|
QUYỂN THỨ HAI
Đời Diêu Tần ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng chiếu dịch. Tỳ Kheo
Thích Trí Tịnh Việt Dịch
KINH DIỆU PHÁP LIÊN
HOA
PHẨM "THÍ DỤ"
THỨ BA
1. Lúc
bấy giờ ngài Xá-Lợi-Phất hớn hở vui mừng, liền đứng dậy chắp tay chiêm
ngưỡng dung nhan của Đức Phật mà bạch Phật rằng: Nay con theo Đức Thế-Tôn
nghe đặng tiếng pháp nầy, trong lòng hớn hở đặng điều chưa từng có. Vì sao?
Con xưa theo Phật nghe pháp như thế này, thấy các vị Bồ-tát được thọ ký
thành Phật, mà chúng con chẳng được dự việc đó, tự rất cảm thương mất vô
lượng tri kiến của Như-Lai.
Thế-Tôn! Con thường khi một mình ở dưới cây trong núi rừng, hoặc ngồi, hoặc
đi kinh hành, hằng nghĩ như vầy: chúng ta đồng vào pháp tánh, tại sao đức
Như-Lai lại dùng pháp Tiểu thừa mà tế độ cho?
Đó là lỗi của chúng con chớ chẳng phải là Thế-Tôn vậy. Vì sao? Nếu chúng con
chờ Phật nói pháp sở nhơn thành đạo Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác thời
chắc do pháp Đại thừa mà đặng độ thoát. Song chúng con chẳng hiểu Phật
phương tiện theo cơ nghi mà nói pháp, vội tin nhận suy gẫm để chứng lấy.
Thế-Tôn! Con từ xưa đến nay trọn ngày luôn đêm hằng tự trách mình, mà
nay được từ Phật nghe pháp chưa từng có, trước chưa hề nghe, dứt các lòng
nghi hối, thân ý thơ thới rất được an ổn. Ngày nay mới biết mình thiệt là
Phật tử, từ miệng Phật sanh ra, từ pháp hóa sanh, đặng pháp phần của Phật.
Khi ấy, ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
2. Con
nghe tiếng pháp này
Được
điều chưa từng có
Lòng
rất đỗi vui mừng
Lưới
nghi đều đã trừ,
Xưa nay
nhờ Phật dạy
Chẳng
mất nơi Đại thừa.
Tiếng
Phật rất ít có
Hay trừ
khổ chúng sanh
Con đã
được lậu tận(1)
Nghe
cũng trừ lo khổ.
Con ở
nơi hang núi
Hoặc
dưới cụm cây rừng
Hoặc
ngồi hoặc kinh hành
Thường
suy nghĩ việc này.
Than
ôi! Rất tự trách
Sao lại
tự khi mình
Chúng
ta cũng Phật tử
Đồng
vào pháp Vô lậu
Chẳng
được ở vị-lai
Nói
pháp vô thượng đạo,
Sắc
vàng, băm hai tướng(2)
Mười
lực(3)
các giải thoát.
Đồng
chung trong một pháp
Mà
chẳng được việc đây
Tám
mươi tướng tốt đẹp
Mười
tám pháp Bất cộng(4)
Các
công đức như thế
Mà ta
đều đã mất.
3.
Lúc
con kinh hành riêng
Thấy
Phật ở trong chúng
Danh
đồn khắp mười phương
Rộng
lợi ích chúng sanh.
Tự nghĩ
mất lợi nầy
Chính
con tự khi dối
Con
thường trong ngày đêm
Hằng
suy nghĩ việc đó
Muốn
đem hỏi Thế-Tôn
Là mất
hay không mất?
Con
thường thấy Thế Tôn
Khen
ngợi các Bồ-tát(5)
Vì thế
nên ngày đêm
Suy
lường việc như vậy.
4. Nay
nghe tiếng Phật nói
Theo cơ
nghi dạy pháp
Vô-lậu
khó nghĩ bàn
Khiến
chúng đến đạo tràng.
Con xưa
chấp tà kiến
Làm
thầy các Phạm-Chí(6)
Thế-Tôn
rõ tâm con
Trừ tà
nói Niết-bàn.
Con trừ
hết tà kiến
Đặng
chứng nơi Pháp không,
Bấy giờ
lòng tự bảo
Đặng
đến nơi diệt độ.
Mà nay
mới tự biết
Chẳng
phải thiệt diệt độ
Nếu lúc
đặng thành Phật
Đủ ba
mươi hai tướng
Trời,
người, chúng Dạ-xoa
Rồng,
Thần đều cung kính
Bấy giờ
mới được nói
Dứt hẳn
hết không thừa.
Phật ở
trong đại chúng
Nói con
sẽ thành Phật
Nghe
tiếng pháp như vậy
Lòng
nghi hối đã trừ.
5.
Khi
mới nghe Phật nói
Trong
lòng rất sợ nghi
Phải
chăng ma giả Phật
Não
loạn lòng ta ư?
Phật
dùng các món duyên
Thí dụ
khéo nói phô,
Lòng
kia an như biển
Con
nghe, lưới nghi dứt.
Phật
nói thuở quá khứ
Vô
lượng Phật diệt độ
An trụ
trong phương tiện
Cũng
đều nói pháp đó.
Phật
hiện-tại, vị-lai,
Số
nhiều cũng vô lượng
Cũng
dùng các phương tiện
Diễn
nói pháp như thế.
Như
Thế-Tôn ngày nay
Từ sanh
đến xuất gia
Đặng
đạo chuyển Pháp-luân
Cũng
dùng phương tiện nói
Thế-Tôn
nói đạo thật
Ba Tuần(7)
không nói được
Vì thế
con định biết
Không
phải ma giả Phật,
Con sa
vào lưới nghi
Cho là
ma làm ra.
Nghe
tiếng Phật êm dịu
Sâu xa
rất nhiệm mầu
Nói
suốt pháp thanh tịnh
Tâm con
rất vui mừng.
Nghi
hối đã hết hẳn
An trụ
trong thiệt trí
Con
quyết sẽ thành Phật
Được
Trời, Người cung kính
Chuyển
Pháp-luân vô thượng
Giáo
hóa các Bồ-tát.
6. Lúc bấy giờ, Đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Ta nay ở trong hàng
Trời, người, Sa-môn, Bà-la-môn mà nói. Ta xưa từng ở nơi hai muôn ức Phật vì
đạo Vô thượng nên thường giáo hóa ông, ông cũng lâu dài theo Ta thọ học, Ta
dùng phương tiện dẫn dắt ông sanh vào trong pháp Ta”.
Xá-Lợi-Phất! Ta thuở xưa dạy ông chí nguyện Phật đạo, ông nay đều quên mà
bèn tự nói đã được diệt độ. Ta nay lại muốn khiến ông nghĩ nhớ bổn nguyện
cùng đạo đã làm, mà vì các Thanh-Văn nói Kinh Đại thừa tên là: "Diệu-Pháp
Liên-Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm".
