|
Kinh Hoa Nghiêm
Phẩm Tịnh Hạnh Thứ mười một Hán Dịch: Ðại-Sư
Thật-Xoa-Nan-Ðà
Lúc bấy giờ Trí-Thủ Bồ-Tát hỏi Văn-Thù-Sư-Lợi
Bồ-Tát: 'Phật-tử! Bồ-Tát làm thế nào thân, ngữ, ý, ba nghiệp được không lỗi
lầm? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp được chẳng tổn hại? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp
được không thể bị hủy hoại? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp được bất thối chuyển?
Thân, ngữ, ý, ba nghiệp được chẳng dao động? Thân, ngữ, ý ba nghiệp được
thù-thắng? Thân, ngữ, ý ba nghiệp được thanh tịnh? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp
được vô nhiễm? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp được trí dẫn đạo?
Bồ-Tát
làm thế nào được sanh-xứ đầy đủ? Chủng-tộc đầy đủ? Gia-thế đầy đủ? Sắc-thân
đầy đủ? Tướng mạo đầy đủ? Niệm đầy đủ? Huệ đầy đủ? Hạnh đầy đủ? Vô-úy đầy
đủ? Giác-ngộ đầy đủ?
Bồ-Tát
làm thế nào được thắng-huệ? Được đệ-nhứt-huệ? Được tối-thượng-huệ? Được
tối-thắng-huệ? Được vô-lượng-huệ? Được vô-số-huệ? Được bất-tư-nghì-huệ, Được
vô-giữ-đẳng-huệ ? Được bất-khả-lượng huệ? Được bất-khả-thuyết huệ?
Bồ-Tát
làm thế nào được: nhơn-lực, duyên-lực, dục-lực, phương-tiện-lực,
sở-duyên-lực, căn-lực, quan-sát-lực, xa-ma-tha-lực, tỳ-bát-xá-na-lực,
tư-duy-lực?
Bồ-Tát
làm thế nào được: uẩn thiện-xảo, xứ thiện-xảo, giới thiện-xảo, duyên-khởi
thiện-xảo, dục-giới thiện-xảo, sắc-giới thiện-xảo, vô-sắc-giới thiện-xảo,
quá-khứ thiện-xảo, vị-lai thiện-xảo, hiện-tại thiện-xảo?
Bồ-Tát
làm thế nào khéo tu tập: niệm giác-phần, trạch-pháp giác-phần, tinh-tấn
giác-phần, hỉ giác-phần, khinh an giác phần, định giác phần, xả giác-phần,
không giác-phần, vô-tướng giác-phần, vô-nguyện giác-phần?
Bồ-Tát
làm thế nào được viên-mãn: đàn ba-la-mật, thi ba-la-mật, sằn-đề ba-la-mật,
tỳ-lê-gia ba-la-mật, thiền-na ba-la-mật, thiền-na ba-la-mật, bát-nhã
ba-la-mật, từ, bi, hỉ, xả?
Bồ-Tát
làm thế nào được thập lực : xứ-phi-xứ trí-lực, quả-vị hiện-tại nghiệp-báo
trí-lực, căn thắng liệt trí-lực, chủng-chủng giới trí-lực, chủng-chủng giải
trí-lực, nhứt-thiết-chí-xứ-đạo trí-lực, thiền giải-thoát tam-muội nhiễm tịnh
trí-lực, túc-trụ-niệm trí-lực, vô-chướng-ngại thiên-nhãn trí-lực, đoạn chư
tập trí-lực?
Bồ-Tát
làm thế nào thường được sự thủ-hộ cung kính cúng-dường của: Thiên-Vương,
Long-Vương, Dạ-Xoa-Vương, Càn-thát-bà-Vương, A-tu-la-Vương, Ca-lâu-la-Vương,
Khẩn-na-la-Vương, Ma-hầu-la-già-Vương, Nhơn-Vương, Phạm-Vương?
Bồ-Tát
làm thế nào được mình là những chỗ: y-tựa, cứu-độ, chỗ về, chỗ đến, là đuốc,
là sáng, là soi, là dẫn đạo, thắng đạo, phổ đạo cho tất cả chúng-sanh?
