QUYỂN
THỨ NĂM
Đời Diêu Tần ngài
Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng chiếu dịch. Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt
Dịch
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM "AN-LẠC HẠNH"
THỨ MƯỜI BỐN
1. Lúc bấy
giờ, ngài Văn-Thù-Sư-Lợi đại Bồ-tát bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Các vị Bồ-tát
này thật là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn: Ở nơi đời ác
sau, hộ trì đọc nói Kinh Pháp-Hoa này".
Thế-Tôn! Các vị đại Bồ-tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói Kinh
này?
Phật bảo ngài Văn-Thù-Sư-Lợi: "Nếu vị đại Bồ-tát ở đời ác sau muốn
nói Kinh này, phải an trụ trong bốn pháp".
2. Một, an
trụ nơi "Hành-xứ" và nơi "Thân-cận-xứ" của Bồ-tát, thời có thể vì chúng sanh
mà diễn nói Kinh này. Văn-Thù-Sư-Lợi! Thế nào gọi là chỗ "Hành-xứ" của Đại
Bồ-tát? Nếu vị Đại Bồ-tát an trụ trong nhẫn nhục hòa dịu khéo thuận mà không
vụt chạc lòng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi Pháp không phân biệt mà quán
tướng như thật(1)
của các pháp cũng chẳng
vịn theo, chẳng phân biệt, đó gọi là chỗ "Hành-xứ" của Bồ-tát.
Thế nào
gọi là chỗ "Thân-cận" của Đại Bồ-tát? - Vị Đại Bồ-tát chẳng gần gũi quốc
vương, vương tử, đại thần, quan trưởng, chẳng gần gũi các ngoại đạo
Phạm-chí, Ni-kiền-Tử(2)
v.v... và chẳng gần
những kẻ viết sách thế tục ca ngâm; sách ngoại đạo cùng với phái
"Lộ-già-da-đà" phái "Nghịch-lộ-già-da-đà"(3)
cũng chẳng gần gũi
những kẻ chơi hung hiểm đâm nhau, đánh nhau, và bọn Na-la(4)
v.v... bày các cuộc
chơi biến hiện.
Lại chẳng
gần gũi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, săn bắn, chài lưới, hạng
người sống với nghề ác, những người như thế hoặc có lúc lại đến, thời Bồ-tát
vì nói pháp không có lòng mong cầu.
Lại chẳng gần gũi những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di,
hạng người cầu quả Thanh-văn, hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc ở
trong giảng đường chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó lại đến,
Bồ-tát theo cơ nghi nói pháp không lòng mong cầu.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Lại vị Đại Bồ-tát chẳng nên ở thân người nữ cho là tướng có
thể sanh tư tưởng dục nhiễm mà vì nói pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà
người chẳng cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái góa, v.v... chung nói chuyện,
cũng lại chẳng gần năm giống người bất nam(5)
để làm thân hậu.
Chẳng
riêng mình vào nhà người, nếu lúc có nhơn duyên cần riêng mình vào thời
chuyên một lòng niệm Phật.
Nếu vì
người nữ nói pháp thời chẳng hở răng cười, chẳng bày hông, ngực, nhẫn đến vì
pháp mà còn chẳng thân hậu, huống lại là việc khác.
Chẳng ưa
nuôi đệ tử Sa-di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng nó đồng
một thầy. Thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm mình.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Đó gọi là chỗ "Thân-cận" ban đầu.
3. Lại nữa,
vị Đại Bồ-tát quán sát "Nhứt thiết pháp không như thiệt tướng"(1a)
chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư
không, không có thật tánh, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sanh, chẳng xuất,
chẳng khởi, không danh, không tướng, thiệt không chỗ có, không lường, không
ngằn, không ngại, không chướng, chỉ do nhơn duyên mà có, từ điên đảo mà sanh
cho nên nói, thường ưa quán sát pháp tướng như thế đó gọi là "Chỗ thân-cận"
thứ hai của vị Đại Bồ-tát.
Lúc đó,
Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
4. Nếu có
vị Bồ-tát
Ở trong đời ác sau
Lòng không hề sợ sệt
Muốn nói Kinh pháp này
Nên trụ vào "Hành-xứ"
Và trụ "Thân-cận-xứ".