7. Xá-Lợi-Phất! Ông đến đời vị-lai, quá vô-lượng vô biên bất khả tư
nghì kiếp, cúng dường bao nhiêu nghìn muôn ức Phật, phụng trì Chánh pháp đầy
đủ đạo tu hành của Bồ-tát, sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Quang Như-Lai,
Ứng-Cúng, Chánh-Biến-Tri, Minh-Hạnh-Túc, Thiện-Thệ, Thế-Gian-Giải,
Vô-Thượng-Sỹ, Điều-Ngự-Trượng-Phu, Thiên-Nhơn-Sư, Phật Thế-Tôn.
Nước tên: Ly-Cấu, cõi đó bằng thẳng, thanh tịnh đẹp đẽ an ổn giàu
vui, Trời, Người đông đảo. Lưu-ly làm đất, có tám đường giao thông, dây bằng
vàng ròng để giăng bên đường, mé đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường
có bông trái. Đức Hoa-Quang Như-Lai cũng dùng ba thừa giáo hóa chúng sanh.
Xá-Lợi-Phất! Lúc Đức Phật ra đời dầu không phải đời ác mà bởi bổn
nguyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là "Đại-Bửu Trang-Nghiêm". Vì sao
gọi là "Đại-Bửu Trang-Nghiêm"? Vì trong cõi đó dùng Bồ-tát làm "Đại-Bửu"
vậy. Các Bồ-tát đó số đông vô-lượng vô biên bất khả tư nghì, tính kể hay
thí-dụ đều không kịp đến được, chẳng phải sức trí-huệ của Phật không ai có
thể biết được. Khi muốn đi thì có bông đỡ chân.
Các vị Bồ-tát đó không phải hàng mới phát tâm, đều đã trồng cội đức từ lâu.
Ở nơi vô lượng trăm nghìn muôn ức Đức Phật, tịnh tu phạm hạnh, hằng được các
Phật ngợi khen. Thường tu trí-huệ của Phật, đủ sức thần thông lớn, khéo biết
tất cả các pháp môn, ngay thật không dối, chí niệm bền vững, bực Bồ-tát như
thế, khắp đầy nước đó.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật Hoa-Quang thọ mười hai tiểu kiếp, trừ lúc còn
làm vương tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Đức
Hoa-Quang Như-Lai quá mười hai tiểu kiếp thọ ký đạo Vô-Thượng Chánh-Đẳng
Chánh-Giác cho Kiên-Mãn Bồ-tát mà bảo các Tỳ-kheo: Ông Kiên-Mãn Bồ-tát nầy
kế đây sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Túc An-Hành Như-Lai, Ứng-Cúng,
Chánh-Biến-Tri, cõi nước của Đức Phật đó cũng lại như đây.
Xá-Lợi-Phất! Sau khi Phật Hoa-Quang đó diệt độ Chánh pháp trụ lại trong đời
ba mươi hai tiểu kiếp, Tượng pháp trụ đời cũng ba mươi hai tiểu kiếp.
Lúc ấy, Đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
8.
Xá-Lợi-Phất
đời sau
Thành
đấng Phật trí khắp
Hiệu
rằng Phật Hoa-Quang
Sẽ độ
vô lượng chúng.
Cúng
dường vô số Phật
Đầy đủ
hạnh Bồ-tát
Các
công đức thập lực
Chứng
đặng đạo Vô-thượng
Quá vô
lượng kiếp rồi
Kiếp
tên Đại-Bửu-Nghiêm
Cõi
nước tên Ly-Cấu
Trong
sạch không vết nhơ
Dùng
lưu-ly làm đất
Dây
vàng giăng đường sá
Cây bảy
báu sắc đẹp
Thường
có hoa cùng trái
Bồ-tát
trong cõi đó
Chí
niệm thường bền vững
Thần-thông, Ba-la-mật
Đều đã
trọn đầy đủ
Nơi vô
số Đức Phật
Khéo
học đạo Bồ-tát
Những
Đại-sĩ như thế
Phật
Hoa-Quang hóa độ.
Lúc
Phật làm vương tử
Rời
nước bỏ vinh hoa
Nơi
thân cuối rốt sau
Xuất
gia thành Phật đạo.
Phật
Hoa-Quang trụ thế
Thọ
mười hai tiểu kiếp,
Chúng
nhân dân nước đó
Sống
lâu tám tiểu kiếp,
Sau khi
Phật diệt độ
Chánh
pháp trụ ở đời
Ba mươi
hai tiểu kiếp
Rộng độ
các chúng sanh.
Chánh
pháp diệt hết rồi
Tượng
pháp cũng băm hai
Xá-lợi
rộng truyền khắp
Trời,
Người khắp cúng dường
Phật
Hoa-Quang chổ làm
Việc đó
đều như thế.
Đấng
Lưỡng-Túc-Tôn kia
Rất hơn
không ai bằng
Phật
tức là thân ông
Nên
phải tự vui mừng.
9. Bấy
giờ bốn bộ chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và cả đại
chúng: Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la,
Ma-hầu-la-dà v.v... thấy Xá-Lợi-Phất ở trước Phật lãnh lời dự ghi sẽ thành
Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, lòng rất vui mừng hớn hở vô-lượng. Mỗi
người đều cởi y trên của mình đang đắp để cúng dường Phật.
Thích-Đề-Hoàn-Nhơn cùng Phạm-Thiên-Vương v.v... và vô số thiên tử cũng đem y
đẹp của trời, hoa trời Mạn-đà-la, Ma-ha Mạn-đà-la v.v... cúng dường nơi
Phật. Y trời tung lên liền trụ giữa hư không mà tự xoay chuyển. Các kỹ nhạc
trời trăm nghìn muôn thứ ở giữa hư không đồng thời đều trỗi. Rưới các thứ
hoa trời mà nói lời rằng: "Đức Phật xưa ở thành Ba-la-nại, ban đầu chuyễn
pháp luân, đến nay mới lại chuyễn pháp luân rất lớn Vô thượng".
Lúc đó các Thiên tử muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
10. Xưa ở thành Ba-Nại
Chuyễn
Pháp luân Bốn-đế
Phân
biệt nói các pháp
Sanh
diệt của năm nhóm(8)
Nay lại
chuyễn Pháp luân
Rất lớn
diệu Vô thượng,
Pháp đó
rất sâu mầu
Ít có
người tin được
Chúng
ta từ xưa lại
Thường
nghe Thế-Tôn nói
Chưa
từng nghe thượng pháp
Thâm
diệu như thế nầy.
Thế-Tôn
nói pháp đó
Chúng
ta đều tùy-hỷ,
Đại trí
Xá-Lợi-Phất
Nay
được lãnh Phật ký,
Chúng
ta cũng như vậy
Quyết
sẽ đặng thành Phật,
Trong
tất cả thế gian
Rất tôn
không còn trên,
Phật
đạo chẳng thể bàn
Phương
tiện tùy nghi nói,
Ta bao
nhiêu nghiệp phước
Đời nay
hoặc quá khứ
Và công
đức thấy Phật
Trọn
hồi hướng Phật đạo.
