QUYỂN
THỨ TƯ
Đời Diêu Tần ngài
Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng chiếu dịch. Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt
Dịch
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM "HIỆN-BẢO-THÁP"
THỨ MƯỜI MỘT
1. Lúc bấy
giờ, trước Phật có tháp bằng bảy báu, cao năm trăm do-tuần, ngang rộng hai
trăm năm mươi do-tuần, từ dưới đất nổi lên trụ ở giữa hư không; các món vật
báu trau giồi, năm nghìn bao lơn, nghìn muôn phòng nhà, vô số tràng phan để
nghiêm sức đó, chuỗi ngọc báu rũ xuống, muôn nghìn linh báu treo trên tháp.
Bốn mặt đều thoảng đưa ra mùi hương gỗ Ly cấu Chiên-đàn khắp cùng cả cõi
nước.
Các phan
lọng đều dùng bảy thứ báu, vàng, bạc, lưu-ly, xa-cừ, mã-não, trân châu và
mai khôi hiệp lại thành, cao đến ngang cung Trời Tứ-Thiên-Vương, Trời
Đao-Lợi rưới hoa Mạn-đà-la cúng dường tháp báu.
Các Trời
khác và Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, Nhơn,
Phi nhơn v.v... nghìn muôn ức chúng đều đem tất cả hoa, hương, chuỗi ngọc,
phan, lọng, kỹ nhạc mà cúng dường tháp báu, đồng cung kính tôn trọng ngợi
khen.
Bấy giờ
trong tháp báu vang tiếng lớn ra khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Đức
Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn! Có thể dùng huệ lớn bình đẳng vì đại chúng mà nói
Kinh Giáo Bồ-Tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm Diệu-Pháp Liên-Hoa. Đúng thế! Đúng
thế! Đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn!! Như lời Phật nói đó, đều là chơn thật”.
2. Bấy giờ,
bốn chúng thấy tháp báu lớn trụ trong hư không, lại nghe trong tháp vang
tiếng nói ra, đều đặng pháp hỷ, lấy làm lạ chưa từng có, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy cung kính chắp tay rồi đứng một bên.
Lúc đó, có vị đại Bồ-tát tên Đại-Nhạo-Thuyết biết lòng nghi của tất
cả Trời, Người, A-tu-la v.v... trong thế gian mà bạch Phật rằng: "Bạch
Thế-Tôn! Do nhơn duyên gì mà có tháp nầy từ đất nổi lên, lại ở trong tháp
vang ra tiếng như thế?"
Lúc đó,
Phật bảo ngài Đại-Nhạo-Thuyết Bồ-tát: "Trong tháp báu này có toàn thân
Như-Lai, thời quá khứ về trước cách đây vô-lượng nghìn muôn ức vô số cõi
nước ở phương Đông có nước tên Bảo-Tịnh, Đức Phật đó tu hạnh đạo Bồ-tát phát
lời thệ nguyện lớn rằng: "Nếu Ta được thành Phật sau khi diệt độ trong cõi
nước ở mười phương có chỗ nào nói Kinh Pháp-Hoa, thời tháp miếu của Ta vì
nghe kinh đó mà nổi ra nơi trước để làm chứng minh khen rằng: "Hay thay!"
Đức Phật đó thành Phật rồi lúc sắp diệt độ ở trong đại chúng Trời, Người bảo
các Tỳ-kheo rằng: "Sau khi Ta diệt độ muốn cúng dường toàn thân của Ta thời
nên dựng một tháp lớn".
Đức Phật
đó dùng sức nguyện thần-thông nơi nơi chỗ chỗ trong mười phương cõi nước,
nếu có nói Kinh Pháp-Hoa, thời tháp báu đó đều nổi ra nơi trước, toàn thân
Phật trong tháp khen rằng: "Hay thay! Hay thay!".
Đại-Nhạo-Thuyết! Nay tháp của Đa-Bảo Như-Lai vì nghe nói Kinh Pháp-Hoa nên
từ dưới dất nổi lên khen rằng: "Hay thay! Hay thay!"
3. Bấy giờ
ngài Đại-Nhạo-Thuyết Bồ-tát do sức thần của đức Như-Lai mà bạch Phật rằng:
"Bạch Thế-Tôn! Chúng con nguyện muốn thấy thân của Đức Phật đó". Phật bảo
ngài Đại-Nhạo-Thuyết Bồ-tát Ma-ha-tát: Phật Đa-Bảo có nguyện sâu nặng: "Nếu
lúc tháp báu của Ta vì nghe Kinh Pháp-Hoa mà hiện ra nơi trước các Đức Phật,
có Phật nào muốn đem thân Ta chỉ bày cho bốn chúng, thời các vị Phật của
Phật đó phân thân ra nói pháp ở các cõi nước trong mười phương đều phải nhóm
cả một chỗ, vậy sau thân của Ta mới hiện ra".
