|
PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Mục Lục Khóa Thứ Nhất
Nhân Thừa Phật Giáo
01 Ðạo Phật
02 Lược Sử Ðức Phật
Thích Ca (từ giáng sinh đến thành đạo)
03 Lược Sử Ðức Phật
Thích Ca (từ thành đạo đến Niết Bàn)
04 Quy Y Tam Bảo
05 Ngũ Giới
06 Sám Hối
07 Thờ Phật, Lạy
Phật, Cúng Phật
08 Tụng Kinh, Trì
Chú, Niệm Phật
09 Ăn Chay
10 Bát Quan Trai Giới
Phụ
bài số 10: NGHI THỨC THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI
Lời Nói Ðầu
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho
nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân
chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà
nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...". Kể về
số lượng thì tín đồ Phật Giáo ở Việt Nam thật là đông
đảo; nhưng xét về phần phẩm, thì chúng ta chưa có thể
lạc quan được. Tình trạng phẩm ít, lượng nhiều ấy phát
sinh vì nhiều nguyên-nhân phức tạp:
- Có người theo đạo Phật vì truyền-thống của ông cha
(ông cha theo Ðạo Phật, nên con cháu cũng theo).
- Có người theo đạo Phật vì cảm-tình đối với thân bằng
quyến thuộc, hay đối với cái Ðạo đã chia sẽ những phút
vui buồn, thịnh suy của đất nước.
- Có người theo đạo Phật, vì mong cầu được tai qua nạn
khỏi, hay cầu của, cầu con v.v...
Ngày nay, vẫn biết có một số đông tín đồ đã hiểu đúng
giá trị cao siêu và lợi ích rộng lớn của Ðạo Phật, nhưng
cái số ấy không phải là đa số, nếu đem so với cái khối
tín đồ hiểu Ðạo một cách nông cạn, hay sai lạc nói trên.
Vì không hiểu một cách thấu đáo Ðạo Phật, nên lòng tin
không được chắc chắn. Mỗi khi gặp một lý thuyết nào lạ,
một tôn giáo nào mới, thì họ ùa hòa tin theo, như cây
thiếu rễ cái, gió thổi phía nào thì ngã rạp theo phía
ấy, thật đáng buồn thương.
Tình trạng buồn thương ấy có thể bổ cứu được, nếu chúng
ta có một chương trình dạy Phật Pháp bằng chữ Việt. Dân
tộc ta là người Việt, ở đất Việt, ăn cơm Việt, nói tiếng
Việt, mà kinh sách bằng chữ ngoại quốc; cả chi triết lý
cao sâu của Ðạo Phật cẫn còn nằm nguyên trong 3 tạng chữ
Tàu, thử hỏi có mấy ai đọc được? Như thế thì bảo tín đồ
làm sao hiểu biết giáo lý cao sâu của Ðạo Phật và lòng
tin làm sao vững chắc được?
Nóng lòng vì tình cảm ấy, chúng tôi bạo dạn và cố gắng
soạn ra chương trình "Phật Học Phổ Thông" này, mong giúp
tín đồ mau hiểu giáo lý, thấy được chỗ quí báu của Ðạo,
để cho lòng tin được chơn chánh và vững bền.
Chúng tôi tự biết mình đức bạc tài sơ, chưa đủ khả năng
làm việc vĩ đại này. Nhưng nếu do dự và nhún nhường mãi,
rồi suất đời cũng chẳnh làm được gì. Chi bằng cứ cố gắng
hy sinh đắp trước con đường đất, để cho các bực có tài
đức sau này sửa chữa lại, rồi cán đá và tráng nhựa.
Chương trình "Phật Học Phổ Thông" có mục đích xây dựng
cho tín đồ có căn bản giáo lý, hiểu biết Phật pháp từ
thấp đến cao, lấy Ngũ Thừa Phật Giáo làm nền tảng.
Từ khóa thứ nhứt đến khóa thứ tư, chúng tôi đã soạn hết
Ngũ Thừa Phật Giáo. Khi tín đồ đã hiểu giáo lý căn bản
nói trên rồi các khóa sau, chúng tôi sẽ mở thêm bề rộng
và xây thêm bề cao của tòa nhà Phật Giáo. Từ khóa thứ V
đến khóa thứ XII, tín đồ sẽ tuần tự học về Ðại cương
kinh Lăng nghiêm, Viên giác, Duy thức Luận và Kim Cang,
Tâm Kinh.
Chương trình này, chúng tôi đã soạn từ năm 1953 đến nay
và đã xuất bản thành tập, từ tập Phật Học Phổ Thông thứ
nhứt cho đến tập Phật Học Phổ Thông thứ 12.
Công việc trên đây là cả một gánh nặng, mà đường lại
dài, chúng tôi khẩn thiết yêu cầu những vị nhiệt tâm vì
đạo, từ quý vị đại đức Tăng Già cho đến các hàng Cư Sĩ,
kẻ công người của tiếp sức với chúng tôi (hoặc giúp sáng
kiến, tài liệu hay tài chánh), cùng nhau xây dựng cho
hoàn bộ một chương trình Hoằng Pháp ở nước nhà, hầu bổ
cứu những khuyết điểm và dẹp bỏ những tình tệ trong Ðạo
Phật từ trước đến nay.
Chúng tôi chấm dứt trong sự tin tưởng ở lòng nhiệt thành
vì Ðạo của quý vị độc giả xa gần.
Thích Thiện Hoa
Nguồn: TVHS
▲ Trở Lên
|
Mục
Lục Khóa Thứ Nhất
Nhân Thừa Phật Giáo
Bài Thứ 1
Ðạo Phật
A-Mở Ðề:
Phật ra đời vì một nhân duyên lớn: Khai thị chúng sanh
ngộ nhập Phật tri kiến.
Người đời thường nói một cách hời hợt cho qua chuyện,
"Ðạo nào cũng tốt!". Lời nói ấy, hoặc vì xã giao để cho
vui lòng khách, hoặc vì chưa rõ bề mặt trong của các Ðạo
khác nhau thế nào, nên mới ra như thế. Thật ra về mục
đích thì đạo nào cũng có giá trị của nó, chẳng qua chỉ
hơn nhau về từng bậc cao thấp mà thôi. Nhưng mục đích
tốt dù sao, cũng chưa đủ. Ðiều quan trọng là làm sao
thực hiện được mục đích ấy, và đem lợi ích rộng lớn cho
đời. Thử hỏi nếu đạo nào cũng có giá trị như nhau, thì
sao trước đây 2500 năm, trong lúc xứ Ấn độ đã có 94 thứ
đạo rồi, mà đức Phật Thích Ca còn giáng sinh làm chi
nữa?
Chẳng qua các Ðạo tuy nhiều, mà chưa được toàn "chơn,
thiện, mỹ", nên đức Phật mới ứng thân thị hiện, dạy cho
chúng sanh đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, ngõ hầu
giải thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi, được tự tại vô
ngại như Phật. Kinh Pháp Hoa chép, "Vì một nhân duyên
lớn, Phật mới xuất hiện ra đời".
Nhân duyên lớn ấy là gì? Chính là: "Khai thị chúng sanh
ngộ nhập Phật tri kiến", để cho chúng sanh được nhờ đó
mà đổi mê ra ngộ thấy tánh tỏ tâm, vượt sống khỏi chết,
lìa khổ được vui.
Ðịnh Nghĩa
1. Chữ Ðạo nghĩa là gì? Chữ đạo có ba nghĩa: Ðạo là con
đường; Ðạo là bổn phận; Ðạo là lý tánh tuyệt đối, là bản
thể.
a) Ðạo là con đường, như người ta thường dùng trong
những chữ: nhân đạo, thiên đạo, địa ngục đạo, ngạ quỷ
đạo, súc sanh đạo. Phàm là con đường thì có tốt, xấu, có
thiện, ác v.v...Theo đạo Phật, h còn trong vòng đối đãi,
thì không thể gọi hoàn toàn rốt ráo.
b) Ðạo là bổn phận, như người ta thường dùng những chữ:
đạo vua tôi, đạo thầy trò, đạo vợ chồng v.v...Phàm là
bổn phận thì thường chịu ảnh hưởng của phong tục hay tập
quán. Phong tục và tập quán của nước này không giống
nước kia. Vì vậy, chữ Ðạo là bổn phận cũng chưa đúng với
nghĩa chữ Ðạo mà nhà Phật muốn nói.
c) Ðạo là* lý tánh tuyệt đối, là bản theă, nó lìa nói
năng, không thể nghĩ bàn. Ðức Lão tử nói: "Ðạo mà nói ra
được, không phải là đạo". Xưa có người hỏi một vị Tổ Sư:
"Ðạo là gì?". Tổ sư đáp: "Trước Phật Oai Âm Vương, không
có tên Phật và chúng sanh, lúc ấy chính là Ðạo".
Chữ Ðạo của nhà Phật chính là đồng nghĩa với bản thể
vậy.
2. Chữ Phật nghĩa là gì? Chữ Phật, nói cho đúng tiếng
Phạn là Bouddha (Phật Ðà). Người Trung Hoa dịch nghĩa là
Giác Giả, (bực đã giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn). Giác
có ba bực:
a) Tự giác: Nghĩa là tự giác ngộ hoàn toàn do phước huệ
và công phu tu hành, khác với phàm phu là những người
còn mê muội, bị luân hồi trong cõi trần lao, khổ hải.
