Công dụng và ý nghĩa của Thần chú Lăng nghiêm và
Đại Bi thập chú
Những người hành trì
Kinh Đại Thừa Phật Giáo đều có tụng các Thần Chú trong các
thời khoá nhằm mục đích tiêu trừ nghiệp chướng oan khiên,
thêm được phước lành tăng trưởng.
Ý nghĩa chữ Thần Chú
như trước đã giải thích là lời nói bí mật của chư Phật (Mật
ngôn hay Phật ngôn), lời nói đặc biệt này chỉ có các đức
Phật trong mười phương nghe biết mà nó không phải là thứ
ngôn ngữ thường tình của các chúng sanh trong ba cõi sử
dụng, cho nên những thứ ngôn ngữ này người phàm phu không
thể nào hiểu rõ. Những ai muốn chư Phật, chư Bồ Tát trong
mười phương gia hộ những khổ đau của cuộc đời chỉ cần hành
trì Thần Chú được chỉ dẫn sẽ được linh ứng theo sở cầu.
Thần Chú của
Mật Tông có nhiều loại và mỗi loại có công dụng riêng, nhưng
các Thiền Gia trong các Thiền Môn chỉ chọn khoảng một số
Thần Chú để sử dụng trong các buổi lễ như Cầu An, Cầu Siêu,
Sám Hối, v.v... gồm có Thần Chú Lăng Nghiêm, Thần Chú Đại Bi
và mười Thần Chú khác gọi là Thập Chú. Ý Nghĩa và công dụng
các Thần Chú nói trên được giải thích như sau :
1)
- Chú Lăng Nghiêm:
Công dụng của
Thần Chú Lăng Nghiêm, theo Triết Lý Đạo Phật hay Đại Cương
Kinh Lăng Nghiêm trong Phật Học Phổ Thông Khoá VI và VII của
Hoà Thượng Thích Thiện Hoa, trang 255 và 266 đức Phật nói:
"Nếu người nào nghiệp chướng nặng nề không thể trừ được, ông
(chỉ ông A Nan) nên dạy họ chí tâm trì chú Lăng-nghiêm này
thì các nghiệp chướng đều tiêu diệt" và đức Phật nói tiếp:
"Sau khi ta diệt độ các chúng sanh đời sau, nếu có người trì
tụng chú này thì các tai nạn: thủy tai, hoả hoạn, thuốc độc,
độc trùng, ác thú, yêu tinh, quỉ quái, v.v... đều chẳng hại
được".
Chúng ta muốn
đạt thành những ý nguyện cho cuộc sống được an lạc và thành
quả trên con đường giác ngộ giải thoát thì phải chuyên cần
hành trì thâm nhập Chú Lăng Nghiêm này để nhờ thần lực
chuyển hoá. Điều đó chính đức Phật đã nói trong Kinh Lăng
Nghiêm: "Ma Đăng Già là kẻ dâm nữ, không có tâm tu hành còn
được thành quả Thánh, huống chi các ông là bậc Thanh văn, có
chí cầu đạo vô thượng, lại trì tụng chú này, thì quyết định
thành Phật rất dễ, cũng như thâu gió tung bụi, chẳng có khó
gì."
2) - Chú Đại Bi:
Theo Kinh
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn
Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni giải thích: "Hồi đời quá khứ vô
lượng ức kiếp, có đức Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ ra đời
vì ngài Quán Thế Âm mà nói ra chú Đại Bi này. Lúc đó Ngài
mới trụ bực Sơ Địa, sau khi nghe chú này rồi thì siêu chứng
lên bậc Bát Địa liền, Ngài thấy hiệu nghiệm như vậy liền
phát đại nguyện rằng: "Nếu qua đời vị lai có thể đem thần
chú này ra làm lợi ích cho chúng sanh thì cho thân Ngài sanh
ra ngàn cái tai ngàn con mắt," v.v...
