QUYỂN
THỨ TƯ
Đời Diêu Tần ngài
Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng chiếu dịch. Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt
Dịch
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM "NGỦ BÁ ĐỆ-TỬ THỌ-KÝ"
THỨ TÁM
1. Lúc bấy
giờ, ngài Mãn-Từ-Tử từ nơi Đức Phật nghe trí-huệ phương tiện tùy cơ nghi nói
pháp như thế, lại nghe thọ-ký cho các vị đệ tử lớn sẽ thành Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác, lại nghe việc nhơn duyên đời trước, lại nghe các Đức
Phật có sức tự-tại thần-thông lớn, đặng điều chưa từng có, lòng thanh-tịnh
hớn hở, liền từ chổ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, đầu mặt lễ chân Phật, rồi
đứng qua một bên chiêm ngưỡng dung nhan của Phật mắt không tạm rời, mà nghĩ
thế nầy:
"Thế-Tôn
rất riêng lạ, việc làm ít có, thuận theo bao nhiêu chủng tánh ở trong đời,
dùng sức phương tiện tri kiến mà vì đó nói pháp, vớt chúng sanh ra khỏi các
chỗ tham trước, chúng con ở nơi công đức của Phật không thể dùng lời nói mà
tuyên bày được, chỉ có Đức Phật Thế-Tôn hay biết bổn nguyện trong thâm tâm
của chúng con".
2. Bấy giờ,
Phật bảo các Tỳ-kheo: "Các ông thấy Mãn-Từ-Tử đây chăng? Ta thường khen ông
là bậc nhứt trong hàng người nói pháp, cũng thường khen các món công đức của
ông, ròng rặc siêng năng hộ trì giúp tuyên bày pháp của Ta, có thể chỉ dạy
lợi mừng cho hàng bốn chúng
(1)
giải thích trọn vẹn
Chánh pháp của Phật, mà làm nhiều lợi
ích cho
những người cùng đồng hạnh thanh-tịnh. Ngoài Đức Như-Lai, không ai có thể
cùng tận chỗ biện bác ngôn luận của ông. Các ông chớ tưởng Mãn-Từ-Tử chỉ hay
hộ trì trợ tuyên pháp của Ta thôi, ông cũng đã ở nơi chín mươi ức Đức Phật
thuở quá khứ mà hộ trì trợ tuyên chánh pháp của Phật, ở trong nhóm người nói
pháp thuở đó cũng là bực nhứt.
Ông lại ở
pháp không của Phật nói, thông suốt rành rẽ, đặng bốn món trí vô ngại,
thường hay suy gẫm chắc chắn nói pháp thanh-tịnh không có nghi lầm, đầy đủ
sức thần-thông của Bô-tát tùy số thọ mạng mà thường tu hạnh thanh-tịnh.
Người đời
thuở Đức Phật kia đều gọi ông thiệt là Thanh-văn. Nhưng ông Mãn-Từ-Tử dùng
phương tiện đó làm lợi ích cho vô-lượng trăm nghìn chúng sanh, lại giáo hóa
vô-lượng vô số người khiến đứng nơi đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. Ông
vì muốn tịnh cõi Phật mà thường làm Phật sự giáo hóa chúng sanh.
Các
Tỳ-kheo! Ông Mãn-Từ-Tử cũng đặng bực nhứt ở trong hàng người nói pháp thuở
bảy Đức Phật, nay ở nơi chổ Ta trong hàng người nói pháp cũng là bực nhứt.
Trong hàng
người nói pháp thuở các Đức Phật trong Hiền-kiếp về đương lai cũng lại là
bực nhứt, mà đều hộ trì giúp tuyên bày pháp của Phật. Ông cũng sẽ ở trong
đời vị lai hộ trì trợ tuyên chánh pháp của vô-lượng vô biên các Đức Phật,
giáo hóa làm lợi ích cho vô-lượng chúng sanh khiến an lập nơi đạo Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác, vì tịnh cõi Phật mà thường siêng năng tinh-tấn giáo
hóa chúng sanh, lần lần đầy đủ đạo Bồ-tát.
Qua
vô-lượng vô số kiếp sau, ông sẽ ở nơi cõi nầy thành Vô-thượng Chánh-đẳng
Chánh-giác, hiệu là: Pháp-Minh Như-Lai, Ứng-Cúng, Chánh-Biến-Tri,
Minh-Hạnh-Túc, Thiện-Thệ, Thế-Gian-Giải, Vô-Thượng-Sỹ, Điều-Ngự Trượng-Phu,
Thiên-Nhơn-Sư, Phật Thế-Tôn.
