thế giới trải qua ba lần
nhân cho số nghìn, nên gọi là Tam thiên đại thiên thế giới [1
tiểu thế giới x 1.000 x 1.000 x 1.000 = Đại thiên thế giới].
ại thiên thế giới của
ta ở đây tên là Ta Bà dịch là Kham Khổ ngụ ý rằng trong cõi nầy
có vô lượng sự thống khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn kham chịu
được.
15. Ngũ Trược: (1)
Kiếp trược: kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong thời đại
nào mà có các món trược dưới đây thời là thời đại đục nhơ. (2)
Kiến trược: Những điêu mê chấp, tà kiến, điên đảo... (3) Phiền
não trược: Các tâm niệm bất thiện như tham, sân, si, mạn bất
tín... (4) Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ,) hiệp hội sanh
diệt chẳng dừng. (5) Mạng trược: Số thọ rất ngắn, sống nay chết
mai, mạng sống trong hơi thở. Bốn món trên đây tánh cách nhiễu
não, sai lầm, biến đổi vô thường nên gọi là trược (nhơ đục).
Source : Nguyệt San Giác Ngộ
|