Người Phật tử với tam quy & ngũ giới.
HT. Thích Thiện Bảo
A. Khái Niệm Tổng Quát về Tam Quy & Ngũ Giới : Con người muốn có hạnh phúc xa rời khổ đau trong đời sống của chính mình cho nên đã biết bao nhiêu lao tâm khổ trí xây dựng gia đình, tạo lập sự nghiệp mong rằng nó sẽ giúp một định hướng tương lai cho mình cũng như con cháu sau nầy. Nhưng tất cả chỉ là những mơ uớc còn hướng đi thì không phải lúc nào cũng êm đềm, thoải mái và vinh quang. Chính những hệ lụy trái y nghịch lòng nầy làm cho con người chán nản, thất chí, mất niềm tin vào thân thuộc, bạn bè và ngay cả với chính mình! Ðến với đạo Phật là đến với một niềm tin cơ bản qua Tam quy và một phương pháp giúp con người thoát khỏi khổ đau, hoàn thiện nhân cách bằng ngũ giới ứng dụng trong đời sống xây dựng một "con người thực sự là" người và một gia đình có hạnh phúc, một xã hội công bằng bình đẳng giửa người với người, giửa người với loài vật. Ðây chính là yếu tố chính khi người Phật tử tại gia quy Tam Bảo và thực hành ngũ giới.
I. Người Phật Tử với Tam Quy: Khi con người nhận thức mình phải có một tôn giáo để theo, muốn trở thành người tín đồ Phật giáo việc trước tiên phải quy y Tam Bảo. Ðây là một nghi thức bày tỏ sự chân thành, tha thiết, sự mong cầu khao khát, một sự chuyển đổi của một người sau khi nhận thức rõ rệt tôn giáo mà mình đã chọn. Nếu không quy y thì tuy có lễ Phật, thờ Phật cũng chỉ là người dự thính, không phải là người chính khóa. Việc quy y có tác dụng rất lớn đối với tâm lý tín ngưỡng, kiên định hay không kiên định.
1) Quy y nghĩa là gì ?. Quy là trở về, Y là nương tựa.Trở về nương tựa nơi Phật, Pháp và Tăng gọi là quy y Tam Bảo. Từ lâu chúng ta cứ chạy theo những ham muốn của đời sống thường ngày của con người, không có dịp hướng về tâm mình như người đi đường không định hướng, không có la bàn. Giật mình nhận ra là một sự tỉnh thức có ý nghĩa hết sức quan trọng cho nền tảng của trí tuệ. Chính nhờ nương tựa vào Tam bảo mà ngay trong đời sống hiện tại bản thân được an vui và tương lai có sự giải thoát, không có một pháp nào khác có thể nương theo ngoài Tam bảo. Tại sao người Phật tử phải quy y Tam Bảo? Trong đời sống mọi sự vật đều "Vô thường" không tồn tại lâu dài chỉ có Tam bảo và giới luật của Phật là 4 điều mà người Phật tử có thể nương tựa mà Phật giáo gọi là "Tứ bất hoại tín"(bốn niềm tin không thể hư hoại ) hay còn gọi là tứ cụ túc. a) Vì Phật Bảo là Tuệ cụ túc: Tín ngưỡng Phật giáo mang tính chất thuần túy luân lý không phải là sự sùng bái thần linh mà nó mang tinh thần ban phước, giáng họa mà phải như là một người con thương kính cha mẹ, phát xuất từ lòng biết ơn đối với đấng sanh thành, niềm tin Phật cũng thế. Ðức Phật là người đạt được trí tuệ giải thoát đem sự giải thoát đó truyền dạy cho mọi người cũng đạt được quả vị như Phật nên gọi là Tuệ cụ túc. b) Vì Pháp bảo là Tín cụ túc: Người Phật tử hiểu giáo Pháp của Ðức Phật như là một nhà học giả hiểu chuyên môn của mình một cách rõ rệt tường tận. Hiểu Pháp ở đây có nghĩa là hiểu Pháp Tứ đế: cuộc đời là vô thường khổ não, nguyên nhân có khổ, kết quả diệt hết khổ đau, con đường đi đến diệt khổ. Chúng ta dựa vào niềm tin chân chánh nầy mà