Một hôm trên pháp tòa, đức Phật thuyết giảng về lý nhân quả luân
hồi, Ngài nói:
Ngày
xưa có một vị vua rất mực đạo đức, công bằng, bốn phương thiên
hạ đều ngưỡng mộ. Nhà vua đóng đô tại thành Ba-La-Nại. Trên sáu
mươi nước chư hầu quy phục. Cung thành có trên năm trăm thớt voi
thiện chiến, và trên hai chục ngàn cung phi mỹ nữ trẻ đẹp.
Tuy uy
danh vang lừng bốn phương, nhưng nỗi buồn thầm kín của nhà vua
là không có thái tử để kế tự. Nên việc nối dõi tông đường lúc
nào cũng làm cho nhà vua suy tư lo nghĩ. Nhà vua thường phát tâm
bố thí bần dân, khuyên trăm họ ăn ở hiền lành. Hằng ngày, ngoài
việc triều chính ra, nhà vua ngày đêm ăn chay nằm đất khấn Phật
cầu trời cho được một hoàng nam để nối nghiệp đế vương, để cho
dòng tôn thất của nhà vua khỏi bị vô nhân kế tự. Suốt mười hai
năm trầm tư khấn cầu như thế, hoàng hậu và thứ hậu mới cùng lúc
thọ thai sanh ra hai hoàng tử. Ðặc biệt hoàng tử của chánh hậu
thì tướng mạo khôi ngô anh tuấn, có đức tướng trượng phu.
Sau khi
hai hoàng tử chào đời, nhà vua vui mừng trút hết bao nỗi ưu sầu
trong suốt mười mấy năm lo âu. Nhà vua hội họp quần thần, và cho
mời thầy tướng số giỏi nhất trong nước đến để xem tướng cho thái
tử.
Vừa
thấy con của chánh hậu, các thầy tướng nhìn kỹ một hồi rồi nói:
"Tâu Bệ-hạ, khi thọ thai thái tử và khi thái tử sanh ra có điều
chi lạ không?"
Vua
phán: "Từ ngày thọ thai thái tử thì đặc biệt tánh tình hoàng hậu
trở nên hiều lành đôn hậu, khoan dung đại độ, lúc nào cũng lộ vẻ
tươi cười dịu dàng, lại hay làm việc bố thí giúp đỡ người khác".
Các
thầy tướng thưa rằng: "Ðấy là nhờ thiện nghiệp của thái tử mà
cảm hóa tánh tình của hoàng hậu. Vậy theo chúng tôi, xin tâu
Thánh-thượng, tên thích hợp nhật đặt cho thái tử là Thiện-Hữu".
Các
thầy tướng lại xoay sang nhìn kỹ con của thứ hậu một hồi lâu rồi
cũng hỏi giống như trước, được quan Thái-giám trả lời rằng: "Từ
khi thứ hậu thọ thai cho đến khi sanh hoàng nam đến nay, tánh
tình của thứ hậu bỗng trở nên kiêu căng ngạo nghễ, tham ác ích
kỷ, ăn nói cộc cằn, ưa chấp trách oán giận người khác, thật khác
hẳn ngày trước".
Các
thầy tướng thưa rằng: "Ấy là do nghiệp ác của hoàng nam ảnh
hưởng đến tánh tình của thứ hậu".
Nhà vua
hỏi: "Vậy theo các khanh thì nên đặt tên gì cho hoàng tử?"
Các
thầy tướng số bấm tay suy tư ngập ngừng một hồi rồi tâu vua
rằng: "Tâu Bệ-hạ, theo sở kiến của các hạ thần chúng tôi thì nên
đặt tên cho hoàng tử là Ác-Hữu".
Thời
gian thấm thoát trôi qua, hai hoàng tử lớn khôn theo năm tháng.
Hoàng tử Thiện-Hữu càng lớn, tướng mạo càng lộ vẻ khôi ngô anh
tuấn của bậc trượng phu, tánh tình càng đôn hậu thông minh bình
dị, lại hay tha thứ thương giúp người. Vì thế, nên vua và hoàng
hậu rất mực vui mừng thương mến. Triều đình các quan và hoàng
thân quốc thích đều kính yêu. Trái lại, hoàng tử Ác-Hữu thì
nghịch ác, đố kỵ tìm cách chống báng phá hại, ăn nói cộc cằn,
tánh tình nóng nảy, lại hay nói xấu hoàng tử Thiện-Hữu.
Một hôm
hoàng tử Thiện-Hữu xin vua cha ra cung thành dạo chơi, thấy trâu
kéo cầy dưới làn roi đánh, người cấy mạ chân tay lấm bùn sình,
mình mẩy mồ hôi nhễ nhại dưới ánh nắng. Ðó đây trên dãy đồng
trùng dế bị lưỡi cầy cắt đứt chúng dẫy dụa trên mặt đất. Chim
tranh nhau chụp mổ cắn nuốt. Ðây là kẻ giết heo bò, để lấy thịt.
Kia là người quay tơ dệt vải không hở tay. Nọ là kẻ ăn xin tật
nguyền đói rách. Cảnh tượng người vật vất vả chân lấm tay bùn,
mồ hôi cực nhọc. Cảnh khôn hiếp dại, mạnh hiếp yếu hiển bày
trước mắt. Thiện-Hữu lấy làm lạ và khởi tâm thắc mắc. Bởi vì từ
ngày sanh ra đến nay, thái tử Thiện-Hữu sống trong bốn bức tường
của hoàng thành vây kín, ngày ngày chỉ thấy hoa thơm cỏ lạ, nhạc
múa đờn ca của các cung phi mỹ nữ trong cung thành, chứ chưa có
một lần nào thấy được thực trạng cuộc sống của người dân. Nên
thái tử hỏi quan hầu: "Tại sao người ta sống trong cảnh tượng
khổ sở như thế?"