Ngài nguyện
vừa xong thì quả nhiên tay mắt đều đầy đủ tất cả và lại được
chư Phật Phóng quang soi đến thân Ngài, đồng thời soi khắp
vô biên thế giới. Khi ấy Ngài lại phát nguyện nữa rằng:
"Người nào nếu trì tụng chú này mỗi đêm 5 biến thì đặng tiêu
hết những tội nặng sanh tử trong trăm ngàn vạn ức kiếp, đến
lúc mạng chung thì có thập phương chư Phật hiện thân tiếp
dẫn về cõi Tịnh Độ. Bằng như người nào trì tụng chú này mà
sau còn đọa vào ba đường ác và chẳng đặng sanh về cõi Phật
hay chẳng đặng những pháp Tam Muội, chẳng biện tài, sở cầu
không toại chí, nếu có mấy sự ấy, thì chú này không được
xưng là Đại Bi Tâm Đà La Ni". Chỉ trừ những người tâm không
thiện, chí không thành và lòng hay nghi thì không thấy hiệu
nghiệm được liền mà thôi.
Theo Nhị Khoá
Hiệp Giải của Hoà Thượng Thích Khánh Anh, trang 74 giải
thích: "Thuở ấy, đức Quán Thế Âm rất kín nhiệm phóng ra hào
quang lớn chiếu cả mười phương các cõi nước đều rực rỡ thành
màu vàng ròng; rồi chấp tay bạch Phật rằng: Tôi có thần
chú.... Đại Bi tâm Đà La Ni, nay tôi muốn nói ra để cho các
chúng sanh đều đặng an lạc, vì nó có hiệu lực: tiêu trừ bệnh
hoạn, tuổi sống lâu dài, thêm điều lành, dứt hết các tội,
được toại tâm với sự mong cầu, nên được Phật hứa cho thuyết
chú."
Trên đây là
những sự linh ứng và diệu dụng của Thần Chú Đại Bi.
3) - Chú Như Ý Bảo
Luân Vương Đà La Ni:
Theo Như Ý
Tâm Đà La Ni: Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại vì muốn cho chúng sanh
tùy ý sở cầu cái gì cũng được như nguyện nên Ngài bạch với
Phật xin Ngài thuyết chú này. Những người trì tụng mà rõ
được nghĩa thâm mật của chú này thì cái thắng lợi ấy cũng
thí như cây như ý sanh ra những ngọc bảo châu như ý, tuỳ
nguyện muốn cầu việc gì cũng được.
Lúc Bồ Tát
thuyết chú này rồi, sáu chưởng chấn động, cung điện của Ma
Vương đều nổi lửa cháy sợ hãi không cùng, các loài độc ác
chúng sanh đều lăn nhào té ngã, còn những kẻ thọ khổ trong
địa ngục và ngạ quỷ thì đều đặng sanh về cõi Trời.
Người nào
nhứt tâm trì tụng chú này thì các thứ tai nạn đều được tiêu
trừ mà đến lúc lâm chung lại được thấy đức Phật A Di Đà và
Ngài Quán Thế Âm tiếp dẫn về cõi Tịnh Độ.
4) - Thần Chú Tiêu Tai Cát Tường:
Theo Kinh
Tiêu tai Cát Tường: "Khi Phật ở tại từng trời Tịnh Cư nói
với các thiên chúng cùng các vị quản lý 28 ngôi sao và 12
cung thần rằng: "Có chú Xí Thạnh Quảng Đại Oai Đức Đà La Ni"
của Phật Ta La Vương đã nói hồi trước. Ta nay thuyết ra đây
là pháp để trừ những tai nạn. Nếu trong Đế đô quốc giới có
các vị đặc trách sao yêu tinh đến làm những điều chướng nạn,
hay những vị đặc trách sao quan hệ bổn mạng của nhân loại có
gì bất tường phải lập đạo tràng, rồi khắc ký mà niệm chú này
108 biến thì tai chướng tức thời trừ diệt hết."
5) - Thần Chú Công Đức Bảo Sơn:
Theo Viên
Nhơn Vãng Sanh có dẫn chứng Kinh Đại Tập nói rằng: "Nếu
người tụng chú này một biến thì công đức cũng như lễ Kinh
Đại Phật Danh bốn vạn năm ngàn bốn trăm biến (45.400), còn
như phạm tội nặng đang đọa vào địa ngục A Tì mà nhứt tâm trì
tụng chú này thì trong lúc mạng chung chắc đặng sanh về bậc
Thượng Phẩm Thượng Sanh bên cõi Tịnh Độ mà đặng thấy Phật A
Di Đà."