11. Bấy giờ, Xá-Lợi-Phất bạch rằng: "Thế-Tôn! Con nay không còn nghi
hối, tự mình ở trước Phật đặng thọ ký thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
Các vị tâm tự-tại một nghìn hai trăm đây, lúc xưa ở bực hữu học, Phật thường
dạy rằng: "Pháp của Ta hay lìa sanh, già, bệnh, chết, rốt ráo Niết-bàn". Các
vị hữu học vô học đây cũng đều đã tự rời chấp ngã cùng chấp có, chấp không
v.v... nói là đặng Niết-bàn, mà nay ở trước Đức Thế-Tôn nghe chổ chưa từng
nghe, đều sa vào nghi lầm. Hay thay Thế-Tôn! Xin Phật vì bốn chúng nói nhơn
duyên đó, khiến lìa lòng nghi hối".
12. Khi
ấy, Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất! Ta trước đâu không nói rằng: "Các Phật
Thế-Tôn dùng các món nhơn duyên lời lẽ thí dụ phương tiện mà vì đó nói pháp
đều là đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác ư? Các điều nói đó đều vì dạy
Bồ-tát vậy. Nhưng Xá-Lợi-Phất! nay Ta sẽ dùng một thí dụ để chỉ rõ lại nghĩa
đó, những người có trí do thí-dụ mà đặng hiểu".
13. Xá-Lợi-Phất!
Như trong quốc ấp, tụ-lạc có vị đại Trưởng-giả tuổi đã già suy, của giàu vô
lượng, có nhiều nhà ruộng và tôi tớ. Nhà ông rộng lớn mà chỉ có một cửa để
ra vào, người ở trong đó rất đông: hoặc một trăm, hai trăm cho đến năm trăm
người, lầu gát đã mục, vách phên sụp đổ, chân cột hư nát, trích xuyên xiêu
ngã, bốn phía đồng một lúc lửa bổng nổi lên đốt cháy nhà cửa.
Các người con của Trưởng-giả hoặc mười người, hoặc hai mươi người, hoặc đến
ba mươi người ở trong nhà đó.
14. Trưởng-giả
thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ sệt mà nghĩ rằng: Ta dầu có
thể ở nơi cửa của nhà cháy này, ra ngoài rất an ổn, song các con ở trong nhà
lửa ưa vui chơi giỡn không hay biết, không sợ sệt, lửa đến đốt thân rất đau
khổ lắm, mà lòng chẳng nhàm lo, không có ý cầu ra khỏi.
Xá-Lợi-Phất! Ông Trưởng-giả đó lại nghĩ: Thân và tay của Ta có sức mạnh, nên
dùng vạt áo hoặc dùng ghế đẳng từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ: Nhà
này chỉ có một cái cửa mà lại hẹp nhỏ, các con thơ bé chưa hiểu, mê đắm chơi
giỡn hoặc vấp ngã bị lửa đốt cháy, Ta nên vì chúng nó mà nói những việc đáng
sợ.
Nhà này đã bị cháy phải liền mau ra, chớ để bị lửa đốt hại. Nghĩ như thế rồi
theo chỗ đã nghĩ đó mà bảo các con: "Các con mau ra". Cha dầu thương xót
khéo nói để dụ dỗ, mà các người con ưa vui chơi chẳng khứng tin chịu, chẳng
sợ sệt, trọn không có lòng muốn ra, lại cũng chẳng hiểu gì là lửa? Gì là
nhà? Thế nào là hại? Chỉ cứ đông tây chạy giỡn nhìn cha mà thôi.
15. Bấy
giờ, Trưởng-giả liền nghĩ, nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy, Ta cùng các con
nếu không liền ra chắc sẽ bị cháy, Ta nay nên bày chước phương tiện khiến
cho các con đặng khỏi nạn này.
Cha biết các con đều vẩn có lòng thích các đồ chơi trân báu lạ lùng, nếu có,
chắc chúng nó ưa đắm, mà bảo các con rằng: "Đây này là những món ít có khó
đặng mà các con có thể vui chơi, nếu các con không ra lấy sau chắc buồn ăn
năn. Các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu như thế, nay ở ngoài cửa có thể dùng
dạo chơi, các con ở nơi nhà lửa nên mau ra đây, tùy ý các con muốn, cha đều
sẽ cho các con".
Lúc bấy giờ, các người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ý mình, nên lòng
mỗi người đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau, cùng đua nhau ruổi chạy, tranh ra
khỏi nhà lửa. Khi đó Trưởng-giả thấy các con đặng an ổn ra khỏi nhà lửa đều
ở trong đường ngả tư, ngồi nơi đất trống không còn bị chướng ngại, tâm ông
thơ-thới vui mừng hớn hở.
Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng: "Cha lúc nãy hứa cho những đồ
chơi tốt đẹp, nào xe dê, xe hươu, xe trâu xin liền ban cho".
16. Xá-Lợi-Phất!
Khi đó Trưởng-giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn, xe đó cao rộng chưng
dọn bằng các món báu, lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn
lọng giăng che ở trên, cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ mà trau giồi đó, dây bằng
báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại trải chồng, gối đỏ để
trên, dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch, thân hình mập đẹp, có sức rất
mạnh, bước đi ngay bằng mau lẹ như gió, lại có đông tôi tớ để hầu hạ đó.
Vì cớ sao? Vì ông Trưởng-giả đó của giàu vô lượng, các thứ kho tàng thảy đều
đầy ngập, ông nghĩ rằng: "Của cải của Ta nhiều vô cực, không nên dùng xe nhỏ
xấu kém mà cho các con, nay những trẻ thơ này đều là con của Ta, đồng yêu
không thiên lệch, Ta có xe bằng bảy báu như thế nhiều vô lượng nên lấy lòng
bình đẳng mà đều cho chúng nó, chẳng nên sai khác".
Vì sao? Dầu đem xe của Ta đó khắp
cho cả người một nước hảy còn không thiếu huống gì các con. Lúc ấy, các
người con đều ngồi xe lớn đặng điều chưa từng có, không phải chổ trước kia
mình trông.
17. Xá-Lợi-Phất!
Ý của ông nghĩ sao? Ông Trưởng-giả đó đồng đem xe trân báu lớn cho các người
con, có lỗi hư vọng chăng? Xá-Lợi-Phất thưa: "Thưa Thế-Tôn! Không, ông
Trưởng-giả đó chỉ làm cho các người con đặng khỏi nạn lửa, toàn thân mạng
chúng nó chẳng phải là hư vọng. Vì sao? Nếu được toàn thân mạng bèn đã được
đồ chơi tốt đẹp, huống nữa là dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.
Thế-Tôn! Dầu ông Trưởng-giả đó nhẫn đến chẳng cho một thứ xe rất nhỏ
còn chẳng phải hư vọng. Vì sao? Vì ông Trưởng-giả đó trước có nghĩ như vầy:
Ta dùng chước phương tiện cho các con đặng ra khỏi, vì nhơn duyên đó nên
không hư vọng vậy. Huống gì ông Trưởng-giả tự biết mình của giàu vô lượng
muốn lợi ích các con mà đồng cho xe lớn".
18. Phật
bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói, Xá-Lợi-Phất!