Quan
hầu thưa: "Tâu thái tử! Người sống nhờ ăn uống. Muốn có thức ăn
uống thì phải dãi nắng dầm mưa, cầy sâu cuốc bẫm để trồng trọt,
giết thú vật để lấy thịt; muốn ấm thì phải quay tơ dệt vải để
may áo quần. Dân mạnh nước giàu là nhờ những bàn tay cần cù khổ
cực đó. Cung thành vững chắc, ngôi vua trường tồn, thái tử sống
trên ngôi vị tôn quý an vui, đều nhờ những người dân cần cù lam
lũ nầy, họ ngày ngày vất vả cực nhọc để xây đắp nguồn sống cho
quốc gia hoàng triều".
Thái tử
suy tư hồi lâu rồi thở dài: "Sự sống sống trên sự chết! Sự vui
vui trên sự khổ! Mạnh được yếu thua, khôn hiếp dại. Cuộc sống
được xây đắp trên sự tàn hại lẫn nhau! Ôi! Sao kiếp sống nhân
sanh chất chồng bất công và tàn nhẫn thế này!"
Không
còn vui thú để tiếp tục du ngoạn nữa. Thiện-Hữu hiện nỗi ưu tư
trên nét mặt, liền hỏi nguyên nhân. Thiện-Hữu thuật cho vua cha
cảnh tượng tai nghe mắt thấy trong chuyến du ngoạn ngoài thành,
khiến cho Thiện-Hữu u buồn. Vua cha khuyên Thiện-Hữu: "Ðó là lẽ
thường tình của thế nhân thời nào mà chẳng có? Sao con lại ưu tư
lo phiền làm chi?"
Thiện-Hữu thưa: "Tâu Phụ-vương! Con muốn xin Phụ-vương một điều,
chẳng biết Phụ-vương có hứa khả không?"
Nhà vua
vì quá thương con, nên chẳng cần suy nghĩ do dự, liền đáp: "Con
là đứa con ngoan của cha! Cha thương yêu con nhất đời, không
điều gì con xin mà cha từ chối, miễn là con được vui".
Thiện-Hữu thưa: "Tâu Phụ-vương! Con muốn đem của cải vàng bạc
trong kho ra bố thí cho dân chúng, để họ đỡ bớt nỗi cực khổ, hy
vọng có được đời sống sung túc".
Nhà vua
đáp: "Không trở ngại. Cha đồng ý cho con được mãn nguyện".
Ðược
Phụ-vương cho phép, Thiện-Hữu vui mừng khôn xiết, liền lạy tạ
vua cha, đồng thời ra lệnh cho quan hầu mở cửa kho đem lương
thực, của báu ra ngoài bốn cửa thành bố thí. Hay tin thái tử bố
thí, dân chúng gần xa khắp bốn phương nô nức lũ lượt hướng về
hoàng cung để nhận vật bố thí của Thiện-Hữu. Việc bố thí chẳng
bao lấu đã hết một phần ba số kho lương thực của báu trong hoàng
triều. Các quan giữ kho thấy vậy lo âu, nên vào tâu vua: "Muôn
tâu Thánh-thượng, thái tử đã bố thí hết một phần ba trong số các
kho lương thực của triều đình rồi, cúi mong Thánh-thượng mau mau
xét lại".
Nhà vua
phán rằng: "Trẫm đã hứa cho thái tử tự tiện bố thí tùy ý mình.
Vậy phải làm sao bây giờ?"
Thiện-Hữu chẳng hay biết việc gì xảy ra, với lòng phấn khởi, cứ
vẫn tiếp tục tuôn của kho ra bố thí. Quan giữ kho thấy lương
thực gần hết, chỉ còn một phần ba số kho lương thực mà thôi, nên
lo lắng nóng ruột vào tâu vua. Nhà vua lại cũng trả lời như
trước. Thiện-Hữu chẳng để ý gì, vẫn tiếp tục bố thí. Ðến khi các
quan giữ kho thấy lương thực của báu trong các kho của triều
đình gần hết sạch, mới lo sợ nghĩ rằng: Triều đình vững chắc ,
quốc gia xã tắc hùng mạnh là nhờ những kho lương thực của báu
này. Nay nếu để cho thái tử đem ra bố thí hết sạch thì nhất định
quốc gia sẽ nguy cơ. Họ liền kéo nhau vào bệ kiến vua và tâu tự
sự. Nhà vua nghe qua cũng đâm ra lo lắng, nhưng đã lỡ hứa với
thái tử Thiện-Hữu rồi chẳng biết phải làm sao, nên phán rằng:
"Giờ đây tùy sáng kiến của các khanh định liệu, bí mật tìm cách
giữ kho lại, nhưng đừng cho thái tử biết có ý kiến của ta".