ứng dụng Pháp, chế ngự nguyên nhân gây ra khổ đau và những ác pháp làm cho tâm chúng ta không thanh tịnh. c) Vì Tăng bảo là Thí cụ túc: Tăng là một đoàn thể xuất gia tu tập giáo Pháp của Phật ứng dụng vào đời sống thực nghiệm, Tăng là gạch nối giửa Phật và Pháp. Cho nên Chư Tăng có bổn phận trách nhiệm hướng dẫn, giảng dạy cho Phật tử đi đúng con đường chân chánh của Phật, gọi là thí Pháp. Ngược lại người Phật tử có bổn phận ngoại hộ trợ duyên về vật chất gọi là tài thí. Ðây là mối tương quan tương duyên gọi là Thí cụ túc. d) Vì Giới cụ túc: Nếu khi quy y Tam Bảo cũng có nghĩa là thực hành tu tập, bởi vì trong giáo lý Tứ đế, thực hành tám con đường (bát chánh đạo) đưa hành giả đạt các thiện pháp. Nhưng nếu chỉ có thế thì chưa phải là đủ, vì con người sống cõi dục, nếu muốn thực hành xây dựng nhân cách cá nhân, gia đình và đời sống xã hội thì việc trước tiên phải thiết lập các quy định thực hành làm tiêu chuẩn, đó chính là giới luật (năm giới, xem ở phần B về ngũ giới) mà ở đây trong tứ bất hoại tín gọi là Giới cụ túc. Trong Tam Bảo thì Phật Bảo là đứng đầu vì Ðức Phật là người khai sáng ra đạo nhưng điều quan trọng trong Phật giáo là Pháp chứ không phải Phật, vì Phật là người đưa ra phương pháp, chứ không thể nào giúp cho con người thoát khỏi khổ đau mà chỉ có Pháp mới có công năng đưa con người giải thoát, cho nên đức Phật đã dạy: "Này A Nan, không phải tôn kính, sùng bái cúng dường là làm vẻ vang Như Lai . Bất luận Tỳ kheo, Tỳ kheo ni , thiện nam, tín nữ nào thực hành Chánh pháp, sống chân chánh trong Chánh pháp, giữ gìn phẩm hạnh thanh cao, ấy là người tôn kính sùng bái, cúng dường và làm vẽ vang Như Lai. Này A Nan, thế nên phải cố gắng tu tập, thực hành Pháp giữ gìn phẩm hạnh thanh cao ".
2. Sự Quy Y Tam Bảo . Ðạo Phật lấy lý trung đạo (con đường giữa) làm nền tảng cho nên từ nhận định sự vật hiện tượng thế giới và cuộc đời không bị thiên chấp một phía mà rất khách quan, bên cạnh đó Phật giáo lại là một tôn giáo nội quan cho nên quan niệm về Tam Bảo cũng thế. Có hai mặt sự và lý, thực hành sự để thấy được lý và hiểu rõ lý để không chấp vào sự, trong nhà thiền gọi là "lý sự viên dung". Ở đây Tam bảo có vai trò quan trọng đối với người Phật tử, chúng ta cần phải hiểu rõ nếu không sẽ rơi vào biên kiến vì do cố chấp lý quy y Tam bảo còn gọi là quy y Tam bảo bên ngoài. a) Sự quy Y Phật: Chúng ta sanh ra trong thời kỳ sau Phật ra đời cho nên càng phải nổ lực hơn nữa theo con đường Phật đã đi để khỏi lầm lạc, sai đường. b) Sự quy y Pháp: Cương quyết thực hành những lời dạy của Phật ghi trong kinh điển, nhằm chuyển hóa tham lam, sân hận và si mê làm cho Pháp luân lưu trong huyết quản tiêu hoá, biến thành chất liệu sống trong mỗi con người. c) Sự quy y Tăng: Nương nơi Chư Tăng để được hướng dẫn và tu tập. Chúng ta biết rằng khi Phật còn tại thế thì giáo đoàn nương nơi Phật làm trung tâm nơi quy ngưỡng. Sau khi Phật nhập diệt thi Phật giáo lấy Tăng làm trung tâm quy ngưỡng. Quy Y Tam Bảo nhằm mục đích học Pháp bảo, muốn học Pháp bảo thì phải được Tăng bảo hương dẫn, cho nên Tăng bảo thể hiện hai yếu tố là trao truyền tư tưởng và gương mẫu trong đời sống Phạm hạnh của Tăng già.