Đức Phật
đó lấy số thế giới Tam-thiên Đại-thiên nhiều như số cát sông Hằng mà làm
thành một cõi Phật. Đất bằng bảy thứ báu, thẳng bằng như bàn tay không có
núi gò, khe suối, rạch ngòi. Nhà, đài bằng bảy thứ báu đầy dẫy trong đó,
cung điện của các Trời ở gần trên hư không, người cùng trời giao tiếp nhau,
hai bên đều thấy được nhau, không có đường dữ cũng không có người nữ.
Tất cả
chúng sanh đều do biến hóa sanh, không có dâm dục, đặng pháp thần-thông lớn,
thân chói ánh sáng, bay đi tự-tại, chí niệm bền chắc, có đức tinh-tấn
trí-huệ, tất cả đều thân sắc vàng đủ ba mươi hai tướng tốt để tự trang
nghiêm.
Nhân dân
nước đó thường dùng hai thức ăn: Một là Pháp-hỷ thực, hai là Thiền-duyệt
thực(2)
.
Có
vô-lượng vô số nghìn muôn ức na-do-tha các chúng Bồ-tát đặng sức thần-thông
lớn, bốn trí vô ngại(3)
,
khéo hay giáo hóa
loài chúng sanh. Chúng Thanh-văn trong nước đó tính kể số đếm đều không thể
biết được, đều đặng đầy đủ ba món minh, sáu pháp thần-thông và tám món giải
thoát(4)
.
Cõi nước của Đức Phật đó có vô-lượng công đức trang nghiêm thành
tựu như thế, kiếp tên Bửu-Minh, nước tên Thiện-Tịnh. Phật đó sống lâu
vô-lượng vô số kiếp, pháp trụ đời rất lâu. Sau khi Phật diệt độ, dựng tháp
bằng bảy thứ báu khắp cả nước đó.
Bấy giờ,
Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
3. Các
Tỳ-kheo lóng nghe
Đạo của Phật tử làm
Vì khéo học phương tiện
Chẳng thể nghĩ bàn được
Biết chúng ưa pháp nhỏ
Mà sợ nơi trí lớn
Cho nên các Bồ-tát
Làm Thanh-văn Duyên-giác
Dùng vô-số phương tiện
Độ các loài chúng sanh,
Tự nói là Thanh-văn
Cách Phật đạo rất xa
Độ thoát vô lượng chúng
Thảy đều được thành tựu
Dầu ưa nhỏ, biếng lười
Sẽ khiến lần thành Phật.
Trong ẩn hạnh Bồ-tát
Ngoài hiện là Thanh-văn
Ít muốn nhàm sanh tử
Thiệt tự tịnh cõi Phật
Bày ba độc(5)
cho người
Lại hiện tướng tà kiến,
Đệ tử Ta như vậy
Phương tiện độ chúng sanh
Nếu Ta nói đủ cả
Các món việc hiện hóa
Chúng sanh nghe đó rồi
Thời lòng sanh nghi lầm.
4. Nay
Phú-Lâu-Na đây
Ở xưa nghìn ức Phật
Siêng tu đạo mình làm
Tuyên hộ các Phật pháp
Vì cầu huệ Vô thượng
Mà ở chổ Chư Phật
Hiện ở trên đệ tử
Học rộng có trí-huệ
Nói pháp không sợ sệt
Hay khiến chúng vui mừng
Chưa từng có mõi mệt
Để giúp nên việc Phật.
Đã được thần-thông lớn
Đủ bốn trí vô-ngại
Biết các căn lợi độn
Thường nói pháp thanh-tịnh
Diễn xướng nghĩa như thế
Để dạy nghìn ức chúng
Khiến trụ pháp Đại thừa
Mà tự tịnh cõi Phật.
Đời sau cũng cúng dường
Vô-lượng vô-số Phật
Hộ trợ tuyên chánh pháp
Cũng tự tịnh cõi Phật
Thường dùng các phương tiện
Nói pháp không e sợ
Độ chúng không kể được
Đều thành Nhứt-Thiết-Trí
Cúng dường các Như-Lai
Hộ trì tạng pháp bảo.
Sau đó đặng thành Phật
Hiệu gọi là Pháp-Minh
Nước đó tên Thiện-Tịnh
Bảy thứ báu hiệp thành
Kiếp tên là Bửu-Minh
Chúng Bồ-tát rất đông
Số nhiều vô-lượng ức
Đều đặng thần-thông lớn
Sức oai đức dầy đủ
Khắp đầy cả nước đó
Thanh-văn cũng vô-số
Ba minh tám giải thoát
Đặng bốn trí vô-ngại
Dùng hạng này làm Tăng.
Chúng sanh trong cõi đó
Dâm dục đều đã dứt
Thuần một biến hóa sanh
Thân trang nghiêm đủ tướng
Pháp hỷ, Thiền duyệt thực
Không tưởng món ăn khác.