Nhe nhà
vua phán như thế, các quan giữ kho mừng rỡ, họ liền cùng nhau
khóa chặt các kho và lánh mặt nơi khác. Thiện-Hữu không tìm ra
họ, đành chịu, không cách nào lấy của kho để tiếp tục bố thí
nữa. Nhưng hình ảnh người dân đói nghèo cực khổ cứ lảng vảng
trong đầu óc Thiện-Hữu làm cho thái tử ăn ngủ không yên. Thái tử
đã hỏi ý kiến của các quan đại thần trong triều làm cách nào có
được nhiều tiền để bố thí. Mỗi người mỗi ý kiến khác nhau. Người
thì bảo thái tử nên có nhiều ruộng đất canh tác trồng trọt để có
được nhiều lúa gạo bông sợi. Người thì thưa với thái tử nên chăn
nuôi nhiều súc vật để lấy sữa, thịt v.v... Nhưng trong số đó có
một đại thần đầu triều khuyên thái tử nên đi tìm ngọc Như-Ý
Ma-Ni bảo châu thì sẽ được toại nguyện. Ngọc ở biển khơi, nằm
tại nơi Long-vương. Nghe đến đây, Thiện-Hữu rất đỗi vui mừng
liền vào xin vua cha cho phép được đi biển tìm ngọc Như-Ý Ma-Ni.
Nhà vua
vừa nghe Thiện-Hữu thưa, thì rất đỗi ngạc nhiên lo sợ, than
rằng: "Con là vị thái tử, từ bé đến giờ quen sống trong nhung
lụa ngọc ngà, kẻ hầu người hạ. Bây giờ lại ra biển khơi sóng dồi
gió đập sẽ gặp không biết bao là tai biến hiểm nguy của sóng
nước ba đào, gió mưa bão táp, giặc cướp, cá dữ. Xưa nay trăm
người đi chỉ một hai người trở về. Giang sơn của cha đây thanh
bình thạnh trị cũng là giang sơn của con. Từ từ rồi con toại
nguyện bố thí có gấp chi đâu. Sao con lại chọn cho mình việc làm
nguy hiểm như thế?"
Nghe
vua cha khuyên can như vậy, Thiện-Hữu nằm lăn ra đất buồn khóc
suốt tám ngày liền không ăn bỏ ngủ. Mặc dầu vua và hoàng hậu
cũng như đình thần khuyên giải, nhưng Thiện-Hữu đã quyết tâm.
Cuối cùng vì lo đến tánh mạng của Thiện-Hữu ngày một suy kiệt,
nên nhà vua đành lòng chiều thuận cho. Khi được vua cha chấp
nhận, Thiện-Hữu ngồi dậy, sắc mặt tươi tỉnh hớn hở, ôm hôn chân
vua và hoàng hậu rồi thành kính lạy tạ.
Nhà vua
truyền lịnh trong nhân gian, nếu ai cùng đi với thái tử
Thiện-Hữu ra biển cả để tìm ngọc Ma-Ni, khi trở về sẽ được trọng
thưởng vàng bạc cho suốt cả bảy đời con cháu.
Dân
chúng nghe được thánh chỉ này, trên năm trăm người đến hoàng
cung ra mắt vua để tình nguyện cùng đi biển với thái tử. Lúc bấy
giờ trong nước có nhà mạo hiểm về biển cả, nổi tiếng đầy kinh
nghiệm. Tuổi ông tuy đã tám mươi, nhưng vẫn còn sáng suốt khỏe
mạnh. Vì quá thương lo cho thái tử, nhà vua đích thân đến nhà
mời lão này cùng đi với Thiện-Hữu.
Lão
nói: "Ôi! Biển cả đầy hiểm nguy, số người ra đi đến hàng vạn mà
khi về chỉ còn một hai. Tâu Bệ-hạ! Thái tử còn quá trẻ, lại quen
sống trên nhung lụa ngọc ngà, nỡ nào ngài lại vì ngọc quý mà sai
thái tử đến chỗ hiểm nguy như thế?"
Nghe
câu nói của lão, nhà vua lại càng trầm buồn xót xa đáp: "Trẫm
nào có muốn thế! Trẫm và hoàng hậu cùng quần thần đã hết lời
khuyên thái tử, nhưng lòng thái tử đã quyết đi tìm cho được ngọc
Như-Ý Ma-Ni để về bố thí cho dân chúng. Ta đành bóp bụng phải
ưng thuận đó thôi!"
Nghe
thế, lão cảm động xin tình nguyện cùng đi với thái tử Thiện-Hữu.
Sau khi
được phụ hoàng ưng thuận cho, Thiện-Hữu lo sắp đặt lương thực,
áo quần, thuyền bè cho năm trăm người lái thuyền cùng đi ra biển
cả. Trong khi đó, Ác-Hữu nghĩ bụng rằng: "Thiện-Hữu vốn đã được
cha mẹ thương mến nay lại đi biển tìm châu ngọc, nếu thành công
thì lại càng được sự yêu dấu của phụ hoàng và đình thần hơn nữa.
Còn ta thì sẽ bị coi chẳng ra gì". Nghĩ vậy rồi liền xin vua cha
để được đi với thái tử Thiện-Hữu.
Vua
hỏi: "Con đi biển để làm gì?"
Tâu phụ
vương: "Con muốn cùng đi với anh con cho có bạn, để chia xẻ nỗi
khổ cực hiểm nguy".
Nhà vua
nghe thế liền phán: "Ðược! Như thế thì tốt lắm! Anh em con giúp
đỡ săn sóc cho nhau".
