A Di Đà Phật! Kính chào quý khách ghé thăm












Kinh Hiền Ngu

(Bàlapandita sutta)

H.T Thích Trung Quán dịch

Kinh Hiền Ngu có bốn mươi sáu (46) câu truyện do chính đức Phật kể lại về tiền thân của ngài, thỉnh thoảng vẫn có những đoạn nói về hàng môn nhân đệ tử. Qua Kinh này chúng ta thấy đức Phật ngài hành Bồ-tát đạo trong vô lượng kiếp, trong mỗi kiếp ngài hiện thân ở mỗi hoàn cảnh khác nhau, có khi làm vua chúa, thương nhân cho đến hạng cùng đinh trong xã hội. Thậm chí có những kiếp ngài là trâu nai vượn... nhưng kiếp nào ngài cũng một lòng cầu Pháp. Có những kiếp ngài bố thí châu báo thành quách... cho đến cả thân mạng chỉ vì một câu kinh bài kệ. Qua đó chúng ta thấy tâm cầu pháp của ngài thật vô cùng, cảm động cả trời đất. Đọc kinh này khiến chúng ta không khỏi bùi ngùi lệ rơi và chúng ta hiểu rõ hơn tại sao đến hôm nay chúng ta vẫn còn là ... chúng sanh. Điểm đặc biệt là những gì Kinh này kể lại hiện nay vẫn còn dấu tích tại Nepal và Ấn Độ ví dụ: câu truyện "Thái Tử Ma Ha Tát Đỏa Đem Thân Cho Cọp Ăn" ví trí nơi này hiện nay cách Thủ Đô nước Nepal là Kathmandu khoảng 70 cây số.

Kinh Hiền Ngu

(Trọn bộ 9 quyển)

Hán dịch: Sa Môn Tuệ Giác

Việt dịch: Thích Trung Quán

Chùa Pháp Vương – 261 đường Phan Đình Phùng

Tái bản lần thứ tư. Phật lịch 2508 – 1964

(Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, tập 04, bộ Bổn Duyên, số hiệu 0202, mười ba quyển, Kinh Hiền Ngu, Nguyên Ngụy Tuệ Giác đẳng dịch.

Như ta thấy Kinh này có tất cả 13 quyển (69 Kinh) nhưng HT Trung Quán chỉ dịch 7 quyển, 46 Kinh và dịch chọn lọc, mong rằng trong tương lai có vị nào phát tâm dịch tiếp những kinh còn lại, nếu bạn nào dịch xin nhớ cho chúng tôi một bản để bổ túc cho bản Kinh này được đầy đủ. bttdtkvn)

Mục Lục

Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Nhất

1. Phạm Thiên Thỉnh Pháp

2. Thái Tử Ma Ha Tát Đỏa Đem Thân Cho Cọp Ăn.

3. Hai Người Dòng Phạm Chí Thụ Pháp Bát Quan Trai.

4. Đi ở Lấy Công Cúng Dàng.

5. Thần Bể Với Người Đi Buôn.

6. Cầu Tự.

7. Thái Tử Tu Xà Đề.

Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Hai

8. Cô Kim Cương

9. Tỷ Khưu Kim Tài

10. Hoa Thiên

11. Tỷ Khưu Bảo Thiên

12. Sàn Đề Bà La

13. Vua Từ Lực Cho Huyết

14. Hàng Phục Lục Sư

Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Ba

15. Cứ Đà Thí Thân

16. Vua Đại Quang Minh

17. Ưu Ba Tư Na

Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Tư

18. Xuất Gia Công Đức

19. Sa Di Hộ Giới

20. Người Không Tai, Mắt, Mũi, Lưỡi

21. Hai Vợ Chồng Nghèo

22. Bà Lão Bán Nghèo

Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Năm

23. Kim Thiên

24. Trùng Tín

25. Tán Đàn Ninh

26. Bố Thí Đầu

Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Sáu

27. Bố Thí Mắt

28. Năm Trăm Người Mù

29. Phú Na Kỳ

30. Ni Đề

Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Bảy

31. Đại Kiếp Tân Ninh

32. Tỷ Khưu Ni Vi Diệu

33. Lê Kỳ Di

34. Thiết Đầu La Kiện Ninh

35. A Du Ca

36. Bảy Lọ Vàng

37. Sai Ma

 

Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Tám

38. Cái Sự

39. Đại Thí Tát Biển

 

Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Chín

40. A Nan Tổng Trì

41. Ưu Bà Tư

42. Con Ngộ Sát Cha

43. Tu Đạt Làm Tinh Xá

44. Lặc Na Sà Gia

45. Cá Trăm Đầu

46. Tịnh Cư Thiên

Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Nhất

1/ Phẩm Thứ Nhất PHẠM THIÊN THỈNH PHÁP

Chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ, tại đạo tràng Thiện Thắng. Cũng do lòng bi thiết cứu thế, hoằng pháp độ sinh, đã mất bao công gian khổ tu tập. Khi mới thành Phật, thấy vấn đề trên đối với tất cả chúng sinh khó, nên Ngài tự nghĩ rằng: "Tất cả chúng sinh mê tối thâm độc quá, lòng dạ đảo điên, kiến thức hẹp hòi, chỉ mê theo những lối tà đạo, rất khó giáo hóa, ta có ở đời cũng vô ích, chi bằng ta vào cõi Vô Dư Niết bàn là hơn".

Khi đó ông vua cõi trời Phạm Thiên biết Ngài tự nghĩ như vậy, liền từ trên trời bay xuống tận nơi, tới trước làm lễ, rồi qùy gối chắp tay cung kính thưa với Ngài rằng:

- Kính lạy Đức Thế Tôn! Vừa đây con được biết ý niệm của Ngài, vì thấy chúng sinh điên đảo khó giáo hóa, nên Ngài muốn vào Niết bàn, vậy con tới đây xin cầu thỉnh Ngài ở lại truyền Pháp cho đời, khiến ánh sáng chân lý lan tràn khắp cõi nhân gian thiên thượng muôn loài được thấm nhuần đức hóa, thoát qua khỏi luân hồi sinh tử trong sáu thú, đời đời được an vui tự tại nơi Phật Quốc. Kính xin Ngài hoan hỷ nhận lời thành kính cầu thỉnh của con.

Phật dạy: - Ông có lòng vì tất cả chúng sinh vậy cũng tốt, song tôi nhận thấy chúng sinh bị trần cấu che tối, say mê, tài sắc, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ, tham dục, sân si, lòng dạ đen tối không có chút trí tuệ gì, vì thế tôi có ở đời cũng chỉ luống công thôi! Nên tôi muốn vào Niết bàn là một sự an vui hơn.

Ông lại thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Xin Ngài nhủ lòng thương đến con và tất cả chúng sinh trong cõi trời, cõi người, đương bị màn vô minh che tối, tìm không biết lối ra, ngày nay biển Pháp đã đầy, cờ Pháp đã dựng, thời đã tới, những chúng sinh có thể độ được, con xem số đó cũng khá đông nhiều. Vậy kính mong Ngài thi ân tế độ hoằng pháp lợi sinh.

Kính lạy Ngài! Con nhớ cách đây vô số kiếp, cũng vì lũ chúng con nên Ngài từng góp nhặt, một bài kệ, cho đến một câu đạo, đến nỗi quên mạng sống, bỏ cả vợ con yêu dấu, hy sinh vì Phật pháp, một cách rùng mình sởn gáy, tất cả không ai làm nổi, được những hạnh của Ngài đã thực hiện, giờ đây Ngài đã thành tựu trên công cuộc tầm đạo giải thoát, chúng sinh như những áng cỏ trên mặt đất bao la bị sương mù phủ đậy đã lâu năm đương ngóc ngó ánh thái dương phản chiếu, để biến thành những bông hoa tươi đẹp. Kính lạy Ngài, xin chớ bỏ lũ chúng con để vào Niết bàn.

Con lại nhớ kiếp quá khứ cách đây đã khá lâu xa có một ông vua tên là Tu Lâu Bà ở Châu Diêm Phù Đề, cai trị tám mươi bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mươi ức Tụ Lạc, hai vạn bà Phu nhân và một vạn quan Đại thần.

Đối với thời ấy, phúc đức và thế lực của vua Tu Lâu Bà không ai bì kịp, nhân dân thuở đó đức vua, được an lạc thái bình, mưa hòa gió thuận, vui sướng vô cùng vô tận!

Một hôm vua tự nghĩ rằng: - "Đối với vật chất ta đã giúp dân được đầy đủ, nhưng về tinh thần giải thoát cho con người chưa có. Nếu con người chỉ sống theo vật chất, sống theo tình dục, tâm như gỗ đá, tâm như cát sỏi tha hồ cho bốn tướng sinh, già, bệnh, chết lôi quanh, thì không khác chi thú vật, ăn no nằm mát, phơi mình trên đám phân tro, cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng lẽ đó là lỗi ở ta, ta có trách nhiệm tìm đường giải thoát cho họ".

Nghĩ thế rồi Ngài ra yết thị và báo cho thiên hạ biết rằng: "Nếu ai biết đạo giải thoát của Phật dạy nói cho ta hay, muốn dùng gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ".

Tuyên lệnh đã lâu, nhưng không thấy ai đến nói, nhà vua luôn luôn mong mỏi, và tâm ý lúc nào cũng không được vui!

Sau đó ông Tỳ Sa môn, là một ông vua cõi trời Tứ Thiên Vương thấy vậy bèn đến thử Ngài như sau:

Ông biến hình làm một con qủi Dạ xoa, mặt xanh lè, mắt đỏ như huyết, răng to như quả chuối măn, mọc chìa ra ngoài, tóc dựng ngược, mồm phun lửa đến cung vua giựt lấy bảng rồi nói: - Các ông vào báo cho nhà vua biết, tôi có Phật Pháp, nhà vua muốn nghe, tôi sẽ giảng cho.

Quan Môn Giám nhận lời, vào tâu vua rằng:

- Tâu bệ hạ ngoài thành có một người hình thể khá sợ, tự nói có Phật Pháp, và xin nói cho bệ hạ nghe, việc đó thế nào xin cho hạ thần được rõ?

Nhà vua nghe nói, vui vẻ đội mũ mặc áo chỉnh tề, tự ra đón tiếp mời vào chánh điện và nhường ngồi trên ngai vàng, thiết đãi một cách rất trọng hậu.

Sớm ngày mai nhà vua bày một tòa cao đẹp, trà nước xong xuôi, đánh trống ca nhạc rước Pháp sư thăng tòa thuyết pháp, Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Lúc đó có đông đủ quan quân, dân chúng, nhà vua ra lễ bái Pháp sư, rồi quỳ xuống xin Pháp sư thuyết pháp.

Pháp sư nói:

- Học pháp rất khó, ông muôn được nghe không phải dễ.

Nhà vua thưa rằng: - Kính thưa Pháp sư! Thương đến chúng tôi là kẻ ngu si, việc nghe Pháp phải đúng lễ thế nào, xin cho chúng tôi được rõ.

Pháp sư nói: - Nếu nhà vua đem vợ yêu con quí cho ta ăn, thì ta sẽ nói cho nghe.

Nghe xong nhà vua vui vẻ thọ giáo, bái tạ lui ra trở về cung gọi vợ con nói:

- Tôi xin nói để các người hay: vợ chồng cha con, yêu nhau trong vòng sinh tử, ân ái có ngày biệt ly, tôi muốn tìm con đường giải thoát, cho tôi và lũ ngươi, vì thế tôi muốn đem thân mạng của lũ ngươi dâng Pháp sư để cầu thành Phật; ý thế nào cho tôi được rõ?

Nghe xong Hoàng hậu và Thái tử liền quỳ xuống, xin tuân lời chỉ giáo.

Được sự đồng ý rồi nhà vua liền đem vợ con dâng Pháp Sư. Pháp sư nhận rồi, ngồi trên tòa cao, giữa đám hội đông người nghiểm nhiên ngồi ăn, nháy mắt đã ăn hết, mọi người thấy thế đều lắc đầu, lè lưỡi, kinh sợ hãi hùng.

Khi đó quần thần, dân chúng, thấy nhà vua hành động như vậy, ai nấy đều không bằng lòng, và cho nhà vua quá ư mê chấp. Song họ có biết đâu nhà vua làm những việc mà người đời không ai làm được. Họ như con ếch nằm trong đáy giếng, chưa bao giờ nhìn thấy biển Đông. Sự nhìn xa trông rộng không phải kẻ phàm ngu có thể so sánh.

Tiếp đến Pháp Sư đọc bài thơ như sau:

Nhất thiết hành vô thường.

Sinh giả giai thị khổ!

Ngũ ấm không vô tướng.

Vô hữu ngã, ngã sở.

Nghĩa là:

Hết thảy đều vô thường,

Sinh ra tất phải khổ!

Năm ấm không có tướng.

Ta và của đều không.

Nhà vua nghe xong vui vẻ khôn xiết! Sai người chép lấy, để ban phát cho mọi người trong nước, bắt ai cũng phải tụng đọc.

Bấy giờ Pháp Sư (quỉ Dạ xoa) thấy vua có vẻ bình thản như vậy, liền hiện lại nguyên hình, nói rằng: "Quí hóa nhà vua! Biết tôn trọng Chánh Pháp như vậy không bao lâu Ngài sẽ được thành Phât". Nói xong, bỗng nhiên lại thấy Phu nhân và Thái tử hãy còn toàn vẹn.

Kính thưa Ngài! Vua Tu Lâu Bà thuở đó chính là Ngài đẫy. Xưa kia Ngài đã hy sinh vì Pháp như vậy, sao nay Ngài nỡ bỏ chúng sinh để vào Niết bàn?

Kính lạy Ngài! Lại một kiếp nữa, thuộc thời quá khứ, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Kiền Sá Ni Yết Lê, thống trị nhiều nước, tám vạn bốn ngàn Tụ Lạc, hai muôn Phu nhân và thể nữ, một vạn quan Đại Thần. Nhà vua nhân hiền, yêu thương tất cả, nhân dân sung sướng, cây cỏ xanh tươi. Dân coi vua như một người cha lành.

Nhà Vua tự nghĩ như vầy: "Ta được địa vị cao sang, tôn trọng quý giá! Là do trước kia ta đã tạo nhân lành. Hiện nay nhân dân được an vui sung sướng! Tuy thế, chỉ an vui về vật chất, song vật chất có ngày hoại diệt, không phải một sự an vui lâu dài vĩnh viễn, muốn cho chính mình và tất cả chúng sinh, được an vui vĩnh viễn, ta phải tìm đạo giải thoát do Phật dạy mới có kết quả".

Nghĩ thế rồi vua sai các quan viết bảng cáo thị, và truyền lệnh cho khắp trong nước biết: "Nếu ai có Diệu Pháp, nói cho ta nghe, ý muốn gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ".

Sau có người Bà la môn tên là Lao Độ Sai, đi tới nói rằng: - Tôi có Diệu Pháp, các ông vào báo cho vua biết.

Quan Môn Giám liền đem tin ấy vào tâu vua. Nhà vua nghe nói, ý rất vui mừng, mũ áo trang nghiêm, tự ra lễ bái, hỏi han ân cần trịnh trọng rồi mời vào trong chánh điện, bày giải một tòa cao đẹp, mời Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Vua và hai bên tả hữu chắp tay thưa rằng:

- Kính thưa Đại sư, được hạnh phúc cho chúng tôi nhiều lắm! Hôm nay Đại sư có lòng thương đến chúng tôi mà tới đây. Vậy kính xin thể lòng Từ bi cao cả, thuyết Diệu Pháp cho chúng tôi được thừa thụ.

Lao Độ Sai đáp: - Ta có trí tuệ cũng phải mất bao công khó nhọc, tìm mãi ở phương xa, dầy công học tập, không phải là một việc dể dàng quá như vậy.

Nhà vua thưa: - Kính thưa Đại sư, ý Đại sư thế nào xin dạy bảo cho chúng tôi được rõ?

Lao Độ Sai nói: - Nhà vua muốn được nghe Pháp, thì phải khoét trên mình ra một ngàn lỗ, đổ dầu cho bấc, đốt lửa cúng dàng ta, thì ta sẽ thuyết cho nghe.

Nghe nói, nhà vua vui vẻ nhận lời xin khoét, và khất lại bảy ngày để báo cáo cho dân chúng biết, lời báo cáo như sau:

"Tất cả quốc dân nên biết: Vua Kiền Sà Ni Yết Lê sau bảy ngày nữa vì sự cầu đạo, sẽ khoét trên mình ra ngàn lỗ, đốt đèn cúng dàng Pháp Sư, ai muốn nghe, và xem sự hy sinh cúng dàng của nhà vua thì đến".

Bấy giờ các ông vua nước nhỏ và nhân dân các nước, hay tin ai cũng buồn rầu, cùng nhau đến yết kiến và tâu rằng:

- Kính thưa Đại Vương! Tất cả muôn dân nhờ phúc đức của Đại Vương được an lạc thái bình, như kẻ mù được nhờ cây gậy, con dại ngóng mẹ hiền, nếu Đại Vương khoét mình đốt đèn, tất nhiên tuyệt mạng, thì muôn dân trông cậy vào ai? Xin không nên vì một người mà nỡ bỏ chúng sinh trong thiên hạ.

Sau đó hai muôn bà Phu nhân, và năm trăm Thái tử, một vạn Quan Đại Thần, tất cả đều can vua việc đó.

Nhà vua liền lớn tiếng nói:

- Các ông không nên cản trở tôi, tôi hy sinh thân này để nghe một câu đạo, sau này tôi thành Phật, tôi sẽ độ cho lũ các ông trước.

Họ thấy nhà vua khẳng khái như vậy, ai nấy đều tha thiết kêu van! Nhưng vua cũng quyết định không thay đổi ý kiến.

Hết hạn bảy ngày nhà vua tới trước Pháp sư làm lễ và thưa rằng:

- Kính thưa Đại sư, chúng tôi xin dốc lòng thành kính, theo lời chỉ giáo của Đại sư! Để bắt đầu khoét mình đốt đèn cúng dàng, xin Đại sư hoan hỷ!

Nói xong nhà vua sai khoét, nhưng không ai dám khoét. Sau đó có người Chiên Đà La đến khoét hộ cho vua, anh này khoét xong, vất dao xuống đất chạy mất, khi đổ dầu bỏ bấc xong mọi người coi thấy ai cũng rùng mình run sợ!

Nhà vua thưa rằng:

- Kính xin Đại sư thuyết pháp trước, sau sẽ đốt lửa, sợ mạng tôi tuyệt thì không nghe pháp.

Lao Độ Sai đọc bài thơ rằng:

Thường giả giai tận.

Cao giả tất trụy?

Hợp hội hữu ly

Sinh giả hữu tử.

Nghĩa là:

Thường rồi có hết,

Cao thì phải rơi,

Hợp rồi có tan,

Sinh thì có tử.

Đọc xong vua sai đốt lửa, trong khi lửa cháy dữ dội, vẻ mặt nhà vua vẫn nghiễm nhiên tươi tỉnh, không hề biến sắc. Ngài tự phát thệ rằng:

- Tôi chịu đau khổ để cầu nghe đạo giải thoát, nguyện đem công đức này hướng về Phật quả, sau khi được thành, tôi sẽ lấy trí tuệ quang minh, phá ngu si hắc ám cho tất cả chúng sinh.

Nói dứt lời, thì trời đất tự nhiên chuyển động, tới cõi trời Tịnh Cư. Khi đó các người cõ Trời ngó xuống xem, thấy một vị Bồ tát đốt mình làm đèn cúng dường Pháp Sư để nghe pháp, một cách rùng rợn! Họ bay xuống đứng kín cả hư không, ví sự cảm động quá! Nên nhiều người sa nước mắt rơi xuống thành mưa, đồng thời họ lại tung hoa xuống để cúng dàng. Vua Đế Thích đến tận nơi, tới trước khen và hỏi rằng:

- Nhà vua đau khổ như vậy thì có hối hận gì không?

Nhà vua đáp: - Thưa không!

Đế Thích nói: - Tôi thấy nhà vua run rẩy không yên như vầy, tự nói không hối, lấy gì chúng cớ biết rõ được?

Đế Thích nói dứt lời, thì Ngài tự thề rằng:

- Nếu tâm tôi thủy chung như một, không hối hận gì, thì xin lỗ trên mình tôi, lại được bình phục như cũ.

Vì lòng chân thực cầu đạo pháp tha thiết, cảm động mười phương, nên những lỗ trên mình tự nhiên lại được bình phục như cũ, thân thể lại tốt lành hơn xưa.

Kính lạy Ngài! Ông vua khoét mình đốt đèn để cầu đạo thuở đó, chính là Ngài đấy. Ngài đã cực khổ cầu Pháp như vậy, tới nay đã đầy đủ, tại sao không thuyết Pháp? Vào Niết bàn làm chi, để chúng sinh mất con mắt quang minh trí tuệ?

Kính lạy Ngài! Lại một đời quá khứ nữa, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua, tên là Tỳ Lăng Yết Lê thống trị được nhiều nước, tám vạn bốn ngàn Tụ Lạc, hai muôn bà Phu nhân và thể nữ, năm trăm Thái tử, một vạn quan Đại Thần. Nhà vua có đức nhân, coi dân như con đẻ, lại ham nghe chánh pháp, nên sai quan Đại Thần tuyên lệnh cho toàn quốc biết như sau:

- Thông cáo cho toàn quốc biết: Hoàng thượng muốn được nghe Phật Pháp, ai biết đến nói cho Ngài nghe, Ngài sẽ trọng thưởng tùy ý muốn.

Cách thời gian lâu, có một người dòng Bà la môn, tên là Lao Độ Sai tới cung môn nói: - Tôi là người đã từng nghiên cứu và tu tập giáo lý của Phật đã lâu, xin ông hãy vào tâu Hoàng thượng cho.

Theo lời yêu cầu của Lao Độ Sai, quan Môn Giám vào tâu vua.

Nhà vua được tin rất vui vẻ, đội mũ mặc áo trang nghiêm, thân ra cổng thành, trịnh trọng chào hỏi, rồi mời vào trong chánh điện, thiết đãi trọng hậu. Sớm ngày mai vua sai bày một tòa cao đẹp, thỉnh Pháp sư thăng tòa ngồi yên tĩnh.

Nhà vua và bá quan, nghiêm chỉnh thân tâm, tới trước Pháp Sư cúi đầu lễ lạy, rồi qùy xuống thưa rằng: - Kính thưa Đại Sư phát tâm Từ bi, thuyết pháp cho chúng tôi được thừa ân công đức!

Lao Độ Sai đáp: - Sự hiểu biết của ta đây, là do ta chịu khổ đã lâu năm, đi tìm học ở bốn phương xa mới được; nhà vua coi sự học một cách dễ dàng quá!

Nhà vua toát mồ hôi, một lòng kính cẩn thưa rằng:

- Kính thưa Đại sư! Việc nghe đạo phải đúng quy tắc thế nào? Chúng tôi là kẻ trần tục phàm phu, không biết sự lễ Pháp bao giờ, xin Đại sư chỉ dạy cho?

Đáp: - Nhà vua có thể đóng lên mình một ngàn cái đinh sắt, được như vậy ta sẽ thuyết pháp cho nghe.

Nhà vua thưa: - Dạ! Xin tuân lời dạy bảo của Đại sư, và xin Ngài cho lui lại bảy ngày, để báo cáo cho dân biết.

Nói xong lễ tạ lui ra, lời báo cáo như sau:

- Tất cả toàn quốc nên biết, tôi là Nhân Chúa Tỳ Lăng Yết Lê, vì muốn được đạo giải thoát cho chính tôi, và toàn thể, nên tôi đóng đinh trên mình một ngàn cái, cúng dàng Pháp sư, quốc dân ai muốn biết sự thực hành của tôi, sau bảy ngày nữa xin mời đến.

Dân chúng được tin nhà vua đóng đinh trên mình, để cầu nghe giảng đạo. Họ nô nức kéo nhau đến kinh thành rất đông, sau đó một số Đại biểu của dân chúng lên tâu vua rằng:

- Kính tâu Hoàng thượng! Lũ chúng tôi thay mặt cho toàn thể quốc dân, đến đây kính mừng Thánh thượng, thọ lạc thiên thu, hưởng phúc lâu dài chúng tôi tự biết, nhờ ơn đức Hoàng thượng nên được thái bình an lạc, cúi xin thương đến toàn thể quốc dân, miễn bỏ sự đóng đinh trên mình.

Sau đó, tiếp đến Phu nhân, thể nữ, Thái tử, quan đại thần cũng đồng thanh tâu vua xin miễn bỏ việc đó.

Nhà vua đáp: - Tôi nhận thấy đã bao kiếp tới nay, bị sống thác trong vòng sinh tử luân hồi, thân mạng đã mất đi vô số; những thân mạng ấy cũng chỉ đeo những tấm lòng tham dục, giận tức, ngu si, nhìn lại số xương thịt trong những kiếp sinh tử ấy, có thể chất cao hơn núi Tu Di, đầu rơi máu chảy ra nhiều hơn nước sông lớn; nước mắt khóc người thân nhiều hơn nước bốn bể; những thân mạng sống chết đó, chẳng qua cũng chỉ uổng mà thôi, chưa từng bao giờ vì đạo pháp mà hiến thân. Tôi đóng đinh cúng Pháp Sư để cầu thành Phật, sau khi thành Phật, tôi sẽ lấy trí sáng suốt để trừ diệt bệnh kết sử của lũ các người, và đưa dắt các người lên đường giác ngộ giải thoát thành Phật, một việc ích lợi chung cho toàn thể chúng sinh, can tôi làm chi?

Theo lời nhà vua tuyên bố, mọi người ai nấy đều im lặng, không dám nói năng gì hết.

Tới giờ phút này nhà vua đến trước Pháp sư thưa rằng:

- Kính xin Đại Sư ra ân, thuyết pháp trước đóng đinh, nếu đóng trước, thì tôi sẽ chết không được nghe.

Đại Sư đọc bài thơ rằng:

Nhất thiết giai vô thường,

Sinh giả giai hữu khổ!

Chư pháp không vô chủ.

Thực phi ngã sở hữu.

Nghĩa là:

Tất cả đều vô thường

Sinh ấy đều có khổ!

Các pháp không có chủ.

Thực chẳng phải ta có.

Pháp Sư đọc xong, nhà vua vui mừng, sai người viết lấy bài thơ ban bố cho quốc dân, bắt ai cũng phải tụng đọc.

Giờ phút bắt đầu, nhà vua sai người đóng đinh, thì tất cả các ông vua nước nhỏ, và quân thần, dân chúng trong đại hội, đều gieo mình xuống đất than thở. Trời đất chấn động sáu lần, các ông thiên tử trên trời bay xuống, thấy Ngài hy sinh cầu đạo như vậy, ai nấy đều cảm động, rơi lệ chứa chan, một lòng tôn kính tung hoa xuống cúng dàng. Vua Đế Thích xuống tận nơi hỏi rằng:

- Nhà vua quyết liệt tâm chí, cầu đạo không tiếc mạng sống như vậy, để nguyện đời mai sau làm gì? Làm Đế Thích ư, làm Chuyển Luân Vương ư, làm Ma Vương, Phạm Vương ư?

Đáp: - Thưa Ngài! Tôi quên mình để cầu đạo giải thoát của Phật, để cầu làm Phật, và tế độ cho chúng sinh cũng được giải thoát, chứ tôi không cầu phúc báo ở ba cõi sinh tử, như Đế Thích, Chuyển Luân Vương, Ma Vương hoặc Phạm Vương.

Đế Thích hỏi: - Tôi coi nhà vua đau đớn như thế, thì tâm có hối hận gì không?

Đáp: - Không!

Đế Thích hỏi: - Ngài nói không thì lấy gì chứng tỏ?

Nhà vua liền lập thệ thư sau:

- Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai chư Phật, tôn Pháp, Bồ tát Hiền Thánh Tăng tác đại chứng minh, con chí thành cầu Bồ đề, nếu tâm không hối hận, thì thân thể lại được bình phục như cũ.

Phát thệ dứt lời, thì những cái đinh bật hết ra ngoài, thân thể quả nhiên lại được bình phục như cũ.

Khi đó tất cả trời, người và quan quân, dân chúng chứng tỏ tâm của Ngài thành thật cảm ứng như vậy, ai nấy đều vỗ tay vui mừng không tả xiết!

- Kính lạy Ngài! Ông vua đóng đinh trên mình thuở đó, chính là Ngài đấy! Tâm Ngài lớn như biển cả, rộng như hư không, đã phá tan những tập kiến chúng sinh, chúng đương ngoai ngáp trong chốn bùn lầy, nghẹt thở nơi hang tối. Kính lạy Ngài chớ bỏ đàn con đau khổ mà vào Niết bàn.

- Kính lạy Ngài! Lại một kiếp nữa, thuộc thời quá khứ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Phạm Thiên, sinh được một Thái tử tên là Đàm Ma La Kiềm.

Thái tử có trí tuệ khôn sáng, ưa ở nơi thanh vắng, ít sự xa hoa dục vọng, có tính tìm tòi chân lý, ham nghe chánh pháp, nên thường sai người đi khắp đông tây, kiếm Thầy học đạo, đã nhiều lần, nhưng không gặp được một ai là người có chánh pháp giải thoát. Trong thời gian tìm Thầy chưa được, Thái tử thấy luôn luôn khổ não, làm cho không lúc ngớt ý nghĩ nói trên.

Bấy giờ vua Đế Thích biết Thái tử lòng thành như vậy, liền hóa thân làm người dòng Bà la môn, đi đến kinh thành, tới chỗ đông người nói rằng:

- Các bạn nên biết, tôi là người hiểu biết Phật Pháp, nếu bạn nào muốn nghe, tôi sẽ giảng giải cho.

Họ liền đến mách bảo Thái tử, ngoài thành có người tự xưng hiểu giáo lý đạo Phật.