Đối
với tất cả chúng-sanh, Bồ-Tát làm thế nào là: đệ-nhứt, là lớn, là thắng, là
tối-thắng, là diệu, là cực-diệu, là thượng, là vô-thượng, là vô-đẳng, là
vô-đẳng-đẳng?
Văn-Thù-Sư-Lợi
Bồ-Tát bảo Trí-Thủ Bồ-Tát: 'Lành thay Phật-tử! Nay ngài vì muốn nhiều
lợi-ích, nhiều an-ổn, thương xót thế-gian, lợi-lạc thiên-nhơn mà hỏi những
nghĩa như vậy.
Phật-tử!
Nếu Bồ-Tát khéo dụng tâm thời được tất cả công-đức thắng-diệu, nơi phật-pháp
được tâm vô-ngại, được trụ nơi đạo của tam-thế chư Phật, trụ theo chúng-sanh
hằng không bỏ rời, đều có thể thông-đạt đúng các pháp-tướng, dứt tất cả điều
ác, đầy đủ tất cả điều lành, sẽ được hình sắc đệ-nhứt như Phổ-Hiền, đầy đủ
tất cả hạnh-nguyện, với tất cả pháp đều được tự-tại, sẽ là đạo-sư thứ hai
của chúng-sanh.
Phật-tử!
Bồ-Tát dụng tâm thế nào mà có thể được tất cả thắng-diệu công-đức?
Phật-tử
lóng nghe đây:
Bồ-Tát
ở nhà, nên nguyện chúng-sanh, biết nhà tánh không, khỏi sự bức ngặt.
Hiếu
thờ cha mẹ, nên nguyện chúng-sanh, kính thờ chư Phật, hộ dưỡng tất cả.
Vợ con
hội họp, nên nguyện chúng-sanh, oán thân bình-đẳng, lìa hẳn tham trước.
Nếu
được ngũ-dục, nên nguyện chúng-sanh, nhổ mũi tên dục, rốt ráo an-ổn.
Kỹ
nhạc tụ hội, nên nguyện chúng-sanh, vui nơi chánh-pháp, rõ nhạc chẳng thật.
Nếu ở
cung thất, nên nguyện chúng-sanh, vào nơi thánh-địa, trừ hẳn uế-dục.
Lúc
đeo trang-sức, nên nguyện chúng-sanh, bỏ tư-trang giả, đến chỗ chơn thật.
Lên
trên lâu-các, nên nguyện chúng-sanh, lên lầu chánh-pháp, thấy suốt tất cả.
Nếu có
bố-thí, nên nguyện chúng-sanh, bỏ được tất cả, lòng không ái trước.
Chúng-hội
tu-tập, nên nguyện chúng-sanh, xả những tụ pháp, thành nhứt-thiết-trí.
Nếu ở
ách nạn, nên nguyện chúng-sanh, tùy ý tự-tại, chỗ làm vô-ngại.
Lúc bỏ
cư-gia, nên nguyện chúng-sanh, xuất-gia vô-ngại, tâm được giải-thoát.
Vào
tăng già-lam, nên nguyện chúng-sanh, diễn-thuyết các thứ pháp không tranh
cãi.
Đến
đại, tiểu sư, nên nguyện chúng-sanh, khéo thờ sư-trưởng, tập làm điều lành.
Cầu
xin xuất-gia, nên nguyện chúng-sanh, được pháp bất-thối, lòng không
chướng-ngại.
Thoát
bỏ tục nhãn, nên nguyện chúng-sanh, siêng tu căn lành, bỏ những tội ách.
Cạo bỏ
râu tóc, nên nguyện chúng-sanh, lìa hẳn phiền-não, rốt ráo tịch-diệt.
Đắp y
ca-sa, nên nguyện chúng-sanh, lòng không nhiễm trước, đủ đạo đại-tiên.
Lúc
chánh xuất-gia, nên nguyện chúng-sanh, đồng Phật xuất-gia, cứu hộ tất cả.