Nói về
Thiện-Hữu, khi hành trang chuẩn bị đâu đó xong rồi, Thiện-Hữu ra
lệnh cho neo tất cả thuyền tại bờ biển bảy ngày. Mỗi ngày sau
bữa cơm sáng, Thiện-Hữu ra lệnh đánh trống tập hợp tất cả thuyền
nhân lại và lên đài tuyên bố to rằng: "Trong các người, có ai vì
vướng mắc vợ con cha mẹ không muốn đi, thì cứ tự tiện ra về. Còn
ai muốn cùng ta đi ra biển cả tìm ngọc Như-Ý Ma-Ni, thì im
lặng".
Sau bảy
ngày, thuyền nhổ neo nhắm biển khơi lướt sóng. Ròng rã hơn tháng
trời mới thấy một hòn đảo đầy ngọc, lóng lánh dưới ánh nắng mặt
trời. Thiện-Hữu cho thuyền đậu lại và truyền lệnh cho mọi người
tự tiện mặc tình nhặt lấy vàng ngọc, rồi trở lại quê hương để
nuôi vợ con quyến thuộc. Còn Thiện-Hữu cùng với lão già kinh
nghiệm biển cả kia tiếp tục cuộc hành trình tìm ngọc Như-Ý
Ma-Ni.
Trước
cảnh phân ly đôi đường, kẻ về người đi tạo nên bao nỗi sầu bi
nước mắt. Thiện-Hữu khước từ tất cả những người nguyện xin theo
mình đến bước cuối cùng cuộc hành trình tìm ngọc báu. Bởi
Thiện-Hữu e ngại về cha mẹ vợ con của họ trông đợi họ. Và chính
họ cũng không khỏi nhớ thương những người thân, đã khuyên họ nên
mang vàng bạc trở về với gia đình. Năm trăm thuyền nhân quay
thuyền trở lại đất liền, còn Thiện Hữu tiếp tục cuộc hành trình
với lão già tám mươi tuổi.
Hai
người đã băng núi vượt biển tiến về hướng Ðông Bắc. Hai bóng
người song song trải qua mấy dãy núi bạc, núi vàng. Hơn hai
tháng trời leo núi lội biển, lão già đã ngã quỵ. Thiện-Hữu ôm
lấy lão già vào người đấm bóp an ủi. Lão biết sức mình đã kiệt,
năng lực không còn, nên trong giọng nói hổn hển yếu ớt đứt
quãng, lão chỉ rõ hướng đi và khuyến khích thái tử Thiện-Hữu hãy
cố gắng đạt mục đích. Giọng nói của lão yếu dần yếu dần ... Lão
rùng mình một cái rồi ngã lăn tắt thở.
Giờ
đây, Thiện-Hữu một mình một bóng nhắm hướng Ðông Bắc mà đi, trải
qua bãi biển bạc mênh mông, rồi băng qua bãi biển vàng rộng lớn.
Cuối cùng vượt qua ba cái đầm pha lê, trong đó nở đầy hoa sen
trắng, hoa sen xanh đỏ. Thiện-Hữu thấy trước mắt hiện ra bức
thành cao bằng vàng với cửa tam quan bằng bảy báu. Thiện-Hữu xin
phép Long Thần giữ cửa để được vào yết kiến Long-vương. Các
Long-nữ đưa Thiện-Hữu vào bệ kiến.
Thiện-Hữu kể hết bao nỗi cực nhọc khổ nguy, thập tử nhứt sanh về
cuộc hành trình.
Long-vương hỏi: "Với mục đích gì mà nhà ngươi phải chịu cực khổ
lặn lội đến đây?"
Thiện
Hữu đáp: "Muôn tâu Long-vương! Dân chúng trong nước tôi nghèo
khổ. Vì muốn cứu giúp cho họ được no cơm ấm áo mà tôi không màng
vượt biển cả vạn dặm thập tử nhứt sanh đến đây cầu xin
Long-vương rủ lòng thương xót cho tôi được xin ngọc Như-Ý Ma-Ni
để tôi có phương tiện bố thí theo ý muốn".
Long-vương cảm kích người có lòng nhân từ nên nhận lời, đồng
thời mời Thiện-Hữu lưu lại Long-cung một tuần lễ để thăm viếng
và đàm đạo. Thiện-Hữu nhận lời. Trong thời gian lưu lại nơi đây,
ngày ngày Thiện-Hữu được mời đi thăm viếng lâu đài điện ngọc
bằng lưu ly pha lê, đất đai cây cỏ toàn bằng vàng bạc, núi bằng
ngọc ngà, sông suối bằng pha lê, nước bằng lưu ly. Ðêm đêm yến
tiệc linh đình, đờn ca múa hát đủ thứ khoái lạc vui chơi. Sau
bảy ngày, Thiện-Hữu từ tạ Long-vương trở về nước. Trên đường về,
Long-vương phái hai tướng rồng đưa đến mé biển, nơi núi vàng đầu
tiên mà Thiện-Hữu đã cho các thuyền nhân cập bến lấy vàng và
chia tay. Ðồng thời nơi đây, gặp lại Ác-Hữu.
Vừa
thấy Ác-Hữu, Thiện-Hữu mừng rỡ hỏi: "Bây giờ năm trăm người kia
ở đâu em?"
Ác-Hữu
đáp: "Năm trăm thuyền nhân kia, vì sóng to gió lớn, nên đã đắm
thuyền chết hết cả rồi. Riêng em nhờ ôm được mảnh ván trôi dạt
vào đây, nên còn được sống sót đến ngày nay để chờ anh".
