| |
QUYỂN THỨ NHỨT
Đời Diêu Tần ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng chiếu dịch. Tỳ
Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch
KINH DIỆU PHÁP LIÊN
HOA(1)
PHẨM "TỰA" THỨ NHỨT
1. Tôi
nghe như thế nầy: Một thuở nọ Đức Phật(2)
ở trong núi Kỳ-Xà-Quật, nơi thành Vương Xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một
vạn hai ngàn người câu hội. Các vị đó đều là bậc đại A-La-Hán, các lậu(3)
đã hết, không còn phiền-não, việc lợi mình đã xong(4)
dứt sự ràng rịt trong các cõi(5)
tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A-Nhã Kiều-Trần-Như, Ma-Ha
Ca-Diếp, Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Đề Ca-Diếp,
Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, A-Nậu Lâu-Đà,
Kiếp-Tân-Na, Kiều-Phạm Ba-Đề, Ly-Bà-Đa, Tất-Lăng-Già-Bà-Ta-Bạc-Câu-La,
Ma-Ha Câu-Hy-La, Nan-Đà, Tôn-Đà-La Nan-Đà, Phú-Lâu-Na-Di-Đa-La-Ni-Tử,
Tu-Bồ-Đề, A-Nan, La-Hầu-La v.v... đó là những vị đại A-La-Hán hàng tri
thức của chúng.
Lại có bậc hữu học và vô học(6)
hai ngàn người.
Bà Tỳ-kheo-ni Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Đề cùng với quyến thuộc sáu ngàn người câu
hội. Mẹ của La-Hầu-La là bà Tỳ-kheo-ni Gia-Du-Đà-La cùng với quyến thuộc
câu hội.
2. Bậc
Đại Bồ-Tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác(7),
đều chứng đặng pháp Đà-la-ni(8)
nhạo-thuyết biện-tài(9),
chuyển nói Pháp-luân bất-thối chuyển, từng cúng dường vô-lượng
trăm nghìn Chư Phật, ở nơi các Đức Phật trồng các cội công-đức.
Thường được các Đức Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng
trí huệ của Phật, thông đạt đại trí đến nơi bờ kia(10),
danh đồn khắp vô lượng thế-giới, có thể độ vô số trăm nghìn chúng sanh.
Tên của các vị đó là: Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Quán-Thế-Âm Bồ-tát,
Đắc-Đại-Thế Bồ-tát, Thường-Tin-Tấn Bồ-tát, Bất-Hưu-Tức Bồ-tát,
Bửu-Chưởng Bồ-tát, Dược-Vương Bồ-tát, Dõng-Thí Bồ-tát, Bửu-Nguyệt
Bồ-tát, Nguyệt-Quang Bồ-tát, Mãn-Nguyệt Bồ-tát, Đại-Lực Bồ-tát,
Vô-Lượng-Lực Bồ-tát, Việt-Tam-Giới Bồ-tát, Bạt-Đà-Bà-La Bồ-tát, Di-Lặc
Bồ-tát, Bửu-Tích Bồ-tát, Đạo-Sư Bồ-tát v.v... Các vị đại Bồ-tát như thế
tám muôn người câu hội.
3. Lúc
bấy giờ, Thích-Đề-Hoàn-Nhơn(11)
cùng quyến thuộc hai muôn vị Thiên-tử câu hội.
Lại có
Minh-Nguyệt Thiên-tử, Phổ-Hương Thiên-tử, Bửu-Quang Thiên-tử, bốn vị đại
Thiên-vương cùng với quyến thuộc một muôn Thiên-tử câu hội.
Tự tại
Thiên-tử, Đại tự tại Thiên-tử, cùng với quyến thuộc ba vạn Thiên-tử câu
hội.
Chủ cõi Ta-Bà:
Phạm-Thiên-Vương, Thi-Khí-Đại-Phạm, Quang-Minh-Đại-Phạm v.v... cùng với
quyến thuộc một muôn hai nghìn vị Thiên-tử câu hội.
Có tám vị
Long-Vương: Nan-Đà Long-Vương, Bạt-Nan-Đà Long-Vương, Ta-Dà-La
Long-Vương, Hòa-Tu-Kiết Long-Vương, A-Na-Bà-Đạt-Đa Long-Vương, Ma-Na-Tư
Long-Vương, Ưu-Bát-La Long-Vương v.v... đều cùng bao nhiêu trăm nghìn
quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị
Khẩn-Na-La Vương: Pháp-Khẩn-Na-La Vương, Diệu-Pháp-Khẩn-Na-La Vương,
Đại-Pháp-Khẩn-Na-La Vương, Trì-Pháp-Khẩn-Na-La Vương đều cùng bao nhiêu
trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị
Càn-Thát-Bà Vương: Nhạc-Càn-Thát-Bà Vương, Nhạc-Âm-Càn-Thát-Bà Vương,
Mỹ-Càn-Thát-Bà Vương, Mỹ-Âm-Càn-Thát-Bà Vương, đều cùng bao nhiêu trăm
nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị
A-Tu-La Vương: Bà-Trĩ A-Tu-La Vương, Khư-La-Khiên-Đà A-Tu-La Vương,
Tỳ-Ma-Chất-Đa-La A-Tu-La Vương, La-Hầu A-Tu-La Vương, Đều cùng bao nhiêu
trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị Ca-Lầu-La Vương: Đại-Oai-Đức Ca-Lầu-La Vương, Đại-Thân
Ca-Lầu-La Vương, Đại-Mãn Ca-Lầu-La Vương, Như-Ý Ca-Lầu-La Vương, đều
cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Vua A-Xà-Thế, con bà Vi-Đề-Hi, cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến
thuộc câu hội.
Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía.
4. Lúc bấy giờ, Đức Thế-Tôn, hàng tứ chúng vây quanh cúng-dường cung
kính ngợi khen tôn trọng, vì các vị Bồ-tát mà nói Kinh đại thừa tên là:
"Vô-Lượng-Nghĩa Giáo Bồ-tát
Pháp Phật Sở Hộ niệm".
Nói Kinh nầy xong, Đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh-định "Vô-Lượng
Nghĩa-Xứ", thân và tâm của Phật đều không lay động.
Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-Ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa
Ma-ha Mạn-thù-sa, để rải trên Đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cõi
Phật sáu điệu vang động(12).
Lúc bấy giờ, trong chúng hội, các hàng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam,
Cận sự nữ, Trời, Rồng, Dạ-Xoa, Càn-Thát-Bà(13),
A-Tu-La(14),
Ca-Lầu-La(15),
Khẩn-Na-La(16),
Ma-hầu-la-dà(17),
Nhơn, Phi nhơn và các vị Tiểu vương cùng Chuyển-Luân-Thánh-Vương, các
đại chúng ấy đều đặng thấy việc chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng
nhìn Phật.
5. Bấy
giờ, Đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặn mày phóng ra luồng hào
quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, dưới thời
chiếu đến địa ngục A-tỳ, trên suốt thấu trời Sắc Cứu-cánh. Chúng ở cõi
nầy đều thấy cả sáu loài chúng sanh(18)
,
ở các cõi kia.
Lại thấy các Đức Phật hiện tại nơi các cõi kia và nghe Kinh pháp của các
Đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cõi kia, các hàng Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ, những người tu hành đắc đạo.
Lại thấy các vị đại Bồ-tát dùng các món nhân duyên, các lòng tín giải,
các loại tướng mạo mà tu hành đạo Bồ-tát. Lại thấy các Đức Phật nhập
Niết-bàn, lại thấy sau khi các Đức Phật nhập Niết-bàn, đem Xá-lợi của
Phật mà dựng tháp bằng bảy báu.
6. Khi
ấy, Ngài Di-Lặc Bồ-tát nghĩ rằng: "Hôm nay Đức Thế-Tôn hiện thần biến
tướng, vì nhơn duyên gì mà có điềm lành nầy".
Nay Đức Phật đương nhập chánh-định, việc biến hiện hy-hữu không thể nghĩ
bàn nầy nên hỏi ai, ai đáp được?
Ngài lại nghĩ: "Ông Pháp-Vương tử(19)
Văn-Thù Sư-Lợi này đã từng gần gũi cúng dường vô-lượng các Đức Phật đời
quá khứ, chắc đã thấy tướng hy-hữu này ta nay nên hỏi ông".
Lúc đó, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ(20)
và các Trời, Rồng, Quỷ, Thần v.v... đều nghĩ rằng: "Tướng thần-thông
sáng chói của Đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?"
7. Bấy
giờ, Ngài Di-Lặc Bồ-tát muốn giải quyết chổ nghi của mình, ngài lại xét
tâm niệm của bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ, và
của cả chúng hội Trời, Rồng, Quỷ, Thần v.v... mà hỏi Văn-Thù Sư-Lợi
rằng: "Vì nhơn duyên gì mà có tướng lành thần-thông nầy, Phật phóng ánh
sáng lớn soi khắp một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, đều thấy cõi
nước trang nghiêm của các Đức Phật?". Khi đó Ngài Di-Lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng:
8. Ngài
Văn-Thù Sư-Lợi
Đức đạo
sư cớ chi
Lông
trắng giữa chặn mày
Phóng
ánh sáng khắp soi?
Trời
mưa hoa Mạn-đà
Cùng
hoa Mạn-thù-sa,
Gió
thơm mùi Chiên-đàn
Vui đẹp
lòng đại chúng
Vì nhơn
duyên như vậy
Cõi đất
đều nghiêm tịnh
Mà
trong thế giới này
Sáu
điệu vang động lên.
Bấy giờ
bốn bộ chúng
Thảy
đều rất vui mừng
Thân
cùng ý thơ thới Đặng việc chưa từng có.
