|
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Chân thành tán thán ghi nhận công đức các vị: Trí Siêu, Nguyên
Chứng, Nguyên Giác và Nguyên Thanh, những vị đã đóng góp tích cực cho tập
sách, bằng sự sưu tầm, sao chép, bổ túc các tư liệu văn bản, cùng là tham
gia ý kiến về một số chi tiết khác nhau giữa các văn bản.
Nguyện hồi hướng công đức này đến khắp Pháp giới chúng sanh đồng
triêm lợi lạc.
H.T. THÍCH TRÍ THỦ
LỜI GIỚI THIỆU
Tâm kinh Bát nhã, kể từ ngày bản dịch của Ngài Huyền Tráng ra
đời, đã được tất cả các Phật tử Á Đông chấp nhận và tụng niệm thường xuyên.
Ai cũng thuộc lòng và ít nhiều thâm hiểu giá trị cùng vị trí của kinh này
trong lịch sử tư tưởng Phật giáo. Đối với Việt Nam ta, cho đến nay, Tâm Kinh
Bát nhã vẫn là một bài nhật tụng được chuyên trì nhiều nhất.
Ngay từ những năm khói lửa của cuộc kháng chiến Nguyên Mông đầy
gian khổ nhưng cũng vừa hào hùng, vị anh hùng dân tộc, đồng thời là vị thành
lập Thiền Phái Trúc Lâm thuần túy Việt Nam, vua Trần Nhân Tôn đã viết trong
Cư trần lạc đạo:
Dựng cầu đò, xây chiền tháp,
Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu.
Cứng hỷ xả, nhuyến từ bi,
Nội tự tại Kinh Lòng hằng đọc.
Ngài Minh Châu Hương Hải là người dịch và chú giải Tâm Kinh Bát
nhã đầu tiên bằng tiếng dân tộc quốc âm hiện còn bảo tồn. Rồi ngài Chân
Nguyên ca ngợi năng lực thâm diệu của kinh trong Nam Hải Quán Âm
Công chúa thấy thốt thương song
Bèn chuyển Kinh Lòng động đến hoàng thiên
Bảo hoa bay khắp bốn bên
Hào quang thấu lọt dưới trên cửa thành
Thiết tha giải tích tan tành
Nhất thiết tù rạc siêu sanh một giờ.
Ngài Toàn Nhật, một nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng lớn của dân
tộc ta, đã viết trong Thiền Cơ Yếu Ngữ Văn:
Một nồi hương huệ đốt xông
Ba biến Kinh Lòng thường niệm hôm mai.
Rồi trong Tham Thiền Vãn, ngài cũng nói:
Chí dồi mài công phu lựa lọc
Kết tri âm giảng đọc Tâm Kinh
Cốc mình thức tử tri sinh
Sá gì dế lỗ rành rành đặng mưa.
Thì ta cũng đủ thấy kinh này đã được dân tộc ta qua lịch sử hâm
mộ như thế nào. Điều này cũng không có gì lạ, vì Tâm Kinh Bát nhã đã cô kết
lại một cách trọn vẹn tất cả giáo nghĩa siêu việt của Phật giáo Đại thừa. Mà
muốn hiểu Phật giáo Đại thừa, cũng như muốn thực hành phương pháp tu trì của
Phật giáo đó, ta không thể nào không biết, đọc, và hiểu nghĩa của Tâm Kinh.
Vì thế hôm nay tôi phát nguyện dịch lại bản Tâm Kinh được ưa chuộng vừa nêu.
Mặc dù rằng nguyên bản Phạn văn của kinh này đã được tìm thấy,
nhưng bản dịch của ngài Huyền Tráng cho đến nay vẫn còn được rất nhiều người
hâm mộ. Cho nên, tôi đã dựa theo bản của ngài Huyền Tráng mà dịch ra Việt
văn, đồng thời tham khảo bản Phạn văn cũng như các bản dịch khác, đặc biệt
bản dịch và chú giải Tâm Kinh bằng quốc âm của thiền sư Minh Châu Hương Hải
vừa được phát hiện.
Với mục đích cung ứng tài liệu cho việc học tập và nghiên cứu Tâm
Kinh, tôi cũng tập thành tại đây các bản Phạn văn theo thư pháp Tất đàn và
Devanagari, bản tiếng Mãn Châu, Tây Tạng, Vu Điền, Mông Cổ, Pali, các dịch
bản và phiên bản Hán văn, bản chú giải bằng tiếng quốc âm xưa nhất của thiền
sư Minh Châu Hương Hải, cùng các bản Anh, Pháp, Đức và Nhật.
Nguyện rằng, bản dịch này giúp các Phật tử hiểu sâu hơn nữa giáo
nghĩa của Đại thừa mà Đức Phật đã lân mẫn trao phó. Và cũng vì mục đích giúp
các Phật tử lĩnh hội ý nghĩa của bản văn, tôi đã mạo muội viết thêm bản chú
giải của mình. Bản chú giải này thuộc phần một. Phần hai của tập này gồm các
bản văn vừa kể trên. Phần ba dành riêng để chú thích, chỉ dẫn và bản so sánh
từ điển thuật ngữ Phạn, Hán, Tây Tạng, Anh, để các thiện tri thức tiện tra
cứu.
Nguyện cầu Tam Bảo chứng minh gia hộ.
Già Lam, mùa An cư
H.T. THÍCH TRÍ THỦ
TÂM KINH BÁT
NHÃ PHIÊN ÂM
Quán tự tại bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến
ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không,
không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu
bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng,
hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận;
nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc
vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô
quái ngại; vô quái ngại cố vô hữu khủng bố; viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu
cánh niết bàn, tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la
tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú,
thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt
bất hư.
Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế,
Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha.
TÂM KINH BÁT
NHÃ DỊCH NGHĨA
Bồ tát Quán tự tại khi hành Bát nhã ba la mật đa sâu xa soi thấy
năm uẩn đều không, vượt qua mọi khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là
không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Xá Lợi Tử! Tướng không các pháp đây, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng
dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên, trong không, không sắc, không
thọ, tưởng, hành, thức; không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới;
không vô minh cũng không vô minh hết; cho đến không già chết, cũng không già
chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí cũng không đắc.
Bởi không sở đắc, Bồ tát nương Bát nhã ba la mật đa, nên tâm
không mắc ngại; vì không mắc ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên
đảo, rốt ráo niết bàn. Chư Phật ba đời nương Bát nhã ba la mật đa nên chứng
a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là chú thần lớn, là chú minh lớn,
là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, trừ hết mọi khổ ách, chắc thật
vì không dối.
Nên nói chú Bát nhã ba la mật đa, nên nói chú rằng: Yết đế, Yết
đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề, Tát bà ha.
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
CHÚ GIẢI
DẪN NHẬP
Nói đến Phật giáo Đại thừa là nói đến Bát nhã. Vì, không có Bát
nhã, là không có Phật giáo Đại thừa. Bát nhã là đầu mối, là mạch nguồn từ đó
các trào lưu tư tưởng Đại thừa kể cả Mật giáo dậy khởi.
Như vậy trong thực chất, Bát nhã là gì mà có một nguồn sinh lực
dồi dào bất tận đến thế?
Bát nhã do Phạn ngữ Prajnà phiên âm. Tàu dịch nghĩa là Tuệ, Trí
Tuệ, Không Trí. Nhưng dù dịch gì đi nữa cũng không một từ nào trong Hoa văn
lột được hết ý nghĩa hàm ẩn trong phạn ngữ Prajnà. Cho nên, văn học Phật
giáo Trung Hoa cuối cùng cũng phải dùng từ ngữ phiên âm Bát nhã để chỉ cho
loại trí tuệ đặc biệt này, mới có thể tránh mọi ngộ nhận sai lạc cho người
học.
Thông thường, cứ nói đến trí hay tuệ hay trí tuệ, người nghe lập
tức liên tưởng đến trí năng, một trong ba năng lực (cảm năng, trí năng và ý
chí) của con người mà các sinh vật không có, hoặc có nhưng ở một mức độ thấp
kém. Trí hay trí tuệ thường được hiểu như trí khôn hay óc thông minh xán
lạn, lãnh hội dễ dàng các kiến thức đã có, hoặc hội ý những kiến thức mới mà
loài người sắp phát hiện ra. Cái bộ óc thông minh ấy đối với Phật giáo được
mệnh danh là thế trí biện thông, bao gồm cả tốt lẫn xấu ngay trong bản chất,
và tác dụng nó thì thường là lành ít dữ nhiều, bởi lẽ trí ấy gắn liền với
phiền não khổ đau, hay tệ hơn nữa, nó chính là sản phẩm của chính phiền não
khổ đau.
Khác với thế trí biện thông, Bát nhã là loại trí tuệ siêu thiện
ác, trí tuệ vô phân biệt đã rủ sạch phiền não. Cho nên, từ trong bản chất,
nó là loại trí tuệ thanh tịnh rỗng lặng, không chút bợn nhơ, trong suốt như
hư không, nên cũng được gọi là không trí. Do đó, nó thường xuất hiện như một
thứ trí tuệ sâu xa vi diệu, mà Tâm kinh Bát nhã gọi là thâm Bát nhã, trí tuệ
sâu xa. Vì tính chất nó như thế nên nó hoàn toàn tự tại trước mọi đối tượng
nhận thức, trong mọi hoàn cảnh, nó không bị đối tượng hay hoàn cảnh chi phối
buộc ràng. Từ đấy, nó soi suốt thật thể các pháp tức các hiện tượng trên cõi
đời, thấy rõ bản chất của chúng. Trí tuệ ấy tự bản chất nó được mệnh danh là
Thật tướng Bát nhã. Lại cũng trí tuệ đó, trên phương diện tác dụng soi suốt
các hiện tượng, thì mang tên Quán chiếu Bát nhã. Thật tướng trong suốt vắng
lặng, quán chiếu cũng trong suốt rỗng lặng, tuy hai mà một, tuy một mà hai.
Và có trong suốt vắng lặng như thế thì mới thấy được cái thực chất nhân
duyên sanh của tất cả các pháp. Vì đã do nhân duyên sanh, các pháp thảy đều
không có tự thể, thảy đều giả hữu, hết thảy đều không. Không ở đây phải hiểu
là không có thật thể. Thuật ngữ Phật giáo gọi cái không ấy là Thuấn nhã đa,
tức phiên âm chữ Ínyat, thường dịch là tánh không.
Giáo nghĩa tánh không bắt nguồn từ đâu? Vị trí nó trong giáo lý
Phật như thế nào? Chính thống chăng? Bàng thống chăng? Đó là những câu hỏi
cần có giải đáp thì may ra mới tạm có một khái niệm tương đối rõ ràng về Bát
nhã. Chỉ khái niệm mà thôi, Còn thực chất ra sao, thì phải tu mới chứng
được.
Ai có nghiên cứu Phật giáo cũng đều biết rằng tinh hoa của Pháp
mà Phật dạy chỉ tụ tại một điểm và chỉ một điểm mà thôi. Đó là duyên khởi,
cũng gọi là duyên sanh. Phật giáo sở dĩ khác với các thần giáo chỉ một điểm
này và ở một điểm này. Và ai đã thừa nhận luật duyên khởi thì không thể nào
thừa nhận một đấng tạo hóa sáng thế nữa. Người đó trên hình thức, dù có theo
đạo Phật hay không theo đạo Phật, cũng đã là Phật tử trên bình diện tư tưởng
rồi. Ngược lại, dù là tăng sĩ, nhưng không thông suốt duyên khởi, thì đó
cũng chỉ là ngoại đạo trá hình. Nói thế, cốt để nhấn mạnh vai trò chỉ đạo,
vai trò tiên quyết của luật duyên khởi trong toàn bộ giáo pháp Phật. Không
có duyên khởi, không có Phật giáo, cũng như không có Bát nhã thì không có
Đại thừa, như đã khẳng định ngay trong câu mở đầu.
Khi đã thừa nhận duyên khởi thì đương nhiên phải thừa nhận hai hệ
luận gắn liền với duyên khởi, đó là vô ngã và vô thường. Đã là vô thường thì
tác dụng do nó gây ra là khổ. Còn vô ngã thì đương nhiên các sự kiện tự nó
là không. Không, đây cần nhắc lại, là không có tự thể. Từ những cái mắt thấy
tai nghe, cho đến những cái ý thức suy nghĩ, hết thảy đều không có tự thể dù
chúng đang hiện hữu trước mặt. Sự hiện hữu ấy do các duyên
(pratÌtyasamutpda) tức các điều kiện giả hợp mà thành, không có ngã thể, dù
bất cứ là ngã thể của hữu tình hay ngã thể của vô tình. Vô ngã của hữu tình
thì gọi là nhân vô ngã; vô ngã của vô tình thì gọi là pháp vô ngã. Nói rõ
ra, tất cả mọi sự vật trong đó gồm cả con người, đều là vô ngã. Trường phái
Bát nhã triển khai lý luận về hai thứ vô ngã ấy, tức vô ngã về con người, vô
ngã về sự vật, mà thành lập thuyết tánh không, chứng minh cho triết học luận
lý bát bất là thành tựu bằng đạo học của phương pháp hành trì thực tế để
giải quyết khổ đau.