Thái tử được tin thấy lòng vui sướng vô cùng, vào phòng đội mũ tề chỉnh, và đem một số người theo hầu, ra tiếp đón Pháp sư, lễ bái, hỏi han rồi mời vào trong cung nơi biệt thự, thết đãi trịnh trọng.

Sớm ngày mai trà nước xong xuôi, vầng thái dương mới nhô khỏi núi ánh bình minh vừa tỏa khắp cõi không gian, bầu trời yên lặng, thanh khí ôn hòa! Thái tử sai người bày tòa giảng thuyết, Pháp Sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Thái tử tới trước lễ bái, quỳ gối chắp tay thưa rằng:

- Kính thưa Đại Sư, chúng tôi bị những bức thành mờ tối vô minh dục vọng đã bao kiếp, là do không được gặp chánh pháp của Như Lai, chúng tôi thành kính trước Ngài, ngửa mong Từ bi giảng thuyết, để cho hết thảy được ân triêm đức hóa?

Đại sư nghiêm nét mặt đáp:

- Học đạo không phải một việc dễ, ta đã biết bao công trình tìm Thầy tu học, mới được hiểu biết. Người chưa chút khó nhọc, nay muốn được nghe ngay, thực là coi sự học đạo dễ dàng quá.

Thái tử thưa rằng: - "Kính thưa Đại Sư! Từ thân tôi cho đến vợ con tôi, vàng bạc châu báu, Đại Sư dạy bảo thế nào, chúng tôi xin tuân mệnh không dám trái ý".

- Đại sư đáp: "Muốn nghe pháp, Thái tử hãy đào một hố lớn, sâu chừng mười trượng, ở dưới đốt than cho thật đỏ hồng, rồi Thái tử nhảy vào hố lửa ấy, cúng dàng ta, thì ta sẽ thuyết pháp.

Thái tử nói: - Dạ xin tuân lời dạy của Đại Sư.

Sau khi Thái tử sai người đào hố thì nhà vua biết tin. Từ vua cho đến tất cả mọi người trong Hoàng cung ai ai cũng lo phiền, và khuyên can, nhưng Thái tử quên mình vì sự cầu đạo giải thoát, nên không nghe theo những lời khuyên can ấy.

Sau nhà vua và các quan đều thưa với Đại Sư rằng:

- Kính thưa Đại Sư! Thương đến lũ chúng tôi, để miễn bỏ việc Thái tử nhảy xuống hố lửa, ngoài ra Đại Sư muốn dùng gì chúng tôi xin dâng.

Đại Sư đáp: - Việc đó tùy ý Thái tử, ta không bó buộc, đúng thế thì ta thuyết pháp, bằng không thì thôi!

Nhà vua thấy tâm địa của Đại Sư khẳng khái quá, nên Ngài cũng vái chào rồi trở ra về, không nói năng gì nữa.

Trở về nhà vua sai người đi thông báo cho quốc dân biết rằng:

Lời thông báo như sau: - Tất cả quốc dân nên biết, sau bảy ngày nữa Thái tử vì sự nghe đạo, nên xả thân, nhảy xuống hố lửa, ai muốn thấy việc đó, thì lại sớm nơi đây.

Nhân dân được tin Thái tử nhảy xuống hố lửa, họ nô nức kéo nhau đi đến kinh thành đông như hội, sau đó một số Đại biểu của nhân dân, tới thưa với Thái tử rằng:

- Kính thưa Thái tử: Lũ chúng tôi hay tin Ngài vì sự nghe đạo nhảy xuống hố lửa, lợi ích chưa thấy đã thấy sự tang thương cho quốc dân! Vậy kính mong Ngài miễn bỏ việc đó, để cho quốc gia được an lạc.

Thái tử đáp: - Các ông lẳng lặng để nghe tôi nói, thiệt hại hay lợi ích. Nhận thấy con người sống thác từ đời vô thủy cho tới ngày nay, không số tính, chết cõi này sinh cõi kia luân chuyển như bánh xe quay không mối. Trong loài người vì lòng tham dục, nên giết hại lẫn nhau; trên cõi trời khi hết tuổi thọ, thì lo về mất sự dục lạc; nơi Địa ngục lửa đốt suốt ngày đêm, nào nước sôi, búa chém, dao đâm, núi dao, rừng kiếm, hành phạt con người vô cùng thảm khốc, trong một ngày chết đi sống lại biết bao lần, sự hình ngục không thể giải bày cho xiết. Cái khổ trăm thứ tên độc xiên dùi vào mình loài Ngạ quỉ. Cái khổ kéo cày chở nặng loài Súc sanh, sau lại dâng thân cho người ăn thịt, những nỗi khổ như thế, khó nói hết trong những kiếp đã chịu đoạ đày, xét lại những thân mạng ấy chỉ uống mà thôi, có làm được một việc gì về vấn đề giải thoát cho chính mình và chúng sinh trong pháp giới, ai đã biết đem thân ấy chết về việc nghe đạo bao giờ. Ta đem dâng thân này, cúng dàng để nghe đạo giải thoát, sau thành Phật, ta sẽ đem lại cho lũ các ông năm phần pháp thân, can chi phải ngăn cản công việc ta đã quyết định làm.

Mọi người nghe Thái tử nói xong, ai nấy đều nín thinh, không dám trả lời sao hết.

Khi sắp nhảy xuống hố lửa Thái tử nói:

- Kính thưa Đại Sư! Xin thuyết pháp trước khi tôi nhảy xuống hố.

Đại Sư đọc bài thơ như sau:

Thường hành ư Từ tâm,

Trừ khứ khuế, hại tưởng.

Đại bi mẫn chúng sinh!

Căng thương vị vũ lệ!

Tu hành đại hỷ tâm,

Đồng kỷ sở đắc pháp.

Cứu hộ dĩ đạo ý

Nãi ưng Bồ tát hạnh.

Nghĩa là:

Thường làm theo tâm từ

Trừ bỏ tưởng, giận hại.

Đại bi thương chúng sinh!

Quặn lòng rơi nước mắt!

Tu làm tâm đại hỉ,

Với mình cùng đắc pháp,

Cứu giúp bằng đạo lý,

Ấy là hạnh Bồ tát.

Khi sắp gieo đầu xuống hố lửa thì vua Đế Thích và vua Phạm Vương chạy lại cầm tay hỏi gạn rằng:

- Thái tử hãy khoan, để tôi nói chuyện đã: Một ông vua có đức nhân, thì muôn dân được an lạc! Chúng tôi nhận thấy Thái tử là người đức tầy bốn biển, Phụ Hoàng yên lòng có người nối trị nuôi dân, hà tất vì một câu đạo mà bỏ tất cả chúng sinh trong thiên hạ, theo ý chúng tôi thì không nên quá ư thiên chấp như vậy.

Thái tử đáp lời rằng:

- Thưa quý Ngài! Tôi nhận thấy phần nhiều người, chỉ biết lúc an vui, chớ không lo một ngày gặp tai nạn! Chỉ biết cái sống hôm nay mà không sợ cái chết của ngày mai. Sở dĩ tôi làm một việc có thể an vui mãi mãi, cho chúng tôi và tất cả chúng sinh, chứ không phải tôi không biết thương chúng sinh! Quý Ngài không nên cản trở đạo tâm cao cả của tôi làm gì.

Nói xong Thái tử nhảy xuống hố lửa! Tự nhiên trời đất chuyển biến làm cảm động cả thiên cung. Khi đó mọi người đều sa nước mắt, cũng có người lên tiếng khóc thương! Giờ phút đương làm cho mọi người khủng hoảng, thì hố lửa ấy tự nhiên biến thành một ao sen, mùi hương thơm ngào ngạt, những làn gió thổi mát, thấu đến tâm phủ của mọi người, họ nhìn vào thấy Thái tử ngồi trên đài sen, ai nấy đều vui mừng không tả xiết. Lúc đó hoa trên trời bay xuống như mưa. Vua Đế Thích, vua Phạm Thiên cũng phải cất tiếng khen rằng:

- Quý hóa! Cầu đạo như vậy, sau này quyết định thành Phật.

Kính lạy Ngài! Nhà vua thuở đó nay là thân phụ Ngài (Tịnh Phạn Vương), bà Hoàng hậu thuở đó nay là thân mẫu Ngài (Ma Gia), Thái tử nhảy xuống hố lửa chính nay là Ngài, cũng vì thương chúnh sinh, cầu pháp như Ngài đó, nay đã thành công, cúi xin Ngài Từ bi thuyết pháp, tế độ quần sinh qua nơi biển khổ!

Kính lạy Ngài! Lại một đời quá khứ nữa, tới nay vô lượng kiếp, cũng Châu Diêm Phù này có một nước tên là Ba La Nại, nước ấy có năm trăm vị Tiên sĩ tu trong núi, ông Uất Đà La làm Thầy các vị Tiên này, tuy ông tu theo Tiên đạo, nhưng ông hằng mong được gặp chánh pháp của Như Lai (Phật), ông đã từng đi khắp bốn phương trời, và thông báo cho thiên hạ biết rằng:

- Tôi Đại Tiên sĩ rất muốn được nghe chánh pháp của đức Như Lai, ai biết nói cho tôi nghe, nếu muốn dùng gì tôi xin dâng biếu.

Khi đó có một người dòng Bà la môn tới chỗ ông nói rằng:

- Nghe biết Tiên sĩ muốn tìm hiểu chánh pháp của Như Lai, chính tôi là người hiểu biết giáo pháp của Như Lai, nếu Ngài muốn học hỏi, tôi sẽ thành thực giảng thuyết, nhưng nghe là một việc rất khó.

Đại Tiên thưa: - Kính thưa Đại sư việc nghe pháp phải thế nào xin Ngài dạy bảo cho?

Đáp: - Ngài có thể lột da của Ngài để làm giấy; chẻ xương của Ngài dùng làm bút; lấy máu của Ngài để làm mực viết lấy giáo pháp của Như Lai, thì tôi sẽ thuyết cho Ngài nghe.

- Dạ, rất đa tạ Đại Sư, chúng tôi xin tuân lời của Đại Sư dạy.

Nói dứt lời ông sai người lấy dao lột da, chẻ xương, lấy máu thực sự, làm xong ông ngửa mặt thưa rằng:

- Dạ, kính xin Đại Sư đọc để chúng tôi tiện viết ạ!

Đại sư đọc bài thơ rằng:

Thường đương nhiếp tâm hành

Nhi bất sát, đạo, dâm;

Bất lưỡng thiệt ác, khẩu,

Vọng ngôn, cập ỷ ngữ.

Tâm bất tham chư dục;

Vô sân, khuể, độc tưởng;

Xả ly chư tà kiến.

Thị vi Bồ tát hạnh.

Nghĩa là:

Thường phải nhiếp tâm hành.

Mà không sát, trộm, dâm,

Không hai lưỡi, nói ác;

Nói dối, nói đơm đặt,

Tâm không tham mọi dục;

Không sân giận, độc tưởng;

Xa lìa mọi tà kiến:

Ấy là hạnh Bồ tát.

Đại Sư thuyết xong thì Ngài viết cũng vừa xong. Từ đó Ngài dùng bài thơ này đi khắp nhân gian để dạy bảo cho mọi người biết lối tu hành. Những người được hàm ơn Ngài giáo hóa, khi mạng chung được thoát khỏi ba đường ác sinh lên cõi Trời, cõi Người, hưởng phúc vô cùng vô tận.

- Kính lạy Ngài! Ông Tiên ngày đó chính là Ngài đấy, Ngài đã vì chúng sinh cầu học đạo một cách khổ cực đến như vậy, tại sao lại bỏ để vào Niết bàn mà không thuyết pháp?

- Kính lạy Ngài! Lại một thời quá khứ nữa, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Thi Tỳ, ở thành Đế Bà Bạt Đề, dân nước lúc đó giàu thịnh vô cùng. Nhà vua thống trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám ngàn ức dân ấp. Nhà vua có hai muôn bà Phu nhân và thể nữ, năm trăm Thái tử, một vạn quan Đại thần. Vua có hạnh Từ bi, thương dân như con đỏ.

Trên Trời lúc ấy, Vua Đế Thích gặp lúc năm đức ly thân, sắp tới ngày tận số (chết) khí sắc ông lúc nào cũng âu sầu, ông Tỳ Thủ Yết Ma thấy thế, bèn hỏi rằng:

- Tâu Bệ hạ! Hồi này Hạ thần coi khí sắc của Bệ hạ kém xưa nhiều lắm, chẳng hay có chuyện chi, xin nói cho Hạ thần được rõ.

Đế Thích đáp: - Khanh không biết hay sao? Hoa trên đầu ta đã héo, tử chứng đã xuất hiện, mạng sống chẳng còn được là bao, hiện nay ở thế gian không có giáo pháp của Như Lai, ta không biết qui hướng về đâu nên ta buồn!

Ông Tỳ Thủ Yết Ma thưa rằng: - Tâu Bệ hạ hiện nay ở thế gian thuộc Châu Diêm Phù có một ông vua tu theo hạnh Bồ tát, tên là Thi Tỳ, tâm ý bền vững và tinh tiến lắm, sau này quyết định thành Phật, xin Bệ hạ tới đó quy y, thì lai sinh sẽ được đầy ý nguyện, đầy vẻ tôn vinh trên cõi nhân, thiên, hoặc xuất thế gian".

Vua Đế Thích nói: - Nếu như quả như lời của khanh nói, thì may cho ta lắm, nhưng phải thử xem hư thực thế nào. Vậy khanh hóa làm con chim Bồ Câu, ta hóa làm chim Cắt, khanh bay trước ta bay sau, khi tới nơi khanh bay vào lòng nhà vua, và yêu cầu vua cứu, còn ta đến sau ta sẽ đòi trả để ăn thịt, xem nhà vua giải quyết thế nào.

Tỳ Thủ Yết Ma nói: - Tâu Bệ hạ! Bồ tát là người Từ bi phúc đức, chúng ta nên cúng dàng, và ủng hộ là phải, chứ không nên làm những sự đau khổ đến Bồ tát.

Vua Đế Thích liền đọc bài thơ đáp rằng:

Ngã diệc phi ác tâm,

Như trân bảo ưng thí.

Dĩ thử thí Bồ tát,

Tri vi chí thành phủ?

Nghĩa là:

Ta cũng chẳng ác tâm.

Nếu thực vàng nên thử.

Để thử Bồ tát xem,

Có thực chí thành không?

Vua Đế Thích đọc xong, bắt đầu Tỳ Thủ Yết Ma hóa làm chim Bồ Câu bay trước, Vua Đế Thích hóa làm chim Cắt bay sau. Khi tới cung thành, chim Bồ Câu bay thẳng vào lòng nhà Vua tỏ vẻ sợ hãi, rồi kêu Vua cứu. Chim Cắt bay tới sau, đứng ở trên điện nói:

- Tâu Bệ hạ! Xin Ngài trả lại cho tôi con chim Bồ Câu ấy?

Đáp: - Trả cho ngươi để làm chi?

Tâu Bệ hạ! Nó là món ăn của tôi, tôi đương đói trả để tôi ăn.

Đáp: - Ta có nguyện cứu tế cho muôn loài, nó đã lại đây với ta thì ta không trả đâu.

- Tâu Bệ hạ! Ngài tự nói cứu tế cho muôn loài, mà cướp món ăn của tôi, thì tôi phải chết đói, đối với tôi không phải là một trong muôn loài hay sao!

Đáp: - Ngươi đói thì có thể dùng thứ thịt khác được không?

- Tâu Bệ hạ! Vâng! Cũng được nhưng phải cho tôi thứ thịt hãy còn tươi, máu hãy còn nóng, thì tôi dùng.

Nhà Vua thầm nghĩa: - Nếu thế thì phải giết một con vật khác; nhưng nếu giết một con, cứu một con cũng vô ích, chi bằng ta cắt thịt của ta thay thế cho nó là hơn.

Nghĩ xong lấy dao cắt một miếng thịt đùi ra trao cho chim Cắt và nói rằng:

- Đây! Ngươi dùng miếng thịt của ta để thay chết cho Bồ Câu.

Chim Cắt ra cách không hài lòng nói:

- Tâu Bệ hạ! Ngài đã mang danh là vị Đại Thí chủ, đã dùng con mắt bình đẳng đối với tất cả, tôi đây tuy là một con chim nhỏ thực, nhưng nếu theo sự công bình, thì Ngài phải bắt cân để chim một bên thịt một bên; thịt và chim bằng nhau thì tôi sẽ nhận.

Theo lời chim nói có lý phải, nên nhà vua sai người bắt cân, để chim một bên để thịt nhà vua một bên, bắt đầu để một miếng hãy còn nhẹ, lại cắt thêm miếng nữa, vẫn thấy còn nhẹ, dĩ chí nhà vua cắt hết một vế đùi, nhưng vẫn nhẹ như thường, sau cắt hết hai vế đùi, cho đến hai cánh tay, hai bạng mỡ, song vẫn còn nhẹ sau róc hết các thớ thịt ra để lên cũng vẫn còn thấy nhẹ, chim vẫn nặng hơn, nhà vua liền đứng dậy để bước lên bàn cân, thì đau quá, khí lực đã hết nên Ngài ngã lăn đùng xuống đất, mê mệt không biết gì, giây lâu tỉnh lại, thầm nghĩ rằng:

- Ta từ bao kiếp đến nay, cũng chỉ vì có thân này, mà làm cho ta khốn khổ, nổi chìm trong ba cõi, trôi dạt trong sáu thú, cũng do tham thân sống, tiếc thân sống, nuôi nó bảo thủ nó, gìn giữ nó, yêu quí nó, vì nó mà làm hại biết bao sinh mạng khác, nhưng trái lại rồi một ngày gần đây nó lại tan không, hòa đồng với đất, nước, cây cỏ, chưa bao giờ vất nó đi, để hy sinh mà cứu chúng sinh, vậy ta phải tiến lên để đập tan những bức thành ngã chấp từ bao kiếp tới nay, để đạt tới pháp thân bất diệt.

Nghĩ xong liền ngồi dậy cố gắng đứng lên bàn cân nhìn vẻ mặt vẫn vui tươi!

Bấy giờ trời đất tự nhiên chuyển động sáu lần, thiên cung nghiêng ngả, có rất nhiều người ở các cõi trời bay xuống xem, họ nhận thấy một ông vua, quên mình để cứu một con vật, tất cả nhân gian thiên thượng, chưa từng ai làm nổi, họ đều cảm động rơi lệ chứa chan, và tung các thứ hoa xuống cúng dàng.

Đối với lòng Đại bi cứu sinh một cách dũng mãnh như vậy, vua Đế Thích cũng phải cảm phục và hiện lại nguyên hình rồi nói rằng:

- Kính thưa Ngài! Tôi thấy Ngài làm hạnh Bồ tát, nên tôi tới đây để thử Ngài đấy thôi, chính tôi đây là Đế Thích Vương là chúa cõi trời Đao Lợi. Nhưng xin hỏi Ngài: Ngài làm những việc mà người đời không làm nổi như vậy, để cầu làm gì? Làm Đế Thích hay làm Chuyển Luân Thánh Vương?

Nhà vua đáp: - Thưa Ngài tôi nguyện đem lòng Từ bi cứu hộ chúng sinh để cầu thành Phật, chứ không có ý cầu làm Đế Thích hay Chuyển Luân Thánh Vương mong hưởng những thú vui trong ba cõi.

Vua Đế Thích nói: - Nhà vua cắt thịt đau đớn như vậy, thì tâm có phàn nàn gì không?

Đáp: - Thưa không!

Vua Đế Thích nói: - Nhà vua nói không, việc đó thì ai biết? Tôi coi thân thể nhà vua run rẩy như vậy, khí sắc đã gần tuyệt, tự nói không thì lấy gì làm bằng?

Đáp: - Trước mặt Ngài tôi xin có một cụ thể để chứng tỏ lòng thành của tôi, nói xong Ngài lập thệ rằng:

- Kính lạy thập phương Đại Giác tam thế Hùng Sư! Nếu con chí thành cầu đạo! Xin cho con lại được bình phục như cũ.

Thệ dứt lời, nhà vua lại được lành mạnh như cũ, những vết thương tiêu tan, da dẻ lại tươi sáng hơn xưa.

Bấy giờ tất cả trời người phàm thánh ai nấy đều tắc lưỡi bái phục tâm chí thành của nhà vua, và coi như một việc chưa từng có, thảy đều kinh sợ vui mừng!

- Kính lạy Ngài! Vua Thi Tỳ thuở đó chính là Ngài đấy, Ngài đã vì chúng sinh chịu cực khổ như vậy! Giờ phút này chúng sinh đương bị chìm đắm trong bể sinh tử luân hồi; phơi thây trong rừng tà kiến, dục vọng! Ngóc đầu lên không ai vớt, gào kêu không kẻ chỉ đường. Kính xin Ngài Từ bi cứu tế thuyết pháp độ sinh, khiến cho khắp nhân thiên, phàm thánh được mong ân đức hóa.

Vua Phạm Vương đứng trước đức Phật tán dương công đức, và tha thiết cầu thỉnh Ngài thuyết pháp độ sinh một cách thành thực, nên đức Phật hứa lời ông thỉnh.

Đầu tiên Ngài đến nước Ba La Nại thuyết pháp ở vườn Lộc Uyển độ cho nhóm ông Kiều Trần Như năm người. Ngôi Tam bảo từ đấy mới xuất hiện ở thế gian.

 

2/ Phẩm thứ nhì THÁI TỬ MA HA TÁT ĐỎA ĐEM THÂN CHO CỌP ĂN

Chính tôi được nghe: Một lần Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà.

Tới thời khất thực, đức Phật mặc áo mang bát và tôi (A nan) đi theo hầu. Khi vào tới thành gặp một bà lão và hai cậu con trai; hai cậu này trộm cắp ngang tàng, không có nhân cách. Giữa hôm ấy sa lưới chánh quyền bị đem đi xử tử.

Giờ phút hãi hùng này thì tôi và Phật vừa tới, ba mẹ con đều cúi đầu lễ Phật và kêu Phật cứu mạng. Phật bèn sai tôi (A nan) đến xin vua tha cho, sau khi tôi đến nói với nhà vua, vì có lời Phật đến để xin vua phóng thích cho ba mẹ con bà lão, nên nhà vua tuân lời dạy tha cho tội chết.

Mong ơn cao cả của đức Phật, ba mẹ con bà này đến tạ ơn, tới nơi cúi đầu làm lễ và bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Mong ơn sơn hải mẹ con được thoát chết, không biết lấy gì để đền đáp ơn đức cao dầy ấy. Kính lạy Đức Thế Tôn, mẹ con một lònh thành kính cúi đầu bái tạ, xin Từ bi hoan hỷ nhận tấm lòng thành kính của mẹ con chúng con.

Phật dạy: - Quý hóa! Tội phúc do mình tạo tác gây nhân kết quả, từ nay chăm tu thiện nghiệp, lai sinh hưởng phúc lâu dài.

- Dạ, kính lạy Đức Thế Tôn! Mẹ con xin tuân lời chỉ giáo! Và xin cho cả ba mẹ con chúng con được nhập đạo tu hành.

Phật dạy: - Quý hoá! Muốn trút bỏ những trần duyên ràng buộc của thế tục, để tìm đường giải thoát thì ta cũng cho.

Nói xong Ngài gọi lên rằng: - Thiện Lai Tỳ kheo!

Ngài gọi xong, cả ba mẹ con, tự nhiên rụng tóc, áo mặc tại mình biến thành áo Cà sa, lòng tin vững chắc, sau khi nghe Phật thuyết pháp, những trần cấu phiền não đều tiêu mất, tâm ý sáng tỏ, hiểu thấu đạo chân thật. Lúc đó hai người con được chứng quả A la hán, còn người mẹ chứng quả A na hàm.

- Thấy việc như thế tôi (A Nan) cũng khen ngợi, và cũng lấy làm kỳ ngộ, không biết nhân duyên của ba mẹ con người này, đời trước thế nào? Nên tôi quỳ xuống bạch Phật rằng:

- Kính lạy Đức Thế Tôn! Không hay ba mẹ con người này, đời trươc có phước gì, nay được gặp Ngài cứu cho thoát nạn, hơn nữalại được chứng đạo Niết bàn? Xin nói cho chúng con được rõ nguyên nhân.

Phật dạy: - A Nan! Ông hãy để ý nghe Ta nói.

Dạ, con xin chú ý nghe.

A Nan! Ông nên biết, cách đây đã vô số kiếp, ở Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua tên là Ma Ha La Đàn Na, cai trị ba ngàn nước nhỏ, vua có ba người con trai, người thứ nhất tên là Ma Ha Phú Na Binh; người thứ hai tên là Ma Ha Đề Bà; người thứ ba tên là Ma Ha Tát Đỏa.

Người con thứ ba Ma Ha Tát Đỏa, có phúc đức lớn, lòng Từ bi quảng đại, chí khí cao cả, nhân hiền hiếu thảo, có lòng thương dân giúp vật. Một hôm nhà vua đưa Phu nhân thể nữ (nàng hầu) và ba người con vào rừng chơi. Nhân lúc nhà vua nằm nghỉ dưới gốc cây, thì ba Hoàng tử đưa nhau đi chơi, đi tới rừng kia chợt gặp một con hổ mẹ và hai hổ con; con hổ mẹ nằm gục đầu vào tảng đá gầy còm, da sát xương, hơi thở thoi thóp, hai mép phung ra hai bãi bọt lớn, tựa như bọt xà bông, còn hai con nằm chui đầu vào hông mẹ, tuy nhìn thấy người nhưng không hề cử động, vì bị đói lâu ngày khí lực bạc nhược. Song có ý muốn ăn thịt con. Thấy thế, Thái tử Ma Ha Tát Đỏa nói với hai anh rằng:

- Thưa anh! Con hổ mẹ, em thấy đói khát quá, lại thêm nuôi hai con nhỏ, em xem ý nó muốn ăn thịt con, có phải chăng?

Đáp: - Phải! Anh cũng nghĩ thế.

- Thưa anh! Vậy nó hay ăn những thứ gì?

Đáp: - Nó hay ăn những thứ thịt tươi máu nóng.

- Thưa anh! Bây giờ phỏng có ai cứu được nó không?

Đáp: - Việc ấy khó lắm.

Khi đó Thái tử Ma Ha Tát Đỏa động lòng thương! Thầm nghĩ rằng: - Ta bị sống thác trong bao kiếp tới nay, bỏ thân cũng đã nhiều, song những thân ấy chỉ gây thêm những tội nghiệp, tham, sân, si chứ chưa từng đem thân ấy mà làm lợi ích cho nhân vật bao giờ; ta hãy bỏ thân tham, sân, si này cho hổ ăn, để đổi lấy thân Từ bi trí tuệ bất diệt.

Nghĩ xong rảo đi trước hai anh, đi chưa được bao xa, quay lại nói với hai anh rằng: - Hai anh hãy đi trước, em có chút việc riêng.

Nói rồi cứ nhắm thẳng con đường cũ, đi tới chỗ ba con hổ nằm, tới nơi gieo mình vào cho hổ ăn thịt. Hổ bị đói lâu ngày run rẩy không thể há mồm ăn được. Thái tử dùng cây nhọn đâm vào cổ họng cho phọt máu, hổ thấy máu lè lưỡi liếm, dần dần tỉnh táo, mới có sức ngồi dậy để ăn thịt, ăn xong thân thể được khoẻ mạnh, mẹ con dẫn nhau đi nơi khác trú ẩn, chỉ còn để lại đống xương trên mặt đất.

Hai người anh ngồi chờ mãi không thấy em về, tự nhiên ruột nóng như lửa đốt, nước mắt chảy dạt dào. Rồi đi tìm em và tự nghĩ rằng: "Em ta có ý định cứu hổ đói". Cứ thẳng lối tìm đến chỗ con hổ, quả nhiên không thấy hổ mà chỉ thấy đống xương và cái đầu nằm trơ trên bãi đất, quá thương em, nên hai người anh ngất đi hồi lâu mới tỉnh lại!

Đoạn này nói đến nhà vua và Hoàng hậu nằm nghỉ mát dưới bóng cây, Hoàng hậu nằm chiêm bao thấy ba con chim cáp bay vào rừng, con chim thứ ba bị chim ưng bắt ăn thịt, sực tỉnh dậy bà sợ quá! Liền đem chuyện đó nói với vua:

- Tâu Bệ Hạ tôi vừa mộng thấy ba con chim cáp bay vào rừng, con chim thứ ba bị chim ưng bắt ăn thịt, tôi nghe lời ngạn ngữ nói: Chim cáp thuộc con cháu, cáp nhỏ bị chết tất nhiên con yêu của tôi gặp sự bất tường.

Bà nói vừa dứt lời thì thấy hai cậu con lớn đã về, bà lật đật hỏi:

Em đâu? Em đâu? Hai con?

Hai cậu quỳ xuống thưa rằng:

- Thưa Phụ vương cùng Mẫu hậu! Em con bị hổ ăn thịt. Nhưng không biết bị hổ ăn, hay em con thương nó đói mà cho nó ăn, việc đó chưa tường.

Được tin như sét đánh bên tai; ông bà chết ngất giờ lâu mới tỉnh lại! Đồng thời vua cùng Hoàng hậu và quan quân đi đến chỗ Thái tử, chao ôi! Chỉ còn đống xương trắng phơi dãi trên mặt đất, ai nấy đều than khóc tiếc thương! Hoàng hậu tự mang lấy cái đầu lâu, còn vua mang hai ống xương tay, trong lòng rầu rĩ xót đau, ngơ ngẩn! Tâm hồn như mơ như mộng, chứa chan rơi lệ!

Đoạn này nói đến Thái tử, vì lòng Từ bi cứu hổ đói, sau khi trút khỏi xác, được sinh về Trời. Tự nghĩ rằng:

- Ta được phép thiên nhãn, coi xa năm cõi như coi vật trên bàn tay, chắc đời trước đây ta làm phúc gì, nên mới được quả báo như vậy.

