QUYỂN THỨ BA
Đời Diêu Tần ngài Tam-Tạng Pháp-Sư
Cưu-Ma-La-Thập vâng chiếu dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM "HÓA THÀNH DỤ" (1)
THỨ BẢY
1. Đức Phật
Bảo các thầy Tỳ-kheo: "Thuở quá khứ vô-lượng vô biên bất khả tư nghị
a-tăng-kỳ kiếp đã qua, lúc bấy giờ có đức Phật hiệu Đại-Thông Trí-Thắng
Như-Lai, Ứng-Cúng, Chánh-Biến-Tri, Minh-Hạnh-Túc, Thiện-Thệ, Thế-Gian-Giải,
Vô-Thượng-Sỹ, Điều-Ngự Trượng-Phu, Thiên-Nhơn-Sư, Phật Thế-Tôn.
Nước đó
tên Hảo-Thành, kiếp tên Đại-Tướng. Các Tỳ-kheo! Từ khi đức Phật đó diệt độ
nhẫn đến nay rất là lâu xa, thí như địa chủng trong cõi tam thiên đại-thiên,
giả sử có người đem mài làm mực rồi đi khỏi một nghìn cõi nước ở phương đông
bèn chấm một điểm chừng bằng bụi nhỏ, lại qua một nghìn cõi nước nữa cũng
chấm một điểm, cứ như thế lần lựa chấm hết mực mài bằng địa chủng ở trên. Ý
các ông nghĩ sao? Các cõi nước đó hoặc thầy toán hoặc đệ tử của thầy toán có
thể biết đặng ngằn mé số đó chăng?".
- Thưa
Thế-Tôn! Không thể biết!
- Các
Tỳ-kheo! Những cõi nước của người đó di qua hoặc có chấm mực hoặc không chấm
mực đều nghiền nát cả ra làm bụi, một hột bụi là một kiếp, từ đức Phật đó
diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô-lượng vô biên trăm nghìn muôn ức
a-tăng-kỳ kiếp. Ta dùng sức tri-kiến của Như-Lai xem thuở lâu xa đó dường
như ngày nay.
Bấy giờ
đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
2. Ta nhớ
đời quá khứ
Vô lượng vô biên kiếp
Có Phật Lưỡng-Túc-Tôn
Hiệu Đại-Thông Trí-Thắng.
Như người dùng sức mài
Cõi tam thiên đại-thiên
Hết tất cả địa chủng
Thảy đều làm thành mực
Quá hơn nghìn cõi nước
Bèn chấm mỗi điểm trần
Như thế lần lựa chấm
Hết các mực trần nầy.
Bao nhiêu cõi nước đó
Điểm cùng chẳng điểm thảy
Lại đều nghiền làm bụi
Một bụi làm một kiếp
Kiếp số lâu xa kia
Lại nhiều hơn số bụi
Phật đó diệt đến nay
Vô-lượng kiếp như thế
Trí vô ngại của Phật
Biết Phật đó diệt độ
Và Thanh-văn Bồ-tát
Như hiện nay thấy diệt.
Các Tỳ-kheo nên biết
Trí Phật tịnh vi diệu
Vô-lậu và vô-ngại
Suốt thấu vô lượng kiếp.
3. Đức Phật
bảo các Tỳ-kheo: "Đức Đại-Thông Trí-Thắng Phật thọ năm trăm bốn mươi vạn ức
na-do-tha kiếp, đức Phật đó khi trước lúc ngồi đạo tràng phá quân ma rồi,
sắp đặng đạo Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác mà Phật pháp chẳng hiện ra
trước, như thế một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp, ngồi xếp bằng thân và
tâm đều không động mà các Phật pháp còn chẳng hiện ra trước.
Thuở đó,
các vị trời Đao-Lợi ở dưới cội cây Bồ-đề đã trước vì đức Phật đó mà trải tòa
sư-tử cao một do-tuần
(2),
Phật ngồi nơi tòa nầy sẽ đặng đạo Vô-Thượng Chánh-Đẳng
Chánh-Giác. Khi Phật vừa ngồi trên tòa đó các trời Phạm-Thiên-Vương rưới
những hoa trời khắp bốn mươi do-tuần, gió thơm lâu lâu thổi đến, thổi dẹp
hoa héo rồi rưới hoa mới mãi mãi như thế không ngớt mãn mười tiểu kiếp để
cúng dường đức Phật, nhẫn đến khi Phật diệt độ thường rưới hoa nầy. Các trời
Tứ-Thiên-Vương vì cúng dường Phật nên thường đánh trống trời. Ngoài ra các
vị trời khác trỗi kỹ nhạc trời mãn mười tiểu kiếp đến khi Phật diệt độ cũng
lại như thế.
Các
Tỳ-kheo! đức Đại-Thông Trí-Thắng Phật quá mười tiểu kiếp các Phật pháp hiện
ra trước thành đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
Lúc Phật
chưa xuất gia có 16 người con trai, Người con cả tên Trí-Tích. Các người con
đó đều có các món đồ chơi tốt đẹp báu lạ, nghe cha chứng đặng quả Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác đều bỏ đồ báu của mình đi đến chổ Phật. Các người mẹ
khóc lóc theo đưa.
Ông
nội là vua Chuyển-Luân Thánh-Vương, cùng một trăm vị đại thần và trăm nghìn
muôn ức nhân dân khác đều vây quanh nhau đi theo đến đạo tràng, mọi người
đều đến gần gũi đức Đại-Thông Trí-Thắng Như-Lai để cúng dường cung kính tôn
trọng ngợi khen. Khi đã đến nơi tất cả đem đầu mặt mình lạy chân Phật, đi
vòng quanh đức Phật xong, đều chắp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan của
Phật, rồi nói kệ khen Phật:
4. Thế-Tôn
oai đức lớn
Vì muốn độ chúng sanh
Trong vô lượng ức năm
Bèn mới đặng thành Phật
Các nguyện đã đầy đủ
Hay thay lành vô thượng.