Đại-Nhạo-Thuyết! Các vị Phật của Ta phân thân nói pháp ở các cõi nước trong
mười phương nay nên sẽ nhóm lại. Ngài Đại-Nhạo-Thuyết bạch Phật rằng: "Thưa
Thế-Tôn! Chúng con cũng nguyện muốn thấy các vị Phật của Thế-Tôn phân thân
để lễ lạy cúng dường".
4. Bấy giờ,
Phật phóng một lằn sáng nơi lông trắng giữa chặng mày, liền thấy năm trăm
muôn ức na-do-tha hằng-hà-sa cõi nước ở phương Đông. Các cõi nước đó đều
dùng pha-lê làm đất, cây báu, y báu để làm đồ trang nghiêm, vô số nghìn muôn
ức Bồ-tát đầy dẫy trong nước đó. Khắp nơi giăng màn báu, lưới báu phủ trên,
Đức Phật trong nước đó đều dùng tiếng lớn tốt mà nói các pháp, và thấy
vô-lượng nghìn muôn ức Bồ-tát khắp đầy trong nước đó vì chúng sanh mà nói
pháp. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía, trên dưới chỗ tướng sáng lông trắng
chiếu đến cũng lại như thế.
Lúc đó,
các Phật ở mười phương đều bảo chúng Bồ-tát rằng: "Thiện-nam-tử! Ta nay phải
qua thế giới Ta-bà, chỗ của Đức Thich-Ca-Mâu-Ni Phật, cùng để cúng dường
tháp báu của Đa-Bảo Như-Lai".
5. Lúc bấy
giờ, cõi Ta-bà liền biến thành thanh-tịnh, đất bằng lưu-ly, cây báu trang
nghiêm, vàng ròng làm dây để giăng ngăn tám đường, không có các tụ-lạc làng
xóm, thành ấp, biển cả, sông ngòi, núi sông cùng rừng bụi. Đốt hương báu
lớn, hoa Mạn-đà-la trải khắp cõi đất, dùng lưới màn báu giăng trùm ở trên,
treo những linh báu, chỉ lưu lại chúng trong hội này, dời các trời, người để
ở cõi khác.
Lúc đó,
các Đức Phật đều đem theo một vị Bồ-tát lớn để làm thị giả qua cõi Ta-bà đều
đến dưới cây báu, mỗi mỗi cây báu cao năm trăm do-tuần, nhánh lá bông trái
thứ lớp rất trang nghiêm. Dưới các cây báu đều có tòa sư-tử cao năm do-tuần
cũng dùng đồ báu tốt mà trau giồi đó.
Khi ấy,
các Đức Phật đều ngồi xếp bằng trên tòa nầy, như thế lần lựa đến khắp đầy cả
cõi Tam-thiên Đại-thiên mà ở nơi thân của Đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật phân ra
trong một phương vẫn còn chưa hết.
Bấy giờ,
đức Thích-Ca-Mâu-Ni vì muốn dung thọ các vị Phật của mình phân thân, nên ở
tám phương lại biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho
thanh-tịnh, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cùng A-tu-la, lại cũng dời
các hàng trời, người để ở cõi khác.
Những nước
của Phật biến hóa ra đó cũng dùng lưu-ly làm đất, cây báu trang nghiêm cao
năm trăm do-tuần, nhánh lá bông trái đều có thứ lớp tốt đẹp, dưới cây đều có
tòa báu sư tử cao năm do-tuần, dùng các thứ báu để trau giồi. Những nước đó
cũng không có biển cả sông ngòi và các núi lớn: núi Mục-chơn-lân-đà, núi
Thiết-vi, núi Đại-Thiết-vi, núi Tu-di v.v... thông làm một cõi nước Phật,
đất báu bằng thẳng, các báu xen lẫn nhau làm màn trùm khắp ở trên, treo các
phan lọng, đốt hương báu lớn, các hoa trời báu trải khắp trên đất.