Nghe
xong, Thiện-Hữu ngước mắt lên trời vừa mừng vừa than: "Ôi! Ðời
người quá vô thường. Ta thương họ, nên cho họ ở lại lấy vàng để
trở về quê quán được giàu sang với cha mẹ vợ con. Nào ngờ đâu
xảy ra cảnh tử biệt thê thảm đến thế nầy".
Thấy
Thiện-Hữu trầm ngâm suy tư, Ác-Hữu hỏi: "Hơn hai tháng trời anh
đi nơi nào, có tìm được ngọc quý không?"
Thiện-Hữu đáp: "Anh đã đến Long-cung xin được ngọc Như-Ý Ma-Ni.
Ngọc quý nầy giúp cho anh muốn gì được nấy. Từ đây anh sẽ có đủ
phương tiện bố thì thần dân, làm điều lợi ích cho xứ sở".
Ác-Hữu
nghe nói như thế, long tham cuồn cuộn trào dâng ngập tràn tim
óc, không còn khống chế được nữa! Lòng Ác-Hữu sôi sục thúc dục
nghĩ mưu tìm cách đoạt lấy, nên nói với Thiện-Hữu rằng: "Ngọc
quý giá như vậy cần phải hết sức cẩn thận. Nếu mất thì không còn
cơ may có lại được. Hay là anh em mình thay phiên nhau giữ gìn,
hễ khi anh ngủ thì em giữ nó, và khi em ngủ thì anh giữ gìn. Như
thế thì chắc chắn không bị mất".
Thiện-Hữu nghe có lý, liền lấy viên ngọc quý cất kỹ trong đầu
tóc đem ra trao cho Ác-Hữu giữ lấy, rồi nằm dưới gốc cây cổ thụ
ngủ ngon lành. Trong khi Thiện-Hữu an nhiên ngủ say, thì Ác-Hữu
lòng bồn chồn không yên, liền nảy sanh ý nghĩ: "Hắn vốn đã được
cha mẹ thương mến cưng chìu, nay lại được ngọc Như-Ý Ma-Ni bảo
châu nữa, thì chắc ta sẽ bị phụ hoàng, mẫu hậu và cả triều đình
coi rẻ như đồ mảnh sành chén bể". Càng nghĩ, lòng càng uất ức,
cơn ganh tức lên tới cực độ. Ác-Hữu liền tìm thanh tre bén nhọn,
không một chút do dự, đâm mạnh vào hai mắt Thiện-Hữu, rồi mang
ngọc Như-Ý đi.
Thiện-Hữu đang ngủ say, bỗng nhiên bị cây đâm sâu vào đôi mắt
đau nhức vô cùng, kêu la cầu cứu. mắt mù quờ quạng gọi em, nhưng
không thấy Ác-Hữu lên tiếng, tưởng là bị cướp giết đoạt lấy châu
ngọc. Thiện-Hữu đau nhức than khóc, khóc vì bản thân đau nhức,
khóc vì thương em đã mất tăm tích đâu rồi!
Tiếng
khóc than thê thảm động đến trời đất. Vị thần cây hiện ra nói:
"Ðừng khóc than nửa. Không phải kẻ cướp hại ngươi, mà chính em
ngươi là Ác-Hữu đã dùng thanh tre đâm vào mắt ngươi để đoạt lấy
ngọc quý. Nó đã lấy ngọc đi rồi!"
Từ khi
đoạt được ngọc quý, Ác-Hữu mừng rở liền trở về thành Ba-La-Nại
vào ra mắt vua cha. Vua và hoàng hậu thấy Ác-Hữu trở về, lòng
mừng vô cùng mừng vui và hỏi về Thiện-Hữu đâu không thấy về?
Ác-Hữu thưa: "Tâu Phụ-vương và Mẫu-hậu! Tất cả đều chết hết, chỉ
còn lại một mình con. Lại nhờ phước đức mà con lấy được ngọc
Như-Ý Ma-Ni đem về đây". Nghe Thiện-Hữu đã chết, Vua và
Hoàng-hậu như sét đánh vào đầu, cả hai người đều bất tỉnh ngã ra
than khóc, chẳng để ý gì đến ngọc quý của Ác-Hữu trình khoe.
Nói về
Thiện-Hữu, từ ngày bị mù, một mình la lết rày đây mai đó. Một
hôm nọ, có đàn bò đi ngang qua đụng té, người chăn bò thấy tội
nghiệp liền chạy tới đỡ Thiện-Hữu dậy, và đưa về nhà cho ăn uống
săn sóc. Sau hơn bảy ngày, Thiện-Hữu xin đi, cha mẹ người chăn
bò cố lưu lại, nhưng Thiện-Hữu nói: "Nếu hai bác có lòng thương
giúp cháu, thì cho cháu xin một cây đờn và đưa cháu ra chỗ chợ.
Như thế là quý hóa lắm rồi, và cháu suốt đời xin đội ơn cứu giúp
của hai bác". Thiện-Hữu được toại nguyện.
Thiện-Hữu có tài đờn giỏi, tiếng đờn réo rắt khi bổng lúc trầm,
khiến cho người nghe tâm thần ảo não xao xuyến cõi lòng. Một hôm
nọ, hoàng hôn phủ trên vạn vật, người giữ vườn nhà vua nghe
tiếng đàn réo rắt, lòng cảm thấy bang khuâng tìm đến người khảy
đàn. Thấy một chàng thanh niên mù, mặt mày khôi ngô, dáng điệu
trượng phu, người giữ vườn lén đưa chàng mù vào vườn ngự uyển để
chuyện trò cho có bạn, và được dịp thưởng thức tiếng đàn.