Nghĩ xong nhìn xuống nhân gian, thấy mình là Thái tử, vì hy sinh cứu hổ đói, tử thi nằm ở rừng xanh, phụ mẫu hãy còn đương than khóc, Thái tử động lòng thương cha mẹ, ngu si mê muội, khóc thương quá chừng như vậy, hoặc nhân thế mà táng mất thân mạng, liền từ trên Trời bay xuống, đứng trên hư không thưa rằng:

- Kính thưa Phụ hoàng cùng Mẫu hậu! Xin hãy khoan tấm lòng, đừng quá thương Thái tử nữa! Nên trở về hoàng cung trị quốc an bang tu thiện nghiệp.

Thấy thế nhà vua liền hỏi rằng:

- Ông là vị thần nào xin chỉ bảo cho chúng tôi được rõ.

Đáp: - Con là Thái tử Ma Ha Tát Đỏa đây, bởi con xả thân cứu hổ nên con được sinh lên cõi trời Đâu Suất, kính thưa Phụ vương tất cả muôn vật cho đến nhân sinh, có hình tất có hoại, có sinh tất có tử, có rồi phải không, tạo ác thì sa Địa ngục, làm lành được sinh lên trời, sống chết là một luật nhất định cho tất cả chúng sinh, Phụ vương không lo buồn làm chi, cho tổn tâm can, nên tỉnh ngộ để tu đạo hạnh.

Nhà vua nói: - Người làm hạnh đại từ tế độ cho khắp muôn loài, bỏ ta mà chết! Lòng ta thương nhớ, đến nỗi quặn lòng đứt ruột, đau đớn không tả xiết vậy người tu hạnh đại từ có xứng hay không?

Nghe nhà vua nói, Thái tử dùng vô ngại biện tài, đem những ý nghĩa nhiệm mầu thiện đức, cao siêu xuất phàm để báo tạ và khuyên vua.

Khi đó nhà vua mới nguôi nguôi tấm lòng, và tỉnh ngộ tâm thức, rồi sai người làm hòm Thất bảo thu bỏ hài cốt làm lễ an táng và xây tháp cúng dàng.

Tới đây cha con Từ biệt: Thái tử hóa thân về thiên cung; vua, Phu nhân và quan quân trở về kinh thành.

Phật nói tới đây rồi Ngài nhắc lại cho tôi:

- Này A Nan! Nhà vua thuở đó là cha của ta ngày nay, Hoàng hậu thuở đó, nay là mẫu thân ta bây giờ, ông Ma Ha Phú Na Ninh nay là ông Di Lặc, Thái tử Ma Ha Đề Bà, nay là ông Bà Tu Mật, còn Thái tử Ma Ha Tát Đỏa chính là ta đây. Hổ mẹ bấy giờ, nay là bà lão này, hai hổ con tức là hai người con trai này. Thời đó ta đã cứu sống cho ba mẹ con được an toàn tánh mạng, tới nay ta thành Phật ta lại cứu cho khỏi tội chết và được thoát sinh tử luân hồi.

Phật thuyết xong thì tôi và tất cả mọi người trong đại hội hoan hỷ kính mến đức cao cả của Ngài, ai nấy đều cúi đầu lễ tạ lui ra.

 

3/ Phẩm thứ ba HAI NGƯỜI DÒNG PHẠM CHÍ THỤ PHÁP BÁT QUAN TRAI

Chính tôi được nghe: Một lần Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Lúc đó trời vừa sẩm tối, có hai người cõi trời vào yết kiến Phật, thân thể to lớn đẹp đẽ, người có hào quang, ánh sáng chiếu khắp rừng Kỳ Hoàn trở thành vàng ửng. Tới nơi họ cúi đầu lễ Phật nhiễu ba vòng, rồi lui đứng về một bên, và bạch Phật rằng:

- Kính lạy Đức Thế Tôn! Đấng Từ bi cao cả làm Thầy cho hết thảy trời, người, hôm nay chúng con tới đây cúi xin Ngài chỉ dạy cho một lối tu hành thoát khổ trong sáu thú, được an vui đạo Niết bàn?

Khi đó Ngài cũng tùy theo căn khí của họ, thuyết cho họ nghe những pháp thích hợp với tâm lượng của họ, nên hai người đều chứng được đạo quả rồi cúi đầu lễ tạ trở về trời.

Sáng hôm sau buổi trà nước dâng Phật vừa xong, giữa lúc bầu trời êm dịu, thanh khí ôn hòa, trong cuộc thư nhàn vấn đạo, tôi (A Nan) tới trước bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Tối hôm qua hai người cõi trời, lại yết kiến Ngài, coi tướng mạo, và oai nghi tốt đẹp, ánh sáng chói loà, phúc đức đầy đủ, không rõ đời trước họ tu những hạnh gì, nay được kết quả tốt lành như vậy?

Phật bảo tôi rằng:

- Này A Nan! Ông lắng nghe tôi nói: Thuở xưa đức Phật Ca Diếp ứng thế độ sinh, sau khi Ngài đã diệt độ, bấy giờ pháp đã tới thời cuối rốt (thời mạt), thuở ấy có hai người tu theo dòng Bà la môn, họ thấy công đức Pháp Bát quan trai cao cả, nên họ xin thụ trì (tu giữ), người thứ nhất nguyện sinh lên trời, người thứ hai nguyện làm Quốc vương.

Thụ rồi trở về nhà vào lúc đã quá giờ ngọ, người thứ nhất được vợ gọi ăn cơm; anh nói:

- Thôi, em ăn cơm đi, hôm nay anh đã thụ giới Bát quan trai của Phật dạy, cử quá giờ ngọ không ăn! Vậy anh không ăn đâu, em ăn đi, để cho sự trai giới của anh được hoàn toàn.

Cô vợ thấy chồng nói thế, bực bội cau mặt nghiến răng nói:

- Anh xưa nay thuộc dòng Phạm chí (đạo Bà la môn) đã có đủ giới pháp, cớ sao hôm nay anh lại đi thụ trai giới của đạo Phật? Nếu anh không chịu bỏ trai giới ấy, mà ăn cơm với tôi, thì tôi đem chuyện này, nói cho tất cả mọi người trong đồng đạo họ biết, họ sẽ đuổi anh ra khỏi bọn họ và chính tôi cũng không chung sống với anh nữa.

Cũng do lòng không vững chắc và nhất là nể vợ, sợ vợ! Nên anh thoái chí bỏ trai pháp, tức là phá giới "Bát quan trai", ngồi ăn cơm phi thời với vợ.

Hai người nguyện tu trai pháp ấy, tùy theo tuổi thọ dài vắn rồi cùng chết cả. Người nguyện làm vua thì được sinh vào nhà vua, vì giữ trai giới được hoàn toàn, sau sẽ được làm vua; người nguyện sinh lên trời, vì phá trai giới phải đọa sinh trong loài Rồng.

Cũng do lòng tin vững chắc, trai giới hoàn toàn thanh tịnh, người làm vua nói trên được hưởng một cuộc đời vương giả trong hoàng cung, đầy vẻ tôn sang, thỏa lòng vui sướng với năm cảnh dục lạc của thế gian! Ông vua này có một vườn cây, trong vườn trồng đủ các thứ quả, mùa nào thứ ấy; vườn này có một người trông nom, để hàng ngày dâng quả lên vua, gọi là Viên Giám, vua vẫn tin dùng anh là người có khả năng trồng cây coi vườn, tưới bón, tùy thời dâng các hoa quả. Một hôm Viên Giám ra giếng nước ngắm chơi, bỗng nhìn thấy một quả nổi trên mặt nước, quả này trên thế gian chưa từng có, sắc đẹp mùi thơm lạ thường, anh vớt lấy và đặt tên cho nó là quả nại, được quả quý này rồi thầm nghĩ rằng:

- Mỗi khi ta vào thành, quan Môn Giám đã chạy ra đón ta, đối với ta một cách thân mật, ta chưa có gì để đền đáp tấm lòng quý hóa ấy, vậy ta đem quả này biếu Ngài.

Nghĩ thế rồi đem quả ấy biếu Môn Giám. Quan Môn Giám được quả này cũng tự cho là một vật quý, nên không ăn, lại đem biếu ông bạn thân là quan Hoàng Môn, quan Hoàng Môn thấy quả quý cũng không ăn, lại dâng lên bà Hoàng hậu, để mua lấy tấm lòng ưu đãi của bà. Bà thấy quả đẹp lạ thơm khác đời, nên bà dâng lên vua dùng. Nhà vua dùng quả này thấy ý vị, mùi thơm từ thuở sinh đến nay chưa từng ăn thứ quả nào được ngon như vậy, liền gọi bà lên hỏi căn do:

- Này bà! Quả mà tôi vừa ăn xong, ngon lắm! Tôi chưa từng thấy quả nào quý như vậy, quả này ai cho?

Phu nhân đáp: - Tâu Bệ hạ! Quả này do quan Hoàng Môn dâng.

Cho gọi quan Hoàng Môn.

Nhà vua hỏi: - Quả này mua tại xứ nào?

Đáp: - Tâu Bệ ha! Quả này nhà hạ thần không có, hôm qua quan Môn Giám cho con, xin bệ hạ khoan thứ.

Cho gọi Môn Giám, vua hỏi:

- Quả ngươi cho Hoàng Môn hôm qua là quả gì, mua ở đâu?

Đáp: - Tâu Bệ hạ quả đó nhà hạ thần không có, hôm qua quan Viên Giám cho, xin Bệ hạ lượng thương.

Cho gọi Viên Giám, hỏi:

- Viên Giám trong vườn của ta có những thứ quả ngon lành như thế, sao không đem dâng ta lại đem cho kẻ nào?

Đáp: - Tâu Bệ hạ quả này trong vườn không có giống trồng, hôm qua hạ thần ra giếng thấy nổi trên mặt nước, xin Bệ hạ thương xét.

Nhà vua nói: - Từ ngày mai trở đi ngày nào ngươi cũng phải đem quả này dâng cho ta, nếu không thì ngươi bị tử hình.

Viên Giám nghe xong chết điếng người, mắt xanh lè, run sợ toát mồ hôi lễ tạ, trở về vườn, tiu nghĩu một mình, sầu khổ một mình! Không biết kêu ai cho mình thoát được cái oan ức ấy? Anh òa lên khóc, đương khóc có người tới hỏi:

- Anh có việc chi lo sợ hãi hùng như vậy? Anh nói cho tôi biết, nếu có thể giúp được tôi sẽ giúp anh!

Đáp: - Thưa bác, tôi là một người coi vườn cho nhà vua, chịu trách nhiệm trông coi vườn quả và hàng ngày dâng quả cho nhà vua dùng, hôm qua tôi bắt được một quả nổi trên mặt giếng, vì thấy quả lạ, quý nên tôi không ăn, đem biếu quan Môn Giám, sau quả đó đưa tới vua; vua ăn thấy ngon lành, giờ đây bắt tôi ngày nào cũng phải dâng, nếu không dâng thì bị tử hình, tôi không biết tìm đâu ra được nên tôi khóc.

- Thôi anh khỏi lo nữa! Nhà tôi có rất nhiều, tôi sẽ cho anh một mâm dâng vua.

Nói xong Từ biệt ra về. Viên Giám vui mừng an lòng đã có người cứu mình. Chính người này là con Rồng hóa hiện ra thân người để hỏi thử chơi đó thôi.

Một lát anh đã đội lên một mâm đầy quả ngon lạ dưới Long cung, thuần những quả trên thế gian không có, trao cho Viên Giám và dặn rằng:

- Khi anh dâng mâm quả này lên vua thì anh nói rằng: Tôi với nhà vua vốn là bạn thân với nhau, đời trước ở dòng Phạm chí, cùng nhau thọ pháp "Bát quan trai", mỗi người có một bản nguyện: Nhà vua tu hành giữ giới hoàn toàn được làm nhân vương, tôi không giữ được toàn, nên phải đọa sinh vào loài Rồng, chịu nhiều cực khổ, thân thể xấu xa, giờ đây tôi muốn tu theo Trai pháp, để cầu bỏ thân này sinh về cõi trời. Vậy nhà vua tìm hộ cho tôi bài văn "Bát quan trai" ấy để tôi tu tập, nếu trái lời tôi, thì tôi sẽ lật đổ nước của nhà vua biến thành biển cả.

Viên Giám mừng rỡ; hai tay cất lấy mâm quả trịnh trọng cảm ơn, dâng mâm quả ấy lên vua và trình bày những lời của Rồng dặn cho vua nghe.

Nhà vua nghe xong, trong tâm thổn thức không yên, trống ngực đập liên hồi, vẻ mặt mất vui tươi! Tại sao thế? Là vì thời đó không có kinh của Phật. Nhà vua đêm ngày âm thầm lo nghĩ cho chính mình và tánh mạng cả một nước, nhưng không tìm được một phương tiện gì để giải quyết, trong lúc đương ngồi suy nghĩ, thì thấy một ông quan Đại thần vào chơi, ông này là một người quan trọng nhất thời đó. Nhà vua liền đem câu chuyện Rồng đòi xin văn "Bát quan trai", nói cho ông nghe và nhờ ông tìm hộ.

Ông thưa rằng: - Tâu Bệ hạ! Đời này không có Phật pháp, thì không thể tìm đâu ra được.

Nhà vua nói: - Việc này khanh phải chịu khó tìm cho bằng được, nếu không tìm được thì khanh cũng chết, ta cũng chết, cho đến toàn quốc cũng chết, vậy việc này ta giao cho khanh phải chịu trọng trách!

Theo lời vua truyền xong, ông bái tạ ra về. Ông là người rất có hiếu với cha già, mỗi khi ông đi đâu về, ông cũng làm ra vẻ mặt tươi, để cho cha ông yên lòng, mừng con được an lạc! Nhưng ngày hôm đó ông không thể nào làm nét mặt của ông tươi được nữa! Cha ông thấy thế hỏi ông rằng:

- Hôm nay con vào chầu vua có việc gì bất trắc mà lo buồn như vậy, nói cho cha biết với!

Đáp: - Thưa cha! Hôm nay nhà vua truyền cho con phải tìm bài văn "Bát quan trai" của Phật giáo, nếu không tìm được thì nguy cả một nước nên con lo quá! Mà con không thể nào gượng sầu làm vui được!

Người cha nói: - Con ạ! Cái cột nhà ta, thường thường cha nhìn thấy có ánh hào quang hiện lên, con bảo người phá ra xem trong đó có vật gì?

Nghe lời người cha nói, ông sai gia nhân lấy cây cột khác thay vào và bổ ra được hai quyển kinh: Một quyển nhan đề là "Thập Nhị Nhân Duyên", một quyển nhan đề là "Văn Bát Quan Trai". Thấy thế, ông vui mừng quá! Vội đem dâng vua, nhà vua cũng hoan hỷ cảm ơn, sai người chép lấy một quyển để lại, còn một quyển giao cho Viên Giám biếu Rồng. Rồng được kinh cũng rất hài lòng với nguyện ước! Trở về đem rất nhiều bảo vật dưới Long cung tạ ơn nhà vua.

Từ đó Rồng chuyên tu trai giới, lúc chết được sinh lên trời, nhà vua cũng chăm tu trai giới, sau khi mạng chết cũng được sinh lên trời, hai người này cùng ở với nhau một nơi. Nói tới đây Ngài lại nhắc cho tôi biết rằng:

Này A Nan! Hai người trời đó, chính là hai người dòng Phạm chí thụ giới "Bát quan trai" thuở xưa ấy, hôm qua tới đây nghe ta thuyết pháp chứng quả Tu đà hoàn cắt đứt ba đường ác, là Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc sanh, đời đời thường được sinh trong cõi trời, cõi người. Từ đây trở đi hai người này sẽ được đạo Niết bàn.

Phật thuyết nhân duyên của hai người xong, tất cả trong đại hội ai ai cũng vui mừng! Kính tin phúc tu của Bát quan trai giới, đều hoan hỷ phụng hành lễ tạ lui ra.

 

4/ Phẩm thứ tư ĐI Ở LẤY CÔNG CÚNG DÀNG

Chính tôi được nghe: Một lần đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà.

Thuở đó nước Xá Vệ có một Trưởng giả, sinh được đứa con trai mặt mũi tốt tươi dáng người xinh đẹp; mới sinh đã biết nói ngay. Nó tự hỏi rằng:

- Thưa mẹ! Đức Phật có còn tại thế không?

Đáp: - Ôi! Sao con biết nói sớm thế? Ai dạy mà con đã biết nói? Con hỏi Phật làm chi? Phật hãy con ở đời con ạ!

Nó lại hỏi: - Thưa mẹ, Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả A Nan có còn không mẹ?

Đáp: - Các Tôn giả hãy còn đây con ạ!

Cả nhà họ thấy cậu bé biết nói ngay, ai cũng ồn ào hỏi nhau, nghi nghi hoặc hoặc, chắt môi chắt miệng cho là quái gở? Rồi ông bố cậu đi hỏi Phật; tới chốn Phật, làm lễ xong, quỳ xuống bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Con mới sanh được đứa cháu trai biết nói ngay, không hiểu hay dở thế nào? Kính xin Ngài chỉ giáo cho chúng con được đoạn lòng nghi hoặc ấy?

Phật dạy: - Nhà ngươi có phúc đấy, đứa trẻ này có tướng tốt đẹp, sau sẽ làm cho gia đình được tôn vinh trên cõi nhân, cõi thiên nhiều lắm! Không nên hoài nghi làm chi, ngươi cứ an tâm, nuôi nó cho cẩn thận là hơn.

Theo lời Phật dạy ông rất vui mừng! Ông trở về, nó lại nói với ông ấy rằng:

- Thưa cha! Con rất muốn thỉnh Phật và chư Tăng tới nhà cúng dàng, vậy xin cha mẹ vì con sửa soạn giường tòa cho đẹp trang nghiêm, để ấn định ngày thỉnh.

Đáp: Thỉnh Phật và chư Tăng không phải dễ đâu! Để cha sắm sửa các món ăn, khi nào đầy đủ cha sẽ thỉnh Phật về nhà cho con cúng dàng.

Đứa trẻ nói: - Thưa cha! Các vật dụng về sự cúng dàng, cha không phải sắm chi hết, cha sai người quét dọn và bao sái nhà cửa cho sạch sẽ, bày bàn ghế tòa ngồi, giường chiếu cho trang nghiêm, bát đĩa cho trong sạch, mâm bàn dụng cụ về bữa ăn cứ sắp đặt sẵn, còn về món ăn con đã có đầy đủ. Hiện nay bà thân mẫu con hãy còn ở nước Ba La Nại, xin mời lại đây cho con, và bày cho con ba tòa cao đẹp.

Người cha nghe con nói lấy làm vui vẻ lắm! Ông sai người cỡi voi đi đón bà mẹ ở nước Ba La Nại về, trong nhà bày tòa trải chiếu trang nghiêm mâm bàn, bát đĩa, cốc chén bày trên sồi có thứ tự, bày xong các món ngon lạ, bao thứ ăn uống tự nhiên đầy đủ. Bày ba tòa cao đẹp, tòa thứ nhất để cúng Phật, tòa thứ nhì để bà mẹ ở nước Ba La Nại ngồi, tòa thứ ba để bà mẹ hiện tại ngồi, các việc được chu đáo ổn định rồi, người cha thân đi mời Phật, tới nơi lễ Phật và bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con cả gia đình thành kính sửa soạn trai nghi, đúng giờ ngọ ngày mai, xin kính thỉnh Thế Tôn và các hàng Tăng chúng tới nhà thụ trai và tác phước cho chúng con được ân triêm công đức.

Phật dạy: - Quý hóa! Có lòng cầu thỉnh ta sẽ nhận tâm thành ấy cho.

Ông vui vẻ ra về, ngày mai đúng giờ ngọ Phật và Tăng chúng đến đông đủ, thăng tòa ngồi yên tĩnh, ông ta và hai bà mẹ cậu bé ra lễ Phật, thỉnh Phật và chư Tăng thọ trai. Phật dùng trai xong thăng tòa thuyết pháp được thấm nhuần đức hóa của Phật, cả nhà đều chứng sơ quả, vui mừng tạ lễ lui ra.

Cậu bé này sau lớn tuổi, cũng xin đi xuất gia tu đạo, cậu rất chăm chỉ tu hành không bao lâu đã chứng được quả A la hán.

Thấy việc như vậy, tôi (A Nan) quỳ xuống bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Cậu bé này vì duyên gì, được sinh vào nhà giàu có, tôn sang? Và biết nói ngay? Hơn nữa lại được đắc đạo quả? Kính xin Ngài chỉ giáo để chúng con được rõ!

Phật dạy: - Này A Nan! Cậu bé này, tiền thân ở nước Ba La Nại là con một ông Trưởng giả, sau khi cha chết, gia nghiệp bị suy tàn, ngày một nghèo thiếu. Tuy được gặp Phật tại thế, nhưng không có gì để cúng dàng vì thế nên anh ta lúc nào cũng buồn. Sau tự đi làm mướn được một năm, anh xin chủ một lạng vàng. Người chủ thấy anh xin vàng bèn hỏi:

- Anh lấy vàng để cưới vợ hay sao?

Đáp: - Thưa không!

Hỏi: - Anh lấy vàng làm gì?

Đáp: - Thưa! Để mua các món ăn, dâng Phật và các vị thánh Tăng.

Ông chủ nói: - Nếu anh muốn thỉnh Phật và chư Tăng, thì ta cũng ưng lắm! Ta sẽ làm những cỗ bàn, và ta đi mời Phật về nhà ta cho anh cúng, có ngại chi việc đó.

Đáp: - Dạ quý hóa lắm! Nếu ông bà có lòng vì tôi như vậy, thì phúc đức vô lượng vô biên!

Ông chủ sai người sắm lễ vật, sửa soạn trai nghi, trịnh trọng, rồi sai người đi thỉnh Phật và các vị thánh Tăng để cúng dàng.

Nói tới đây Phật lại nhắc lại cho tôi hay rằng:

- Này A Nan! Người nghèo đi làm mướn thuở đó, chính là cậu bé này, vì có lòng cúng Phật và Tăng một bữa cơm, sau khi chết được sinh làm con ông Trưởng giả, cũng nhân phúc đó nay đắc quả A la hán, từ đây sẽ được cõi người, cõi trời cúng dàng.

Khi Phật nói xong câu chuyện này, tất cả mọi người trong đại hội ai ai cũng vui vẻ, tin kính sự cúng dàng được phúc vô lượng vô biên, thảy đều lễ Phật mà lui.

 

5/ Phẩm thứ năm THẦN BỂ VỚI NGƯỜI ĐI BUÔN

Chính tôi được nghe: Một lần đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà.

Thuở đó trong nước có năm trăm người đi buôn, định ra biển tìm châu báu. Nhưng sự ra biển có rất nhiều hiểm trở khó khăn! Vì thế họ bàn nhau tìm một người đủ tài đức để dẫn đường cho họ. Sau họ tìm được người Ưu bà tắc ông này trì ngũ giới và có tài biện thuyết nhanh chóng.

Khi ra đến biển một trời, một nước, ông thần bể biến thành còn quỉ Dạ xoa hình thể xấu xa, mắt xanh lè, răng chìa ra ngoài, trên đầu lửa cháy dữ dội, tới nơi nắm thuyền lại hỏi:

- Này các ông trong thuyền! Trên thế gian có người nào đáng sợ như tôi không?

Người Ưu bà tắc đáp: - Dạ! Thưa ông! Có rất nhiều người đáng sợ gấp trăm ngàn triệu ông, đối với ông có chi đáng sợ.

Dạ xoa hỏi: - Kẻ đó sợ như thế nào?

Đáp: - Là những kẻ ngu si làm những việc bất thiện, nào sát sinh, hại mạng, trộm cướp, dâm dật vô độ, nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói ác, nói đơm đặt, tham dục, giận tức, đắm chìm nơi tà kiến, những kẻ đó chết phải sa xuống Địa ngục, chịu khổ muôn phần, quân ngục tốt bắt kẻ có tội ấy, đem ra nhiều thứ để hành phạt, hoặc lấy dao chém, hoặc lấy xe nghiền cho tan thân nát thể ra hàng ngàn vạn đoạn; hoặc bỏ vào cối giã, hoặc bỏ vào cối xay, còn có những hình phạt như: Núi dao, rừng kiếm, xe lửa, vạc nước xôi, nước giá lạnh. Tất cả những bình phạt nói trên, kẻ có tội ấy phải chịu trải qua vài ngàn muôn năm. Như thế mới đáng sợ hơn ông.

Quỉ Dạ xoa nghe xong buông thuyền cho đi, rồi ẩn mình biến mất, thuyền tiếp tục đi được vài dặm, ông thần bể lại hóa ra một người hình thể gầy gò đen xấu, gân lộ, da sát xương tới nắm thuyền kéo lại hỏi:

- Này các ông trong thuyền, trên thế gian có kẻ nào xấu hơn tôi không?

Ông Ưu bà tắc đáp:

- Dạ thưa ông! Có rất nhiều người xấu gấp trăm ngàn vạn triệu ông, đối với ông chi đáng xấu!

Ông thần bể lại hỏi:

- Người đó xấu như thế nào?

Đáp: - Dạ thưa ông! Là những kẻ ngu si, lòng dạ ác độc, tham lam nịnh hót, ghen ghét, bợ đỡ, tích cóp, làm hạnh xấu không có thẹn hổ, có tiền của không nuôi cha mẹ vợ con, thậm chí thân mình cũng không dám ăn mặc, khinh mạn giáo pháp, không biết kính trọng đạo đức, không biết nghe theo lẽ phải, có tính gian lận và không có tâm thương những người đói khát, không biết làm hạnh bố thí, kẻ đó khi chết phải đọa làm loài quỉ đói, muôn ngàn vạn triệu triệu năm đói khát, không biết miếng cơm ngụm nước ra sao! Thân thể hôi thối có những con vi trùng cắn rứt đau đớn suốt ngày đêm, lửa trong mồm phát ra dữ dội; trên đầu có những mụn nhọt luôn luôn chảy, tưới những máu mủ xuống mặt, mắt, mồm thè lưỡi liếm ăn. Kẻ đó mới xấu, mới đáng thương họ ngu si, còn như ông chưa phải là xấu.

Ông thần bể nghe xong, lại buông thuyền cho đi rồi ẩn mình biến mất. Thuyền đi chưa được bao xa, ông thần bể lại biến hình thành một người cực kỳ xinh đẹp. Nắm thuyền lại hỏi:

- Này! Các ông trong thuyền, trên thế gian có ai xinh đẹp bằng tôi không?

Đáp: - Dạ thưa ông! Có rất nhiều người đẹp, gấp trăm ngàn vạn triệu triệu ông, đối với ông có chi đáng đẹp.

Ông thần bể lại hỏi:

- Họ đẹp hơn tôi bằng cách nào?

- Dạ, thưa ông! Trên thế gian có những người thông minh trí tuệ, chăm làm các việc thiện: Thân, miệng, ý ba nghiệp thường thường trong sạch, biết tôn kính ngôi Tam bảo, tùy thời cúng dàng. Người ấy khi mạng chung được sinh lên trời, thân thể trong sáng tướng mạo oai nghiêm, phúc đức và thể lực đầy đủ, như thế mới là đẹp, đem cái đẹp của ông đối với họ cũng chẳng khác chi đem con khỉ mù mà ví với cô gái tươi trẻ vậy! Như ông đã lấy gì làm đẹp!

Ông thần bể lại bốc vốc nước bể hỏi:

- Nước trong bàn tay nhiều hay nước bể nhiều?

Đáp: - Dạ thưa ông! Nước trên bàn tay nhiều hơn!

Hỏi: - Vì lý do gì nước trong bàn tay nhiều, xin ông hãy giải đáp cho?

- Dạ thưa ông! Nước bể tuy nhiều nhưng rồi đây cũng có ngày khô cạn, khi trời tai kiếp đến bắt đầu hai mặt trời ra, thì ngòi lạch suối ao khô cạn! Ba mặt trời ra, thì các sông lớn và các bể nhỏ cạn! Năm mặt trời ra thì nước bể lớn đã giảm bớt! Sáu mặt trời ra, thì ba phần giảm hai! Bảy mặt trời ra, thì nước bể cạn hết tiếp đến núi Tu Di tan đổ cho đến đáy kim cương dưới quả địa cầu cũng đều cháy rụi. Nếu kẻ nào có tâm tin sự cúng dàng Phật! Hoặc các vị Sư Tăng, hay cha mẹ hoặc kẻ ăn xin hoặc cho loài cầm thú. Thì công đức ấy trải bao kiếp cũng không mất. Thưa ông, ý nghĩa nhiều ít là như vậy!

Ông thần bể nghe xong vui mừng khôn xiết! Đem tặng ông Ưu bà tắc một số châu báu ở long cung và gửi thêm một số báu vật về cúng Phật rồi ẩn hình biến mất.

Tới đây mọi người lái buôn thâu lượm vàng bạc trở về nước nhà, chia cấp cho gia đình rồi cùng nhau đi yết kiến Phật, đem châu ngọc của ông thần bể dâng cúng Phật, và chư Tăng rồi quỳ xuống bạch Phật rằng:

- Kính thưa đức Thế Tôn! Thân người khó được, Phật Pháp khó gặp, chúng con sinh thời may mắn được gặp Thế Tôn, tới đây một lòng thành cầu xuất gia tu học để thoát khỏi sinh tử luân hồi, kính xin Từ bi tế độ cho chúng con được ân triêm công đức.

Đức Phật Ngài hoan hỷ nói rằng:

- Thiện lai Tỳ kheo!

Phật nói dứt lời, tóc của những người này đều rụng hết, áo trên mình tự nhiên biến thành áo Cà sa, sau nghe Phật thuyết Pháp, tâm dục nhiễm đều sạch không, ngay giờ phút đó họ chứng được quả La Hán.

Thấy thế mọi người trong đại hội ai ai cũng vui mừng, lòng tin kính cúng dàng lại thêm vững chắc, cúi đầu lễ tạ lui ra.

 

6/ Phẩm thứ sáu CẦU TỰ

Chính tôi được nghe: Một lần Phật ờ nước La Duyệt Kỳ, tại Tinh xá vườn Trúc.