Đức
Thích-Ca-Mâu-Ni Phật vì các Phật sẽ đến ngồi, nên ở nơi tám phương lại đều
biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh-tịnh,
không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và A-tu-la, lại dời các hàng trời người
để ở cõi khác. Những nước biến hóa ra đó cũng dùng lưu-ly làm đất, cây báu
trang nghiêm, cao năm trăm do-tuần nhánh lá bông trái thứ tự tốt đẹp, dưới
cây đều có tòa sư tử bằng báu cao năm do-tuần, cũng dùng chất báu tốt mà
trau giồi đó.
Những nước
nầy cũng không có biển cả sông ngòi và các núi lớn: núi Mục-chơn-lân-đà, núi
Đại-mục-chơn-lân-đà, núi Thiết-vi, núi Đại-Thiết-vi, núi Tu-di v.v... thông
lại làm một cõi nước Phật đất báu bằng thẳng, các báu đương xen lẫn nhau
thành màn trùm khắp ở trên, treo các phan lọng, đốt hương báu tốt, các thứ
hoa trời báu trải khắp trên đất.
Bấy giờ, ở phương Đông, các đức Phật trong trăm nghìn muôn ức
na-do-tha hằng-hà-sa cõi nước của Đức Thích-Ca-Mâu-Ni-Phật phân thân ra,
thảy đều nói pháp đến nhóm ở cõi nầy. Tuần tự như thế, các Đức Phật trong
cõi nước ở mười phương thảy đều đến nhóm ngồi ở tám phương. Bấy giờ, mỗi mỗi
phương các Đức Như-Lai ngồi khắp đầy trong bốn trăm muôn ức na-do-tha cõi
nước.
6. Lúc đó,
các đức Phật đều ngồi tòa sư tử dưới cây báu, đều sai vi thị giả qua thăm
viếng Đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật, đều đưa cho đầy bụm hoa báu mà bảo thị giả
rằng: Thiện-nam-tử! Ngươi qua đến núi Kỳ-Xà-Quật, chổ của Đức
Thích-Ca-Mâu-Ni Phật, theo như lời của Ta mà thưa cùng Phật thế này:
"Như-Lai có được ít bịnh ít khổ sức khỏe an vui, và chúng Bồ-tát cùng
Thanh-văn đều an ổn chăng?" Rồi đem hoa báu này rải trên Phật để cúng dường
mà thưa rằng: "Đức Phật kia cũng muốn mở tháp báu này". Các đức Phật sai
người đến cũng như vậy.
Bấy giờ,
Đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật thấy các vị Phật của mình phân thân đều ngồi trên
tòa sư tử, đều nghe các Phật cùng muốn đồng mở tháp báu, Phật liền từ chổ
ngồi đứng dậy trụ trên hư không, tất cả hàng bốn chúng đồng đứng dậy chắp
tay một lòng nhìn Phật.
Khi ấy,
Đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật dùng ngón tay hữu mở cửa tháp bảy báu vang ra tiếng
lớn, như tháo khóa chốt mở cửa thành lớn.
Tức thời,
tất cả chúng trong hội đều thấy Đức Đa-Bửu Như-Lai ở trong tháp báu ngồi tòa
sư tử, toàn thân không rã như vào cảnh thiền định, lại nghe Phật đó nói:
"Hay thay! Hay thay! Thích-Ca-Mâu-Ni Phật sướng thích nói Kinh Pháp-Hoa đó,
Ta vì nghe kinh đó mà đến cõi này".
Bấy giờ,
hàng tứ chúng thấy đức Phật đã diệt độ vô lượng nghìn muôn ức kiếp về trước
nói lời như thế đều khen là việc chưa từng có, đều đem hoa trời báu rải trên
Đức Phật Đa-Bửu và Phật Thích-Ca-Mâu-Ni.
Lúc đó,
Đức Đa-Bửu Phật ở trong tháp báu chia nửa tòa cho Thích-Ca-Mâu-Ni Phật mà
nói rằng: "Thích-Ca-Mâu-Ni Phật có thể đến ngồi trên tòa nầy". Tức thời Đức
Thích-Ca-Mâu-Ni Phật vào trong tháp báu ngồi xếp bằng trên nửa tòa đó.
Bấy giờ,
hàng đại chúng thấy hai Đức Như-Lai ngồi xếp bằng trên tòa sư tử trong tháp
bảy báu thời đều nghĩ rằng: "Đức Phật ngồi trên cao xa, cúi mong đức Như-Lai
dùng sức thần-thông làm cho bọn chúng con đều được ở trên hư không".