Như-Lai cũng lại như thế, Phật là Cha của tất cả thế gian, ở nơi các sự sợ
hãi suy não lo buồn vô minh che tối hết hẳn không còn thừa, mà trọn thành
tựu vô lượng tri kiến, trí lực, vô sở úy, có sức đại thần-thông cùng sức
trí-huệ, đầy đũ các món phương tiện, trí-huệ Ba-la-mật, đại-từ đại-bi thường
không hề lười mỏi. Hằng vì cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh
vào nhà lửa tam giới cũ mục nầy, để độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa: sanh,
già, bệnh, chết, lo buồn khổ não, ngu-si tối tăm, ba độc, dạy bảo cho chúng
sanh đặng Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
19. Ta
thấy, các chúng sanh bị những sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não nó
đốt cháy, cũng vì năm món dục(9)
tài lợi mà bị các điều thống khổ. Lại vì tham mê đeo đuổi tìm cầu
nên hiện đời thọ các điều khổ, đời sau thọ khổ địa ngục, ngạ quỷ. Nếu sanh
lên Trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn khổ, bị khổ vì người yêu
thường xa lìa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như thế mà chúng sanh
chìm trong đó vui vẻ dạo chơi, chẳng hay chẳng biết, chẳng kinh chẳng sợ,
cũng chẳng sanh lòng nhàm không cầu giải thoát, ở trong nhà lửa Tam giới này
Đông Tây rảo chạy dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo.
20. Xá-Lợi-Phất!
Đức Phật thấy việc này rồi bèn nghĩ rằng: Ta là Cha của chúng sanh nên cứu
chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô lượng vô biên món trí tuệ vui của Phật
để chúng nó dạo chơi.
Xá-Lợi-Phất! Đức Như-Lai lại nghĩ: Nếu Ta chỉ dùng sức thần-thông
cùng sức trí-huệ bỏ chước phương tiện, mà vì chúng sanh khen ngợi các món
tri kiến, trí lực, vô sở úy của Như-Lai, ắt chúng sanh chẳng có thể do đó mà
đặng độ thoát.
Vì sao? Vì các chúng sanh đó chưa khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn đau
khổ, đương bị thiêu đốt trong nhà lửa Tam giới, làm sao có thể hiểu được
trí-huệ của Phật.
21. Xá-Lợi-Phất!
Như ông Trưởng-giả kia dầu thân và tay có sức mạnh mà chẳng dùng đó, chỉ ân
cần phương tiện gắng cứu các con thoát nạn nhà lửa, rồi sau đều cho xe trân
báu lớn.
Đức Như-Lai cũng lại như thế, dầu có trí lực cùng sức vô úy(10)
mà chẳng dùng đến, chỉ dùng trí phương tiện nơi nhà lửa tam giới cứu vớt
chúng sanh, vì chúng sanh nói ba thừa Thanh-Văn, Duyên-Giác cùng Phật thừa,
mà bảo rằng: "Các ngươi không nên ưa ở trong nhà lửa Tam giới, chớ có ham mê
các món sắc, thinh, hương, vị, xúc thô hèn, nếu tham, mê ắt sanh ái nhiễm
thời sẽ bị nó đốt; các ngươi mau ra khỏi ba cõi sẽ đặng chứng ba thừa:
Thanh-Văn, Duyên-Giác và Phật thừa.
Nay Ta vì các ngươi mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối vậy. Các
ngươi chỉ nên siêng năng tinh-tấn tu hành". Đức Như-Lai dùng phương tiện ấy
để dụ dẫn chúng sanh thẳng đến, lại bảo: "Các ngươi nên biết rằng pháp ba
thừa đó đều là pháp của các đấng Thánh khen ngợi, là pháp tự-tại không bị
ràng buộc không còn phải nương gá tìm cầu, ngồi trong ba thừa này dùng các
món Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo(11),
Thiền định Vô-lậu, cùng giải thoát Tam muội v.v... để tự vui sướng, đăng vô
lượng sự an ổn khoái lạc.
22. Xá-Lợi-Phất!
Nếu có chúng sanh nào bề trong có trí tánh, theo Đức Phật Thế-Tôn nghe pháp
tin nhận ân cần tinh-tấn, muốn chóng ra khỏi ba cõi tự cầu chứng Niết-bàn,
gọi đó là Thanh-Văn thừa, như các người con kia vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà
lửa.
Nếu có chúng sanh nào theo Đức Phật Thế-Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân cần
tinh-tấn, cầu trí-huệ tự nhiên, ưa thích riêng lẽ vắng lặng, sâu rõ nhơn
duyên của các pháp, gọi đó là Duyên-Giác thừa, như các người con kia vì cầu
xe hươu mà ra khỏi nhà lửa.
Nếu có chúng sanh nào theo Đức Phật Thế-Tôn nghe pháp tin nhận, siêng tu
tinh-tấn cầu Nhứt-thiết-trí, Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí, các món tri
kiến lực, vô úy của Như-Lai, có lòng thương xót làm an vui cho vô lượng
chúng sanh, lợi ích trời, người, độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Đại thừa,
Bồ-tát vì cầu đặng thừa này thời gọi là Ma-ha-tát, như các người con kia cầu
xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.
23. Xá-Lợi-Phất!
Như ông Trưởng-giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đến chổ vô
úy, ông tự nghĩ, Ta của giàu vô lượng, nên bình đẳng đem xe lớn đồng cho các
con. Đức Như-Lai cũng lại như thế, là Cha của tất cả chúng sanh, nếu thấy có
vô lượng, nghìn ức chúng sanh do cửa Phật giáo mà thoát khỏi khổ, đường hiểm
đáng sợ của ba cõi đặng sự vui Niết-bàn.
Bấy giờ, Đức Như-Lai bèn nghĩ: "Ta có vô lượng vô biên trí-huệ, lực vô úy
v.v... Tạng pháp của các Đức Phật, các chúng sanh nầy đều là con của Ta đồng
ban cho pháp đại thừa, chẳng để có người được diệt độ riêng, đều đem pháp
diệt độ của Như-Lai mà cho chúng sanh nó diệt độ.
Những chúng sanh đã thoát khỏi ba cõi đó, Phật đều cho món vui thiền định,
giải thoát v.v... của các Đức Phật, các món đó đều là một tướng, một thứ mà
các đấng Thánh khen ngợi, hay sanh ra sự vui sạch mầu bực nhứt.
24. Xá-Lợi-Phất!
Như ông Trưởng-giả ban đầu dùng ba thứ xe dụ dẫn các con, sau rồi chỉ ban
cho xe lớn vật báu trang nghiêm an ổn thứ nhứt, song ông Trưởng-giả kia
không có lỗi hư dối, Đức Như-Lai cũng như thế, không có hư dối, ban đầu nói
ba thừa dẫn dắt chúng sanh sau rồi chỉ dùng Đại thừa mà độ giải thoát đó.
Vì sao? Như-Lai có vô lượng Tạng pháp trí-huệ, lực, vô-sở-úy, có thể
ban pháp Đại thừa cho tất cả chúng sanh, chỉ vì chúng sanh không thọ được
hết.