Nước ấy có quan Phụ tướng, nhà rất giàu sang, nhưng không có con trai. Tại vùng đó có đền thờ thiên thần ở bên sông, gọi là Ma Ni Bạt La, nhân dân quanh miền ấy tin sùng lễ bái cầu sao được vậy. Hay tin thần thiêng, quan Phụ tướng tới đền làm lễ và cầu nguyện rằng:

- Thưa Ngài, tôi chưa có con trai, nghe biết thiên thần công đức cô lượng, cứu hộ quần sinh, ai cần gì cũng được như ý nguyện. Vậy tôi tới đây cầu xin thiên thần, năm nay sinh quý tử, nếu được như lời nguyện, tôi sẽ lấy vàng bạc để điểm tô thân Ngài, và các hương tốt để bôi nơi miếu Ngài, bằng vô hiệu quả, tôi sẽ phá miếu và lấy phân trát vào mình Ngài.

Quan Phụ tướng kêu xong lễ tạ ra về.

Khi đó quan Giám điện nghe xong, toát mồ hôi thầm nghĩ rằng: "Người này hào phú, thế lực hùng cường, tới đây cầu xin quý tử, ta thiếu đức làm sao cho đặng, nếu không giúp được hắn thì hắn làm ô nhục". Nghĩ rồi lên tâu với thần Ma Ni Bạt La:

- Kính tâu thiên thần chúng tôi vâng lệnh coi đền, hôm qua quan Phụ tướng nước La Duyệt Kỳ đến nói rằng: Xin thiên thần cho sinh quý tử, nếu được như lời, thì lấy vàng bạc điểm tô thân Ngài, và lấy các thứ hương tốt để bôi nơi miếu Ngài, bằng vô hiệu quả, sẽ phá miếu và lấy phân trát vào mình Ngài, việc đó hạ thần bất lực xin thiên thần chỉ giáo cho?

Nghe xong, thần Ma Ni Bạt La lên tâu với ông Tỳ Sa môn Thiên vương.

Tỳ Sa môn Thiên vương nói: - Việc này để ta lên tâu vua Đế Thích, chứ ta cũng bất lực. Nói rồi bay lên cung trời Đao Lợi tâu vua Đế Thích rằng:

- Kính tâu Thiên Đế! Tôi có một hạ thần tên là Ma Ni Bạt La lên kêu rằng: Quan Phụ tướng tại thành Vương Xá cầu xin quý tử, và hẹn nếu được như lời thì xin cúng dàng trọng hậu, bằng không sẽ phá miếu, và hủy nhục, kính mong Thiên Đế cứu giúp.

Nhân lúc trên trời có người sắp tận số. Đế Thích cho gọi tới bảo rằng:

- Ta xem Khanh sắp tới ngày mệnh hết, hiện nay quan Phụ tướng ở thành Vương Xá đương cầu tự, vậy sau khi Khanh mệnh chung thì thác sinh vào nhà đó an hưởng sự vinh hoa phú quý.

Đáp: - Kính tâu Thiên Đế! Cái bả phú quý hay làm mê hoặc lòng người, nhân sự vinh hoa phú quý khiến bao người sa xuống hố sâu, ý định của hạ thần muốn sinh vào nhà dân thường, để dễ bề xuất gia tu đạo, cho thoát khỏi sinh tử luân hồi, là hơn nhất, xin bệ hạ tha thứ!

Đế Thích nói: - Không lo, Khanh hãy nghe ta sinh vào nhà đó, rồi ta giúp chớ ngại.

Đáp: - Dạ muôn tâu bệ hạ! Lời thánh chỉ hạ thần không dám trái, nhưng xin bệ hạ luôn luôn giúp đỡ cho, kẻo sợ tham về phú quí mà bỏ mất đại nguyện.

Đế Thích nói: - Khanh yên trí không sao.

Nói xong lễ tạ ra về, ít ngày mệnh chết, thần hồn thác thai vào nhà quan Phụ Tướng.

Đoạn này nói đến Phụ Tướng Phu nhân, sau ngày cầu tự trở về không lâu bà đã có thai, mãn tháng no ngày tới tuần hoa nở, sinh được cậu con trai đầy đủ tướng đức, ông bà yêu quý lắm. Từ khi sinh cậu trong nhà thấy nhiều điềm ứng cát tường, sự trông nom săn sóc một cách phi phàm, một hôm ông bà mời Thầy đến xem tướng cho cậu và nhờ đặt tên giùm. Tướng sư đến căn do, rồi đặt cho cậu là Hằng Gia Đạt. Một mai khôn lớn học hành thông sáng nhưng có một điểm cậu ham học đạo và ham nghe đạo các vị Sa môn giảng, được thấm nhuần đạo đức, thấy đời không có gì vững chắc như mây trôi, như bọt nổi nên cậu quyết tâm xuất gia tu đạo, để cầu giải thoát, rồi lên tâu với ông bà Phụ tướng rằng:

- Kính lạy song thân, được làm người là khó, được gặp Phật tại thế lại khó hơn nữa, hiện nay đức Phật ra đời, mục đích cứu người ra khỏi vòng trầm luân khổ hải. Vậy xin song thân cho con đi xuất gia tu đạo, được phúc vô lượng vô biên.

Đáp: - Con ơi! Việc tu đạo cũng tốt nhưng con khổ cực chi, mà đày thân hoại thể nơi chùa chiền, muối dưa khô quạnh, cha làm quan Phụ tướng quyền cao, giàu sang tội bực, quốc gia chưa ai sánh kịp, cha mẹ chỉ sinh được mình con, để nối nghiệp nhà, nay con đi xuất gia thì của này để cho ai, và nhất là cha mẹ già sớm hôm vò võ, lấy ai là người trông cậy lúc bình sinh cho vui ý chí.

Hằng Gia Đạt thấy ông bà không đồng ý với ý nguyện của mình, bèn lễ tạ lui ra, từ ngày đó ngày đêm âu sầu buồn bã! Rồi tự nghĩ rằng:

- Ta sẽ tự sát thân này đi, để sinh vào nhà thường dân mới đạt được chí nguyện xuất gia của ta.

Nghĩ rồi một mình ra đi, lên ngọn núi cao tự gieo mình lăn từ trên đỉnh núi xuống chân núi, tưởng làm thế cho chết, nhưng trái lại thân thể vẫn còn toàn vẹn không xây sát chút nào; lần này ra sông để tự vẫn, nhưng nhảy xuống không chìm, cuối cùng lấy thuốc độc uống, song cũng không chết, rồi dùng đủ cách để chết, nhưng cũng không chết được, sau định kế phạm quốc pháp cho vua giết. Một hôm Hằng Gia Đạt thấy Hoàng hậu và mỹ nữ của nhà vua ra giếng nước giữa vườn tắm, họ cởi áo giắt trên cành cây rồi xuống giếng, anh lẻn vào trộm lấy quần áo và trang phục đem ra, người Môn giám bắt anh tâu vua A Xà Thế.

- Nhà vua nổi giận sai người đem ra pháp tràng xử tử, thoạt đầu sai người giương cung bắn, mỗi khi bắn thì cái tên quay đầu trở lại nhà vua, bắn luôn ba phát đều như thế cả. Nhà vua chột dạ hỏi rằng:

- Nhà ngươi là bộ thiên, bộ long hay quỷ thần mà có phép lạ như vậy?

Đáp: - Tâu Bệ hạ tôi có một việc riêng, nếu Bệ hạ giúp tôi được thì tôi xin nói.

Nhà vua hỏi: - Ngươi có việc gì cứ nói, nếu ta giúp được thì ta giúp.

Tâu Bệ hạ! Tôi chẳng phải là thiên long quỷ thần chi hết, chính tôi là con quan Phụ tướng bản triều, vì muốn xuất gia tu học nhưng cha mẹ tôi không cho, nên tôi muốn chết để sinh nơi khác, cho toại nguyện vọng ấy, vừa rồi tôi lên núi, gieo mình xuống vực sâu, và uống thuốc độc nhưng vẫn không chết, còn một kế là tôi phạm pháp để mong nhà vua xử tử thì mới đạt được nguyện vọng ấy, sự thể như vậy, kính xin bệ hạ lượng thương, truyền lệnh cho cha mẹ tôi, để tôi được xuất gia đầu Phật.

Đáp: - Việc ấy không khó con cứ an tâm, ta sẽ bảo Phụ tướng cho.

Qua thời gian sau nhân buổi đi thính pháp nhà vua dẫn cậu đến chốn Phật, tới nơi làm lễ xong nhà vua trình bày ý nguyện của Hằng Gia Đạt cho Phật nghe, Phật mỉm cười nói:

- Thiện lai Tỳ kheo.

Hằng Gia Đạt nghe dứt lời tự nhiên tóc rụng hết, áo trên mình biến thành áo Cà sa, thành tướng Tỳ kheo, sau nghe Phật thuyết pháp, tâm ý khai ngộ chứng La Hán quả, được ba phép "Minh", sáu pháp "thần thông", tám phép "giải thoát".

Thấy thế vua A Xà Thế quì xuống bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Hằng Gia Đạt trồng nhân lành gì, gieo đầu từ trên núi xuống mà không chết, nhảy xuống sông không chìm, uống thuốc độc không hại, tên bắn không trúng, hơn nữa lại gặp Thế Tôn được thoát khỏi sinh tử luân hồi đại khổ, xin nói cho chúng con được rõ?

Phật dạy: - Cách đây đời quá khứ đã vô số kiếp, có một nước lớn tên là Ba La Nại, vua nước ấy là Phạm Ma Đạt, một hôm đưa các người mỹ nữ trong ấy là Phạm Ma Đạt, một hôm đưa các người mỹ nữ trong cung vào rừng uống rượu ăn thịt, thưởng thức những khúc đàn hay, tiếng nhạc xéo, giọng hát cao, đương lúc các mỹ nữ cất tiếng ca khúc thì bên ngoài có người cất tiếng để họa lại. Nhà vua nghe thấy nổi giận sai người bắt rồi giao cho lính đem đi xử tử.

Vừa lúc ông quan đại thần đi chơi về bắt gặp, ông hỏi họ rằng: Người này tội gì?

Đáp: - Dạ bẩm quan lớn! Anh này bị tội họa lại giọng hát của các mỹ nữ.

Nghe xong ông thầm nghĩ: "Chà, có thế mà cũng giết người! Thực là vô lý quá". Ông nói:

- Hãy khoan để ta vào tâu vua đã.

Ông vào tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, kẻ kia chưa đến tội chết, vì chưa lấy gì làm nặng lắm, tuy có họa lại tiếng nhưng chưa thấy hình và cũng không có sự giao thông dâm dục, cúi xin Bệ hạ tha cho hắn tội chết.

Nghe nói có lý, nhà vua hạ lệnh tha cho người đó tội chết. Muốn đền đáp ân cao cả ông Đại thần, từ đó anh ta đến hầu hạ phụng sự một cách tôn kính đã lâu năm, giữ một lòng trung thành, trước sau như một, rồi thầm nghĩ như vậy:

Sự dâm dục giết người ta hơn dao kiếm sắc, trước đây ta suýt chết cũng do lòng dục vọng phát động. Rồi thưa với ông rằng:

- Kính thưa ông! Chúng tôi tự nghĩ sự sinh tử vô thường nhanh như chớp nhoáng, như đèn ở trước gió, như giọt sương trên đầu ngọn cỏ, sớm có chiều không, thân này chẳng lâu sẽ vào cửa chết. Vì vậy chúng tôi xin ông để đi tầm đạo giải thoát.

Đáp: - Việc ấy rất hay, nếu học đạo được thành công thì đến đây cho tôi gặp mặt một lần nữa.

Bắt đầu lên núi tu học, chuyên tâm suy xét đạo lý, không bao lâu tinh thần tự nhiên khai ngộ, hiểu thấu nguồn chân, thành ngôi Bích Chi Phật, và giữ lời hứa trước nên Ngài trở về nhà ông quan Đại Thần, và hiện ra mười tám pháp thần thông: bay trên hư không mình phun ra nước lửa, hoặc phóng đại quang minh chói lòa khắp trời đất, ông Đại Thần coi Thầy phép thần cao siêu, trong lòng vui vẻ, kính trọng và khấn rằng:

- Kính lạy Ngài, tôi có phúc duyên được cứu Ngài năm trước, vậy xin cho tôi đời đời được phú quý tràng thọ cao đẹp hơn đời, và trí tuệ đức tướng của tôi cũng được như Ngài.

Nói tới đây đức Phật lại nhắc cho vua A Xà Thế biết rằng:

- Nhà vua nên biết quan Đại Thần cứu sống một người thuở đó, nay chính là Hằng Gia Đạt. Bởi duyên lành ấy nên sinh vào nơi nào cũng không bị chết yểu, và cũng do phúc duyên ấy mà nay được gặp ta chứng đạo giải thoát.

Phật nói xong, tất cả mọi người trong Đại Hội ai rấy đều kính tin vui mừng cúi đầu lễ tạ lui ra.

 

7/ Phẩm thứ bảy THÁI TỬ TU XÀ ĐỀ

Chính tôi được nghe: Một lần Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại Tinh xá vườn Trúc.

Bấy giờ đức Phật và tôi (A Nan) vào thành khất thực gặp hai ông bà già đã lòa đôi mắt, nhà nghèo ở trú dưới cổng thành. Ông bà chỉ được một cậu con trai năm ấy mới lên mười tuổi, hàng ngày cậu phải đi xin để nuôi cha mẹ, được quả gì tươi chín, hoặc thức ăn ngon thì dâng cha mẹ, còn thứ gì không ngon thì mình ăn.

Tôi thấy đứa bé hiếu thảo với cha mẹ như vậy, động lòng thương và yêu nó lắm! Sau lúc về Tinh xá tôi bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Vừa đây con đi theo hầu Ngài vào thành Xá Vệ, thấy một đứa bé con, biết báo hiếu, đi xin được món gì ngon thì để dâng cha mẹ, món gì dở để mình dùng, còn nhỏ dại mà đã có Từ tâm hiếu kính như vậy, thực là hiếm có.

Phật bèn dạy rằng:

- Người xuất gia hoặc tại gia có Từ tâm hiếu dưỡng với cha mẹ thì được phúc vô lượng vô biên, ta tự nhớ rằng thời quá khứ có một lần cắt thịt nuôi cha mẹ trong lúc đói khát nguy nạn! Bởi công đức ấy ta sinh lên trời được làm Thiên Đế, sinh xuống nhân gian được làm Thánh Vương, cho đến nay được thành Phật, đặc tôn trong ba cõi cũng do phúc ấy.

Thấy Phật nói thế, tôi hỏi Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Thời quá khứ Ngài cắt thịt nuôi cha mẹ trong lúc nguy nạn, việc đó thế nào xin nói chúng con được rõ?

- Này A Nan: Ông hãy để ý nghe! Cách đây vô lượng vô số kiếp, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một nước lớn tên là Đặc Xoa Thi Lợi. Ông vua nước ấy tên là Đề Bà, được mười con trai, mỗi người cai trị một nước, người con trai út tên là Tu Đề La Chi, (Tàu dịch là Thiện Trụ) trị dân được an lạc, giàu thịnh mưa gió thuận hòa, thái bình thịnh trị nhân dân mến chuộng.

Thời đó ở nước vua cha có quan Đại Thần tên là La Hầu, tính hung ác tàn bạo, nổi dậy làm phản cướp ngôi giết vua rồi đem quân đi giết Thái tử ở các nước nhỏ. Thái tử út là người có đức lớn, nên các bộ quỉ thần thường hay ủng hộ, hôm ấy nhà vua ra vườn chơi chợt gặp một con quỉ Dạ xoa, rẽ đất chui lên thưa rằng:

- Là Hầu Đại Thần làm phản giết vua cha rồi, đương đem quân đi giết các anh của nhà vua, nay mai sắp tới đây để giết nhà vua đó, vậy mau mau sửa soạn lánh đi nơi khác. Nhà vua gật đầu cảm ơn trở về cung, không nói cho ai biết, nửa đêm lẻn ra đi một mình, đi chưa được bao xa, sực nhớ con yêu của mình là Tu Xà Đề mới bảy tuổi, tính rất thông minh khôn sáng, trở về ẵm đi vừa đi vừa sụt sùi rơi lệ chứa chan! Bà Phu nhân thấy có vẻ lật đật lo sợ, ngạc nhiên hỏi:

- Nhà vua lo việc chi mà lật đật như vậy? Nói cho tôi biết với.

Đáp: - Việc chi bà không cần phải biết.

Bà bèn nắm vạt áo kéo lại hỏi: - Tôi với nhà vua hai thân như một, cam khổ cùng chung chịu, sống thác có nhau, điều chi xin nói cho tôi biết?

Nhà vua bất đắc dĩ nói rằng: - Hôm qua tôi ra vườn chơi gặp con quỉ Dạ xoa bảo cho biết rằng: Hiện nay ở nước nhà La Hầu đại thần đã giết mất vua cha rồi, đang đem quân đi giết các anh ta, nay mai sắp tới đây giết ta, vì thế ta không kịp nói cho ai biết.

Hoàng hậu nói: - Chao ôi! Một việc nguy như vậy mà ông nỡ bỏ tôi, chực đi một mình, thôi để tôi đi cùng, sống chết có nhau.

Nói rồi bắt đầu đi, mục đích sang nước láng giềng là một ông vua bạn thân, sang nước ấy có hai lối: Một lối đi bảy ngày, một lối đi mười bốn ngày, vì lo sợ quá nên lúc ra đi không chuẩn bị lương thực, nhà vua chỉ đem lương đủ có một người ăn trong bảy ngày, nhưng không may đi phải con đường mười bốn ngày, đi được vài hôm lương thực đã hết, đói khát mê man giữa rừng thực vô phương kế! Vì sợ Thái tử chết nên nhà vua định giết Hoàng hậu để cứu con, nghĩ rồi giục bà đi trước, rút dao định chém. Thái tử thấy vậy chắp tay thưa rằng:

- Kính lạy cha, cha cầm dao để làm gì?

Đáp: - Ta giết mẹ để lấy thịt cho con ăn kẻo con chết mất.

Thái tử thưa: - Kính lạy cha! Xin cha giết con, để ăn dùng cho qua lúc tai nạn này, cha chớ giết mẹ con, không bao giờ con lại ăn thịt mẹ, con tuy chết nhưng cha mẹ lại sinh được con khác, nếu mẹ con chết, thì không bao giờ có mẹ con lần thứ hai nữa, cứ mỗi ngày con xin cắt thịt con để dâng cha mẹ dùng cho tới nước kia.

Thấy Thái tử nói thế, nhà Vua lòng đau như cắt không biết tính kế gì, nếu không ăn thịt thì chết cả ba người cũng vô ích, nếu ăn thịt thì thương con, và nhất là sự cứu vãn nước nhà là cần thiết hơn, nghe xong nhà Vua đành nhận lời của Thái tử, cứ như thế mỗi ngày cắt hai miếng thịt ăn cho khỏi mệt mỏi, để lấy sức đi đường, đã gần hết mà chưa tới, sự đói thúc giục nghèo ngặt quá, nhà Vua cầm dao cắt thêm được chút thịt nữa, tới lúc cha con sắp chia tay thì Thái tử thưa với cha rằng:

- Thưa cha, mạng con sắp chết, vừa rồi cha cắt được chút thịt xin cho con một phần.

Nhà Vua bèn phân số thịt đó ra làm ba, hai phần để ăn, còn một phần trao cho Thái tử. Tới đây cha con từ giã nhau, nhà Vua và Hoàng hậu hai người đi không lâu đã tới nước kia. Còn Thái tử nằm trơ trên mặt đất giữa khoảng rừng xanh, khi đó Thái tử nguyện rằng:

- Kính lạy Thập Phương đại giác Tam Hùng Sư chứng minh lòng thành kính của con cắt thịt dâng cha mẹ, xin đem công đức này để cầu thành Phật, tế độ mười phương chúng sinh, hết mọi sự đau khổ, đưa chúng sinh đến cõi Niết bàn an lạc.

Phát nguyện xong ba ngàn thế giới chấn động sáu lần, cõi trời Dục Giới và Sắc Giới, ngạc nhiên không biết chuyện chi mà chuyển động cả cung điện, họ nhìn xuống nhân gian thấy Thái tử Tu Xà Đề cắt thịt nuôi cha mẹ, vì lòng hiếu thảo làm chuyển động trời đất, họ bay xuống rất đông, vì lòng hiếu của Thái tử làm cho mọi người rơi lệ thành mưa. Vua Đế Thích tự hóa thân làm đứa bé con lại xin Thái tử trao cho miếng thịt đương cầm tay, Đế Thích lại hóa ra con sư tử chồm nhảy gào thét ý muốn ăn thịt, Thái tử thầm nghĩ:

- Những loài muông thú kia, muốn ăn thịt ta thì cứ ăn, ta rất vui lòng có tiếc chi.

Vua Đế Thích thấy Thái tử một dạ bền bỉ vững chắc, liền hiện lại nguyên hình, rồi thưa rằng:

- Thưa Thái tử tôi đây là Thiên Đế, thấy Thái tử có hiếu đối với cha mẹ một cách tuyệt đãi, tất cả trời người phàm thánh không ai làm nổi, xin hỏi, Thái tử đem công đức ấy hướng về ngôi Đế Thích, Phạm Thiên, Ma Vương hay sao?

Đáp: - Thưa Ngài tôi đem công dức này hướng về cõi Phật, cầu thành Phật độ sinh, chứ không cầu làm những ông vua cõi trời, cõi người như Đế Thích, Phạm Vương, Ma Vương hay Chuyển Luân Thánh Vương để hưởng những dục lạc trong ba cõi.

Đế Thích hỏi: - Thái tử đau đớn như thế thì tâm có hối hận gì không?

- Thưa không có hối gì?

Thái tử nói không, chúng tôi không lấy gì để làm chứng tỏ.

Nếu Ngài không tin thì xin phát nguyện rằng: - Nếu tâm tôi không hối thì thân tôi lại được phục như cũ.

Tuyên thệ xong, thân thể tự nhiên lại được lành mạnh như cũ, các vết thương biến mất, da dẻ tốt đẹp thân người rạng rỡ.

Thấy sự chứng tỏ có cụ thể như vậy, vua Đế Thích và tất cả mọi người cõi trời ai ai cũng vỗ tay vui mừng và khen Thái tử chí thành, chí hiếu, rồi cùng nhau biến thân về thiên cung.

Đoạn này nói đến nhà vua khi tới nước kia vào yết kiến vua nước ấy, hai người nói chuyện với nhau hồi lâu và trình bày công cuộc đi, sự hiếu của Thái tử Tu Xà Đề cho vua láng giềng nghe, nhà vua láng giềng nghe xong, vừa thương vừa cảm động, đồng thời tất cả vua quan sĩ chúng đi thăm Thái tử, đến nơi thấy Thái tử được lành mạnh, tới trước chào mừng và thuật rõ câu chuyện để vua nghe. Thấy thế ai ai cũng vui mừng không tả xiết. Nhà vua láng giềng thấy Thái tử có sự ly kỳ như vậy, lại càng thêm phần kính trọng rồi tất cả trở về kinh thành.

Sau thời gian ấy, vua láng giềng sửa soạn binh nhung xa quân, mã quân, bộ quân. Cùng với vua Thiện Trụ và Thái tử Tu Xà Đề về bản quốc tiêu diệt bọn La Hầu, và lập Đại vương cho vua Thiên Trụ, từ đó trở đi trong nước lại được thái bình thịnh trị.

Phật nói tới đây lại nhắc cho tôi biết rằng: "Này A Nan vua Thiện Trụ thuở đó chính là tiền thân Phụ Vương của ta ngày nay (vua Tịnh Phạn), bà mẫu lúc đó chính là tiền thân của ta bây giờ (Ma Gia), Thái tử Tu Xà Đề chính là tiền thân của ta. Cũng do đời quá khứ ta có Từ tâm hiếu hạnh, cắt thịt nuôi cha mẹ trong lúc nguy nạn, bởi phúc ấy trên cõi nhân, cõi thiên ta thường được sinh vào nhà tôn quý hưởng phúc vô cùng vô tận, và nhân thế cho đến ngày nay ta được thành Phật, đặc tôn trên ba cõi.

Bấy giờ trong đại hội được nghe thuở tiền sinh của Phật, ai ai cũng cảm lòng hiếu hạnh của Ngài, thực là hiếm có. Ngay lúc ấy có người đắc quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm cho đến quả A la hán, có người phát Bồ đề tâm, có người trụ ngôi bất thoái, mọi người đều vui vẻ cúi đầu tạ lễ mà lui.

 

(Hết Quyển Một)

 

Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Hai

 

8/ Phẩm thứ tám CÔ KIM CƯƠNG

Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà.

Khi đó Phu nhân của Vua Ba Tư Nặc là Mạt Lợi, sinh được cô con gái đặt tên là Ba Xà La, (Tàu dịch là Kim Cương). Tướng người rất xấu! Da sần sù hình như da ngựa, tóc tựa long đuôi ngựa, hình vóc không giống người, chẳng khác gì quỷ Dạ xoa, thực là trên đời chưa từng có một người thứ hai như cô.

Nhà vua thấy Công chúa như vậy, lấy làm buồn giận! Nhưng, không biết làm thế nào phải giao cho một người nuôi riêng nơi nhà kín ngoài ra không dám cho ai biết.

Khi lớn tuổi nhà vua lại càng thêm khó nghĩ, chẳng lẽ nuôi con mãi, không lập gia đình, nếu gả chồng, thì sánh vào hạng người nào? Nhà vua và Hoàng hậu bàn nhau như vầy:

Vua nói: - Bây giờ con Kim Cương đã lớn tuổi, bà tính sao, có gả chồng cho nó không?

Hoàng hậu nói: - Tậu Bệ hạ! Tôi nghĩ rất khó! Trong triều văn võ bách quan, ai là người lấy nó, nếu họ nhìn thấy nó họ cũng phải chết khiếp.

Vua nói: - Tôi tính như vầy: Bây giờ sẽ tìm cho nó một người dân thường, nhưng phải dòng quý phái và có học thức, bà nghĩ có được không?

- Vâng! Bệ hạ! Tôi cũng đang nghĩ như vậy!

Ngày mai nhà vua gọi quan Lại thần vào nói rằng:

- Ta có một chút việc riêng. Khanh vào các thôn quê tìm cho ta một người học trò nhà nghèo, chừng hai mươi tuổi, nhưng phải dòng quý phái mới được!

Quan Lại thần đáp:

- Dạ! Hạ thần xin tuân mạng!

Cách ít bữa sau, ông tìm được một thanh niên khôi ngô tuấn tú, ra vẻ bút nghiên kinh sử, và cũng đúng như lời vua dặn. Cậu con nhà quý phái, nhưng chỉ một nỗi nghèo. Chàng được thấy vua triệu vào cung trong dạ mừng thầm và cũng lo thầm! Chưa biết cát hung thế nào? Rồi cùng ông quan này lên đường về kinh.

Tới kinh, Lại thần nói:

- Anh hãy đứng đây để tôi vào tâu vua trước.

- Dạ! Xin đứng đây chờ Ngài.

Lại thần vào trước sân rồng quỳ xuống tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ! Theo thánh chỉ hạ thần đã đi tìm được một thanh niên hiện đương ở ngoài cổng thành!

Nhà vua nói: - Trẫm cho phép, khanh đưa nó vào đây!

Lại thần bái tạ, trở ra đưa chàng vào cung.

Vua hỏi chàng: - Anh năm nay bao nhiêu tuổi?

Đáp: - Kính tâu Hoàng thượng! Con năm nay hai mươi tuổi!

- Học hành thế nào?

- Dạ! Con đương theo học khoa tú tài!

- Cha mẹ còn sống hay chết?

- Dạ! Cha chết đã lâu, còn mẹ già hàng ngày làm mướn cho con đi học!

Vua nói: - Hôm nay kêu ngươi vào đây, vì trẫm có người con gái hình thù xấu xa, trong triều không thể sánh duyên cùng ai được, nghe biết ngươi tuy nghèo, nhưng dòng hào tộc, vậy ta gả con ta cho ngươi có ưng thuận không?

- Dạ! Muôn tâu Thánh thượng, nhà con có đầy phúc đức nên nay mới được Hoàng thượng ngó tới, thực là "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ" con xin tuân theo lời ngọc chỉ, không dám trái mạng. Tâu Thánh thượng! Con gái của Thánh thượng tuy xấu, nhưng dầu sao cũng là con của Thánh thượng, là khí huyết của Thánh thượng sinh ra, thực là phước đức cho con vô cùng vô tận, hôm nay nếu Thánh thượng có gả con chó cho con, thì con cũng không dám từ chối, nữa là được diễm phúc sánh hàng Phò mã.

Nhà vua nghe anh nói mỉm cười, rồi định ngày làm lễ đính hôn cho con gái.

Ngày lễ này nhà vua cũng giấu, không cho bá quan và nhân dân biết, chỉ trong hoàng cung làm lễ sơ sơ. Sau cuộc này nhà vua cho hai vợ chồng chàng rể ở riêng một tư thất nơi hậu viên bảy lần cửa khóa cây cối âm u, có vẻ kín đáo. Vua dặn riêng chàng: Luôn luôn để vợ trong cung cấm, nếu có đi đâu phải khóa cửa, và một điều ngặt nhất chớ cho ai ngó thấy, vì lỡ để thiên hạ chê cười!

Từ đó anh học trò nghèo vinh hạnh được nhà vua thâu nạp làm Phò mã, vinh hoa nhất mực lộc nước phấn vua, thoát khỏi nỗi cơ hàn bần khổ nơi hương thôn hủ tục, được dự với những hàng quan liêu trong triều chính, chẳng khác gì đại long thoát khỏi chốn ao tù ra nơi biển cả, phượng hoàng sổ cánh bay bổng chốn mây xanh.

