Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát

 
 

 

QUYỂN THỨ BẢY

Đời Diêu Tần ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng chiếu dịch. Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

 

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

PHẨM "QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT PHỔ MÔN" THỨ HAI MƯƠI LĂM

       1. Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế-Tôn! Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát do nhơn duyên gì mà tên là Quán-Thế-Ẩm?"

          Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-tát: "Thiện-nam-tử! Nếu có vô-lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế-Âm Bồ-tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát.

          Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát Bồ-tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, vì do sức oai thần của Bồ-tát này vậy.

         Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-tát này liền đặng chổ cạn.

          Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu-ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, chơn-châu các thứ báu, nên vào trong biển lớn, giả sử gió thổi ghe thuyền của kia trôi tấp nơi nước quỷ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát, thời các người đó đều đặng thoát khỏi nạn quỷ La-sát. Do nhơn duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.

          2. Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát, thời dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, mà đặng thoát khỏi.

          Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi Tam-thiên Đại-thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát, thời các quỷ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại đặng.

         Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát, thảy đều đứt rã, liền đặng thoát khỏi.

          Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi Tam-thiên Đại-thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: "Các Thiện-nam-tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát, vị Bồ-tát đó hay đem Pháp vô-úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thời sẽ đặng thoát khỏi oán tặc này".

          Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: "Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-tát!" vì xưng danh hiệu Bồ-tát nên liền đặng thoát khỏi.

        Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Đại Bồ-tát sức oai thần cao lớn như thế.

          3. Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-tát, liền đặng ly dục.

          Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-tát, liền đặng lìa lòng giận.

          Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-tát, liền đặng lìa ngu si.

           Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ.

          Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-tát, liền sanh con trai phước đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng cội phước đức, mọi người đều kính mến.

          Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-tát có sức thần như thế.

          4. Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán-Thế-Âm Bồ-tát, thời phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát.

          Vô-Tận-Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng-hà-sa Bồ-tát, lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang, ý ông nghĩ sao? Công đức của người Thiện-nam-tử, Thiện-nữ-nhơn đó có nhiều chăng?"

         Vô-Tận-Ý thưa: "Bạch Thế-Tôn! Rất nhiều". Phật nói: "Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận.

          Vô-Tận-Ý! Thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát đặng vô-lượng vô biên phước đức lợi ích như thế.

           5. Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-tát bạch Phật rằng: "Thế-Tôn Quán-Thế-Âm Bồ-tát dạo đi trong cõi Ta-bà như thế nào? Nói pháp cho chúng sanh như thế nào? Sức phương tiện việc đó như thế nào?

          Phật bảo Vô-Tận-Ý Bồ-tát: "Thiện-nam-tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật đặng độ thoát, thời Quán-Thế-Âm Bồ-tát liền hiện thân Phật mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Duyên-giác đặng độ thoát, liền hiện thân Duyên-giác mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Thanh-văn đặng độ thoát, liền hiện thân Thanh-văn mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Phạm-Vương đặng độ thoát, liền hiện thân Phạm-Vương mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Đế-Thích đặng độ thoát, liền hiện thân Đế-Thích mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Tự-Tại-Thiên đặng độ thoát, liền hiện thân Tự-Tại-Thiên mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Đại Tự-Tại-Thiên đặng độ thoát, liền hiện thân Đại Tự-Tại-Thiên mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Thiên-Đại-Tướng-Quân đặng độ thoát, liền hiện thân Thiên-Đại-Tướng-Quân mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Tỳ-Sa-Môn đặng độ thoát, liền hiện thân Tỳ-Sa-Môn mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Tiểu-Vương đặng độ thoát, liền hiện thân Tiểu-Vương mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Trưởng-giả đặng độ thoát, liền hiện thân Trưởng-giả mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Cư-sĩ đặng độ thoát, liền hiện thân Cư-sĩ mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Tể-Quan đặng độ thoát, liền hiện thân Tể-Quan mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Bà-la-môn đặng độ thoát, liền hiện thân Bà-la-môn mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đặng độ thoát, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân phụ-nữ của Trưởng-giả, Cư-sĩ, Tể-quan, Bà-la-môn đặng độ thoát, liền hiện thân phụ-nữ mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân đồng-nam, đồng-nữ đặng độ thoát, liền hiện thân đồng-nam, đồng-nữ mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, Nhơn cùng Phi nhơn đặng độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói Pháp.

          Người đáng dùng thân Chấp-Kim-Cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp-Kim-Cang Thần mà vì đó nói Pháp.

          Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-tát.

          Quán-Thế-Âm Đại Bồ-tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta-bà này đều gọi Ngài là vị "Thí-Vô-Úy".

          6. Vô-Tận-Ý Bồ-tát bạch Phật: "Thế-Tôn! Con nay phải cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-tát". Liền mở chuổi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lượng vàng, đem trao cho ngài Quán-Thế-Âm mà nói rằng: "Xin ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này".

          Khi ấy Quán-Thế-Âm Bồ-tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô-Tận-Ý lại thưa cùng Quán-Thế-Âm Bồ-tát rằng: "Xin ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này".

          Bấy giờ, Phật bảo Quán-Thế-Âm Bồ-tát: "Ông nên thương Vô-Tận-Ý Bồ-tát này và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ-Xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, Nhơn và Phi nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó".

          Tức thời Quán-Thế-Âm Bồ-tát thương hàng tứ chúng và Trời, Rồng, Nhơn, Phi nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: một phần dâng Đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật, một phần dưng tháp của Phật Đa-Bảo.

          Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta-bà".