B) Giác tha: Nghĩa là mình đã giác ngộ, lại đem phương
pháp giác ngộ ấy dạy cho những người tu hành được giác
ngộ như mình. Người tu theo Tiểu Thừa không thể có được
giác tha, vì chỉ lo giải thoát cho mình. Chỉ người tu
theo Ðại Thừa mới có được giác tha, nghĩa là giác ngộ
cho hết thảy chúng sanh đang chìm đắm.
C) Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là giác ngộ hoàn toàn đầy
đủ cho mình và cho người. Những bậc Bồ Tát, tuy đã giác
ngộ cho mình và cho người, nhưng công hạnh chưa viên
mãn, nên chưa gọi được là "Giác Giác Hạnh Viên Mãn". Chỉ
có Phật mới có * được gọi là Giác Hạnh Viên Mãn.
Chữ Phật là một danh từ chung để gọi những bậc đã tự
giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, chứ không phải là
một danh từ riêng để gọi một người nào nhất định. Ai tu
hành được chứng quả như đã nói trên đều được gọi là Phật
cả.
3. Ðạo Phật nghĩa là gì? Theo những định nghĩa về chữ
Ðạo và chữ Phật đã nói trên, chúng ta có thể giải thích
chữ Ðạo Phật như sau: Ðạo Phật là con đường chơn chánh,
hoàn toàn sáng suốt đưa đến bản thể của sự vật, là lý
tánh tuyệt đối, lìa tất cả hư vọng phân biệt, mà các
đấng giác ngộ hoàn toàn đã phát minh ra. Ðạo Phật gồm
tất cả tự lợi và lợi tha, tự giác, giác tha và có công
hạnh độ mình, độ người được hoàn toàn thành tựu, rốt ráo
viên mãn.
B- Chánh Ðề
Ðạo Phật có từ lúc nào? có hai nghĩa: Ðứng về phương
diện bản thể mà xét thì Ðạo Phật có từ vô thỉ (nghĩa là
không có đầu mối, không có giới hạn ở trong thời gian).
Vì Ðạo Phật là bản tánh sáng suốt của chúng sanh, nên có
chúng sanh là có Ðạo Phật; mà chúng sanh đã có từ vô thỉ
thì Ðạo Phật cũng có từ vô thỉ. Ðứng về phương diện lịch
sử và hạn cuộc trong thế giới này mà nói, thì Ðạo Phật
đã có từ 2501 (1) năm nay (tính đến năm 1957), trước
Thiên Chúa Giáo 544 năm.
Ai khai sáng ra Ðạo Phật?
Tín đồ Ðạo Phật cần phải biết lịch sử đức Giáo Chủ của
mình.
Dưới đây, xin kể sơ lược những điểm chính của đời đức
Giáo Chủ, người đã khai sáng ra Ðạo Phật, tức là đức
Phật Thích Ca Mâu Ni
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, nguyên là Thái Tử nước Ca Tỳ
La Vệ (Kapilavastu) xứ Trung Ấn Ðộ, Phụ hoàng tên Tịnh
Phạn Vương Ðầu Ðà Nà (Sudhodana); Mẫu hoàng tên là Ma Da
(Maya). Họ Ngài là Kiều Ðáp Ma, xưa dịch là Cù Ðàm, tên
Ngài làTất Ðạt Ða (Shidartha). Còn chữ Thích Ca (Sakya),
Tàu dịch là Năng Nhơn: Năng là năng lực, Nhơn là từ bi.
Mâu Ni (Muni) nghĩa là Tịch Mặc: Tịch là yên lặng, không
bị khổ vui làm động tâm; Mặc là lặng lẽ, không bị phiền
não khuấy rối, độ mình độ người, công đức đầy đủ.
Lúc nhỏ Ngài có trí tuệ sáng suốt và tài năng phi
thường. Lớn lên nhìn thấy nhân sinh thống khổ, thế cuộc
vô thường, nên Ngài cương quyết xuất gia tu hành, tìm
đường giải thoát cho mình và cho người, ngõ hầu đưa tất
cả chúng sanh lên bờ giác ngộ.
Sau sáu năm tu khổ hạnh trong núi Tuyết (Hymalaya), Ngài
thấy tu khổ hạnh ép xác như thế, không thể đạt được chân
lý, nên Ngài đi qua núi Koda, ngồi dưới gốc cây Bồ Ðề
(Tất Bát La, dịch âm theo tiếng Ấn Ðộ) và thề rằng: "Nếu
ta không thành đạo, thì dù thịt nát xương tan, ta cũng
quyết không đứng dậy khỏi chỗ này". Với chí hùng dũng
cương quyết ấy, sau 49 ngày tư duy, Ngài thấy rõ chân
tướng của vũ trụ nhân sanh và chứng đạo Bồ Ðề. Sau khi
thành đạo, Ngài chu du khắp xứ, thuyết pháp độ sinh, để
chúng sanh chuyển mê thành ngộ, lìa khổ được vui. Suốt
thời gian 49 năm, như một vị lương y đại tài, xem bịnh
cho thuốc, Ngài đã dắt dẫn chúng sanh lên đường hạnh
phúc và vạch cho mọi người con đường giác ngộ giải
thoát.
Ðến 80 tuổi, Ngài nhập Niết Bàn ở thành Câu Thi Na,
trong rừng Ta La (Song Thọ). Lúc bấy giờ, nhằm ngày Rằm
tháng 2 âm lịch.
Giáo lý Ðạo Phật như thế nào?
Giáo lý của đạo Phật gồm trong 3 tạng kinh điển là Kinh,
Luật, Luận.
1. Kinh: Kinh là những lời của đức Phật Thích Ca đã nói
khi còn tại thế, để dạy chúng sanh dứt trừ phiền não và
đạt đến quả Niết Bàn.
2. Luật: Luật là những giới luật mà Phật đã chế ra cho
các đệ tử, để các đệ tử răn chừa các điều dữ, tu tập các
điều lành, trau dồi thân tâm cho thanh tịnh.
3. Luận: Luận là những sách phần nhiều do các đệ tử Phật
làm ra để bàn giải rõ ràng nghĩa lý mầu nhiệm trong
kinh, luật hoặc quyết đoán tánh, tướng của các Pháp,
phân biệt những lẽ phải *chẳng củam chánh đạo và tà đạo,
khiến cho người đời khỏi nhận lầm phải trái, chánh tà.
Tam tạng kinh điển lại chia làm hai loại là Ðại Thừa và
Tiểu Thừa.
Chữ Thừa nghĩa là chở, có chỗ cũng gọi là Thặng, nghĩa
là cổ xe. Thừa hay Thặng đều có hàm ý nghĩa là: Giáo lý
của Phật có công năng như một chiếc xe, đưa chúng sanh
từ nơi cõi trần lao phiền não đến cảnh giới an vui thanh
tịnh, từ biển khổ luân hồi đến Niết Bàn, giải thoát.
Ðại thừa như là cỗ xe lớn, có thể chở nhiều người trong
một lúc; trái lại Tiểu Thừa như là một cỗ xe nhỏ, chỉ
chở mỗi lúc một vài người mà thôi.
Sở dĩ giáo lý Ðạo Phật chia ra làm Ðại Thừa và Tiểu Thừa
như thế, vì căn cơ và nguyện vọng chúng sanh không đồng
nhau. Những hạng người nào nhận thấy mình chỉ đủ sức để
giải thoát cho riêng phần mình mà thôi, như chiếc xe nhỏ
chở được một vài người, thì theo giáo lý Tiểu Thừa.
Những hạng người nào tự nhận thấy mình có thể vừa giải
thoát cho mình và cho người ra khỏi sanh tử luân hồi, tự
nguyện độ mình và người cùng đi đến Niết Bàn, như một cỗ
xe lớn, cùng chở trong một lúc được nhiều người, thì
theo Ðại Thừa. Hạng người này rõ biết phiền não, sanh tử
như huyển hóa, nên không chịu sớm an vui ở quả vị cuối
cùng của mình, mà thường độ sanh không bao giờ biết mỏi
mệt; và vì nhận thấy chúng sanh còn đau khổ, thì mình
chưa có thể an vui được.
Sự Truyền Bá Của Ðạo Phât:
Sau khi Phật Thích Ca nhập diệt, hai vị đại đệ tử của
Phật là Ngài Ca Diếp và Ngài A Nan thay Phật hoằng
truyền Phật pháp ở Ấn độ. Ðó là thời kỳ thứ nhứt. Thời
kỳ thứ hai do các vị Tổ sư Long Thọ, Mã Minh và Vô Trước
lãnh đạo. Thời kỳ thứ ba do các vị Tổ sư Long Trì, Thiện
Vô Úy và Liên Hoa Sanh đảm nhiệm.
Từ Ấn Ðộ, Phật Giáo lan truyền vào các nước lân cận, rồi
toàn cõi Á Ðông, và cuối cùng toàn cả thế giới. Sự
truyền bá này đi theo hai hướng: một hướng về phương Bắc
và một hướng về phương Nam. (Xem Lịch sử truyền bá Phật
Giáo khóa 5)
Về phương Bắc, thì gọi là Bắc Phương hay là Bắc Tôn Phật
Giáo, hay Ðại Thừa Phật Giáo, gồm có những nước: Tây
Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Mãn Châu, Cao Ly, Nhật Bản,
Việt Nam v.v..
Về phương Nam, thì gọi là Nam Phương hay Nam tôn Phật
Giáo, hay Tiểu Thừa Phật Giáo, hay Nguyên Thủy Phật
Giáo, gồm có những nước: Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan,
Ai Lao, Cao Miên, Nam Dương v.v...