Thường xa rời quốc vương
Và con của quốc vương
Quan đại thần, quan lớn
Kẻ chơi việc hung hiểm
Cùng bọn Chiên-đà-la(6)
Hàng ngoại đạo Phạm-chí
Cũng chẳng ưa gần gũi
Hạng người Tăng thượng mạn
Hàng học giả tham chấp
Kinh luật luận tiểu thừa
Những Tỳ-kheo phá giới
Danh tự A-la-hán
Và những Tỳ-kheo-ni
Ưa thích chơi giởn cười
Các vị Ưu-bà-di
Tham mê năm món dục
Cầu hiện tại diệt độ
Đều chớ có gần gũi.
Nếu những hạng người đó
Dùng tâm tốt mà đến
Tại chỗ của Bồ-tát
Để vì nghe Phật đạo
Bồ-tát thời nên dùng
Lòng không chút sợ sệt
Chẳng có niệm mong cầu
Mà vì chúng nói pháp.
Những gái góa, gái trinh
Và các kẻ bất nam
Đều chớ có gần gũi
Kẻ đồ tể cắt thái
Săn bắn và chài lưới
Vì lợi mà giết hại
Bán thịt để tự sống
Buôn bán sắc gái đẹp
Những người như thế đó
Đều chớ có gần gũi.
Các cuộc chơi giởn dữ
Hung hiểm đâm đánh nhau
Và những dâm nữ thảy
Trọn chớ có gần gũi.
Chớ riêng ở chỗ khuất
Vì người nữ nói pháp
Nếu lúc vì nói pháp
Chẳng đặng chơi giởn cười
Khi vào xóm khất thực
Phải dắt một Tỳ-kheo
Nếu không có Tỳ-kheo
Phải một lòng niệm Phật.
Đây thời gọi tên là
"Hành-xứ", "Thân-cận-xứ"
Dùng hai xứ trên đây
Có thể an lạc nói.
Lại cũng chẳng vịn theo
Pháp thượng, trung và hạ
Hữu-vi hay vô-vi
Thiệt cùng pháp chẳng thiệt
Cũng chẳng có phân biệt
Là nam là nữ thảy
Lại chẳng đặng các pháp
Chẳng biết cũng chẳng thấy
Đây thời gọi tên là
"Hành-xứ" của Bồ-tát.
Tất cả các món pháp
Đều không, chẳng chỗ có
Không có chút thường trụ
Vẫn cũng không khởi diệt
Đây gọi là "Thân-cận"
Chỗ người trí hằng nương.
Chớ đảo điên phân biệt
Các pháp có hoặc không
Là thật, chẳng phải thật
Là sanh chẳng phải sanh,
Ở an nơi vắng vẻ
Sửa trao nhiếp tâm mình
An trụ chẳng lay động
Như thể núi Tu-di.
Quán sát tất cả pháp
Thảy đều không thật có
Dường như khoảng hư không
Không có chút bền chắc.
Chẳng sanh cũng chẳng xuất
Chẳng động cũng chẳng thối
Thường trụ một tướng thể
Đó gọi là “Cận xứ”
Nếu có vị Tỳ-kheo
Sau khi Ta diệt độ
Vào được "Hành-xứ" này
Và "Thân-cận-xứ" đó
Thời lúc nói Kinh này
Không có lòng e sợ.
Vị Bồ-tát có lúc
Vào nơi nhà tịnh thất
Lòng nghĩ nhớ chơn chánh
Theo đúng nghĩa quán pháp.
Từ trong thiền định dậy
Vì các bậc quốc vương
Vương tử và quan, dân
Hàng Bà-la-môn thảy
Mà khai hóa diễn bày
Rộng nói Kinh điển này
Tâm vị đó an ổn
Không có chút khiếp nhược.
Văn-Thù-Sư-Lợi này!
Đó gọi là Bồ-tát
An trụ trong sơ pháp
Có thể ở đời sau
Diễn nói Kinh Pháp-Hoa.
5. Lại
Văn-Thù-Sư-Lợi! Sau khi Đức Như-Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp muốn nói
Kinh này, phải trụ nơi hạnh An-lạc, hoặc miệng tuyên nói hoặc lúc đọc Kinh
đều chẳng ưa nói lỗi của người và của Kinh điển; cũng chẳng khinh mạn các
Pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng
Thanh-văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên
khen ngợi điều tốt của người đó.