Xá-Lợi-Phất! Vì nhân duyên đó nên phải biết các Đức Như-Lai dùng sức phương
tiện ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba.
Đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
25. Thí
như ông Trưởng-giả
Có một
nhà rất lớn
Nhà đó
đã lâu cũ
Mà lại
rất xấu xa,
Phòng
nhà vừa cao nguy
Gốc cột
lại gãy mục,
Trích
xuyên đều xiêu vẹo
Nền
móng đã nát rã,
Vách
phên đều sụp đổ
Đất bủn
rơi rớt xuống,
Tranh
lợp sa tán loạn
Kèo đòn
sai rời khớp,
Bốn bề
đều cong vạy
Khắp
đầy những tạp nhơ,
Có đến
năm trăm người
Ở đổ
nơi trong đó.
Chim
xi, hiêu, điêu, thứu,
Quạ,
chim thước, cưu, cáp
Loài
ngươn xà, phúc yết,
Giống
ngô công, do diên,
Loài
thủ cung, bá túc
Dứu, ly
cùng hề thử,
Các
giống độc trùng dữ
Ngang
dọc xen ruổi chạy,
Chổ
phân giải hôi thúi
Đồ bất
tịnh chảy tràn
Các
loài trùng khương lương
Bu nhóm
ở trên đó,
Cáo,
sói cùng dã can
Liếm
nhai và dày đạp
Cắn xé
những thây chết
Xương
thịt bừa bãi ra,
Do đây
mà bầy chó
Đua
nhau đến ngoạm lấy,
Ốm đói
và sợ sệt
Nơi nơi
tìm món ăn
Giành
giựt cấu xé nhau
Gầm gừ
gào sủa rân,
Nhà đó
sự đáng sợ
Những
biến trạng dường ấy.
Khắp
chổ đều có những
Quỉ,
ly, mị, vọng, lượng
Quỷ
Dạ-xoa quỷ dữ
Nuốt ăn
cả thịt người,
Các
loài trùng độc dữ
Những
cầm thú hung ác
Ấp, cho
bú sản sanh
Đều tự
dấu gìn giữ,
Quỷ
Dạ-xoa đưa đến
Giành
bắt mà ăn đó,
Ăn đó
no nê rồi
Lòng
hung dữ thêm hăng
Tiếng
chúng đánh cải nhau
Thật
rất đáng lo sợ.
Những
quỷ Cưu-bàn-trà
Ngồi
xổm trên đống đất
Hoặc có
lúc hỏng đất
Một
thước hay hai thước
Qua rồi
lại, dạo đi
Buông
lung chơi cùng giỡn
Nắm hai
chân của chó
Đánh
cho la thất thanh
Lấy
chân đạp trên cổ
Khủng
bố chó để vui.
Lại có
các giống quỷ
Thân nó
rất cao lớn
Trần
truồng thân đen xấu
Thường
ở luôn trong đó
Rền
tiếng hung ác lớn
Kêu la
tìm món ăn
Lại có
các giống quỷ
Cổ nó
nhỏ bằng kim
Lại có
các giống quỷ
Đầu nó
như đầu trâu
Hoặc là
ăn thịt người
Hoặc
lại ăn thịt chó,
Đầu tóc
rối tung lên
Rất ác
lại hung hiểm,
Bị đói
khát bức ngặt
Kêu la
vừa rong chạy.
Dạ-xoa
cùng quỷ đói
Các
chim muông ác độc
Đói gấp
rảo bốn bề
Rình
xem nơi cửa sổ,
Các nạn
dường thế đấy
Vô
lượng việc ghê sợ(12)
26. Nhà
cũ mục trên đó
Thuộc ở
nơi một người
Người
ấy vừa mới ra
Thời
gian chưa bao lâu
Rồi sau
nhà cửa đó
Bỗng
nhiên lửa cháy đỏ
Đồng
một lúc bốn bề
Ngọn
lửa đều hừng hực,
Rường
cột và trính xuyên
Tiếng
tách nổ vang động
Nát gãy
rơi rớt xuống
Vách
phên đều lở ngã,
Các
loại quỷ thần thảy
Đồng
cất tiếng kêu to,
Các
giống chim điêu, thứu
Quỷ
Cưu-bàn-trà thảy
Kinh sợ
chạy sảng sốt
Vẫn
không tự ra đặng,
Thú dữ
loài trùng độc
Chui
núp trong lỗ hang.
Các quỷ
Tỳ-xá-xà
Cũng ở
trong hang đó
Vì
phước đức kém vậy
Bị lửa
đến đốt bức
Lại tàn
hại lẫn nhau
Uống
máu ăn thịt nhau.
Những
loại thú dã can
Thời
đều đã chết trước
Các
giống thú dữ lớn
Giành
đua đến ăn nuốt.
Khói
tanh bay phùn phụt
Phủ
khắp bít bốn bề,
Loài
ngô công, do diên
Cùng
với rắn hung độc
Bị lửa
lòn đốt cháy
Tranh
nhau chạy khỏi hang,
Quỷ Bàn
trà rình chờ
Liền
bắt lấy mà ăn.
Lại có
các ngạ quỷ
Trên
đầu lửa bực cháy
Đói
khát rất nóng khổ
Sảng
sốt chạy quàng lên,
Nhà lửa
đó dường ấy
Rất
đáng nên ghê sợ
Độc hại
cùng tai lửa
Các nạn
chẳng phải một.
27. Lúc
bấy giờ chủ nhà
Đứng ở
nơi ngoài cửa
Nghe có
người mách rằng:
Các
người con của ông
Trước
đây vì dạo chơi
Mà đến
vào nhà này
Thơ bé
không hiểu biết
Chỉ vui
ham ưa đắm.
Trưởng-giả vừa nghe xong
Kinh sợ
vào nhà lửa
Tìm
phương nghi cứu tế
Cho con
khỏi thiêu hại
Mà dụ
bảo các con
Nói rõ
các hoạn nạn:
Nào ác
quỷ dộc trùng
Hỏa tai
lan tràn cháy
Các sự
khổ thứ lớp
Nói
luôn không hề dứt
Loài
độc xà, ngươn phúc
Và các
quỷ Dạ-xoa
Cùng
quỷ Cưu-bàn-trà
Những
dã can, chồn, chó
Chim
điêu, thứu, xi, hiêu
Lại
giống bá túc thảy
Đều đói
khát khổ gấp
Rất
đáng phải ghê sợ
Chỗ khổ
nạn như thế
Huống
lại là lửa lớn.
Các con
nhỏ không hiểu
Dầu có
nghe cha dạy
Cứ vẫn
còn ham ưa
Vui
chơi mãi không thôi.
28. Bấy
giờ Trưởng-giả kia
Mới bèn
nghĩ thế nầy:
Các con
như thế đó
Làm ta
thêm sầu não.
Nay
trong nhà lửa này
Không
một việc đáng vui
Mà các
con ngây dại
Vẫn ham
mê vui chơi
Chẳng
chịu nghe lời ta
Toan sẽ
bị lửa hại.