Nhưng hiện nhờ sự giao thông tiện lợi và kinh điển được
trao* dồi khắp các nước, nên sự chia rẽ giữa Bắc tôn và
Nam tôn không còn được rõ ràng như trước: trong Ðại Thừa
vẫn còn có Tiểu Thừa và trong Tiểu Thừa vẫn còn có Ðại
Thừa.
Sự Lợi ích Của Ðạo Phật:
Mục đích của Ðạo Phật là đem lại những kết quả đẹp đẽ
sau này cho chúng sanh:
1. Chơn thường: Chúng sanh trôi lăn, lặn hụp trong biển
sanh tử luân hồi; chúng sanh sống trong cảnh vô thường,
khi trẻ khi già, khi lành khi ốm, khi sống khi
chết...Ðạo Phật đem lại cho người tu hành một quả vị là
không bao giờ bị luật vô thường nói trên chi phối.
2. Chơn lạc: Chúng sanh đang sống trong cảnh giới tối
tăm, buồn tủi, khổ đau; nếu có vui cũng chỉ vui được
trong chốc lát, như người khát, uống nước mặn vào, đỡ
khát trong chốc lát, rồi về sau lại càng khát hơn lúc
đầu. Ðạo Phật có mục đích đem lại cho kẻ tu hành một sự
an vui toàn vẹn và bất tận.
3. Chơn ngã: Chúng sanh bị không biết bao nhiêu nghịch
cảnh ở chung quanh chi phối, ràng buộc, như kẻ tù tội bị
giam hãm trong ngục thất, không bao giờ được tự do hoạt
động theo ý muốn của mình. Ðạo Phật có mục đích làm cho
những người tu hành được giải thoát hoàn toàn ra ngoài
những trói buộc nói trên, làm cho con người đầy đủ năng
lực để thực hiện ý nguyện tốt đẹp của mình, và sống một
cuộc đời an nhiên tự tại.
4. Chơn tịnh: Chúng sanh đang sống trong cảnh giới ô
trọc, lấm láp trong bùn nhơ của cõi tục, từ trong tâm
hồn cho đến ngoài thể chất. Ðạo Phật có mục đích làm cho
người tu hành gạn lọc được bao nhiêu ô trọc của cõi đời,
được sống một cuộc sống trong trắng, tinh khiết, không
vướng chút bận nhơ của trần tục.
Không phải chỉ trong vị lai, Ðạo Phật mới đem lại lợi
ích cho đời, ngay trong xã hội hiện tại, Ðạo Phật cũng
đem lại nhiều lợi ích quý báu:
- Ðạo Phật, nhờ tinh thần Từ Bi, làm cho xã hội, nhân
loại thương yêu nhau hơn.
- Ðạo Phật, nhờ ánh sáng Trí Tuệ, làm cho xã hội, nhân
loại bớt si mê lầm lạc, thấy được đâu là giá trị thật,
đâu là phỉnh phờ, giả dối.
- Ðạo Phật, nhờ tinh thần Bình Ðẳng tuyệt đối, san bằng
được những bất công của xã hội, nhân loại, và làm cho
cảnh giới Ta Bà này được sáng sủa, an vui hơn.
Ðó là những lợi ích mà Ðạo Phật đem lại cho cõi đời.
C - Kết Luận
Những lợi ích nói trên quý báu như thế, nhưng sẽ không
bao giờ đến với chúng ta, nếu không học và hành theo
Phật.
1. Học Phật: Ðức Phật mặc dù là một đấng xuất phàm,
thông minh xuất thế, nhưng khi xuất gia Ngài cũng phải
học hỏi đêm ngày, hao tốn sức biết bao nhiêu, mới phát
huy ra được cái giáo lý nhiệm mầu để lại cho chúng ta.
Vậy chúng ta muốn trở thành một Phật tử chân chính thì
trước tiên là phải học hỏi như Phật. Chúng ta không chỉ
học trong giáo lý của Ngài mà còn học qua đời sống, đức
hạnh, hành vi của đời Ngài nữa.
2. Hành theo Phật: Nhưng học mà không tập, không hành,
thì chẳng khác gì cái đãy đựng sách, chữ nghĩa kinh sách
chất chứa thật nhiều, mà chẳng có ích lợi gì cả. Vậy nên
học phải đi đôi với hành. Chúng ta phải cố gắng thực
hành cho được những điều đã học, làm cho được những điều
mình thấy là hay là phải. Phật đã làm gì, chúng ta phải
tập làm lại; Phật đã có những đức tánh Từ, Bi, Hỷ, Xả,
Hoan Hỷ, Tinh Tấn, Thanh Tịnh...chúng ta cũng cố gắng
thực hiện cho được những đức tánh ấy.
Có như thế, mới khỏi hổ với hai tiếng Phật tử và mới gọi
là đền đáp trong muôn một, ân đức sâu dày của đức Từ Phụ
Thích Ca.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 2
Lược Sử Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni
(từ Giáng Sanh đến Thành Ðạo)
Mở Ðề:
Ðời Ðức Phật Thích Ca Là Một Tấm Gương Sáng
Bắt nguồn một tôn giáo nào, vị giáo chủ bao giờ cũng là
một tấm gương sáng cho tín đồ soi chung để tiến bước.
Nhưng trong các vị giáo chủ của các tôn giáo hiện có
trên thế giới này, không có một vị nào đầy đủ ý nghĩa
cao đẹp, một đời sống sâu xa bằng đức Phật Thích Ca Mâu
Ni. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, cho đến mỗi
im lặng của Ngài đều là những bài học quý báu cho chúng
ta. Nếu chúng ta học giáo lý của Ngài mà không hiểu rõ
đời sống của Ngài, thì sự học hỏi của chúng ta còn phiến
diện, thiếu sót. Ðời Ngài chính là những biểu hiện giáo
lý của Ngài. Ngài nói và Ngài thực hành ngay những lời
Ngài đã nói. Ðời Ngài là một bằng chứng hiển nhiên để
người đời nhận thấy rằng giáo lý của Ngài có thể thực
hiện được, chứ không phải là những lời nói suông, những
không tưởng, những lâu đài xây dựng trên mây, trên khói.
Vậy cho nên khi chúng ta học hỏi đời Ngài, chúng ta
không nên có cái quan niệm học cho biết để thỏa mãn tánh
hiếu kỳ, mà chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa thâm túy
của đời sống ấy để đem áp dụng cho đời sống của chúng
ta.
Làm được như thế mới khỏi phụ ý nguyện lớn lao của đức
Phật khi giáng sanh xuống cõi Ta Bà này và đã cam chịu
bao nỗi đau khổ, gian lao trong kiếp sống như mỗi người
chúng ta.
Chánh Ðề
Ðịnh Nghĩa Hai Chữ Giáng Sanh
Thường trong danh từ nhà Phật, khi nói đến sự hiện diện
của đức Phật Thích Ca trong cõi đời này, người ta thường
dùng chữ đản sanh (nghĩa là một sự ra đời vui vẻ, làm
hân hoan, xán lạn cho cõi đời); hay thị hiện (nghĩa là
hiện ra bằng xương bằng thịt, cho con mắt trần của chúng
ta thấy được); hay giáng sanh (nghĩa là từ một chỗ cao
mà xuống một chỗ thấp để sanh ra).
Ba chữ ấy đều có 3 ý nghĩa khác nhau: Chữ đản sanh dùng
để ca tụng một bậc tôn quí ra đời; chữ thị hiện hàm cái
ý Phật bao giời cũng có cả, nhưng vì mắt người không
thấy được, phải hiện rõ ràng ra mới thấy; chữ giáng sanh
hàm cái ý đức Phật ở một cảnh giới cao hơn, tốt đẹp hơn
mà hạ xuống cảnh giới phàm trần này. Ba chữ ấy mặc dù
khác nhau, nhưng đều có thể dùng để chỉ sự ra đời của
đức Phật. Trái lại, khi một nguời phàm ra đời thì gọi là
"đầu thai". Ðầu thai có nghĩa là bị nghiệp báo hoặc
thiện hay ác bắt buộc phải luân hồi để chịu quả báo lành
hay dữ. Còn giáng sinh hay thị hiện thì không hàm cái
nghĩa bị nghiệp nhân câu thúc, mà do nơi lòng từ bi,
muốn lợi ích cho chúng sanh, nên tự nguyện ứng thân xuất
hiện ra đời trong một thời gian để cứu độ chúng sanh;
xong xuôi thì thâu thần tịch diệt, tự tại vô ngại ra
ngoài sống chết.
Hoàn Cảnh Và Dòng Dõi Của Ðức Thích Ca
Ðức Phật giáng sinh ở xứ trung Ấn Ðộ, bây giờ là nước
Népal, một nước ở ven sườn dãy núi Hy Mã Lạp Sơn, là một
dãy núi cao nhất thế giới. Phong cảnh ở đấy rất đẹp; đến
mùa xuân cả nước đơm bông nảy lá như một vườn hoa vĩ
đại. Dân cư ở xứ ấy rất là thuần lương. Vị vua trị vì là
Tịnh Phạn, một vị vua thuộc dòng Thích Ca, là một dòng
họ lớn đã mấy mươi đời nối nghiệp trị vì đất nước này.
Bà Hoàng Hậu Ma Da, cũng là một người thuộc dòng vua
chúa đã lâu đời. cả hai ông bà vua Tịnh Phạn đều là
người đã nhiều kiếp tu hành, có đức hạnh lớn, xứng đáng
làm cha mẹ muôn dân.