Tự
quy-y Phật, nên nguyện chúng-sanh, nối thạnh Phật-chủng, phát tâm vô-thượng.
Tự
quy-y Pháp, nên nguyện chúng-sanh, sâu vào kinh-tạng, trí-huệ như biển.
Tự
quy-y Tăng, nên nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, tất cả vô-ngại.
Lục
thọ học giới, nên nguyện chúng-sanh, khéo học nơi giới, chẳng làm điều ác.
Thọ
Xà-Lê dạy, nên nguyện chúng-sanh, đầy đủ oai-nghi, chỗ làm chơn thật.
Thọ
Hòa-Thượng dạy, nên nguyện chúng-sanh, vào trí vô-sanh, đến chỗ vô-y.
Thọ
giới cụ-túc, nên nguyện chúng-sanh, đủ các phương-tiện, được pháp tối-thắng.
Nếu
vào nhà cửa, nên nguyện chúng-sanh, lên nhà vô-thượng, an-trụ bất-động.
Nếu
trải giường tòa, nên nguyện chúng-sanh, trải mở pháp lành, thấy tướng chơn
thật.
Chánh
thân đoan tọa, nên nguyện chúng-sanh, ngồi bồ-đề toà, tâm không tham trước.
Lúc
ngồi kiết-già, nên nguyện chúng-sanh, căn lành kiên-cố, được bực bất-động.
Tu
hành nơi định, nên nguyện chúng-sanh, dùng định phục tâm, rốt ráo không
thừa.
Nếu tu
pháp quán, nên nguyện chúng-sanh, thấy lý như thật, trọn không tranh cãi.
Xả
ngồi kiết-già, nên nguyện chúng-sanh, quan-sát hành pháp, đều quy tan mất.
Lúc để
chân đứng, nên nguyện chúng-sanh, tâm được giải-thoát, an-trụ bất động.
Nếu
cất chân lên, nên nguyện chúng-sanh, khỏi biển sanh-tử, đủ các pháp lành.
Lúc
mặc quần dưới, nên nguyện chúng-sanh, mặc những căn lành, đầy đủ hổ thẹn.
Chỉnh
áo cột giải, nên nguyện chúng-sanh, kiểm thúc căn lành, chẳng để tan mất.
Nếu
mặc áo trên, nên nguyện chúng-sanh, được căn lành lớn, đến bờ pháp kia.
Đấp
tăng-già-lê, nên nguyện chúng-sanh, vào ngôi đệ-nhứt, được pháp bất-động.
Tay
cầm nhành dương, nên nguyện chúng-sanh, đều được diệu-pháp, rốt-ráo
thanh-tịnh.
Lúc
nhăn nhành dương, nên nguyện chúng-sanh, tâm-ý điều tịnh, nhai các
phiền-não.
Lúc
đại tiểu tiện, nên nguyện chúng-sanh, bỏ tham sân si, dẹp trừ điều tội.
Việc
rồi đến nước, nên nguyện chúng-sanh, trong pháp xuất-thế, qua đến mau chóng.
Rửa
ráy thân nhơ, nên nguyện chúng-sanh, thanh-tịnh điều nhu, rốt ráo không nhơ.
Xối
nước trên tay, nên nguyện chúng-sanh, được tay thanh-tịnh, thọ trì
phật-pháp.
Dùng
nước rửa mặt, nên nguyện chúng-sanh, được tịnh pháp-môn, trọn không nhơ bợn.
Tay
cầm tích-trượng, nên nguyện chúng-sanh, lập hội bố-thí, bày đạo như Phật.
Tay
cầm ứng khí, nên nguyện chúng-sanh, thành-tựu pháp-khí, thọ trời người-cúng.
Bước
chân lên đường, nên nguyện chúng-sanh, đến chỗ Phật đi, vào nơi vô-y.
Nếu ở
nơi đường, nên nguyện chúng-sanh, hay đi đường Phật, hướng pháp vô-dư.
Theo
đường mà đi, nên nguyện chúng-sanh, noi tịnh pháp-giới,tâm không chướng
ngại.
Thấy
lên đường cao, nên nguyện chúng-sanh, khỏi hẳn ba cõi, tâm không khiếp
nhược.