Một
ngày nọ, vào một bình minh trời đẹp, công chúa và các tỳ nữ đi
dạo vươn hoa, bỗng nghe tiếng đàn thanh tao tuyệt diệu phát ra
từ một góc vườn. Công chúa và các tỳ nữ lần bước đến chỗ phát ra
tiếng đàn. Lắng tai nghe, công chúa càng cảm thấy trong lòng rạo
rực, tiếng đàn có sức cuốn hút lạ thường, nên quên về cung. Vua
cha hay tin truyền lệnh triệu hồi, nhưng công chúa mải mê tiếng
đàn vẫn chưa chịu hồi cung, làm cho vua cha cả giận phải đích
thân ra chỗ người mù khảy đờn.
Nhà vua
quan sát thấy công chúa càng nhìn người mù khảy đờn, càng say
đắm ngắm mãi không chán. Công chúa bị bắt buộc theo vua cha về
cung. Suốt đêm hôm ấy, công chúa trằn trọc không ngủ được. Hình
ảnh người mù và tiếng đàn réo rắt đã chiếm trọn cõi lòng công
chúa. Không nén được nỗi nhớ thương, công chúa đã thưa với phục
vương và hoàng hậu: "Tâu Phụ-vương! Con muốn Phụ-vương và
Mẫu-hậu cho phép con được sống với người khảy đàn kia".
Trước
lời thưa bất ngờ của công chúa, nhà vua vừa cảm thấy xấu hổ vừa
tức giận phán rằng: "Cha đã hứa gã con cho Ðông cung thái tử
Thiện-Hữu thành Ba-La-Nại rồi, nay thái tử đi biển tìm ngọc quý
chưa về. Cớ sao con lại đòi được gả cho người mù nghèo khổ này,
có phải con đã điên rồi chăng?" Ðồng thời nhà vua hạ lệnh bắt
giam người mù vào ngục. Công chúa lạy lục van xin vua cha tha
cho, nhưng không được.
Từ khi
Thiện-Hữu bị giam vào ngục, công chúa nhớ thương, nên ngày ngày
lén vào ngục để thăm Thiện-Hữu. Thân gần ngày tháng dài lâu,
công chúa cảm thấy Thiện-Hữu tâm lượng thanh cao, tánh tình tao
nhã, trí thức hiểu biết quảng bác, nên đem lòng kính yêu. Khi
lửa tình nung nấu cõi lòng lên đến cao độ, công chúa không còn
đủ sức dấu kín nỗi lòng, nên một hôm thố lộ với Thiện-Hữu, xin
kết nghĩ trăm năm.
Thiện-Hữu nói: "Nàng đường đường là một công chúa con vua một
nước, ngôi cao tước cả, muôn dân trọng vọng. Còn tôi là kẻ mù
lòa sống nhờ tiếng đàn, lang thang khắp chốn, đâu dám sánh
cùng".
Công
chúa nói: "Nhân duyên thiện cảm, nhân cách tâm lượng con người
đâu phải chỉ hạn cuộc nơi giai cấp giàu sang vua chúa?"
Thiện-Hữu nói: "Cảm ơn lòng tốt của công chúa. Nhưng thật tình
tôi không dám. Nếu vua biết được việc này, thì tôi bị chém đầu".
Công-chúa nói: "Việc nầy để em lo".
Một hôm
nhân lúc vua cha và mẫu hậu vui vẻ, công chúa bày tỏ việc thương
yêu Thiện-Hữu. Vua cha bất ngờ kinh ngạc, liền trợn mắt nghiêm
sắc mặt nhìn thẳng vào công chúa mà phán rằng: "Con điên rồi sao
chứ? Con đường đường là công chúa của một nước, cao sang quyền
quý tột đỉnh hơn người, sao lại muốn kết hôn với kẻ ăn mày mù
lòa tù đày?"
Công
chúa đã tha thiết trình bày nhân cách phong độ, kiến thức quảng
bác của Thiện-Hữu, và lòng yêu thương của mình, rồi một mực khẩn
cầu vua cha cho thành hôn với Thiện-Hữu. Nhưng nhà vua không
những không bằng lòng mà còn nổi giận lôi đình to tiếng nặng lời
mắng nhiếc. Công chúa đã đau khổ buồn khóc suốt mấy ngày liền.
Lòng lại càng thương nhớ Thiện-Hữu hơn.
Nói về
Thiện-Hữu bị giam trong ngục. Sau những ngày được công chúa vào
thăm, lòng cảm thấy an ủi vô bờ bến. Thì bỗng nhiên công chúa
vắng bặt, không còn vào thăm viếng như mọi ngày. Thiện-Hữu có ý
trông với cõi lòng thương nhớ. Nhưng Thiện-Hữu đã linh cảm được
điều gì bất trắc xảy ra cho công chúa rồi! Còn về phần công chúa
tuy bị vua cha giận dữ khước từ, nhưng không dằn nén được nỗi
lòng thương nhớ Thiện-Hữu, nên quyết tâm lấy lại bình tĩnh tiếp
tục lén vào ngục thăm. nghe tiếng động, Thiện-Hữu hỏi lớn: "Ai
đó?"
Công-chúa đáp: "Em đây!"
Thiện-Hữu với giọng buồn trách: "Công-chúa vào đây chi nữa! Kẻ
ăn mày mù lòa này có đáng chi đâu, để cho người cao quý bận tâm,
tôi không dám!"
