Đạt Ma Tổ Sư Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma (Tiếng Phạn: Bodhidharma, Nhật:
Bodai Daruma) sanh tại Kanchi, Nam Ấn Ðộ con vua Hương Chí (Simhavarman
?). Ngài là đệ tử của tổ Bát Nhã Ða La (Phạn: Prajnatara) và được sư phụ
dặn dò sau này sang Trung Hoa truyền pháp. Ngài rời Ấn Ðộ bằng thuyền và
sau gần ba năm mới tới Quảng Châu khoảng năm 520. Vua Lương Võ Ðế có mời
ngài tới gặp, sau câu chuyện trao đổi, tuy thấy nhà vua là người có lòng
với đạo Phật nhưng ngài thấy không hợp căn cơ nên rời tới chùa Thiếu Lâm
ở Trung Sơn. Ngài dừng nơi đó, suốt 9 năm ngồi xây mặt vào tường nên
được gọi là "Bích quán Bà la môn" (thầy Bà la môn ngồi nhìn tường). Sau
đó có vị tăng Thần Quang (487-593) được ngài thâu nhận làm đệ tử truyền
pháp. Ngài Thần Quang được đổi tên là Huệ Khả và trở nên vị tổ thứ hai
tại Trung Hoa. Ở Trung Hoa được chín năm, tổ Bồ Ðề Ðạt Ma trao áo ca sa
và bát báu cùng bốn quyển của bộ kinh Lăng Già cho tổ Huệ Khả. Sau đó Tổ
viên tịch vào năm 529, (có tài liệu ghi là năm 532), nhục thân của ngài
được nhập tháp tại chùa Ðịnh Lâm, núi Hùng Nhĩ, Trung Hoa. (trích: Tổ
Thiền tông) Có tài liệu ghi Tổ sống lâu trên 150 tuổi. (trích: Zen
Buddhism, tr. 66). (Trích Thư Viện Hoa Sen) |
Sáu
cửa vào động Thiếu Thất Sáu cửa vào động, tức là sáu pháp môn tu hành để
đạt được đạo quả. Sáu pháp môn đó là: (1) Tâm kinh tụng, (2) Phá tướng
luận, (3) Nhị chủng nhập, (4) An tâm pháp, (5) Ngộ tánh luận và (6)
Huyết mạch luận. Muốn vào được động Thiếu Thất thì có thể vào bằng cửa
nào cũng được, không nhất thiết phải qua cả sáu cửa. Tu theo bất cứ một
pháp môn nào cũng đạt Ðạo, không nhất thiết phải tu cả sáu pháp môn.
(1) Tâm kinh tụng. Tổ nhắc lại từng câu trong Bát Nhã Tâm Kinh, sau
mỗi câu đều có những câu giảng. Ðại ý cũng là phát triển về tâm của tông
Bát Nhã. Tổ chỉ rõ tướng "không" của muôn pháp để chúng ta hiểu được cái
thể "Như lai không tướng", vốn thanh tịnh, chẳng phải có/không, chẳng
sạch/nhơ, chẳng tăng/giảm, một khi giác được điều đó thì "chợt rõ bỏ ý
tu, thênh thang vượt pháp giới, tự tại hết lo âu". Tổ còn căn dặn "chấp
có đâu thực có, theo không lại lạc không", vì Tổ biết rõ chúng ta thường
chấp chặt vào hoặc "có" hoặc "không".
(2) Phá tướng luận. Phần này gồm những câu hỏi và đáp. "Hỏi: Nếu có người chí cầu Phật đạo thì phải tu
pháp gì thật là tỉnh yếu (đơn giản và thiết yếu). Ðáp: Chỉ 'quán tâm'. Ðó là một pháp tổng nhiếp
hết các pháp cho nên rất là tỉnh yếu. Hỏi: Sao nói một pháp hay nhiếp tất cả các pháp ? Ðáp: Tâm là cội nguồn của muôn pháp. Tất cả các
pháp chỉ do tâm mà sinh ra." Người hỏi vẫn thắc mắc là tại sao chỉ 'quán tâm'
là đủ, nên sau đó nêu ra những câu hỏi như: "Sáu đường, ba cõi rộng lớn
bao la, nếu chỉ quán tâm thì sao thoát được những khổ đau không cùng
tận?" - "Như lời Phật dạy: 'Ta đã trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp, chịu
vô số khổ nhọc mới thành được Phật đạo', sao nay nói chỉ quán tâm thì
chế được ba độc là giải thoát?" - "Các đại Bồ tát nhờ giữ ba giới tu
tịnh, thực hành lục độ, mới thành Phật đạo. Sao nay nói người học chỉ
cần quán tâm, chẳng tu giới hạnh thì thành Phật thế nào được? " - "Như
lời kinh nói, 'dốc lòng niệm Phật chắc được vãng sanh qua cõi Tịnh độ
Phương tây, chỉ cần theo một cửa ấy tức được thành Phật', sao còn nói
quán tâm để cầu giải thoát là gì? ". Ðó cũng là những thắc mắc mà những
người không hiểu Thiền tông thường đặt ra vì thấy pháp tu này khác với
những pháp tu của các tông khác trong đạo Phật.
Mỗi
câu hỏi đều được Tổ giải đáp rõ ràng nên cũng giúp cho những người tu
Thiền hiểu hơn. Tổ nói rõ , nếu muốn đạt tới cứu cánh thì phải thấy được
tâm là Phật, và muốn thấy được tâm thì cần phải bỏ những chấp về tướng.