3. Lý Quy Y Tam Bảo: Lý quy y nầy còn gọi là quy y Tam Bảo của tự tâm vì Tam bảo bên ngoài là đối tượng, Tam bảo tự tâm là bản chất. Nương nơi Tam Bảo bên ngoài để phát triển Tam bảo cuả tự tâm. Hệ thống giáo lý Phật giáo là giáo lý nội quan, việc quay lại chính mình, mới thực là chủ đích của Phật giáo. a) Lý quy y Phật bảo: Mọi người đều sẵn có tánh giác, việc trước tiên người học Phật nương nơi Phật bên ngoài nhận ra được tánh giác của tự tâm đó là phát triển tuệ giác chính mình. b) Lý quy y Pháp: Khi tham học kinh điển của Phật, chúng ta nhận ra nơi mỗi người đều có những đức tánh từ bi, trí tuệ, hoan hỷ... và biết phát triển những đức tánh của Pháp tự tâm, đây chính là quy y Pháp. c) Lý quy y Tăng: Nhìn hình bóng Tăng già giúp chúng ta nhận ra nơi mình cũng có những đức tính hoà hợp, thanh tịnh, giải thoát... và phát triển những đức tánh đó, như thế gọi là quy y Tăng bảo.
II. Những điều kiện & lập trường để trở thành tín đồ.
1. Ðiều kiện & lập trường: Ðiều kiện để trở thành tín đồ dĩ nhiên phải quy y Tam bảo: quy y vị giáo chủ khai sáng là Phật Bảo, quy y giáo pháp của Ngài là Pháp bảo và quy y những vị Tăng tu theo giáo Pháp là Tăng Bảo, đây là ba ngôi báu mà người con Phật phải nương tưạ tu tập giải thoát. a) Tại sao con đường đi đến giải thoát cần phải quy y Tam bảo? Cho dù quan niệm của đạo Phật là hoàn toàn tự nguyện khi chọn Phật giáo làm tín ngưỡng của đời mình, nhưng điều kiện muốn trở thành Phật tử nhất thiết phải quy y Tam bảo. Theo tinh thần Phật giáo "đạo Phật là đạo như thật tri kiến" và chỉ có Ðức Phật mới là người thực chứng và thể nghiệm nó một cách "như thật", cũng thế chỉ có đệ tử Phật là những người thực hành theo Pháp ấy một cách chân chánh, cho nên ngoài Tam bảo ra chúng ta không thấy có một Pháp nào có thể đưa ta đến giải thoát. Những vấn đề được đề cập ở trên cho chúng ta nhận thấy tại sao phải quy y Tam Bảo. b) Nghi thức Quy y: Khi muốn quy y được vị Thầy mình chọn là Bổn sư sẽ hướng dẫn đối trước Ðức Phật sám hối và sau đó phát nguyện. - Con tên là ....... xin suốt đời Quy y Phật, suốt đời quy y Pháp, suốt đời quy y Tăng. Câu nguyện nầy phát xuất từ tâm thức người quy y, không do một động cơ ép buộc hoặc xúi giục nào, cho nên lời nguyện đó sẽ là hạt giống đời đời không bao giờ mất. Buổi lễ quy y sẽ có một ấn tượng quan trọng đối với người Phật tử khi bước chân vào đạo. Có thể nói đạo Phật khơi dậy tinh thần tự giác, tự nguyện không bao giờ chủ trương bắt buộc hoặc thề độc để người đó không dám bỏ đạo, vì điều nầy trái với tinh thần tự nguyện của Phật giáo. Khi nhận chân được giá trị chân thật của đạo Phật rồi phát nguyện quy y, hiểu rõ rồi mới theo đó là tinh thần giác ngộ của đạo Phật. - Con tên là ....... suốt đời Quy y Phật rồi, không quy y thiên thần quỷ vật. Ðến với Ðức Phật là đến với sự giác ngộ, tìm về chân giá trị của đời sống tâm linh, nương nơi Phật bên ngoài để tìm về Phật cuả tự tâm, thế nên không vì lẽ gì người Phật tử lại theo thiên thần quỷ vật, một loài còn sống trong mê mờ, đang chìm đắm trong sanh tử, luân hồi. - Con tên là ...... suốt đời Quy y Pháp rồi, không quy