9. Ánh
sáng giữa chặn mày
Soi
suốt thẳng phương Đông
Một
muôn tám nghìn cõi
Đều ánh
như sắc vàng.
Từ địa
ngục A-tỳ
Trên
đến trời Hửu-Đảnh
Trong
các thế giới đó
Cả sáu
đạo chúng sanh
Sống
chết của kia đến
Nghiệp
duyên lành cùng dữ
Thọ báo
có tốt xấu Tại đây đều thấy rõ.
10. Lại thấy các Đức Phật
Đấng
Thánh-Chúa Sư-tử
Diễn
nói các Kinh điển
Nhiệm
mầu bực thứ nhứt.
Tiếng
của Ngài thanh-tịnh
Giọng
nói ra êm diệu
Dạy bảo
các Bồ-tát
Vô số
ức muôn người
Tiếng
Phạm-âm thâm diệu
Khiến
người đều ưa nghe.
Các
Phật ở cõi mình
Mà
giảng nói Chánh pháp
Dùng
nhiều món nhân duyên
Cùng
vô-lượng tỷ dụ
Để soi
rõ Phật, Pháp
Mà khai
ngộ chúng sanh.
Nếu có
người bị khổ
Nhàm
lìa già, bịnh, chết,
Phật vì
nói Niết-bàn
Để dứt
các ngằn khổ.
Nếu là
người có phước
Đã từng
cúng dường Phật
Chí cầu
pháp thù-thắng
Vì nói
hạnh Duyên-Giác.
Nếu lại
có Phật tử
Tu tập
các công hạnh
Để cầu
huệ vô thượng Phật vì nói tịnh đạo.
11. Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Tôi ở
tại nơi đây
Thấy
nghe dường ấy đó
Và
nghìn ức việc khác
Thấy
rất nhiều như thế Nay sẽ lược nói ra:
12. Tôi thấy ở cõi kia
Có hằng
sa Bồ-tát
Dùng
các món nhân duyên
Mà cầu
chứng Phật đạo
Hoặc có
vị bố-thí
Vàng,
bạc, ngọc, san-hô,
Chơn
châu, ngọc như-ý,
Ngọc
xa-cừ, mã-não,
Kim-cương, các trân bửu
Cùng
tôi tớ, xe cộ
Kiệu,
cáng chưng châu báu
Vui vẻ
đem bố thí
Hồi
hướng về Phật đạo
Nguyện
đặng chứng thừa ấy
Bậc
nhứt của ba cõi
Các
Phật hằng khen ngợi.
Hoặc có
vị Bồ-tát
Xe tứ
mã, xe báu
Bao lơn
che tàng đẹp
Trau
tria dùng bố thí.
Lại
thấy có Bồ-tát
Bố thí
cả vợ con
Thân
thịt cùng tay chân
Để cầu
vô thượng đạo
Lại
thấy có Bồ-tát
Đầu,
mắt và thân thể
Đều ưa
vui thí cho Để cầu trí-huệ Phật.
13. Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Ta thấy
các quốc vương
Qua đến
chổ của Phật
Thưa
hỏi đạo Vô-thượng
Bèn bỏ
nước vui vẻ
Cung
điện cả thần thiếp
Cạo
sạch râu lẫn tóc
Mà mặc
y Pháp phục
Hoặc
lại thấy Bồ-tát
Mà hiện
làm Tỳ-kheo
Một
mình ở vắng vẻ
Ưa vui
tụng Kinh điển
Cũng
thấy có Bồ-tát
Dõng
mảnh và tinh-tấn
Vào ở
nơi thâm sơn
Suy xét
mối Phật đạo.
Và thấy
bực ly dục
Thường
ở chổ không nhàn
Sâu tu
các thiền định
Đặng
năm món thần thông
Và thấy
vị Bồ-tát
Chắp
tay trụ thiền định
Dùng
nghìn muôn bài kệ
Khen
ngợi các Pháp vương.
Lại
thấy có Bồ-tát
Trí sâu
chí bền chắc
Hay hỏi
các đức Phật
Nghe
rồi đều thọ trì.
Lại
thấy hàng Phật tử
Định
huệ trọn đầy đủ
Dùng
vô-lượng tỷ dụ
Vì
chúng mà giảng pháp
Vui ưa
nói các pháp
Dạy bảo
các Bồ-tát
Phá dẹp
chúng binh ma
Mà đánh
rền trống pháp.
Cùng
thấy vị Bồ-tát
Vắng
bặt yên lặng ngồi
Trời,
Rồng đều cung kính
Chẳng
lấy đó làm mừng.
Và thấy
có Bồ-tát
Ở rừng
phóng hào quang
Cứu khổ
chốn địa ngục
Khiến
đều vào Phật đạo.
Lại
thấy hàng Phật tử
Chưa
từng có ngủ nghỉ
Kinh
hành ở trong rừng
Siêng
năng cầu Phật đạo
Cũng
thấy đủ giới đức
Oai
nghi không thiếu sót
Lòng
sạch như bửu châu
Để cầu
chứng Phật đạo.