6) - Thần Chú Phật Mẫu Chuẩn Đề:
Câu chú này
trích trong Kinh Chuẩn Đề. Bốn câu kệ đầu là: "Khể thủ quy y
Tô tất Đế," v.v... cho đến "Duy nguyện từ bi thùy gia hộ" là
của Ngài Long Thọ Bồ Tát. Trong bốn câu kệ:
* Câu đầu là
nói về Pháp Bảo: câu hai là nói về Phật Bảo; câu thứ ba là
nói về Tăng Bảo; câu thứ tư là nói mình xin nhờ ơn sự gia hộ
của Tam Bảo.
* Khể thủ quy
y Tô Tất Đế: nghĩa là cúi đầu quy kính Pháp Viên Thành (pháp
nhiệm mầu). Chữ Tô Tất Đế: nguyên tiếng Phạn là Susidhi, Tàu
dịch là Diệu Thành Tựu, nghĩa là một pháp có năng lực thành
tựu được hết thảy sự lý và thành tựu đặng hết thảy tâm
nguyện của chúng sanh rất mầu nhiệm.
* Đầu diện
đảnh lễ Thất Cu Chi (cu đê): nghĩa là thành tâm đảnh lễ bảy
trăm ức Phật. Chữ "Cu Chi" hay là "Cu Đê", nguyên tiếng Phạn
là "Koti", Tàu dịch là bách ức, nghĩa là trăm ức; cho nên
trên đây nói "thất cu chi" tức là số bảy trăm ức vậy.
* Ngã kim
xưng tán Đại Chuẩn Đề: nghĩa là con nay xưng tán đức Đại
Chuẩn Đề. Chữ "Chuẩn Đề", nguyên tiếng Phạn là "Candi", Tàu
dịch có hai nghĩa: 1) Thi Vi, 2) Thành Tựu.
Thi Vi: nghĩa
là lời nguyện rộng lớn đúng nơi lý và dùng đại trí để dứt
vọng hoặc, vì đủ các nhơn hạnh để ra làm việc lợi tha cho
chúng sanh, nên gọi là Thi Vi.
Thành Tựu:
nghĩa là từ nơi pháp không mà hiện ra pháp giả rồi thành tựu
đặng pháp tịch diệt.
Sở dĩ Chú này
xưng là "Phật Mẫu Chuẩn Đề" là nói: Pháp là thầy và thiệt
trí, là mẹ của chư Phật, cho nên bảy trăm ức Phật đều dùng
pháp "Chuẩn Đề Tam Muội" mà chứng đạo Bồ Đề.
Trong kinh
Chuẩn Đề nói rằng: Khi Phật ở vườn Kỳ Đà vì có tứ chúng bát
bộ đông đủ, Ngài nghĩ thương những chúng sanh đời mạt pháp
sau này, tội dày phước mỏng, nên mới nhập "Chuẩn Đề Định" mà
thuyết thần chú như vầy.
Nam Mô Tát Đa
Nẩm, Tam Miệu Tam Bồ Đề, Cu Chi Nẩm, Đát Điệt Tha, Án, Chiết
Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, Ta bà Ha.
Phật nói :
Nếu trì chú này mãn chín mươi vạn (900.000) biến thì diệt
trừ được các tội thập ác, ngũ nghịch và tứ trọng; cho đến
nhà thế tục chẳng luận tịnh hay uế, chỉ cần chí tâm trì
tụng, liền được tiêu trừ tai nạn bệnh hoạn, tăng trưởng
phước thọ. Khi tụng mãn 49 ngày, Bồ Tát Chuẩn Đề khiến hai
vị Thánh thường theo người ấy hộ trì.
Nếu có người
hoặc cầu mở trí tuệ, hoặc cầu chống tai nạn, hoặc cầu pháp
thần thông, hoặc cầu đạo Chánh Giác, chỉ y theo pháp thiết
lập đàn tràng, tụng đủ một trăm vạn (1.000.000) biến thì
đặng đi khắp mười phương Tịnh Độ, phụng thờ chư Phật, nghe
cả diệu pháp mà được chứng quả Bồ Đề.
7) - Thần Chú Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang
Minh Vương Đà La Ni:
Chú này trích
trong Kinh Đại Thừa Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh
Vương Như Lai Đà La Ni. Kinh ấy nói: "Đức Thích Ca Thế Tôn
nghĩ thương chúng sanh đoản mạng trong đời vị lai, muốn cho
thêm được thọ số, hưởng được hạnh phúc, nên Phật nói với Đại
Trí Huệ Diệu Cát Tường Bồ Tát rằng: những nhơn loại ở trong
cõi Diêm Phù Đề này thọ mạng chỉ đặng trăm tuổi, mà ở trong
số đó lại có phần đông người tạo lắm điều ác nghiệp nên bị
tổn đức giảm kỷ thác yểu chết non. Nếu như nhơn loại thấy
đặng chú này, hoặc biên chép, hoặc ấn tống, hoặc thọ trì đọc
tụng thì lại tăng thọ mạng sống ngoài trăm tuổi và qua đời
sau mau chứng quả Bồ Đề."