Một hôm, trong thành Ca Tỳ La Vệ, là kinh đô của vua
Tịnh Phạn, có vía lễ tinh tú, vua tôi cùng nhau mở hội
ăn chơi. Hoàng Hậu Ma Da, sau khi dâng hương hoa cúng
kiến trong cung điện rồi, ra ngọ môn bố thí thức ăn, đồ
mặc cho dân bần cùng. Khi trở về cung an giấc, Bà nằm
mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên hư không
xuống, lấy ngà khai hông bên hữu của Bà mà chun vào. Bà
đem điềm chiêm bao ấy thuật lại cho vua Tịnh Phạn nghe.
Vua ra lịnh mời các thầy đoán mộng. Các nhà tiên tri
đoán rằng: "Hoàng hậu sẽ sanh một quý tử tài đức song
toàn". Vua Tịnh Phạn rất mừng rỡ, vì ngôi báu từ đây sẽ
có người truyền nối.
Ðến sáng ngày mồng tám tháng tư âm lịch (trước Tây lịch
624 năm), tại vườn Lâm Tỳ Ni, cách thành Ca Tỳ La Vệ 15
cây số, Hoàng hậu Ma Da đang ngoạn cảnh, trông thấy cành
hoa Vô Ưu mới nở, thơm ngát, bà đưa tay phải với hái,
thì Thái Tử cũng vừa xuất hiện ngay đấy.
Ngày đản sanh Thái Tử, trong thành Ca Tỳ La Vệ, cảnh vật
đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cỏ đều đơm hoa
trổ trái; sông, ngòi, mương, giếng nước đều trong đầy;
trên hư không chim chóc và hào quang chiếu sáng cả mười
phương.
Vua Tịnh Phạn vui mừng khôn xiết mời các vị tiên tri đến
xem tướng Thái Tử. Trong số ấy, có đạo sĩ tên A Tư Ðà tu
ở núi Hy Mã Lạp, tiên đoán rằng: Thái Tử vì có 32 tướng
tốt xuất hiện, nên sẽ trở thành một vị Thánh. Nhưng vua
Tịnh Phạn lại chỉ muốn con mình làm một vị vua để nối
dõi tông đường mà thôi. Vì thế, Tịnh Phạn Vương muốn đổi
số mệnh con mình, nên đặt tên cho Thái Tử là Tất Ðạt Ða
(Siddartha) theo tiếng
Phạn, nghĩa là: "Kẻ sẽ giữ chức vị mà mình phải giữ".
Chức vị mà Tịnh Phạn Vương muốn ám chỉ đây tức là ngôi
Vua. Ngài không ngờ rằng chính thật chức vị của Ngài là
chức vị Phật.
Hoàng hậu Ma Da sau khi sanh Thái Tử được bảy ngày, vui
thú quá vì thấy mình đã làm tròn nhiệm vụ cao quý, và đã
rửa sạch nghiệp báo nên Bà trút được xác phàm và sanh về
cõi trời Ðao Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái Tử cho em gái
Hoàng hậu là Ma Ha Ba Xà Ba Ðề nuôi dưỡng.
Tài Năng Và Ðức Hạnh Của Thái Tử
Thái Tử mỗi năm mỗi lớn, thì diện mạo càng thêm khôi
ngôi, tài năng càng phát lộ gấp bội. Ngài có một sức
khỏe hơn người, một trí thông minh xuất chúng. Từ nghề
văn cho đến nghiệp võ, Thái Tử học với ông nào thì trong
ít hôm sau, vị giáo sư ấy phải xin cáo thối, vì không
còn đủ sức để dạy nữa. Cho đến ông thầy danh tiếng đệ
nhất thời bấy giờ là Sằn Ðề Ðề Bà cũng chịu khuất phục
Ngài luôn.
Nhưng, mặc dù tài sức hơn người, thông minh xuất chúng
lại ở trong địa vị cao sang quyền quý tột bậc, Thái Tử
không bao giờ tỏ vẻ ngạo mạn, khinh người. Ngài có một
thái độ rất hòa nhã ôn hòa, vô tư, bình đẳng. Lòng
thương người, thương vật của Ngài không ai sánh kịp, hễ
có dịp giúp đỡ, thì dù khó khăn bao nhiêu Ngài cũng
không từ nan. Bởi thế, Ngài được trên Vua cha yêu quý,
dưới thần dân kính trọng, nể vì.
III Những Ràng Buộc Của Tịnh Phạn Vương Ðể Ngăn Chí
Xuất Gia Của Thái Tử
Càng thương yêu, quý trọng con Tịnh Phạn Vương lại càng
lo sợ con mình sẽ không ở lại với mình, mà sẽ xuất gia
tìm Ðạo để thành một vị Thánh, như lời tiên đoán của đạo
sĩ A Tư Ðà. Nhất là khi nhận thấy càng lớn, Thái Tử lại
càng có vẻ suy nghĩ xa xăm, và nét mặt Thái Tử lại không
được vui tươi như thời thơ ấu, Vua Tịnh Phạn lại càng lo
sợ rằng lời tiên tri xưa sẽ thực hiện. Bởi thế, Vua cùng
triều thần ngấm ngầm sắp đặt mọi kế hoạch để ràng buộc
Thái Tử ở lại ngôi báo. Ngài truyền xây dựng ba tòa lâu
đài nguy nga tráng lệ để Thái Tử thay đổi nơi ăn chốn ở
cho hợp thời tiết quanh năm, và chọn từng trăm cung phi
mỹ nữ có tài đàn ca hay, múa giỏi để giải khuây cho Thái
Tử. Nhưng chừng ấy cũng chưa đủ Ngài còn làm lễ thành
hôn cho Thái Tử với một Công chúa con vua Thiện Giác là
Da Du Ða La, một Công chúa tuyệt đẹp và đức hạnh vô
cùng.
Thái Tử bị bắt buộc phải lập gia thất và có một con
là La Hầu La.
Nhưng, mặc dù sống một cuộc đời quá đầy đủ: nào chức
tước danh vọng, nào lâu đài cung điện, nào đàn ca múa
hát, nào vợ đẹp con ngoan, Thái Tử vẫn thấy lòng mình
nặng trĩu bao nỗi băn khoăn, thắc mắc. Ngài cho cảnh đời
Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc chân thật, mà
là giả dối, mê muội, chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề
đau khổ. Ngài thấy cần phải tìm một lối thoát, một cuộc
sống chân thật, có ý nghĩa và cao đẹp hơn.
Nhận Ra Bốn Tướng Khổ Ở Ðời Một hôm, nhân ngày lễ hạ
điền, Thái Tử theo vua cha ra đồng xem dân chúng cày
cấy. Cảnh xuân, mới nhìn qua, thật là đẹp mắt, nào hoa
lá tốt tươi, muôn chim đua hót; nào bầu trời quang đãng,
gió xuân phơi phới. Cảnh tượng có vẻ thái bình, an lạc
lắm. Nhưng tâm hồn Thái Tử không phải là một tâm hồn hời
hợt, xét đoán một cách nông nỗi. Trái lại, Ngài nhìn sâu
vào trong cảnh vật và đau đớn nhận thấy rằng cõi đời
không đẹp đẽ an vui như khi mới nhìn qua. Ngài thấy
người nông phu và trâu bò làm việc một cách cực nhọc
dưới ánh nắng thiêu đốt, để đổi lấy bát cơm, nắm cỏ.
Chim chóc tranh nhau ăn tươi nuốt sống côn trùng đang
giãy giụa trên những luống đất mới cày. Cũng trong lúc
ấy, trong bụi rậm người thợ săn đang nhắm bắn những con
chim kia, và trong khu rừng gần đấy, bọn hổ báo đang
rình bắt người thợ săn. Thật là một cảnh tương tàn tương
sát, không phút giây nào ngừng! Chỉ vì miếng ăn để sống
mà người và vật dùng đủ mọi phương kế để giết hại lẫn
nhau không biết gớm. Ngài nhận thức rõ ràng sự sanh sống
là khổ.
Một hôm khác, Ngài xin phép Vua cha đi dạo ngoài bốn cửa
thành để được tiếp xúc với thần dân. Ra đến cửa Ðông,
Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt lờ, tai
điếc, lưng còng, nương gậy lần từng bước ngập ngừng như
sắp ngã.
Ðến cửa Nam, Thái Tử thấy một người đau nằm trên cỏ,
đang khóc than rên siết, đau đớn vô cùng.
Ðến cửa Tây, Ngài trông thấy một cái thây chết nằm giữa
đường, ruồi lằng bu bám, và sình lên, trông rất ghê tởm.
Ba cảnh khổ già, đau, chết, cộng thêm vào cái ấn tượng
tương tàn trong cuộc sống mà Thái Tử đã nhận thấy khi đi
xem lễ cày ruộng, làm cho Ngài đau buồn, thương xót
chúng sanh vô cùng.
Một hôm khác nữa, Ngài ra cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ
tướng mạo nghiêm trang, điềm tỉnh thản nhiên như người
vô sự đi ngang qua đường. Thái tử thấy trong lòng nẩy
sinh một cảm mến đối với vị tu sĩ. Ngài vội vã đến chào
mừng và hỏi về ích lợi của sự tu hành. Vị Sa môn đáp
rằng: "Tôi tu hành là quyết bỏ dứt mọi sự ràng buộc của
cõi đời, và cầu cho mình khỏi khổ và thành chánh giác để
phổ độ chúng sanh đều được giải thoát như mình"
Lời giải đáp trúng với hoài bão mà Thái Tử đang ấp ủ bấy
lâu, nên Ngài khôn siết vui mừng. Ngài liền trở về cung
xin vua cha cho mình xuất gia. Vua Tịnh Phạn không nhận
lời. Thái Tử yêu cầu vua cha 4 điều nếu vua giải quyết
được thì Ngài hoãn viêỉc đi tu, để trở lại lo chăn dân,
trị nước. Bốn diều này là:
1. Làm sao cho con trẻ mãi không già
2. Làm sao cho con mạnh mãi không đau
3. Làm sao cho con sống hoài không chết
4. Làm sao cho mọi người hết khổ
Bốn điều này làm cho vua cha bối rối, không giải quyết
được điều nào cả.