Thế-Tôn rất ít có
Một phen ngồi mười kiếp
Thân thể và tay chân
Yên tịnh không hề động
Tâm Phật thường lặng-lẽ
Chưa từng có tán loạn
Trọn rốt ráo vắng bặt
An trụ pháp vô-lậu.
Ngày nay thấy Thế-Tôn
An ổn thành Phật đạo
Chúng ta được lợi lành
Mừng rỡ rất vui đẹp.
Chúng sanh thường đau khổ
Đuôi mù không Đạo sư
Chẳng biết đạo dứt khổ
Chẳng biết cầu giải thoát
Lâu ngày thêm nẻo ác
Giảm tổn các chúng trời
Từ tối vào nơi tối
Trọn chẳng nghe danh Phật.
Nay Phật đặng vô thượng
Đạo an ổn vô-lậu
Chúng ta và trời người
Vì đặng lợi lớn tột
Cho nên đều cúi đầu
Quy mạng
(3)
đấng Vô-thượng.
5. Bấy giờ
mười sau vị vương tử nói kệ khen đức Phật rồi liền khuyến thỉnh đức Thế-Tôn
chuyển pháp-luân, đều thưa rằng: "Đức Thế-Tôn nói pháp được an ổn, thương
xót làm lợi ích cho các trời và nhân dân". Lại nói kệ rằng:
Đức Phật không ai bằng
Trăm phước tự trang nghiêm
Đặng trí-huệ vô thượng
Nguyện vì đời nói pháp
Độ thoát cho chúng con
Và các loài chúng sanh
Xin phân biệt chỉ bày
Cho đặng trí-huệ Phật
Nếu chúng con thành Phật
Chúng sanh cũng được thế
Thế-Tôn biết chúng sanh
Thâm tâm nghĩ tưởng gì
Cũng biết đạo chúng làm
Lại biết sức trí-huệ
Muốn ưa và tu phước
Nghiệp gây tạo đời trước
Thế-Tôn biết cả rồi
Nên chuyển pháp vô thượng
6. Phật bảo
các Tỳ-kheo: Lức đức Đại-Thông Trí-Thắng Phật đặng quả Vô-thượng Chánh-đẳng
Chánh-giác, trong mười phương, mỗi phương đều năm trăm muôn ức các cõi nước
Phật sáu điệu vang động.
Trong các cõi nước đó chỗ tối tăm ánh sáng của nhựt nguyệt không soi tới
đặng mà đều sáng rỡ, trong đó chúng sanh đều đặng thấy nhau, đồng nói rằng:
"Trong đây tại sao bỗng sanh ra chúng sanh?"
Lại trong
các cõi đó cung điện của chư Thiên cho đến Phạm cung sáu điệu vang động, hào
quang lớn soi cùng khắp đầy cõi nước, sáng hơn ánh sáng của trời.
7. Bấy giờ,
phương Đông, năm trăm muôn ức các cõi nước, cung điện của trời Phạm Thiên
(4)
ánh sáng chói gấp
bội hơn ánh sáng thường ngày, các Phạm Thiên Vương đều tự nghĩ rằng: "Hôm
nay cung điện sáng suốt từ xưa chưa từng có, vì nhơn duyên gì mà hiện điềm
tốt này?" Lúc đó các Phạm Thiên Vương liền đi đến nhau để chung bàn việc đó.
Trong chúng có một vị Phạm-Thiên-Vương lớn tên Cứu-Nhứt-Thiết vì các Phạm
chúng mà nói kệ rằng:
Các cung điện chúng ta
Sáng suốt xưa chưa có
Đây là nhơn duyên gì
Phải nên chung nhau tìm
Là Trời đại đức sanh
Hay là Phật ra đời
Mà ánh sáng lớn nầy
Khắp soi cả mười phương.
Bấy giờ,
năm trăm muôn ức cõi nước, các vị Phạm-Thiên-Vương cùng chung với cung điện
(5)
mỗi vị đều lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đi đến phương Tây
suy tìm tướng sáng đó. Thấy đức Đại-Thông Trí-Thắng Như-Lai ngồi tòa sư-tử ở
nơi đạo tràng dưới cội Bồ đề, hàng chư Thiên, Long-Vương, Càn-thát-bà,
Khẩn-na-la, Ma-hầu la-dà, Nhơn và Phi nhơn v.v... cung kính vây quanh đức
Phật, và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp-luân; tức thời các
vị Phạm-Thiên-Vương đầu mặt lạy chân Phật đi quanh trăm ngàn vòng, liền lấy
hoa trời mà rải trên đức Phật.
Hoa của
mấy ông rải nhóm như núi Diệu-Cao, cùng để cúng dường cây Bồ đề của Phật,
cây Bồ đề đó cao mười do tuần. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đem cung điện
dưng lên đức Phật mà thưa rằng: Xin đức Phật đoái thương lợi ích cho chúng
con, cung điện dưng cúng đây xin nạp ở".
Lúc đó,
các vị Phạm-Thiên-Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen
rằng:
Thế-Tôn rất ít có
Khó thể gặp gỡ đặng
Đủ vô lượng công đức
Hay cứu hộ tất cả
Thầy lớn của trời người
Thương xót ở trong đời
Mười phương các chúng sanh
Khắp đều nhờ lợi ích.
Chúng con từng theo đến
Năm trăm muôn ức nước
Bỏ vui thiền định sâu
Vì để cúng dường Phật
Chúng con phước đời trước
Cung điện rất tốt đẹp
Nay đem dưng Thế-Tôn
Cúi xin thương nạp thọ.