Tính chất nhất trí và liên tục từ Phật giáo Nguyên thủy đến Phật
giáo Đại thừa như thế thật quá rõ ràng, trước khi Đại thừa hưng thịnh, các
trường phái A tỳ đàm chỉ chú trọng đến nhân vô ngã, và ít lưu tâm đến pháp
vô ngã. Thậm chí có trường phái như nhất thiết hữu bộ chẳng hạn, lại còn chủ
trương cực đoan rằng nhất thiết pháp giai hữu với cách ngôn là tam thế thật
hữu, pháp thể hằng hữu. Để đối kháng với chủ trương cực đoan đó, các trường
phái A tỳ đàm thuộc Đại chúng bộ đưa ra chủ trương đối nghịch và cực đoan
không kém là nhứt thiết pháp giai không. Bằng phương tiện triết học phân
tích tinh vi, nghĩa là bằng thuần túy luận lý các trường phái sau đưa giáo
nghĩa của họ đến một cái ngoan không rùng rợn thê thảm. Và Niết bàn theo
quan điểm này là một trạng thái chết, trong đó xác thân phải biến ra tro
bụi, còn ý thức và trí tuệ thì không còn một chút dấu vết lưu lại (khôi thân
diệt trí).
Vô ngã, nếu chỉ hiểu được theo nghĩa nhân vô ngã mà thôi, thì
không sao tránh khỏi pháp chấp. Còn vô ngã, dù bao trùm cả pháp vô ngã, nếu
chỉ loanh quanh trong khái niệm triết học do thuần túy lý luận tạo dựng nên,
thì xa rời thực tế, trở thành khô cằn và đưa đạo Phật vào cõi chết. Nguy
hiểm của triết học dù cho đó là triết học tinh vi u huyền cùng cực đi nữa,
chính là ở đó.
Thừa hưởng truyền thống không cả nhân lẫn pháp của Đại chúng bộ,
trường phái Bát nhã chủ trương thực hiện cái không bằng trực quán tổng hợp,
nghĩa là bằng hành trì thực tế theo con đường đạo học, để tự mình trực tiếp
thể nghiệm cái không ấy trong khi các pháp đương giả hữu. Cái không hiện ra
qua công phu tu chứng đó gọi là đương thế tức không, nghĩa là trong khi các
pháp đương hiện hữu sờ sờ trước mặt, tự thể của chúng vẫn chỉ là không. Vì
do nhân duyên giả hợp chúng không có ngã thể riêng. Sự hiện hữu của chúng
chẳng qua chỉ là giả hữu mà thôi. Như vậy, cái sở quán (các pháp) vốn dĩ
không, thì cái năng quán (trí) cũng phải là không, như vậy mới không bị
chướng ngại và đạt tiêu đích là soi suốt thực tế các pháp. Trí ấy mệnh danh
là Bát nhã (Prajnà).
Dứt khoát Bát nhã phải do tu chứng mà tựu thành, không do cái học
mà un đúc nên. Trong địa hạt này, cái học hoàn toàn bất lực. Cái học chỉ
giỏi tạo ra một mớ bòng bong khái niệm. Hiện thực hóa các khái niệm ấy, phải
do công phu hành trì thực tế của đạo học. Bởi vì Bát nhã Ba La Mật Đa là một
thứ gì sâu xa vi diệu, không dễ gì thể nhập nếu không có sự hành trì. Có thể
hiểu được như thế thì mới xác định được ba chữ hành và chiếu kiến trong câu
mở đầu của Tâm kinh Bát nhã.
Hành nghĩa là hành trì. Phương pháp hành trì ở đây là pháp quán
Bát nhã, tức là một pháp hành thiền riêng của trường phái này, nhờ đó mà
hành giả tự mình trực tiếp thấy được cái không của đương thể bị quán. Thấy
được cái không ấy là quán chiếu. Quán chiếu không lìa thực tướng. Tuy hai mà
một, như đã nói trên. Bên dụng bên thể. Ngay ở nơi dụng mà bắt được thể. Thể
hay dụng cũng chỉ một Bát nhã mà thôi. Rõ ràng cái học từ chương không có
giá trị gì ở đây cả. Cũng không có giá trị gì kể cả đến các khái niệm triết
học duy lý được tạo dựng trên nền tảng luận lý học hữu danh vô thực.
Tuy nhiên, nếu phải do tu đắc mới biết có trí Bát nhã, thì những
kẻ chưa tu hay không tu làm thế nào để có một khái niệm về cái trí này? Và
làm sao khiến họ có được niềm tin để theo đòi hạ thủ công phu? Nhu cầu được
đặt ra là phải thuyết minh trí ấy để hé cho người muốn tu biết dung mạo hình
dáng của nó ra sao. Vì vậy mà phải dùng phương tiện để mô tả, đó là văn tự
Bát nhã. Phạm vi của văn tự Bát nhã bao gồm toàn bộ văn học Bát nhã, từ ngôn
thuyết cho đến triết học, nhằm mục đích thuyết minh giáo nghĩa này. Nhưng
nói theo nghĩa hẹp thì văn tự Bát nhã chính là triết học Bát nhã. Cần nhấn
mạnh lại một lần nữa rằng, triết học Bát nhã chỉ được dùng như một phương
tiện để giới thiệu Bát nhã mà thôi. Nó không thể nào thay thế được quán
chiếu Bát nhã. Lý thuyết không đem lại kết quả cụ thể như công phu thực tập.
Nói đến triết học Bát nhã thì phải đề cập đến cơ sở lý luận, căn
cứ vào đó triết học này được xây dựng. Đó là luận lý học bát bất mệnh danh
là bát bất Trung đạo.
Khác với các hệ thống luận lý thông thường đặt cơ bản trên những
dữ kiện coi như thực hữu và cố định, hệ thống luận lý mới này là một loại
luận lý siêu luận lý, do Long Thọ sáng tạo, nhằm thuyết minh những hiện
tượng giả hữu và chuyển biến trong từng sát na, là các pháp duyên sanh như
huyễn. Phương pháp luận lý này chuyên môn dùng phủ định để khẳng định. Bởi
lẽ văn pháp vốn là duyên sanh vô thường, không có một pháp nào đứng yên một
chỗ, thì thử hỏi trong trạng huống đó, ta có thể khẳng định được gì không?
Cái hiện thực của lát giây trước, không phải là cái hiện thực của lát giây
sau. Dòng sông phút trước không phải là dòng sông tiếp liền theo đấy. Càng
không phải là dòng sông năm xưa hay dòng sông trong mười năm tới, tuy cùng
mang tên một dòng sông chung. Cho nên, đúng theo sự thật, ta không thể khẳng
định được gì cả. Để được gần sát với sự thật hơn, phép luận lý chơn chánh và
lành mạnh buộc ta phải tìm khẳng định trong phủ định là vì thế.
Pháp luận lý phủ định này, mãi cho đến giữa thế kỷ XIX mới được
các triết gia phương Tây biết đến và được họ tôn xưng là siêu biện chứng.
Bát bất nghĩa là tám sự phủ định gồm bốn cặp tám điều: sanh, diệt; thường,
đoạn; nhứt, dị; lai, xuất. Thật ra thì, gặp gì phủ định nấy, mới sát với lý
vô thường biến chuyển của vạn pháp. Nhưng sở dĩ luận bát bất chỉ quy định có
tám điều mà thôi, là vì đấy là tám hiện tượng rõ ràng nhất và tiêu biểu nhất
trong tiến trình chuyển biến của sự vật. Hễ phủ định cái nọ thì lại khẳng
định cái kia theo hai mặt tương đối của nó. Như nói bất sinh, đồng thời phải
nói đến có diệt. Nói bất sinh bất diệt tức là đồng thời phải nói là thường.
Nói bất thường thì đoạn tự hiện ra. Nói bất đoạn thì nhứt tự hiện ra. Nói
bất nhứt thì dị tự hiện ra. Nói bất dị thì lai tự hiện ra. Nói bất lai thì
xuất tự hiện ra. Nói bất xuất thì sanh lại tự hiện ra, v.v... Vì lẽ ấy, và
để được sát với sự thật không ngừng biến chuyển, đừng nên khẳng định cái gì
hết. Và khi muốn khẳng định thì dùng phủ định mà diễn đạt. Thay vì khẳng
định diệt thì nên nói bất sanh. Thay vì khẳng định đoạn nên nói bất thường,
v.v...
Phép phủ định này được Long Thọ phát kiến, và dựng thành một cơ
sở luận lý học vĩ đại để thuyết minh giáo nghĩa tánh không của trường phái
Bát nhã. Có hiểu được then máy của phép luận lý này, mới hiểu được đoạn: chư
pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm
trong bài Tâm kinh. Sáu chữ bất ở trong đoạn này là một loạt phủ định dồn
dập, nhằm mục đích khẳng định thực chất của tướng không ở nơi năm uẩn. Nói
tướng không ấy bất sanh, tức nói nó tịch diệt. Nói nó bất diệt tức nói nó
thường tại, v.v... Trọn cả đoạn này cho đến vô trí diệc vô đắc là chứng minh
tánh không bằng luận lý triết học, để rồi đi đến chỗ dĩ vô sở đắc cố ở đoạn
tiếp theo là đưa hành giả vào đoạn thực tế hành trì. Triết học thuyết minh
là gieo khái niệm để mở đường chỉ lối. Tiếp theo là công việc của đạo học
phải thành tựu bằng công phu tu hành. Thực ích lợi là phần của đạo học,
nhưng nếu không nhờ phần triết học soi sáng thì không biết nương tựa vào đâu
để lần theo dấu vết mà hành trì. Ngược lại, nếu chỉ thuyết minh suông mà
không hạ thủ công phu thì chung quy chỉ dẫm chân một chỗ mà thôi. Có lẽ là
tệ hơn nữa: đi giật lùi trên đường tu chứng.
Trên đây là những khái niêm căn bản về đạo học Bát nhã và triết
học Bát nhã: đạo học thành tựu bằng phép quán chiếu; triết học xây dựng trên
căn bản bát bất. Còn nguồn gốc và tiến trình tư tưởng Bát nhã thì như thế
nào?
Như trên đã nói, nội dung của giáo nghĩa Bát nhã hàm ẩn ngay
trong giáo nghĩa vô ngã, một trong hai hệ luận của duyên sanh do chính Đức
Thế Tôn phát kiến và truyền dạy. Vô ngã của nhân (nhân không) và vô ngã của
pháp (pháp không) đó chính là nội dung của không tính Bát nhã. Giáo nghĩa
này đến khoảng giữa thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch thì phát triển mạnh và
kết thành đóa hoa đầu tiên là kinh Tiểu phẩm Bát nhã xuất hiện trên lá bối.
Qua thế kỷ thứ I sau Tây lịch, tư tưởng Bát nhã được triển khai thêm nữa và
kết tập thành Đại phẩm Bát nhã. Quan điểm lịch sử này, là căn cứ vào quá
trình dịch thuật của hai bộ kinh này trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc.
Chi lâu ca sấm lần đầu tiên dịch Tiểu phẩm thành Đạo hành Bát nhã
kinh vào năm178 sau Tây lịch. Rồi Trúc Pháp Hộ và những người khác dịch Đại
phẩm thành Quang tán và Phóng quang Bát nhã, vào giữa thế kỷ III trở đi. Đến
đầu thế kỷ V, La Thập dịch lại với cái tên ta thường biết là Tiểu phẩm và
Đại phẩm Bát nhã. Vào đầu thế kỷ VII Huyền Tráng du hành sang Ấn Độ thu góp
tất cả các kinh điển thuộc hệ thống Bát nhã về Trung Quốc dịch thành bộ Đại
Bát nhã 600 quyển chia ra tứ xứ lục thập hội. Kể cả trước lẫn sau, số kinh
trong hệ thống Bát nhã hiện lưu giữ trong Đại Tạng chữ Hán gồm 720 quyển.
Tư liệu và tư tưởng Bát nhã triển khai phong phú vĩ đại như thế,
nhưng nếu đúc kết tinh yếu thì thu gọn lại trong một bài Tâm kinh dịch ra
Hán văn chỉ có 260 chữ theo bản của Huyền Tráng. Bản này được dịch lần thứ
hai. Người đầu tiên dịch kinh này là ngài La Thập. Cả hai bản dịch này tương
đối nhất trí với hai nguyên bản Phạn văn ghi bằng thư pháp Tất đàn trên Lá
Bối, được bảo tồn tại Pháp Long tự, Hòryũji, trong thành Nara của Nhật.