IV. Sự Xuất Gia Tìm Ðạo
Tịnh Phạn Vương, khi biết được ý định xuất gia của Thái
Tử, lại càng lo sợ, lại tìm hết cách để ngăn cản, ràng
buộc Ngài trong "cung vui". Nhưng một khi Thái Tử đã
quyết thì không có sức mạnh gì ngăn trở được Ngài.
Một đêm khuya thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ
nữ say ngủ sau một tiệc linh đình, Thái Tử lén trổi dậy,
khi nhìn vợ con lần cuối, rồi đánh thức tên giữ ngựa Xa
Nặc dậy, thắng yên cương, rồi hai thầy trò trốn ra khỏi
thành. Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng tám tháng hai, và Ngài
được 19 tuổi.
Sau khi vứt bỏ khỏi cuộc đời vương giả, Thái Tử đi vào
vùng sâu tìm Ðạo.
Ban đầu Ngài đến ở tu với các vị tu khổ hạnh. Nhưng hạng
người này sống một cách kham khổ, nhịn ăn nhịn uống, dãi
nắng, dầm sương, hành thân hoại thể một cách ghê rợn.
Thấy cách tu hành như thế không hiệu quả, Ngài khuyên
các vị đó nên bỏ phương pháp tu hành ấy, nhưng họ không
nghe. Ngài lấy làm thương họ, nên tìm đi nơi khác để tu
hành. Ngài đi hết chổ này đến chổ khác, ở đâu nghe có
một vị tu hành đắc đạo thì Ngài tìm đến học; nhưng đến
đâu thì Ngài thấy đạo của họ vẫn còn hẹp hòi, thấp thỏi,
không thể giải thoát cho con người hết được. Từ đấy Ngài
tìm chốn tu tập một mình, đêm ngày nghiền ngẫm đến đạo
giải thoát, quên ăn bỏ ngủ thân hình mỗi ngày mỗi tiều
tụy. Một hôm Ngài kiệt sức, nằm ngã liệt trên cỏ, và
được một người chăn cỏ đến đổ sủa cho Ngài tỉnh lại. Từ
đó Ngài nhận thấy nếu muốn có kết quả, cần phải bổ dưỡng
thân thể cho được mạnh khỏe, chứ không bỏ quên nó đi
được.
Khi thấy mình đủ sức khỏe để chiến đấu trong trận cuối
cùng với bóng tối si mê và dục vọng, và đem lại ánh sáng
giác ngộ, Ngài đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Ðề và
thề rằng: "nếu ta không thành đạo thì thịt nát sương
tan, ta cũng quyết không rời chổ này."
IV Thành Ðạo
Ðức Thích Ca đã ngồi nhập định 49 ngày đêm dưới gốc Bồ
Ðề. Trong 49 ngày ấy Ngài đã chiến đấu với bọn giặc
phiền não ở nội tâm như tham, sân, si, nghi, mạn...và
chiến đấu với giặc Thiên Ma do Ma Vương Ba Tuần chỉ huy.
Sau khi thắng cả giặc ở nội tâm cả ngoại cảnh, tâm trí
được khai thông, Ngài hốt nhiên đại ngộ.
Trong đêm thứ 49, vào canh hai, Ngài chứng được quả "Túc
Mệnh Minh", thấy rõ được tất cả quá khứ của mình trong
tam giới. Ðến nữa đêm, Ngài chứng được quả "Thiên Nhãn
Minh", thấy được tất cả bản thể của vũ trụ và Ngài,
nguyên nhân cấu tạo của nó. Ðến canh tư, Ngài chứng được
quả của đau khổ và phương pháp dứt trừ đau khổ để được
giải thoát khỏi tư pháp luân hồi.
Từ ngày ấy, Ngài được Ðạo vô thượng, thành bậc "Chánh
Ðẳng Chánh Giác", hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngày
thành đạo của Ngài tính theo âm lịch là ngày mồng 8
tháng 12, vào lúc sao mai mọc. Lúc ấy Ngài được 30 tuổi.
IV Ý Nghĩa Cao Cả Trong Sự Xuất Gia Tìm Ðạo Của Ðức
Phật
Những chiến sĩ chiến thắng quân địch ở ngoài chiến
trường, thường được ca tụng là anh hùng. Càng chiến
thắng được nhiều quân địch càng được hoan hô là anh hùng
cái thế. Nhưng những kẻ anh hùng cái thế ấy, như Nã Phá
Luân, Thành Cát Tư Hãn, Xê Ða (César), chính mình? cho
nên thắng người đã khó mà thắng mình lại khó hơn. Ðức
Phật đã thắng cả ngoại cảnh lẫn nội tâm, đã thắng được
giặc Ma Vương Dục Vọng. Ðức Phật thật xứng đáng với danh
hiệu Ðại Hùng Ðại Lực.
Ngài không phải vì quyền lời riêng mình mà chiến đấu.
Ngài chiến đấu vì tình thương. Mà tình thương ở đây cũng
không phải chỉ nhằm tình thương trong phạm vi hẹp hòi
của gia đình: thương cha mẹ, vợ con, bạn bè. Tình thương
ở đây là tình thương chúng sanh, tất cả cõi đời. Tình
thương ấy nó rộng sâu như trời bể, thiết tha như tình mẹ
thương con. Ðức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Ðai Từ
Ðại Bi.
Lại vì tình thương ấy, Ngài đã hoan hỷ lìa bỏ ngôi báu
cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đàn hay múa đẹp,
mùi ngon vị lạ để sống một đời kham khổ, đạm bạc, thiếu
thốn, giữa rừng thiêng nước độc. Một khi mà rời bỏ thứ
mà người đời cho là qúy báu nói trên, Ngài không một
phút giây nào hối tiếc, muốn quay về để hưởng thụ lại.
Bằng cớ là Ma Vương đã sai con gái mình giả làm nàng Gia
Du đến kêu gọi van xin Ngài trở về cung, mà Ngài không
một chút bận tâm thối chuyển. Ngài xứng đáng với danh
hiệu là Ðại Hỷ Ðại Xả.
Cho nên ngày nay, mỗi khi xưng tán danh hiệu Ngài, chúng
sanh không thể không suy gẫm cái ý nghĩa sâu sắc và đúng
đắn mà người đời từ xưa đến nay đã tôn xưng Ngài là Ðại
Hùng, Ðại Lực, Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Hỷ, Ðại Xả.
C. Kết Luận
Chúng Ta Nên Phát Tâm Rộng Lớn Và Mạnh Mẽ
Chúng ta đã được biết qua đời sống của Ðức Phật từ khi
sơ sanh cho đến thành đạo. Bài học của đời Ngài dạy cho
chúng ta nhiều ý nghĩa, nhiều phương diện quý báu.
Nhưng điều quý báu nhất đối với kẻ sơ cơ như chúng ta là
phải phát tâm Bồ Ðề rộng lớn, nguyện vì đời, vì đồng
bào, đồng loại mà tu hành, chứ không phải là ích lợi
riêng cho chúng ta.
Chúng ta lại phải phát tâm dõng mãnh, tích cực trong sự
tu hành; một khi vào đường đạo, thì dù gặp nguy nan,
hiểm trở khó khăn cũng nhất thiết không thối lui quay
gót. Chúng ta phải tập cho được cái đức kiên trí như Ðức
Phật khi ngồi thiền định dưới gốc Bồ Ðề.
Ðược như vậy mới xứng đáng là "chân chánh Phật tử".
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 3
Lược Sử Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni
(từ thành đạo đến nhập Niết
bàn)
A - Mở Ðề:
Trong bài trước chúng ta đã thấy Ðức Phật Thích Ca vì
một đại nguyện lớn lao, vì một lòng từ bi vô bờ bến mà
xuất gia tìm Ðạo. Ðại nguyện và lòng từ bi lớn lao ấy
là:"cầu thành Phật quả để trên đền đáp bốn ơn sâu, dưới
cứu vớt ba đường khổ".
Cho nên sau khi giác ngộ, Ngài không vội nhập Niết bàn,
mà nghĩ ngay đến sứ mạng của Ngài là: Thay thế chư phật
đời trước, tiếp tục chuyển mê khai ngộ cho tất cả mọi
người.
Sứ mạng ấy Ngài biết trước không phải dễ dàng, vì cái
Ðạo của Ngài thì cao thâm huyền diệu, mà chúng sanh căn
cơ lại không đều, và từ muôn kiếp đã lặn hụp trong si mê
lầm lạc, khó có thể nhận hiểu được ngay ý nghĩa cao thâm
của Giáo lý Ngài. Chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp quen
sống trong bóng tối của si mê, ngày nay chắc không khỏi
choá mắt, hoảng sợ khi tiếp xúc với ánh sáng bừng chói
của trí tuệ. Nhưng Ngài xét biết rằng mặc dù sống trong
tăm tối, nhưng mỗi chúng sanh đều có mầm Phật tánh, như
hoa sen, mặc dù sống trong bùn tanh hôi, nhưng vẫn tỏa
nhụy vàng thơm ngát. Ngài cương-quyết thực-hiện sứ mạng
của mình.