Bấy giờ,
các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi đều thưa rằng: "Cúi xin
Thế-Tôn chuyển pháp-luân độ thoát chúng sanh mở đường Niết-bàn".
Khi ấy,
các vị Phạm-Thiên-Vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ rằng:
Thế Hùng Lưỡng-túc-tôn
Cúi xin diễn nói pháp
Dùng sức từ-bi lớn
Độ chúng sanh khổ não.
Lúc đó đức
Đại-Thông Trí-Thắng Như-Lai lắng yên
(6)
nhận lời đó.
8. Lại nữa
các Tỳ-kheo! Phương Đông Nam năm trăm muôn ức cõi nước các vị
Phạm-Thiên-Vương đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa chưa
từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hy hữu, liền cùng đến nhau chung bàn việc
đó. Lúc ấy trong chúng có một vị Phạm-Thiên-Vương tên là Đại-Bi, vì các Phạm
chúng mà nói kệ rằng:
Việc đó nhơn duyên gì
Mà hiện tướng như thế
Các cung điện chúng ta
Sáng suốt xưa chưa có
Là Trời đại đức sanh
Hay là Phật ra đời?
Chưa từng thấy tướng nầy
Nên chung một lòng cầu
Quá nghìn muôn ức cõi
Theo luồng sáng tìm đó
Phần nhiều Phật ra đời
Độ thoát khổ chúng sanh.
Bấy giờ,
năm trăm muôn ức các vị Phạm-Thiên-Vương cùng chung với cung điện, lấy đãy
đựng các thứ hoa trời, đồng đến phương Tây Bắc suy tìm tướng đó. Thấy đức
Đại-Thông Trí-Thắng Như-Lai ngồi tòa sư-tử nơi đạo tràng dưới cội Bồ-đề, các
hàng chư Thiên, Long vương, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, Nhơn cùng
Phi nhơn v.v... cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật
chuyển pháp-luân.
Khi ấy các
vị Phạm-Thiên-Vương đầu mặt lạy chân Phật, đi quanh trăm nghìn vòng, liền
lấy hoa trời mà rải trên Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu-Cao, cùng để
cúng dường cây Bồ-đề của Phật. Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dưng
lên đức Phật mà thưa rằng: "Xin Phật thương xót lợi ích cho chúng con, những
cung điện dưng đây cúi xin nhận ở".
Lúc đó,
các vị Phạm Thiên Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen
rằng:
Thánh chúa vua trong đời
Tiếng Ca-Lăng Tần-Già
Thương xót hàng chúng sanh
Chúng con nay kính lễ.
Thế-Tôn rất ít có
Lâu xa một lần hiện
Một trăm tám mươi kiếp
Luống qua không có Phật
Ba đường dữ dẫy đầy
Các chúng trời giảm ít.
Nay Phật hiện ra đời
Làm mắt cho chúng sanh
Chổ quy thú của đời
Cứu hộ cho tất cả
Là cha của chúng sanh
Thương xót làm lợi ích
Nhờ phước lành đời trước
Nay đặng gặp Thế-Tôn.
Khi đó,
các vị Phạm-Thiên-Vương nói kệ khen Phật xong đều thưa rằng: "Cúi xin đức
Thế-Tôn thương xót tất cả chuyển pháp-luân cho, để độ thoát chúng sanh".
Lúc ấy các
vị Phạm-Thiên-Vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ khen rằng:
Đại thánh chuyển pháp-luân
Chỉ bày các pháp tướng
Độ chúng sanh đau khổ
Khiến đặng rất vui mừng
Chúng sanh nghe pháp nầy
Đặng đạo hoặc sanh thiên
Các đường dữ giảm ít
Bực nhẫn thiện thêm nhiều.
Khi đó,
đức Đại-Thông Trí-Thắng Phật lặng yên nhận lời.
9. Lại nữa
các Tỳ-kheo! Năm trăm muôn ức cõi nước ở phương Nam các vị Đại-Phạm-Vương
đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa chưa có, vui mừng hớn hở
sanh lòng hy hữu liền đến cùng nhau chung bàn việc đó. Vì nhơn duyên gì cung
điện của chúng ta có ánh sáng chói này?
Trong
chúng đó có một vị Phạm-Thiên-Vương lớn tên là Diệu-Pháp, vì hàng Phạm chúng
mà nói kệ rằng:
Các cung điện chúng ta
Quang minh rất oai diệu
Đây không phải không nhơn
Tướng nầy phải tìm đó
Quá hơn trăm nghìn kiếp
Chưa tùng thấy tướng nầy
Là Trời đại đức sanh
Hay đức Phật ra đời?
Bấy giờ,
năm trăm muôn ức Phạm-Thiên-Vương cùng cung điện chung, mỗi vị dùng đãy đựng
các thứ hoa trời đồng đến phương Bắc suy tìm tướng đó. Thấy đức Đại-Thông
Trí-Thắng Như-Lai ngồi tòa sư-tử nơi đạo tràng dưới cội cây Bồ-đề, hàng chư
Thiên, Long vương, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-Hầu-La-dà, Nhơn và Phi nhơn
v.v... cung kính vây quanh, cùng thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển
pháp-luân.
Khi đó,
các vị Phạm-Thiên-Vương đầu mặt lễ Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy
hoa trời mà rải trên đức Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu-Cao và để cúng
dường cây Bồ-đề của Phật. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đều đem cung điện dâng
lên đức Phật mà thưa rằng" "Xin đức Phật đoái thương lợi ích chúng con, cung
điện của chúng con dưng đây cúi xin nạp xử". Bấy giờ, các vị Đại
Phạm-Thiên-Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:
Thế-Tôn rất khó thấy
Bực phá các phiền não
Hơn trăm ba mươi kiếp
Nay mới thấy một lần
Hàng chúng sanh đói khát
Nhờ mưa pháp đầy đủ
Xưa chổ chưa từng thấy
Đấng vô-lượng trí-huệ
Như hoa Ưu-Đàm-bát
Ngày nay mới gặp gỡ
Cung điện của chúng con
Nhờ hào quang được đẹp
Thế-Tôn đại từ mẫn
Cúi xin thương nhận ở.