Và thấy
hàng Phật tử
Trụ vào
sức nhẫn-nhục
Bị kẻ
tăng thượng mạn
Mắng
rủa cùng đánh đập
Thảy
đều hay nhẫn được
Để cầu
chứng Phật đạo
Lại
thấy có Bồ-tát
Xa rời
sự chơi cười
Và
quyến thuộc ngu si
Ưa gần
gủi người trí
Chuyên
tâm trừ loạn động
Nhiếp
niệm ở núi rừng
Trải ức
nghìn muôn năm Để cầu được Phật đạo.
14. Lại thấy vị Bồ-tát
Đồ ăn
uống ngọt ngon
Cùng
trăm món thuốc thang
Đem
cúng Phật và Tăng,
Áo tốt
đồ thượng phục
Giá
đáng đến nghìn muôn
Hoặc là
vô giá y
Đem
cúng Phật và Tăng,
Dùng
nghìn muôn ức thứ
Nhà báu
bằng chiên-đàn
Các
giường nằm tốt đẹp
Để cúng
Phật cùng Tăng.
Rừng
vườn rất thanh tịnh
Bông
trái đều sum sê
Suối
chảy cùng ao tắm
Cúng
dường Phật và tăng,
Cúng
thí như thế đó
Các đồ
cúng tốt đẹp
Vui vẻ
không hề nhàm Để cầu đạo vô thượng.
15. Lại có vị Bồ-tát
Giảng
nói pháp tịch diệt
Dùng
các lời dạy-dỗ
Dạy
vô-số chúng sanh
Hoặc
thấy vị Bồ-tát
Quán
sát các Pháp tánh,
Đều
không có hai tướng
Cũng
như khoảng hư không.
Lại
thấy hàng Phật tử
Tâm
không chổ mê đắm
Dùng
món diệu huệ này Mà cầu đạo vô thượng.
16. Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Lại có
vị Bồ-tát
Sau khi
Phật diệt độ
Cúng
dường Xá-lợi Phật
Lại
thấy hàng Phật tử
Xây
dựng các tháp miếu
Nhiều
vô số hằng sa
Nghiêm
sức khắp cõi nước.
Bửu
tháp rất cao đẹp
Đều năm
nghìn do tuần.
Bề
ngang rộng xứng nhau
Đều hai
nghìn do tuần
Trong
mỗi mỗi tháp miếu
Đều có
nghìn tràng phan
Màn
châu xen thả xuống
Tiếng
linh báu hòa reo
Các vị
Trời, Rồng, Thần,
Người
cùng với phi nhơn
Hương
hoa cùng kỹ nhạc
Thường
đem đến cúng dường.
Ngài
Văn-Thù Sư-Lợi!
Các
hàng Phật tử kia
Vì cúng
dường Xá-lợi
Nên
trang sức tháp miếu,
Cõi
quốc giới tự nhiên
Thù đặc
rất tốt đẹp
Như cây
Thiên-thọ-vương Bông kia đương xòe nở.
17. Phật phóng một luồng sáng
Ta cùng
cả chúng hội
Thấy
nơi cõi nước nầy
Các thứ
rất tốt đẹp
Thần
lực của chư Phật
Trí-huệ
đều hi-hữu
Phóng
một luồng tịnh-quang
Soi
khắp vô lượng cõi
Chúng
ta thấy việc nầy Đặng đều chưa từng có.
18. Xin Phật tử Văn-Thù
Giải
quyết lòng chúng nghi
Bốn
chúng đều mong ngóng
Nhìn
ngài và nhìn ta
Đức
Thế-Tôn cớ chi
Phóng
ánh quang-minh nầy?
Phật tử
phải thời đáp
Quyết
nghi cho chúng mừng
Có
những lợi ích gì
Đức
Phật phóng quang nầy?
Khi
Phật ngồi đạo tràng
Chứng
đặng pháp thâm diệu
Vì muốn
nói pháp đó
Hay là
sẽ thọ ký?
Hiện
bày các cõi Phật
Các báu
sạch trang nghiêm
Cùng
thấy các đức Phật
Đây
không phải cớ nhỏ
Ngài
Văn-Thù nên biết
Bốn
chúng và Long, Thần
Nhìn
xem xét Ngài đó
Mong sẽ
nói những gì?
19. Lúc
bấy giờ, Ngài Văn-Thù Sư-Lợi nói với Ngài Di-Lặc đại Bồ-tát cùng các vị
Đại-sĩ: "Các Thiện nam tử! Như chổ ta xét nghĩ thời nay Đức Phật Thế-Tôn
muốn nói Pháp lớn, mưa Pháp vũ lớn, thổi Pháp loa lớn, đánh Pháp cổ lớn
và diễn Pháp nghĩa lớn".