B - Chánh Ðề
I - Sự Hóa Ðộ Rộng Lớn Và Cùng Khắp Của Ðức Phật
Sứ mạng hóa độ của Ðức Phật, như chúng ta đã biết, thật
nặng nề và khó khăn. Nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt, lòng
từ bi rộng sâu, nhờ tinh thần bình đẳng triệt để và nhờ
ý chí dũng mãnh không thối chuyển, mà Ðức Phật đã hoàn
thành sứ mạng của mình một cách viên mãn. Trong khi hóa
độ, Ngài đã dựa theo ba nguyên tắc sau đây:
1. Hóa độ theo thứ lớp căn cơ.
Khi bắt đầu đi truyền Ðạo, ý nghĩ trước tiên của
Ngài là đến vườn Lộc Uyển tìm mấy người bạn đồng tu với
Ngài trước kia để thuyết pháp. Mấy người bạn ấy là các
ông: KiềuTrần Như, Bạc Đề (Bhaddiya), Thập Lực Ca Diếp
(Dasabala-Kasyapa), Ma Nam Câu lợi (Mahanama) và Át Bệ
(Assaji). Bài thuyết pháp đầu tiên ấy là Tứ-diệu-đế. Năm
vị nầy đều được khai ngộ, và trở thành 5 đệ tử đầu tiên
của Phật. Kế đó Phật thuyết luôn ba tháng cho 55 người
Bà-la-môn, mà người đứng đầu là ông Da-Xá, 55 người nầy
đèu xin qui y theo Phật, và hợp với 5 người trong nhóm
ông KiềuTrầnNhư thành 60 đệ tử, 60 đệ tử này sau khi giữ
đúng giới luật, được Phật thọ-ký cho đi truyền Ðạo khắp
nơi.
Ðức Phật rời vườn Lộc-uyển đi về phía Nam đén xứ
Ưulầutầnloa và hàng phục một vị tổ sư rất có uy tín của
Ðạo Thờ Lửa là ông Ma-ha Ca-Diếp và hai người em của
Ông. Ông Ca-Diếp mang tất cả đồ đệ của mình là 1,250 vị,
xin qui-y theo Phật.
Nhớ lại lời hẹn xưa với vua Tần-bà-xa-la, Ngài đến xứ
Makiệtđà vào thành Vươngxá để độ cho vua. Vua Tầnbàxala
gặp lại Ngài, vui mừng khôn xiết, truyền xây cất tịnh xá
Trúc lâm, để thỉnh Phật và chư Tăng ở lại thuyết Pháp độ
sanh.
Trong lúc Phật ở tịnh xá Trúc lâm, thì vua Tịnh-Phạn
nghe tin Ngài đã thành Phật, truyền sứ-giả đi thỉnh Ngài
về thành Catỳlavệ. Nhưng 9 lần 9 sứ giả đi đều biệt tăm,
không trở lại. Thì ra những người này khi đến Trúc lâm
tịnh xá nghe Phật thuyết pháp, đã say mê quên sứ mạng
của mình và xin thọ giới xuất gia. Lần thứ 10, Tịnh
Phạn-vương sai một cận thần thân tín là Ưu-Ðà-Di, mới
thỉnh được Phật về. Trên đường từ thành Vương xá trở về
Catỳlavệ, Ðức Phật đã thuyết pháp độ cho không biết bao
nhiêu người. Về thành Catỳlavệ, Ngài ở lại 7 ngày. Mặc
dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi ấy, Ðức Phật đã cảm hóa
tất cả dòng họ Thích và tất cả những người trong dòng họ
này đều xin qui y và một số lớn xin xuất gia theo Phật,
như các ông: Nan-Ðà, A-Nan-Ðà, A-Nậu-Lâu-Ðà,
La-Hầu-La...
Sau khi trở về thăm gia đình và quê hương, Ðức Phật cùng
các đệ tử lại tiếp tục đi truyền Ðạo. Ngài đi đến thành
Xá-Vệ là kinh đô nước Kiều tát la, thuộc quyền thống trị
của vua Ba-tư-Nặc. Ở thành này có một vị đại thần tên là
Tu-Ðạt-Ða, giàu lòng bố thí cho những kẻ bần cùng côi
cút, nên được gọi danh hiệu là Trưởng giả cấp cô độc.
Ông rất ngưỡng mộ Ðức Phật nên đã trút hết tất cả tiền
của vàng bạc trong kho ra mua khu vườn rộng lớn của Thái
tử KỳÐà để làm tịnh xá cho Phật và đệ tử của Ngài ở,
thuyết pháp độ sanh.
Ðược ít lâu nghe tin vua Tịnh-Phạn đau nặng, sắp băng
hà, Ðức Phật vội trở về thăm cha lần cuối cùng. Thấy phụ
thân buồn rầu trên giường bịnh Phật thuyết về "Lẽ
vô-thường, khổ, không, vô ngã" cho vua nghe. Nghe xong
,vua liền dứt phiền não, gương mặt vui tươi, cất tiếng
niệm Phật, rồi băng hà một cách êm ái.
Sau khi Tịnh-Phạn-Vương mất, bà mẹ nuôi của Phật là MaHa
Ba Xà Ba Ðề và bà Da Du Ðà La cùng nhiều người bên nữ
giói họ Thích xin được phép xuất gia. Từ đó trong Ðạo
Phật lần đầu tiên có hàng Tỳ Kheo Ni.
Ðức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền Ðạo, đi
đến đâu Ngài cũng được sùng mộ, tin theo và nhiều người
noi theo gương của ông Cấp Cô Ðộc lập Tịnh Xá, cất giảng
đường để Ngài thuyết pháp độ sanh
Như thế chúng ta thấy Ðức Phật đã tuần tự hóa độ và kết
nạp đệ tử, từ những hạn người đủ căn trí dễ hiểu thấu
giáo lý của Ngài rồi mới rộng ra những người khác; Lập
Tỳ Kheo trước rồi Tỳ Kheo Ni sau.
2- Hóa độ tùy phương tiện.
Trong suốt thời gian đi thuyết pháp độ sanh, lắm khi
Ðức Phật cũng gặp nhiều cảnh gay go trái ngược do lòng
đố kĩ của ngoại đạo, tà giáo, hay lòng ganh ghét của nội
thân quyến thuộc gây ra. Nhưng lúc nào Ngài cũng tuỳ
phương tiện để cảm hóa ho, và đưa họ về đường ngay lẽ
phải. Chẳng hạn, khi thì Ngài bị cô gái con ngoại đạo
độn bụng giả có chửa đến giữa Ðạo tràng để vu oan cho
Ngài; khi thì Ngài bị anh chàng Vô não đuổi theo quyết
giết Ngài để lấy ngón tay góp thêm cho đủ số một ngàn
ngón mà nó đã giết người để lấy, vì theo thuyết tà đạo,
nó tin rằng có làm được như thế mới chứng quả; khi thì
Phật bị Ðề Bà Ðạt Ða, người em họ hung ác, âm mưu hãm
hại Phật bằng cách thả voi say cho chạy đến chà đạp
Phật, hay lăn đá to từ trên núi xuống đè Phật.
Nhưng tất cả những âm mưu ấy đều vô hiệu quả, vì oai đức
uy danh và trí huệ của Phật bao bọc Phật, không một hành
động xấu xa nào có thể thắng Phật được. Ngài có đủ
phương tiện khôn ngoan khéo léo, xoay chiều đổi hương dễ
dàng, hoán cải được tất cả nghịch cảnh trở thành thuận
lợi. Và cuối cùng kẻ khinh ghét Ngài trở lại kính mến
Ngài; người chống ngài trở lại phục Ngài; kẻ ngoại đạo
trở thành phật tử. Bằng chứng là: Ðế Bà Ðạt Ða cũng được
Phật thọ ký; anh chàng Vô Não cũng được qui y; bầy voi
say cũng được sám hối; Vua A Xà Thế cũng hối cải và quay
về đường ngay.
Nói tóm lại, Ðức Phật có đủ muôn ngàn phương tiện thích
ứng với mọi người, mọi vật, mọi hoàn cảnh để hóa độ tất
cả những ai mà Ngài gặp trên đường truyền Ðạo của Ngài.
Không phải chỉ ở ngoài đời, mà trong Giáo hội của Ngài,
Ngài cũng tuỳ theo căn cơ, tâm lý của mỗi đệ tử mà áp
dụng phương pháp thích hợp. Chẳng hạn như đối với ông
Nan Ðà, mặc dù thân đã xuất gia, mà tâm vẫn muốn ngao
du, luyến ái bạn bè, Ngài dùng thần thông để đua ông lên
cõi trời xem những cảnh sống tốt đẹp, vui thú khác
thường, rồi đưa ông xuống địa ngục mục kích những hình
phạt đau đớn, rùng rợn hãi hùng để ông so sánh hai cảnh
đời trái ngưọc nhau mà tự chọn lấy một đường.
Còn đối với ông A-Nan, người học rộng nghe nhiều, nhưng
vì nghiệp duyên còn nặng, nên mắc nạn "Ma Ðăng Già", thì
Phật lại đem giáo lý thâm sâu là Kinh Lăng-Nghiêm ra
giảng dạy để cho ông A-Nan thấy rõ được cái quí giá của
chân tâm mà lo tu luyện, chứ không giong ruổi theo giả
cảnh nữa.
