Trong Kinh Pháp Cú Phật dạy
:
Trong các pháp, Tâm dẫn đầu, Tâm là chủ, Tâm tạo tác tất cả. Nếu
đem tâm thanh tịnh hoặc ô nhiễm, nói năng hay hành động, thì sự
an lành hoặc thống khổ sẽ theo sau đấy như bánh xe lăn theo chân
con vật kéo xe.
Giáo pháp đức Phật giúp nhân gian tu tập để giải khổ, vậy sự khổ
không phải do bên ngoài, mà do tâm chúng ta mà có. Chế ngự Tâm
là phương thức duy nhất hoàn thiện con người, qua đó mới mong
cải tạo về cá nhân, văn hóa xả hội, làm tốt lối sống tự chủ đến
văn minh hạnh phúc và chung hưởng.
Tự ta làm lành, hướng mọi người cùng làm lành thì mới có thành
quả an lành chung hưởng. Nếu không chế ngự Tâm thì nó hướng dẫn
ta hành động trái lại và sẽ có kết quả thống khổ.
Tranh chăn trâu đạo Phật diễn xuất ý tưởng và phương pháp chế
ngự Tâm. Ví Tâm là trâu, cũng như Nho giáo bảo tâm là vượn. Trâu
gắn bó với đời sống loài người từ lâu. Ai cũng biết hình ảnh
hung hoang của một con trâu chưa được thuần phục. Bản tánh khó
thuần phục của trâu rõ nét, phải dùng dây xỏ mũi mới chế ngụ
được. Tranh thể hiện hai biểu tượng chính là con trâu và người
chăn. Con trâu là chỉ cho tâm chúng sanh, người chăn là chỉ cho
ý chí tu tập. Trâu tâm đen hoang dã ban sơ được điều phục bằng
giáo dục đạo đức thuần hóa trắng dần đến toàn thiện. Con trâu
mộng ở tranh trâu toàn đen biểu thị một năng lực vốn có sẳn của
chúng sanh mà không phải ai cũng nhận thức được. Không tự biết
năng lực vốn có của mình mà tu tập chế ngự, cứ mãi hướng ngoại
lang thang cầu tìm. Cái vốn có của mỗi nhân sinh, Phật giáo luôn
gợi mở, tích cực qua nhiều từ : Chơn-tâm, Phật-tánh, Như-lai
tạng, Bôn-lai diện mục, Thể-tánh tịnh mình, Tri kiến Phật v.v...
Tranh chăn trâu giới thiệu năng lực kỳ diệu và ứng xử nhập cuộc
chuyển hóa thế gian của tâm chứng ngộ giải thoát.
Tranh chăn trâu được phổ truyền qua nhiều
bộ, mỗi bộ có mười bức tranh. Nhiều bức tranh, về hình thức thì
khác, nhưng về tinh thần thì có thể xếp thành hai loại : loại
tranh theo khuynh hướng Đại-thừa và loại tranh theo khuynh hướng
Thiền-Tông. Đại thừa đặt nặng chỉ rõ bản tánh hung hoang mê mờ
của tánh chúng sanh, Thiền-Tông chỉ rõ pháp tu tập chế ngự tâm
chúng sanh.
Để giúp người tu học dễ tiếp nhận và hành trì, soạn giả đưa ra
đồng lúc hai loại tranh, đối chiếo và phân tích qua nội dung của
tập giáo trình Thập-Mục Ngưu-Đồ nầy.
Thượng Tọa Thích Minh
Nhựt
TRANH ĐẠI THỪA
Dịch:
Tựa của Chu Hoằng
Kinh Di Giáo dạy : Ví như chăn trâu cầm roi xem chừng,
không cho nó đi bừa vào lúa mạ. Đây là xuất phát mục chăn trâu.
Ké tiếp Mã Tổ hỏi Thạch Củng : "Ông ở đây làm gì?" Thạch Củng
đáp : "Chăn trâu". Mã Tổ hỏi : "Trâu làm sao chăn?" Thạch Củng
đáp : "Một phen ùa vào đồng cỏ nắm mũi lôi trở lại". Mã Tổ bảo :
"Ông giỏi chăn trâu".
Lại, Thiền sư An ở núi Đại Qui nói : "Tôi ở Qui Sơn không học
thiền Qui Sơn, chỉ chăn giữ một con trâu".
Lại, Thiền sư Đoan ở Bạch Vân hỏi Quách Công Phụ : "Trâu thuần
chưa?".