Các Thiện nam tử! Ta từng ở nơi các Đức Phật Đời quá khứ thấy điềm lành
nầy, Phật kia phóng hào quang lớn đó rồi liền nói Pháp lớn. Cho nên biết
chắc rằng hôm nay Đức Phật hiện hào quang cũng lại như vậy. Phật vì muốn
cho chúng sanh đều đặng nghe biết Pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin
theo, cho nên hiện điềm lành nầy.
20. Các Thiện nam tử! Như vô lượng vô biên a tăng kỳ(21)
kiếp về trước. Bấy giờ có Đức Phật hiệu Nhựt-Nguyệt Đăng-Minh Như-Lai,
Ứng-Cúng, Chánh-Biến-Tri, Minh-Hạnh-Túc, Thiện-Thệ, Thế-Gian-Giải,
Vô-Thượng-Sỹ, Điều-Ngự Trượng-Phu, Thiên-Nhơn-Sư, Phật Thế-Tôn, diễn nói
Chánh pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều lành, nghĩa lý sâu xa,
lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm-hạnh thanh
bạch.
Phật, vì người
cầu đạo Thanh-Văn, nói pháp Tứ-đế(22)
thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết cứu-cánh Niết-bàn. Vì hạng cầu quả
Duyên-Giác, nói pháp Mười hai nhơn-duyên(23).
Vì hàng Bồ-tát nói sáu pháp Ba-la-mật(24)
làm cho chứng đặng quả Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác, thành bậc
Nhứt-thiết chủng-trí(25).
Kế lại có Đức
Phật cũng hiệu Nhựt-Nguyệt Đăng-Minh, lại có Đức Phật cũng hiệu
Nhựt-Nguyệt Đăng-Minh. Như thế đến hai muôn Đức Phật đều đồng một tên
hiệu Nhựt-Nguyệt Đăng-Minh, lại cùng đồng một họ, họ Phả-La-Đọa.
Di-Lặc nên
biết! Đức Phật trước, Đức Phật sau đều đồng một tên hiệu Nhựt-Nguyệt
Đăng-Minh, đầy dủ mười hiệu, những pháp được nói ra, đầu, giũa, sau đều
lành.
Đức Phật rốt
sau cả, lúc chưa xuất gia có tám vị vương tử: Người thứ nhất tên Hữu-Ý,
thứ hai tên Thiện-Ý, thứ ba tên Vô-Lượng-Ý, thứ tư tên Bữu-Ý, thứ năm
tên Tăng-Ý, thứ sáu tên Trừ-Nghi-Ý, thứ bảy tên Hướng-Ý, thứ tám tên
Pháp-Ý. Tám vị vương tử đó có oai đức tự tại đều lãnh tri, bốn châu thiên hạ(26) . Nghe vua cha xuất gia chứng đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, đều bỏ ngôi vua, cũng xuất gia theo, phát tâm đại-thừa, thường tu hạnh thanh-tịnh, đều làm bực Pháp-sư, thuở trước đã từng ở chổ nghìn muôn Đức Phật vun trồng các cội lành.
21. Đức Phật Nhựt-Nguyệt Đăng-Minh lúc đó nói Kinh đại thừa tên "Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ Giáo Bồ-tát Pháp
Phật Sở Hộ-Niệm". Nói Kinh đó rồi, Phật liền ở trong đại chúng ngồi xếp
bằng nhập vào cảnh chánh-định "Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ", thân và tâm chẳng
động.
22. Khi ấy trời mưa hoa Mạ-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa
cùng hoa Ma-ha Mạn-thù-sa để rải trên Đức Phật và hàng đại chúng. Khắp
cõi nước Phật sáu điệu vang động.
Lúc đó trong hội, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ, Trời,
Rồng, Dạ-xoa, Can-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà,
Nhơn, phi Nhơn cùng các vị tiểu vương, các vị Chuyển-Luân Thánh-Vương
v.v..., các đại chúng đó đặng điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một
lòng nhìn Phật.
23. Bấy giờ, Đức Như-Lai từ tướng lông trắng chặng giữa chân mày phóng
ra luồng ánh sáng soi khắp cùng cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương
Đông như nay đương thấy ở cõi Phật đây.
Di-Lặc nên biết! Khi đó trong hội, có hai mươi ức Bồ-tát ưa muốn
nghe pháp, các vị Bồ-tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các cõi Phật đặng
điều chưa từng có, đều muốn biết vì duyên cớ gì mà phóng ánh sáng này.
Khi ấy, có vị
Bồ-tát hiệu Diệu-Quang có tám trăm người đệ tử.
24. Bấy giờ Đức Phật Nhựt-Nguyệt Đăng-Minh từ trong Chánh-định mà dậy,
vì Diệu-Quang Bồ-tát nói Kinh đại thừa tên "Diệu-Pháp Liên-Hoa Giáo
Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm", trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chổ
ngồi.
25. Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi
tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe Đức Phật nói pháp cho là như
trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ, trong chúng không có một người nào hoặc là
thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.