Gặp thời buổi thanh bình bốn phương an lạc, nơi kinh thành những thú vui dồn dập. Khi ấy các quan triều và các nhà quý phái, kết hội với nhau, hàng tháng có những ngày họp mặt, để thưởng thức những thú vui! Ông Phò mã này cũng vào một chân. Khi tới hội ai cũng đem theo vợ, nhưng riêng ông Phò mã chỉ đi có một mình, nên một số người tò mò thắc mắc, tự nói với nhau rằng:

- Ông Phò mã này kỳ nào cũng đi một mình, không thấy cho vợ đi! Một là vợ đẹp, hai là vợ ông xấu, hôm nay chúng ta tìm cách để xem vợ hắn vì lý do gì mà không tới hội.

Mọi người đều thuận lời bàn ấy, hôm đó họ mời ông Phò mã uống rượu rất say, xong cuộc ăn uống, Phò mã bị say ngủ bất tỉnh, họ cởi trộm lấy chìa khóa rồi sai năm người tới nhà xem cô vợ của ông ra sao?

Giữa lúc Phò mã đi dự hội, cô Kim Cương một mình ngồi trong nhà, thơ thẩn buồn bực tự than rằng:

- Không biết kiếp trước ta tạo tội gì, kiếp này bị thân hình xấu ác, suốt tháng quanh năm vua cha giam giữ trong nhà kín, không nhìn ngó thấy bóng mặt trời mặt trăng cho đến một ai, là thân người không khác gì loài chim lồng cá chậu, thực là khổ quá không biết bày tỏ cùng ai!

Cô lại nghĩ như vầy:

- Hiện nay đức Phật ra đời cứu giúp quần sinh muôn loại, rất nhiều người được hàm ân thoát khổ, ta cũng không được tới nơi Ngài mà chiêm ngưỡng, để cầu Ngài cứu khổ ban vui!

Nói rồi cô lấy hương đốt, hướng về núi Linh Thứu nơi đức Phật ngự, một mình chí thành đảnh lễ khấn rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Mở lượng Từ bi thương xót đến con, tới đây để con được cúng dàng, và giáo hóa cho con.

Vì lòng thành kính thiết tha cầu nguyện của cô, nên đức Phật dùng thần túc hiện bay đến chỗ cô ở, đầu tiên Ngài cho cô nhìn thấy tóc của Ngài xanh, nhỏ mềm, có ánh quang minh.

Cô quỳ xuống lễ lạy vui mừng! Nên bộ tóc đuôi ngựa của cô tự nhiên biến thành tóc xanh nhỏ mướt. Lần thứ hai Ngài cho cô nhìn thấy dung nhan như vầng mặt trăng đêm rằm, tươi đẹp siêu phàm. Thấy thế, cô vui mừng! Một lòng tha thiết lễ kính. Vì thế bộ diện sù xì của cô đã biến thành cô gái tiên nga, mắt sáng tựa sao, mồm tươi hoa nở.

Lần thứ ba Ngài hiện toàn thân cho cô chiêm ngưỡng, thân tướng của Ngài như quả núi vàng, làm sáng rực cả căn nhà của cô. Cô sung sướng quá! Lễ kính dưới chân, ăn năn hối lỗi! Vì thế nên những tướng xấu da thô, được tiêu tan, thân cô tự nhiên đoan chính, tươi đẹp siêu nhân.

Tới đây đức Thế Tôn thuyết pháp cho cô nghe. Những điều kiêu mạn sân si nên bỏ, lòng Từ bi khiêm nhượng nên tu.

Cô nghe lời giáo hóa, như người được uống nước cam lồ, vội vàng thụp lạy xin thọ giáo. Cũng do lòng thành phát khởi, nên những nghiệp ác của cô đã tạo từ đời quá khứ được tiêu tan, ngay giờ phút ấy tự nhiên trí óc sáng tỏ, chứng được quả Tu đà hoàn.

Đức Phật nhận thấy cô đã thoát nghiệp, và chứng quả nên Ngài ẩn hình biến về Linh Sơn.

Đoạn này nói đến năm người, vừa lúc đức Phật ra về thì họ mở cửa bước vào. Nhìn thấy cô họ thưa rằng:

- Thưa cô! Xin lỗi cô, có phải cô là vợ Phò Mã không?

- Thưa phải, các ông tới đây có việc gì?

- Thưa, chúng tôi tới đây có chút việc tư, muốn gặp Phò Mã!

- Hôm nay Phò Mã đi chơi!

Năm người xin cáo lui, ra đường, họ nói cùng nhau rằng:

- Quả nhiên vợ anh đẹp nên anh không mang đi đấy thôi.

Trở về họ trả lại chìa khóa cho Phò Mã. Sau đó Phò Mã tỉnh rượu về nhà nhìn không thấy vợ, chỉ thấy cô gái đẹp!

Ông hỏi:

- Xin lỗi cô tới đây có việc gì?

- Thưa ông tôi là bạn của Kim Cương đây!

- Thưa! Kim Cương đi đâu cô biết không à?

Cô phì cười thưa rằng:

- Đố anh tìm thấy Kim Cương đấy?

Phò Mã còn đương hoang mang, cô nói tiếp:

- Em chính là Kim Cương, không phải ai đâu? Anh đừng có lạ! Hôm nay em buồn vì sự xấu xa của em nên em đốt hương cầu nguyện đức Phật Thích Ca Mâu Ni Từ tâm cứu tế, Ngài tới đây em được lễ kính nên những tội ác nhiều đời của em được tiêu tan, biến thân gái xấu, đổi thành đẹp, nên anh không nhận được, có phải ai đâu, cửa anh khóa còn ai vào được. Bây giờ anh đến tâu Phụ Vương và Mẫu Hậu để em lên yết kiến.

Phò Mã vui quá! Biết đích là vợ mình, vội lên vương cung tâu vua rằng:

- Tâu Phụ Vương, Kim Cương muốn lên để yết kiến Phụ Vương!

Đáp: - Thôi! Ta bận việc anh cẩn thận, chớ cho nó đi đâu để khi nào ta đến thăm!

Phò Mã tâu: - Tâu Phụ Vương! Kim Cương hôm nay được nhờ công đức Phật biến thân gái xấu đổi thành đoan chính tươi đẹp, giờ đây Phụ Vương có nhìn cũng không nhận được!

Vua nói: - Thế à! Quả như vậy thì anh về mau đem nó lại ta xem.

Phò Mã tất tưởi về đưa vợ lên yết kiến vua và Hoàng hậu, nhìn thấy Kim Cương tươi đẹp khác xưa trong tâm vui vẻ nói:

- Nam mô Phật! Đức Phật xuất thế làm lợi ích cho muôn loài chúnh sinh, con ta hôm nay được Ngài giải thoát tội lỗi, lại được đổi xấu thành đẹp, thực là phúc đức vô lượng! Biết lấy gì đền đáp được Ngài.

Sớm ngày mai nhà vua sửa soan lễ vật, rồi cùng đi yết kiến Phật, tới nơi mọi người đều lễ Phật rồi lui về một bên, vua Ba Tư Nặc bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chẳng hay đứa con gái của con đời quá khứ làm phước gì, nay được sinh vào nhà tôn quý, và không rõ tạo tội gì, phải chịu thân gái xấu, da tóc thô kịch hình như Súc sanh, kính xin Ngài chỉ bảo cho chúng con được biết nguyên do?

Phật nói: - Ông muốn biết tội căn và phước báo của Kim Cương tôi sẽ nói ông hay. Người ta ở trên đời đẹp tốt hay xấu xa cũng do nghiệp hành đời trước, tội hay phước cũng do báo ứng của trần thế.

Thuở đời quá khứ đã lâu lắm, bấy giờ có một nước lớn tên là Ba La Nại, nước ấy có ông Trưởng giả giàu có vô chừng, ông biết tôn kính ngôi Tam bảo cúng dàng chư Tăng. Ông phát nguyện xin suốt đời cúng dàng một vị Bích Chi Phật, vị ấy thân thể thô kịch hình dáng nhem nhuốc xấu xa, ông có cô con gái còn nhỏ tuổi, khi thấy vị Bích Chi Phật lại nhà, thì sinh lòng khinh mạn rồi nói: Ông này thân thể thô kịch xấu xa, da dẻ sần sù, ghê tởm lắm như vậy. Song Ngài vẫn làm thinh, và thường thường đến nhận các món cúng dàng của ông Trưởng giả.

Vị Bích Chi Phật khi sắp tịch diệt vào Niết bàn, muốn để những người tin theo ngôi Tam bảo phát khởi lòng tu cho bền chắc, cho tinh tiến; nên Ngài bay lên hư không để hiện các phép thần thông; trên mình Ngài phun ra lửa, dưới phun ra nước, đầy cả hư không rồi hiện bên Đông, lặn bên Tây, hiện bên Nam, lặn bên Bắc; hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc đi, hoặc đứng, trên hư không. Khiến cho cả nhà ông Tưởng giả coi thấy phép thần biến, rồi từ trên hư không bước xuống đi vào nhà ông Trưởng giả. Ông rất vui mừng và thận trọng kính mến. Người con gái nhỏ lúc đó tự biết mình có tội nói xấu Ngài, kiếp sau quyết bị quả báo, sợ hãi ăn năn, tới trước chắp tay quỳ thẳng thưa với Ngài rằng: "Muôn xin Tôn giả tha thứ, trước đây con không biết Ngài là bậc Thánh, đem lòng khinh mạn, ác tâm nói xấu, tội con quá nặng, kính xin Tôn giả xá tội và chớ để tâm". Vị Bích Chi Phật cũng thể lòng Từ bi cho cô sám hối.

Đại Vương nên biết, người con gái ấy nay là Kim Cương, con của ông, lúc đó ác tâm chê dèm bậc Thánh nhân, cho nên từ kiếp ấy đến nay, sinh vào thế giới nào cũng phải chịu thân hình xấu ác, vì biết hối lỗi, nên nay mới được đoan chính tốt tươi, anh tài vượt chúng, cũng do sự cúng dàng vị Bích Chi Phật nên đời đời thường được sinh vào nhà tôn quý hưởng sự giàu sang sung sướng, và cũng do nhân duyên này mà được giải thoát, như thế đó. Đại Vương! Tất cả chúng sinh phải nên gìn giữ thân, miệng, ý cho cẩn thận chớ nên càn dỡ khinh người chê bai mắng chửi, sau chịu quả báo đau khổ khó mà thoát khỏi.

Bấy giờ vua Ba Tư Nặc và quần thần cùng tất cả đại chúng, nghe Phật nói căn do quả báo của Kim Cương như vậy, ai nấy đều sợ hãi, và phát tâm tin kính, tụ cảm thấy trước Phật, nhân sự tín tâm, nên có người chứng sơ quả cho đến tứ quả, cũng có người phát tâm bình đẳng Vô thượng và cũng có người trụ ngôi bất thoái, ai nấy đều khát ngưỡng lời giáo hóa của Phật, vui vẻ tuân theo cúi đầu tạ lễ lui ra.

 

9/ Phẩm thứ chín TỲ KHƯU KIM TÀI

Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà, cùng các vị tôn đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi người ở đó.

Trong thành này có ông Đại Trưởng giả, bà Phu nhân của ông khi đó sinh được một cậu con trai hình dáng tốt đẹp, trên đời hiếm có, đặt tên là Kim Tài. Nhưng lạ thay, từ lúc cậu lọt lòng ra, đã thấy hai tay nắm chặt, tròn như quả thủ, bà mẹ mở tay cậu xem thấy mỗi tay nắm một đồng tiền vàng, bà liền nhặt lấy cất đi, khi lấy xong lại thấy cậu nắm như cũ, bà mở xem lại thấy hai đồng tiền vàng lại nhặt cất đi, cứ thế lấy hai đồng này lại có hai đồng khác ở tay cậu, bà mẹ lượm mãi, đến nỗi đầy một kho tiền vàng mà tay cậu vẫn có không hết. Nhà ông Trưởng giả đã giàu, sinh cậu ra lại giàu thêm, thực là một việc kỳ lạ nhất thời đó.

Sau khi lớn tuổi, cậu rất thông minh nghe thấy Phật xuất thế độ sinh, nhiều người theo Ngài tu đạo đều được đắc quả giải thoát, cậu vui mừng và để ý xuất gia theo Phật, nên không lập gia đình. Một hôm cậu lên thưa với cha mẹ rằng:

- Kính thưa song thân! Ở đời tuy giàu có sung sướng, gia đình hạnh phúc vui tươi, nhưng chỉ có tạm thời, không bao lâu đã thấy cảnh già chết đưa lại, nước mắt khóc lẫn nhau, kẻ tham tình ân ái ở thế gian khác chi đứa trẻ con tham mật trên lưỡi dao, đầu tiên liếm thấy ngon ngọt, nhưng đứt lưỡi lúc nào không biết, chỉ có xuất gia tu đạo tìm đường giải thoát là an vui hơn. Vậy cúi xin cho con theo Phật xuất gia tu hành.

Đáp: - Ừ, con nói có lý, việc đó cha mẹ không cấm đoán, cho con được tùy ý muốn, cha mẹ vui lòng.

Sau khi được sự đồng ý của ông bà. Kim Tài tìm đến chốn Phật, thấy Phật đoan nghiêm tướng hảo, sinh lòng tin kính vui mừng, sụp lễ trước Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn không biết phúc duyên gì, sinh thời gặp Phật, con tới đây cầu xin Ngài Từ bi tế độ, cho con nương dưới bóng Ngài, được tu hành, tìm đường giải thoát!

Đức Phật nhìn thấy Kim Tài có đủ duyên lành, quả Bồ đề sắp được phát sinh, nên Ngài nhận cho nhập đạo rồi nói:

- Kim Tài! Ngươi có túc duyên nên nay được gặp ta, muốn theo giáo pháp của ta, cần phải chăm chỉ thuyền tụng mới chóng được khai ngộ.

Kim Tài thưa: - Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn, con xin thọ giáo.

Đức Phật sai ông Thượng túc đệ tử cạo đầu may áo, và làm lễ truyền giới Sa di, từ đó Kim Tài được theo hầu Phật tu hành.

Trải qua thời gian lâu năm, Kim Tài đã hai mươi tuổi. Đức Phật và các vị Đại đức đăng đàn truyền giới Cụ Túc. Trước khi truyền giới, Kim Tài phải đi đảnh lễ các vị Hòa thượng, A Xà Lê, mỗi khi lễ xuống đất hai tay rơi ra hai đồng tiền vàng, cứ thế, lễ vị nào cũng nẩy ra hai đồng tiền vàng, tùy theo lễ nhiều thì rơi nhiều, lễ ít thì rơi ít. Sau khi được nhận lãnh giới Cụ Túc, Kim Tài chăm chỉ tu hành không bao lâu đã chứng quả A la hán.

Thấy việc lạ! Nên tôi (A Nan) quỳ xuống bạch Phật rằng:

- Lạy đức Thế Tôn! Không hay Tỳ kheo Kim Tài trước đây tạo phúc gì lúc mới sinh ra đã có tiền vàng nắm trong tay, kính xin Ngài chỉ giáo cho chúng con được rõ.

Phật nói: - A Nan! Ông muốn biết nguyên do hãy bình tĩnh để ta kể chuyện cho ông và đại chúng hay!

- Dạ chúng con xin lắng nghe.

Phật nói: - A Nan, ông nên biết, đời quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi, Phật lấy pháp giáo hóa thế gian, độ thoát chúng sinh nhiều không tính xuể. Lúc ấy Phật và Tăng chúng du hành trong nước, các nhà hào phú Trưởng giả nhân dân sửa soạn cỗ bàn các món ăn, dùng thuốc thang, chăn áo, đệm gối, mùng màn, đem dâng cúng cầu phước, thuở ấy có một người nhà nghèo hàng ngày phải ra những nơi đồng hoang kiếm củi để độ nhật, vừa lúc anh bán củi được hai đồng tiền, thấy nhà vua thỉnh Phật và Tăng vào cung cúng dàng. Anh tự hận mình thuở tiền sinh không biết cúng dàng cầu phước, nay bị nghèo khổ; nhà vua phước đức lớn lao mà còn ham phước như vậy, huống ta làm kẻ bần tiện lại không biết cúng dàng hay sao? Nghĩ xong dốc lòng lễ kính dưới chân Phật dâng hai đồng tiền lên cúng đức Phật, thương anh Ngài nhận rồi làm phép chú nguyện cho.

A Nan ông nên biết người nghèo thuở đó do phát tâm cúng hai đồng tiền cho nên từ đó tới nay đã trải qua chín mươi mốt kiếp sinh vào thế giới nào cũng được hưởng giàu sang và có hai đồng tiền vàng nắm trong tay; người nghèo nay chính là Tỳ kheo Kim Tài, ví nay chưa được đạo quả, thì đời vị lai còn được rất nhiều phước báu.

A Nan! Tất cả chúng sinh nên lấy sự cúng dàng bố thí làm sự nghiệp, kẻo kiếp sống dễ qua, khó lại, mà không có chút duyên lành gì làm tư lương cho hậu thế.

Khi bấy giờ tôi (A Nan) và tất cả mọi người trong đại hội nghe Phật nói xong, ai cũng tin kính và phát tâm cúng dàng bố thí, rồi đó, có người được quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, cho đến quả A la hán, cũng có người phát ý Vô thượng cầu đạo chánh chân, lại cũng có người trụ ngôi bất thoái, mọi người đều tôn kính tuân theo phụng hành, cúi đầu lễ tạ lui ra.

 

10/ Phẩm thứ mười HOA THIÊN

Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại rừng cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà, cùng với những vị Tỳ kheo lớn, cả thảy một ngàn hai trăm năm mươi vị tại đó.

Nước Xá Vệ khi ấy có một người Hào Trưởng, bà vợ của ông năm đó sinh được cậu con trai, đầu tròn, mặt vuông, khôi ngô tuấn tú tươi đẹp. Giữa lúc sinh cậu, trên trời tự nhiện hoa rơi xuống đầy sân, nhân điềm tướng này ông bà đặt tên cho cậu: Phất Ba Đề Bà. Tàu dịch "Hoa Thiên".

Dân làng ai cũng khen ông bà nhiều phúc đức, sinh được người con quý. Hào Trưởng vui mừng! Nuôi cậu một cách sung sướng, hy vọng sau này làm nên danh giá cho gia đình chủng tộc, nên ông bà không lúc nào rời lòng yêu dấu cậu, luôn luôn làm những phúc lành để hướng cho cậu. Song tính nết cậu cũng ngoan ngoãn hiếu kính cha mẹ, lại có trí óc minh mẫn và hiền hậu. Đối với mọi người trong nhà như hàng xóm, không làm mất lòng ai bao giờ, lại hay có tâm giúp đỡ người, nên được nhiều người kính mến, xa gần đều cảm phục.

Sau khi lớn tuổi học hành tiến đạt, một hôm theo người thân tín đi cúng dàng Phật. Tới chốn Phật, nhìn thấy Ngài có oai đức phi thường đầy đủ tướng Từ bi, quang minh chói sáng, tự phát lòng kính ngưỡng, vui mừng hớn hở rồi thầm nghĩ rằng:

- Người ta sinh trên đời, được gặp Phật là một sự khó, những người được hạnh ngộ, là túc duyên lắm.

Nghĩ xong cậu tới trước Phật, thụp lạy thưa rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con không biết có phước lành gì hôm nay được tới đây chiêm ngưỡng Ngài, cúi xin Ngài Từ bi giáo hóa cho chúng con được biết lối tu hành thoát khổ, đời đời được an vui sung sướng.

Phật nói: - Hay lắm! Ngươi có duyên lành, muốn được an vui lâu kiếp, hãy ghi nhớ những lời ta nói:

- Con người phú quý hoặc bần tiện, cũng do tự mình tạo tác, gây nhân ngũ giới được sinh làm người, tạo mười điều lành được sinh thiên, tham xẻn đọa làm quỷ đói, sát hại sinh mạng sân si phải đọa Địa ngục, tà kiến vô nhân đạo làm loài Súc sanh v.v…

Cậu nghe xong như người đói được ăn, khát được uống, bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, ngày mai chúng con thành kính sửa trai nghi, cúi xin Ngài và các vị Thánh Tăng dời gót ngọc tới nhà con dùng ngọ và thuyết pháp để cho cha mẹ con, họ hàng con, được ân triêm công đức.

Phật nói: - Con có lòng thành kính Ta và Tăng chúng sẽ chứng lòng cho.

Cậu ta lễ tạ lui ra, về nhà trình bày cùng cha mẹ công việc mời Phật ngày mai, thì hai ông bà rất vui vẻ! Đêm ấy cả nhà đều tấp nập bày tòa trải chiếu tới sáng mới xong, trong nhà chưa sửa soạn được các món ăn, ông bà liền hỏi cậu:

- Bây giờ phải làm những món gì con?

Cậu đáp: - Thưa mẹ! Việc ấy để con lo liệu, mẹ không phải lo!

Khi đức Phật tới, do phúc đức của Hoa Thiên hóa hiện ra những tòa ngồi, bằng Thất bảo, nơi nằm, nơi nghỉ, trang nghiêm vô cùng tốt đẹp. Phật và Tăng chúng thăng tòa ngồi yên tĩnh, thì các món ăn ngon lành tự nhiên đầy đủ hiện ra.

Sau khi dùng cơm xong, đức Phật thuyết Pháp nói về "Tứ Diệu Đế". Hoa Thiên và cả nhà được chứng quả Tu đà hoàn.

Sau khi đức Phật về Tinh xá. Hoa Thiên xin cha mẹ theo Phật xuất gia cầu đạo giải thoát, vì ông bà đã hiểu đạo, nên thuận lòng cho cậu đi theo Phật tu hành, cậu từ tạ cha mẹ đến Tinh xá cúi đầu lễ Phật xong thưa rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Xin Ngài Từ bi hoan hỷ cho con được xuất gia nhập đạo tu hành, vì đã được sự đồng ý của cha mẹ con.

Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo.

Ngài nói dứt lời, tóc trên đầu Hoa Thiên tự nhiên rụng hết, áo mặc tại mình biến thành áo Cà sa, thành một hình tướng Sa môn, tu hành gắng gỏi chẳng bao lâu đã chứng quả A la hán.

Thấy việc của Hoa Thiên, tôi (A Nan) lấy làm lạ, nên tôi tới trước Phật làm lễ bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Tỳ kheo Hoa Thiên thuở quá khứ làm phước gì, lúc sơ sinh có hoa trên trời bay xuống, khi cúng dàng Phật tự nhiên lại có giường tòa và các món ăn, cúi xin Ngài chỉ giáo để chúng con được rõ.

Phật nói: - A Nan ông muốn biết chuyện của Hoa Thiên hãy lắng nghe ta nói cho ông hay.

Dạ! Chúng con xin chú ý nghe!

Đời quá khứ cách đây đã quá xa xưa, thuở đó có đức Phật hiệu là Tỳ Bà Thi. Phật ứng thế độ sinh, thường thường cùng Tăng chúng vào các làng ấp để giáo hóa, những nhà tôn quý và nhân dân đem các món ăn và dụng cụ ra cúng dàng. Lúc ấy có một người nhà nghèo thấy họ sùng kính cúng dàng cầu phước trong lòng tuy hoan hỷ, nhưng hận mình nghèo, không có gì dâng cúng để làm duyên cho tương lai, anh liền hái hoa cỏ bên lề đường, một lòng thành kính lễ lạy tung lên trên chư Tăng rồi đi.

A Nan chính người nghèo cúng hoa thuở đó, nay là Tỳ kheo Hoa Thiên, đấy cũng do đời quá khứ có lòng tin kính cúng hoa chí tâm cầu nguyện từ đó tới nay đã trải qua chín mươi mốt kiếp. Hoa Thiên được phước báu sinh vào thế giới nào thân thể cũng tốt đẹp, ý muốn dùng gì cũng được đầy đủ; thức ăn uống giường tòa các dụng cụ nghĩ đến thì tự nhiên có, và lúc sơ sinh có hoa trên trời bay xuống, do phước duyên đó mà nay được đắc đạo.

A Nan! Tất cả chúng sinh chớ coi sự cúng dàng nhỏ mọn mà khinh thường, xem Hoa Thiên thì tự biết.

Bấy giờ tôi và tất cả đại chúng nghe Phật nói xong ai nấy đều vui mừng tạ lễ mà lui.

 

11/ Phẩm thứ mười một TỶ KHƯU BẢO THIÊN

Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Ở thành này có ông Trưởng giả, bà vợ sinh được cậu con trai mặt mũi đầy đặn xinh đẹp, giữa lúc sinh, trên trời tự nhiên châu bảo rơi xuống như mưa: Vàng, bạc, ngọc lưu ly, ngọc xa cừ, ngọc mã não, ngọc san hô, ngọc phách; nơi vườn, ngoài sân, đầy dẫy.

Dân làng hàng xóm xúm đến xem và lượm châu bảo giùm. Họ lại ca tụng ông bà có nhiều phúc đức, và người con quý, nên trời ban thưởng những châu bảo này ư.

Trưởng giả vui mừng vừa được quý tử, lại được châu bảo, tự nghĩ: "- Việc này từ cổ đến kim chưa từng thấy." Hồ nghi không biết tốt hay xấu, nên sai người đi tìm Thầy tướng đến xem hung cát thế nào.

Thầy tướng tới nhà, ông nói:

- Thưa Ngài nhà tôi mới sinh được một mụn con trai, lại thấy có châu bảo rơi xuống nhiều, không biết hay dở thế nào, xin Ngài xem giùm và coi tướng cháu có thể nuôi được nên người không?

Thầy tướng nói: - Dạ! Ngài ẵm cháu ra đây!

Bà Trưởng giả nghe Thầy nói vội bế con ra. Thầy ngắm nghía hồi lâu rồi nói:

- Thưa Trưởng giả cháu có nhiều tướng quý: Đầu tròn, mũi thẳng, tai dầy và trán vuông, mặt dầy, bàn chân bàn tay đầy, sau này có thể làm ích cho gia đình, xã hội. Nếu xuất gia sẽ được chứng quả giải thoát, ông bà cứ yên trí nuôi cháu cho cẩn thận, không còn nghi ngờ gì nữa.

Nghe Tướng sư nói ông rất lấy làm hoan hỷ và nói:

- Xin phiền Thầy đặt tên cho cháu.

Tướng sư nói: - Theo điềm có châu bảo rơi xuống, đặt tên cho cháu là Lặc Na Đề Bà (Tàu dịch là Bảo Thiên).

Nói rồi Tướng sư đứng lên cáo lui ra về, ông Trưởng giả thận trọng cám ơn và tạ lễ.

Quả như lời Tướng sư nói, Bảo Thiên khi lớn tuổi học hành thông minh tài năng lỗi lạc, nhưng rất ham đạo đức và có trí suy tầm đạo giáo. Một hôm cậu sang chơi nhà thân quen tỉnh khác, họ đưa cậu đến yết kiến Phật, tới nơi mọi người đều nhiễu Phật ba vòng, cậu cũng theo như họ lễ và nhiễu, rồi lui ngồi một bên, nhìn thấy Phật oai đức phi thường khắp trời đất không ai sánh kịp, sinh lòng mến mộ, phát ý xả tục nhập đạo nối chí như Phật.

Tới đây đức Phật thăng tòa thuyết pháp cho đại chúng nghe nói về mười hai nhân duyên, chúng sinh bị luân chuyển trong sáu đạo, xong cuộc thuyết pháp mọi người tạ lễ lui ra.

Bảo Thiên được nghe lời vàng ngọc của Phật giáo hoá, lấy làm sung sướng định tâm lần này quyết xuất gia tu đạo.

Khi về tớí nhà cậu quỳ xuống thưa cha mẹ rằng:

- Kính lạy song thân! Được làm người là khó, được gặp Phật tại thế lại khó hơn, hôm qua con được yết kiến Thế Tôn, lại được nghe chánh pháp con nhận thấy ngoài đạo Phật ra không còn đạo nào có thể giải thoát cho con người, vậy kính xin song thân cho con xuất gia học đạo.

Ông bà thấy cậu hướng việc tu hành, vui vẻ nói:

- Cha mẹ sinh người chứ không sinh được tánh, ý con muốn xuất gia thì cha mẹ cũng vui lòng.

Được sự đồng ý của cha mẹ rồi lễ tạ ra đi, tới nơi cúi đầu lễ Phật thưa rẳng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, chúng con từ vô thủy kiếp, bị nổi chìm trong biển sinh tử, không người cứu vớt, Ngài như một chiếc thuyền từ cứu người giải thoát, hôm nay chúng con tới đây một lòng thành kính cầu xuất gia học đạo, để lên nơi giác ngạn, cúi xin Ngài Từ bi tiếp hóa.

Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo.

Nói dứt lời tóc trên đầu Hoa Thiên rụng hết, áo trên mình biến thành áo Cà sa, từ đó theo Phật tu hành, vốn có trí óc thông minh sẵn, nên không bao lâu đã chứng được quả A la hán, cắt đứt đường sinh tử, không phải thụ sinh trong ba cõi.

Nhân buổi thư nhàn vấn đạo, tôi (A Nan) muốn biết rõ câu chuyện này nên bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay Tỳ kheo Bảo Thiên đời trước làm phước gì lúc sơ sinh lại có châu bảo trên trời bay xuống. Và những món ăn dùng tự nhiên biến hiện tùy theo ý muốn, xin Ngài nói cho chúng con được rõ.

Phật dạy rằng: - A Nan! Đời quá khứ cách đây đã lâu lắm có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi tế độ cho quần sinh được giải thoát rất nhiều không tính xuể. Một hôm các vị Tăng đi vào các thôn xóm khất thực, người dân chen nhau mang các món ăn ra cúng dàng. Lúc ấy có một người nghèo, phát sinh lòng hoan hỷ! Muốn cầu phước cúng dàng, nhưng không có tiền của, cùng bất đắc dĩ, lấy một nắm đá tròn như hạt châu với một lòng thành kính thiết tha, tung nắm đá ấy lên các vi Tăng và khấn nguyện rằng: - Nguyện cho con đời đời phú quý trường thọ và được đạo giải thoát như các Ngài.