Ông bèn
lại suy nghĩ
Nên bày
các phương tiện
Bảo với
các con rằng:
Cha có
rất nhiều thứ
Các đồ
chơi trân kỳ
Những
xe báu tốt đẹp
Nào xe
dê, xe hươu
Cùng
với xe trâu lớn
Hiện để
ở ngoài cửa
Các con
mau ra đây
Cha
chính vì các con
Mà sắm
những xe này
Tùy ý
các con thích
Có thể
để dạo chơi.
Các con
nghe cha nói
Các thứ
xe như vậy
Tức
thời cùng giành đua
Rảo
chạy ra khỏi nhà
Đến nơi
khoảng đất trống
Rời
những sự khổ nạn.
Trưởng-giả thấy các con
Được ra
khỏi nhà lửa
Ở nơi
ngã tư đường
Đến
ngồi tòa sư tử.
Ông bèn
tự mừng rằng
Ta nay
rất mừng vui
Những
đứa con ta đây
Đẻ nuôi
rất khó lắm
Chúng
nhỏ dại không hiểu
Mới lầm
vào nhà hiểm
Có
nhiều loài trùng độc
Quỷ
Ly-mị đáng sợ
Lửa lớn
cháy hừng hực
Bốn
phía đều phực lên
Mà các
trẻ con này
Lại ham
ưa vui chơi
Nay ta
đã cứu chúng
Khiến
đều đặng thoát nạn
Vì thế
các người ơi!
Ta nay
rất vui mừng.
Khi ấy
các người con
Biết
cha đã ngồi an
Đều đến
bên chổ cha
Mà thưa
cùng cha rằng:
Xin cha
cho chúng con
Ba thứ
xe báu lạ
Như vừa
rồi cha hứa
Các con
mau ra đây
Sẽ cho
ba thứ xe
Tùy ý
các con muốn
Bây giờ
chính phải lúc
Xin cha
thương cấp cho.
29. Trưởng-giả
giàu có lớn
Kho đụn
rất nhiều đầy
Vàng
bạc cùng lưu-ly
Xa-cừ
ngọc mã-não,
Dùng
những món vật báu
Tạo
thành các xe lớn
Chưng
dọn trang nghiêm đẹp
Khắp
vòng có bao lơn
Bốn mặt
đều treo linh
Dây
vàng xen thắt tụi
Lưới
mành kết trân châu
Giăng
bày phủ phía trên
Hoa
vàng các chuổi ngọc
Lòng
thòng rủ khắp chỗ
Các màu
trang sức đẹp
Khắp
vòng vây quanh xe
Dùng
nhiễu hàng mềm mại
Để làm
nệm lót ngồi
Vải quý
mịn rất tốt
Giá trị
đến nghìn muôn
Bóng
láng trắng sạch sẽ
Dùng
trải trùm trên nệm
Có trâu
trắng to lớn
Mập
khỏe nhiều sức mạnh
Thân
hình rất tươi tốt
Để kéo
xe báu đó
Đông
những tôi và tớ
Mà chực
hầu giữ gìn
Đem xe
đẹp như thế
Đồng
ban cho các con
Các con
lúc bấy giờ
Rất vui
mừng hớn hở
Ngồi
trên xe báu đó
Dạo đi
khắp bốn phương
Vui
chơi nhiều khoái lạc
Tự tại
không ngăn ngại.
30. Bảo
Xá-Lợi-Phất này
Đức
Phật cũng như vậy
Tôn cả
trong hàng Thánh
Cha
lành của trong đời
Tất cả
các chúng sanh
Đều là
con của Ta
Say mê
theo thế lạc
Không
có chút huệ tâm.
Ba cõi
hiểm không an
Dường
như nhà lửa cháy
Các nạn
khổ dẫy đầy
Rất
đáng nên ghê sợ.
Thường
có những sanh, già
Bịnh,
chết và rầu lo
Các thứ
lửa như thế
Cháy
hừng chẳng tắt dứt.
Đức
Như-Lai đã lìa
Nhà lửa
ba cõi đó
Vắng
lặng ở thong thả
An ổn
trong rừng nội
Hiện
nay ba cõi này
Đều là
của Ta cả
Những
chúng sanh trong đó
Cũng là
con của Ta.
Mà nay
trong ba cõi
Có
nhiều thứ hoạn nạn
Chỉ
riêng một mình Ta
Có thể
cứu hộ chúng,
Dầu lại
đã dạy bảo
Mà vẫn
không tin nhận
Vì nơi
các dục nhiễm
Rất
sanh lòng tham mê
Bởi thế
nên phương tiện
Vì
chúng nói ba thừa
Khiến
cho các chúng sanh
Rõ ba
cõi là khổ
Mỡ bày
cùng diễn nói
Những
đạo pháp xuất thế,
Các
người con đó thảy
Nếu nơi
tâm quyết định
Đầy đủ
ba món minh(13)
Và sáu
món thần-thông(14)
Có
người được Duyên-giác
Hoặc
bất thối Bồ-tát
Xá-Lợi-Phất phải biết
Ta vì
các chúng sanh
Dùng
món thí dụ này
Để nói
một Phật thừa
Các ông
nếu có thể
Tin
nhận lời nói đây
Tất cả
người đều sẽ
Chứng
thành quả Phật đạo.
31. Phật
thừa đây vi diệu
Rất
thanh tịnh thứ nhứt
Ở trong
các thế gian
Không
còn pháp nào trên
Của các
Phật vui ưa,
Tất cả
hàng chúng sanh
Đều
phải nên khen ngợi
Và cúng
dường lễ bái
Đủ vô
lượng nghìn ức
Các
trí-lực, giải-thoát
Thiền-định và trí-huệ
Cùng
pháp khác của Phật,
Chứng
đặng thừa như thế
Khắp
cho các con thảy
Ngày
đêm cùng kiếp số
Thường
đặng ngồi dạo chơi
Cho các
hàng Bồ-tát
Cùng
với chúng Thanh-văn
Nương
nơi thừa báu này
Mà
thẳng đến đạo tràng.
Vì bởi
nhơn duyên đó
Tìm kỹ
khắp mười phương
Lại
không thừa nào khác
Trừ
Phật dùng phương tiện.
Bảo với
Xá-Lợi-Phất!
Bọn ông
các người thảy
Đều là
con của Ta
Ta thời
là Cha lành.
Các ông
trải nhiều kiếp
Bị các
sự khổ đốt
Ta đều
đã cứu vớt
Cho ra
khỏi ba cõi.
Ta dầu
ngày trước nói
Các ông
được diệt độ
Nhưng
chỉ hết sanh tử
Mà
thiệt thời chẳng diệt,
Nay
việc nên phải làm
Chỉ có
trí-huệ Phật.
Nếu có
Bồ-tát nào
Ở trong
hàng chúng này
Có thể
một lòng nghe
Pháp
thật của các Phật,
Các Đức
Phật Thế-Tôn
Dầu
dùng chước phương tiện
Mà
chúng sanh được độ
Đều là
Bồ-tát cả.