Tức thời
Đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật dùng sức thần-thông tiếp hàng đại chúng đều ở hư
không, rồi dùng tiếng lớn mà bảo đó rằng: "Ai có thể ở trong cõi Ta-bà này
rộng nói Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa nay chính phải lúc. Như-Lai không bao lâu
sẽ vào Niết-bàn, Phật muốn đem Kinh Pháp-Hoa này phó chúc cho có người".
Khi ấy,
Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
7. Đấng
Thánh-Chúa Thế-Tôn
Dầu diệt độ đã lâu
Ở trong tháp báu này
Còn vì pháp mà đến
Các ông lại thế nào
Há chẳng siêng vì pháp?
Phật Đa-Bửu diệt độ
Đã vô lượng số kiếp
Nơi nơi đến nghe pháp
Vì khó gặp đặng vậy.
Phật kia bổn nguyện rằng
Sau khi Ta diệt độ
Nơi nơi tháp Ta qua
Thường vì nghe Pháp-Hoa.
Lại vô lượng các Phật
Số nhiều như hằng sa
Của Ta phân thân ra
Vì muốn đến nghe pháp
Và cùng để ra mắt
Phật diệt độ Đa-Bửu
Nên đều bỏ cõi đẹp
Cùng với chúng đệ-tử
Trời, Người, Rồng, Thần thảy
Và các việc cúng dường
Muốn pháp lâu ở đời
Cho nên đến cõi này.
Ta vì các Phật ngồi
Dùng sức thần-thông lớn
Dời vô lượng trời người
Làm cho nước thanh-tịnh.
Các đức Phật mỗi mỗi
Đều đến dưới cây báu
Như hoa sen trang nghiêm
Nơi ao báu trong sạch.
Dưới mỗi cây báu đó
Có tòa báu sư tử(1)
Phật xếp bằng ngồi trên
Sáng suốt rất đẹp đẽ
Như giữa đêm tối tăm
Đốt đuốc lớn lửa sáng.
Thân Phật thoảng hương thơm
Bay khắp mười phương nước
Chúng sanh được hương xông
Vui mừng không kể xiết
Thí như luồng gió lớn
Thổi lay nhánh cây nhỏ
Dùng cách phương tiện đó
Làm cho pháp ở lâu.
8. Nói cùng
hàng đại chúng
Sau khi Ta diệt độ
Ai có thể hộ trì
Đọc nói Kinh pháp này
Thời nay ở trước Phật
Nên tự phát lời thệ.
Coi Phật Đa-Bửu kia
Dầu đã diệt từ lâu
Do bổn thệ nguyện rộng
Mà còn rền tiếng lớn.
Đức Đa-Bửu Như-Lai
Và cùng với thân Ta
Nhóm họp các hóa Phật
Phải nên biết ý này.
Các hàng Phật tử thảy
Ai có thể hộ pháp
Nay nên phát nguyện lớn
Khiến pháp ở đời lâu.
Có ai hay hộ đặng
Kinh Diệu-Pháp-Hoa này
Thời là đã cúng dường
Thich-Ca cùng Đa-Bửu.
Đức Đa-Bửu Phật đây
Ở trong tháp báu lớn
Thường dạo qua mười phương
Vì để nghe Kinh này.
Cũng là để cúng dường
Các hóa Phật đến nhóm
Trang nghiêm rất sáng đẹp
Các thế giới vô lượng.
Nếu người nói Kinh này
Thời là đã thấy Ta
Cùng Đa-Bửu Như-Lai
Và các vị hóa Phật.
9. Các
thiện-nam-tử này
Đều nên suy nghĩ kỹ
Đây là việc rất khó
Phải phát nguyện rộng lớn
Bao nhiêu Kinh điển khác
Số nhiều như hằng sa
Dầu nói hết Kinh đó
Cũng chưa đủ làm khó,
Hoặc đem núi Diệu-Cao
Ném để ở phương khác
Cách vô số cõi Phật
Cũng chưa lấy làm khó,
Nếu người dùng ngón chưn
Động cõi nước Đại-thiên
Ném xa qua cõi khác
Cũng chưa lấy làm khó,
Hoặc đứng trên hữu đảnh
Nói vô lượng Kinh khác
Vì để dạy bảo người
Cũng chưa lấy làm khó.
Nếu sau lúc Phật diệt
Người ở trong đời ác
Có thể nói Kinh này
Đây thời rất là khó.
Giả sử lại có người
Dùng tay nắm hư không
Để mà khắp dạo đi
Cũng chưa lấy làm khó,
Sau khi Ta diệt độ
Nếu người tự thọ trì(2)
Hoặc bảo người thọ trì
Đây thời là rất khó.