Xem như thế thì Ðức Phật đã dùng phương tiện để tùy
duyên hóa độ, như ông lương y giỏi tùy bịnh cho thuốc,
chứ không nhất thiết phải theo một đường lối cố định nào
cả. Ðối với kẻ thân, người thù, đối với kẻ thông minh
hay người ngu độn, đối với kẻ giàu, người nghèo, Ngài
đều có đủ pháp môn cho họ khai ngộ và quy y theo Ngài.
3 - Hóa độ theo tinh thần bình đẳng.
Tinh thần triệt để bình đẳng là một điểm son quí giá
nhật trong giáo lý của Ðức Phật, cũng như trong tâm hồn
Ngài. Ngay từ khi còn ấu thơ, tinh thần ấy đã được bộc
lộ trong những cử chỉ cứu giúp nhữ kẻ bần cùng, những
con vật lâm nạn, như chúng ta đã thấy trong bài trước.
Khi thành Ðạo, tinh thần bình đẳng ấy lại bộc lộ rõ ràng
hơn nữa. Ngài đã có những câu nói bất hủ, khiến cho ngày
nay, người ta vẫn đem ra làm khuôn vàng thưóc ngọc, như
khi Ngài xin nước của một người thuộc giai cấp hạ tiện
nhất Ấn-độ, người nầy sợ làm lây ô-uế cho Ngài, thì Ngài
phán bảo:"không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ,
trong nước mắt cùng mặn. Mỗi người sanh ra đều có Phật
tánh và có thể thành Phật".
Trong Giáo hội của Ngài, Ngài nhận cả những người thuộc
giai cấp hạ tiện. Như ông ƯuBaLy, một đệ tử của Ngài có
tiếng tăm về giới luật, lại là một người thuộc giới hạ
tiện Chiênđàla, làm nghề gánh phẩn. Sự thâu nhập ấy đã
làm cho các vị vua chúa bất mãn. Chính vua BaTưNặc đã
bạch Phật:" Ðấng Chí Tôn thâu nhận kẻ hèn hạ vào hàng
Tăng Ðồ như vậy, không ngại rằng đá sỏi lẫn lộn với châu
ngọc, làm mất giá trị của chúng Tăng sao?" Phật dạy
rằng: "Người hèn hạ mà biết phát tâm BồÐề, xuất gia tu
hành, chứng được quả Thánh, thì quí báu vô cùng, chẳng
khác gì hoa sen mọc ở bùn lầy nhơ bẩn mà vẫn tinh khiết
thơm tho". "Một người sanh ra không phải liền thành
Bàlamôn (giai cấp trên hết) hay Chiênđàla (giai cấp thấp
nhất) mà chính vì sở hành của người ấy, tạo thành
Chiênđàla hay Bàlamôn".
Ngài xâu giùm kim cho người mù, hoan hỷ nhận hòn đất sét
mà đứa bbé đã nắn để dâng Ngài, thọ lãnh bữa cơm cuối
cùng do người thợ đốt than nghèo nàn dâng cúng. Chính vì
sự hóa độ bình đẳng như thế, mà kinh Ðại Niết-Bàn đã
táụn thán:
-"Ðức Như Lai không chỉ thuyết
pháp cho hạng người quyền quí như vua BạcÐềCa, mà cũng
thuyết pháp cho hạng người bẫn cùng như ông ƯuBaLy;
không riêng thọ lãnh sự cúng dường của những người giàu
có như ông TuÐạtÐa, mà cũng thọ lãnh sự cúng dường của
các hạng nghèo khổ như ông ThuầnÐà; không riêng cho phép
xuất gia các hạng không có tánh tham như Ngài CaDiếp, mà
cũng cho phép xuất gia những người có nhiều tánh tham
như ông NanÐà; không những thuyết pháp cho hạng người an
tịnh không dự việc đời, mà cũng thuyết pháp cho vua
TầnBàSaLa trong lúc đang bận rộn việc nước; không những
thuyết pháp cho hạng thanh niên trẻ tuổi, mà cũng thuyết
pháp cho ông già 80 tuổi; không những thuyết pháp cho bà
hoàng hậu MạtLĩ, mà cũng thuyết pháp cho dâm nữ
LiênHoa".
II- Năm Thời Kỳ Nói Kinh
Tóm lại, trong một đời của Ðức Phật, tùy theo trình độ
của mọi người mà thuyết pháp giáo hóa, mãi đến khi Ngài
nhập diệt, cộng là 49 năm. Những Kinh Pháp của Ngài nói
ra, về sau các đệ tử kết tập chia ra làm năm thời:
1.Thời thứ nhất nói Kinh Hoa-Nghiêm
Khi Phật mới thành Ðạo, ở tại cội Bồ Ðề, nói KINH HOA
NGHIÊM 21 ngày. Vạch rõ chân tánh, chỉ bày chỗ cao sâu
mầu nhiệm của Ðạo Phật, chủ dích có hai điều:
a) Dẫn dắt các bậc Bồ tát lên địa vị Ðẳng giác và Diệu
giác.
b) Nêu bày giáo pháp rốt ráo của Như Lai, chỉ có Phật
với Phật mới hiểu rõ mà thôi; Ngoài ra hàng nhị thừa
ngồi nghe như đui, như điếc, huống chi ngoại đạo, tà
giáo làm sao hiểu nổi! Ðức Phật trình bày giáo pháp siêu
việt tuyệt vời ấy, là muốn cho đại chúng phải tu theo
Ðại thừa Phật giáo mới được hoàn toàn rốt ráo.
2.Thời thứ hai Phật nói Kinh A-Hàm
Biết rằng: "Muốn đi xa phải do nơi gần, muốn lên cao
phải từ nơi thấp", Ðức Thích Ca y theo chư Phật mà nói
pháp Tam thừa. Vì vậy thời thứ hai, Ngài nói Kinh A Hàm
trọn 12 năm, dùng thí dụ thực tế, chỉ rõ chân lý cho
hàng Tiểu thừa dễ nhận, mà lo bề tự tu và tự độ.
3.Thời thứ ba Phật nói Kinh Phương Ðẳng.
Ðạo Phật chẳng những dạy pháp giác ngộ phần mình mà Ngài
còn chỉ bày phương pháp giác tha nữa, tức là khuyến
khích từ cái giác ngộ tiêu cực nhỏ hẹp của Tiểu thứa
(AlaHán), để tiến lên cái giác ngộ tích cực bao la của
Ðại thừa Phật giáo. Ấy là thời nói Kinh phương Ðẳng trọn
8 năm, dẫn dắc Tiểu thừa qua Ðại thừa.
4.Thời thứ tư Phật nói Kinh Bát Nhã.
Ðến khi Ðức Phật xem căn cơ của chúng sanh có thể tiến
lên một từng cao nữa là hấp thụ được hoàn toàn giáo pháp
Ðại thừa, nên Ngài chỉ bày Ðạo lý chân không của Vũ trụ,
thuyết minh cái thật tướng, vô tướng của các pháp. Ấy là
thời kỳ nói Kinh Bát Nhã trọn 22 năm.
5.Thời thứ năm Phật nói Kinh Pháp Hoa và Niết Bàn.
Sự hóa độ một đòi của Ðức Phật gần viên mãn, thêm thấy
căn cơ của chúng sanh đã thuần thục, có thể gánh vát Ðại
thừa Chánh pháp của Như Lai, nên Ngài bèn nói rõ bản
hoài của Ngài thị hiện ra đời là vì một nguyên nhân lớn:
"Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến". Ngài phú
chúc, thọ ký cho các hàng đệ tử, tương lai sẽ thành
Phật. Ấy là thời nói Kinh Pháp Hoa và Kinh Niết Bàn trọn
8 năm. Ðến đây nhiệm vụ thuyết pháp độ sanh của đời Ngài
đã viên mãn.
Tóm lại 5 thời thuyết pháp Cổ nhơn có làm bài kệ như
sau:
Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhựt
A-Hàm thập nhị Phương Ðẳng bát
Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm
Pháp Hoa Niết Bàn cộng bát niên.
DỊCH NGHĨA
Trước nói Hoa Nghiêm hăm mốt ngày
A-Hàm mười hai, Phương Ðẳng tám
Hai mươi hai năm nói Bát Nhã
Pháp Hoa Niết Bàn cộng tám năm.
III- Sự Hóa Ðộ Viên Mãn
Từ khi thành Ðạo dưới gốc cây Bồ Ðề cho đến ngày nhập
diệt, trải qua một thời gian 49 năm, Ðức Phật đã đi khắp
xứ Ấn độ rộng lớn bao la, hết nước này đến nước khác. Hễ
chỗ nào có chân Ngài dẫm đến là Ánh Ðạo Vàng bừng tỏa
huy hoàng.
Mỗi ngày Ngài theo một thời dụng biểu, một chương trình
nhất định, không bao giờ xao lảng, giải đãi, từ khi trẻ
cho đến già, từ mùa mưa cho đến mùa nắng. Mỗi ngày khi
trời chưa sáng, Ngài đã lìa khỏi giường đi tắm rửa, thay
đổi y phục rồi vào phòng quán cơ cho đến lúc mặt trời
xuất hiện. Sau đó Ngài thuyết pháp cho chúng Tăng đến
lúc trưa mới nghỉ để thụ trai. Buổi chiều, Ngài thuyết
pháp cho Tín đồ các vùng lân cận đến nghe; rồi lại giảng
giải những nghi vấn của các Tăng về những vấn đề mà Ngài
đã thuyết pháp buổi sáng.