8) - Thần Chú Dược Sư Quán Đảnh Chơn Ngôn:
Thần chú này
được trích ra từ nơi Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn
Nguyện Công Đức. Theo như trong kinh, đức Thích Ca Như Lai
nói nếu có chứng bệnh gì mà cứ nhứt tâm trì chú này trong
nước tịnh thủy đủ 108 biến rồi uống vào thì các bệnh đều
lành.
Còn như những
người mà trọn đời thọ trì chú này thì đặng khỏi bệnh tật và
được sống lâu, đến lúc mạng chung lại được sanh về cõi Tịnh
Lưu Ly. Nhưng phải biết rằng: chú này được gọi là "Quán
Đảnh" là nói chú này do nơi đảnh quang của Phật mà thuyết
ra. Người nào nếu thọ trì đọc tụng chú này mà đặng thanh
tịnh ba nghiệp (thân, miệng, ý) thì hào quang Phật chiếu
ngay đến nơi đảnh môn của người trì tụng ấy một cách mát mẻ
như rưới nước cam lồ vậy.
Nên biết ánh
quang của Phật khác hơn ánh quang của ma, nguyên vì ánh
quang của ma thì chói loà khiến cho người ta sợ hãi, còn ánh
quang của Phật thì mát mẻ và làm cho ta vui mừng. Vậy ai là
người thọ trì chú này hoặc niệm Phật cần phải phân biệt rõ
hai cái ánh quang nói trên. Chớ đừng thấy ánh quang của ma
lập lòe trước mắt như ngoại đạo nhìn nến, như kẻ nhìn nhang
kia mà nhận lầm cho là thấy tánh.
9) - Thần Chú Quán Âm Linh Cảm Chơn Ngôn:
Đức Quán Thế
Âm có lòng Đại Bi rất tha thiết, bi nguyện của Bồ Tát rất
thâm sâu, công đức độ sanh của Bồ Tát lan rộng khắp mười
phương. Người nào thành tâm trì tụng chú này thì liền được
lòng Đại Bi của Bồ Tát chắc chắn ủng hộ.
10) - Thần Chú Thất Phật Diệt Tội Chơn Ngôn:
Chú này được
trích ra từ trong kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni. Kinh này
nói: "Ngài Văn Thù Sư Lợi nghĩ thương về sau đến đời mạt
pháp các chúng Tỳ Kheo phạm tội Tứ Trọng và các chúng Tỳ
Kheo Ni phạm tội Bát Trọng thì làm sao mà sám hối đặng, nên
mới cầu Phật chỉ rõ phương pháp. Lúc ấy Đức Thích Ca Như Lai
mới thuyết ra chú này; vì chú này là chú của bảy vị Phật đời
trước thường nói, rất có oai lực làm diệt hết các tội Tứ
Trọng, Ngũ Nghịch mà đặng phước vô lượng".
Tứ Trọng, Ngũ
Nghịch là tội rất nặng, nếu không phải cách sám hối vô sanh
thì tưởng không thể nào tiêu diệt cho đặng. Nhưng vì thần
chú này là bảy vị Phật đời trước xứng tánh thuyết ra, cho
nên những người trì tụng niệm niệm cũng phải
xứng tánh để đặng lý
vô sanh thì tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt,
cũng như nước sôi đổ vào tuyết thì tuyết liền bị tan biến
ngay lập tức.
11) - Thần
Chú Vãng Sanh Tịnh Độ:
Thần chú này
được trích từ trong kinh Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Căn
Bổn Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni. Thần chú này có công dụng
diệt được các trọng tội như: tội Tứ Trọng, Ngũ Nghịch, Thập
Ác, Hủy Báng Chánh Pháp. Người nào nếu y pháp mà chí tâm trì
tụng chú này thì Đức Phật A Di Đà thường trụ ở nơi đảnh đầu
người ấy luôn cả ngày đêm mà ủng hộ, không cho oan gia thừa
tiện nhiễu hại, trong lúc hiện thế đặng an ổn và đến khi
mạng chung được vãng sanh Tịnh Độ.