26. Đức Phật Nhựt-Nguyệt Đăng-Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói Kinh
đó rồi, liền ở trong chúng Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và Trời, Người,
A-tu-la mà tuyên rằng: "Hôm nay vào nửa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô-Dư
Niết-Bàn".
Khi đó có vị
Bồ-tát, tên Đức-Tạng, Đức Phật Nhựt-Nguyệt Đăng-Minh liền thọ ký(27)
cho, bảo các Tỳ-kheo rằng: "Ông Đức-Tạng Bồ-tát này kế đây sẽ thành Phật
hiệu là Tịnh-Thân Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-đẳng Chánh-giác".
Đức Phật thọ ký
xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô-dư Niết-bàn.
27. Sau khi đức Phật diệt độ, Diệu-Quang Bồ-tát trì Kinh "Diệu-Pháp
Liên-Hoa" trải tám mươi tiểu kiếp vì người mà diễn nói.
28. Tám
người con của Phật Nhựt-Nguyệt Đăng-Minh đều học với ngài Diệu-Quang,
ngài Diệu-Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo Vô-thượng Chánh-đẳng
Chánh-giác. Các vị vương tử đó cúng dường vô-lượng trăm nghìn muôn ức
Đức Phật đều thành Phật đạo. Vị thành Phật sau rốt hết, hiệu là
Nhiên-Đăng.
29. Trong hàng tám trăm người đệ tử có một người tên: Cầu-Danh, người
nầy tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các Kinh mà chẳng thuộc rành,
phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu-Danh. Người nầy cũng do có trồng các
nhơn duyên căn lành nên đặng gặp vô lượng trăm nghìn muôn ức Đức Phật mà
cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi.
30. Di-Lặc nên biết! Lúc đó Diệu-Quang Bồ-tát đâu phải người nào lạ,
chính là ta đấy. Còn Cầu-Danh Bồ-tát là ngài đấy.
Nay thấy điềm
lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ, hôm nay Đức Phật
Như-Lai sẽ nói Kinh đại thừa tên: "Diệu-Pháp Liên-Hoa Giáo Bồ-Tát Pháp
Phật Sở Hộ-Niệm". Bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát ở trong đại chúng, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
31. Ta nhớ thuở quá khứ
Vô
lượng vô số kiếp
Có Phật
Nhơn-Trung-Tôn
Hiệu
Nhựt-Nguyệt Đăng-Minh
Đức
Thế-Tôn nói pháp
Độ vô
lượng chúng sanh
Vô số
ức Bồ-tát Khiến vào trí huệ Phật.
32. Khi Phật chưa xuất gia
Có sanh
tám Vương tử
Thấy
Đại-Thánh xuất gia Cũng theo tu phạm hạnh
33. Phật nói Kinh đại thừa
Tên là
"Vô-Lượng-Nghĩa"
Ở trong
hàng đại chúng
Mà vì
rộng tỏ bày.
Phật
nói Kinh ấy rồi
Liền ở
trong pháp tòa
Xếp
bằng nhập Chánh định
Tên
"Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ"
Trời
rưới hoa Mạn-đà
Trống
trời tự nhiên vang
Các
Trời, Rồng, Quỷ, Thần
Cúng
dường đấng Nhơn-Tôn,
Tất cả
các cõi Phật Tức thời vang động lớn.
34. Phật phóng sáng giữa mày
Hiện
các việc hy hữu
Ánh
sáng chiếu phương Đông
Muôn
tám nghìn cõi Phật
Bày
sanh tử nghiệp báo
Của tất
cả chúng sanh
Lại
thấy các cõi Phật
Dùng
các báu trang nghiêm
Màu
lưu-ly, pha-lê Đây bởi Phật quang soi.
35. Lại thấy những Trời, người
Rồng,
Thần, chúng Dạ-xoa,
Càn-thát, Khẩn-na-la Đều cúng dường Phật mình.
36. Lại thấy các Như-Lai
Tự
nhiên thành Phật đạo,
Màu
thân như núi vàng
Đoan
nghiêm rất đẹp mầu
Như
trong lưu-ly sạch
Hiện ra
tượng chơn kim
Thế-Tôn
trong đại chúng Dạy nói nghĩa thâm diệu.
37. Mỗi mỗi các cõi Phật
Chúng
Thanh-Văn vô số,
Nhơn
Phật quang soi sáng
Đều
thấy đại chúng kia.
Hoặc có
các Tỳ-kheo
Ở tại
trong núi rừng
Tinh
tấn giữ tịnh giới Dường như gìn châu sáng.
38. Lại thấy các Bồ-tát
Bố-thí
nhẫn-nhục thảy
Số đông
như hằng sa(28)
Đây bởi
Phật quang soi.
Lại
thấy hàng Bồ-tát
Sâu vào
các thiền định
Thân
tâm lặng chẳng động
Để cầu
đạo vô thượng
Lại
thấy các Bồ-tát
Rõ
tướng pháp tịch-diệt
Đều ở
tại nước mình Nói pháp cầu Phật đạo.