Thấy
xuống đường thấp, nên nguyện chúng-sanh, tâm ý khiêm hạ lớn căn lành Phật.
Thấy
đường quanh co, nên nguyện chúng-sanh, bỏ đạo bất chánh, trừ hẳn ác-kiến.
Nếu
thấy đường thẳng, nên nguyện chúng-sanh, tâm ý chánh-trực, không dua không
dối.
Thấy
đường nhiều bụi, nên nguyện chúng-sanh, xa lìa bụi bặm, được pháp
thanh-tịnh.
Thấy
đường không bụi, nên nguyện chúng-sanh, thường tu đại-bi, tâm ý nhuần thấm.
Nếu
thấy đường hiểm, nên nguyện chúng-sanh, trụ chánh pháp-giới, lìa những tội
nạn.
Nếu
thấy chúng-hội, nên nguyện chúng-sanh, nói pháp thậm-thâm, tất cả hòa hiệp.
Nếu
thấy trụ lớn, nên nguyện chúng-sanh, lìa tâm chấp ngã, không có phẩn hận.
Nếu
thấy tòng-lâm, nên nguyện chúng-sanh, chư thiên và nhơn, chỗ nên kính lễ.
Nếu
thấy núi cao, nên nguyện chúng-sanh, căn lành siêu thoát, không thể tột
đảnh.
Lúc
thấy cây gai, nên nguyện chúng-sanh, chóng được cắt bỏ, những gai tam độc.
Thấy
cây lá rậm, nên nguyện chúng-sanh, dùng định giải thoát, để làm che chói.
Nếu
thấy hoa nở, nên nguyện chúng-sanh, các pháp thần-thông, như hoa đua nở.
Nếu
thấy cây hoa, nên nguyện chúng-sanh, tướng tốt như hoa, đủ ba mươi hai.
Nếu
thấy trái hột, nên nguyện chúng-sanh, được pháp tối-thắng, chứng đạo bồ-đề.
Nếu
thấy sông lớn, nên nguyện chúng-sanh, được dự pháp-lưu, vào Phật-trí-hải.
Nếu
thấy bờ đầm, nên nguyện chúng-sanh, chóng ngộ diệu-pháp, nhứt vị của Phật.
Nếu
thấy ao hồ, nên nguyện chúng-sanh, ngữ-nghiệp hoàn-toàn, hay khéo
diễn-thuyết.
Nếu
thấy giếng nước, nên nguyện chúng-sanh, đầy đủ biện tài, diễn tất cả pháp.
Nếu
thấy suối chảy, nên nguyện chúng-sanh, thêm lớn phương-tiện, thiện căn
vô-tận.
Nếu
thấy kiều-lộ, nên nguyện chúng-sanh, rộng độ tất cả, dường như cầu đò.
Nếu
thấy nước chảy, nên nguyện chúng-sanh, được ý nguyện lành, rửa nhơ
phiền-não.
Thấy
dọn vườn tược, nên nguyện chúng-sanh, trong vườn ngũ dục, dọn sạch cỏ ái.
Thấy
rừng vô-ưu, nên nguyện chúng-sanh, lìa hẳn tham-ái, chẳng còn lo sợ.
Nếu
thấy công viên, nên nguyện chúng-sanh, siêng tu hạnh lành, đến Phật bồ-đề.
Thấy
người nghiêm-sức, nên nguyện chúng-sanh, trang-nghiêm thân đẹp, ba mươi hai
tướng.
Thấy
không nghiêm-sức, nên nguyện chúng-sanh, bỏ những trang-sức, đủ hạnh đầu-đà.
Thấy
người ham vui, nên nguyện chúng-sanh, vui nơi chánh-pháp, ưa thích chẳng bỏ.
Thấy
không ham vui, nên nguyện chúng-sanh, trong sự hữu-vi, lòng không ưa thích.
Thấy
người vui sướng, nên nguyện chúng-sanh, thường được an vui, thích cúng-dường
Phật.
Thấy
người khổ-não, nên nguyện chúng-sanh, được căn-bổn trí, dứt trừ sự khổ.