Thường hai bản này được gọi là Lược bản Bát nhã, ngắn gọn nhất, và được liệt
kê theo thứ tự thời gian như sau:
1. Ma ha Bát nhã Ba la mật đại minh chú kinh, do ngài Tam Tạng
Cưu Ma La Thập dịch đời Diêu Tần, vào khoảng năm 402 - 412 sau Tây lịch.
2. Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do ngài Tam Tạng Pháp sư Huyền
Tráng phụng chiếu dịch vào đời Đường, năm 649.
Ngoài hai lược bản này, kinh tạng còn có bản:
3. Phật thuyết Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do Tam Tạng Pháp sư
Nghĩa Tịnh dịch năm 700. Giống như bản Huyền Tráng, trừ phần chú, không dịch
âm mà ghi bằng chữ Tất đàn và sau đó, thêm một đoạn.
Ngoài ra, còn có những bản khác, dài hơn, được gọi là Quảng bản
Bát nhã, như sau:
4. Phổ biến Trí tạng Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh do Pháp Nguyệt
(Dharmacandra) dịch năm 732 đời Đường.
5. Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, sa môn Pháp Nguyệt dịch; mộc
bản được bảo tồn tại Thanh Long tự, Đông Tháp viện. Tuy trùng tên người dịch
với bản trên, nội dung hai bản lại khác nhau.
6. Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do Bát nhã (Prajnà) và Lợi Ngôn
(Li yen) dịch năm 790 đời Đường.
7. Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do Trí Tuệ Luân (Prajnàcakra)
dịch năm 850 đời Đường.
8. Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do Pháp Thành dịch năm 856. Bản
này vừa tìm thấy được ở Đôn Hoàng.
9. Phật thuyết Thánh Phật mẫu Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do
Thi Hộ (Dãnapãla) dịch năm 980 đời Tống.
Ngoài các bản trên, kinh lục còn ghi các bản khác, hiện nay không
còn, gọi là thất bản:
10. Ma ha Bát nhã ba la mật đa Chú kinh, do Chi Khiêm dịch năm
223. So sánh tựa bản này với bản La Thập, ta có thể đoán đây là lược bản.
11. Bát nhã ba la mật đa Na kinh, do Bồ Đề Lưu Chi
(Bodhiruci)dịch năm 693.
12. Ma ha Bát nhã tùy Tâm kinh, do Từ Hiền (siksãnanda) dịch năm
700 đời Đường.
13. Phạn bản Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do Bất Không Kim
Cương (Amoghavajra) dịch năm 720 đời Đường.
Trong Đại Tạng Kinh Trung Hoa, tôi thấy có một bản dịch ghi là
của Kim Cương thượng sư, nhưng vì không đủ chứng cớ cụ thể đây là bản của
Bất Không Kim Cương, nên tôi liệt bản này ở phần cuối các bản văn. Thêm vào
đó, gần đây lại tìm thấy ở Đôn Hoàng thạch thất bản dịch Phạn âm của ngài
Huyền Tráng; bản này đã từng được khắc vào bia đá chùa Bạch Mã, nơi ngài
Huyền Tráng trụ trì và dịch kinh.
Không Hải, tức Hoằng Pháp đại sư, sáng tổ Chân Ngôn tôn ở Nhật,
là người đầu tiên dịch bản Huyền Tráng sang Nhật ngữ và chú giải kinh, làm
kinh nhật tụng cho chính tôn này. Từ đây, ở Trung Hoa và Nhật Bản, cũng như
ở Việt Nam, bản dịch Huyền Tráng là được hâm mộ và phổ biến sâu rộng hơn
hết. Cho nên, tôi đã dùng bản Huyền Tráng để dịch và chú thích. Các bản kia
ta dùng để nghiên cứu hay tham khảo cho rộng thêm phần kiến văn. Bản Huyền
Tráng mọi người ai cũng biết, không ai là không thuộc vì rất ngắn và rất
gọn.
Từ xưa, ngài Minh Châu Hương Hải đã viết bản chú giải tiếng quốc
âm xưa nhất hiện còn, mang tên Bát nhã Tâm kinh thích giải. Ngài Toàn Nhật
cũng đã từng viết trong Tham thiền vãn:
Chí dồi mài công phu lựa lọc
Kết tri âm giảng đọc Tâm kinh
Cốc mình thức tử tri sinh
Sá
chi dế lỗ rành rành đặng mưa
Hơn nữa, ai đọc tụng bản dịch của Huyền Tráng cũng thấy tinh thần
sảng khoái, tâm lý an tịnh, có một sự linh cảm vô cùng đặc biệt. Chính ngay
ngài Huyền Tráng khi đi Ấn Độ thỉnh kinh, dọc đường trải qua vô lượng gian
khổ, gặp một vị Phạn tăng truyền cho bài Tâm kinh này. Ngài học thuộc lòng,
âm thầm tụng niệm không ngớt, nhờ sức oai linh gia bị, ngài vượt qua tất cả
nguy hiểm của rừng thiêng nước độc, của yêu tinh thú dữ, để rồi cuối cùng
đạt được mục đích tham học, thỉnh được kinh pháp trở về Trung Hoa, thành một
nhà đại học vấn, thành tựu sự nghiệp vĩ đại hoằng pháp lợi sanh mà Đông Tây
cổ kim thảy đều ngưỡng mộ. Cho nên, Tâm kinh Bát nhã này không những lý
nghĩa vô cùng sâu xa mà sức cảm ứng cũng vô cùng linh nghiệm. Ai nhất tâm
thành tín đọc tụng thì cũng có công đức vô lượng. Trong Nam Hải Quán Âm,
ngài Chân Nguyên kể chuyện công chúa Diệu Thiện xuống địa ngục, gặp cảnh tội
nhân khổ đau van xin nên
Công chúa thấy thốt thương song
Bèn chuyển Kinh Lòng động đến hoàng thiên
Bảo hoa bay khắp bốn bên
Hào quang thấu lọt dưới trên cửa thành
Thiết già giải tích tan tành
Nhất thíết tù rạc siêu sanh một giờ
Thì cũng đủ thấy Tâm kinh mầu nhiệm thâm diệu thế nào!
BỒ TÁT BÁT NHÃ
(Thai tạng giới Mạn đà la)
Theo:
Phật giáo Đại từ điển của
Vọng Nguyệt Tín Hanh, tập 5,
trang 4269c.
(Mochizuko Shinko Daijiten)
GIẢI THÍCH ĐỀ KINH
Tám chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH là đề mục của kinh này. Sáu
chữ trước gồm hai danh từ tiếng Phạn phiên âm là Bát nhã, tức Prajnà và ba
la mật đa, tức pramitã. Tâm là tiếng Hán dịch chữ Phạn hrdaya. Kinh là tiếng
Tàu dịch chữ Phạn sítra. Vậy nguyên văn Phạn ngữ của Tâm kinh là Prajnpramit
hrdaya sítra.
BÁT NHÃ
Bát nhã (prajn), Hán dịch là tuệ, trí tuệ. Nhưng vì trong Hoa ngữ
không có một từ ngữ nào tương đương với từ Bát nhã trong tiếng Phạn nên về
sau người ta bắt buộc phải tạo từ mới bằng cách ghép thêm chữ không vào để
tăng cường và xác định ý nghĩa của từ tuệ và trí và ta có không tuệ và không
trí. Nhưng cũng vẫn chưa lột hết ý nghĩa hàm ẩn trong danh từ Bát nhã. Nghĩa
gốc của Bát nhã chuyên chỉ cho loại trí tuệ đặc biệt, phát sinh từ công hạnh
tu hành theo pháp quán không mà chứng đắc. Đây là loại trí tuệ thanh tịnh
của chư Phật vừa rỗng lặng vừa suốt soi, nhờ đó mà quán chiếu được thật
tướng của các pháp và thấy rõ các pháp là không có tự tánh. Đây không phải
là loại trí tuệ thế trí biện thông. Vì thế để tránh mọi ngộ nhận vô tình hay
cố ý, văn học Phật giáo Trung Quốc buộc lòng phải dùng y nguyên tiếng Phạn
là Bát nhã với những chú giải kèm theo.
Trong kinh luận chia Bát nhã thành ba loại: văn tự Bát nhã, quán
chiếu Bát nhã và thật tướng Bát nhã. Nương nơi văn tự ghi chép trong kinh
luận hay nhân nghe diễn giảng về giáo nghĩa Bát nhã mà phát sinh trí tuệ,
rồi nhờ đó mà thấu rõ nghĩa văn, không bị chướng ngại, trí tuệ ấy gọi là văn
tự Bát nhã. Nó cũng được gọi là phương tiện Bát nhã, nghĩa là thứ trí tuệ do
phương tiện của ngôn ngữ văn tự mà phát sanh. Tiến lên một bước nữa, do
nương theo các khái niệm đã lý hội được để suy tư quán sát thật tướng các
pháp, rời bỏ tướng ngữ ngôn văn tự, trong lúc tâm hành như thế mà thật tướng
các pháp tự phơi bày ra dưới sự xem xét của trí tuệ thì gọi là quán chiếu
Bát nhã. Từ quán chiếu ấy, gia công hành trì quán sát đến một mức thâm sâu
nhuần nhuyễn, nhuần nhuyễn đến độ nhứt cử nhứt động, bất cứ nói phô hay im
lặng, đều không lìa khỏi Bát nhã. Từ cạn vào sâu, nhờ sự quán sát nhỏ nhiệm
mà xả bỏ được quán sát thô phù theo kiểu người đời gọi là dùng nêm nọ trục
xuất nêm kia; cứ thế tiến mãi cho đến khi rủ bỏ hết tất cả các tướng phân
biệt, tâm niệm bỗng nhiên bừng sáng chói, khế hợp hòa đồng và trùm khắp tất
cả, không còn ranh giới giữa bỉ thử, nhơn ngã, nội ngoại, thị phi. Pháp tánh
chơn như tự hiện bày. Cái trí tuệ sáng chói ấy gọi là thật tướng Bát nhã;
cũng gọi là căn bản Bát nhã. Thật tướng Bát nhã là chơn thể của Bát nhã.
Quán chiếu Bát nhã là diệu dụng của Bát nhã. Trong chơn thể, nó là trí tuệ
vô phân biệt Cho nên, nó có diệu dụng quán chiếu cùng khắp. Tuy hai mà một,
tuy một mà hai, vì dụng không lìa thể. Văn tự Bát nhã cũng chính là trí tuệ
ấy, nhưng hiện ra trong năng lực lãnh hội những khái niệm về giáo nghĩa Bát
nhã xuyên qua văn học và triết học Bát nhã. Vì vậy, văn tự Bát nhã chỉ được
xem như một loại trí tuệ phương tiện giúp soi đường cho hành giả trên tiến
trình tu tập quán chiếu Bát nhã, nhằm khai thông thật tướng Bát nhã để bước
lên bờ bên kia: ba la mật đa.
BA LA MẬT ĐA
Từ ngữ này La Thập phiên âm là ba la mật và dịch nghĩa là độ (đưa
qua sông, sang sông), hay đáo bỉ ngạn: đến bờ kia. Độ hay đáo bỉ ngạn đều
chỉ là những dụng ngữ nói lên sự giải thoát khổ đau. Cõi sanh tử mà chúng
sanh đang trôi lăn được xem như bờ bên này, thì bờ bên kia được ví với Niết
bàn, ở đó, chúng sanh được thoát ra ngoài vòng sanh tử. Ngăn cách giữa hai
bờ là con sông phiền não. Vượt sông phiền não tức đến Niết bàn. Vì vậy, bờ
bên kia nguyên là dụ ngữ ngầm chỉ cho Niết bàn. Và phương pháp để đi đến
Niết bàn (đáo bỉ ngạn) là 37 phẩm trợ đạo.
Với sự xuất hiện của Đại thừa mà mở đầu là Bát nhã, con sông ngăn
cách không phải chỉ có phiền não mà thôi, nó còn là con sông mê lầm nữa. Cho
nên, bờ bên kia vừa là giải thoát (niết bàn) vừa là bờ giác ngộ (bồ đề). Để
đạt được đến bờ bên kia, phải tu theo sáu pháp ba la mật (hay mười pháp).
Sáu ba la mật gồm có: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và
trí tuệ (tức Bát nhã). Hành trì bất cứ pháp nào trong sáu pháp ấy cũng đều
đạt kết quả mong muốn là bước lên bờ bên kia. Nhưng nếu tu theo 37 phẩm trợ
đạo hay tu theo năm pháp ba la mật trước thì tâm giải thoát (Niết bàn) đạt
được trước, tuệ giải thoát (Bồ đề) tiếp liền sau. Như vậy, với các phương
pháp trên đây, bờ bên kia có nghĩa ưu tiên là bờ giải thoát. Phật giáo Đại
thừa thiên trọng về quả vị giác ngộ hơn, Cho nên, ba la mật Bát nhã được xem
như pháp tu đứng hàng đầu trong số sáu ba la mật. Theo Đại thừa, Niết bàn
còn có nghĩa viên tịch. Tịch tức tịch diệt còn viên tức thành tựu viên mãn
cả phước lẫn huệ. Nếu thành tựu được vô thượng Bồ đề thì viên mãn cả hai
(phước túc và huệ túc) mà giải thoát. Như vậy, với Đại thừa, bờ bên kia có
nghĩa là bờ giác ngộ. Có biết như thế thì mới hiểu được vì sao cùng theo một
pháp tu Bát nhã ba la mật đa, nhưng chư Phật thì chứng đắc Vô thượng Bồ đề,
còn Bồ tát thì đang trên con đường hướng đến Niết bàn, không còn vọng niệm
chi phối nữa.