Lại cũng
chẳng sanh lòng oán hiềm, vì khéo tu lòng an-lạc như thế nên những người
nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp Tiểu thừa đáp, chỉ
dùng pháp Đại thừa mà vì đó giải nói làm cho đặng bực
"Nhứt-thiết-chủng-trí".
Khi ấy,
Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
6. Vị
Bồ-tát thường ưa
An ổn nói Kinh pháp
Ở nơi chỗ thanh tịnh
Mà sắp đặt sàn tòa
Dùng hương dầu xoa thân
Tắm gội các bụi dơ
Mặc y mới sạch sẽ
Trong ngoài đều sạch thơm
Ngồi an nơi pháp tòa
Theo chỗ hỏi vì nói.
Nếu có vị Tỳ-kheo
Cùng với Tỳ-kheo-ni
Các hàng Ưu-bà-tắc
Và hàng Ưu-ba-di
Quốc vương và Vương tử
Các quan cùng sỹ dân
Dùng pháp nghĩa nhiệm mầu
Vui-vẻ vì họ nói.
Nếu có người gạn hỏi
Theo đúng nghĩa mà đáp
Nhơn duyên hoặc thí-dụ
Giải bày phân biệt nói
Dùng trí phương tiện này
Đều khiến kia phát tâm
Lần lần thêm đông nhiều
Vào ở trong Phật đạo.
Trừ lòng lười biếng trễ
Cùng với tướng giải đãi
Xa rời các ưu não
Tâm từ lành nói pháp.
Ngày đêm thường tuyên nói
Giáo pháp Vô thượng đạo
Dùng các việc nhơn duyên
Vô-lượng món thí-dụ
Mở bày dạy chúng sanh
Đều khiến chúng vui mừng
Y phục cùng đồ nằm
Đồ ăn uống thuốc thang
Mà ở nơi trong đó
Không có chỗ mong cầu
Chỉ chuyên một lòng nhớ
Nhơn duyên nói Kinh pháp
Nguyện ta thành Phật đạo
Khiến mọi người cũng vậy
Đó là lợi lành lớn
Là an vui cúng dường.
Sau khi Ta diệt độ
Nếu có vị Tỳ-kheo
Có thể diễn nói được
Kinh Diệu-Pháp-Hoa này
Lòng không chút ganh hờn
Không các não chướng ngại
Cũng lại không ưu sầu
Và cùng mắn nhiếc thảy
Lại cũng không sợ sệt
Không dao gậy đánh đập
Cũng không xua đuổi ra
Vì an trụ nhẫn vậy.
Người trí khéo tu tập
Tâm mình được dường ấy
Thời hay trụ an-lạc
Như ta nói ở trên
Công đức của người đó
Trong nghìn muôn ức kiếp
Tính kễ hay thí-dụ
Nói chẳng thể hết đặng.
7. Lại
Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt mà thọ trì đọc
tụng Kinh điển này, chớ ôm lòng ganh ghét dua dối, cũng chớ khinh mắng người
học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc cầu Thanh-văn, hoặc cầu Duyên-giác, hoặc cầu
Bồ-tát đạo đều không đặng làm não đó, khiến cho kia sanh lòng nghi hối mà
nói với người đó rằng: “Các người cách đạo rất xa trọn không thể đặng bực
Nhứt-thiết-chủng-trí. Vì sao? Vì các người là kẻ buông lung biếng trể đối
với Đạo”.
Lại cũng chẳng nên hý luận các pháp có chổ giành cải. Phải ở nơi tất
cả chúng sanh, khởi tưởng đại bi, đối với các Đức Như-Lai, sanh tưởng như
cha lành, đối với các Bồ-tát ở mười phương phải thâm tâm lễ lạy, với tất cả
chúng sanh đều bình đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều,
chẳng nói ít, nhẫn đến người rất ưa pháp cũng chẳng vì nói nhiều.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp muốn diệt nếu
thành tựu được hạnh thứ ba đây, thời lúc nói pháp này không ai có thể não
loạn, đặng bạn đồng học tốt chung cùng đọc tụng Kinh này, cũng đặng đại
chúng thường đến nghe thọ. Nghe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụng, tụng rồi hay
nói, nói rồi hay chép, hoặc bảo người chép, cúng dường Kinh quyển cung kính
tôn trọng ngợi khen.