32. Nếu
có người trí nhỏ
Quá mê
nơi ái dục
Phật
bèn vì bọn này
Mà nói
lý Khổ đế,
Chúng
sanh lòng nghe mừng
Đặng
điều chưa từng có
Đức
Phật nói Khổ đế
Chơn
thật không sai khác.
Nếu lại
có chúng sanh
Không
rõ biết gốc khổ
Quá say
nơi khổ nhơn
Chẳng
tạm rời bỏ được,
Phật vì
hạng người này
Dùng
phương tiện nói dạy
Nguyên
nhơn có các khổ
Tham
dục là cội gốc,
Nếu dứt
được tham dục
Khổ
không chỗ nương đổ
Dứt hết
hẳn các khổ
Gọi là
Đế thứ ba.
Vì
chứng Diệt đế vậy
Mà tu
hành Đạo đế
Lìa hết
các khổ phược
Gọi đó
là giải-thoát,
Người
đó nơi pháp gì
Mà nói
đặng giải-thoát?
Chỉ xa
rời hư vọng
Gọi đó
là giải-thoát
Kỳ
thiệt chưa phải được
Giải-thoát hẳn tất cả.
Đức
Phật nói người đó
Chưa
phải thiệt diệt độ,
Vì
người đó chưa được
Đạo quả
vô-thượng vậy.
Ý của
Ta không muốn
Cho đó
đến diệt độ,
Ta là
đấng Pháp-Vương
Tự tại
nơi các pháp
Vì an
ổn chúng sanh
Nên
hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất phải biết
Pháp ấn
của Ta đây
Vì muốn
làm lợi ích
Cho thế
gian nên nói
Tại chổ
ông đi qua
Chớ có
vọng tuyên truyền.
Nếu có
người nghe đến
Tùy hỷ
kính nhận lấy
Phải
biết rằng người ấy
Là bậc
Bất thối chuyển.
Nếu có
người tin nhận
Kinh
pháp Vô thượng này
Thời
người đó đã từng
Thấy
các Phật quá khứ
Cung
kính và cúng dường
Cũng
được nghe Pháp này.
Nếu
người nào có thể
Tin
chịu lời ông nói
Thời
chính là thấy Ta
Cũng là
thấy nơi ông
Cùng
các chúng Tỳ-kheo
Và các
hàng Bồ-tát.
33. Phật vì người trí sâu
Nói
Kinh Pháp-Hoa này
Kẻ thức
cạn nghe đến
Mê lầm
không hiểu được.
Tất cả
hàng Thanh-văn
Cùng
với Bích-Chi Phật
Ở trong
Kinh Pháp này
Sức kia
không hiểu được.
Chính
ông Xá-Lợi-Phất
Hãy còn
nơi Kinh nầy
Dùng
lòng tin đặng vào
Huống
là Thanh-văn khác.
Bao
nhiêu Thanh-văn khác
Do tin
theo lời Phật
Mà tùy
thuận Kinh nầy
Chẳng
phải trí của mình.
34. Lại nầy Xá-Lợi-Phất!
Kẻ kiêu
mạn biếng lười
Vọng so
chấp lấy ngã
Chớ vì
nói Kinh này,
Hạng
phàm phu biết cạn
Quá mê
năm món dục
Nghe
pháp không hiểu được
Cũng
chẳng nên vì nói,
Nếu có
người không tin
Khinh
hủy chê Kinh này
Thời là
dứt tất cả
Giống
Phật ở thế-gian.
Nếu có
người xịu mặt
Mà cưu
lòng nghi hoặc
Ông nên
lóng nghe nói
Tội báo
của người đó
Hoặc
Phật còn tại thế
Hoặc
sau khi diệt độ
Nếu có
người chê bai
Kinh
điển như thế này
Thấy có
người đọc tụng
Biên
chép thọ trì Kinh
Rồi
khinh tiện ghét ganh
Mà cưu
lòng kết hờn
Tội báo
của người đó
Ông nay
lại lóng nghe.
Người
đó khi mạng chung
Sa vào
ngục A-tỳ
Đầy đủ
một kiếp chẳn
Kiếp
mãn hết lại sanh
Cứ xoay
vần như thế
Nhẫn
đến vô số kiếp.
Từ
trong địa ngục ra
Sẽ đọa
vào súc sanh,
Hoặc là
chó, dã can
Thân
thể nó ốm gầy
Đen điu
thêm ghẻ lác
Bị
người thường chọc ghẹo
Lại còn
phải bị người
Gớm
nhờm và ghét rẻ
Thường
ngày đói khát khổ
Xương
thịt đều khô khan,
Lúc
sống chịu khổ sở
Chết bị
ném ngói đá
Vì đoạn
mất giống Phật
Nên thọ
tội báo đó.
Hoặc
sanh làm lạc đà
Hoặc
sanh vào loài lừa
Thân
thường mang kéo nặng
Lại
thêm bị đánh đập
Chỉ nhớ
tưởng: nước, cỏ
Ngoài
ra không biết gì
Vì
khinh chê Kinh này
Mà mắc
tội như vậy.
Có khi
làm dã can
Đi vào
trong xóm làng
Thân
thể đầy ghẻ lác
Lại
chột hết một mắt
Bị bọn
trẻ nhỏ vây
Theo
đánh đập liệng ném
Chịu
nhiều các đau khổ
Hoặc có
lúc phải chết.
Ở đây
vừa chết rồi
Liền
lại thọ thân rắn
Thân
thể nó dài lớn
Đến năm
trăm do tuần
Điếc
ngây và không chân
Lăn lóc
di bằng bụng
Bị các
loài trùng nhỏ
Cắn rút
ăn thịt máu
Bị khổ
cả ngày đêm
Không
tạm có ngừng nghỉ
Vì
khinh chê Kinh nầy
Mà mắc
tội như vậy.
Nếu
được sanh làm người
Các căn
đều ám độn
Lùn xấu
lại lệch què
Đui
điếc thêm lưng gù
Có nói
ra lời gì
Mọi
người không tin nhận,
Hơi
miệng thường hôi thúi
Bị quỷ
mỵ dựa nhập
Nghèo
cùng rất hèn hạ
Bị
người sai khiến luôn,
Nhiều
bịnh thân ốm gầy
Không
có chổ cậy nhờ
Dầu
nương gần với người
Mà
người chẳng để ý
Nếu có
đặng điều chi
Thời
liền lại quên mất,
Nếu học
qua nghề thuốc
Theo
đúng phép trị bịnh
Mà bịnh
người nặng thêm
Hoặc có
khi đến chết,
Nếu tự
mình có bịnh
Không
người chữa lành đặng
Dầu có
uống thuốc hay
Mà bịnh
càng thêm nặng,
Hoặc
người khác phản nghịch
Cướp
giựt trộm lấy của
Các tội
dường thế đó
Lại tự
mang họa lây.
Những
người tội như đây
Trọn
không thấy được Phật
Là vua
trong hàng Thánh
Thường
nói pháp giáo hóa,
Những
người tội như đây
Thường
sanh chổ hoạn nạn
Tâm
cuồng loạn, tai điếc
Trọn
không nghe pháp được.