Khi đó,
các vị Phạm-Thiên-Vương nói kệ khen đức Phật rồi đều bạch rằng: "Cúi mong
đức Thế-Tôn chuyển pháp-luân làm cho tất cả thế gian các hàng Trời, Ma,
Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn đều được an ổn mà được độ thoát". Lúc ấy các vị
Phạm-Thiên-Vương một lòng đồng tiếng nói kệ rằng:
Cúi mong Thiên-Nhơn-Tôn
Chuyển pháp-luân vô thượng
Đánh vang pháp cổ lớn
Mà thổi pháp loa lớn
Khắp rưới pháp vũ lớn
Độ vô-lượng chúng sanh
Chúng con đều quy thỉnh
Nên nói tiếng sâu xa.
Khi đó, đức Đại-Thông Trí-Thắng lặng yên nhận lời đó.
10. Phương
Tây nam nhẫn đến phương dưới cũng lại như thế.
Bấy giờ,
năm trăm muôn ức cõi nước ở Thượng phương, Các vị Đại Phạm-Thiên-Vương thảy
đều tự thấy cung điện của mình ở ánh sáng chói rực từ xưa chưa từng có, vui
mừng hớn hở sanh lòng hy hữu, liền đi đến nhau để chung bàn việc đó. Vì nhơn
duyên gì cung điện của chúng ta có ánh sáng này? Lúc đó trong chúng có một
vị Đại Phạm-Thiên-Vương tên là Thi-Khí vì hàng Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Nay vì nhơn duyên gì
Cung điện của chúng ta
Ánh sáng oai đức chói
Đẹp đẽ chưa từng có?
Tướng tốt như thế đó
Xưa chưa từng nghe thấy
Là Trời đại đức sanh
Hay là Phật ra đời?
Bấy giờ,
năm trăm muôn ức các vị Phạm-Thiên-Vương cùng cung điện chung, mỗi vị đều
dùng đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương dưới suy tìm tướng sáng đó.
Thấy đức Đại-Thông Trí-Thắng Như-Lai ngồi tòa sư-tử nơi đạo tràng dưới cội
Bồ-đề, hàng chư Thiên, Long vương, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu la-dà,
Nhơn và Phi nhơn v.v... cung kính vây quanh và thấy mười sáu vị vương tử
thỉnh đức Phật chuyển pháp-luân.
Lúc đó các
vị Phạm-Thiên-Vương đầu mặt lạy Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa
trời rải trên đức Phật. Hoa rải nhóm như núi Diêu-Cao và để cúng dường cây
Bồ-đề của Phật. Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dưng lên đức Phật mà
bạch rằng: "Xin đoái thương lợi ích chúng con. Cung điện dưng đây cúi mong
Phật nạp ở".
Lúc đó các
vị Phạm-Thiên-Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen rằng:
Hay thay! Thấy các Phật
Đấng Thánh-Tôn cứu thế
Hay ở ngục tam giới
Cứu khỏi các chúng sanh
Thiên-Nhơn-Tôn trí khắp
Thương xót loài quần manh
Hay khai môn cam-lộ
Rộng độ cho tất cả.
Lúc xưa vô-lượng kiếp
Luống qua không có Phật
Khi Phật chưa ra đời
Mười phương thường mờ tối
Ba đường dữ thêm đông
A-tu-la cũng thạnh
Các chúng Trời càng bớt
Chết nhiều đọa ác đạo
Chẳng theo Phật nghe pháp
Thường làm việc chẳng lành
Sắc, lực, cùng tri-huệ
Các việc đều giảm ít
Vì tội nghiệp nhơn duyên
Mất vui cùng tưởng vui
Trụ trong pháp tà kiến
Chẳng biết nghi tắc lành
Chẳng nhờ Phật hóa độ
Thường đọa trong ác đạo.
Phật là mắt của đời
Lâu xa mới hiện ra
Vì thương các chúng sanh
Nên hiện ở trong đời
Siêu việt thành chánh-giác
Chúng con rất mừng vui
Và tất cả chúng khác
Mừng khen chưa từng có.
Cung điện của chúng con
Nhờ hào quang nên đẹp
Nay đem dưng Thế-Tôn
Cúi mong thương nhận ở
Nguyện đem công đức nầy
Khắp đến cho tất cả
Chúng con cùng chúng sanh
Đều đồng thành Phật đạo.
Khi đó,
năm trăm muôn ức các vị Phạm-Thiên-Vương nói kệ khen đức Phật rồi, đều bạch
Phật rằng: "Cúi mong đức Thế-Tôn chuyển pháp-luân, nhiều chổ an ổn, nhiều
chổ độ thoát". Lúc ấy các vị Phạm-Thiên-Vương đồng nói kệ rằng:
Thế-Tôn chuyển pháp-luân
Đánh trống pháp cam-lồ
Độ chúng sanh khổ não
Mở bày đường Niết-bàn
Cúi mong nhận lời con
Dùng tiếng vi-diệu lớn
Thương xót mà nói bày
Pháp tu vô lượng kiếp.
11. Lúc bấy
giờ, đức Đại-Thông Trí-Thắng Như-Lai nhận lời thỉnh của các Phạm-Thiên-Vương
và mười sáu vị vương tử tức thời ba phen chuyển pháp-luân mười hai hành
(7)
hoặc là Sa-môn,
Bà-la-môn, hoặc là Trời, Ma, Phạm và các thế gian khác đều không thể chuyển
được, nói: đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là đạo diệt khổ.