39. Bấy giờ bốn bộ chúng
Thấy
Phật Nhựt-Nguyệt-Đăng
Hiện
sức thần thông lớn
Tâm kia
đều vui mừng
Mỗi
người tự hỏi nhau Việc nầy nhơn duyên gì?
40. Đấng của Trời, Người thờ
Vừa từ
Chánh định dậy
Khen
Diệu-Quang Bồ-tát
Ông là
mắt của đời
Mọi
người đều tin về
Hay
vưng giữ tạng pháp
Như
pháp của Ta nói
Chỉ ông
chứng biết được.
Đức
Phật đã ngợi khen
Cho
Diệu-Quang vui mừng
Liền
nói Kinh Pháp-Hoa
Trải
sáu mươi tiểu kiếp
Chẳng
rời chổ ngồi ấy
Ngài
Diệu-Quang pháp sư
Trọn
đều hay thọ trì Pháp thượng diệu của Phật.
41. Phật nói Kinh Pháp-Hoa
Cho
chúng vui mừng rồi
Liền
chính trong ngày đó
Bảo
hàng chúng Trời, người
Các
pháp "nghĩa thật tướng"
Đã vì
các ông nói
Nay Ta
giữa đêm này
Sẽ vào
cõi Niết-Bàn
Phải
một lòng tinh-tấn
Rời các
sự buông lung
Các
Phật rất khó gặp Ức kiếp được một lần.
42. Các con của Phật thảy
Nghe
Phật sắp nhập diệt
Thảy
đều lòng buồn khổ
Phật
sao gấp diệt vậy?
Đấng
Thánh-Chúa Pháp-Vương
An ủi
vô-lượng chúng:
Nếu lúc
Ta diệt độ
Các ông
chớ lo sợ
Đức-Tạng Bồ-tát đây
Tâm đã
được thông thấu
Nơi vô
lậu thiệt tướng
Kế đây
sẽ thành Phật
Tên
hiệu là Tịnh-Thân Cũng độ vô lượng chúng.
43. Đêm đó Phật diệt độ
Như củi
hết, lửa tắt
Chia
phân các Xá-lợi
Mà xây
vô lượng tháp
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Số đông
như hằng sa
Lại
càng thêm tinh-tấn Để cầu đạo vô thượng.
44. Diệu-Quang pháp sư ấy
Vâng
giữ Phật pháp tạng
Trong
tám mươi tiểu kiếp
Rộng
nói Kinh Pháp-Hoa.
Tám vị
Vương tử đó
Được
Diệu-Quang dạy bảo
Vững
bền đạo Vô-thượng
Sẽ thấy
vô số Phật
Cúng
dường các Phật xong
Thuận
theo tu đại đạo
Nối
nhau đặng thành Phật
Chuyễn
thứ thọ ký nhau,
Đấng
Phật rốt sau cả
Hiệu
là: Phật Nhiên-Đăng
Đạo sư(29)
của Thiên Tiên Độ thoát vô lượng chúng.
45. Diệu-Quang Pháp sư đó
Có một
người đệ-tử
Tâm
thường cưu biếng trễ
Tham ưa
nơi danh lợi
Cầu
danh lợi không nhàm
Thường
đến nhà sang giàu
Rời bỏ
việc tụng học
Bỏ quên
không thông thuộc
Vì bởi
nhơn duyên ấy
Nên gọi
là Cầu-Danh
Cũng tu
các nghiệp lành
Đặng
thấy vô số Phật
Cúng
dường các đức Phật
Thuận
theo tu đại đạo
Đủ sáu
ba-la-mật
Nay gặp
đấng Thích-Ca
Sau đây
sẽ thành Phật
Hiệu
rằng: Phật Di-Lặc
Rộng độ
hàng chúng sanh Số đông đến vô lượng.
46. Sau Phật kia diệt độ
Lười
biếng đó là Ngài
Còn
Diệu-Quang Pháp sư
Nay
thời chính là ta.
Ta thấy
Phật Đăng-Minh
Điềm
sáng trước như thế
Cho nên
biết rằng nay
Phật
muốn nói "Pháp-Hoa".
Tướng
nay như điềm xưa
Là
phương tiện của Phật,
Nay
Phật phóng ánh sáng
Giúp
bày nghĩa thiệt tướng.
Các
người nay nên biết
Chắp
tay một lòng chờ
Phật sẽ
rưới nước Pháp
Đầy đủ
người cầu đạo.
Các
người cầu ba thừa(30)
Nếu có
chổ nghi hối
Phật sẽ
dứt trừ cho
Khiến
hết không còn thừa.
Thích nghĩa:
(1) KINH: Pháp thường, mười phương ba đời các đức Phật đều nói như vậy.
Nói đủ là "Khế kinh" nghĩa là: Pháp thường khế hiệp chơn-lý cùng khế hợp
căn-cơ chúng sanh.
DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA: Pháp mầu khó nghĩ lường, thắng hơn tất cả pháp. Kinh
pháp nầy là bực nhứt trong kinh pháp khác của Phật nói, dụ như hoa sen,
vì hoa sen sánh với các hoa khác có 5 điều đặc biệt:
1- Có hoa là có gương: Nhơn quả đồng thời.
2- Mọc trong bùn lầy mà vẫn trong sạch thơm-tho.
3- Cộng bông từ gốc tách riêng không chung cành với lá.
4- Ong bướm không bu đậu.
5- Không bị người dùng làm trang điểm (Xưa, đàn bà Ấn-độ quen dùng
hoa kết thành tràng để đeo, đội v.v...)
(2) Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni
(3) CÁC LẬU: Các điều vọng lầm hay làm lọt mất công đức lành.
(4) VIỆC LỢI MÌNH ĐÃ XONG: Tự mình đã được thoát khỏi khổ sanh tử luân
hồi.
(5) CÁC CÕI = BA CÕI; Cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc.
(6) HỮU HỌC: Từ quả A-na-hàm trở xuống chưa được giải-thoát còn phải học
tập.
VÔ HỌC: Quả A-la-hán đã được giải-thoát, về trong tiểu thừa pháp, thời
không còn phải học nữa.
(7) VÔ-THƯỢNG CHÁNH-ĐẲNG CHÁNH-GIÁC: Quả chứng của Phật.
(8) ĐÀ-LA-NI = Tổng trì: Gồm nhiếp các pháp.
(9) NHẠO-THUYẾT BIỆN-TÀI: Tài biện luận ưa giảng nói pháp.
(10) BỜ KIA: Chổ rốt ráo, trọn vẹn, nên xong hoàn-toàn.
(11) THÍCH-ĐỀ-HOÀN-NHƠN: Tên của vị vua 33 nước trời Đao-lợi ở trên núa
Tu-Di.
(12) SÁU ĐIỆU VANG ĐỘNG: Ba thứ tiếng vang dội và ba thứ rung động của
hình sắc.
(13)(16): Các loài thần hầu hạ cõi Đao-Lợi.
(14) A-TU-LA= Thần phi-thiên: Có phước như Trời mà đức kém hơn Trời.
(15) CA-LÂU-LA: Chim cánh vàng (Kim Sí-điểu).
(17) MA-HẦU-LA-DÀ: Thần rắn.
(18) SÁU LOÀI CHÚNG SANH: Trời, Người, A-tu-la, Thú, Quỷ, Địa ngục.
(19) PHÁP VƯƠNG TỬ: Phật là vua Pháp (Pháp Vương), Bồ-tát cũng như con
của Phật nên gọi là Pháp vương tử.
(20) CẬN SỰ NAM - NỮ: Người thọ tam-quy ngũ-giới tu tại gia gần giũ hộ
thờ Tam-Bảo nên gọi là cận-sự, đàn ông là NAM, đàn bà là NỮ, ta quen gọi
là "Cư-Sĩ".
(21) A-TĂNG-KỲ: Vô số (một số lớn), kiếp có: tiểu kiếp, trung kiếp, đại
kiếp. Một tiểu kiếp có 16.798.000 năm. Một trung kiếp có 20 tiểu kiếp.
Một đại kiếp có 4 trung kiếp=Thành, Trụ, Hoại, Không.
(22) TỨ-ĐẾ: 1-Khổ-đế, 2-Tập-đế, 3-Diệt-đế, 4-Đạo-đế.
(23) MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN: 1-Vô-minh, 2-Hành, 3-Thức, 4-Danh-sắc,
5-Lục-nhập, 6-Xúc, 7-Thọ, 8-Ái, 9-Thủ, 10-Hữu, 11-Sanh, 12-Lão tử (12
món nầy là nhơn duyên lẫn nhau).
(24) BA-LA-MẬT: Cũng gọi là 6 độ: 1- Bố-thí độ, 2- Trì-giới độ, 3-
Nhẫn-nhục độ, 4- Tinh-tấn độ, 5- Thiền-định độ, 6- Tri-huệ độ.
(25) NHẤT-THIẾT CHỦNG-TRÍ: Trí của Phật
(26) BỐN-CHÂU THIÊN-HẠ: 1- Đông-thắng-thần châu, 2- Nam-thiện-bộ châu
(quả địa cầu), 3- Tây-ngưu-hóa châu, 4- Bắc-cu-lô châu.
(27) THỌ KÝ: Trao cho lời ghi chắc về sau, bao nhiêu năm, cõi nào, sẽ
thành Phật hiệu là ... v.v...
(28) HẰNG SA: Cát sông Hằng. Sông Hằng là một con sông lớn xứ Ấn Độ,
trong sông và hai bên bờ có nhiều cát rất mịn, trong kinh thường dùng số
cát ấy để chỉ một số đông, nhiều.
(29) ĐẠO SƯ: Ông thầy dắt dẫn.
(30) BA THỪA: Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa, Phật thừa.
|