Lúc bấy
giờ, Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
8. Nếu muốn
nói Kinh này
Phải bỏ lòng ganh hờn
Ngạo dua dối tà ngụy
Thường tu hạnh chất trực
Chẳng nên khinh miệt người
Cũng chẳng hý luận pháp
Chẳng khiến kia nghi hối
Rằng ngươi chẳng thành Phật,
Phật tử đó nói pháp
Thường nhu hòa hay nhẫn
Từ-bi với tất cả
Chẳng sanh lòng biếng trễ,
Bồ-tát lớn mười phương
Thương chúng nên hành đạo
Phải sanh lòng cung kính
Đó là đại sư ta,
Với các Phật Thế-Tôn
Tưởng là cha Vô-thượng,
Phá nơi lòng kiêu mạn
Nói pháp không chướng ngại
Pháp thứ ba như thế
Người trí phải giữ gìn
Một lòng an-lạc hạnh
Vô-lượng chúng cung kính.
9. Lại
Văn-Thù-Sư-Lợi! Các vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt, có vị nào
trì Kinh Pháp-Hoa này ở trong hàng người tại gia, xuất gia sanh lòng từ lớn,
ở trong hạng người chẳng phải Bồ-tát sanh lòng bi lớn, phải nghĩ thế này:
những người như thế thời là mất lợi lớn. Đức Như-Lai phương tiện tùy nghi
nói pháp chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng
hỏi. Người đó dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu Kinh này, lúc ta đặng
Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, người đó tùy ở chỗ nào, ta dùng sức
thần-thông, sức trí-huệ dẫn dắt đó khiến đặng trụ trong pháp này.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát đó ở sau lúc Như-Lai diệt độ nếu thành
tựu đặng pháp thứ tư này không có lầm lỗi, thường được hàng Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Quốc vương, Vương tử, Đại thần, Nhân dân,
Bà-la-môn, Cư sỹ thảy cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, hàng chư
Thiên ở trên hư không vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong xóm
làng thành ấp, rừng cây vắng vẻ, có người đến muốn gạn hỏi, hàng chư Thiên
ngày đêm thường vì pháp mà vệ hộ đó, có thể khiến người nghe đều đặng vui
mừng.
Vì sao? Vì
Kinh này được sức thần của tất cả các Đức Phật thuở quá khứ, vị lai, hiện
tại giữ gìn vậy.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này ở trong vô-lượng cõi nước, nhẫn đến
danh tự còn chẳng đặng nghe, hà huống là đặng thấy thọ trì đọc tụng.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Thí như vua Chuyển-Luân Thánh-Vương(7)
sức lực mạnh mẽ
muốn dùng oai thế hàng phục các nước, mà các vua nhỏ chẳng thuận mạng lịnh,
bấy giờ Chuyển-Luân Thánh-Vương đem các đạo binh qua đánh dẹp, vua thấy binh
chúng những người đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng
ban. Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm, làng, thành, ấp, hoặc ban cho đồ y phục
trang nghiêm nơi thân, hoặc cho các món trân bảo, vàng, bạc, lưu-ly, xa-cừ,
mã-não, san-hô, hổ-phách, voi, ngựa, xe, cộ, tôi tớ, nhân dân, chỉ viên minh
châu trong búi tóc chẳng đem cho đó.
Vì sao? Vì
riêng trên đảnh vua có một viên châu này, nếu đem cho đó thời các quyến
thuộc của vua ắt rất kinh lạ.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Như-Lai cũng như thế, dùng sức thiền định trí-huệ
đặng cõi nước Pháp, giáo hóa trong ba cõi mà Ma vương chẳng khứng thuận
phục, các tướng Hiền Thánh của Như-Lai cùng ma đánh nhau. Những người có
công lòng cũng vui mừng, ở trong hàng chúng vì nói các Kinh khiến tâm kia
vui thích, ban cho các pháp Thiền-định, Giải thoát, Vô-lậu, Căn, Lực. Và lại
ban cho thành Niết-bàn, bảo rằng đặng diệt độ để dẫn dắt lòng chúng làm cho
đều đặng vui mừng, mà chẳng vì đó nói Kinh Pháp-Hoa này.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Như vua Chuyển-Luân thấy các binh chúng
những người có công lớn, đem viên minh châu khó tin từ lâu ở trong búi tóc
chẳng vọng cho người, mà nay cho đó.