A Nan ông nên biết! Người nghèo cúng đá thuở đó, chính nay là Tỳ kheo Bảo Thiên, cũng do đời quá khứ có lòng kính tin ngôi Tam bảo, đem đá cúng chư Tăng cho nên từ đó tới nay trải qua chín mươi mốt kiếp, được hưởng vô lượng phước báu, sinh về xứ nào, cũng an hưởng tự nhiên, cũng bởi duyên ấy nay được gặp Ta và đắc đạo quả.

Bấy giờ tất cả mọi người trong đại hội, nghe Phật nói xong ai nấy đều phát tâm cung kính sự cúng dàng, rồi có người đắc sơ quả, cho đến tứ quả, cũng có người được ngôi bất thoái, vui mừng tạ lễ mà lui.

 

12/ Phẩm thứ mười hai SÀN ĐỀ BÀ LA

Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại rừng Trúc khi Ngài mới thành Phật bắt đầu độ nhóm ông Kiều Trần Như cả thảy năm người, sau độ cho anh em ông Uất Tỳ La Ca Diếp, ngàn người, độ người đã nhiều được thoát khổ cũng lắm.

Bấy giờ nhân dân nước La Duyệt Kỳ vui mừng được bậc đại Thánh Nhân xuất thế, ai ai cũng ca tụng khen ngợi đức Thế Tôn: Một đấng cứu thế, biết bao chúng sinh được hàm ân thoát khổ, hơn nữa Ngài còn hóa phục được những tà đạo trở lại theo Ngài, thực là một việc lại còn khó hơn. Họ lại khen nhóm ông Kiều Trần Như và anh em ông Uất Tỳ La Ca Diếp với các vị Đại đức Tỳ kheo khác, đối với đức Thế Tôn chẳng hay đời trước có duyên gì? Trống pháp mới đánh đã được nghe trước, nước cam lồ được uống trước.

Các Tỳ kheo thấy họ ca tụng như vậy liền đem chuyện ấy lên thưa với Phật.

Phật nói: - Đó không chi lạ đâu! Ta với các ông ấy đã có lời thệ nguyện từ đời quá khứ: Nếu Ta được thành Phật, Ta sẽ độ cho các ông ấy trước.

Các Thầy thưa rằng: - Kính lạy Ngài! Thuở xưa Ngài thệ nguyện thế nào, cúi xin nói cho chúng con được rõ.

Phật dạy: - Muốn biết sự tích Ta với các ông ấy đời quá khứ, hãy để ý nghe cho kỹ Ta sẽ nói cho hay: Đời quá khứ cách đây đã lâu lắm có đến vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể dùng tâm suy nghĩ và lời nói mà tính được. Cũng Châu Diêm Phù này, có một nước lớn gọi là Ba La Nại, ông vua nước ấy tên là Ca Lợi cũng thời đó có một vị đại tiên tên là Sàn Đề Bà La và cả thảy năm trăm đệ tử ở trên một quả núi tu theo phép nhẫn nhục.

Một hôm nhà vua nước ấy cùng với Phu nhân, thể nữ, quần thần vào núi để du ngoạn: Săn bắn các thú vật, bày các cuộc vui, uống rượu, ăn thịt, các thể nữ múa hát, làm cho nhà vua vui tai, thích mắt, thỏa thích với dục lạc, rồi tiệc rượu, nhà vua nằm nghỉ nhọc dưới gốc cây, thừa cơ ấy các cô rủ nhau đi xem hoa trong rừng, tới một hang núi, thấy ông Sàn Đề Bà La đương ngồi yên tĩnh có vẻ trầm tư suy xét, các cô này thấy ông đạo mạo với nét mặt siêu phàm, ngoài cuộc trần tục, nên các cô sinh lòng kính mến! Hái các thứ hoa tung lên cúng dàng rồi ngồi xúm lại xung quanh để nghe thuyết pháp.

Khi hết hơi men nhà vua thức dậy, nhìn xung quanh không thấy một người con gái nào hầu cạnh, ông nổi giận quá đứng phắt dậy, cùng với bốn ông quan đại thần đi tìm, một lát tới chỗ ông Tiên, thấy bọn các cô đang ngồi vây quanh trước sau, nhà vua cất tiếng la lớn, các cô này sợ hãi chạy dạt ra, nhà vua tới trước chỗ ông Tiên hỏi rằng:

- Nhà ngươi đã đắc định Tứ Không chưa?

- Thưa chưa được.

- Nhà ngươi đã được Tứ Vô lượng Tâm chưa?

- Thưa chưa được.

Nhà vua lớn tiếng nạt rằng:

- Từng ấy công đức đều nói chưa được, như vậy, nhà ngươi có hơn gì kẻ phàm phu, thế mà dám ngồi chung với những đứa con gái này ở nơi vắng vẻ tin sao được?

Ông Tiên sĩ lặng yên không đáp lời nào hết, nhà vua lại hỏi:

- Ở đây người là người thế nào? Tu đạo gì?

- Thưa! Tôi tu theo hạnh nhẫn nhục!

Nhà vua có vẻ tức giận rút kiếm ở sau lưng ra nói:

- Nhà ngươi tu nhẫn nhục ư! Nhẫn nhục để ta thử xem ngươi có nhẫn nhục được không?

Nói xong chém phắt hai cánh tay ông Tiên rơi xuống đất, rồi hỏi tiếp:

- Đã nhẫn nhục được chưa?

Tiên đáp: - Nhẫn nhục được!

Ông lại chém phát hai nhát vào hai vế đùi nhả ra, rồi hỏi tiếp:

- Đã nhẫn nhục được chưa?

- Nhẫn nhục được!

Nhà vua lại xẻo hai tai và mũi trông rất ghê sợ. Tất cả quan quân thể nữ, nhìn thấy nhà vua quá ư ác nghiệp với ông Tiên ai cũng sám đen mặt lại, nhưng không dám can ngăn, vì sợ cơn ghen của ông đương bộc phát, song họ nhìn thấy ông Tiên nét mặt bình tĩnh không chút biến đổi.

Nhà vua đứng ngước mắt nhìn xem ông Tiên này có phản kháng với mình gì không? Nhưng không.

Ngay giờ phút ấy quả đất tự nhiên rung động sáu lần, năm trăm vị tiên đệ tử theo Ngài tu học bay vót lên hư không ngó xuống hỏi rằng:

- Lạy Thầy! Thầy bị đau khổ như vậy có khỏi mất tâm nhẫn không?

Đáp: - Tâm ta vẫn bình tĩnh và cũng là tăng thượng duyên cho tâm nhẫn của ta lại càng thêm vững chắc!

Tới đây ông vua đã từ từ hạ cơn ghen, nhìn thấy ông Tiên vẫn thản nhiên, sự nhẫn đã thế, lại còn sự đau cũng không thấy hoài tâm, dịu giọng hỏi:

- Nhà ngươi tự nói tu phép nhẫn nhục lấy gì làm bằng cớ, cho có sự thật?

Đáp: - Ta không nói nhà vua cũng thấy được sự thật của ta, một là ta không khuất phục dưới thế lực áp bức bất minh thiếu nhận xét, hai là ta không quan tâm đến lưỡi kiếm của nhà vua chém ta, và ta cũng không có ác niệm gì đối với sự hung tàn của nhà vua, muốn biết rõ sự thật ta sẽ nguyện rằng: Nếu quả ta có thực hành đạo nhẫn nhục, huyết sẽ biến ra sữa, thân sẽ bình phục như cũ.

Đại Tiên nói xong, huyết tự nhiên biến ra sữa, thân thể lại hoàn toàn như xưa.

Nhà vua thấy sự nhẫn nhục của đại tiên hiển nhiên quá! Cảm động quá rùng mình, sởn gáy, sợ toát mồ hôi! Là mình đã quá ư nóng giận với tâm mê chấp tham dục nếu ta không xin lỗi sẽ bị chiêu họa.

Nhà vua vội vất kiếm xuống đất, quỳ trước mặt đại tiên thưa rằng:

- Thưa đại Tiên, chúng tôi hiểu lầm, vì quá si mê nên hôm nay đối với Ngài một cách quá đáng, vô nhân đạo, cúi xin Ngài tha thứ nhận lòng thành sám hối của tôi.

Đại Tiên đáp: Hôm nay nhà vua cũng vì nữ sắc, quá giận dùng kiếm chém ta tâm nhẫn của ta như đại địa, ta thề rằng sau khi ta được thành Phật ta sẽ dùng tuệ đao, chém ba cái độc, tham, sân, si cho nhà vua trước.

Nhà vua thấy Đại Tiên đã hoan hỷ tha thứ, và nhận lời tạ lỗi của mình, vái chào ra về.

Lúc ấy trong núi có các bộ Long, Vương, bộ quỷ thần thấy vua Ca Lợi vô cớ làm hủy nhục vị Đại Tiên, tức giận nổi cơn lôi đình làm cho mây khói u ám rợp trời, sấm sét vang dội, ý muốn hại vua và đánh chết họ hàng nhà vua cho bằng hết.

Đại Tiên thấy thế ngửa mặt lên trời nói rằng:

- Các ông nên buông lòng bao toả khắp muôn loài, nếu có thiện chí với tôi, bênh tôi, thì xin đừng làm hại nhà vua!

Từ đó vua Ca Lợi, tự hạ mình xuống như người đệ tử tôn kính Đại Tiên như Thầy, luôn luôn đến thăm viếng cúng dàng, cũng có lúc mời về vương cung giảng dạy.

Thời ấy cũng có một bọn Phạm Chí chừng ngàn người tu theo tà đạo, thấy vua Ca Lợi kính trọng biệt đãi vị Đại Tiên, sinh lòng ghen ghét thuê người lấy phân trát lên tòa ngồi của Đại Tiên, lúc vắng mặt, đã nhiều lần nhưng không biết rõ kẻ nào có tâm nham hiểm xấu xa, một thái độ đê hèn; sau cùng do sự điều tra chắc chắn của nhà vua, bắt được những kẻ gian ác đem ra tra hỏi, chúng tự xưng là bọn Phạm Chí mướn. Lập tức vua Ca Lợi hạ lệnh bắt hết nhóm Phạm Chí lại cung môn.

Đại Tiên vốn lòng Từ bi và đương thực hành đạo nhẫn nhục, nên xin vua tha tội cho họ. Trước nhà vua và đại chúng, Đại Tiên phát thệ rằng:

- Tôi vì chúng sinh tu hạnh nhẫn nhục tích góp công phu không lười mỏi, để cầu thành Phật, sau khi được thành tựu, tôi sẽ lấy nước pháp trí tuệ tẩy trừ cho hết trần cấu uế dục lũ các người này được trong sạch trước.

Tới đây Phật nhắc lại cho tôi hay rằng:

- A Nan! Ông Sàn Đề Bà La thuở đó chính là tiền thân của ta, vua Ca Lợi nay là ông Kiều Trần Như, bốn quan đại thần thuở đó nay là bốn vị Tỳ kheo cùng nhóm với ông năm người, còn ngoài đạo Phàm Chí lúc đó nay là ông Uất Tỳ La Ca Diếp và ngàn vị Tỳ kheo này.

Thuở đó ta thề nguyện độ cho các ông ấy trước, nay ta thành Phật nên các ông ấy được độ trước. Như vậy biết lời thề nguyện không sai.

Khi đại chúng nghe Phật nói xong, ai nấy đều vui mừng, tán thán hạnh nhẫn nhục của Ngài thực là hy hữu, rồi cùng nhau lễ tạ lui ra.

 

13/ Phẩm thứ mười ba VUA TỪ LỰC CHO HUYẾT

Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Hoàn buổi sáng ấy, bầu trời êm ả, thả làn gió nhẹ qua những hàng cây vi vút; buổi trà nước dâng Phật vừa xong, tôi (A Nan) ra khoảng rừng vắng tọa thiền dưới gốc cây tự nghĩ như vầy: Đức Phật ra đời biết bao người được nhờ ơn tế độ, thế giới thanh bình, nhân dân an lạc, cây cỏ xinh tươi, muôn loài hớn hở, là do nhờ đức hóa của Ngài, lại nghĩ rằng: Nhóm ông Kiều Trần Như trồng nhân lành gì? Nương nhân duyên gì? Cửa Từ bi thuyết pháp cứu sinh, bọn ông được vào trước? Trận mưa cam lồ bắt đầu bọn ông được tắm trước? Nghĩ xong tôi đứng dậy về Tinh xá đem ý nghĩ trên bạch Phật, Phật bảo tôi rằng:

- A Nan, nhóm ông Kiều Trần Như đã một lần sắp bị chết đói, vì lòng Từ bi nên ta trích huyết trong người ra cho các ông ấy uống, bởi thế nay được nghe pháp trước, giải thoát trước.

- Kính lạy đức Thế Tôn! Vì duyên gì mà các ông ấy bị đói? Tại sao không ăn các món khác lại phải uống huyết mới sống? Cúi xin Ngài nói lại cho con và đại chúng đây được rõ!

Phật dạy rằng: - A Nan! Ông muốn biết câu chuyện ấy hãy chú ý nghe: Thuở đó tới nay tính số kiếp A tăng kỳ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua nước lớn, tên là Di Già La Bát La (Tàu dịch: Từ Lực) cai trị tám mươi bốn ngàn nước nhỏ, hai vạn bà Phu nhân, một vạn quan đại thần, nhà vua Từ bi khoan hậu, đủ bốn tâm bình đẳng, thương dân giúp vật, thường đem mười điều lành giáo hóa, trong nước được thanh bình an lạc, muôn phương kính nể.

Thời ấy có các loài Dịch Quỷ, hay đi bắt người để uống máu ăn tiết, chứ không sống bằng cơm gạo, ngô, khoai.

Những người dân thuở đó theo lệnh của nhà vua bắt buộc ai cũng phải tu mười điều lành, giữ thân, miệng, ý thanh tịnh. Vì thế bọn ác quỷ không dám đến gần, không thể bắt ai ăn được, nên chúng bị đói, chỉ còn da bọc xương, khí lực đã gần tuyệt. Bấy giờ có năm con quỷ đến tâu vua rằng:

- Tâu bệ hạ: Chúng tôi sống bằng sự ăn uống khí huyết của loài người. Nhà vua dạy dân tu theo mười điều lành; vì họ tu theo mười điều lành, nên có các thiên thần ủng hộ, chúng tôi không dám bắt ăn thịt, bị đói đã lâu, chỉ còn chờ chết. Vậy nhà vua làm hạnh Từ bi há không thương lũ chúng tôi sao?

Nhà vua nghe quỷ nói, trong tâm rất cảm động, hỏi rằng:

- Ngoài máu thịt người các ngươi dùng gì?

- Tâu Đại Vương máu thịt người là món chính, ngoài ra không dùng món gì có thể bảo tồn được thể xác.

Vì quá thương họ đói, nên nhà vua lấy dao khoét mình ra năm lỗ rồi nói:

- Máu của ta đây các ngươi lấy bát lại hứng mà uống.

Bọn quỷ vui sướng quá! Đương đói, tranh nhau cầm bát lại vừa hứng vừa uống, uống xong lạy tạ xin về.

Nhà vua nói: - Hãy khoan! Ta bảo đã: Các người bị nghiệp báo làm thân quỷ là do đời trước ham uống máu ăn thịt chúng sinh, lại thêm lòng tham sẻn, nên ráng tu theo mười điều lành, tương lai ta thành Phật ra sẽ lấy Pháp thân và huyết giới, định, huệ, để trừ tâm tham dục ba độc đói khát cho lũ ngươi, và sẽ đưa lũ ngươi tới chỗ an vui vĩnh viễn.

Tới đây đức Phật nhắc lại rằng:

- A Nan! Nên biết: Vua Từ Lực thuở đó chính là tiền thân của ta đây, năm quỷ Dạ xoa, nay là nhóm ông Kiều Trần Như năm người. Thuở đó ta hứa độ cho bọn ông ấy trước, nên nay các ông ấy được nghe thuyết pháp trước, và được giải thoát trước.

Bây giờ, tôi và đại chúng được nghe câu chuyện đời quá khứ của Ngài và năm ông, ai ai cũng sợ toát mồ hôi, với lòng Đại bi của Ngài, với chí sắt đá của Ngài ai mà bì kịp, rồi cùng nhau lễ tạ lui ra.

 

14/ Phẩm thứ mười bốn HÀNG PHỤC LỤC SƯ

Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở thành Vương Xá, tại vườn Trúc cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo ở đó.

Vua Bình Sa là người mến mộ Phật giáo, ông theo Phật nghe thuyết pháp đã lâu, và thực hành tu tiến, nên bấy giờ ông đã chứng được sơ quả, bởi vậy, lòng tin của ông lại càng kiên cố. Ông thường dâng thuốc thang, áo Cà sa, giường đệm, món ăn quí lên cúng Phật và chư Tăng; ông rất tôn trọng, những người hay làm điều lành, và khi tới đâu, ông cũng khuyên người tu theo Phật giáo.

Trong nước ông có bọn Phú La Na Lục Sư, làm giáo chủ ngoại đạo, cũng thời đó, nhưng ra đời trước Phật ít năm, họ đem tà thuyết để dối đời bịp dân, những kẻ cuồng si không biết nhận xét chánh tà theo họ rất đông. Song em nhà vua cũng theo học bọn chúng, làm một con tin thuần cẩn, trí óc ngâm chìm dưới nguồn sâu của bọn họ. Đem tiền của cung cấp đã lâu ngày, tài sản bị khuynh vong, gia đình bại hoại, cũng như kẻ bị bùa mê, bánh mến, không khác.

Đức Phật ra đời như vầng thái dương, xuất hiện luồng quang minh, soi khắp không gian muôn loài ấm áp, cây cỏ xinh tươi; ánh tuệ sáng đã tung tỏa khắp muôn phương, biết bao người đắc quả thành công trên đường giải thoát. Kẻ không biết theo một đạo giáo chân thật, khác gì loài rùa nằm dưới đầm sâu, cóng rét chịu quanh năm, mà không biết có ánh mặt trời trên đại địa, cũng như em vua Bình Sa, chịu buộc mình nơi tà giáo ngoại đạo, không biết nhận xét chánh tà.

Vua Bình Sa thương em mê muội, với tính cố chấp, hết sức thuyết đạo lý của Phật giáo cho nghe, và giục em mời Phật; phải tôn kính Phật, phải bỏ tà đạo, người em vẫn không chịu nhận lời và thưa rằng:

- Thưa anh! Muôn triệu người trên vũ trụ bao la, mỗi người một ý nghĩ khác nhau, không ai giống ai; mỗi người có sự nhận xét riêng, mỗi người có một sở thích riêng, anh theo giáo lý đạo Phật, anh khen Phật hay, tôi theo phái Lục Sư dĩ nhiên tôi hợp với lý trí của tôi là phải là đúng, là cao, tôi mới theo, nhưng anh đã nói tôi sẽ mời Thầy tôi và Phật đàm luận về đạo lý hơn kém sẽ bày tỏ.

Nhà vua cười nói: - Hay lắm! Nay mai chú mời luôn đi, nhưng chú phải cam đoan với tôi. Nếu Phật hơn thì chú phải bỏ Thầy chú theo Phật cùng tôi, nếu Phật kém tôi sẽ bỏ Phật để theo cùng chú!

- Vâng! Dĩ nhiên.

Ngày mai vua Bình Sa lên bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Muốn cho toàn quốc dân thoát khỏi vòng ác đạo, cùng được hưởng sự an vui từ đời này cho đến kiếp khác, con nhận thấy ngoài sự giáo hóa của Ngài ra thì không có đạo giáo nào hơn được, dân con có bọn Lục Sư, cũng đường đường một tôn giáo, đem những tà thuyết mị dân, đưa người vào hố sâu hang hiểm làm mồi cho hùm, beo, lang sói, chết đọa tam ác đạo. Con có người em cũng theo bọn chúng, hết sức răn bảo mà không chuyển lòng, con định bảy ngày nữa, mời Thế Tôn ra thí tràng, sau đó cho tìm bọn Lục Sư tới, để Ngài hóa phục dẹp bỏ đạo tà, hiển dương chánh đạo, một yếu điểm nhất là muốn cho quần chúng biết sức thần biến và đạo lý của Ngài để họ tự bỏ rơi bọn Lục Sư, cúi xin Từ bi hoan hỷ cho chúng con được trượng thừa công đức!

Đức Phật mỉm cười nói:

- Việc ấy cũng nên, làm Nhân Chúa có trách nhiệm mở mang trí óc khôn sáng cho dân, làm gấp ta vui lòng!

Nhà vua hoan hỷ lễ tạ lui ra, khi về hạ lệnh cho toàn quốc biết rằng:

- Quốc dân nên biết! Trong bảy ngày nữa, đức Thế Tôn và Lục Sư sẽ đàm luận về đạo giáo, ai muốn biết, thì đến nơi thí tràng.

Em vua Bình Sa sửa soạn bàn, ghế, tòa ngồi rất trang nghiêm, tới ngày thứ bảy Lục Sư tới trước tiên, em vua trịnh trọng mời lên ngồi tòa cao đẹp, các nhà văn hào dân chúng đến đông như kiến cỏ, nhưng không thấy Phật đến, người em vua hỏi:

- Anh giục tôi mời ông Cù Đàm (Phật) các Thầy tôi và dân chúng tới đông sao không thấy Ông ấy tới?

- Chú đã đi mời Ngài chưa.

- Chưa!

- Chú sai người đi mời Ngài hoặc chú đi, hôm trước tôi mời Ngài đã hứa.

Đương nói thì Phật đến, vua Bình Sa ra đón Phật, khi vào tới nơi, những tòa cao đẹp bọn Lục Sư đã ngồi hết cả, thấy thế nhà vua nóng lòng, nhưng không biết nói sao, chỉ riêng trách em mình. Đức Phật và chư Tăng phải ngồi tất cả những hàng ghế dưới.

Khi Phật ngồi yên tĩnh chừng được ba phút, bỗng nhiên thấy Ngài và chư Tăng ngồi trên ghế cao, bọn Lục Sư ngồi dưới chót, Lục Sư hổ thẹn đứng dậy, em nhà vua lại vác ghế lên cao mời Lục Sư ngồi, ngồi xong chừng một phút lại thấy ghế dưới chót, Phật ngồi trên cao, cứ như thế đến ba bốn lần, nhưng vẫn bị ngồi hàng ghế cuối, tới đây họ biết không có năng lực gì địch thủ, nên chịu ngồi ngượng ở đó.

Khi dâng nước, họ cứ theo thứ tự, tòa trên dâng trước, tòa dưới dâng sau. Đầu tiên dâng lên Phật.

Phật nói:

- Dâng Thầy của các ngươi trước, dâng ta sau cũng được!

Theo lời Phật phán bảo, họ đưa nước dâng Lục Sư, khi giơ bình rót, tắc không chảy, sau dâng Phật, rót chảy, Phật rửa tay xúc miệng xong, làm phép chú nguyện.

Xong việc trà nước bắt đầu dâng cơm, họ dâng Phật trước, Phật nói:

- Hôm nay các ngươi không phải vì ta mà thiết bữa cơm nay, ta chỉ là khách, Thầy các ngươi là mục đích hơn, ngươi hãy dâng Thầy ngươi trước để Thầy ngươi chú nguyện cho.

Theo lời Phật dạy, bắt buộc họ mời Lục Sư chú nguyện, lúc chưa mời không sao, sau khi mời họ nhìn thấy Lục Sư hai hàm răng cắn chặt, không thấy nói năng cầu nguyện gì, chỉ biết giơ tay làm hiệu, xua những người ấy đến chỗ Phật, Phật làm phép chú nguyện xong.

Bắt đầu dâng món ăn, Phật nói:

- Hãy dâng Thầy các ngươi trước!

Họ phải theo lời Phật dạy, khi dâng lên Lục Sư, các món ăn bay bổng lên hư không lơ lửng trên đó và không rơi, làm cách nào cũng không thể lấy được, chờ khi dâng món ăn lên Phật và Tăng Chúng xong, thì các món ăn ấy rơi xuống trước mặt Lục Sư.

Khi dùng cơm xong, Phật gọi em vua bảo rằng:

- Khanh mời Thầy khanh thuyết pháp trước đi.

Người em mời thuyết pháp, Lục Sư im thít không nói năng gì, té ra hai hàm răng cắn chặt lúc nào không biết, đồng thời bọn chúng giơ tay làm hiệu; ý nói đến mời Phật thuyết pháp còn ta bị câm họng ráo trọi.

Bọn đồ đệ của Lục Sư biết Thầy mình thất thế và kém hẳn đã có ý chán nản phát ra tự đáy lòng, bấy giờ em vua và dân chúng lại lễ Phật và mời Ngài thuyết pháp.

Trước khi Phật thuyết pháp quả đất động chuyển sáu lần, hào quang năm sắc chiếu khắp đại thiên thế giới. Đức Phật như một đấng cha hiền thương đàn con dại, như một bực đại Giáo Sư đối với kẻ sơ tâm mới học, với đại chúng Ngài ra những lời hòa nhã dịu dàng, diễn thuyết các pháp, tính, tướng, phân biệt nghĩa lý sâu huyền, thế gian, và xuất thế gian.

Đại chúng nghe xong có rất nhiều người được giác ngộ, em vua Bình Sa chứng được Pháp Nhãn Tịnh, ngoài ra còn có người sơ quả cho đến tam quả, còn những vị xuất gia được lậu tận, có vị phát tâm Vô thượng chứng quả bất thoái. Toàn thể đại chúng dự hội hôm ấy ai ai cũng phân biệt được chánh tà, họ phát tâm tin kính ngôi Tam bảo, trở về quy y Phật, thờ Phật làm Thầy và bỏ rơi bọn Lục Sư, không cúng dàng thừa sự chúng nữa.

Tới đây mọi người đều đứng lên, ca tụng những công đức Ngài đã ban cho và phát nguyên xin theo làm đệ tử, đảnh lễ lui ra.

Lục Sư vừa bị nhục, vừa mất thể diện căm hờn tụ tập lại một nơi bàn kế để trả thù đức Phật, họ ra nơi rừng vắng học tập các phép lạ, và nghiên cứu các kỹ thuật.

Lúc ấy Thiên ma Ba Tuần thấy đồ chúng của mình thua Phật, dân chúng chán ghét, tất nhiên đạo của họ không truyền bá được, y liền bay xuống hóa làm hình Lục Sư tới để biểu diễn các phép lạ, và truyền phép cho Lục Sư, xong lại bay về Thiên Đàng.

Lục Sư sau khi được phép của Ba Tuần truyền thụ vui mừng quá! Tự đắc chí cho là cao diệu, là tối thắng, chúng tập hợp bàn nhau rằng: - Hôm trước bọn ta bị nhục, mọi người phải ly tán, giờ đây xem sự thần biến của Thầy chúng ta truyền thụ, có dư để hàng phục ông Cô Đàm Sa môn, bây giờ yêu cầu vua lập một cuộc thi thần thông, để xem hơn thua thế nào, bàn nhau xong họ lên tâu rằng:

- Tâu Bệ Hạ, chúng tôi sẽ có đủ pháp lực tài năng thần biến, xin Bệ Hạ lập một cuộc đấu phép với Phật, để cho quốc dân biết tài năng của chúng tôi.

Nhà vua cười nói: - Lũ bây thực là ngu si quá, Phật có đạo đức cao siêu phép thần túc vô ngại, các ngươi muốn thi với Phật, chẳng khác lửa đom đóm muốn tranh ánh mặt trời, nước vết chân trâu đem ví với biển cả, loại Dã Can lại muốn thi hùng với muôn sư tử, đống đất tổ kiến đem ví với lực cao núi Tu Di, những hình lớn nhỏ coi thấy rõ ràng, thấp kém lại muốn nghển cao, các ngươi sao lại ngu lỗ quá như vậy?

Lục Sư nói: - Tâu Bệ Hạ! Ngài chưa biết phép luật của chúng tôi, đó là Ngài thiên vị, tự cho ông Cô Đàm (Phật) là người tuyệt đối không còn ai hơn, chúng tôi quyết thử tài một phen hay dở Ngài sẽ rõ!

Vua nói: - Tại sao bữa trước các ngươi không đem tài ra đối phó, nay còn nói khéo nói khôn làm chi?

- Tâu Bệ Hạ! Hôm đó chúng tôi chưa đủ phép lực, bây giờ có đủ khả năng đối thủ!

- Không sao! Muốn thì ta sẽ lên thưa với Phật, nhưng chỉ sợ các ngươi tự để nhục cho hậu thế!

- Tâu Bệ Hạ! Chúng tôi xin hẹn bảy ngày nữa, Bệ Hạ hãy cho dân chúng sửa sang nơi thí tràng bằng phẳng.

Sau khi Lục Sư ra về, nhà vua lên xe đi đến chốn Phật, lễ xong quỳ gối chắp tay thưa rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư còn rắc rối quá; hôm qua chúng lên xin thi thần lực với Thế Tôn, con đã lấy lý luận phân trần và la mắng nhưng bọn chúng còn ra vẻ không chịu. Vậy kính xin Ngài ra sức thần biến để hóa phục bọn tà ác trở về chánh đạo, nhân đấy con và dân chúng được coi sự thần thông biến hóa của Ngài.

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời.

Vua Bình Sa lễ tạ lui ra, về vương cung sắc lệnh cho quân dân sửa sang nơi thí tràng, đặt bàn ghế, kê tòa ngồi cao đẹp cúng Phật, chung quanh kết hoa, treo phan phướn, các ngả đường kéo biểu ngữ để cổ động cho dân chúng đến xem.

Tới ngày thứ bảy Đức Phật và các vị đệ tử, từ thành Vướng Xá đi sang nước Tỳ Xá Ly, nước ấy có bọn ông Luật Xương và nhân dân ra đón rước.

Buổi sáng ấy, dân chúng thành Vương Xá xôn xao, không biết Phật đi đâu, hỏi thăm mãi mới biết Ngài đi sang nước Tỳ Xá Ly.