Tóm lại, Bát nhã ba la mật đa nghĩa là pháp tu đưa qua bờ giác
ngộ ở bên kia sông mê. Nội dung của pháp tu này là quán chiếu Bát nhã.
TÂM
Tâm có nghĩa là trung tâm, thông thường người đời cho rằng tinh
túy của sự vật nằm ngay trong lòng của nó. Với con người cũng vậy. Như trong
con người, đứng về mặt sinh lý mà nói, máu huyết từ tim (tâm) phát ra, chảy
khắp thân thể để nuôi các tế bào, rồi quay về tim mà phát ra trở lại. Đứng
về mặt tâm lý mà nói, các hiện tượng tâm lý đều phát xuất từ tâm, rồi cũng
trở về đó để phối kiểm lại. Vì tâm được hiểu như trung tâm, Cho nên, tất cả
tinh hoa được xem như đổ dồn và tập trung về đó. Cho nên, trại ra nghĩa
bóng, tâm được hiểu là tinh yếu, nghĩa là cái chủ yếu tinh ròng của một việc
gì hay một vật gì. Tùy từng sự việc khác nhau và theo cách quan niệm chủ yếu
ấy đặt ở chỗ nào thì có một danh xưng riêng để nói lên cái chủ yếu ấy cho
hợp cách và sát nghĩa. Như vậy chủ yếu trong cái thân này là lõi cây. Chủ
yếu về mặt đạo đức đối với người Việt Nam là cái tấm bụng; còn chủ yếu về
mặt tâm lý là cái ruột non v.v... Bụng, ruột, lõi lòng v.v... hay tâm, chung
quy đều chỉ nói lên cái tinh yếu của sự vật hay của con người mà thôi.
Như vậy, Bát nhã Tâm kinh là bài kinh cô đúc tất cả tinh yếu của
giáo nghĩa Bát nhã. Cũng như A tỳ đạt ma Tâm luận là quyển luận cô đúc tất
cả tinh yếu của giáo nghĩa A tỳ đạt ma, Tâm kinh hay Tâm luận là những danh
từ thường gặp trong văn học Phật giáo, chỉ cho các bản văn toát yếu của kinh
hay của luận, để người học dễ nhớ, dễ thuộc. Tức loại "giúp trí nhớ" vậy.
Ta có thể dịch Bát nhã Tâm kinh ra tiếng Việt là kinh ruột Bát
nhã, kinh lõi Bát nhã hay "bài toát yếu kinh Bát nhã", hoặc đảo ngược lại
cho hợp với ngữ pháp Việt Nam và gọi là Tâm kinh Bát nhã, nếu thấy các danh
từ mới dịch chưa quen tai. Ngày xưa ngài Chân Nguyên và ngài Toàn Nhật đã
dịch là Kinh Lòng.
KINH
Kinh là danh từ dịch nghĩa Phạn ngữ sũtra, phiên âm tu đa la, Tu
đa la Tàu dịch là tuyến, nghĩa là sợi chỉ, hoặc xâu với nhau.
Tu đa la so với kinh trong Hoa ngữ, hình thức cấu tạo tuy không
giống nhau, nhưng nội dung hai bên tương đồng. Trong Hoa ngữ, những sách ghi
chép những lời của thánh nhân truyền dạy thì gọi là kinh, vì những lời đó
làm tiêu chuẩn cho muôn đời sau. Khác với sách ghi chép những lời của danh
nhân, chỉ được gọi là truyện. Cho nên, mới có thành ngữ thánh kinh huyền
truyện. Đức Phật là thánh nhân phương Tây (của Trung Hoa, tức Ấn Độ). Vậy
sách ghi chép lời Phật dạy mà dịch là kinh thì quả thật rất đúng nghĩa gốc
rồi.
Ta nên biết thêm rằng lời Phật dạy gồm có hai phần: pháp (đạt ma,
dharma) và giáo (tỳ nại da, vinãya). Cả hai nguyên gọi là kinh hết, vì đều
do Phật dạy. Nhưng về sau giải biệt thành hai tạng riêng, Cho nên, chỉ những
sách ghi chép pháp mới gọi là kinh, còn những sách ghi chép giáo thì gọi là
luật. Tạng ghi chép những lời chú thích biện giải của các Tổ về sau, thì
được biệt lập thành một tạng riêng gọi là luận. Bài kinh này thuộc tạng
kinh.
Tóm lại, "Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh" nghĩa là: bài kinh tóm
thâu yếu nghĩa tinh ròng của pháp tu quán chiếu Bát nhã đưa hành giả lên bờ
giác.
"ÁN, MA NI BÁT
DI, HỒNG."
GIẢI THÍCH NỘI DUNG
A. TỰ PHẦN
Quán tự tại bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu
kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Bồ tát Quán tự tại khi hành trì bát nhã ba la mật đa sâu xa, soi
thấy năm uẩn đều không, vượt qua tất cả khổ ách.
Đoạn văn mở đầu này trực tiếp hiển thị cái thực chất vô ngã rốt
ráo và trọn vẹn ở nơi mỗi chúng sanh (hay nói theo nghĩa hẹp, ở nơi mỗi con
người) mà thánh trí của Bồ Tát chứng đắc khi hành trì Bát nhã ba la mật đa
sâu xa, và nhờ đó giải thoát tất cả khổ ách.
Lời mở đầu này bao hàm tất cả nội dung của giáo nghĩa Bát nhã.
Trọn phần chánh tôn kế tiếp về sau, chỉ làm công việc quảng diễn nội dung
này về hai mặt triết học và đạo học mà thôi. Ta có thể nói rằng, nếu lời Tâm
kinh Bát nhã gồm 260 chữ này là tinh yếu của hệ thống Đại Bát nhã dày 720
quyển, thì đoạn mở đầu gồm có 25 chữ này lại thêm một lần nữa cô súc tinh
yếu của bài Tâm kinh. Phần ròng của giáo nghĩa Bát nhã được kết tinh trong
lời mở đầu này.
Quán Tự Tại Bồ tát
Bồ tát là tiếng gọi tắt danh từ Bồ đề tát đỏa (phiên âm từ chữ
Boddhisattva). Bồ đề dịch nghĩa là giác ngộ, tát đỏa dịch là hữu tình hay
chúng sanh. Hai chữ ghép chung với nhau thành ra Bồ đề tát đỏa, có nghĩa là
chúng sanh cầu đạo giác ngộ. Tàu dịch nghĩa Bồ đề tát đỏa là giác hữu tình,
tức hữu tình hướng về giác ngộ, hoặc sắp được giác ngộ.Vì vậy bất cứ chúng
sanh nào phát tâm bồ đề cầu đạo giác ngộ, đều gọi là Bồ tát. Tuy nhiên, từ
cấp mới hướng về đến cấp sắp đạt được, khoảng cách giữa hai bên thật là mù
thẳm xa khơi. Trong khoảng cách ấy, có nhiều cấp bậc sai khác nhau. Từ những
kẻ sơ phát tâm là hạng thập tín đến những bậc công hạnh sâu dày là hàng thập
địa, có tất cả là 50 bậc.
Bồ tát Quán Tự Tại nói đây, ít nhất cũng từ bát địa (trong thập
địa) trở lên. Vì chỉ sau khi trải qua địa vị bất động ở thập địa, bấy giờ
mới được tự tại. Và cũng đến cấp đó mới đương nổi công việc thượng cầu hạ
hóa, nghĩa là trên cầu Phật quả, dưới hóa độ chúng sanh. Quán Tự Tại là tên
riêng của đức Bồ tát này. Quán có nghĩa là xem xét. Trong lúc hành thiền,
hành giả lắng lòng trầm tư mặc tưởng để suy cứu đề tài tham khảo thì gọi là
quán. Quán phối hợp với Chỉ, đó là thiền, chứ không chi khác. Trong Chỉ, đối
tượng bị rị lại một vị trí bất động. Trong Quán, đối tượng di động, chuyển
biến theo quá trình tự nhiên của nó. Chỉ và Quán chỉ khác nhau ở đối tượng
sở quán, không khác nhau về mặt tâm hành năng quán.
Bồ tát Quán Tự Tại, là dịch nghĩa Phạn ngữ Avalokitesvara. Từ này
gồm hai chữ ghép lại: Avalokita có nghĩa là quán, chiếu kiến hay nhìn khắp
mọi phương; và isvara có nghĩa là vị chúa tể, vì có quyền năng hành xử mọi
việc một cách tự do. Vì thế, Avalokitesvara là vị bồ tát dùng pháp quán
chiếu Bát nhã để quan sát đối tượng đương thể tức không, không bị chướng
ngại bởi các yếu tố giả hợp tạo nên các ảo tượng của đương thể, nên gọi là
Bồ tát Quán Tự Tại. Giống như trường hợp một vị Bồ tát chuyên tu hạnh Không
mong khởi tâm khinh mạn bất cứ ai, dù đó là kẻ ngu hèn thấp kém nhất trong
xã hội, đó là Bồ tát Thường Bất Khinh. Theo công hạnh riêng mà đặt tên, đó
là công lệ chung trong Phật giáo Đại thừa.
Do vì công hạnh riêng mà đặt tên, Cho nên, Bồ tát Avalokitesvara
còn có nghĩa là Quán thế âm, Kuan shih yin, theo truyền thống Trung Hoa, là
vị Bồ tát được thờ phụng phổ biến nhất tại phương Đông, với công hạnh quan
sát nghe thấy tất cả những tiếng kêu cứu của chúng sinh trên cõi ta bà này.
Lời tụng "Nam mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn Quán thế âm Bồ tát", tất cả
Phật tử đều khấn vái hằng ngày. Phẩm Phổ môn thuộc kinh Pháp hoa là dành
riêng để xưng tán đức Bồ tát Quán thế âm trong công phu nhật tụng triêu mộ
cho cả hai giới xuất gia và tại gia.
Các ngài Pháp Hiền (du hành những năm 399 - 413) Huyền Tráng (dh
629 - 645) và Nghĩa Tịnh (dh 671 - 695) đều có ghi lại trong các quyển Phật
quốc ký, Đại Đường Tây vực ký và Nam hải ký quy nội pháp truyện nhận xét của
các ngài là Bồ tát Avalokitesvara rất được tôn thờ ở tất cả mọi nơi mà dấu
chân các ngài trải qua, từ Tây Tạng, Nepal, ngay cả Ấn Độ. Bắt đầu khoảng
thế kỷ thứ nhất là đã được dân gian sùng bái, cho đến thế kỷ thứ bảy là
thịnh hành nhất. Bấy giờ Bồ tát Avalokitesvara hiện thân nam, tượng thờ
đứng, một mặt hai tay; hoặc ngồi trên tòa sen một mặt hai tay hoặc sáu tay,
đôi khi từ mười tay đến hai mươi tay. Biểu tượng của ngài là tràng hạt
(màlà) và hoa sen (padma). Mạn trà xưng tán ngài là Om, mani padme, hùm tức
là An, ma ni bác di, hồng. Đến vào khoảng thế kỷ XII trở đi thì Bồ tát
Avalokitesvara được sùng bái với tượng thân nữ và tôn thờ là Bồ tát Quán thế
âm, tại Trung Hoa cũng như tại Việt Nam, trong lúc ấy các nước ở Trung Á thì
không còn ảnh hưởng gì nữa. Từ đây, Bồ tát Quán thế âm còn có các tên khác
như Tống tử Quan âm, Quan âm Diệu Thiện, hay Thiên thủ thiên nhãn Quan thế
âm, Bạch y Quan âm, Tử trúc Quan âm, Quan âm quá hải, đều rất phổ biến trong
dân gian.
Ở Tây Tạng, Bồ tát được gọi là spyan ras gzigs, có nghĩa là vị Bồ
tát có cái nhìn từ bi mẫn độ chúng sanh. Mông Cổ gọi ngài là Nidubarujekei,
vị Bồ tát có đôi mắt quán chiếu, tức là quon sim bodhisattva. Tại Nhật, ngài
là Kwan non (Canon).
Gần đây, các nhà khảo cổ tìm thấy dấu vết sùng bái Bồ tát này tại
Chiêm Thành, tức miền Trung Việt Nam nước ta ngày nay, từ trước thế kỷ thứ
mười. Khi ấy, Bồ tát được gọi là Lokesvara, gồm hai chữ Loka (thế gian) và
isvara, tức nghĩa tương tợ như Quán thế âm. Một tượng đá đức Quán thế âm này
vừa được tìm thấy ở chùa Đại Hựu, có bia ký ca tụng công đức của Bồ tát,
được cho là khắc vào khoảng năm 900 về trước.