Đức
Như-Lai cũng lại như thế, làm vị Đại-Pháp-Vương trong ba cõi, đem pháp mầu
giáo hóa tất cả chúng sanh. Thấy quân Hiền Thánh cùng ma ngủ ấm, ma phiền
não(8),
ma chết, đánh nhau
có công lao lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới ma. Lúc ấy Như-Lai cũng
rất vui mừng; Kinh Pháp-Hoa này có thể khiến chúng sanh đến bậc
"Nhứt-thiết-trí" là pháp mà tất cả thế gian đều oán ghét khó tin, trước chưa
từng nói mà nay nói đó.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này là lời nói bậc nhứt của Như-Lai, ở trong
các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức mạnh kia lâu
gìn viên minh châu mà nay mới cho đó.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này là tạng bí mật của các Đức Phật Như-Lai, ở
trong các Kinh thời là bậc trên hết, lâu ngày giữ gìn chẳng vọng tuyên nói,
mới ở ngày nay cùng với các ông mà bày nói đó.
Lúc đó,
Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
10.
Thường tu hành nhẫn nhục
Thương xót tất cả chúng
Mới có thể diễn nói
Kinh của Phật khen ngợi.
Đời mạt thế về sau
Với tại gia, xuất gia
Và chẳng phải Bồ-tát,
Nên sanh lòng từ-bi
Những người đó chẳng nghe
Chẳng tin Kinh pháp này
Thời là mất lợi lớn
Khi Ta chứng Phật đạo
Dùng các sức phương tiện
Vì nói Kinh pháp này
Làm cho trụ trong đó.
Thí như vua Chuyển-Luân
Thánh-vương có sức mạnh
Binh tướng đánh có công
Thưởng ban những đồ vật
Voi, ngựa và xe cộ
Đồ trang nghiêm nơi thân
Và những ruộng cùng nhà
Xóm làng thành ấp thảy
Hoặc ban cho y phục
Các món trân báu lạ
Tôi tớ cùng của cải
Đều vui mừng ban cho,
Nếu có người mạnh mẽ
Hay làm được việc khó
Vua mới mở búi tóc
Lấy minh châu cho đó.
Đức Như-Lai cũng thế
Là vua trong các pháp
Nhẫn nhục sức rất lớn
Tạng báu trí-huệ sáng
Dùng lòng từ-bi lớn
Đúng như pháp độ đời
Thấy tất cả mọi người
Chịu các điều khổ não
Muốn cầu được giải thoát
Cùng các ma đánh nhau,
Phật vì chúng sanh đó
Nói các món Kinh pháp
Dùng sức phương tiện lớn
Nói các Kinh điển đó,
Đã biết loài chúng sanh
Đặng sức mạnh kia rồi
Rốt sau mới vì chúng
Nói Kinh Pháp-Hoa này
Như vua Thánh mở tóc
Lấy minh châu cho đó.
Kinh nầy là bực tôn
Trên hết trong các Kinh
Ta thường giữ gìn luôn
Chẳng vọng vì mở bày
Nay chính đã phải lúc
Vì các ông mà nói.
Sau khi Ta diệt độ
Người mong cầu Phật đạo
Muốn đặng trụ an ổn
Diễn nói Kinh pháp này
Phải nên thường gần gũi
Bốn pháp trên như thế.
Người đọc tụng Kinh này
Thường không bị ưu não
Lại không có bịnh đau
Nhan sắc được trắng sạch
Chẳng sanh nhà bần cùng
Dòng ty tiện xấu xa
Chúng sanh thường ưa thấy.
Như ham mộ Hiền Thánh
Các Đồng tử cõi trời
Dùng làm kẻ sai khiến
Dao gậy chẳng đến được
Độc dữ chẳng hại được
Nếu người muốn mắng nhiếc
Miệng thời liền ngậm bít
Dạo đi không sợ sệt
Dường như Sư tử vương
Trí-huệ rất sáng suốt
Như mặt trời chói sáng.
Nếu ở trong chiêm bao
Chỉ thấy những việc tốt
Thấy các đức Như-Lai
Ngồi trên tòa sư tử
Các hàng chúng Tỳ-kheo
Vây quanh nghe nói pháp,
Lại thấy các Long thần
Cùng A-tu-la thảy
Số như cát sông hằng
Đều cung kính chắp tay
Tự ngó thấy thân mình
Mà vì chúng nói pháp.