Trải
qua vô số kiếp
Như số
cát sông Hằng
Sanh ra
liền điếc câm
Các căn
chẳng dầy đủ
Thường
ở trong địa-ngục
Như dạo
chơi vườn nhà,
Ở tại
ác đạo khác
Như ở
nhà của mình
Lạc đà,
lừa, heo, chó
Là chổ
kia thường đi
Vì
khinh chê Kinh này
Mắc tội
dường thế đó.
Nếu
đặng sanh làm người
Điếc,
đui lại câm, ngọng
Nghèo
cùng các tướng suy
Dùng đó
tự trang nghiêm,
Sưng
bủn bịnh khô khát
Ghẻ,
lác, cùng ung thư
Các
bịnh như trên đó
Dùng
làm y phục mặc,
Thân
thể thường hôi hám
Nhơ
nhớp không hề sạch
Lòng
chấp ngã sâu chặt
Thêm
nhiều tánh giận hờn
Tính
dâm dục hẩy hừng
Đến
chẳng chừa cầm thú.
35. Bảo cho Xá-Lợi-Phất!
Người
khinh chê Kinh này
Nếu kể
nói tội kia
Cùng
kiếp cũng chẳng hết
Vì bởi
nhơn duyên đó
Ta vẫn
bảo các ông
Trong
nhóm người vô trí
Chớ nên
nói Kinh này.
Nếu có
người lợi căn
Sức
trí-huệ sáng láng
Học
rộng và nhớ dai
Lòng
mong cầu Phật đạo
Những
hạng người như thế
Mới nên
vì đó nói.
Nếu có
người đã từng
Thấy
trăm nghìn ức Phật
Trồng
các cội đức lành
Thâm
tâm rất bền vững
Hạng
người được như thế
Mới nên
vì đó nói.
Nếu có
người tinh tấn
Thường
tu tập lòng từ
Chẳng
hề tiếc thân mạng
Mới nên
vì đó nói.
Nếu có
người cung kính
Không
có sanh lòng khác
Lìa xa
các phàm ngu
Ở riêng
trong núi chầm
Những
hạng người như thế
Mới nên
vì đó nói.
Lại
Xá-Lợi-Phất này!
Nếu
thấy có người nào
Rời bỏ
ác tri thức
Gần gũi
bạn hiền lành
Người
được như thế ấy
Mới nên
vì đó nói.
Nếu
thấy hàng Phật tử
Giữ
giới hạnh trong sạch
Như
minh châu sáng sạch
Ham cầu
Kinh Đại thừa
Những
người được như thế
Mới nên
vì đó nói.
Nếu
người không lòng giận
Chắc
thiệt ý dịu hòa
Thường
thương xót mọi loài
Cung
kính các đức Phật
Hạng
người tốt như thế
Mới nên
vì đó nói.
Lại có
hàng Phật tử
Ở tại
trong đại chúng
Thuần
dùng lòng thanh tịnh
Các món
nhơn cùng duyên
Thí dụ
và lời lẽ
Nói
pháp không chướng ngại
Những
người như thế ấy
Mới nên
vì đó nói.
Nếu có
vị Tỳ-kheo
Vì cầu
Nhứt-thiết-trí
Khắp
bốn phương cầu pháp
Chắp
tay cung kính thọ
Chỉ ưa
muốn thọ trì
Kinh
điển về Đại thừa
Nhẫn
đến không hề thọ
Một bài
kệ Kinh khác
Hạng
người được như thế
Mới nên
vì đó nói.
Như có
người chí tâm
Cầu
Xá-lợi của Phật
Cầu
Kinh cũng như thế
Đặng
rồi đảnh lễ thọ
Người
đó chẳng còn lại
Có lòng
cầu Kinh khác
Cũng
chưa từng nghĩ tưởng
Đến
sách vở ngoại đạo
Người
được như thế ấy
Mới nên
vì đó nói.
Bảo
cùng Xá-Lợi-Phất!
Ta nói
các sự tướng
Của
người cầu Phật đạo
Cùng
kiếp cũng chẳng hết
Những
người như thế đó
Thời có
thể tin hiểu
Ông nên
vì họ nói
Kinh
Diệu-Pháp Liên-Hoa.
Thích nghĩa:
(1) LẬU TẬN: Nhiễm tâm phiền-não đã hết sạch, đồng nghĩa với "Vô-lậu".
(2) SẮC VÀNG, BĂM HAI TƯỚNG: Thân Phật sắc vàng tử kim có 32 tướng tốt.
(3) MƯỜI LỰC: Trí của Phật có 10 lực dụng:
1- Thị xứ phi xứ trí lực
2- Nghiệp trí lực
3- Thiền định trí lực
4- Căn tánh trí lực
5- Nguyên dục trí lực
6- Giới trí lực
7- Đạo chí xứ trí lực
8- Túc mạng trí lực
9- Thiên nhãn trí lực
10- Lậu tận trí lực
(4) BẤT CỘNG: Bồ-tát cùng Thanh-văn Duyên-giác đều không có, riêng Phật có
18 pháp nầy.
(5) BỒ-TÁT: "Bồ-đề"=Giác; "Tát-đỏa"=Hữu tình; nói tắt là Bồ-tát, tức là bực
đã tự hay giác ngộ và có thể cứu-độ giác ngộ loài hữu tình.
(6) PHẠM-CHÍ: Tức là Bà-la-môn.
(7) BA TUẦN: Tên của ma-vương ở đầu cõi dục.
(8) NĂM NHÓM: Tức là Ngũ uẩn là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức
uẩn. Cũng gọi là ngũ ấm.
(9) NĂM MÓN DỤC: Tức là ngũ dục là tài, sắc, danh, thực, thùy (ngủ nghỉ) còn
gọi là: Sắc, thin, hương, vị, xúc.
(10) SỨC VÔ ÚY: Bốn đức vô sở úy của Phật.
1- Nhứt thiết trí vô-úy.
2- Lậu-tận vô-úy.
3- Thuyết đạo vô-úy.
4- Thuyết khổ tận đạo vô-úy.
(11) CĂN, LỰC, GIÁC CHI, THÁNH ĐẠO: Tức là:
a) Năm căn: Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn.
b) Năm lực: Tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực.
c) Bảy giac-chi: Trạch pháp, niệm, tinh tấn, hỉ, khinh an, định, xả.
d) Tám Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
(12) VIỆC GHÊ SỢ: Gồm:
1- Súy: Cú tai mèo
2- Hiêu, Điêu, Thứu: Loài chim dữ tiếng xấu
3- Thước: Chim khách
4- Cưu: Tu-hú
5- Cáp: Bồ-câu
6- Ngươn xà: Rắn độc
7- Phúc yết: Bò cạp
8- Ngô công: Rít
9- Do diên: Trùng, rận ở áo tơi
10- Dứu ly: Chồn, cáo
11- Hề thử: Giống chuột
12- Khương lương: Bọ hung.
(13) BA MÓN MINH: Thiên nhản minh, Túc mang minh, Lậu tận minh.
(14) SÁU MÓN THẦN THÔNG: Thiên nhản thông, Thiên nhỉ thông, Thần túc thông,
Tha tâm thông, Túc mạng thông, Lậu tận thông.
| |