Cách thức
hành trì, Trước khi trì tụng chú này, hành giả phải tắm rửa,
súc miệng cho sạch sẽ, ngày đêm sáu thời, thắp hương lễ
Phật, quì gối trước bàn thờ, chấp tay cung kính trì tụng mỗi
thời tối thiểu 21 biến thì được linh ứng và hoặc trì tụng
được ba vạn (30.000) biến thì được thấy đặng Phật A Di Đà
thọ ký.
12) - Thần
Chú Thiện Thiên Nữ:
Thần chú này
được trích từ trong kinh Kim Quang Minh. Trong kinh Kim
Quang Minh nói rằng: "Nếu chúng sanh nghe nói chú này mà một
lòng thọ trì đọc tụng hương hoa cúng dường thì những thứ thọ
dụng như vàng, bạc, châu báu, trâu dê, lúa thóc đều đặng đầy
đủ hết thảy".
VI. - TỔNG KẾT:
Nên để ý các
Kinh Chú của Phật để lại trong Đại Tạng thì rất nhiều, đa
dạng theo mỗi vị Phật trình bày mỗi cách qua kinh nghiệm tu
tập của mình. Các Thiền gia thời xưa qua kinh nghiệm của họ
rút ra trong Đại tạng một số Kinh Chú theo nhu cầu phổ thông
chẳng những cho quần chúng mà cho cả người xuất gia trong
thời mạt pháp nghiệp trọng phước khinh ma cường pháp nhược
này. Những Kinh Chú mà các Thiền gia chọn ra để trì tụng là
của những vị Phật, những vị Bồ Tát rất quan hệ với các chúng
sanh nơi cõi Ta bà ngũ trược ác thế này. Còn các Kinh Chú
khác của các vị Phật hay của các vị Bồ Tát khác chỉ quan hệ
nhiều với các chúng sanh trong các cõi khác không có ngũ
trược ác thế như cõi Ta Bà này. Những Kinh Chú mà các Thiền
gia chọn ra để hành trì có những mục đích như sau:
1)
- Những Kinh Tụng nêu trên
ngoài sự Tu Huệ của hành giả và còn nhờ sự gia hộ của chư
Phật, chư Bồ Tát quan hệ giúp hành giả sớm hoàn thành hạnh
nguyện đạt đạo.
2)
- Còn các Kinh khác nhằm tu
tập bao gồm Văn Huệ, Tư Huệ và Tu Huệ trong lãnh vực tự độ
và tự giác mà không cần sự gia hộ của chư Phật, chư Bồ Tát
quan hệ, được gọi là tự lực cánh sinh.
3)
- Các Thần Chú nêu trên mà các
Thiền gia chọn lựa được rút ra trong các Kinh Tạng của chư
Phật chỉ dạy để các hành giả hành trì ngõ hầu đạt được ý
nguyện mà không bị phân tâm, không bị loạn tưởng, không bị
tẩu hoả nhập ma.
4)
- Còn các Thần Chú khác một số
không thấy trong các Kinh Phật mà chỉ thấy trong Mật Tông
nếu như hành trì mà thiếu sự hướng dẫn chơn truyền qua sự
kinh nghiệm của những người đi trước thì sẽ bị nguy hiểm
phân tâm, loạn tưởng, tẩu hoả nhập ma.
Các Thiền gia
Việt Nam cũng chọn những Kinh những Chú đã được liệt kê ở
trước ngoài những mục đích và ý nghĩa vừa trình bày còn có
mục đích khác là thể hiện văn hoá Phật Giáo Việt Nam mà các
Thiền gia Việt Nam đem sự đạt đạo xây dựng quốc gia. Nhìn
theo Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam, Nhị Thời Khoá Tụng mà các
Thiền gia Việt Nam thường sử dụng trong khoá lễ hằng ngày
dành cho các Thiền sinh hành trì, ngoài sự tu tập để chứng
đắc và còn tiêu biểu cho ba hệ phái Thiền đã từng đóng góp
xây dựng quốc gia Việt Nam trên lãnh vực văn hoá trải dài
hơn 2000 năm lịch sử. Điều đó được thấy như:
a)
- Thiền phái Vô Ngôn Thông,
Thiền phái Trúc Lâm Tam Tổ đã từng đóng góp xây dựng cho
quốc gia Việt Nam trên lãnh vực thuần tuý thiền tập.