          Lúc đó ngài Vô-Tận-Ý Bồ-tát nói kệ hỏi Phật rằng:

 

7. Thế-Tôn đủ tướng tốt!

Con nay lại hỏi kia

Phật tử nhơn duyên gì

Tên là Quán-Thế-Âm!

Đấng đầy đủ tướng tốt

Kệ đáp Vô-Tận-Ý:

Ông nghe hạnh Quán-Âm

Khéo ứng các nơi chỗ

Thệ rộng sâu như biển

Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn

Hầu nhiều nghìn ức Phật

Phát nguyện thanh tịnh lớn.

Ta vì ông lược nói

Nghe tên cùng thấy thân

Tâm niệm chẳng luống qua

Hay diệt khổ các cõi.

Giả sử sanh lòng hại

Xô rớt hầm lửa lớn

Do sức niệm Quán-Âm

Hầm lửa biến thành ao.

Hoặc trôi dạt biển lớn

Các nạn quỷ, cá, rồng

Do sức niệm Quán-Âm

Sóng mòi chẳng chìm đặng.

Hoặc ở chót Tu-di

Bị người xô rớt xuống

Do sức niệm Quán-Âm

Như mặt nhựt treo không.

Hoặc bị người dữ rượt

Rớt xuống núi Kim-cang

Do sức niệm Quán-Âm

Chẳng tổn đến mẩy lông.

Hoặc gặp oán tặc vây

Đều cầm dao làm hại

Do sức niệm Quán-Âm

Đều liền sanh lòng lành.

Hoặc bị khổ nạn vua

Khi hành hình sắp chết

Do sức niệm Quán-Âm

Dao liền gãy từng đoạn.

Hoặc tù cấm xiềng xích

Tay chân bị gông cùm

Do sức niệm Quán-Âm

Tháo rã đặng giải thoát.

Nguyền rủa các thuốc độc

Muốn hại đến thân đó

Do sức niệm Quán-Âm

Trở hại nơi bổn nhơn(1)

Hoặc gặp La-sát dữ

Rồng độc các loài quỷ

Do sức niệm Quán-Âm

Liền đều không dám hại.

Hoặc thú dữ vây quanh

Nanh vút nhọn đáng sợ

Do sức niệm Quán-Âm

Vội vàng bỏ chạy thẳng.

Rắn độc cùng bò cạp

Hơi độc khói lửa đốt

Do sức niệm Quán-Âm

Theo tiếng tự bỏ đi.

Mây sấm nổ sét đánh

Tuôn giá(2), xối mưa lớn

Do sức niệm Quán-Âm

Liền đặng tiêu tan cả.

Chúng sanh bị khổn ách

Vô-lượng khổ bức thân

Quán-Âm sức trí diệu

Hay cứu khổ thế gian

Đầy đủ sức thần thông

Rộng tu trí phương tiện

Các cõi nước mười phương

Không cõi nào chẳng hiện.

Các loài trong đường dữ:

Địa-ngục, quỷ, súc sanh

Sanh, già, bịnh, chết, khổ

Lần đều khiến dứt hết.

Chơn quán thanh tịnh quán

Trí-huệ quán rộng lớn

Bi quán và từ quán,

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng

Sáng thanh tịnh không nhơ

Huệ nhựt(3) phá các tối

Hay tiêu tai khói lửa

Khắp soi sáng thế gian.

Lòng Bi răn như sấm

Ý Từ diệu dường mây(4)

Xối mưa pháp cam lồ

Dứt trừ lửa phiền não(5)

Cãi kiện qua chỗ quan

Trong quân trận sợ sệt

Do sức niệm Quán-Âm

Cừu oán đều lui tan.

Diệu-Âm, Quán-Thế-Âm

Phạm-Âm, Hải-Triều-Âm

Tiếng hơn thế gian kia

Cho nên thường phải niệm.

Niệm niệm chớ sanh nghi

Quán-Âm bực Tịnh thánh

Nơi khổ não nạn chết

Hay vì làm nương cậy.

Đủ tất cả công đức

Mắt lành trông chúng sanh

Biển phước lớn không lường

Cho nên phải đảnh lễ.

          8. Bấy giờ, ngài Tri-Địa Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: "Thế-Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Đạo Nghiệp Tự Tại, Phổ-Môn Thị Hiện Sức Thần Thông này, thời phải biết công đức người đó chẳng ít". 

          Lúc Phật nói phẩm Phổ-Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm Vô Đẳng đẳng Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.


 

Thích nghĩa:

 

(1) BỔN NHƠN: Người chủ, người dùng bùa chú thuốc độc để hại người khác.

(2) TUÔN GIÁ: Ta thường gọi là mưa đá.

(3) HUỆ NHỰT: Mặt trời trí-huệ, ý nói trí-huệ sáng chói như mặt trời.

(4) LÒNG BI RĂN NHƯ SẤM: "Lòng bi" là lòng muốn cứu chúng sanh khỏi khổ, răn trừ các độc, như sấm vang làm khiếp vía ma mị.

          Ý TỪ: là lòng muốn chúng sanh được hưởng các sự vui thỏa nên thường đem sự lợi lạc ban cho chúng sanh như mây rưới mưa đượm nhuần cỏ cây muôn vật.

(5) DỨT TRỪ LỬA PHIỀN NÃO: Lòng tham giận, ganh v.v... làm phiền nhiễu bứt rứt khổ não thân tâm, người như lửa đốt, Bồ-tát nói pháp trừ những tánh xấu trên đó làm cho thân tâm người thơ thới, mát mẽ, như rưới nước cam lồ tắt lửa.