Lục Sư hay tin Phật đi, không ở lại đấu phép đắc chí nói:

Ông Cô Đàm (Phật) trí tuệ và thần biến kém, biết sức không địch nổi nên tìm đường tẩu thoát, thế mà mọi người còn do dự không tin.

Tâm ngã mạn của Lục Sư lên cao quá, tự tuyên bố rằng:

- Chúng tôi sẽ đuổi cho tới cùng.

Được tin Phật sang nước Tỳ Xá Ly, vua Bình Sa lập tức sai sửa soạn lương thực năm trăm con ngựa, năm trăm xe, tổng số quan quân mười bốn ức người, sang nước Tỳ Xá Ly, Lục Sư cũng theo vua sang, chúng thưa với Luật Xương rằng:

- Thưa Ngài! Chúng tôi tới đây muốn để thi thần thông, và đàm luận về thực tính với ông Cồ Đàm, xin Ngài cho ông ấy rõ, và hẹn bảy ngày nữa sẽ bắt đầu!

- Vâng! Quí Ngài muốn thế, tôi sẽ thưa với Phật giùm.

Luật Xương tới lễ Phật thưa rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư si mê quá! Tự nói có đạo lực nên xin lên thi thần biến. Vậy kính xin Thế Tôn hàng phục bọn gian ác ấy!

Phật nói: Hãy biết thế, ta tự tri thời!

Luật Xương lễ tạ lui ra, về sửa soạn nơi thí tràng, lương thực các đồ cúng dàng trọng hậu, dân chúng nôn nao, chờ ngày để xem cuộc đấu thần thông.

Sáng ngày hôm sau, Phật và Tăng chúng đi sang nước Châu Diệm Di, vua Ưu Điền đem quan quân ra đón tiếp. Cũng buổi sáng ấy nhân dân nước Tỳ Xá Ly xôn xao hỏi nhau rằng:

- Sáng nay Đức Phật đi đâu?

- Có người nói: Đức Phật và chúng Tăng sang nước Câu Diệm Di buổi sáng sớm.

Lục Sư thấy thế, tâm ngã mạn lại càng lên cao, và đắc chí lắm, bảo nhau phải theo đuổi cho bằng cùng.

Được tin Phật đi khỏi ông Luật Xương đem năm trăm cỗ xe chở lương lực và bảy ức người cùng với vua Bình Sa sang nước Câu Diệm Di.

Lục Sư vào yết kiến vua Ưu Điền rồi thưa rằng:

- Tâu Hoàng Đế! Sa môn Cồ Đàm, tự biết lực không địch nổi, nên Thầy trò phải trốn sang đây, xin Hoàng đế cho chúng tôi thi thần thông với ông ấy!

- Vâng! Quí Ngài muốn thế tôi sẽ thưa với Phật giùm!

Ngày mai vua Ưu Điền lên bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, Lục Sư ngày qua lên yêu cầu để thi thần thông, kính lạy Ngài có nhận lời ấy không!

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời!

Vua Ưu Điền lễ tạ ra về, sửa soạn nơi thí tràng chờ Phật định ngày đối thí. Sáng hôm sau Phật và Tăng chúng đi sang nước Việt Kỳ, vua Chuân Chân Đà La cùng với nhân dân ra nghinh tiếp đức Thế Tôn.

Hôm sau người nước Câu Diệm Di không thấy Phật, xôn xao hỏi nhau thì có người nói:

- Phật và chư Tăng sang nước Việt Kỳ sáng qua.

Hay tin Phật đi khỏi, Lục Sư và vua Ưu Điền, vua Bình Sa và quan quân dân chúng, cũng đi sang nước Việt Kỳ. Lục Sư vào yết kiến Chuân Chân Đà La và trình bày ý kiến của mình, sau yêu cầu vua làm thế nào được đấu phép với ông Cô Đàm.

Đáp: - Vâng, quí Ngài muốn đấu tôi sẽ thưa với Phật."

Vua Chuân Chân Đà La lễ lên Phật xong, rồi quỳ thưa những ý định của Lục Sư.

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời!

Nhà vua lễ tạ lui ra, về cung sắc lệnh cho quân sửa soạn và trưng bày nơi thí tràng, sắp tới ngày thi Phật và chư Tăng lại sang nước Đặc Xoa Thi Lợi, vua Nhân Đà Bà Di cùng với quan quân ra đón rước.

Hay tin Phật đi khỏi, vua Chuân Chân Đà La với năm ức người, cùng với Lục Sư vua Bình Sa và tất cả đều theo Phật sang nước Đặc Xoa Thi Lợi.

Lục Sư vào yết kiến vua Nhân Đà Bà Di và khoe khoang những lời cao đại rồi nhờ vua giới thiệu để thi thần thông với Phật. Nhà Vua nhận lời, lên bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, hôm qua Vua các nước và quan quân đến đây đông lắm về việc thi thần thông với Lục Sư, cúi xin Ngài Từ bi ra phép thần hàng phục kẻ tà đạo, để cho tất cả chúng sinh trong Châu Diêm Phù Đề theo về chánh giáo.

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời!

Ngày thi gần tới, đức Phật lại sang nước Ba La Nại, vua Phạm Ma Đạt hay tin Phật tới, đem quan quân ra biên giới đón Phật về thành.

Buổi sớm mai dân chúng nước Đặc Xoa Thi Lợi, mang các món ăn ra đường đón Phật và Chư Tăng không thấy, hay tin Phật sang nước Ba La Nại, khi đó vua Nhân Đà Bà Di, vua Bình Sa, Lục Sư và tất cả các ông vua đều theo Phật sang nước Ba La Nại.

Lục Sư vào yết kiến vua Phạm Ma Đạt và trình bày ý kiến của mình, lại yêu cầu vua làm cách nào được thi thần thông với Phật, nhà vua nhận lời.

Sáng hôm sau vua Phạm Ma Đạt lên bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, Lục Sư hôm qua lên xin thi thần thông với Ngài, cúi lạy Ngài ra phép thần biến tiêu diệt bọn ác quỉ hại dân vô ích.

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời!

Đêm ấy và Tăng chúng đi sang Ca Tỳ La Vệ.

Hay tin Phật tới, ông Thích Chủng Bối và đại chúng ra đón Phật về Kinh.

Sớm ngày mai, dân chúng nước Ba La Nại mới biết đức Phật đi du hóa nơi khác.

Hay tin Phật đi khỏi, vua Phạm Ma Đạt, vua Bình Sa, Lục Sư và tất cả quan quân các nước, đi theo Phật, sang nước Ca Tỳ La Vệ.

Lục Sư vào yết kiến ông Thích Chủng Bối và trình rằng: Đến đây mục đích để thi thần thông với Phật, nhà vua nhận lời, và hứa sẽ thưa với Phật giùm.

Ngày mai ông lên lễ Phật xong bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, Lục Sư cố tình theo Ngài đòi thi thần thông, cúi xin Từ bi hoan hỷ dẹp bỏ lũ ngoan cố mị dân, cho toàn cõi theo về một mối!

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời!

Ông Thích Chủng Bối sắc lệnh sửa sang nơi thí tràng, và ấn định ngày thi, xong sắp tới ngày thi, đức Phật và Tăng chúng sang nước Xá Vệ, vua Ba Tư Nặc nghe tin Phật tới đem quan quân ra biên giới đón.

Ngày mai ông Thích Chủng Bối mới hay tin Phật đi khỏi. Ông Thích Chủng Bối đem chín ức người, vua Bình Sa, Lục Sư và Vua quan dân chúng các nước, đồng thời kéo sang nước Xá Vệ.

Lục Sư vào tâu vua Ba Tư Nặc rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Chúng tôi muốn thi thần thông với ông Sa môn Cù Đàm đã qua bao nhiêu nước, sắp kỳ thi ông tự biết không có lực địch nổi nên cùng đại chúng lẩn trốn sang đây, mong Bệ Hạ cho chúng tôi được thi thần thông với ông ấy!

Vua Ba Tư Nặc mỉm cười nói: - Đức Phật có phép thần túc vô ngại, khi mới thành đạo, Thiên Ma Ba Tuần, thiên biến vạn hóa còn phải phục đầu xưng tội, quy y làm đệ tử, lũ ngươi đã ra gì, kẻ hèn mạt, thấp hèn, sao có thể đối với ngôi Đại Pháp Vương được.

Lục Sư nghe nói, nổi giận khí sắc biến đổi, tỏ vẻ bực tức vô cùng nói:

Chẳng qua Ngài quá ư thiên lệch nói thế, Ngài đã biết thần biến của chúng tôi chưa?

Nói xong ra về, tỏ vẻ bất mãn trước nhà vua.

Ngày mai vua Ba Tư Nặc đến chốn Phật đầu mặt lễ sát đất quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư ân cần xin thi thần thông, cúi xin Ngài ra sức thần thông, tiêu diệt bọn con buôn không vốn, bịp bợm một cách giả đạo đức, nếu để chúng thì dân tộc trên thế giới này bị đau khổ về vật chất lẫn tinh thần, vì chúng đủ mưu mô mánh khóe lừa gạt lòng người. Xong những người trí thức mới hiểu biết tâm thâm độc của bọn chúng.

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời!

Lần này vua Ba Tư Nặc quyết định mời Phật để đấu thần thông, ông sắc lệnh cho quan quân sửa sang nơi thí tràng bằng phẳng, bàn ghế tòa ngồi trang nghiêm, treo cờ phan phướn, lọng, kéo biểu ngữ, kết hoa treo đèn, mua rất nhiều hương hoa trình bày rất đẹp đẽ, ông lên điện nơi đức Thế Tôn ngự, ân cần tha thiết cầu thỉnh. Phật thấy ông nhiệt tâm thành khẩn, nên Ngài nhận lời. Giữa ngày mồng một tháng mười hai Phật ra thí tràng, Lục Sư với vua các nước, dân chúng đều đến đông đảo.

Ngày ấy vua Ba Tư Nặc sửa soạn các món ăn ngon lành, buổi tinh sương dâng Phật một cành dương. Phật dùng nạo răng, nạo xong Ngài vẩy bựa xuống đất, tự nhiên sinh ra những cây cối xanh om, um tùm râm mát, cao đến năm trăm do tuần, cành lá ườm rà, sinh ra những bông hoa to như vòng bánh xe, kết thành những quả to, bằng cái bình đựng năm đấu lớn, cành cây gốc rễ hoa quả thuần bằng Thất bảo, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách v.v…, màu sắc tươi đẹp, phát sinh ra những ánh sáng lấn mặt trời, mặt trăng, người được nếm mùi vị quả ấy, thấy sung sướng ngon lành một cách siêu nhiên, nghĩa là trên thế gian chưa từng có, hương thơm tung tỏa, khắp không gian, qua mũi ai, họ thấy tính tình vui vẻ, gió hương ấy thổi tới đâu, làm cho muôn vật hớn hở xinh tươi, các cành lá đều phát ra những tiếng thuyết pháp, trong đại hội im phắc không một tiếng động để đón nghe những âm thanh dịu dàng hòa nhã, nghe vui không chán! Càng nghe càng cảm mến đạo mầu Vô thượng, tất cả mọi người trong đại hội thấy sự biến hóa của cây này, tâm sinh tin kính ngôi Tam bảo càng thêm khắng khít. Sau Phật giải đáp những nghĩa lý sâu huyền cho hợp với lý trí mọi người nên tất cả đều được hiểu ngộ, khi đó những người nhiệt tâm cầu Phật Pháp kết quả được sinh thiên, một số rất đông.

Ngày thứ hai, vua Ưu Điền thỉnh Phật cúng trai. Hôm ấy đức Phật hóa ra hai quả núi báu đứng hai bên, núi này toàn bằng vàng bạc trân bảo hợp lại thành năm sắc huy hoàng, coi rất đẹp đẽ, trên núi có những cây mọc thành từng hàng, hoa quả tốt tươi, trong núi phát ra những mùi thơm ngào ngạt, một trái núi trên đỉnh sinh ra thứ lúa tám cánh, lúa này là một thứ lúa quý nhất trong các lúa, nếu đem nấu cơm thì mềm dẻo hương vị thơm ngon; một trái, ở trên đỉnh có thứ cỏ mềm nhũn thơm tho, béo bổ, những loài Súc sanh tới ăn, ăn rồi khí lực sung túc có ánh sánh, phát sinh trí tuệ, tâm tình hòa vui.

Tất cả mọi người thấy phát hiện hai trái núi lạ thường, và họ được ăn quả thấy an vui, thân thể cường tráng hết bệnh tật hết sầu não, nên họ một lòng tín ngưỡng ngôi Tam bảo, đức Phật tùy theo căn cơ để diễn thuyết nghĩa lý cao diệu nhân quả luân hồi cho hợp với trình độ của họ, ai nấy trí óc khai sáng thấu rõ đạo mầu, phát tâm cầu đạo Bồ đề, kết quả sinh thiên một số rất đông.

Đến ngày thứ ba, vua Chuân Chân Đà La thỉnh Phật cúng dàng, buổi sáng sớm ông dâng Phật chén tịnh thủy, Ngài súc miệng rồi nhổ xuống đất, chốn đó tự nhiên thành một cái ao mỗi bề dài hai mươi dặm, quanh bờ ao thuần bằng ngọc Thất bảo trộn lẫn nhau, các sắc phát ra chiếu sáng tưng bừng, nước đủ tám công đức, dưới lòng ao thuần cát Thất bảo, trong ao có tám thứ hoa sen lớn như vành bánh xe, xanh, đỏ, trắng, hồng, tía, biếc đủ các sắc, lan tràn bốn mặt, ánh sáng của hoa tùy theo các sắc phát sinh, làm sáng choang trời đất.

Thấy thế tất cả đại chúng đều vui mừng và ca ngợi Phật có đức vô lượng vô biên.

Phật quan sát tâm niệm của từng cá nhân xong, Ngài tùy theo lý tưởng của mỗi người, để thuyết pháp, sau cuộc thuyết pháp này được rất nhiều người phát tâm cao thượng tăng phần phúc nghiệp, sinh thiên rất đông.

Đến ngày thứ tư, vua Nhân Đà Bà Di thỉnh Phật cúng dàng, ngày hôm ấy đức Phật làm cho nơi bảo địa đó, bốn mặt tự nhiên có tám dòng nước, sức chảy mạnh và xoáy kêu thành tiếng, phát ra những âm thanh mầu nhiệm thuần nói các pháp: "Ngũ Căn" "Ngũ Lực" "Lục độ" "Thất Giác" "Bát Đạo" "Tam Minh" "Lục Thông" "Tứ Đẳng" "Đại Từ, Đại bi", mọi người nghe rồi đều được giác ngộ và quán triệt đạo lý, tăng phần phúc tuệ, kết quả sinh Thiên rất đông.

Ngày thứ năm, vua Phạm Ma Đạt thỉnh Phật cúng dàng, hôm ấy nơi miệng đức Phật phóng ra hào quang sắc vàng bao trùm khắp cõi đại thiên; hào quang ấy soi phải chúng sinh nào, thì "ba độc", "năm ấm" của chúng sinh ấy tiêu tan, thân tâm an lạc, cũng như các vị Tỳ kheo nhập đệ tam thiền. Khi đó mọi người đều vui vẻ tán thán kính mến đức Phật rất tha thiết. Sau khi nghe thuyết pháp xong ai nấy đều khai tỏ lý trí, phát đạo tâm, tiến tu phúc tuệ, một số khá nhiều.

Đến ngày thứ sáu, ông Luật Xương thỉnh Phật, hôm đó đức Phật làm cho tất cả mọi người trong đại hội tâm hiểu biết lẫn nhau, mỗi người đều có thể hiểu ý nghĩ của từng người, họ đang nghĩ thiện hay nghĩ ác, chí hướng hay hành nghiệp thế nào. Thấy thế ai cũng kính sợ Phật! Những sự mến mộ và vui mừng lại càng nồng nhiệt. Sau khi được nghe lời giảng của đức Phật, ai nấy sung sướng tâm trí mở mang, kết quả sinh Thiên cũng nhiều.

Ngày thứ bảy, ông Thích Chủng Bối thỉnh Phật. Hôm đó Phật dùng sức thần tức vô ngại, khiến cho mọi người trong hội tự thấy mình làm vua Chuyển Luân, có đủ cung điện, quan quân, ngọc nữ, Thất bảo, lại thêm một ngàn người con, vua các quan văn võ đều đến triều phục nơi mình. Thấy thế ai cũng kinh hoảng ngơ ngác, không biết tại sao? Sau đó tự thấy như một giấc chiêm bao, ai cũng chứng tỏ do sức thần của Đức Phật hóa hiện, nên lại càng tăng phần tín hướng và phát tâm Vô thượng Bồ đề, kết quả sinh Thiên rất đông.

Đến ngày thứ tám, vua Đế Thích thỉnh Phật, ngày đó vua Đế Thích bày tòa sư tử trang trí nơi Phật ngự, thuần bằng bảo vật trên thiên cung hương trời, nhạc trời, các món ngon quý dâng Phật, một bầu không khí khác hẳn với trần gian.

Đức Phật và Tăng Chúng bước ra, theo sau có vua Đế Thích, vua Phạm Vương, các ông Thiên Tử, tiếp đến quan quân, dân chúng. Tới nơi Phật thăng tòa ngồi yên tĩnh, vua Đế Thích đứng hầu bên tả, vua Phạm Vương đứng hầu bên hữu tất cả đại chúng yên lặng, chờ đón đức Thế Tôn thuyết pháp và hiện thần biến cho xem, muôn ngàn triệu con mắt đều chiếu hướng đức Thế Tôn.

Đức Phật dung nhan như vầng nhật nguyệt, hào quang sáng chói tựa núi vàng, miệng tươi như hoa nở, cất lời nói âm thanh vang xa khắp thế giới đại thiên, muôn loại chúng sinh đều hiểu thấu.

Khi đó Ngài cất cánh tay vàng, vịn xuống tòa ngồi, tự nhiên có tiếng gầm lớn, vang động như sét đánh, mọi người đều giật mình run sợ! Ở dưới tòa sư tử của Ngài nhảy ra năm vị Đại Thần Quỷ nhìn như mặt sắt da đồng gầm tiếng như muôn sư tử thét, chạy xông lại kéo bọn Lục Sư xuống đất đạp tòa ngồi gãy tan nát, tiếp đến Kim Cương mật Tích, tay cầm chày Kim Cương, trên đầu đầy lửa bốc lên vùn vụt, xông lại đánh bổ vào đầu Lục Sư.

Lục Sư hoảng hồn chạy tán loạn, vừa thẹn vừa nhục, bị thần Kim Cương đuổi, cùng đường, nên chúng đâm đầu xuống sông chết cả. Còn chín ức đồ chúng trở lại theo Phật cầu xin làm đệ tử. Thể theo lòng Từ bi, Phật cũng dung thứ và thâu nhận.

Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo.

Nói xong, những người ấy rụng hết tóc, áo trên mình biến thành áo Cà sa, biến thành các vị Sa môn theo Phật tu hành, không bao lâu hết lậu nghiệp thành La Hán.

Ngày thứ chín, vua Phạm Thiên thỉnh Phật. Ngài hóa thân cao lớn tới cõi trời Phạm Thiên uy nghiêm hiển hách phóng hào quang sáng lớn, tưng bừng khắp cõi Đại Thiên thế giới, khi đó đại chúng ai ai cũng nghe thấy tiếng nói:

Phật vì tất cả chúng sinh, diễn thuyết pháp yếu, khiến cho đại đa số người phát tâm cầu Phật, kết quả sinh Thiên nhiều không kể xiết.

Ngày thứ mười, Tứ Thiên Vương thỉnh Phật. Lúc ấy đức Phật dùng phép Tam Muội vô ngại, khiến cho mọi người trong đại hội thấy thân của Ngài ở khắp cõi trời những thân ấy đều phóng quang minh, và đương thuyết pháp cho đại chúng nghe.

Trong đại hội hiển nhiên tai nghe, mắt thấy những thần thông biến hóa vô ngại của đức Thế Tôn, ai nấy đều tha thiết tôn kính Ngài như đấng Cha Lành. Sau được nghe Ngài giải thích sự diệu dụng của tâm Chân Như vô ngại thể tánh bất diệt vô sinh của mỗi chúng sinh đều có, nên nhiều người giác ngộ dự vào hàng "Bất Thoái" còn những người đắc quả sinh Thiên rất đông.

Ngày thứ mười một, ông Tu Đạt thỉnh Phật. Hôm đó đức Phật đương ngồi trên tòa cao tự ẩn hình đi phóng quang minh sáng lòa trời đất, phát ra những tiếng dịu dàng, diễn thuyết phân minh các pháp yếu. Đại chúng nhiều người thấu tỏ đạo mầu, phát tâm Vô thượng chứng ngôi A Duy Việt Chí, đắc quả sinh Thiên khá đông.

Ngày thứ mười hai, ông Cư sĩ Chất Đà La thỉnh Phật cúng dàng. Ngày đó Phật nhập phép Từ bi tam muội phóng quang minh sắc vàng, so khắp cõi đại thiên, hào quang ấy soi vào chúng sinh nào, thì chúng sinh ấy hết tâm "Tam độc" nảy tâm Từ bi, lại có con mắt "Bình đẳng"coi chúng sinh như cha như mẹ, như anh, như em, lòng yêu không thêm bớt, sau khi thuyết pháp nhiều người lên ngôi "Bất Thoái" và đắc quả sinh Thiên khá nhiều.

Ngày thứ mười ba, vua Chuân Chân Đà La thỉnh Phật. Khi Phật thăng tòa ngồi yên tĩnh, nơi rốn Ngài phóng ra hai tia hào quang tỏa ra hai bên, cách thân bảy "nhận" (tức 56 thước) trên đầu hào quang đều có hoa sen, trên hoa có đức Phật hóa hiện, hình tướng cũng như đức Phật Thích Ca, các đức Phật ấy nơi rốn cũng phóng hào quang tẻ ra hai bên cách bảy nhật, trên những tia hào quang đều có hoa sen, trên hoa sen có đức Phật hóa hiện, cứ như thế chuyển biến lan tràn khắp cõi đại thiên, ai coi thấy cũng ngạc nhiên, vừa sợ vừa mừng, trộn lẫn!

Lúc ấy đức Phật theo trình độ của từng người mà thuyết pháp nên nhiều người đắc quả sinh Thiên không kể xiết.

Ngày thứ mười bốn, vua Ưu Điền thỉnh Phật. Hôm đó ông ra sắc lệnh cho các hàng hương hoa phải đem các thứ hương tốt, hoa tươi, quý đẹp vào dâng.

Buổi sáng sớm Hoàng Đế Ưu Điền, Hoàng hậu hoàng phi thể nữ quan quân, âm nhạc ra thí tràng, nhìn thấy Phật ngồi tòa sư tử nghiễm nhiên như quả núi, hai mắt chiếu tinh quang, trông rất tôn nghiêm, ông và toàn thể gia đình cúi đầu lễ Phật rồi dâng hoa lên cúng dàng.

Phật nhiếp phép thần túc biến những hoa ấy thành một ngàn hai trăm năm mươi bảy cỗ xe quý đẹp cao tới cõi trời Phạm thiên sáng như mặt trăng đêm rằm các bảo vật có ánh sáng phản chiếu nhau tưng bừng rực rỡ, như thần châu, tràng anh lạc, trang nghiêm nơi xe ấy, vô cùng tráng lệ.

Trong các xe đều có các đức Phật ngồi, phóng quang minh bao phủ ba ngàn cõi.

Đại chúng coi thấy sức thần biến như thế, trong tâm vừa kính mến, vừa vui mừng pha trộn lẫn nhau.

Đức Phật thuyết pháp cũng như ông Thầy thuốc tùy theo bệnh cho thuốc. Vì thế sau cuộc thuyết pháp, có rất nhiều người phát tâm hướng đạo, cũng có người được ngôi "Bất Thoái" kết quả sinh Thiên cũng nhiều.

Ngày thứ mười lăm, vua Bình Sa thỉnh Phật cúng dàng. Hôm đó Phật phán cho ông sửa soạn các món ăn. Theo lời Phật dạy nhà vua sai người bày rất nhiều chén bát và các đồ để chứa món ăn trên bàn, khi bày xong tự nhiên các chén bát đầy các món ăn ngon quý trên thiên cung, mùi cơm thơm ngào ngạt. Tất cả những người trong đại hội ăn cơm xong thân tâm dũng mãnh an vui.

Sau bữa ăn, đức Thế Tôn chỉ ngón tay xuống đất, ai ai cũng được nhìn thấy mười tám Địa ngục, và thấy rất nhiều tội nhân, những tội nhân ấy, tự nói những tội ác của mình đã tạo đời trước, nên nay họ phải chịu tội khổ.

Thấy thế ai cũng thương hại và sợ hãi cho mình, nên thân thể đều run rẩy không yên!

Để cho mọi người chứng tỏ của sự ác báo, có cụ thể, rồi Ngài phân tách những tội lỗi đó cũng do từ nơi thân miệng ý gây nên, và Ngài vạch vẽ những lối thoát khổ, nên nhiều người phát tâm đại đạo, kết quả sinh Thiên rất nhiều.

Những tội nhân được thấy Phật và nghe thuyết pháp, họ tự phát sinh lòng tôn kính quay đầu về nơi Phật, thì những tội nhân ấy được sinh Thiên hoặc sinh làm người tất cả.

Tới đây vua Bình Sa đến trước đức Thế Tôn, năm thể gieo xuống đất, lễ xuống ba lần, rồi quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, Ngài có ba mươi hai tướng tốt đẹp, chúng con chỉ được coi thấy tướng ở thân Ngài, hoặc ở tay Ngài, nhưng chưa từng bao giờ được nhìn thấy luân tướng ở gan bàn chân, vậy kính xin cho con và đại chúng ở đây được chiêm ngưỡng.

Theo lời cầu thỉnh của nhà vua, nên Phật ngửa hai bàn chân lên. Đại chúng nhìn thấy trang nghiêm nước da sáng suốt, những đường chỉ thẳng thắn phân minh, rành rẽ, càng xem càng mến! Nhà vua vui mừng bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chẳng hay đời quá khứ Ngài làm phước gì, được tướng đẹp này, cúi xin chỉ giáo?

Phật dạy: - Đại Vương nên biết, đời quá khứ ta tu thập thiện và đem thập thiện dạy cho người ta cùng tu, cho nên được luân tướng như thế!

- Kính lạy Ngài! Khi tu và dạy người nghe hãy như thế nào, cúi xin chỉ giáo cho chúng con được biết.

Phật dạy: - Đại Vương muốn nghe hãy chú ý nghe kỹ: Cách đây vô số kiếp A tăng kỳ, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua nước lớn tên là Đà La Ni Di, thống trị tám mươi tư ngàn nước nhỏ, tám mươi ức tụ lạc, một vạn quan Đại thần, hai vạn bà Phu nhân, nhưng không ai có con. Nhà vua lo tuyệt tự không người kế vị, nên thường hay cầu đạo ở miền Thiên Vương, được ít lâu bà Tu Lê Bà La là đệ nhất Phu nhân có thai, lòng nhân từ bác ái lại hay khuyên người làm lành. Mãn tháng khai hoa, sinh được Thái tử tướng mạo khôi ngô tuấn tú, một vẻ trượng phu đầy phúc đức, những lỗ chân lông đều có ánh sáng.

Khi bà sanh được Thái tử nhà vua vui vẻ khôn cùng! Triệu các Thầy tướng đến coi. Các Thầy tướng đều khen ngợi và nói:

- Tâu Bệ Hạ! Hoàng tử có đầy đủ phước đức oai nghi, sau này có thể trị an bốn bể, thiên hạ phải tùng phục, muôn phương kính nể.

Nghe Tướng sư nói, nhà vua rất hài lòng và nhờ đặt tên cho Thái tử.

Tướng sư nói: - Tâu Bệ Hạ, trong khi hoài thai có điềm tướng gì lạ không?

Đáp: - Khi đó Hoàng hậu có trí tuệ thông sáng và nhân từ, lại hay khuyên người tu thiện, còn các điềm lành cũng rất nhiều, nhưng có hai điềm ấy lạ hơn.

Tướng sư nói: - Tâu Bệ Hạ! Cứ theo Hoàng hậu có trí tuệ, và Hoàng tử có ánh sáng nơi thân thể thì xin đặt Na Bà La Mãn (Tàu dịch: "Tuệ Quang")

Quả nhiên Thái tử lớn lên có trí tuệ siêu nhân, tất cả các môn học thuyết đều thông hiểu, các danh nhân hiền triết trên thế giới đều bái phục lực thông minh của Thái tử. Năm ấy Thái tử chưa đến tuổi trưởng thành, thì vua cha băng hà (chết).

Trong triều các quan và nội cung hoàng tộc làm lễ an táng vua xong. Giữa lúc ấy có đông đủ tám vạn bốn ngàn vua nước nhỏ và triều thần văn võ bản quốc hội họp, bầu Thái tử lên kế vị đại Quốc vương. Thái tử nói:

- Kính thưa các Quốc vương quý quốc và văn võ bá quan, bản triều tôi thực không có năng lực đảm đương đại sự, xin suy tôn các vị có tài đức trị dân!

Các quan đều thưa:

- Thưa Thái tử, đại vương đã qua đời, chỉ sinh được mình Thái tử anh em không có một ai, nếu Thái tử không chịu ra chấp chính bây giờ nhường ai? Ai là người đương nổi?

Thái tử đáp: - Tôi nhận thấy trên đời lắm kẻ tàn ác, nếu ra lệnh hành phạt họ, thì tội ấy không phải nhỏ, nếu các Ngài trị dân chúng dùng chánh pháp và bắt dân tu theo pháp thập thiện thì tôi sẽ nhận chức bảo lãnh việc nước!

Các quan nói:

- Thưa Thái tử! Xin Thái tử thăng điện nhậm chức!

Theo lời nói, Thái tử thăng điện nhậm chức.