y ngoại đạo tà giáo. Giáo Pháp của Phật là thuốc trị bệnh cho chúng sanh, người Phật tử ứng dụng Pháp để có an lạc thoát khỏi khổ đau trong đời sống, nay chúng ta nghe nói có đạo khác và pháp khác dù hay hơn, linh thiêng hơn, đó là tiền hậu bất nhất như vậy thì làm sao học đạo. Nếu thành quyến thuộc với ngoại đạo thì đời nầy sang đời khác khó ra khỏi luân hồi còn mong gì gặp lại Phật Pháp. - Con tên là ....... suốt đời Quy y Tăng rồi, không quy y thầy tà, bạn ác. Người Phật tử đã phát nguyện: "nguyện bỏ các điều ác, nguyện làm các việc lành..." cho nên không bao giờ chúng ta thân cận với những phần tử xấu ác. Ngạn ngữ Phương tây có câu: "Anh hãy cho biết anh chơi thân với ai, tôi sẽ nói cho anh biết tímh tình anh thế nào" câu nói đó cũng đồng nghĩa với tục ngữ Việt Nam: "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng .
2 . Quy y Tam Bảo có ích lợi gì ?. Khi người Phật tử quy y Tam bảo và trở thành một tín đồ Phật giáo thì có những lợi ích như: a) Không rơi vào địa ngục : Có một hướng đi rõ rệt mà mình đến, chúng ta thong dong bước vào ngôi nhà Phật, Pháp, Tăng, từ đây khỏi sợ rơi vào khổ đau do không nhận được lối đi như kinh Sa Di thập giới nói: "nổi khổ bị thiêu đốt trong ba đường, nổi khổ của con lạc đà, con lừa phải chở nặng, nổi khổ đói khát bị áp bức của loài quỷ đói chưa phải là khổ. Si mê không học không biết hướng đi mới gọi là khổ". b) Không rơi vào ngạ quỷ: Chọn giáo lý Ðạo Phật đễ ứng dụng tu tập thì đời sống tinh thần của sẽ bao dung, rộng lượng lòng từ đối với mọi người hơn và không còn bị những kiến chấp sai lầm làm mê mờ sai sử. Khi đã là người Phật tử thì đời sống tâm linh chúng ta có một nơi nương tựa, không phải lạc lỏng bơ vơ như thuyền không định hướng, vì không có niềm tin trong cuộc sống. c) Không rơi vào súc sanh: Chúng ta có Chư Tăng hướng dẫn trên con đường tu tập nhờ giáo lý soi sáng trong đời sống, có ý thức về những hành động của chính mình, được chư Tăng nhắc nhở qua công phu tu tập, chúng ta không còn bị những khát vọng thấp hèn do không thấy được lẽ thực của sự vật hiện tương ở thế gian.
B. Ứng dụng năm giới vào đời sống. Ðạo Phật ra đời là vì con người hay nói cách khác đối tượng của Ðạo Phật là con người vì thế cho nên mục đích của đạo Phật: - Ðem lại sự hiểu biết về giá trị của con người làm cho con người nhận ra được lẽ thực, không ỷ lại vào tha lực và nhận trách nhiệm về những gì mình làm "con người là chủ nhân ông quyết định về thân phận của chính mình chứ không ai khác". - Hướng dẫn con người cải tạo đời sống bằng những phương pháp, ngăn ngừa dục vọng và làm cho thân tâm thanh tịnh ngõ hầu đem lại một kết quả sống an lạc và hạnh phúc. - Chỉ cho con người thấy giá trị của sự tự do chân thật cho mình và mọi người chung quanh với tâm an lạc, bình đẳng, có đời sống đạo đức trong cộng đồng xã hội. Ở đây nền tảng xây dựng cho người Phật tử trong vấn đề tu tập là ngũ giới, nhằm xây dựng cho con người trong cuộc sống. Nó cũng là giới căn bản được khai triển rộng hơn đối với giới xuất gia sau nầy. Qua đó chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của ngũ giới.