Công
chúa nói: "Sao chàng lại nói như vậy?"
Thiện-Hữu đáp: "Chẳng phải đã quên kẻ hèn hạ mù lòa nầy rồi sao?
Nếu không, mấy ngày vừa qua bặt vô âm tín?"
Công
chúa buồn đáp: "Thật oan cho em lắm chàng ơi! Em nào có quên!
Một ngày không gặp còn dài hơn ba mùa thu! Nếu em nói dối thì
đôi mắt chàng mãi mãi mù lòa. Còn em thật lòng thì xin trời đất
chứng cho, để đôi mắt anh được sáng".
Công
chúa vừa dứt lời, thì trời sấm sét, mắt trái của Thiện-Hữu sáng
ra. Ánh sáng từ mắt của Thiện-Hữu tỏa ra như vì sao sáng, sắc
mặt của Thiện-Hữu trở nên anh tuấn phi thường. Công chúa vừa cảm
mến vừa khâm phục, mới gạn hỏi thăm quê quán tông tích của
Thiện-Hữu. Thiện-Hữu thật tình đáp: "Không dấu gì nàng. Tôi
chính là Ðông cung thái tử nước Ba-La-Nại đây".
Vừa
nghe, công chúa nói: "Xin chàng đừng nói thế. Tôi biết thái tử
Thiện-Hữu đã đi biển khơi để tìm ngọc chưa về".
Thiện-Hữu không muốn cho ai biết mình đã bị em hại để đoạt lấy
ngọc quý, nên nói với công chúa: "Chính tôi là Thiện-Hữu đã cãi
phụ hoàng đi biển khơi tìm ngọc quý, trên đường về nước bị người
đâm đui đôi mắt để đoạt lấy ngọc, nên tôi mới ra nông nỗi này!"
Công
chúa nói: "Có lẽ chàng bị mù lâu ngày không tiếp xúc với ánh
sáng, nay mắt vừa mới được thấy, làm tinh thần điên loạn giao
động, nên mới nói sảng thế chăng?"
Thiện-Hữu nói: "Thôi xin thề, mong thánh thần trời đất chứng
minh cho. Nếu tôi nói dối thì mắt tôi mù trở lại. Bằng như lời
nói tôi chân thật, thì xin cả hai mắt tôi đều sáng".
Vừa dứt
lời, mắt Thiện-Hữu chớp chớp mấy cái, đôi mắt mở sáng như hai vì
sao. Tướng mạo của Thiện-Hữu trở nên khôi ngô anh tuấn lạ
thường, làm cho công chúa càng tin tưởng kính phục không còn hồ
nghi gì nữa. Công chúa vô cùng mừng rỡ vội chạy vào tâu vua cha
tự sự và xin được dẫn Thiện-Hữu yết kiến. Thiện-Hữu trình bày sự
tình. Nhà vua lúc đầu không tin, hầm hừ nạt nộ. Nhưng mỗi lúc
thấy phong độ đối đáp của Thiện-Hữu không phải là hạng người
thường, dần dần nhà vua đem lòng thương mến tin tưởng, mời
Thiện-Hữu lưu lại triều đình thời gian tĩnh dưỡng, đồng thời lập
tức sai sứ đi gấp đến thành Ba-La-Nại báo tin.
Thiện-Hữu bây giờ đôi mắt sáng trở lại như xưa. Nghĩ nhớ ơn
người chăn bò giúp đỡ, Thiện-Hữu yêu cầu công chúa xin vua cha
đem vàng bạc trọng thưởng cho họ. Người chăn bò rất đỗi ngạc
nhiên mừng nói: "Tôi thương giúp đỡ người nghèo mù lòa có ít, mà
sao được phước lợi nhiều như thế nầy. Rồi tự giải thích: Nếu như
mở lòng từ bi quảng đại giúp đời, thì công đức chắc phải vô
lượng vô biên".
Từ
triều thần cho đến dân chúng nghe biết chuyện này, ai nấy đều
phải tỉnh ngộ, ngâm câu: "Ở hiền thì được gặp lành, giàu sang
hạnh phúc dành người từ tâm".
Trong
khi sứ giả nước Lý-Chơn-Ban chưa đến thành Ba-La-Nại, vua và
hoàng hậu vì quá nhớ thương Thiện-Hữu, nên mất ăn bỏ ngủ khóc
đến mờ mắt. Một hôm nghe tiếng chim bạch-hạc của Thiện-Hữu nuôi
ngày trước, đang ở trong lồng bỗng nhiên kêu lên thảm thiết.
Hoàng hậu xót xa viết thư đeo vào cổ bạch-hạc, rồi an ủi vỗ về
chim và nói: "Chủ của con đi biển tìm ngọc quý đã lâu quá rồi mà
chưa thấy về, không ai để tâm thương yêu chăm sóc con. Ta thì
mất con, còn con thì mất chủ, cả hai cùng chung nỗi đau khổ buồn
thương mất mát người yêu mến! Vậy nay ta nhờ con mang thư này
tìm Thiện-Hữu, người chủ yêu quý của con. Con hãy hết sức cố
gắng để cho có ngày sum họp".