Sau ngày Thái tử lên làm vua, sửa sang việc nước rất có chánh thể ích quốc lợi dân, bãi bỏ hủ tục mê tín cờ bạc, mãi dâm, hút xách, rượu chè, và bắt dân phải thực hành tu theo thập thiện. Thái tử có đức lớn, lòng Từ bi cứu thế cảm động trời đất nên muôn dân vui vẻ tuân theo tu thập thiện, cải tà quy chính, đổi ác làm lành.

Khi đó Ma Vương thấy nhà vua bắt dân tu thiện, lòng đố kỵ nổi giận dùng mưu phá chánh sách tu thiện của muôn dân, chúng muốn cho dân làm nô lệ chết sa vào tam ác đạo, thực là đại ác nham hiểm vô cùng. Chúng mật làm một phong thơ báo cáo cho vua các nước để phá hoại sự giáo hóa tu thập thiện của nhà vua. Thư nói:

"Trước đây tôi có sắc lệnh cho nhân dân tu theo pháp thập thiện nhưng xét ra không được lợi ích gì! Chỉ luống công đau khổ thôi! Thực là một việc không có kết quả cho nhân sinh. Vậy từ nay trở đi cho muôn dân làm mười điều ác, các ông không được cử phạt."

Vua các nước tiếp được lá thơ ấy, lấy làm kỳ dị quá nói:

- Tờ chiếu chỉ của đại quốc vương không biết tại duyên gì bắt dân bỏ điều lành làm điều ác.

Sau các ông vua đều cho sứ thần đến hỏi nguyên ủy của bức thơ.

Khi nhà vua nghe thấy nói có tờ chiếu chỉ do chính mình hạ lệnh bắt dân bỏ thiện làm ác, ngạc nhiên nói:

- Ta tuyệt nhiên không có sắc lệnh như thế, tại sao có tờ chiếu chỉ này.

Lập tức nhà vua và các quan đại thần bản triều lên xe đi các nước, quả nhiên đã thấy nhân dân làm ác, đổi lệnh cũ, theo lệnh mới.

Ma Vương thấy nhà vua đi trên đường lớn tự hóa làm người, đứng giữa đống lửa cháy ở bên lề, kêu khóc thảm thiết, nhà vua đến tận nơi hỏi:

- Tại sao ngươi khóc?

- Tâu Bệ Hạ! Tôi lúc tiền sinh hay khuyên người tu thập thiện nên ngày nay bị quả báo thống khổ như vậy!

Nhà vua nói: - Sao lại có chuyện khuyên người tu thiện, mình phải chịu đau khổ?

Nhà vua hỏi tiếp:

- Thế! Anh khuyên người tu thập thiện; mà anh phải đau khổ, thì những người được anh khuyên tu kia có được phước lành gì không?

Đáp: - Tâu Bệ Hạ, những người đó được phước nhiều lắm! Chỉ vì dạy người tu thập thiện nên riêng mình phải chịu quả báo đau khổ, lửa đốt suốt ngày đêm như vầy.

Đây là Ma Vương muốn làm thoái tâm khuyến tu thập thiện của nhà vua, trái lại nhà vua nghe xong rất vui vẻ đáp rằng:

Vâng! Phải lắm tốt lắm! Cốt sao cho chúng sinh hết đau khổ tội lỗi, được phước báu nhiều, còn mình chịu khổ có hận chi!

Ma Vương thấy nhà vua không thoái tâm, liền ẩn hình biến mất rồi đi khắp các nước để tuyên truyền cho dân tu thập thiện. Từ đó nhân dân đều tu theo pháp thập thiện giữ gìn thân, khẩu, ý, ba nghiệp hoàn toàn, chánh pháp lan tràn khắp thiên hạ, tất cả nhân dân tòng phúc, nên đức của nhà vua mỗi ngày một lớn, vì phúc lành ấy xe kim luân và Thất bảo tự nhiên hiển xuất, nhà vua bay đi giáo hóa khắp thiên hạ; Nhưng bao giờ nhà vua cũng lấy pháp thập thiện làm đích để chỉ đạo.

Tôi đây Phật nhắc lại cho vua biết rằng:

- Đai Vương! Vua Thi Đà Ni Di thuở đó tức là Phụ vương của ta bây giờ (vua Tịnh Phạn), bà Phu nhân sanh Thái tử lúc đó chính là thân mẫu của ta ngày nay, vua Tuệ Quang dạy dân tu thập thiện là tiền thân của ta. Cũng do đời ấy ta tự tu thập thiện và khuyên dân tu thiện nên nay được phước báu nơi gang bàn chân có ánh quang minh, và ngàn hoa tươi thắm như vậy.

Khi đó vua Bình Sa tới trước lễ Phật quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư mê muội quá! Không biết lượng sức mình, vì lòng tham danh trục lợi, đem tâm ghen ghét, đòi thi thần thông với Ngài, chúng tự nói: Phật làm được một phần, chúng sẽ làm được hai. Sau khi bị sức thần thông của Thế Tôn làm trấn át, chúng hết thế lực tẩu thoát, cùng đường đâm đầu xuống sông tự tử, còn đồ đệ chạy tán loạn tự chúng gây nên tai nạn muôn đời, con nghĩ lũ mê cuồng ấy không biết căn duyên tại sao, xin Thế Tôn chỉ giáo?

Phật đáp: - Đại Vương! Nên biết bọn Lục Sư chẳng những ngày nay tranh lợi tranh danh với ta, mất thân mạng thế đâu! Đời quá khứ chúng đã tranh với Ta một lần, nhưng đều bị thất bại. Ta lại đoạt được cả đồ đảng của chúng nữa.

Vua Bình Sa lại bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Việc đó thế nào cúi xin chỉ giáo?

Phật dạy: - Đại vương hãy để ý nghe, trước đây đời quá khứ vô lượng vô số kiếp A tăng kỳ cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua tên là Ma Ha Xa Cừu Lợi, thống trị năm trăm nước nhỏ, vua có năm trăm Phu nhân nhưng chưa bà nào có con trai. Vua tự nghĩ rằng: "Tuổi ta đã cao lại không có con để nối quốc vị, một sớm băng hà lấy ai để bảo tồn chính thể của quốc gia biết giao phó cho ai? Tất nhiên trong nước có sự tranh giành tàn sát lẫn nhau nhân dân sẽ bị nguy ngập.

Nghĩ thế rồi chưa biết giải quyết ra sao? Nên lúc nào ông cũng buồn!

Vua Đế Thích trên thiên cung biết ý nghĩ của nhà vua như thế, liền từ trên trời bay xuống hóa làm một ông Thầy thuốc đến vương cung xin vào yết kiến vua, và hỏi ngay ý nghĩ lo buồn của nhà vua. Nhà vua cũng đem ý nghĩ của mình như trên nói cho ông rõ.

Ông trả lời rằng:

- Xin Bệ Hạ chớ lo! Để tôi đi vào núi tuyết lấy các vị thuốc cho các Phu nhân của Bệ Hạ uống thì sẽ có thai.

Nhà vua nghe nói tâm buồn đã nguôi nguôi, và bảo Thầy thuốc rằng:

- Thưa Ngài nếu được như thế thì còn gì hay hơn nữa.

Thầy thuốc Từ biệt lên đường vào núi, cách ít ngày lấy được rất nhiều dược thảo đem về dâng vua, bạch rằng:

Nói rồi vái chào ra về, vua hỏi:

- Thưa Ngài, thuốc này sẽ lấy bao nhiêu tiền?

Đáp: - Tâu Bệ Hạ, đây tôi xin giúp Bệ Hạ chứ không lấy tiền.

Nói xong ẩn hình biến mất, nhà vua thầm nghĩ: "Người này là thần nhân ủng hộ có lẽ hay lắm, rất có kết quả cho ta".

Sau khi Đế Thích về, nhà vua sai người lấy sữa nấu lẫn với thuốc, dâng bà Đệ nhất Phu nhân uống. Song bà chê bẩn và không tin, nên không chịu uống thuốc đó, các bà Tiểu Phu nhân chia nhau uống hết quả nhiên được ít lâu các bà ấy đều có thai, và đem sự kết quả uống thuốc nói cho bà lớn biết. Bà lớn có ý hối hận hỏi:

- Thuốc ấy có còn thừa chút nào không?

Các bà đáp: - Thưa bà! Hết cả!

- Vậy các được thảo có còn không?

Các bà đáp: - Thưa bà hãy còn một ít!

Bà Đại Phu nhân sai người lấy sữa nấu thuốc dùng được ít lâu thấy có thai, bà vui mừng thầm trong dạ và cũng không nói cho các bà biết.

Các bà Tiểu Phu nhân đầy tháng đều sinh con trai, nhân tướng khôi ngô tuấn tú, nhà rất sung sướng, vì các bà đã sinh được nhiều quý tử. Nhưng vua vẫn áy náy trong lòng, là vì Đại Phu nhân chưa có con!

Một thời gian sau trăng tròn nguyệt mãn, bà Đại Phu nhân sinh được cậu con trai, nhưng rất buồn thay cho bà, cậu con trai của bà xấu quá, mặt mũi xù xì hình như quỷ sứ. Buồn quá! Đặt lên là Đa La Hầu Đà (Tàu dịch "Chu Ngột"), Hoàng hậu giao cho người vú nuôi nấng ở một nơi và không cho ai biết.

Từ đấy trở đi trong nước vẫn được thanh bình, nhân dân an lạc, sau khi các Thái tử nhà vua đều cưới vợ cho cả, duy Chu Ngột xấu quá nên nhà vua không để ý tới.

Bấy giờ nước bên cạnh có sự bất bình với vua Ma Ha Xa Cừu Lợi, mang binh tiến sang để khởi chiến, năm trăm Vương tử mang quân ra chống cự, song bị thất bại chạy về.

Chu Ngột thấy thế hỏi:

- Hôm nay các anh ra chiến đấu thắng hay bại, coi có vẻ sợ hãi thế?

Đáp: - Hôm nay chiến đấu bất lợi, bị giặc đuổi lui!

Chu Ngột nói: - Các anh chớ lo, tôi sẽ đánh đuổi cho bằng hết, tổ tiên chúng ta trước làm Chuyển Luân Thánh Vương còn để lại trong Thiên Tự một cái cung lớn và một cái bối, tôi sẽ dùng hai bảo vật ấy đuổi giặc thành công. Chu Ngột vào Thiên Tự lấy cung và bối đem ra giương thử, tiếng kêu như sấm, vang xa bốn mươi dặm. Rồi một mình ra đi, khi tới chỗ giặc đóng quân, Chu Ngột cầm bối thổi tiếng kêu như sét đánh, giặc nghe sợ kinh hồn chạy tán loạn; như vậy không cần phải đánh cũng tan. Khi dẹp yên được địch quân xong, trở về nhà, vua và quần thần văn võ bá quan ra đón chào về cung, từ đó mới được sự yêu đãi của Vương phụ.

Sau cuộc ăn mừng đuổi giặc nhà vua nghĩ đến sự kết hôn cho Thái tử, nhưng cũng khó, là vì Thái tử xấu quá.

Thời đó có ông vua nước láng giềng tên là Luật Sư Bạt Ta, có người Công Chúa xinh đẹp nhưng chưa lấy chồng.

Một hôm nhà vua gọi quan đại thần vào nói rằng:

- Vua Luật Sư Bạt Ta có một Công Chúa nghe biết chưa lấy chồng, ta muốn nhờ ngươi sang xin đẹp duyên cùng Thái tử Chu Ngột, nhà vua có hỏi đến tướng mạo của Thái tử thì người coi tướng anh của Thái tử mà diễn tả bộ dạng cho biết.

Đại thần vâng lệnh ra đi, sang tới nơi lên tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Tôi là sứ thần của vua Ma Ha Xa Cừu Lợi vâng lệnh sang đây, xin Bệ Hạ cho Thái tử Chu Ngột được làm Phò Mã của Ngài.

Nhà vua hỏi: - Thái tử bao nhiêu tuổi? Hình dáng ra sao? Học vấn thế nào?

Đáp: - Thái tử năm nay tuổi vừa đôi tám, tướng người đẹp đẽ, sức lực hùng mạnh, trí óc thông minh.

Nhà vua gật đầu nói: - Nhà ngươi về tâu vua: Ta đồng ý gả Công Chúa cho Thái tử. Đại thần về tâu vua sự thỏa thuận của Quốc Vương láng giềng hứa gả Công Chúa cho Thái tử, vua rất hoan hỷ! Sai người sửa soạn lễ vật đính lễ nghinh hôn, cuộc lễ này cũng rất buồn cười: Là vì chú rể mượn!

Khi về đến hoàng cung yến tiệc rất linh đình, mọi người vui vẻ ca hát mừng đôi loan phượng. Nhưng có một điểm là Công Chúa khi về tới hoàng cung không nhìn thấy mặt chồng.

Nhà vua dặn Chu Ngột ban ngày chớ để vợ nhìn thấy mặt.

Theo lời Vương Phụ dặn, cứ tối khuya im lặng. Chu Ngột mới đến để vui thú cùng vợ…

Chu Ngột đến, Công Chúa hỏi:

- Lúc ban ngày anh đi đâu không thấy?

Đáp: - Ban ngày anh phải đem quân ra trấn các cửa ải, hồi này nước ngoài luôn luôn đem binh sang xâm lược nước nhà, anh đều đẩy lui được bọn chúng, nên mới có trọng thưởng của nhà vua.

Công Chúa hỏi: - Anh được trọng thưởng những bảo vật gì?

- Trọng thưởng thứ nhất là được em, ngoài ra thì không đáng kể.

Công Chúa nghe nói rất hân hạnh vui dạ!

Một buổi nọ vợ các Vương tử hội họp với nhau, cô nào cũng khoe tài đức của chồng mình. Cô vợ của Chu Ngột tự khoe chồng mình có lực hùng mạnh, tươi đẹp, có công đuổi giặc dẹp nước yên dân, có thiếu phụ khác lắc đầu lè lưỡi nói:

Thôi cô đừng nên nói nữa, chồng cô xấu lắm, người chẳng khác, phải quỷ thì không, ban ngày nếu cô nhìn thấy, cô sẽ thất kinh hoảng hồn.

Vợ Chu Ngột nghe nói khí sắc biến đổi, vừa nhục vừa thẹn. Nhưng cố nhẫn lẳng lặng ghi lại tâm. Trở về tư thất giấu đi một cái nến để nơi kín, chờ tối chồng đến an nghỉ xong, cô đưa nến soi xem mặt, quả nhiên thấy hình tướng đáng sợ hãi thật, xấu thật, thực là trên đời chưa có một ai xấu đến như vậy! Cô chờ chồng ngủ mệt, giữa đêm khuya thanh vắng ra xe trở về nước nhà.

Trời vừa tảng sáng, Chu Ngột thức giấc không thấy vợ; chạy trước nhìn sau tuyệt nhiên không thấy ảnh bóng một ai, biết đích vợ mình đã bỏ đi; trong lòng buồn tức, giận đâu nổi lên, ầm ầm vác cung cầm bối lên ngựa đuổi theo không kịp. Khi tới nước kia nghi trọ tại một nhà ông quan bên đó.

Thời ấy có sáu ông vua nước bên cạnh, biết vua Luật Sư Bạt Ta có người con gái đẹp, hay tin cô đã trở về nước, nên sáu ông đồng thời tiến quân sang biên thùy, đưa thư cho vua xin cầu hôn.

Vua Luật Sư Bạt Ta rất phiền não, trong lòng bối rối, vì không biết giải quyết thế nào? Nên nhà vua cho triệu tập tất cả các triều thần văn võ bá quan lại thảo luận.

Luật Sư Bạt Ta nói:

- Công Chúa hiện đã về tới bản quốc, tôi vừa mới tiếp được sáu phong thư của sáu quý quốc, xin đính hôn cùng Công Chúa, nếu cho một ông thì đối năm ông kia làm thế nào cho khỏi gây lòng oán hận, giờ đây bá quan giải quyết thế nào cho đẹp lòng cả thì hơn?

Có một ông quan đứng lên thưa rằng:

- Tâu Bệ Hạ đem phanh công chúa ra làm sáu phần, chia cho mỗi người một phần thì việc đó sẽ yên.

Lại có một ông đứng lên thưa rằng:

- Tâu Bệ Hạ bây giờ hãy ra một tờ cáo thị như sau: Nếu ai có tài đánh đuổi được quân giặc thì sẽ gả Công Chúa và chia nước cho một nữa, ngoài ra còn ân thưởng rất nhiều.

Vua đồng ý viết bảng cáo thị.

Đa La Hầu Đà (Chu Ngột) nghe biết giật bảng cáo thị, mang cung cầm bối xuất trận, thổi còi giương cung bắn, các quan quân của sáu ông vua đều kinh khủng chạy tán loạn mất cả. Chu Ngột tiến vào hạ thủ sáu ông vua, thu bắt rất nhiều binh nhung sĩ chúng.

Vua Luật Sư Bạt Ta hay tin Chu Ngột đã chiến thắng, thân ngự ra ngoài thành đón tiếp, và biết rằng: Chính Chu Ngột con vua Ma Ha Xa Cừu Lợi, anh hùng đã nổi tiếng, hơn nữa lại là con rể của Ngài, nhà vua rất hoan hỷ.

Sau khi về hoàng thành xong cuộc yến tiệc ăn mừng thắng trận, nhà vua và bá quan suy tôn Chu Ngột làm Đại Vương thống trị bảy nước.

Chu Ngột thăng điện nhậm chức bảo lãnh chánh quyền, đặt lại các việc triều chính, sửa đổi chính sách, mở mang văn hóa, đặt các lễ nghi theo chánh giáo, dạy dân có đạo đức, phế bỏ hủ tục, và những tà thuyết mị dân, xếp đặt các công việc xong xuôi rồi cùng vợ kéo quân về nước.

Hay tin Thái tử Chu Ngột về nước, nhà vua và các quan quân thân ra ngoài biên cương đón. Khi về tới hoàng cung, nhà vua biết Chu Ngột có đủ tài đức, nên cất làm Đại Vương. Chu Ngột không chịu tâu rằng:

- Muôn tâu Vương Phụ! Xin ở tại ngôi, việc ấy sẽ chưa nên.

Nhà vua cũng phải chiều theo ý định của Thái tử, xong cuộc vui mừng này, quan quân đều giải tán đâu về đấy.

Chu Ngột Thái tử đưa vợ về cung an nghỉ, lúc đó trách vợ ăn ở bạc tình, có ý phàn nàn không thật lòng giao kết lương duyên, trăm năm trọn đạo!

Công Chúa thưa rằng:

- Thưa Thái tử! Vì Thá Tử xấu quá, coi dữ dằn quá em rất kinh và hình như không giống người nên em mạn phép ra đi.

Chu Ngột lấy gương soi thấy mình quả nhiên xấu thật, sự thật không khác gì quỷ, tự nghĩ rằng:

- Mình vị thân hình xấu ác, không sống với vợ, để vợ sợ hãi cũng không nên.

Tự phát tâm chán ghét không muốn có thân ấy nữa, ra nơi rừng xanh để tự sát, khi sắp buộc dây treo lên cành cây, vua Đế Thích ở xa ngó thấy liền bay đến tận nơi hỏi.

Chu Ngột đáp: - Tôi bị thân hình xấu quá nên muốn tự sát ở nơi đây.

Vua Đế Thích khuyên can đem cho hạt ngọc minh châu dặn rằng:

- Xin dâng tặng Ngài hạt ngọc minh châu này để trên đầu, sẽ được thân hình đoan chính tươi đẹp như tôi.

Chu Ngột cảm tạ nhận lấy bạt châu để trên đỉnh đầu, quả nhiên thân thể đổi xấu thành đẹp.

Khi trở về nhà, không bảo cho vợ hay, đi luôn vào bảo tàng lấy cung và bối. Công Chúa thấy chàng thanh niên tươi trẻ tự do vào lấy cung và bối, ngạc nhiên hỏi:

- Anh là người nào dám tự tiện vào lấy cung của chồng tôi?

Chu Ngột mỉm cười đáp: - Anh là chồng của em đây!

Công Chúa nói: - Anh này điên dở, chồng ta lẽ ta không biết sao? Anh là kẻ nào dám vô lễ tự xưng là chồng ta?

Chu Ngột cười nấc cười nở đưa tay lên đầu lấy hạt minh châu xuống, hiện lại nguyên hình xấu, thấy sự biến chuyển lạ, Công Chúa nửa mừng nửa lo hỏi tiếp:

- Tại sao có sự lạ như vậy, xin nói cho tôi rõ?

Chu Ngột nói rõ câu chuyện được hạt minh châu cho Công Chúa xem, Công Chúa vui mừng tin thực.

Từ đó vợ chồng yêu nhau không có sự ngang trái nữa, và bỏ tên Chu Ngột đổi là Tu Đà La Phiến.

Sau một thời gian Tu Đà La Phiến muốn xây cất một thành trì lớn, tìm nơi đất bằng phẳng cao mát rộng rãi, sắc lệnh cho nhân dân kiến lập tại đó.

Khi đó bốn ông Long Vương hóa hình làm người, lại tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ, nghe biết Bệ Hạ muốn xây thành, vậy dùng vật gì để làm?

Nhà vua đáp:

- Tôi làm bằng đất!

Long Vương thưa: - Sao Ngài không dùng Thất bảo mà kiến thiết?

Đáp: - Thất bảo là thứ quý giá nhất, và ít ỏi nhất, thành lớn, quý Ngài tính lấy đâu mà được?

Long Vương thưa: - Tâu Bệ Hạ! Để chúng tôi xin cung cấp đủ cho Ngài làm!

Long Vương nói xong, ngay bốn bên khu vực đất ấy, biến thành bốn cái suối lớn. Long Vương chỉ vào bốn cái suối ấy thưa rằng:

- Bệ Hạ dùng nước suối phương Đông xây cất, thì thành này hóa ra ngọc lưu ly; dùng nước suối phương Nam xây cất, thì thành này hóa ra vàng; dùng nước suối phương Tây xây cất, thì thành này hóa ra bạc; dùng nước suối phương Bắc xây cất, thì thành này hóa ra pha lê.

Nhà vua nghe nói, cảm tạ Long Vương. Bắt đầu xây cất, quả nhiên lời nói của Long Vương là đúng.

Thành ấy quy vuông bốn trăm dặm, trong thành làm các cung điện lầu các; mỗi cung quy vuông bốn mươi dặm: Cung điện, đường đi, nhà lớn, nhà nhỏ, rừng cây, ao tắm, trường thành, thuần bằng ngọc lưu ly, pha lê, vàng, bạc, cực kỳ trang nghiêm đẹp đẽ, chẳng khác Thiên Cung. Ngày hoàn thành này được bảy thứ báu ngọc tự nhiên đầy kho đụn. Tu Đà La Phiến ngự trị thành này, từ đó bắt đầu dạy dân tu theo mười điều lành (Thập Thiện).

Nói tới đây, Phật nhắc cho vua Bình Sa biết rằng:

Bình Sa! Ông nên biết vua Ma Ha Xa Cừu Lợi thuở đó hiện nay là Vương Phụ của ta (Tịnh Phạn Vương), bà mẹ sinh Chu Ngột thuở đó nay là Thân Mẫu của ta (Ma Da Phu nhân). Vương tử xấu (Chu Ngột) thuở đó chính là tiền thân ta, vợ Vương tử xấu lúc đó chính là bà Cù Di ngày nay; ông thân của vợ Vương tử lúc đó ngày nay là ông Ma Ha Ca Diếp. Sáu ông vua lúc ấy dùng binh sĩ áp bức để lấy Công Chúa của vua Luật Sư Bạt Ta, chính là Lục Sư bây giờ.

Thời ấy bọn ông ấy đã tranh sắc tranh tài với ta, bị thất bại; ngày nay cũng do lòng tham danh trục lợi, đòi đấu sức thần thông, không đủ lực chống đỡ, cùng đường đâm đầu xuống sông tự sát, còn chín ức đồ chúng quay về theo ta làm đệ tử.

Vua Bình Sa lại bạch Phật:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Thái tử Chu Ngột đời trước trồng nhân lành gì được sinh làm con vua, có sức lực hùng mạnh và tại sao bị thân thể xấu, cúi xin chỉ giáo cho chúng con được rõ.

Phật nói:

- Đó là một nhân duyên từ đời quá khứ, tới nay đã vô lượng kiếp không thể tính được, cũng Châu Diêm Phù Đề có một nước lớn tên Ba La Nại, nước ấy có một ông tiên, tu trong núi tên là Luật Sư. Trong núi ông tiên ấy có một vị Bích Chi Phật, người bị chứng bệnh phong, một hôm Ngài đến nhà hàng dầu, xin dầu muốn để trị bịnh. Người chủ nhà hàng dầu phát lòng nóng giận lớn tiếng la mắng nói:

- Đầu anh như Chu Ngột (gốc cây cụt), như cục gỗ, tay chân ghê tởm, khờ khờ khoạng khoạng chỉ rình ròm xin người không đem tiền mua chỉ muốn lấy không?

Tuy nói thế nhưng anh hàng dầu cũng cho một chút dầu cặn, song Ngài cũng không buồn giận gì lời nói lỗ mãng ấy, vẫn thản nhiên lấy dầu. Khi ra khỏi nhà gặp vợ ông hàng dầu về, bà ta bả lả hỏi han, một vẻ kính trọng nói:

- Khoái Sĩ từ đâu tới đây, dùng dầu cặn làm gì?

Đáp: - Tôi dùng để chữa bịnh phong.

- Thưa Ngài xin trở lại để con xin dâng cúng thứ dầu tốt!

Ngài cũng hoan hỷ đi. Tới nhà, bà dâng một chén dầu trong trẻo, dâng rồi la chồng rằng:

- Anh thật không hiểu biết chi cả, tại sao anh lại cúng Ngài dầu cặn, anh phải sám hối Ngài cho khỏi cái tội của miệng anh.

Ông hàng dầu này cũng có thiện tâm, hối hận trong lòng ra xin lỗi, Ngài cũng hoan hỷ. Khi đó hai vợ chồng đều thưa với Ngài rằng:

- Thưa Ngài: Vợ chồng con xin nguyện chung thân cúng dàng, Ngài muốn dùng gì xin cứ lại đây chúng con dâng.

Từ đó vị Bích Chi Phật hằng ngày lại lấy các món ăn dùng và dầu.

Trước khi vào Niết bàn, nhân cảm cái ơn ấy vị Bích Chi Phật hiện ra mười tám phép thần túc cho vợ chồng hàng dầu biết.

Bay trên hư không, trong mình phun ra nước, dưới mình hóa ra lửa, thân thể khi phân khi hợp, hiện biến rất nhiều phép lạ.

Vợ chồng hàng dầu thấy thế, biết rằng Ngài đã đắc đạo vui mừng khôn xiết, tự hận mình có lỗi nên bảo vợ rằng:

- Em hoan hỷ cúng dàng Ngài, tương lai sẽ được nhờ phúc báo thì cho tôi chung hưởng và cùng làm vợ chồng như nay nhé!

Đáp: - Anh đối với Ngài tệ ác và cúng dầu cặn, sau này có sinh nơi nào, dĩ nhiên phải chịu quả báo xấu, thì làm sao kết duyên cùng anh được?

Chồng nói: - Tôi cũng chịu sự cực khổ làm ăn, của là của chung, đâu có phải một mình em làm ra được, mà nói: không cho chung và không cho làm vợ chồng. Nghĩa là phúc là phúc chung, đâu phải một mình em hưởng được.

- Vâng! Nếu kiếp sau tôi có phải làm vợ anh đi chăng nữa, nếu anh xấu đêm tối sẽ bỏ anh tôi đi!

- Nếu em đi anh sẽ đuổi cho bằng được!

Hai vợ chồng nói xong, rồi hướng lên vị Bích Chi Phật thành tâm sám hối.

Khi đó Ngài bảo rằng:

- Do sự cúng dàng dầu của vợ chồn anh, nên ta được khỏi bịnh, muốn cầu nguyện gì ta cho toại ý.

Hai vợ chồng hoan hỷ quỳ thẳng chắp tay phát nguyện rằng:

- Kính xin Tôn giả, nguyện cho vợ chồng con trên trời hoặc nhân gian, sinh chốn nào cũng được tôn sang phúc tuệ đầy đủ, muốn gì cũng được toại ý

Tới đây, Phật nhắc lại cho vua Bình Sa biết rằng:

Nhà vua nên biết: Người hàng dầu thuở đó chính là Chu Ngột, vợ của hàng dầu chính là vợ của Chu Ngột thời ấy, thuở đó ông hàng dầu mắng vị Bích Chi Phật thân người xấu như Chu Ngột (gốc cây tre cụt) và tay như cái trục, lúc cho dầu có sắc giận tức. Vì thế nên bị quả báo xấu, cũng theo đúng như khi phát lời nói mắng vị Bích Chi Phật không khác, sau biết ăn năn sám hối vui vẻ cúng dầu tốt, cho nên sinh xứ nào cũng được tốt đẹp; cũng do sự cúng dầu nên được nhiều sức khỏe, ngàn muôn người không địch nổi, hơn nữa lại còn được làm Chuyển Luân Vương, hưởng phúc bốn cõi, năm món dục đầy đủ thụ dụng. Thiện nghiệp hay ác nghiệp, báo ứng không sai thù, vì thế tất cả chúng sinh phải nên giữ đạo làm thiết yếu, cẩn thận nơi thân miệng, ý chớ nên dùng nó mà tạo những điều xấu ác!

Phật nói xong vua Bình Sa và tất cả vua, quan dân chúng các nước với bốn bộ đệ tử, trời rồng, quỷ thần có người chứng quỉ thần, có người chứng quả Tu đà hoàn, người được quả Tư đà hàm, quả A na hàm; cho đến quả A la hán, cũng có người gây nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm Bồ đề cho đến ngôi Bất Thoái, tất cả đều hoan hỷ lễ kính dưới chân Phật mà lui.

 

(Quyển Thứ Hai Hết)