Hoặc tự chăn hoặc dạy người chăn, thấy khá nhiều, từ xưa đến nay
càng bày rõ ràng. Sau mới có người vẽ thành tranh. Ban đầu từ
chưa chăn, rốt sau cả hai đều mất, phân chia thành mười mục. Con
trâu hẳn theo thứ lớp, ban đầu đen từ từ trắng, rốt sau không
còn cái trắng nào sánh bằng.
Phổ Minh lại ở mỗi mục làm một bài tụng, Phổ Minh chưa biết rõ
người ở đâu? Tranh va tụng cũng chưa rõ do tay một người chăng?
Nay miễn bàn. Chỉ là tranh ấy hình ảnh hiển bày mà ý thú rất sâu
sắc. Bài tụng thì lời gần mà ý chỉ thì rất xa. Người học giữ bên
mình làm bản đồ để xem xét đức nghiệp của mình. Cúi xuống, xét
chổ mình đã tiến, ngước lên mong chổ mình chưa đến, mới mong
tránh khỏi cái lỗi được ít cho là đủ, mà phải rơi vào tăng
thượng mạn. Như thế sẽ giúp ích rất nhiều. Tôi bèn sao lục cho
khắc lại bản gổ. Ngoài ra còn tìm trâu cho đến vào chợ, cũng gồm
mười bức cùng với những bức tranh này đại đồng tiểu dị. Lại đến
trong giáo lý phân biệt tiến tu theo thứ lớp có thể so sáng mà
biết. Tôi đều in phụ vào sau sách để tiện tham khảo. Nếu là
người một phen vượt lên là vào thẳng thì không nhọc roi vọt mà
trâu trắng nằm sẳn sờ sờ trên dất, chẳng rơi vào gia cấp, chỉ
trong một sát na năng sở đều mất. Thế là tranh hóa thành đồ bỏ,
tụng thành lời thừa vậy.
TRANH THIỀN TÔNG
Dịch:
Tựa của Quách
Am.
Chơn nguyên chư Phật chúng sanh cùng sẳn có, nhơn mê nên trầm
luân tam giới, nhơn ngộ chóng thoát sanh tử. Do đó, có chư Phật
có thể thành, chúng sanh có thể tạo.
Thế nên các bậc tiền hiền thương xót rộng nói các đường. Lý có
thiên viên, giáo chia đốn tiệm. Từ thô đến tế, từ cạn đến sâu,
rốt sau chỉ trong chớp mắt, Ngài Ca Diếp thấy hoa sen miệng cười
chúm chím. Từ đây chánh pháp nhãn tạng được lưu thông trên trời,
cõi người, nơi này, chốn khác. Người đạt được lý thì siêu tông
vượt cách như đường chim không để dấu vết. Người nhận nơi sự thì
kẹt câu lầm lời như rùa linh lê đuôi.
Khoảng này có Thiền Sư Thanh Cư xem căn khí chúng sanh hợp bệnh
cho thuốc, làm bản đồ chăn trâu theo cơ nói giáo. Ban đầu dần
dần trắng nói lên sức mạnh chưa đủ. Kế đến thuần chơn tiêu biểu
căn cơ từ từ soi sáng. Sau rốt người trâu chẳng thấy, tượng
trưng tâm pháp cả hai đều hết, lý ấy đã tột cội nguồn, pháp kia
vẫn còn che đậy, khiến kẻ căn cơ bậc trung hạ nghi ngờ phân vân,
rơi vào cõi hư vô hoặc kẹt vào thường kiến.
Nay Thiền sư Tắc Công nghĩ đến mô phạm của bậc tiền hiền, phát
xuất từ đáy lòng mình làm những bài tụng hay, khiến ánh sáng xen
nhau ban đầu từ chỗ mất trâu, rốt đến hoàn nguyên, khéo ứng hợp
quần cơ như cứu người đói khát.
Rồi Từ Viễn nương đây sưu tầm diệu nghĩa lượm lặt chỗ huyền vi
như con thủy mẫu muốn đi ăn phải nương con tôm làm mắt dẫn
đường, ban đầu từ tìm trâu, đến rốt sau buông thỏng tay vào chợ.
Đó là gắng làm dậy sóng ngang sanh đầu sừng, còn không tâm có
thể tìm nào có trâu có thể kiếm, đến buông tay vao chợ ma muội
làm sao?
Huống là ông cha chẳng rõ, họa đến cháu con, chẳng ngại hoang
đường thử làm đề xướng.
|