Và rộng
nói pháp mười hai nhơn duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức
duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ,
thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão,
tử, ưu bi, khổ não.
Vô minh
diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc diệt,
danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời
thọ diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu
diệt, hữu diệt thời sanh diệt, sanh diệt thời lão, tử, ưu bi, khổ não diệt.
Đức Phật ở
trong đại chúng Trời, Người khi nói pháp đó có sáu trăm muôn ức na-do-tha
người do vì không thọ tất cả pháp mà ở các lậu tâm được giải thoát, đều đặng
thiền-định sâu mầu, ba món minh, tám món thông, đủ tám giải thoát.
Lúc nói
pháp lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, có nghìn muôn ức hằng-hà-sa
na-do-tha chúng sanh cũng bởi không thọ tất cả pháp mà nơi các lậu tâm được
giải thoát. Từ đây nhẫn sau chúng Thanh-văn nhiều vô lượng vô biên, không
thể tính kể được.
12. Bấy giờ,
mười sáu vị vương tử đều là đồng tử mà xuất gia làm Sa-di, các căn thông
lanh, trí-huệ sáng láng, đã từng cúng dường trăm nghìn muôn ức các đức Phật,
tịnh tu hạnh thanh-tịnh, cầu đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, đều bạch
cùng Phật rằng: Thưa Thế-Tôn! Các vị đại đức Thanh-văn vô lượng nghìn muôn
ức đây đã thành tựu xong, đức Thế-Tôn cũng nên vì chúng con nói pháp
Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, chúng con nghe xong đều đồng tu học.
Thế-Tôn! Chúng con có chí mong được tri kiến của Như-Lai, chổ nghĩ tưởng
trong thâm tâm, đức Phật tự chứng biết cho.
Lúc đó,
tám muôn ức người trong chúng của Chuyển-Luân Thánh-Vương dắt đến thấy mười
sáu vị vương tử xuất gia, cũng tự cầu xuất gia, vua liền thuận cho.
Bấy giờ
đức Phật nhận lời thỉnh của Sa-di, qua hai muôn kiếp sau mới ở trong hàng
bốn chúng nói kinh đại thừa tên là: "Diệu-Pháp Liên-Hoa Giáo Bồ-tát Pháp
Phật Sở Hộ-Niệm" đức Phật nói kinh đó xong, mười sáu vị Sa-di vì đạo
Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, đều đồng thọ trì đọc tụng thông thuộc. Lúc
nói kinh đó, mười sáu vị Sa-di Bồ-tát thảy đều tin thọ trong chúng Thanh-văn
cũng có người tin hiểu. Ngoài ra nghìn muôn ức loại chúng sanh đều sanh lòng
nghi lầm. Phật nói kinh đó suốt tám nghìn kiếp chưa từng thôi bỏ. Phật nói
kinh đó xong liền vào tịnh thất trụ trong thiền-định tám muôn bốn nghìn
kiếp.
13. Bấy giờ,
mười sáu vị bồ-tát Sa-di biết Phật nhập thất trụ trong thiền-định vắng bặt,
mỗi vị đều lên pháp tòa cũng trong tám muôn bốn nghìn kiếp vì bốn bộ chúng
rộng nói phân biệt kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa.
Mỗi vị đều
độ sáu trăm muôn ức na-do-tha hằng-hà sa chúng sanh, chỉ dạy cho được lợi
mừng, khiến phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
14. Đức
Đại-Thông Trí-Thắng Phật qua tám muôn bốn nghìn kiếp sau từ tam muội dậy,
qua đến pháp tòa mà ngồi an lành, khắp bảo trong hàng đại chúng: "Mười sáu
vị Bồ-tát Sa-di nầy rất là ít có, các căn thông lẹ, trí-huệ sáng láng, đã
từng cúng dường vô-lượng nghin muôn ức vô số đức Phật thường tu hạnh thanh
tịnh, thọ trì trí của Phật để chỉ dạy chúng sanh làm cho vào trong đó. Các
ông phải luôn luôn gần gũi mà cúng dường các vị ấy.
Vì sao?
Nếu hàng Thanh-văn, Duyên-giác cùng các Bồ-tát có thể tin kinh pháp của mười
sáu vị Bồ-tát Sa-di đó nói mà thọ trì không mất, thời người đó sẽ đặng đạo
Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác trí huệ của Như-Lai".
15. Phật bảo
các Tỳ-kheo! "Mười sáu vị Bồ-tát đó thường ưa nói kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa
này. Sáu trăm muôn ức na-do-tha hằng-hà sa chúng sanh của mỗi vị Bồ-tát hóa
độ đó đời đời sanh ra đều cùng Bồ-tát ở chung, theo nghe pháp với Bồ-tát
thảy đều tin hiểu. Nhờ nhơn duyên đó mà đặng gặp bốn muôn ức các đức Phật
Thế-Tôn đến nay vẫn chẳng ngớt".
Các
Tỳ-kheo! Ta nói với các ông mười sáu vị Sa-di đệ tử của đức Phật kia nay đều
chứng đặng đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, hiện đương nói pháp trong
cõi nước ở mười phương, có vô-lượng trăm nghìn muôn ức Bồ-tát, Thanh-văn để
làm quyến thuộc.