Trải
mất ngày trời, bạch-hạc bay khắp nơi trên biển cả, không hoang
đảo nào mà không lượn bay tìm kiếm, nhưng bạch-hạc chẳng thấy
tông tích Thiện-Hữu đâu cả. Thế rồi, vào một hoàng hôn gió mây
hiu hắt, bạch-hạc muốn tìm nơi nghỉ cánh qua đêm, để ngày mai
lại tiếp tục bay đi tìm tông tích người chủ yêu quý, thì thấy
vườn ngự uyển của vua nước Lý-Chơn-Ban, cây cỏ um tùm, hoa thơm
cỏ lạ, liền lượn mấy vòng trên không, muốn tìm chỗ dừng chân
nghỉ đêm. Bỗng nhiên liếc thấy trong vườn ngự uyển có đôi trai
tài gái sắc dắt nhau ngắm cảnh dạo mát. Bạch-hạc nhìn kỹ thì
thấy đấy chính là người chủ của mình. Quá mừng, nên không một
chút do dự, liền đáp xuống đậu trên vai Thiện-Hữu. Bất ngờ
Thiện-Hữu thấy trên cổ bạch-hạc có mang lá thơ, nỗi vui mừng chủ
tớ hội ngộ. Thiện-Hữu liền quỳ lạy, hai tay chấp lấy phong thơ
của Mẫu-hậu mở ra xem.
Biết
được tự sự, Thiện-Hữu liền viết thư hồi âm rồi đeo vào cổ
bạch-hạc. Thiện-Hữu vuốt ve vỗ nhẹ trên thân bạch-hạc với lời an
ủi dịu dàng: "Con hãy giúp ta mang thư này về cho Mẫu-hậu ta. Ta
và con sẽ đoàn tụ trong ngày gần đây. Ơn của con ta không quên
được". Thái tử dứt lời, bạch-hạc vỗ cánh tung bay.
Sau khi
biết được chuyện nầy, vua nước Lý-Chơn-Ban liền ra lệnh chuẩn bị
hành trang và cho đoàn hộ tống Thiện-Hữu về nước Ba-La-Nại.
Ðược
tin Thiện-Hữu về nước, không khí u buồn bấy lâu nay bỗng nhiên
tan biến trong khoảng khắc. Từ trong triều, vua quan hoàng thân
quốc thích, cho đến ngoài nhân gian bá tánh quốc dân, người
người đều lộ vẻ vui mừng. Treo đèn kết hoa trống chiêng nghênh
đón thái tử Thiện-Hữu. Niềm hân hoan lộ trên mặt mọi người.
Không khí tưng bừng náo nức khắp cả nước từ thành thị đến thôn
quê.
Tất cả
mọi người đón chào Thiện-Hữu trở về, tay bắt mặt mừng, ai cũng
muốn ôm chầm lấy Thiện-Hữu. Thiện-Hữu nhìn khắp mọi người như để
đáp lễ về sự ngưỡng mộ nồng nhiệt dành cho mình. Nhưng Thiện-Hữu
nhìn khắp trong đám đông mấy lượt mà vẫn không thấy Ác-Hữu đâu
cả. Hỏi ra mới biết đã bị vua cha hạ lệnh bắt giam vào ngục.
Thiện-Hữu xót thương, đã mấy lượt khẩn thiết cầu xin vua cha tha
tội cho em. Nhưng vua cha chỉ cho phép Ác-Hữu ra để Thiện-Hữu
thăm. Thiện-Hữu thấy em tay chân bị gông cùm đau đớn khổ sở,
động lòng trắc ẩn, đã mấy lần quỳ lạy xin vua cha mở lượng hải
hà khoan dung cho Ác-Hữu.
Trong
lúc vua cha còn lưỡng lự, triều đình các đại thần đồng thanh lên
tiếng ngăn cản phản đối: "Quốc gia xã tắc có pháp luật kỷ cương.
Vua có công minh, trăm họ mới kính phục, dân nước mới thịnh
trị".
Thiện-Hữu ôm lấy Ác-Hữu vỗ về rơi lệ thở than, rồi hỏi ngọc
Như-Ý Ma-Ni bảo châu cất ở đâu. Hỏi đến ba bốn lượt, Ác-Hữu mới
ngập ngừng chịu nói.
Thiện-Hữu được ngọc Như-Ý Ma-Ni bảo châu rồi, liền đốt hương quỳ
trước ngọc quý mà khấn nguyện: "Nếu quả thật ngọc Như-Ý Ma-Ni
bảo châu linh diệu muốn gì được nấy, thì xin cho đôi mắt của cha
mẹ tôi sáng đẹp như xưa". Lời khấn nguyện của Thiện-Hữu vừa dứt,
thì đôi mắt của vua và hoàng hậu trở nên sáng đẹp hơn trước.
Từ ngày
được ngọc Như-Ý, Thiện-Hữu dốc lòng lo việc bố thí giúp đỡ muôn
dân. Khắp bốn phương thiên hạ ai nấy đều được ấm no hạnh phúc,
sống trong thanh bình lạc nghiệp. Người người lớn nhỏ đều lo tu
tâm dưỡng tánh, làm việc phước lành, sống trong quốc gia thạnh
trị thái bình.
Ðến
đây, đức Phật nói với A-Nan rằng: "Vua và hoàng hậu xứ Ba-La-Nại
thời xưa, chính là Phụ-vương Tịnh-Phạn và Mẫu-hậu Ma-Da của ta
ngày nay. Hoàng tử Ác-Hữu ngày xưa, chính là tiền thân của Ðề-Bà
Ðạt-Ða ngày nay. Còn thái tử Thiện-Hữu thời quá khứa đó, chính
là tiền thân của Như-Lai ngày nay vậy.