Tất cả các truyền thống đều tin rằng sở trú của Bồ tát là đỉnh
núi Potala. Có nhiều địa điểm. Ngài Huyền Tráng ghi rằng đức Quán thế âm
xuất hiện trên đỉnh Potala ở miền Nam Ấn. Tự viện của Đạt Lai Lạt Ma ở Lhasa
cũng được gọi là Potala, vì Mật giáo Tây Tạng tin rằng Bồ tát là chúa tể của
thế giới chúng ta, mà Đạt Lai là hóa thân của người. Quần đảo Châu Sơn,
ngoài khơi Triết Giang, gần Ninh Ba (Ningpo), nơi đức Quán thế âm rất được
sùng bái, còn được gọi là P'u t'o, tức Phổ Đà. Dân gian còn truyền tụng rằng
núi Phổ Đà ở ngoài khơi Nam Hải.
Bồ tát Quán Tự Tại, do vì quán sát rằng "sắc chẳng khác không,
không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc..." tất cả là hai
mà chẳng phải hai, Cho nên, ngài còn là biểu tượng của Bồ tát Bất Nhị Trí
tuệ Bát nhã là công đức mà ngài hành trì, Cho nên, ngài cũng là Bồ tát Bát
Nhã. Và Bồ tát Bát Nhã Ba la mật đa là hiện thân siêu việt, tổng trì mọi
công hạnh kể trên.
Bồ tát Bát Nhã Ba la mật đa
(theo truyền thống Tây Tạng)
Hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời
Khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu xa
Sáu chữ Bát nhã Ba la mật đa đã giảng rõ ở trên. Thâm là sâu xa,
nói rằng Bát nhã Ba la mật đa là sâu xa vi diệu không dễ gì thể nhập mà đòi
hỏi một quá trình hạ thủ công phu hành trì. Hành có nghĩa là hành trì, tức
là tu tập và thực hành. Cần nhắc lại là trí tuệ Bát nhã không do cái học
mang lại mà phải do công phu tu trì mới tựu thành, nên nói là hành. Vì vậy,
do sâu xa vi diệu, Bát nhã Ba la mật đa đòi hỏi phải công phu tu hành mới
tựu thành, chứ không phải một cái gì có thể tự nhiên mà có.
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không
Soi thấy năm uẩn đều không
Soi thấy là diệu dụng của quán chiếu Bát nhã. Nói soi thấy, tức
tự mình trực tiếp thấy rõ, như người uống nước, tự mình biết rõ nước ấy nóng
hay lạnh, ngọt hay mặn, không qua trung gian của khái niệm hay ngữ ngôn văn
tự.
Năm uẩn là năm nhóm họp thành một chúng sanh, tức là một con
người. Chữ uẩn là do ngài Huyền Tráng dịch chữ kiền độ (skandha) tiếng Phạn.
Ngài La Thập trước dịch là ấm với nghĩa là che phủ. Các dịch giả về trước
nữa thì dịch là chúng, từ tập họp nhiều yếu tố lại. Sản phẩm do năm chúng,
tức năm uẩn giả họp lại mà thành thì gọi là chúng sanh. Vì vậy nói cho dễ
hiểu, khi nói đến tập họp của năm uẩn tức chỉ con người; con người là sản
phẩm của năm uẩn. Phật giáo trong các bộ kinh được gọi là nguyên thủy đã
trịnh trọng xác nhận tính chất vô ngã của tập họp năm uẩn này rồi. Riêng
từng uẩn có vô ngã hay không, đó là đối tượng khảo sát của trường phái Bát
nhã. Theo trường phái này, không một uẩn nào trong năm uẩn là có tự thể,
không có tự thể tức là vô ngã. Tập hợp của năm uẩn là vô ngã, tức nhân
không; từng uẩn một trong tập hợp ấy cũng vô ngã, tức pháp không. Cả nhân
lẫn pháp đều không, đó là nội dung trong nghĩa không của Bát nhã.
Trong năm uẩn, sắc uẩn chỉ nhóm vật chất bao gồm bốn đại, tức đất
nước gió lửa, tạo nên xác thân con người. Thọ uẩn chỉ nhóm cảm giác, bao gồm
mọi khía cạnh sinh hoạt tâm lý hạ đẳng nơi con người. Tưởng uẩn, chỉ nhóm
suy tư bao gồm mọi khía cạnh sinh hoạt tâm lý cao cấp. Hành uẩn chỉ nhóm ý
chí bao gồm những sinh hoạt có tính chất bản năng và ý chí. Hành là dấu vết
của nghiệp cũ đang tạo tác và dìu kéo các sinh hoạt hạ đẳng và cao cấp nơi
con người, đấy là loại ý chí mù quáng. Chính vì vậy, nó đóng một vai trò
quyết định trong suốt đời người. Thức uẩn chỉ nhóm tri giác bao gồm mọi kiến
thức trong việc nhận diện sự vật bên trong và bên ngoài con người. Trong số
năm uẩn vừa nêu, sắc uẩn thuộc sắc pháp, bốn uẩn kia thuộc tâm pháp. Sắc tâm
hòa hợp tạo nên con người, mệnh danh là thân năm uẩn.
Trong thân ngũ uẩn ấy, các thần giáo và triết học Ấn Độ cho rằng
có một thần ngã (atman) ngự trị bên trong bất di bất dịch, không chịu sự chi
phối của vô thường. Nhưng Phật giáo vốn xây dựng trên lý duyên khởi, triệt
để đánh ngã cái lý thuyết thần ngã ấy. Giáo lý vô ngã là câu trả lời đanh
thép của thuyết có thần ngã vừa nói. Về sau, khi các trường phái A ty đàm
vốn thuộc Thượng tọa bộ xuất hiện, giáo lý vô ngã tuy càng ngày càng thêm
bền gốc chắc rễ, nhưng lại bị hạn cuộc trong phạm vi của lý thuyết nhân vô
ngã. Đến lúc Đại thừa xuất hiện với giáo nghĩa Bát nhã, thì vô ngã mới bao
trùm lên hết thảy, đó là pháp vô ngã.
Đoạn kinh trên nói tới việc năm uẩn đều không, tức đề cập đến vấn
đế này đây, bởi vì vô ngã cả nhân lẫn pháp chính là nội dung của giáo nghĩa
tánh không Bát nhã. Với giáo nghĩa tánh không, thuyết vô ngã như một trong
hai hệ luận của duyên khởi, đã được triển khai, thuyết minh đến mức tuyệt
đối cùng tột của nó. Thuyết vô ngã này không phải thuần túy là một khái niệm
triết học tinh ròng, mà còn thể hiện một thực tế sống động tựu thành nhờ
pháp trực quán tổng hợp, nghĩa là bằng hành trì mà chứng đắc. Do đó, nên nói
soi thấy năm uẩn đều không.
Độ nhất thiết khổ ách
Vượt qua mọi khổ ách
Khổ ách có ba loại. Khổ ách do chính thân tâm tạo ra gọi là ngũ
uẩn xí thạnh khổ, bao gồm sanh, già, bệnh, chết, mong cầu mà không đạt được,
oán ghét mà phải gặp mặt, thương yêu mà phải chia lìa; đó là loại khổ thứ
nhất. Loại khổ ách thứ hai do thiên nhiên mang lại như tai trời ách nước,
bão lụt, gió mưa ... Ba là khổ ách do xã hội tạo ra như giai cấp xung đột,
chế độ hà khắc, chiến tranh ... Tất cả những loại khổ ách này, nhờ hành trì
Bát nhã ba la mật đa, hành giả có thể vượt qua chúng một cách dễ dàng. Vượt
qua có nghĩa là không còn bị chúng chi phối, nhận chìm.
Tóm lại, đoạn tự phần này nói rằng Bồ tát Quán Tự Tại khi hành
trì Bát nhã ba la mật đa sâu xa thì soi thấy năm uẩn họp thành con người
không một uẩn nào là có tự thể, nhờ đó giác ngộ tánh không và giải thoát tất
cả mọi ách khổ đau. Chỉ trong một đoạn này thôi, tất cả yếu lý căn bản của
Bát nhã đã được trình bày đầy đủ. Các đoạn tiếp theo chỉ để triển khai yếu
lý ấy về cả hai mặt triết học và đạo học.
B. CHÁNH TÔN
Phần này trình bày giáo nghĩa tánh không của Bát nhã, chia làm ba
đoạn:
1. Nguyên lý bất nhị giữa uẩn và không
2. Chứng minh nguyên lý ấy qua luận lý triết học, và
3. Hiện thực nguyên lý bằng hành trì thực tế về mặt đạo học.
I. NGUYÊN LÝ BẤT NHỊ GIỮA UẨN VÀ KHÔNG.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không,
không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là
không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng là như vậy.
Xá Lợi Tử còn gọi là Xá Lợi Phất, dịch nghĩa tiếng Phạn riputra
là người đứng đầu trong hàng đệ tử Phật, được Đức Phật chia cho nửa ghế ngồi
(bán tòa), ngài được Đức Phật gọi mà dạy bảo là điều tất nhiên.
Trong năm uẩn, sắc uẩn là nhóm vật chất, thuộc sắc pháp. Bốn uẩn
còn lại là thuộc tâm pháp. Tâm pháp là hiện tượng tâm lý thường hay thay
đổi, không thể sờ mó, bắt, nhìn, Cho nên, nói là không có thực thể; đó là
điều có thể hiểu. Nhưng sắc pháp là hiện tượng vật chất, tự nó có chất ngại
làm thể, thì sao lại bảo không thực thế được? Vì vậy đoạn kinh này phải lý
giải vấn đề tại sao năm uẩn đều không tự thể.
Trước hết là nói sắc uẩn. Sắc uẩn chính là xác thân con người chớ
không chi khác. Xác thân ấy, nói cho cùng, không ngoài bốn đại là đất nước
gió lửa, giả hợp mà tạo thành. Khi bốn đại giả hợp thì có hiện tượng xác
thân. Khi chúng chia lìa thì không tìm thấy đâu nữa. Rõ ràng xác thân là
không tự thể, không thường còn, không bất biến, Cho nên, nói nó là không.
Không đây chẳng phải là cái không đối lập với cái có, mà là cái đương thể
tức không, tức là khi sự vật hiển dương tồn tại, cái thể của nó đã không
rồi, tức là nó không có tự thể, không có cái ngã riêng của nó, nghĩa là nó
vô ngã. Vì nó đương thể tức không, nên tương quan giữa các sắc uẩn và không
được xác định qua hai khía cạnh: chẳng khác và tức là.
Trong câu "sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc", hai chữ
chẳng khác xác minh rằng sắc và không là hai pháp riêng biệt nhưng mang tính
thống nhất. Còn câu "sắc tức là không, không tức là sắc", thì hai chữ tức là
khẳng định ngược lại sắc và không chung quy cũng chỉ một pháp. Như thế, tính
thống nhất này xác định sự thật tuy hai mà một, tuy một mà hai, vừa nói lên
được tính vô ngã vừa xác định được tính vô thường của nó. Nói cách khác,
tính thống nhất ấy thể hiện được bản chất vô thường biến hành nhưng độc đáo
của mỗi hiện tượng mà ngày xưa các vị Tổ thường gọi là nguyên lý bất nhị.
Bốn uẩn còn lại cũng giống như thế. Nghĩa là thọ chẳng khác
không, không chẳng khác thọ; thọ tức là không, không tức là thọ. Cho đến
thức chẳng khác không, không chẳng khác thức; thức tức là không, không tức
là thức. Như vậy tương quan giữa uẩn và không là một tương quan chẳng khác
và tức là, nghĩa là hoàn toàn xây dựng trên nguyên lý bất nhị. Do đó, không
những cái tập hợp năm uẩn tức con người là vô ngã (nhân không), mà từng uẩn
một trong tập hợp ấy cũng vô ngã (pháp không). Với ngã và pháp đều không,
trường phái Bát nhã của Đại thừa đã triển khai thuyết vô ngã đến mức cùng
tột mà hoàn thành giáo nghĩa tính không. Giáo nghĩa này mở đầu cho nhiều
trào lưu tư tưởng khác tiếp nối và dấy khởi bất tận. Vì thế mà nói rằng Bát
nhã là cái bào thai đẻ ra tất cả các kinh đại thừa.
II. CHỨNG MINH BẰNG LÝ LUẬN TRIẾT HỌC
Xá Lợi Tử thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu
bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Xá Lợi Tử: Tướng không của các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt,
chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Xuất xứ từ nguyên lý bất nhị trên, bản kinh bây giờ trình bày cho
ta cái trình tự làm sao mà đạt được cái nguyên lý bất nhị đó, để thấy rằng
tất cả các pháp đều không. Luận lý áp dụng cho việc trình bày ở đây là bát
bất trung đạo; đấy là luận lý phủ định hay còn gọi là biện chứng phủ định.