Hoặc đem cả cõi đất
Để trên móng ngón chân
Bay lên đến Phạm-thiên
Cũng chưa lấy làm khó,
Sau khi Phật diệt độ
Người ở trong đời ác
Tạm đọc Kinh pháp này
Đây thời mới là khó.
Giả sử gặp kiếp thiêu(3)
Gánh mang những cỏ khô
Vào lửa không bị cháy
Cũng chưa lấy làm khó,
Sau khi Ta diệt độ
Nếu người trì Kinh này
Vì một người mà nói
Đây thời mới là khó
Hoặc người trì tám muôn
Bốn nghìn các Tạng pháp
Đủ mười hai bộ Kinh
Vì người mà diễn nói
Khiến các người nghe pháp
Đều đặng sáu thần-thông
Dầu được như thế đó
Cũng chưa lấy làm khó,
Sau khi Ta diệt độ
Nghe lãnh Kinh điển này
Hỏi nghĩa thú trong Kinh
Đây thời mới là khó.
Hoặc có người nói pháp
Làm cho nghìn muôn ức
Đến vô lượng vô số
Hằng-hà-sa chúng sanh
Chứng đặng A-La-Hán
Đủ sáu phép thần-thông
Dầu có lợi ích đó
Cũng chưa phải là khó,
Sau khi Ta diệt độ
Nếu người hay phụng trì
Những Kinh điển như đây
Đây thời là rất khó.
10.
Ta vì hộ Phật đạo
Ở trong vô lượng cõi
Từ thuở trước đến nay
Rộng nói nhiều các Kinh
Mà ở trong Kinh đó
Kinh này là bậc nhứt
Nếu có người trì được
Thời là trì thân Phật.
Các thiện-nam-tử này
Sau khi Ta diệt độ
Ai có thể thọ trì
Và đọc tụng Kinh này
Thời nay ở trước Phật
Nên tự nói lời thệ.
Kinh pháp đây khó trì
Nếu người tạm trì đó
Thời ta rất vui mừng
Các đức Phật cũng thế
Người nào được như vậy
Các đức Phật thường khen
Đó là rất dõng mãnh
Đó là rất tinh-tấn
Gọi là người trì giới
Bực tu hạnh Đầu-đà(4)
Thời chắc sẽ mau đặng
Quả vô thượng Phật đạo.
Có thể ở đời sau
Đọc trì Kinh pháp này
Là chân thật Phật tử
Trụ ở bực thuần thiện.
Sau khi Phật diệt độ
Có thể hiểu nghĩa này
Thời là mắt sáng suốt
Của trời người trong đời.
Ở trong đời kinh sợ
Hay nói trong chốc lát
Tất cả hàng trời người
Đều nên cúng dường đó.
Thích nghĩa:
(1) TÒA SƯ TỬ: Sư tử làm chúa loài muông thú, ở trong hàng thú
tự-tại vô-úy. Tòa sư tử chính là lấy nghĩa tự-tại vô-úy đó.
(2) THỌ TRÌ: Biên chép và thọ trì
(3) KIẾP THIÊU: Một đại kiếp có 4 kỳ trung kiếp : a)- Trung kiếp
thành, b)- Trung kiếp trụ, c)- Trung kiếp hoại, d)- Trung kiếp không. THÀNH
là kết-cấu hiện thành thế-giới. TRỤ là thời-kỳ trọn-vẹn thế-giới hữu tình
đều đầy đủ như hiện nay đây vậy. HOẠI là hư rã, thế-giới hư rã do ba nguyên
nhân: 1-Lửa, 2-Nước, 3-Gió. Trong đây kiếp thiêu chính là thời kỳ lửa cháy
tan thế-giới. Tan hết là KHÔNG.
(4) ĐẦU-ĐÀ: Tiếng Phạn, nghĩa là dũ sạch bụi nhơ (đẩu tẩu) có 12
hạnh
1- Mặc
phấn tảo y.
2- Chỉ ba
y không được dư.
3- Thường
khất thực.
4- Ngày
một bữa ăn chánh.
5- Ngày
một lần ngồi ăn.
6- Ăn có
tiết lượng.
7- Ở chỗ
vắng-vẻ.
8- Ngồi
trong gò mả.
9- Ngồi
dưới bóng cây.
10- Ngồi
chổ trống.
11- Tùy
hạp ngồi.
12- Ngồi
luôn không nằm.
|