Hai vị
Sa-di làm Phật ở phương Đông: Vị thứ nhất tên là A-Súc ở nước Hoan-hỷ, Vị
thứ hai tên là Tu-Di-Đảnh. Hai vị làm Phật ở phương Đông-nam: Vị thứ nhất
tên là Sư-Tử-Âm, vị thứ hai tên là Sư-Tử-Tướng. Hai vị làm Phật ở phương
Nam: Vị thứ nhất tên là Hư-Không-Trụ, vị thứ hai tên là Thường-Diệt. Hai vị
làm Phật ở phương Tây-nam: Vị thứ nhất tên là Đế-Tướng, vị thứ hai tên là
Phạm-Tướng. Hai vị làm Phật ở phương Tây: Vị thứ nhất tên là A-Di-Đà, vị thứ
hai tên là Độ-Nhứt-Thiết-Thê-Gian-Khổ-Não. Hai vị làm Phật ở phương Tây-bắc:
Vị thứ nhất tên là Đa-Ma-La-Bạt-Chiên-Đàn-Hương-Thần-Thông, vị thứ hai tên
là Tu-Di-Tướng. Hai vị làm Phật ở phương Bắc: Vị thứ nhất tên là Vân-Tự-Tại,
vị thứ hai tên là Vân-Tự-Tại-Vương. Một vị làm Phật ở phương Đông-bắc hiệu
Hoại-Nhứt-Thiết-Thế-Gian-Bố-Úy. Vị thứ mười sáu, chính ta là Thích-Ca-Mâu-Ni
Phật ở cõi nước Ta-bà thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
Các
Tỳ-Kheo! Lúc chúng ta làm Sa-di mỗi người giáo hóa vô-lượng trăm nghìn muôn
ức hằng-hà sa chúng sanh vì đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác theo ta nghe
pháp. Những chúng sanh đó đến nay có người trụ bực Thanh-văn, Ta thường giáo
hóa pháp Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. Những bọn người này đáng dùng pháp
đó mà lần vào Phật đạo.
Vì sao? Vì
trí-huệ của Như-Lai khó tin khó hiểu, vô lượng hằng-hà sa chúng sanh được
hóa độ trong thuở đó chính là bọn ông, các Tỳ-kheo, và sau khi ta diệt độ
các đệ tử Thanh-văn trong đời vị lai. Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử không
nghe kinh nầy, không biết không hay hạnh của Bồ-tát, tự ở nơi công đức của
mình được tưởng cho là diệt độ sẽ nhập Niết-bàn.
Ta ở nơi
nước khác làm Phật lại có tên khác. Người đó dầu sanh lòng tưởng là diệt độ
nhập Niết-bàn, nhưng ở nơi cõi kia cầu trí-huệ của Phật, được nghe kinh này,
chỉ do Phật thừa mà được diệt độ lại không có thừa nào khác, trừ các đức
Như-Lai phương tiện nói pháp.
Các
Tỳ-kheo! Nếu đức Như-Lai tự biết giờ Niết-bàn sắp đến, chúng lại thanh tịnh
lòng tin hiểu bền chắc, rõ thấu pháp không, sâu vào thiền-định, bèn nhóm các
Bồ-tát và chúng Thanh-văn mà vì nói kinh này. Trong đời không có hai thừa mà
đặng diệt độ, chỉ có một Phật thừa đặng diệt độ thôi.
Các
Tỳ-kheo nên rõ! Đức Như-Lai phương tiện sâu vào tánh chúng sanh, biết chí nó
ưa pháp nhỏ, rất ham nơi năm món dục, vì hạng người này mà nói Niết-bàn,
người đó nếu nghe thời liền tin nhận.
16. Thí như
đường hiểm nhiều nạn dữ, dài năm trăm do tuần, chốn ghê sợ hoang vắng không
người. Nếu chúng đông muốn đi qua con đường nầy đến chổ trân bửu, có một vị
đạo sư thông minh sáng suốt khéo biết rõ tướng thông bít của con đường hiểm,
dắt chúng nhơn muốn vượt qua nạn đó. Chúng nhơn được dắt đi giữa đường lười
mõi bạch đạo sư rằng: "Chúng con mệt nhọc lại thêm sợ sệt chẳng có thể đi
nữa, đường trước còn xa nay muốn lui về".
Vị đạo sư
nhiều sức phương tiện mà tự nghĩ rằng: Bọn này đáng thương, làm sao cam bỏ
trân bửu lớn mà muốn lui về. Nghĩ thế rồi dùng sức phương tiện ở giữa đường
hiểm quá ba trăm do-tuần, hóa làm một cái thành mà bảo chúng nhơn rằng: "Các
ngươi chớ sợ, đừng lui về, nay thành lớn này có thể dừng ở trong đó tùy ý
muốn làm gì thì làm, nếu vào thành này sẽ rất được an ổn, nếu có thể lại
thẳng đến chổ châu báu đi cũng đặng".
Bấy giờ,
chúng mỏi mệt rất vui mừng khen chưa từng có, chúng ta hôm nay khỏi được
đường dữ rất được an ổn. Đó rồi chúng nhơn thẳng vào hóa thành sanh lòng
tưởng cho rằng đã được độ rất an ổn.
Lúc ấy đạo
sư biết chúng nhơn đó đã được nghỉ ngơi không còn mõi mệt, liền diệt hóa
thành bảo chúng nhơn rằng: "Các ngươi nên đi tới, chổ châu báu ở gần đây
thành lớn trước đó là của ta biến hóa ra để nghỉ ngơi thôi".
Các
Ty-kheo! Đức Như-Lai cũng lại như thế, nay vì các ông mà làm vị Đại Đạo-sư,
biết các đường dữ sanh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên bỏ nên vượt qua. Nếu
như chúng sanh chỉ nghe một Phật thừa thời chẳng muốn thấy Phật chẳng muốn
gần gũi, mà nghĩ thế này: "Đạo Phật dài xa lâu ngày chịu cần khổ mới có thể
đặng thành". Phật biết tâm chúng đó khiếp nhược hạ liệt, dùng sức phương
tiện mà ở giữa đường vì để ngơi nghỉ nên nói hai món Niết-bàn
(8).