Nói cái không ấy chẳng sanh chẳng diệt, tức nói bản thể nó thường tịch. Nói
chẳng sạch chẳng dơ, tức nói tác dụng của nó vô phân biệt. Nói chẳng thêm
chẳng bớt tức nói hiện tượng nó thường tự viên mãn. Ap dụng luận lý phủ định
một cách cô đọng và ít lời đến mức đó để chứng minh cái không ở đây, trường
phái Bát nhã đã khai thác nguyên lý bất nhị một cách tài tình, bởi vì nó chỉ
cần nêu ra cái phủ định, thì ngay trong cái phủ định ấy hiện ra muốn khẳng
định ngay liền. Sanh diệt ở đâu thì cũng chính ở đó là bất sanh diệt; bất
sanh diệt ở ngay trong sanh diệt. Có sai khác là chỉ vì mê ngộ không đồng mà
thôi. Vì vậy, Đại thừa đã quả quyết rằng phiền não tức bồ đề, ta bà tức tịnh
độ. Phủ định phiền não thì bồ đề tự hiện ra. Phủ định ta bà tức tịnh độ xuất
hiện. Bất nhị mà!
Bồ tát Bất Nhị
Theo: Vọng Nguyệt Tín Hanh, tập 5, tr. 4429b.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới
nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử
diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.
Cho nên, trong không không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức,
không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp;
không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh cũng không vô minh
hết; cho đến không già chết cũng không già chết hết; không khổ, tập, diệt,
đạo; không trí cũng không đắc.
Đối tượng con người, theo Phật giáo nguyên thủy phân tích và còn
được ghi chép trong bốn bộ A Hàm (nhất là bộ Trung và bộ Tạp) được chia làm
ba phạm trù:
a. Thành phần họp thành con người (năm uẩn);
b. Các yếu tố đóng vai trò trung gian giữa con người và ngoại
giới (mười hai xứ);
c. Các khu vực hoạt động riêng rẽ trong toàn bộ sinh hoạt chung
của con người (mười tám giới).
Cứu cánh mà con người phải đạt cho được là trí, vì trí có nhạy
bén thì mới có giác ngộ mà chấm dứt đau khổ.
Giáo pháp đối trị được gói ghém trong pháp Tứ Diệu Đế, mà cái hồn
sống động là Duyên khởi, khai triển thành lý mười hai nhân duyên (hay chín
nhân duyên theo buổi nguyên thủy).
Như vậy, các chủ điểm quan trọng mà giáo pháp Phật phải khai thị
gồm có:
a. 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới (trong phần đối tượng giải quyết);
b. 12 nhân duyên, 4 đế (hồn và xác của giáo pháp);
c. Trí (cứu cánh phải chứng đắc).
Tất cả sáu chủ điểm trên, đều được thuyết minh rất đầy đủ trong
Tạp và Trung A Hàm.
Đối trị tất cả sáu chủ điểm trên, trường phái Bát nhã lần lượt áp
dụng luận lý phủ định lên tất cả, để thuyết minh lý vô ngã một cách triệt
để.
Áp dụng luận lý phủ định trong đoạn này, những khẳng định mới
được ghi nhận thêm: 5 uẩn là giả hữu, 12 xứ là giả hữu, 18 giới là giả hữu.
Như vậy, cái ngã trong con người chỉ là một ảo tưởng. Để đối trị cái ngã giả
hữu ấy, giáo pháp Phật dạy cũng chỉ là phương tiện giả lập mà thôi. Cho nên,
nói không 12 nhân duyên và cũng không có sự chấm dứt của 12 nhân duyên. Cũng
như không bốn đế. Giáo pháp giả lập là nhằm đối trị cái ngã giả hữu. Dụng
giả trừ giả. Như vậy thì cái trí mà giáo pháp nhằm thắp sáng lên ở nơi cái
ngã ấy cũng không nốt. Mà trí đã không thì sự chứng đắc cũng không thành,
Không có thành đạo, không có chứng quả. Mà thật đúng như thế. Đứng về mặt
tâm lý mà nói, ai thật sự có đắc một cái gì thì không bao giờ nghĩ rằng mình
đắc. Chỉ tơ tưởng ôm ấp theo đuổi là khi mình chưa có. Khi đã có rồi, thì
lòng bình thản dửng dưng. Hóa ra, không đắc mới thật sự có đắc. Hơn nữa đứng
về mặt lý trí mà xét, cái đắc ấy không khác chi hơn là cái mình sẵn có,
nhưng vì vô minh che lấp, nay nhờ giác ngộ mà bắt gặp trở lại mà thôi.
Bây giờ, lý luận ngược chiều trở lại, ta mới thấy tất cả cái tài
tình của phép luận lý phủ định. Vì không đắc nên không trí. Đã không trí thì
giáo pháp thắp sáng cái gì? Và trí đã không thì 18 giới, 12 xứ và 5 uẩn thảy
đều không.
12 xứ là 12 chỗ tiếp xúc giữa trong và ngoài thân, một đối một.
Mắt đối sắc, tai đối thanh ... cho đến ý đối pháp. Như vậy, ta có 6 xứ bên
trong (6 căn) và sáu xứ bên ngoài (6 trần) tiếp xúc với nhau theo từng cặp
thích đáng để cho ta những cảm thọ. Trong các kinh A Hàm chỉ có sáu xứ thôi
và được gọi là lục xúc nhập xứ. Đây là thuyết đầu tiên triển khai sáu trần
sau làm thành 12 xứ.
18 giới là18 khu vực riêng rẽ, gồm có 6 khu vực như 6 căn, 6 khu
vực như 6 trần và 6 khu vực như 6 thức. Không khu vực nào xen lẫn với khu
vực nào, Cho nên, gọi là giới. Giới có nghĩa là có một giới hạn riêng biệt
với nhau.
12 nhân duyên là12 khâu làm nhân cho nhau và vin vào nhau (duyên)
mà tạo thành dây chuyền sanh tử tiếp nối không bao giờ ngừng. Nói nhân là
nói chiều dọc, tiếp nối dòng thời gian. Nói duyên là nói chiều ngang, vin
vào nhau trong không gian. Vì vậy, lý duyên sanh giàn trải cả hai chiều
không gian và thời gian, và phải hiểu trong tinh thần ấy mới đúng cách. 12
nhân duyên gồm có:
A. Nhân quá khứ: 1 vô minh; 2 hành;
B. Quả hiện tại: 3 thức; 4 danh sắc; 5 lục nhập; 6 xúc; 7 thọ;
C. Nhân hiện tại: 8 ái; 9 thủ; 10 hữu;
D. Quả vị lai: 11 sanh; 12 lão tử.
12 nhân duyên là không, Cho nên, cũng không có sự chấm dứt của 12
nhân duyên. Vì vậy mà nói: không vô minh, cũng không vô minh hết, là thế.
Tứ đế là bốn sự thật căn bản: khổ, tập, diệt, đạo. Khổ bao gồm
tất cả khổ đau về tinh thần và thể xác. Tập là nguyên nhân gây ra khổ đau,
mà đầu mối là tham, sân, si. Diệt là chấm dứt khổ đau, tiêu diệt nguyên nhân
khổ đau. Đạo là con đường, là phương pháp hành trì thực tế đưa đến chấm dứt
khổ đau. Khổ và tập là hai nhân quả thuộc thế gian. Diệt và đạo là nhân quả
xuất thế gian. Cặp nào cũng quả trước nhân sau, vì giáo pháp Phật xây dựng
trên kinh nghiệm thực tế, chứ không phải trên khái niệm triết học.
Bồ tát Bát nhã Ba la mật
Theo: Vọng Nguyệt Tín Hanh, tập 5, tr. 4268a.
III. HIỆN THỰC BẰNG HÀNH TRÌ THỰC TẾ
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô
quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu
cánh niết bàn. Tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu đa la
tam miệu tam bồ đề.
Bởi không sở đắc, Bồ tát nương Bát nhã ba la mật đa nên tâm không
mắc ngại, vì không mắc ngại mà không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt
ráo niết bàn. Chư Phật ba đời nương Bát nhã ba la mật đa nên chứng A nậu đa
la tam miệu tam bồ đề.
Câu bởi không sở đắc, xưa nay các nhà chú giải thường dựa vào nội
dung của bản văn để ngắt vào đoạn sau. Nhưng gần đây có một vài nhà luận
giải cho rằng nó phải thuộc đoạn trước. Điều này gây ra nhiều phân vân. Tra
với nguyên bản, thì lược bản Phạn văn do ngài Huyền Tráng phiên âm có câu:
đa sa mỗi na bát ra tỉ để đạt phạ, tức tương đương Phạn văn: tásmãd
apraptitvena (vì vậy, do vô đắc). Và quảng bản của kinh cũng thế. Theo văn
pháp, câu dĩ vô sở đắc cố phải gắn liền với đoạn sau. Do thế, cách giải
thích xưa nay về câu ấy như một câu "thừa thượng tiếp hạ" không phải là
không có lý do và đã được các bản Phạn văn chứng thực là đúng đắn.
Bồ đề tát đỏa là một phiên âm tiếng Phạn chữ Bodhisattva, ta
thường gọi là Bồ tát. Hành giả tu theo Đại thừa, sở dĩ được gọi là Bồ tát và
xứng hợp với danh xưng này, là bởi kiên trì sáu phép ba la mật, trong đó tối
thắng nhất là phép tu quán chiếu Bát nhã. Nhờ kiên trì thực hành phép quán
này cho tới trình độ vô sở đắc thì tâm không còn gì quái ngại.
Quái là bị nhốt vào lồng, mất hết tự do như chim trong lưới, như
cá trong nơm. Ngại là bị ngăn trở từ khắp mọi phía, trên dưới trong ngoài,
tả hữu, trước sau. Cả hai chữ đều có nghĩa là bị ngăn trở. Đầu mối của sự
ngăn trở này là cái mạn nghi (nghi cái), Cho nên, mắc ngại đây là mắc nghi
ngại. Vì mạn nghi chụp lên đầu, không cựa quậy được, như cá chậu chim lồng,
nên lòng luôn luôn sợ hãi. Mà lòng đã sợ hãi thì vọng niệm dậy khởi liên
miên như trong giấc mơ, lấy giả làm chân, lấy quấy làm phải, điên đảo đảo
điên, không biết đâu là bờ bến. Do đó, trên bước đường tu hành, có ba cái
mốc lớn để kiểm chứng xem công phu hành trì có thực sự kết quả hay không.
Một là đã giải tỏa mạn nghi chưa? Hai là đã được vô úy chưa? Ba là vọng niệm
còn dậy khởi không? Nếu mốc đầu chưa lọt qua, thì chắc chắn đang còn dẫm
chân tại chỗ, chưa nhích được bước nào kể từ khi khởi tu.
Bồ tát nhờ hành trì quán chiếu Bát nhã, soi thấy năm uẩn đều
không, Do đó, không có gì chướng ngại nên được tự tại thoát ngoài vòng nghi
mà bấy lâu giam hãm mình vào trong. Sau khi giải tỏa mạn nghi rồi, mới giải
tỏa được sự sợ hãi, thành tựu vô úy. Đạt được vô úy rồi thì không còn bị chi
phối nữa. Tâm thanh tịnh dần để mà thấy rõ sự thật, vọng niệm tan biến. Cơn
ác mộng đảo điên điên đảo của cuộc sống được giải tỏa. Từ đây không còn gì
vướng bận. Hành giả thong dong tiến thẳng đến Niết Bàn (giải thoát), để rồi
cuối cùng bắt gặp cái mà chư Phật đã chứng ngộ: Bồ đề (giác ngộ).
Trên đây là tiến trình tu hành của Bồ tát qua ba giai đoạn lớn,
đánh dấu bởi ba trụ mốc. Nếu không đạt được một trụ mốc nào trong ba trụ mốc
ấy để kiểm chứng trên thực tế, thì mỗi ngôn từ chỉ là hý lộng ngoa ngôn, dù
cho đó là ngôn từ của văn tự Bát nhã. Đó là chưa kể trường hợp càng sử dụng
ngôn từ bát nhã thiện xảo bao nhiêu thì lại mang tội lừa người dối mình bấy
nhiêu, nếu không đạt được kiểm chứng bằng kết quả hành trì cụ thể.