Thấy
người mạnh khỏe, nên nguyện chúng-sanh, vào chơn-thật-huệ, trọn không bịnh
Khổ.
Thấy
người tật bịnh, nên nguyện chúng-sanh, biết thân không tịch, lìa sự tranh
cãi.
Thấy
người xinh đẹp, nên nguyện chúng-sanh, với Phật Bồ-Tát, thường kính thường
tin.
Thấy
người xấu-xí, nên nguyện chúng-sanh, với điều bất thiện, chẳng ưa chẳng
thích.
Thấy
người báo ơn, nên nguyện chúng-sanh, với Phật Bồ-Tát, hay biết ơn đức.
Thấy
người bội ơn, nên nguyện chúng-sanh, với kẻ làm ác, chẳng trả thù oán.
Nếu
thấy Sa-Môn, nên nguyện chúng-sanh, điều-nhu tịch-tịnh, rốt ráo đệ-nhứt.
Thấy
Bà-La-Môn, nên nguyện chúng-sanh, giữ trọn phạm-hạnh, lìa tất cả ác.
Thấy
người khổ hạnh, nên nguyện chúng-sanh, y nơi khổ hạnh, đến bực rốt ráo.
Thấy
người hạnh tốt, nên nguyện chúng-sanh, giữ bền chí-hạnh, chẳng bỏ Phật-đạo.
Thấy
mặc giáp-trụ, nên nguyện chúng-sanh, thường mặc giáp lành, đến pháp vô-sư.
Thấy
không võ-trang, nên nguyện chúng-sanh, lìa hẳn tất cả, những nghiệp
bất-thiện.
Thấy
người luận nghị, nên nguyện chúng-sanh, đều dẹp phá được, tất cả dị-luận.
Thấy
người chánh-mạng, nên nguyện chúng-sanh, được mạng thanh-tịnh, không dối giả
dạng.
Nếu
thấy Quốc-vương, nên nguyện chúng-sanh, được làm pháp-vương, thường chuyển
chánh-pháp.
Nếu
thấy vương-tử, nên nguyện chúng-sanh, từ pháp hóa-sanh, mà làm phật-tử.
Nếu
thấy trưởng-giả, nên nguyện chúng-sanh, xét đoán sáng suốt, chẳng làm điều
ác.
Nếu
thấy đại-thần, nên nguyện chúng-sanh, hằng giữ chánh-niệm, tập làm điều
thiện.
Nếu
thấy thành quách, nên nguyện chúng-sanh, được thân kiên cố, tâm không hèn
nhát.
Nếu
thấy kinh-đô, nên nguyện chúng-sanh, công-đức đồng nhóm, lòng luôn vui vẻ.
Thấy ở
rừng vắng, nên nguyện chúng-sanh, đáng được trời người, ca ngợi kính ngưỡng.
Vào
xóm khất thực, nên nguyện chúng-sanh, nhập thâm pháp-giới, tâm không chướng
ngại.
Đến
cửa nhà người, nên nguyện chúng-sanh, vào trong tất cả, cửa nhà phật-pháp.
Vào
nhà người rồi, nên nguyện chúng-sanh, được vào phật-thừa, ba thời bình-đẳng.
Thấy
không thí-xả, nên nguyện chúng-sanh, thường chẳng bỏ rời, pháp công-đức lớn.
Thấy
người thí-xả, nên nguyện chúng-sanh, được bỏ lìa hẳn, khổ ba ác-đạo.
Nếu
thấy bát không, nên nguyện chúng-sanh, tâm ý thanh-tịnh, trống sạch
phiền-não.
Nếu
thấy bát đầy, nên nguyện chúng-sanh, đầy đủ trọn vẹn, tất cả thiện-pháp.
Nếu
được cung-kính, nên nguyện chúng-sanh, cung-kính tu hành, tất cả phật-pháp.
Chẳng
được cung-kính, nên nguyện chúng-sanh, chẳng làm tất cả, những điều bất
thiện.
Thấy
người hổ-thẹn, nên nguyện chúng-sanh, đủ hạnh hổ-thẹn, che giữ căn-thân.