Nếu chúng sanh trụ nơi hai bực, đức Như-Lai bấy giờ liền bèn vì
nói: "Chổ tu của các ông chưa xong, bực của các ông ở gần với huệ của Phật.
Phải quang sát suy lường Niết-bàn đã đặng đó chẳng phải chân thật vậy. Chỉ
là sức phương tiện của Như-Lai, ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba.
Như vị đạo sư kia vì cho mọi người ngơi nghỉ mà hóa làm thành lớn, đã biết
nghỉ xong mà bảo đó rằng: "Chổ châu báu ở gần, thành này không phải thiệt,
của ta biến hóa làm ra đó thôi".
Lúc đó đức
Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
17.
Đại-Thông Trí-Thắng Phật
Mười kiếp ngồi đạo tràng
Phật pháp chẳng hiện tiền
Chẳng đặng thành Phật đạo
Các Trời, Thần, Long vương,
Chúng A-tu-la thảy
Thường rưới các hoa trời
Để cúng dường Phật đó
Chư Thiên đánh trống trời
Và trổi các kỹ nhạc
Gió thơm thổi hoa héo
Lại mưa bông tốt mới
Quá mười tiểu kiếp rồi
Mới đặng thành Phật đạo
Các Trời cùng Người đời
Lòng đều sanh hớn hở
Mười sáu người con Phật
Đều cùng quyến thuộc mình
Nghìn muôn ức vây quanh
Chung đi đến chổ Phật
Đầu mặt lạy chân Phật
Thỉnh Phật chuyển pháp-luân:
"Đấng Thánh sư mưa pháp
Lợi con và tất cả
Thế-Tôn rất khó gặp
Lâu xa một lần hiện
Vì giác ngộ quần sanh
Mà chấn động tất cả".
Các thế giới phương Đông
Năm trăm muôn ức cõi
Phạm cung điện sáng chói
Từ xưa chưa từng có
Phạm-Vương thấy tướng này
Liền đến chổ Phật ở
Rải hoa để cúng dường
Và dưng cung điện lên
Thỉnh Phật chuyển pháp-luân
Nói kệ ngợi khen Phật
Phật biết chưa đến giờ
Nhận thỉnh yên lặng ngồi
Ba phương cùng bốn phía
Trên, dưới cũng như thế
Rưới hoa dưng cung điện
Thỉnh Phật chuyển pháp-luân
"Thế-Tôn rất khó gặp
Nguyện vì bổn từ-bi
Rộng mở cửa cam-lộ
Chuyển pháp-luân vô thượng".
18.
Thế-Tôn huệ vô thượng
Nhân chúng nhơn kia thỉnh
Vì nói các món pháp
Bốn đế mười hai duyên
Vô minh đến lão tử
Đều từ sanh duyên hữu
Những quá hoạn như thế
Các ông phải nên biết.
Tuyên nói pháp đó rồi
Sáu trăm muôn ức cai
(9)
Đặng hết các ngằn khổ
Đều thành A-la-hán.
Thời nói pháp thứ hai
Nghìn muôn hằng sa chúng
Ở các pháp chẳng thọ
Cũng đặng A-la-hán.
Từ sau đây đặng đạo
Số đông đến vô-lượng
Muôn ức kiếp tính kể
Không thể đặng ngằn mé.
19.
Bấy
giờ mười sáu vị
Xuất gia làm Sa-di
Đều đồng thỉnh Phật kia
Diễn nói pháp đại thừa:
"Chúng con cùng quyến thuộc
Đều sẽ thành Phật đạo
Nguyện đặng như Thế-Tôn
Huệ nhãn sạch thứ nhứt".
Phật biết lòng đồng tử
Chổ làm của đời trước
Dùng vô lượng nhơn duyên
Cùng các món thí-dụ
Nói sáu ba-la-mật
Và các việc thần thông,
Phân biệt pháp chơn thiệt
Đạo của Bồ-tát làm
Nói kinh Pháp-Hoa nầy
Kệ nhiều như hằng sa.
Phật kia nói kinh rồi
Vào tịnh thất nhập định
Tám muôn bốn ngàn kiếp
Một lòng ngồi một chỗ.
Các vị Sa-di đó
Biết Phật chưa xuất thiền
Vì vô lượng chúng nói
Huệ vô thượng của Phật
Mỗi vị ngồi pháp tòa
Nói kinh đại thừa này
Sau khi Phật yên lặng
Tuyên bày giúp giáo hóa.
Mỗi vị Sa-di thảy
Số chúng sanh mình độ
Có sáu trăm muôn ức
Hằng-hà sa các chúng.
Sau khi Phật diệt độ
Các người nghe pháp đó
Ở các nơi cõi Phật
Thường cùng thầy sanh chung.
Mười sáu Sa-di đó
Đầy đủ tu Phật đạo
Nay hiện ở mười phương
Đều đặng thành Chánh-giác
Người nghe pháp thuở đó
Đều ở chổ các Phật
Có người trụ Thanh-văn
Lần dạy cho Phật đạo.
Ta ở số mười sáu
Từng vì các ngươi nói
Cho nên dùng phương tiện
Dẫn dắt đến huệ Phật
Do bổn nhơn duyên đó
Nay nói kinh Pháp-Hoa
Khiến người vào Phật dạo
Dè dặt chớ kinh sợ.
20.
Thí như đường hiểm dữ
Xa vắng nhiều thú độc
Và lại không cỏ nước
Chốn mọi người ghê sợ
Vô số nghìn muôn chúng
Muốn qua đường hiểm này
Đường đó rất xa vời
Trải năm trăm do-tuần.