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề là từ ngữ phiên âm tiếng Phạn
anuttara samyaksambodhi. A nậu đa la (anuttara), có nghĩa là vô thượng
(không gì cao hơn). Tam miệu (samyak) có nghĩa chánh đẳng (bình đẳng chơn
chánh) hay biến (cùng khắp). Tam bồ đề (sambodhi) có nghĩa chánh giác. Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, tức là giác ngộ chơn chánh tuyệt đối, bình
đẳng, không còn giác ngộ nào cao hơn. Còn vô thượng biến chánh giác thì
nghĩa là giác ngộ chơn chánh cùng khắp không còn giác ngộ nào cao hơn. Chánh
đẳng và biến, nghĩa gần tương đồng, vì đã tuyệt đối bình đẳng thì dàn trải
ra cùng khắp mọi địa hạt. Để có một ý niệm rõ ràng về quả vị này, ta thử đem
so sánh với những quả vị mà ngoại đạo và tam thừa đạt được để biết hơn kém
thấp cao. Trừ phàm phu mê lầm, không nói đến, ngoại đạo có giác nhưng không
có chánh. Nhị thừa có chánh giác nhưng không cùng khắp. Bồ tát có chánh giác
cùng khắp nhưng không vô thượng. Chỉ Phật mới có giác ngộ gồm đủ ba khía
cạnh nói trên. Cùng từ ngữ này có chỗ dịch là vô thượng chánh biến tri, vô
thượng chánh đẳng giác, hoặc dịch gọn là vô thượng bồ đề.
Bồ tát trên tiến trình tu hành, nhờ nương vào quán chiếu Bát nhã
mà được tự tại giải thoát (rốt ráo hướng đến Niết bàn) để rồi bắt gặp quả vị
tối cao của chư Phật là quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác. Và chư Phật
sở dĩ thành Phật cũng do một pháp quán ấy mà thôi. Một bên đã thành, một bên
sắp thành. Cả hai cùng do một nhân tu như nhau, cùng một hạnh tu như nhau.
Đến đây là thuyết minh xong giáo nghĩa tánh không của Bát nhã.
C. LƯU THÔNG
Phàm là một văn phẩm tuyệt hảo, bao giờ cũng có đủ ba phần: nhập,
thân và kết. Nếu tự phần là phần nhập trong đó vấn đề đã được đặt ra rõ ràng
chính xác, thì chánh tôn là phần thân, trong đó vấn đề được triển khai và
quảng diễn một cách viên mãn. Đến đây, phần lưu thông là phần kết với hai
nhiệm vụ, vừa gói vừa mở. Gói tức là tóm tắt các ý chính nổi bật nhất của đề
tài vừa thuyết minh. Mở là khai thông đề tài, hướng nó đến một chân trời bát
ngát bao la hơn, gây cho người đọc niềm hy vọng.
Phần lưu thông của kinh này có đủ hai nhiệm vụ vừa nói. Nó có
đoạn một, tóm tắt nội dung bằng cách tán thán công đức to lớn của phép tu
quán chiếu Bát nhã; và đoạn hai, trình bày diệu dụng của thần chú Đà la ni
trong Mật giáo.
I. TÁN THÁN CÔNG ĐỨC CỦA BÁT
NHÃ.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú,
thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt
bất hư.
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là thần chú lớn, là chú minh lớn,
là chú vô thượng, là chú không chi sánh bằng, trừ được tất cả khổ ách, chắc
thật không dối.
Chú là dịch chữ mạn trà (mantra) trong tiếng Phạn. Theo nghĩa
hẹp, mạn trà là những lời cầu đảo, nghĩa rất bí hiểm khi đọc lên, có tác
dụng biến hóa ra các hiện tượng thiên nhiên, cả lành lẫn dữ. Theo nghĩa
rộng, và đích thực của nó, mạn trà là cái gây cho ta suy nghĩ, có công năng
nắm giữ tóm thâu mọi nghĩa lý, làm tiền đề cho việc tham khảo của ta, từ đó,
đẻ ra mọi công đức, mọi diệu dụng. Trong nghĩa này, mạn trà thuộc một trong
bốn thứ đà la ni, tức: pháp đà la ni, nghĩa đà la ni, nhân đà la ni và chú
đà la ni. Chữ chú trong bài kinh này thuộc loại chú đà la ni.
Đại thần chú nghĩa là chú thần lớn, tức có thần lực vĩ đại, có
thể chuyển dời, thay đổi mọi việc. Phép tu quán chiếu Bát nhã khêu sáng trí
tuệ, Do đó, mà sinh tử trở thành Niết bàn, phiền não chuyển thành Bồ đề, nên
nói là đại thần chú. Thần chú trí tuệ ấy chiếu phá vô minh, trừ dứt phiền
não nên nói là đại minh chú, nghĩa là chú cực kỳ sáng chói, tức chú minh
lớn. Cũng nhờ trí tuệ ấy mà chứng được vô thượng Niết bàn nên nói là chú vô
thượng, nghĩa là chú không có gì cao hơn nữa. Lại cũng nhờ trí tuệ ấy mà
chứng được vô thượng bồ đề, nên nói là chú vô đẳng đẳng, nghĩa là chú sánh
với cái không gì sánh kịp.
Vì phép tu quán chiếu Bát nhã có công đức to lớn như thế, so với
công đức của Đà la ni hai bên ngang nhau, vì thế nên đức Phật đã tán thán và
tôn xưng phép tu ấy như là thần chú. Và vì có công đức như thế, Cho nên, trừ
được tất cả thống khổ ách nạn. Cũng vì công đức ấy là công đức quả có trên
hiện thực Cho nên, khẳng định lại một lần nữa rằng nó là chân thật, vì chẳng
phải là dối gạt.
II. DIỆU DỤNG CỦA BÁT NHÃ
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế,
Yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề, Tát bà ha.
Nên nói chú Bát nhã Ba la mật đa. Nên nói chú rằng: Yết đế, Yết
đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề, Tát bà ha.
Phép quán chiếu Bát nhã có công đức sánh ngang với công đức của
chú đà la ni, tức nhiên diệu dụng của phép tu này cũng không thể nghĩ bàn
được, Cho nên, thực hành lời chú. Tức thuyết chú viết, nghĩa đen là liền nói
chú rằng. Nhưng để diễn đạt cái diệu dụng linh ứng không thể nghĩ bàn ấy,
tưởng nên dịch câu ấy là: chú liền ứng rằng thì mới lộ hết ý sâu xa tàng ẩn
trong đoạn này, có hô thì lập tức có ứng. Và có như thế mới gọi là linh, là
huyền diệu.
Chú vốn là mật ngữ (lời bí mật). Đã là bí mật, làm sao cắt nghĩa?
Tuy nhiên, dựa vào sự cấu tạo, có thể suy đoán một cách thô sơ nghĩa của một
số chữ. Chẳng hạn như với câu chú này, nghĩa của nó không đến nỗi khó khăn
lắm.
Yết đế, Tàu dịch nghĩa là độ, chữ Phạn vốn đọc là gate, có nghĩa
đi qua, vượt qua. Yết đế lặp lại hai lần có nghĩa là độ cho mình và độ cho
người. Ba la yết đế, do chữ pragate, có nghĩa là đi qua bờ bên kia. Ba la
tăng yết đế, là do phiên âm chữ prasamgate, nghĩa là đi qua bờ bên kia hoàn
toàn. Bồ đề là giác ngộ. Tát bà ha do phiên âm chữ svha có nghĩa là Ngài
khéo nói. Như vậy, ý nghĩa của toàn bài chú có thể tạm dịch như sau:
Qua đi, qua đi, qua bờ bên kia đi, hoàn toàn qua bờ bên kia đi,
thì có bồ đề. Ngài khéo nói như vậy.
Tạm dịch nghĩa đen của bài chú như trên, nhưng công hiệu của chú
hoàn toàn không phải ở nghĩa hay lý. Vì thế, hiểu nghĩa hay lý đối với chú
không ích lợi gì cả. Điều cốt yếu khi tụng chú, là phải thành tâm. Càng
thành tâm thì càng nhiều linh nghiệm, bởi vì công dụng hàng đầu của việc trì
chú là diệt niệm. Vọng niệm có diệt được thì thân tâm mới khinh an. Do đó,
mới có cảm ứng linh nghiệm bất khả tư nghị. Riêng về chú Bát nhã trên đây,
diệu dụng cứu cánh là đưa ta mau lên bờ giác.
"Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà
ha"
Bồ tát Quán Thế Âm
Theo: Vọng Nguyệt Tín Hanh, tập 1, tr. 802b.
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
VĂN BẢN
DẪN NHẬP
Nguyên bản xưa nhất của Tâm Kinh là bản Phạn văn ghi bằng thủ
pháp Tất Đàn (Siddham) trên lá bối. Hiện nay, ta có một lược bản Tất Đàn
được bảo tồn tại Trường Cốc tự (Hasedera) và một lược bản Tất Đàn khác tại
Pháp Long tự (Hòryùji) của Nhật Bản (Để tiện định danh, bản trước ta gọi là
lược bản Tất Đàn 1 và bản sau ta gọi là lược bản Tất Đàn 2). Truyền thuyết
cho rằng Tổ Bồ đề Đạt Ma mang cả hai bản này đến Trung Hoa, rồi từ đó được
truyền sang Nhật. Nhưng gần đây, các học giả phương Tây kiểm chứng lại, ghi
rằng lược bản Tất Đàn 2, tồn trữ Pháp Long tự từ năm 609 đến nay, là được
phiên dịch từ bản Hán văn của Huyền Tráng chứ không phải nguyên bản Phạn ngữ
như trước đây đã lầm tưởng. Pháp Long tự (Hòryùji) được Thánh Đức thái tử
(Shotoku Taishi), vị quốc vương hộ pháp đầu tiên của Nhật, trị vì những năm
593 - 622, xuống chiếu kiến lập chùa này vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, mục
đích là để tồn bái lược bản Tất Đàn 2 này. Nhưng như thế, thì các học giả đã
phạm phải lỗi lầm về thời gian tính, vì bản dịch của Huyền Tráng là vào năm
649, sau bản Tất Đàn 2 này. Pháp Long tự hiện nay được xem là ngôi chùa gỗ
cổ kính nhất của Nhật Bản.
F. Max Muller là người đầu tiên tập thành và dịch cả hai, lược
bản và quảng bản theo thư pháp Devanagari, ra Anh văn năm 1894, in trong
Sacred Books of the East, tập 49, phần 2, trang 147 - 154. Trước đó đã có
học giả Nanjo Bujiu là người đầu tiên khám phá ra hai bản Tất Đàn nói trên,
nhưng ông chỉ tập thành, mà không phiên dịch ra Anh văn, đăng trong Anecdota
Oxoniensia, t.1, tháng 3 (1884). Ngoài ra, còn có H. L. Feer chỉ tập thành
và chú giải quảng bản, in trong L"Essence de la Science transcendante en
langues, Tibetain, Sanscrit, Mongol (Paris, 1886). Sau đo, Bác sĩ D.T.
Suzuki lại dịch lược bản và đăng trong quyển 3 của Essays in Zen Buddhism.
Nhưng phải đợi đến Edward Conze với những công trình nghiên cứu
công phu về Bát nhã và các kinh điển và triết học thuộc bộ phái này, Tâm
kinh mới được chú ý đến và từ đó có thêm rất nhiều học giả lớp trẻ để tâm
phê giải và trùng dịch theo ý của họ. Edward Conze cũng là người đã tập
thành hai bản kinh này bằng thư pháp Devanagari mới được ông tìm thấy ở Bắc
Ấn. Lại còn có giáo sư H. W. Bailey khám phá được một quảng bản của kinh
bằng tiếng Vu Điền, được cho là bắt đầu xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 8,
và là phiên dịch từ quảng bản Hán Văn, thủ bản Vu Điền này hiện được bảo tồn
trong Fonds Pelliot Collection của Thư viện Quốc gia Pháp. Cùng vào khoảng
thế kỷ này, các bản tiếng Tây Tạng xuất hiện, tất cả có 7 bản. Người dịch
đầu tiên là Vimalamitra nhưng E. Conze có ý kiến rằng là bản dịch lần hai
của Prasastrasena là chính xác nhất. Ngoài ra, Đại Tạng kinh Mông Cổ
(Mongolian Kanjur) cũng có một bản, in trong Bí Mật Kinh, t.12, tr. 44a 45b.
Điều đáng chú ý là kinh này không có trong Kinh tạng Pali. Gần đây, học giả
R. Exell dùng lược bản Phạn văn Devanagari phiên dịch ra Pali, đăng trong
The Wisdom gone beyond, do hội Social Science Association Press của Thái Lan
phát hành, trang 6.
Theo truyền thống Hoa văn thì bản dịch sớm nhất là của Chi Khiêm,
năm 223, nhưng đã thất lạc. Bản dịch sớm nhất hiện tồn là lược bản của ngài
La Thập dịch năm 402 đời nhà Tần. Sau đó hơn hai trăm năm, ngài Huyền Tráng
mới trùng dịch vào năm 649. Bản này được khắc vào bia đồng trước cổng chùa
Bạch Mã nơi Huyền Tráng trụ trì và dịch thuật kinh điển, hiện còn. Ngoài ra,
còn có ngài Nghĩa Tịnh dịch lược bản, đại khái như bản Huyền Tráng, duy phần
chú thì dùng thư pháp Tất Đàn chứ không dịch âm. Cả ba lược bản này tương
đối giống nhau, duy bản Huyền Tráng lưu loát hơn cả, nên rất được phổ biến.