Thấy
không hổ-thẹn, nên nguyện chúng-sanh, lìa bỏ không thẹn, trụ đạo đại-từ.
Được
thực phẩm ngon, nên nguyện chúng-sanh, đều được mãn nguyện, không lòng tham
muốn.
Được
thực phẩm dở, nên nguyện chúng-sanh, ai cũng đều được, pháp-vị tam-muội.
Được
vật thực mềm, nên nguyện chúng-sanh, huân-tập đại-bi, tâm ý nhu nhuyến.
Được
vật thực cứng, nên nguyện chúng-sanh, tâm không nhiễm trước, dứt hết tham
ái.
Nếu
lúc ăn cơm, nên nguyện chúng-sanh, ăn món thiền-duyệt, pháp-hỉ no đủ.
Lúc
thọ mùi vị, nên nguyện chúng-sanh, được Phật thượng-vị, cam-lộ đầy đủ.
Lúc ăn
cơm xong, nên nguyện chúng-sanh, việc làm đều xong, đủ những phật-pháp.
Nếu
lúc thuyết-pháp, nên nguyện chúng-sanh, biện-luận vô-tận, tuyên rộng pháp
yếu.
Lúc ra
khỏi nhà, nên nguyện chúng-sanh, thâm nhập phật-trí, khỏi hẳn ba cõi.
Nếu
lúc xuống nước, nên nguyện chúng-sanh, vào nhứt-thiết-trí, rõ ba thời đồng.
Tắm
rửa thân thể, nên nguyện chúng-sanh, thân tâm không nhơ, trong ngoài sáng
sạch.
Mùa
nắng nóng độc, nên nguyện chúng-sanh, bỏ lìa khổ não, tất cả đều hết.
Hết
nắng vừa mát, nên nguyện chúng-sanh, chứng pháp vô-thượng, rốt ráo mát mẻ.
Lúc
đọc tụng kinh, nên nguyện chúng-sanh, thuận lời Phật dạy, tổng trì chẳng
quên.
Nếu
được thấy Phật, nên nguyện chúng-sanh, được vô-ngại-nhãn, thấy tất cả Phật.
Lúc
ngắm kỹ Phật, nên nguyện chúng-sanh, đều như Phổ-Hiền, xinh đẹp nghiêm tốt.
Lúc
thấy tháp Phật, nên nguyện chúng-sanh, tôn-trọng như tháp, thọ trời người
cúng.
Cung
kính xem tháp, nên nguyện chúng-sanh, chư thiên và người, cùng nhau chiêm
ngưỡng.
Đảnh
lễ tháp Phật, nên nguyện chúng-sanh, tất cả trời người, chẳng thấy đảnh
được.
Đi
nhiễu tháp Phật, nên nguyện chúng-sanh, tu hành không trái, thành
nhứt-thiết-trí.
Nhiễu
tháp ba vòng, nên nguyện chúng-sanh, siêng cầu phật-đạo, lòng không biếng
trễ.
Khen
công-đức Phật, nên nguyện chúng-sanh, đều đủ công-đức, ca-ngợi vô-tận.
Khen
tướng-hảo Phật, nên nguyện chúng-sanh, thành tựu phật-thân, chứng pháp
vô-tướng.
Nếu
lúc rửa chân, nên nguyện chúng-sanh, đủ sức thần-túc, chỗ đi vô-ngại.
Ngủ
nghỉ phải thời, nên nguyện chúng-sanh, thân được an-ổn, lòng không động
loạn.
Ngủ
vừa tỉnh-giấc, nên nguyện chúng-sanh, tất cả trí-giác, ngó khắp mười phương.
Phật-tử!
Nếu chư Bồ-Tát dụng tâm như vậy thời được tất cả công-đức thắng-diệu. Tất cả
thế-gian: chư thiên, ma, phạm, sa-môn, bà-la-môn, càn-thát-bà, a-tu-la
v.v... nhẫn đến tất cả Thanh-Văn, Duyên-Giác không thể làm lay động được.
|
« Trang Trước Trang Kế » |