Tất cả những câu hỏi trên cho thấy đều vì chấp tướng, hướng ngoại, quên
tâm nên không thể thấy được tâm. Tổ không nói những pháp tu theo chấp
tướng là sai, nhưng Tổ thấy rõ những pháp tu đó chỉ là phương tiện thôi.
(3) Nhị chủng nhập. Phần này chỉ pháp tu hành một cách cụ thể: "Phàm vào đạo có nhiều đường, nhưng nói cho cùng
thì không ngoài hai đường là: lý nhập hay hạnh nhập." "Lý nhập là mượn 'giáo' để ngộ 'tông', tin sâu
rằng tất cả sinh linh đều chung đồng một chân tánh, chỉ vì khách trần
bên ngoài và vọng tưởng bên trong che lấp nên chân tánh không hiển lộ
được." "Hạnh nhập là nói về bốn hạnh, ngoài ra các hạnh
khác đều bao gồm trong ấy. Bốn hạnh là: (a) báo oán hạnh, (b) tùy duyên
hạnh, (c) vô sở cầu hạnh và (d) xứng pháp hạnh". Báo oán hạnh là khi gặp
cảnh khổ thì hiểu là vì trước có gây ra nghiệp dữ nên nay nhẫn nhục
chịu. Tùy duyên hạnh là hiểu nay được quả báo tốt cũng là do nhân lành
thủa trước, mọi khổ vui đều do nhân duyên sanh, nhưng tâm người không vì
vậy mà được thêm hoặc bớt mất gì. Vô sở cầu hạnh là hiểu muôn vật đều là
không, nên không cầu mong gì mới thực là đạo hạnh. Xứng pháp hạnh là bậc
trí tin hiểu "pháp" chính là cái lý thanh tịnh của tự tánh, tức cái thể
tánh thanh tịnh của mình, nên vẫn tùy xứng theo pháp mà hành nhưng không
có chấp.
(4) An tâm pháp.
Sau
đây là vài đoạn trích: "Khi mê, người đuổi theo pháp. Lúc tỉnh, pháp
đuổi theo người." "Tự trên 'sự' vươn lên mà tỏ suốt, đó là hàng khí
lực mạnh. Theo chữ nghĩa mà thông rõ , đó là người khí lực kém." "Hỏi: Các pháp đã là không thì dựa vào gì mà tu
đạo? - Ðáp: Nếu có dựa vào gì thì cần tu đạo. Nếu không có gì để dựa,
tức chẳng cần tu đạo." "Chẳng thấy gì hết, gọi là thấy đạo. Chẳng làm gì
hết, gọi là hành đạo."
5)
Ngộ tánh luận. Phần này chỉ về điểm quan trọng trong khi tu hành
là phân biệt được giữa mê và ngộ, và tu hành sao để ngộ. Cũng nên lưu ý
là có ý kiến cho rằng phần này nói về làm sao ngộ được bản tánh của
chính mình. "Phàm đem tâm cầu pháp, ấy là mê. Chẳng đem tâm
cầu pháp, ấy là ngộ." "Khi mê thì có bờ bên này, khi ngộ thì không bờ
bên này. Tại sao vậy? Vì kẻ phàm phu mỗi mỗi đều có xu
hướng trụ ở bên này. Vì giác được phép tối thượng thừa thì tâm chẳng trụ
bên này cũng chẳng trụ bên kia, nên lìa được cả hai bờ bên này và bên
kia vậy." "Phàm mê là mê ở ngộ. Còn ngộ là ngộ nơi mê.
Không có mê ngộ mới gọi là chánh giác, chánh kiến." "Khi mê thì sáu thức, năm ấm đều là pháp phiền
não, sanh tử. Khi ngộ thì sáu thức, năm ấm đều là pháp niết bàn, không
sanh tử." "Khi mê thì có Phật, có pháp. Khi ngộ rồi thì
không Phật, không pháp. Tại sao vậy? Vì ngộ tức là Phật pháp."
(6)
Huyết mạch luận. Phần này chỉ rõ nếu không thấy tánh thì việc tu
hành sẽ không thể đưa đến chỗ đạt đạo được. "Nếu muốn tìm Phật hãy cần thấy tánh. Tánh tức là
Phật. Nếu chẳng thấy tánh thì chay lạt, giữ giới đều vô ích cả." " Nếu không thấy tánh thì dầu giỏi nói mười hai
bộ kinh, vẫn là ma nói." "Chúng sanh điên đảo không biết tự tâm là Phật,
cứ hướng ngoài mà gìn giữ, cầu cạnh, suốt ngày lăng xăng niệm Phật, lạy
Phật." (Trích: "Sáu cửa vào động Thiếu Thất") (Thư Viện
Hoa Sen)
Câu chuyện Tổ gặp vua Lương Võ Ðế ngay khi mới
tới Trung Hoa đã điển hình chứng tỏ sự khác biệt giữa Thiền tông và cách
tu hành thời đó:
"Vua
Võ Ðế hỏi: 'Trẫm từ lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ Tăng
Ni không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì chăng?' -Ngài đáp: 'Ðều
không có công đức', -'Tại sao không có công đức?', -'Bởi vì những việc
ấy là nhân hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người, cõi trời, như bóng
theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.', -'Thế nào là công đức chân
thật?', - 'Trí thanh tịnh tròn mầu, thể tự không-lặng, công đức như thế
chẳng thể do thế gian mà cầu.' (Trích: Tổ Thiền Tông) |
Next » |