b)
- Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi
đã từng đóng góp xây dựng cho quốc gia Việt Nam trên lãnh
vực Thiền Mật Tổng Hợp.
c)
- Thiền Phái Thảo Đường đã
từng đóng góp xây dựng quốc gia Việt Nam trên lãnh vực Thi
Ca và Nghệ Thuật.
d)
- Thiền phái Liễu Quán đã từng
đóng góp xây dựng quốc gia Việt Nam trên lãnh vực Thiền Tịnh
Song Tu. Từ những ý nghĩa và giá trị này, chúng ta là người
Việt Nam không nên xem thường Nhị Thời Khoá Tụng mà Thiền
gia Việt Nam đã chọn và cũng chứng minh rằng các Thiền gia
Việt Nam nhờ Nhị Thời Khoá Tụng này được chứng đắc, cho nên
mới để lại cho hậu thế hành trì./.
Sưu tập trong
Nhị Khoá Hiệp Giải của Hoà Thượng Thích Khánh Anh dịch và
trong Bạch Y Thần Chú của Đường Sáng Ấn Quán số 712N. 9th
St, San Jose, CA 95112 ấn hành.
Nguồn:
http://phatgiaobinhdinh.vn/mPost/121/cong-dung-va-y-nghia-cua-nhung-than-chu
NHỮNG THÀNH TỰU ĐƯỢC BIỂU HIỆN KHI TRÌ CHÚ
LĂNG NGHIÊM
1. Vượt qua
những chướng ngại sau một thời gian hành trì sẽ thấy được
tác dụng của Chú Lăng Nghiêm biểu hiện trong cuộc sống.
Đầu tiên là
đầu bị nhức đầu, hoặc đau nhức các chi, các phần trên cơ
thể.
2. Nếu đầu bị
nhức, mà nhức ở chính giữa đầu (không phải hết hoàn toàn
đầu) thì có nghĩa là nghiệp ngu si, mê muội đang được tiêu
trừ.
Học thuộc
được Chú Lăng Nghiêm thì sau này cái gì cũng có thể học
thuộc lòng được.
Nhức đầu
thường do cơ thể phản ứng, lý do rất đơn giản, bản thân Chú
Lăng Nghiêm có một tần số rất cao, nên khi người học mới ban
đầu hành trì sẽ có một khoảng thời gian chuyển đổi để thích
nghi với tần số đó. Việc nhức đầu là một trong những biểu
hiện của việc nghiệp tiêu trừ.
3. Nghiên cứu
của các Tiến sĩ, bác sĩ Nhựt Bổn cho hay, nếu buổi sáng bạn
đọc thật nhanh và lớn các chữ thì điều đó sẽ tác động đến
đại não, các tế bào não, các vùng não. Nếu thường thức dậy
buổi sáng và công phu sáng với Chú Lăng Nghiêm, niệm thật
nhanh và lớn (chú ý coi chừng đau cổ) thì một thời gian các
tế bào não sẽ phát triển tốt.
4. Nếu nhức
đầu bên phải, chỉ có phần bên phải chứ không phải toàn bộ
đầu hay đỉnh đầu thì có thể là chúng sanh trong cõi vô hình
tác động để xin theo mình tu học. Cũng có thể oan gia trái
chủ đến để mong được hồi hướng. Hoặc cũng có thể là ông bà
cha mẹ đã quá vãng nhiều kiếp đến mong giúp đỡ.
Nếu bị nhức
phần đầu bên phải, hãy cầu nguyện hồi hướng công đức cho
những ai theo mình, hay cho cửu huyền thất tổ, oan gia trái
chủ, nguyện xin các vị sẽ được siêu thoát. Cầu nguyện và
hành trì mà thấy hết nhức đầu thì biết rằng đó chính xác là
do cõi vô hình tác động.
5. Trì Chú
Lăng Nghiêm sẽ cầu gì được nấy. Nếu bạn muốn nhà sẽ có nhà,
muốn xe có xe, muốn có người yêu có người yêu... Nên hãy bớt
ham muốn, bởi muốn gì được đó tức là tiêu xài phước báo.
Chỉ có một
mong muốn duy nhất là thành Phật để độ chúng sanh. Khi phát
nguyện như vậy mà hành trì thì tự nhiên những ước muốn nhỏ
khác được thành tựu bổ sung cho ước muốn lớn của mình.