Bấy giờ một đạo sư
Nhớ dai có trí huệ
Sáng suốt lòng quyết định
Đường hiểm cứu các nạn
Mọi người đều mệt mỏi
Mà bạch đạo sư rằng:
"Chúng con nay mỏi mệt
Nơi đây muốn trở về".
Đạo sư nghĩ thế này
Bọn này rất đáng thương
Làm sao muốn lui về
Cam mất trân bửu lớn?
Liền lại nghĩ phương tiện
Nên bày sức thần thông
Hóa làm thành quách lớn
Các nhà cửa trang nghiêm
Bốn bề có vườn rừng
Sông ngòi và ao tắm
Cửa lớn lầu gác cao
Trai, gái đều đông vầy.
Hóa ra thành đó rồi
An ủi chúng: "Chớ sợ
Các ngươi vào thành này
Đều được vừa chổ muốn"
Mọi người đã vào thành
Lòng đều rất vui mừng
Đều sanh tưởng an ổn
Tự nói đã được độ.
Đạo sư biết nghỉ xong
Nhóm chúng mà bảo rằng:
"Các ngươi nên đi nữa
Đây là hóa thành thôi
Thấy các ngươi mỏi mệt
Giữa đường muốn lui về
Nên dùng sức phương tiện
Ta hóa làm thành nầy
Các ngươi gắng tinh tấn
Nên đồng đến chỗ báu".
21.
Ta cũng lại như vậy
Đạo sư của tất cả
Thấy những người cầu đạo
Giữa đường mà lười bỏ
Không thể vượt đường dữ
Sanh tử đầy phiền não
Nên dùng sức phương tiện
Vì nghỉ, nói Niết-bàn.
Rằng các ngươi khổ diệt
Chổ làm đều đã xong
Đã biết đến Niết-bàn
Đều chứng A-la-hán
Giờ mới nhóm đại chúng
Vì nói pháp chân thật
Sức phương tiện các Phật
Phân biệt nói ba thừa
Chỉ có một Phật thừa
Vì nghỉ nên nói hai
(10)
Vì các ngươi nói thiệt
Các ngươi chưa phải diệt,
Vì nhứt-thiết-trí Phật
Nên phát tinh tấn mạnh
Mười lực các Phật pháp
Đủ băm hai tướng tốt
Mới là chơn thiệt diệt,
Các Phật là đạo sư
Vì nghỉ nói Niết-bàn
Đã biết ngơi nghỉ rồi
Dẫn vào nơi huệ Phật.
KINH
DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA
_____________
QUYỂN
THỨ BA
Một tiếng
kín bày, thần thông giáo hóa thầm gia hộ, khắp rưới mưa pháp nhuần các mầm,
quả báo nhà rộng lớn, chốn châu báu không xa, quyền biến hóa đồng hoa đốm hư
không.
Nam mô
Pháp-Hoa Hội Thượng Phật Bồ-tát.
(3 lần)
Ba căn khắp nhuần, đệ tử nhờ ơn, thành biến hóa dối bày chớ cho
là chơn, lại xem nhơn duyên đức Trí-Thắng, mười sáu vị Vương-Tôn tám phương
chứng thân vàng.
Nam mô
Đại-Thông Trí-Thắng Phật. (3
lần)
___________________
Thích nghĩa:
(1) HÓA THÀNH: Thành trì do thần thông biến hóa ra, để dụ, quyền
giáo của Phật.
(2) DO-TUẦN: Có ba hạng do-tuần: a)- 40 dậm Tàu, b)- 60 dậm, c)-
80 dậm.
(3) QUY MẠNG: Đem thân mạng về nương, là nghĩa của chữ "nam-mô"
trong tiếng Phạn.
(4) PHẠM THIÊN: Gồm cõi Dục, cõi Săc.
- Cõi Dục
có 6 cõi Trời:
a)- Trời Tứ Thiên Vương.
b)- Trời Đao-Lợi (Vua là Đế-Thích hay Thích-Đề-Hoàn-Nhơn).
c)- Trời Dạ-Ma.
d)- Trời Đâu-Suất.
e)- Trời Hóa-Lạc.
f)- Trời Tha-Hóa-Tự-Tại.
- Cõi Sắc
có tứ Thiền: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, gồm 18 cõi Trời.
Trong Sơ Thiền có ba cõi Trời:
a)- Trời Phạm-Chúng.
b)- Trời Phạm-Phụ.
c)- Trời Phạm-Vương. Phạm-Thiên-Vương là vua Trời Sơ Thiền
Đại Phạm-Thiên-Vương là vua Trời Tứ Thiền.
(5) CUNG ĐIỆN: Có phước lành lớn nên cảm báo có cung điện tùy
thân, nhỏ lớn như ý.
(6) LẮNG YÊN: Theo nghi biểu của Phật, ai thưa thỉnh việc chi nếu
nín thinh là đã chịu.
(7) MƯỜI HAI HÀNH: Ba lần tứ đế thành 12:
- Nói: 1.-
Đây là Khổ, đây là Tập, Đây là Diệt, đây là Đạo.
2.- Khổ nên biết, Tập nên dứt, Diệt nên chứng, Đạo nên tu.
3.- Khổ biết rồi, Tập dứt rồi, Diệt chứng rồi, Đạo tu rồi.
(8) HAI MÓN NIẾT-BÀN: 1.- Thanh-văn Niết-bàn. 2.- Duyên-giác
Niết-bàn.
(9) CAI: Một trăm triệu (100.000.000) gọi là cai.
(10) NÓI HAI: Thanh-văn thừa, Duyên-giác thừa.
-*- Các danh-từ: vô-lượng, vô-biên, a-tăng-kỳ, vô-số, na-do-tha,
hằng-hà-sa, bất-khả-tư-nghị, bất-khả xưng, bất-khả thuyết v.v... đều là
những số lớn trên muôn ức.
|