Không có hàng nữ nhơn
Cũng không các đường dữ.
Phú-Lâu-Na Tỳ-kheo
Khi công đức trọn đầy
Sẽ đặng tịnh độ nầy
Chúng Hiền Thánh rất đông
Vô lượng việc như thế
Nay Ta chỉ nói lược.
5. Bấy giờ,
một nghìn hai trăm vị A-La-Hán, bực tâm tự-tại, nghĩ như vầy: "Chúng ta vui
mừng đặng điều chưa từng có, nếu đức Thế-Tôn đều thọ ký cho như các đệ tử
lớn khác thời sung-sướng lắm".
Đức Phật
biết các tâm niệm của các vị đó nên nói với ngài Đại Ca-Diếp: "Một nghìn hai
trăm vị A-La-Hán đó, nay Ta sẽ hiện tiền thứ tự mà thọ ký đạo Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác".
Trong
chúng đó, đệ tử lớn của Ta là Kiều-Trần-Như Tỳ-kheo, sẽ cúng dường sáu muôn
hai nghìn ức Đức Phật, vậy sau đặng thành Phật hiệu là Phổ-Minh Như-Lai,
Ứng-Cúng, Chánh-Biến-Tri, Minh-Hạnh-Túc, Thiện-Thệ, Thế-Gian-Giải,
Vô-Thượng-Sỹ, Điều-Ngự Trượng-Phu, Thiên-Nhơn-Sư, Phật Thế-Tôn.
Năm trăm
vị A-La-Hán: Ông Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp, ông Già-Da Ca-Diếp, ông Na-Đề
Ca-Diếp, ông Ca-Lưu Đà-Di, ông Ưu-Đà-Di, ông A-Nâu-Lâu-Đà, ông Ly-Bà-Đa, ông
Kiếp-Tân-Na, ông Bạc-Câu-La, ông Châu-Đà-Tá, ông Dà-Đà v.v... đều sẽ đặng
đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, đều đồng một hiệu là Phổ-Minh.
Bấy giờ,
Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
6. Kiều-Trần-Như
Tỳ-kheo
Sẽ gặp vô-lượng Phật
Qua vô-số kiếp sau
Mới đặng thành Chánh-giác
Thường phóng quang minh lớn
Đầy đủ các thần-thông
Danh đồn khắp mười phương
Tất cả đều tôn kính
Thường nói pháp Vô thượng
Nên hiệu là Phổ-Minh
Cõi nước đó thanh-tịnh
Bồ-tát đều dõng mãnh
Đều lên lầu gác đẹp
Dạo các nước mười phương
Đem đồ cúng Vô thượng
Hiến dâng các đức Phật,
Làm việc cúng đó xong
Sanh lòng rất vui mừng
Giây lát về bổn quốc
Có sức thần như thế.
Phật thọ sáu muôn kiếp
Chánh pháp trụ bội thọ
Tượng pháp lại hơn chánh
Pháp diệt trời người lo.
7. Năm trăm
Tỳ-kheo kia
Thứ tự sẽ là Phật
Đồng hiệu là Phổ-Minh
Theo thứ thọ ký nhau:
Sau khi Ta diệt độ
Ông đó sẽ làm Phật
Thế gian của ông độ
Cũng như Ta ngày nay
Cõi nước đó nghiêm sạch
Và các sức thần-thông
Chúng Thanh-văn, Bồ-tát
Chánh pháp cùng Tượng pháp
Thọ mạng kiếp nhiều ít
Đều như trên đã nói.
Ca-Diếp! Ông đã biết
Năm trăm vị tự-tại
Các chúng Thanh-văn khác
Cũng sẽ làm như thế
Vị nào vắng mặt đây
Ông nên vì tuyên nói.
8. Bấy giờ,
năm trăm vị A-La-Hán ở trước Phật đặng thọ ký xong, vui mừng hớn hở, liền từ
chổ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy chân Phật, ăn năn lỗi của mình
mà tự trách: Thế-Tôn, chúng con thường nghĩ như vầy, tự cho
mình đã được rốt ráo diệt độ, nay mới
biết đó là như người vô trí, vì sao? Chúng con đáng được trí-huệ của Như-Lai
mà bèn tự lấy trí nhỏ cho là đủ.
Thế-Tôn! Thí như
có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc đó người bạn thân có việc
quan phải đi, lấy châu báu vô giá cột trong áo của gã say, cho đó rồi đi. Gã
đó say nằm đều không hay biết, sau khi dậy bèn dạo đi đến nước khác, vì việc
ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất là khổ nhọc, nếu có được chút ít bèn cho
là đủ.