Hãy luôn nhớ,
dù có giàu, có tiền..., cũng là để giúp đỡ chúng sanh.
6. Khi hành
trì Chú Lăng Nghiêm có thành tựu, nếu mình giận ai một chút
là họ sẽ bị ảnh hưởng bởi niệm lực của mình mà bứt rứt, khó
chịu.
Nếu niệm lực
mình lớn, thì khi mình giận ai đó, có thể họ bị các Hộ Pháp
của mình đánh đến ê mình ê mẩy, hoặc có thể người mình giận
sẽ gặp tai nạn.
Thế nên, trì
Chú Lăng Nghiêm cũng hãy niệm kiêm thêm "Nam Mô Đại Bi Quán
Thế Âm Bồ Tát" đặng chuyển hóa lòng sân, hóa ra từ bi yêu
thương, có như vậy mới có lợi ích.
Hãy hết sức
chú ý điều này, Mật Chú như dao hai lưỡi, khi bạn thành tựu
rồi thì bạn dùng sao cũng được. Các vị Kim Cang Hộ Pháp
không có thiện ác, mà họ thường theo hộ vệ bạn, nên bạn nghĩ
sao họ làm vậy.
Kinh nghiệm
bản thân Lam, khi mà Lam tức giận ai đó, khó chịu ai đó thì
họ rất mệt mỏi, thậm chí đó là những người có tu hành mà còn
bị ảnh hưởng nặng, huống chi đối với người không có tu hành,
chỉ cần mình tức họ một chút là họ có thể bị tai nạn ngay.
Công phu này
mạnh đến nỗi có thể đi theo bạn đến kiếp sau, dù kiếp sau
bạn chưa biết gì về Phật Pháp, cũng không có tu học gì,
nhưng bạn khởi tâm đều tác động đến người khác mạnh mẽ.
Nên tu học
Chú Lăng Nghiêm thì phải từ bi, vô cùng từ bi.
7. Nếu có lỡ
gây lỗi lầm, phạm giới, lại còn phóng những ý niệm tiêu cực
đến những người có công phu tu trì thì thường bạn sẽ bị ảnh
hưởng rất nặng, nên hãy sám hối và niệm Nam Mô Quán Thế Âm
Bồ Tát thật nhiều thì sẽ hết.
8. Hiện tại
giảng giải từng câu Chú Lăng Nghiêm chỉ có Cố Hòa Thượng
Tuyên Hóa, và Ngài cũng nói, Ngài giải thích như vậy cũng
chỉ là một trong muôn một nghĩa và diệu dụng của Chú Lăng
Nghiêm, thế mới biết Chú Lăng Nghiêm vi diệu không thể nghĩ
bàn như thế nào.
Chỉ cần niệm
Chú Lăng Nghiêm thì người đã phóng quang vô lượng chứ chưa
nói gì đến việc thành tựu, đắc Pháp.
9. Trì Chú
Lăng Nghiêm theo Đông Mật hay cụ thể ở Việt Nam vốn là không
thông qua Quán Đảnh mà vẫn đạt diệu dụng vô cùng.
Nên bạn tự
mình có thể hành trì Chú Lăng Nghiêm mà không cần ai quán
đảnh, vì các câu chữ trong Chú Lăng Nghiêm ở đệ nhứt là cầu
xin quán đảnh ở trong đó.
Tuy nhiên,
nếu bạn được một Bậc Thầy chuyên trì Chú Lăng Nghiêm cho
phép hay hướng dẫn bạn niệm thì bạn sẽ được cộng hưởng năng
lượng mạnh mẽ và mau thành tựu hơn.
10. Thực tế
hiện tại các chùa đã bỏ đi phần công phu sáng có Chú Lăng
Nghiêm rất nhiều, chỉ còn một số ít chùa theo truyền thống
xưa cũ là còn giữ.
Chú Lăng
Nghiêm vốn cần thiết với tất cả mọi người dù tu theo tông
phái nào của Đại Thừa hay Kim Cương Thừa.
Tu Tịnh Tông
nếu có trì Chú Lăng Nghiêm sẽ có thêm gia lực rất mạnh để
bảo hộ về cõi Cực Lạc. Trong đệ nhứt của Chú Lăng Nghiêm có
câu "Quy mạng lễ A Di Đà Phật", nên tu Chú Lăng Nghiêm chẳng
có chống trái với Tịnh Độ.