Lại thấy các đức Phật
Thân tướng thuần sắc vàng
Phóng vô-lượng hào quang
Soi khắp đến tất cả
Dùng giọng tiếng Phạm âm
Mà diễn nói các pháp
Phật vì hàng tứ chúng
Nói Kinh pháp Vô thượng
Thấy thân mình ở trong
Chắp tay khen ngợi Phật
Nghe pháp lòng vui mừng
Mà vì cúng dường Phật
Đặng pháp Đà-la-ni
Chứng bậc Bất thối trí,
Phật biết tâm người đó
Đã sâu vào Phật đạo
Liền vì thọ ký cho
Sẽ thành tối Chánh giác
Thiện-nam-tử người này!
Sẽ ở đời vị lai
Chứng đặng vô lượng trí
Nên đạo lớn của Phật,
Cõi nước rất nghiêm tịnh
Rộng lớn không đâu bằng
Cũng có hàng tứ chúng
Chắp tay nghe nói pháp
Lại thấy thân của mình
Ở trong rừng núi vắng
Tu tập các pháp lành
Chứng thiệt tướng các pháp
Sâu vào trong thiền định
Thấy các Phật mười phương
Các Phật thân sắc vàng
Trăm phước tướng trang nghiêm
Nghe pháp vì người nói
Thường có mộng tốt đó.
Lại mộng làm quốc vương
Bỏ cung điện quyến thuộc
Và ngủ dục thượng diệu
Đi đến nơi đạo tràng
Ở dưới cội Bồ-Đề
Mà ngồi tòa sư tử
Cầu đạo quả bảy ngày
Đặng trí của các Phật
Thành đạo Vô thượng rồi
Dậy mà chuyển Pháp luân
Vì bốn chúng nói pháp
Trải nghìn muôn ức kiếp
Nói pháp mầu Vô-lậu
Độ vô-lượng chúng sanh
Sau sẽ vào Niết-bàn
Như khói hết đèn tắt.
Nếu trong đời ác sau
Nói pháp bực nhứt này
Người đó được lợi lớn
Các công đức như trên.
Thích nghĩa:
(1+1a) TƯỚNG NHƯ THẬT CỦA CÁC PHÁP: Rời tất cả tướng "có
không v.v..." gọi là "Thật tướng" (tướng chơn-thật), vì tất cả tướng: có
không v.v... đều là hư dối cả.
(2) NI-KIỀN-TỬ: Lỏa hình ngoại đạo (đạo ở trần truồng) cũng gọi
là: "vô tàm ngoại đạo" (đạo không biết hổ thẹn).
(3) LỘ-GIÀ-DA-ĐÀ: Phái thuận thế ngoại đạo (đạo thuận theo thế
tục) nghich-lộ Già-da-đà: Phái nghịch thuận thế ngoại đạo (chống trái với
thuận thế ngoại đạo).
(4) NA-LA: Kẻ múa hát.
(5) BẤT NAM: Chẳng phải thiệt đàn ông, như người lại cái, kẻ
không nam căn v.v...
(6) CHIÊN-ĐÀ-LA: Kẻ đồ-tể, quân đao phủ.
(7) CHUYỂN-LUÂN THÁNH-VƯƠNG: Có bốn:
a)-
Thiết-Luân-Vương (cai trị 1 châu thiên-hạ).
b)-
Đồng-Luân-Vương (cai trị 2 châu thiên-hạ).
c)-
Ngân-Luân-Vương (cai trị 3 châu thiên hạ).
d)-
Kim-Luân-Vương (cai trị 4 châu thiên hạ).
Vì phước nghiệp đời trước nên khi lên ngôi vua, có xe báu tự
nhiên, hoặc bằng sắt, đồng, bac, vàng hiện ra. Vua dùng xe đó mà đi tuần,
hay dẹp giặc trong cõi mình cai trị nên gọi là "Chuyển-Luân-Thánh-Vương".
(8) MA NGỦ ẤM, MA PHIỀN NÃO: Năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức
hay làm khổ hại nên gọi là ma. Các lòng tham, sân, si, dục, nghi v.v...
thường làm rối-rắm, phiền-muộn rất khổ hại nên gọi là ma.
|