Lúc sau
người bạn thân gặp gỡ thấy gã bèn bảo rằng: "Lạ thay! Anh này, sao lại vì ăn
mặc mà đến nỗi này. Ta lúc trước muốn cho anh được an vui tha hồ thọ năm món
dục, ở ngày tháng năm đó, đem châu báu vô giá cột vào trong áo anh, nay vẫn
còn đó mà anh không biết, lại đi nhọc nhằn sầu khổ để cầu tự nuôi sống thật
là khờ lắm; nay anh nên đem ngọc báu đó đổi chác lấy đồ cần dùng thời thường
được vừa ý không chổ thiếu thốn.
Đức Phật
cũng lại như vậy, lúc làm Bồ-tát giáo hóa chúng con khiến phát lòng cầu
Nhứt-Thiết-Trí, mà chúng con liền bỏ quên không hay không biết. Đã được đạo
A-La-Hán tự nói là diệt độ, khổ nhọc nuôi sống đặng chút ít cho là đủ, tất
cả trí nguyện vẫn còn chẳng mất. Ngày nay Thế-Tôn giác ngộ chúng con mà nói
rằng: "Các Tỳ-kheo! Đạo của các ông không phải rốt ráo diệt. Ta từ lâu đã
khiến các ông gieo căn lành của Phật, dùng sức phương tiện chỉ tướng
Niết-bàn, mà các ông cho là thiệt được diệt độ".
Thế-Tôn!
Chúng con nay mới biết mình thiệt là Bồ-tát được thọ ký sẽ thành đạo
Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. Vì nhơn duyên đó lòng rất vui mừng được
điều chưa từng có.
Bấy giờ,
ông A-Nhã Kiều-Trần-Như muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
9. Chúng
con nghe vô thượng
Tiếng thọ ký an ổn
Vui mừng chưa từng có
Lạy Phật trí vô-lượng.
Nay ở trước Thế-Tôn
Tự hối các lỗi quấy
Trong Phật báu vô-lượng
Được chút phần Niết-bàn
Như người ngu vô trí
Bèn tự cho là đủ.
Thí như người nghèo cùng
Qua đến nhà thân hữu
Nhà đó rất giàu lớn
Bày đủ các tiệc ngon
Đem châu báu vô giá
Cột dính trong vạt áo
Thầm cho rồi bỏ đi
Gã say nằm không hay.
Sau khi gã đã dậy
Dạo đi đến nước khác
Cầu ăn mặc tự sống
Nuôi sống rất khốn khổ
Được ít cho là đủ
Chẳng lại muốn đồ tốt
Chẳng biết trong vạt áo
Có châu báu vô giá.
Người thân hữu cho châu
Sau gặp gã nghèo này
Khổ thiết trách gã rồi
Chỉ cho châu trong áo.
Gã nghèo thấy châu đó
Lòng gã rất vui mừng
Giàu có các của cải
Tha hồ hưởng ngũ dục.
Chúng con cũng như vậy
Thế-Tôn từ lâu xưa
Thường thường giáo hóa cho
Khiến gieo nguyện vô thượng.
Chúng con vì vô trí
Chẳng hay cũng chẳng biết
Được chút phần Niết-bàn
Cho đủ chẳng cầu nữa.
Nay Phật giác ngộ con
Nói chẳng phải thiệt diệt
Đặng Phật huệ Vô thượng
Đó mới là thiệt diệt.
Con nay từ Phật nghe
Thọ ký việc trang nghiêm
Cùng tuần tự thọ ký
Thân tâm khắp mừng vui.
Thích nghĩa:
(1) BỐN CHÚNG: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.
(2) PHÁP HỶ THỰC: Lảnh hội pháp mầu lòng vui mừng, thân khoan
khoái.
THIỀN DUYỆT THỰC: Trụ trong thiền định,
tâm an, thân khỏe.
(3) BỐN TRÍ VÔ NGẠI: a)- Pháp vô ngại (có trí nói pháp suốt
thông). b)- Từ vô ngại (lời tiếng đầy đủ không trệ). c)- Nghĩa
vô ngại (Nghĩa, ý thấu đáo). d)- Nhạo thuyết vô ngại (thường ưa thích nói
pháp).
(4) TÁM MÓN GIẢI THOÁT:
a)- Nội
hữu sắc tướng ngoại quán sắc giải thoát.
b)- Nội vô
sắc tướng ngoại quán sắc giải thoát.
c)-
Tinh-bội xả thân tác chứng giải thoát.
d)- Hư
không xứ giải thoát.
e)- Thức
vô biên xứ giải thoát.
f)-
Vô-sở-hữu xứ giải thoát.
g)- Phi
hữu-tưởng phi vô-tưởng giải thoát.
h)-
Diệt-thọ tưởng giải thoát.
(5) BA ĐỘC: Tham, sân, si.
|