Nhưng một số
chùa hiện tại theo phong cách của Tịnh Tông Học Hội bỏ đi
Chú Lăng Nghiêm buổi sáng - thật sự rất đáng tiếc.
Người tu
thiền càng nên trì Chú Lăng Nghiêm, vì tu thiền mà không có
Chú Lăng Nghiêm thì dễ lạc vào ma đạo, dễ bị ma nhập. Thường
thì hiện tại do tu xoàng xoàng nên chẳng con ma nào thèm ngó
đến mình đâu.
11. Kinh Lăng
Nghiêm được nói là bởi có Chú Lăng Nghiêm. Trong Kinh Lăng
Nghiêm phần viên thông của Đại Thế Chí Bồ Tát chính là niệm
Phật, của Quán Thế Âm Bồ Tát là nhĩ căn, hai vị này đều ở
Cực Lạc Thế Giới bên cạnh Phật A Di Đà, thử hỏi Kinh Lăng
Nghiêm, Chú Lăng Nghiêm như vậy thì làm sao chống đối với
Phật A Di Đà hay Pháp môn Tịnh độ?
Đừng nói là
tu nhiều không chuyên nhất, bạn chỉ cần mỗi ngày niệm một
biến chú Lăng Nghiêm, thời gian còn lại chuyên niệm Phật
trong ngày, thì làm sao mà không chuyên nhất.
Vả lại, khi
tâm đã chuyên nhất, thì niệm gì cũng là chuyên nhất.
Bỏ đây lấy
kia chính là một sự chấp trước.
Tổ Sư Ấn
Quang thường khuyên người niệm Chú Đại Bi.
Cố Hòa Thường
Tuyên Hóa khuyên người ngoài Chú Đại Bi thì nên học thuộc
thêm Chú Lăng Nghiêm.
Hai vị kể
trên đều là bậc trí tuệ kiệt xuất, đều là Đại Thế Chí Bồ Tát
hóa thân (Tổ sư Ấn Quang) và Quán Thế Âm Bồ Tát hóa thân (Cố
Hòa Thượng Tuyên Hóa), hai vị khuyên chúng ta hãy nắm giữ
Chú Đại Bi và Chú Lăng Nghiêm.
12. Các vị
Thầy, Tổ vãng sanh ở Việt Nam, giữ gìn mạng mạch Phật Pháp ở
Việt Nam xưa kia, có vị nào bỏ Chú Lăng Nghiêm đâu, các vị
vẫn vãng sanh thật đẹp đấy thôi.
Ngày nay,
việc bỏ Chú Lăng Nghiêm chính là mấu chốt của sự suy tàn
Phật Pháp.
Như Kinh nói,
thời mạt pháp còn lại bốn chữ "A Di Đà Phật", hiện tại nếu
chúng ta chỉ biết niệm "A Di Đà Phật" chính là thúc đẩy thời
mạt pháp.
Phải hành trì
Chú Lăng Nghiêm và niệm thì phải niệm "Nam mô A Di Đà Phật",
không được bỏ đi chữ "Nam mô" thì đó mới là giữ gìn Phật
Pháp.
Những lý lẽ
về sự nhất tâm, hay chuyên nhất chỉ là nói lý chứ không phải
hành trì.
Đừng nói là
sáu chữ hồng danh, nếu bạn nào có công phu hành trì sâu mà
chuyên niệm Chú Vãng Sanh thì biết bao nhiêu chữ, lúc đó
không phải sáu mà là hai mươi, ba mươi chữ vẫn chuyên nhất
được.
13. Sự thành
tựu các Pháp môn đều nên dựa vào Chú Lăng Nghiêm làm nền
tảng, giữ gìn Chú Lăng Nghiêm chính là truyền bá Chánh Pháp
không để đến mạt pháp vậy.
Người khuyến
khích người khác trì Chú Lăng Nghiêm, hành Chú Lăng Nghiêm,
đeo Chú Lăng Nghiêm thì đều có Kim Cang Tạng Vương hộ vệ.
14. Nếu được
thì niệm Chú Lăng Nghiêm một lần vào buổi sáng, được nữa thì
niệm thêm một lần vào buổi tối, như vậy sáng tối hai lần góp
thêm chánh khí cho trời đất.
Lam sơn trang,
12/03/2021
|