I. Ðịnh Nghĩa. 1. Giới là gì? Giới tiếng Phạn là Sila, Trung hoa dịch âm Thi la, còn gọi la Ba la đề mộc xoa biệt biệt giải thoát, giới luật của đạo Phật nhằm giúp cho con người một phương pháp không tạo nhân xấu, để bớt khổ được vui, lợi mình lợi người. Giới có 6 năng lực: . Chế ngự: Ngăn ngừa 3 nghiệp (thân, khẩu, ý) không cho buông lung. . Thanh lương: Vì ba nghiệp thanh tịnh cho nên không bị thiêu đốt bởi các dục sanh ra, làm cho tâm được mát mẻ nhẹ nhàng. . Nghiệp: Ngăn ngừa những lỗi lầm ý xấu tác động để ác nghiệp đoạn trừ, làm cho thiện nghiệp phát triển. Ðức Phật dạy: "Như lai nói tác ý tức là nghiệp ". . Luật nghi: Những quy định có tính xây dựng đạo đức con người và hoàn thiện nhân cách. . Diệu hạnh: Những hành động xứng đáng được mọi người khen ngợi. . Phòng hộ: Giữ gìn và bảo vệ còn gọi là: "Phòng phi chỉ ác" (ngăn ngừa những điều xấu, chấm dứt những việc ác). Qua đó chúng ta thấy rằng năm giới của Phật dạy nhằm mục đích cho mình, vì hạnh phúc gia đình chớ không phải vì Phật.
II. Năm Giới. Ðức Phật dạy người Phật tử phải tránh những điều dữ và làm các việc lành. Việc làm lành lánh dữ trong Phật giáo thể hiện qua lòng từ bi, để đem lại hạnh phúc cho cá nhân và xã hội dựa trên tinh thần thương yêu và hiểu biết. Người giữ được năm giới thì không bị bị khổ đau. Giới không phải là người trên, cấm kẻ dưới không được làm, nếu làm thì bị trừng phạt, mà giới là điều mình tự nguyện làm, vì các điều ấy phù hợp với đạo lý và khi thực hành chúng ta có được sự an vui về tinh thần và thể chất. 1. Giới thứ nhất: Không được giết hại (không sát sanh). Giết hại con người là yếu tố chính mà Phật cấm người Phật tử không được sát sanh, ngoài ra Ðức Phật khuyên người Phật tử phải biết hạn chế giết hại các sinh vật khác với tình thương yêu hướng đến bảo vệ sự sống của muôn loài. Chúng ta tôn trọng mạng sống của mình thì không lẽ gì chúng ta lại xâm phạm giết hại sinh mạng người khác. Không sát sinh còn bao hàm tự mình ra tay giết (tự sát), xúi giục kẻ khác giết (giáo tha sát), thấy người khác giết chúng ta phải khởi thương xót không nên vui theo (kiến sát tùy hỷ). Người Phật tử phải tìm hiểu chia xẻ những đau thương khó khăn của các dân tộc trong xã hội, các nước lân cận, các sinh vật sống chung quanh. Từ đó chúng ta có cái nhìn về sự sống và môi trường sinh thái, loài vật và con người. 2. Giới thứ hai: Không được trộm cướp. Không trộm cướp có nghĩa là không dùng thủ đoạn chiếm đoạt tài sản của cải người khác. Tài sản của mình, chúng ta không muốn ai xâm chiếm thì đối với người cũng thế, không được chiếm đoạt hay lén lấy của người, làm điều đó tức là chúng ta đi trái lại tinh thần nhân bản của đạo Phật. Với tâm niệm người Phật tử phải đem công sức làm ra của cải vật chất, góp phần phát triển xã hội, thương yêu cuộc đời, tôn trọng sinh mạng và tài sản của mọi người nên không bao giờ trộm cướp, người Phật tử không được chỉ nghĩ về mình mà quên đi nỗi khổ của kẻ khác. Ðây là bức thông điệp về tình thương yêu mọi người mà đức Phật đã gởi cho nhân loại cách đây hơn 25 thế kỷ. 3. Giới thứ ba: Không được tà dâm. Người Phật tử xây dựng đời sống hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng tôn trọng hạnh phúc của người khác. Do đó, khi đã là vợ chồng với nhau người Phật tử không được phá hoại hạnh phúc gia đình người khác. Sự thủy chung là nhân tố góp phần làm cho đời sống tại gia yên vui hòa thuận. Cho nên người Phật tử không vì nhu cầu tình dục mà xâm phạm làm đổ vỡ gia đình người khác. Cổ nhân có dạy: "Những gì mình không muốn, đừng trao cho người". (Kỷ sở bất dục vật thí ư nhân). 