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát Nhã và
Lợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có
tất cả 7 bản, nếu ta kể cả bản của Pháp Thành đời Đường vừa tìm thấy ở Đôn
Hoàng. Chi tiết các văn bản được ghi ở các trang 11 và 13.
Sau đây, tôi sắp xếp các văn bản ra thành hệ thống một cách hợp
lý tương đối như sau:
1. Bản Tất Đàn: lược bản 1 và 2,
2. Bản Devanagari: lược và quảng,
3. Bản Tây Tang: quảng,
4. Bản Tất Đàn phiên âm La Tinh: theo L. Hurvitz và R. Bucknell,
5. Bản Devanagari phiên âm La Tinh: lược và quảng,
6. Bản Tây Tang phiên âm La Tinh: quảng,
7. Bản Vu Điền phiên âm La Tinh: quảng,
8. Bản Pali: lược,
9. Bản Mông Cổ,
10. Bản Mãn Châu,
11. Bản Tất Đàn phiên âm Hoa ngữ: lược và quảng,
12. Lược bản La Thập.
13. Lược bản Huyền Tráng,
14. Quảng bản Bát Nhã và Lợi Ngôn,
15. Quảng bản Pháp Nguyệt (2 bản),
16. Lược bản Nghĩa Tịnh,
17. Quảng bản Trí Tuệ Luân,
18. Quảng bản Pháp Thành,
19. Quảng bản Thi Hộ,
20. Quảng bản Kim Cương.
Bản của Kim Cương thượng sư này, tôi nghi là thất bản Kim Cương
Bất Không, nhưng chưa có chứng cớ cụ thể nên chưa đoan chắc, Do đó, mà liệt
bản này cuối cùng. Bản này cùng bản Pháp Thành và quảng bản Phạn âm của
Huyền Tráng được rút ra từ Trung Hoa Đại Tạng Kinh. Các bản khác từ số 12
đến số 19 được rút ra từ Nhật bản Đại Tạng Kinh, Nihon Daizokyo, tập 20,
tr.1 11. Sở dĩ tôi không dùng Đại Chánh tân tu Đại Tạng Kinh, tức Taisho
shinshu Daizokyo, là vì bộ trên có ghi chú cách đọc theo Nhật ngữ, Cho nên,
tiện lợi cho các học giả biết Nhật văn.
Tiếp theo đó là:
21. Bản chú giải của ngài Minh Châu Hương Hải, bằng tiếng quốc âm
của nước ta. Sau cùng là:
22. Bản Nhật ngữ,
23. Bản Anh ngữ,
24. Bản Pháp ngữ.
Riêng về bản dịch Anh ngữ, hiện nay có rất nhiều bản dịch, mỗi
bản đều có một vài khuyết điểm, hoặc không sát nghĩa, hoặc dài dòng lủng
củng. Do đó, tôi tổng hợp các bản dịch của Suzuki và Garma Chang, bỏ đi đoạn
thừa, thêm vào chỗ thiếu, để tạo thành một bản Anh dịch tạm gọi là đầy đủ và
sát nghĩa nhất làm dịch bản cho bản của ngài Huyền Tráng.
Khi so sánh lược bản Devanagari và bản dịch của ngài Huyền Tráng
(cũng như bản La Thập), ta thấy có một vài khác biệt như sau: Bản Devanagari
không có câu: "Độ nhất thiết khổ ách". Bản Devanagari lại có thêm "Tức không
tức sắc" trước hai câu "sắc bất dị không..."; ngoài ra, còn có câu "diệc vô
vô đắc" sau phần "vô trí (diệc) vô đắc" của Huyền Tráng. Một điều đáng chú ý
là lược bản Tất Đàn lại rất giống với bản của Huyền Tráng, tức có những phần
thừa thiếu như trên, Cho nên, một số học giả gần đây giả thiết rằng lược bản
Tất Đàn này là phiên dịch từ bản của Huyền Tráng ra, chứ không phải là
nguyên bản Phạn ngữ như Max Muller và Nanjo Bujiu đã lầm tưởng.
Tôi rất tiếc là không có bản dịch tiếng Pháp trực tiếp từ Phạn
ngữ, mà phải dùng bản của Herbert vốn dịch lại từ bản dịch của Suzuki. Tam
sao thất bản. Lại cũng không có bản Đức ngữ, mặc dầu có một số học giả người
Đức rất có công nghiên cứu văn học Bát nhã (Trong lần tái bản này, nhờ các
Phật tử tại Tây Đức, chúng tôi có được bản dịch Tâm kinh sang Đức ngữ mà các
Phật tử người Đức thường tụng. Điều đáng tiếc là chúng tôi không rõ dịch giả
của bản này). Mong rằng các thiện tri thức chú ý đến các khuyết điểm này để
bổ túc thêm cho.
Bồ tát Quán Tự Tại
(Theo truyền thống Tây Tạng)
Chemesig (Sanskrit: Avalokiteshvara). In this form, having one
face and four arms, he personifies the Buddha's Great Compassion. All
deities are manifest in his changes. His mantras is OM MANI PADME HUM.
LƯỢC BẢN TẤT ĐÀN 1
(Đọc từ trên xuống, trái qua phải)
BẢN TẤT ĐÀN 2
LƯỢCBẢN DEVANAGARI
QUẢNG BẢN DEVANAGARI
QUẢNG BẢN TÂY TẠNG
(Đọc từ trái sang phải, theo hàng ngang)
LƯỢC BẢN TẤT ĐÀN 1 & 2
Đối chiếu
LƯỢC BẢN TẤT ĐÀN
LƯỢC BẢN DEVANAGARI
BẢN TÂY TẠNG
BẢN VU ĐIỀN
BẢN PÀLI
BẢN MÔNG CỔ
BẢN ÂM TIẾNG MÃN CHÂU DỊCH
ĐỜI KHANG HY, KHOẢNG NĂM 1723
LƯỢC BẢN PHẠN ÂM
QUẢNG BẢN PHẠN ÂM
(Bản Đôn Hoàng)
LƯỢC BẢN LA THẬP
LƯỢC BẢN HUYỀN TRANG
QUẢNG BẢN BÁT NHÃ VÀ LỢI NGÔN
QUẢNG BẢN PHÁP NGUYỆT 1
QUẢNG BẢN PHÁP NGUYỆT 2
LƯỢC BẢN NGHĨA TỊNH
QUẢNG BẢN TRÍ TUỆ LUẬN
QUẢNG BẢN PHÁP THÀNH
(Bản Đôn Hoàng)
QUẢNG BẢN THỊ HỘ
QUẢNG BẢN KIM CƯƠNG
BẢN QUỐC ÂM MINH CHÂU HƯƠNG HẢI
BẢN NHẬT VĂN
BẢN ANH VĂN
BẢN PHÁP VĂN
BẢN ĐỨC VĂN
THƯ TỊCH TÂM KINH
CHÚ THÍCH
BÁT NHÃ: Đến Trường An năm 782. Một trong những vị thầy của Không
Hải, tức Hoằng Pháp đại sư, sáng tổ Chân Ngôn tôn của Nhật.
BẤT KHÔNG KIM CƯƠNG (Amoghavajra, 705 - 774): Đệ tử của Kim Cương
Trí (Vajrabodhi), sáng tổ Chân Ngôn tôn Trung Hoa. Bất Không Kim Cương là đệ
nhị tổ, quốc sư của Đường Huyền Tông (713 - 755), Túc Tông (756 - 762) và
Đại Tông (763 - 779), đưa Chân Ngôn tôn đến mức cực thịnh. Có truyền pháp
cho Không Hải. Tuy bản dịch Tâm kinh của Bất Không đã mất, nhưng trong Đại
Tạng còn ghi một số kinh nói về Bố tát Quán Tự Tại, do Bất Không dịch. Xem
Đại Tạng tập 20, tr.1 ( ĐTK 1030), tr.19 ( ĐTK 1037), tr.32 ( ĐTK 1041),
tr.33 ( ĐTK 1042), tr.203 ( ĐTK 1085), tr.206 ( ĐTK 1086) và tập 21, tr.292
( ĐTK 1264). Được truy tặng Đại Biện Chánh Quảng Trí Tam Tạng.
ĐẠO HÀNH BÁT NHÃ (Astasahasrikaprajna-paramita) được Chi Lâu Ca
Sấm (Lokakshema) dịch lần đầu tiên vào năm 178. Cưu Ma La Thập (Kumarajiva)
dịch lần thứ năm và Huyền Tráng dịch lần thứ bảy. Edward Conze đã dịch kinh
này sang Anh văn.
HUYỀN TRÁNG (600 - 664): nhà du hành danh tiếng nhất trong lịch
sử Phật giáo Trung Hoa.
KHÔNG HẢI (774 - 835), tức Hoằng Pháp đại sư. Đệ tử Huệ Quả (746
- 805), đệ tam tổ Chân Ngôn tôn. Được cả Bất Không là đệ nhị tổ truyền pháp.
Sau này là sáng tổ Chân Ngôn tôn của Nhật. Không Hải có chú giải Tâm kinh,
trong Hoằng Pháp đại sư toàn tập (Kòbò daishi zenshu), tập I tr. 554-562.
Bản dịch Anh văn của Hakeda Yoshio, Secret key to the Heart Sũtra, trong
Major works. Columbia U.P., 1972, tr. 262 275.
NGHĨA TỊNH (635 - 713): nhà du hành nổi danh không kém Huyền
Tráng. Đệ tử Subhakarasimha và Vajrabodhi tức Kim Cương Trí, thầy của Bất
Không.
PHÁP LONG TỰ, Hòrỳuji, trong thành Nara, Nhật. Kiến lập dưới
triều đại Thánh Đức Thái tử, Shòtoku taishi (593 - 622) để làm kỷ niệm công
đức hộ pháp của vị nhiếp chánh vương này, và cũng để tàng trữ lược bản Tâm
kinh vừa được truyền vào Nhật, năm 609.
PHÁP NGUYỆT: Dưới triều Đường Huyền Tông, Phật giáo lại lâm Pháp
nạn. Phần lớn các tăng sĩ phải hoàn tục hoặc lánh nạn các nơi. Chỉ riêng
Pháp Nguyệt là được trở về Ấn Độ, năm 741 và thị tịch tại đó. Đến năm 765
mới được truy tặng là Đại Hoằng Giáo Tam Tang.
PHÁP THÀNH. Không rõ tiểu sử, nhưng chắc chắn là một học giả lớn
của đạo Phật đời Đường, chuyên về Du già. Xem ĐTK 2801 và 2802, tr. 804 947,
tập 51, ĐTK 2090, tr. 996; và ĐTK 2782, tr. 543.
PHÁP TẠNG (643 - 712), đệ tam tổ Hoa Nghiêm tôn. Viết Bát Nhã ba
la mật đa Tâm kinh lược sớ năm (ĐTK 1712). Triết lý Hoa Nghiêm chịu ảnh
hưởng rất lớn nguyên lý Bát Nhã ba la mật đa về Tâm Không (sùnyatà), mà căn
bản là Tâm kinh. Bản sớ giải này được dịch ra Anh văn hai lần: Chang, Garma
The Buddhist teaching of totality the philosophy of Hwa Yen Buddhism. tr.
197 - 206. Cook, Francis, Fa tsang's brief commentary on the Prajnaparamita
hrdaya sutra. In trong Mahàyàna Buddhist meditation, theory & practice, ed.
By Minoru Kiyota. Univ. P. of Hawaii, 1978. tr. 167 206.
TẤT ĐÀN: Thư pháp Tất Đàn (siddha) phát triển từ lối chữ Phạn
(Brahmin style) cổ xưa. Viết từ phải sang trái. Thư pháp được sử dụng ở miền
Bắc Ấn vào đầu thế kỷ thứ nhất, và ở Nam Ấn khoảng thế kỷ IV-V) Từ Bắc Ấn,
thư pháp này biến dạng theo lối gupta (gypta style) và truyền vào Trung Hoa
và Nhật Bản. Lối Nam Ấn được truyền vào Kucha và Khotan. Đến thế kỷ thứ XI,
thư pháp Devanagari mới xuất hiện.
TRƯỜNG CỐC TỰ Hasedera, trên Cao Dã Sơn, thuộc Chân Ngôn tôn,
Nhật.
Về cuộc đời và sự nghiệp của các thiền sư Việt Nam:
CHÂN NGUYÊN THIỀN SƯ
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ
TOÀN NHẬT THIỀN SƯ, xem:
Lê Mạnh Thát, Chân Nguyên thiền sư toàn tập, Vạn Hạnh, 1979 (2
quyển).
Lê Mạnh Thát, Thơ văn thiền sư Minh Châu Hương Hải, sắp xuất bản.
Lê Mạnh Thát, Toàn Nhật thiền sư toàn tập, Vạn Hạnh, 1979 (2
quyển).
TÂM KINH TỪ
ĐIỂN
|