4. Giới thứ tư: Không được nói dối. Nói dối là nói không chân thật để mưu cầu lợi cho mình có 4 (cách) gọi là nói dối: - Nói không thật (vọng ngôn): Không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, nghe nói không nghe, không nghe nói nghe, làm nói không làm, không làm nói làm. - Nói thêu dệt (ỷ ngữ): - Nói lưỡi đôi chiều (lưỡng thiệt): Nói đâm thọc hai đầu con gọi là: "đến người nầy nói chuyện người kia, đến người kia chuyện người nầy”. - Nói ác (ác khẩu): Chửi rủa, nhục mạ . Người Phật tử phải chân thật với mọi người từ lời nói đến việc làm, không điêu ngoa xảo trá, không được tâm nghĩ miệng nói trái nhau, gian lận trắng đen làm mất tình người. 5. Giới thứ năm: Không được uống rượu (không dùng những chất độc hại). Người Phật tử không nên uống rượu, hút cần sa, ma túy cùng những thứ độc hại khác làm cho cơ thể suy yếu mất hết sáng suốt. Bởi vì đạo Phật chủ trương giác ngộ, tỉnh thức trong đời sống, uống rượu hay những chất độc có hại, khiến tâm trí chúng ta sẽ bị quay cuồng không tỉnh táo, hạt giống trí tuệ sẽ không phát triển. Ngoài rượu ra, Phật tử không được dùng các thực phẩm có chất kích thích, không xem phim ảnh sách báo đồi trụy mang tính độc hại về tinh thần. Ðể trở thành một Phật tử đầy đủ nhân cách đạo đức, chúng ta phải ý thức tránh xa những loại làm tác hại cho tinh thần và thể chất. Trong năm giới thì bốn giới trên thuộc về tánh giới là những giới cấm người Phật tử cần phải xa lánh vì nó là hành động tạo nhân ác, còn giới thứ năm thuộc về tướng giới là giới mà Phật gọi là vật cám dỗ. Người Phật tử ngày nay phải coi đó là yếu tố làm cho thân bại danh liệt.
III. Lợi ích của năm giới: Phật tử tại gia có thể nhận năm giới hoặc tuỳ theo hoàn cảnh từ một, hai, ba... giới một cách tự nguyện mà không có sự ép buộc nào. Nếu giữ một giới gọi là: nhất phận cư sĩ; giữ hai giới gọi là: thiểu phận cư sĩ; giữ ba giới gọi là: bán phận cư sĩ; giữ bốn giới gọi là: đa phận cư sĩ; giữ năm giới gọi là: mãn phận cư sĩ. Do đó giới luật Phật dạy nhằm mục đích có lợi cho cá nhân mỗi thành viên trong gia đình cũng như ảnh hưởng đến cộng đồng xã hội. 1. Ðối với bản thân: Người biết giữ gìn năm giới Pháp của Phật là con người biết chọn và xây dựng cho mình một nền tảng căn bản về đạo đức trong hiện tại và tương lai. - Nếu người Phật tử không giết hại, thì đời sau cũng không bị người giết, lòng thanh thản nhẹ nhàng không lo âu sợ hãi do thù hận tạo nên. Một trong những điều kiện sống an lành là không có kẻ thù nghịch. - Giữ giới không trộm cướp bản thân ta không bị tù tội, đến đâu làm việc gì cũng được mọi người quý mến tin cậy, không sợ ai theo dõi, không lo âu sợ hải thì cuộc sống mới vui tươi. - Giữ giới không tà dâm mỗi người chúng ta không lo âu sầu muộn khi vợ, chồng không thủy chung, không đứng núi nầy trông núi nọ, chung lo xây dựng gia đình thì đó chính là một gia đình hạnh phúc đầm ấm. - Giữ giới không nói dối là nhằm giúp cho ta rèn luyện đức tính chân thật ở đâu cũng được tín nhiệm, không bị người khác nghi ngờ. Sự thành công trên đường mưu sinh lập nghiệp ai cũng muốn được tín nhiệm, đây là yếu tố thành công trên đường đời. - Giữ giới không uống rượu là giữ gìn phẩm giá của chính bản thân mình và đem lại hạnh phúc cho gia đình, đồng thời rượu là yếu tố theo y học nó là nhân sanh ra các bệnh tim mạch, gan mạch máu không co giản được, dễ bị chứng lưu huyết, thần kinh ở nảo cũng bị ảnh hưởng làm giảm trí nhớ. 2. Ðối với gia đình & xã hội: Nếu con người biết ứng dụng tinh thần năm giới là xây dựng một gia đình hạnh phúc một xã hội công bằng văn minh và bình đẳng. Ðức Phật nhắm vào con người, đem lại cho con người một an lạc, gia đình hạnh phúc, xã hội bình đẳng có tình yêu thương và hiểu biết. Chính năm giới là nhân tố tạo nền tảng của đạo đức, xây dựng cho tế bào xã hội thêm tốt đẹp bất cứ thời đại nào. - Người biết tôn trọng sự sống là người đạo đức, nếu sự sống là quý giá thì xã hội văn minh cần phải bảo vệ sự sống, trái lại chà đạp lên sự sống của mọi loài là dã man tàn ác. - Sinh mạng là quí thì tài sản của con người tạo dựng cũng không phải là vô nghĩa, cho nên người Phật tử phải biết bảo vệ của mình cũng như tôn trọng của người. Không ai chiếm đoạt của ai, đó là một sự công bằng của xã hội. - Tế bào của đời sống con người trong xã hội là gia đình, đó là tổ ấm mà con người vun bồi để có hạnh phúc. Nếu mọi gia đình không yên ổn thì làm sao xã hội an lành, cho nên Phật cấm người Phật tử không được tà dâm vì tôn trọng hạnh phúc của người khác cũng chính là tôn trọng hạnh phúc của chính mình . - Sống trong xã hội loài người cần phải có sự tin tưởng lẫn nhau, thiếu lòng tin xã hội sẽ xáo trộn do những nghi kỵ làm sao xã hội có những con người biết yêu thương gắn bó để chia xẻ và giúp đở cho nhau những vui buồn trong cuộc sống đời thường . - An Ninh trật tự được yên ổn, không gây gổ với nhau làm mất hoà khí trong gia đình, cũng như làng xóm là do rượu chè, và các chất độc hại mà ra. Nên Phật cấm người Phật tử không được dùng các chất độc có hại.
Kết Luận Cuộc đời còn đầy những khổ đau, bất công, thù hận do con người thiếu tình thương yêu và sự hiểu biết, đức Phật muốn đem đến cho loài người một tình thương yêu chân thật và bình đẳng, nhằm giúp cho con người thoát khổ được vui. Xây dựng cá nhân, gia đình và xã hội là mục tiêu mà đức Phật nhắm đến. Chủ yếu là con người vì chính con người là động cơ thực hiện những gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời từ những niềm vui mong muốn mọi người nhờ đó mà được hạnh phúc. Nương tựa Tam Bảo và giữ gìn ngũ giới là nền tảng của người Phật tử tại gia mới bước chân vào đạo, đây là nấc thang đầu tiên nhưng vô cùng quan trọng, xác định một phương hướng và phương pháp tu tập rèn luyện nhân cách trao dồi tình thương yêu và sự hiểu biết, làm cho phẩm hạnh đạo đức của con người càng được nâng cao. Nhân tố con người được Ðức Phật xác lập thì vai trò gia đình, cộng đồng xã hội cũng từ nơi con người mà được xây dựng tốt đẹp, hạnh phúc an vui. Người Phật tử là người áp dụng lời Phật dạy trong đời sống, để có hạnh phúc cho mình và mọi người.
HT. Thích Thiện Bảo
|