Mỗi năm, Ngài đi chu du để thuyết pháp độ sanh trong 9
tháng nắng ráo; còn ba tháng về mùa hạ có mưa lớn (theo
thời tiết Ấn độ), thì Ngài lại ở luôn trong Tịnh xá để
an cư kiết hạ.
Ròng rã trong 49 năm như thế, hạt giống Từ bi được Ngài
tinh tấn gieo rắc khắp các xứ ở Ấn Độ. Từ Bắc chí Nam,
từ Ðông sang Tây, từ rừng rú đến đồng bằng, không nơi
nào là Ngài không đặt chân đến, hay truyền đệ tử đến
thay Ngài để hóa độ chúng sanh. Và ở đâu Ngài và các đệ
tử cũng được, nhân dân, từ vua đến dân, từ giàu đến
nghèo, từ già đến trẻ, từ phái nam đến phái nữ, đổ xô ra
đón tiếp Ngài, vui thú đươc tắm gội trong ánh nắng trí
huệ và nước Từ bi do Ngài tưới xuống. Ở đâu có Ánh Ðạo
vàng đến, thì Tà giáo và ngoại giáo lui xa dần, tan biến
như những làn mây, như những bóng tối, tan biến trước
ánh bình minh đang lên. Giọng thuyết pháp của Ngài có
oai lực như tiếng sư tử rống, làm cho cầm thú phải khiếp
phục, như tiếng Hải triều lên, lấn ác tất cả bao nhiêu
tiếng tỉ tê của côn trùng, chim chóc.
Ðạo Bồ Ðề từ đây đã ăn sâu gốc rễ trên bán đảo Ấn độ bao
la, và trở thành tôn giáo chính của các nước lớn, nhỏ
thời bấy giờ tại Ấn độ. Ðức Phật sau khi đã tự giác, đã
giác tha và đến đây giác hạnh của Ngài đã viên mãn.
IV- Trước Khi Nhập Niết bàn
1 - Phật báo tin sắp lìa đời.
Khi giác hạnh đã viên mãn thì Phật đã 80 tuổi. Ðến đây,
sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà
biến đổi, yếu gìa. Năm ấy Ngài vào hạ ở rừng SaLa trong
xứ CâuLy, cách thành Balanại chừng 120 dặm. Một hôm Ngài
gọi ông Anan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến
và phán bảo:
-"A Nan! Ðạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay
ta đã có đủ bốn hạng đệ tử: TỳKheo, TỳKheoNi, ƯuBàTắc,
ƯuBàDi. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe pháp, và
Ðạo ta cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời
các ngươi mà ra đi. Thân hình ta, theo luật vô thường,
bây giờ như một cổ xe đã mòn rã. Ta đã mượn nó để chở
pháp, nay xe đã vừa mòn mà pháp cũng đã lan khắp nơi,
vậy ta còn mến tiếc làm gì cái thân tiều tụy này nữa?
A-Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn".
Tin Ðức Phật sắp vào Niết bàn, lan ra như một tiếng sét.
Các đệ tử của Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa, lục tục
trở về để cùng đấng Giác Ngộ chia ly lần cuối.
Trong thời gian ba tháng cuối cùng của Ngài, Ðức Phật
vẫn không nghỉ ngơi, mà vẫn tiếp tục đi truyền Ðạo. Một
hôm Ngài đi thuyết pháp ngang qua một khu rừng, gặp một
người làm nghề đốt than, ông Thuần Ðà, thỉnh Ngài về nhà
để thọ trai. Ngài im lặng nhận lời cùng các đệ tử theo
ông về. Ðến nhà ông Thuần Ðà dọn ra cúng dường Ngài một
bát cháo nấm Chiên đàn, thường gọi là nấm heo rừng, vì
giống nấm này rất được giống heo rừng ưa thích.
Thụ trai xong, Phật cùng các đệ tử từ giã ông Thuần Ðà
ra đi. Ðược một quãng đường, Ngái giao bình bát cho ông
A Nan và truyền treo võng lên, trong rừng cây Ta-la (Tàu
dịch là cây song thọ, cây có hai nhánh lớn chia ra như
hai cái nạn), để Ngài nằm nghỉ. Ngài nằm xuống võng đầu
trở về hướng Bắc, mình nghiêng về phiá tay phải, mặt xây
về hướng mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau.
Nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn, dân chúng quanh vùng
đến kính viếng rất đông, trong số ấy có một ông già
ngoài 80 tuổi, tên TuBạcÐàLa đến xin xuất gia thọ giới
Sadi với Ngài, Ngài hoan hỷ nhận lời. Ðó là người đệ tử
chót trong đời Ngài.
2- Phật nói Kinh Di Giáo và những lời phú chúc
Lúc bấy giờ các đệ tử của Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ
trừ ông Ca-Diếp vì đi thuyết pháp xa, chưa về kịp. Ngài
hội tất cả đệ tử và tín đồ đến quanh Ngài và dặn dò một
lần cuối. Ngài phú chúc như sau:
a) Y,bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma-Ha Ca-Diếp.
b) Các đệ tử phải lấy giới luật làm Thầy.
c) Ở đầu các Kinh phải nên nêu 4 chữ: "Như thị ngã văn".
d) Xá lợi của Ngài sẽ chia làm ba phần:
- Một phần cho Thiên cung,
- Một phần cho Long cung,
- Một phần chia cho 8 vị Quốc vương ở Ấn Ðộ
Sau đây là lời vàng ngọc mà Ngài đã để lại trong giờ
phút cuối cùng.
- "Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các
người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta
mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào
khát, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài
các người!..".
- "Này! Các người đừng vì dục vọng mà quên lời ta dặn.
Mọi vật ở đời không có gì quí giá. Chỉ có chân lý cuả
Ðạo ta là bất di, bất dịch. Hãy tinh tiến lên để giải
thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!".
Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào
Niết bàn. Lúc bấy giờ nhằm ngày rằm tháng hai ÂL (theo
giáo sử Trung hoa).
Rừng cây Ta-la tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài, trời
đất u ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót. Vạn
vật như chìm lặng trong giây phút nặng nề của sự chia
ly.
Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vao trong kim quan và 7 ngày
sau, đua kim quan Ngài vào thành Câu thi để tại chùa
Thiện Quang và làm lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu).
Tám vị Quốc vương lớn ở Ấn độ kéo binh hùng tướng dũng
đến toan tranh dành XáLợi. Nhưng ông Hương-Tích y theo
di chúc của Phật, đứng ra điều đình, và nhờ thế việc
phân chia XáLợi đều được ổn thỏa.
C - Kết Luận
Ðức Phật đã nhập Niết Bàn, nhưng gương sáng của đời Ngài
vẫn còn chiếu sáng rực rỡ trước mắt chúng ta. Suốt một
đòi, trong 80 năm trời, không một lúc nào Ngài xao lảng
mục đích tối thượng là hóa độ chúng sanh đang trầm luân
trong bể khổ. Khi còn tại gia, Ngài là người ở trong một
địa vị có diễm phúc nhất, cao nhất của người đời.
Thế mà Ngài vẫn không màng tưởng đến; khi vào trong Ðạo,
Ngài là người ở trong địa vị cao chót vót của Ðạo, thế
mà Ngài vẫn không chịu ở yên trong địa vị ấy, lại vất vả
dủi rong trên mọi nẻo đường buị bặm, gai góc để đưa
chúng sanh lên con đường hạnh phúc an vui và giải thoát
hoàn toàn. Lòng thương của Ðức Phật thật vô biên.
1- Người đời nên noi gương sáng của Phật.
Sự hy sinh cao cả, lòng từ bi rộng lớn, trí tuệ sáng
suốt, ý chí dũng mãnh của Ngài không những là bao nhiêu
gương sáng cho riêng hàng Phật tư, mà còn cho tất cả mọi
người. Nếu chúng ta quang niệm Ngài là một vĩ nhân của
nhân loại từ xưa đến nay. Nếu chúng ta quan niệm Ngài là
một bậc siêu nhân, thì đó là một bậc siêu nhân cao hơn
những bậc siêu nhân khác. Nếu ta quan niệm đời Ngài là
một sự thị hiện của Phật, thì đó là sự thị hiện đẹp đẽ
nhất và đầy đủ ý nghĩa hơn hết trong các sự thị hiện.
Cho nên không những đối với Tín đờ Phật giáo, mà đối với
toàn thể nhân loại, Ðức Phật đáng được tôn sùng và chiêm
ngưỡng.
2- Tín đồ nên ghi nhớ những lời di chúc của Phật
- Chúng ta , những Phật tử, ai cũng biết đời Ðức Phật là đẹp đẽ,
cao cả; bài học của đời Ngài là quí báu, sâu xa. Nhưng
nếu chúng ta không cố gắng học tập, thì bài học dù hay
ho quí báu bao nhiêu cũng vô ích. Ðức Phật trước khi
nhập diệt, đã dặn chúng ta một câu cuối cùng:
- "Mọi vật ở đời không có gì quí giá. Thân thể rồi sẽ
tan rã. Chỉ có Ðạo ta là quí báu. Chỉ có chân lý của Ðạo
ta là bất di bất dịch.
HÃY TINH TẤN LÊN ÐỂ GIẢI THOÁT!"
Vậy thì diều kiện trọng yếu nhất để giải thóat là sự
tinh tấn. Chúng ta đừng bao giờ quên điều kiện ấy trong
khi tu hành.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 4
Quy Y Tam Bảo
A-Mở Ðề:
Cảnh giới Ta bà của chúng ta là một cảnh giới đầy mê mờ
và dục vọng. Chúng ta đang lặn hụp trong bể nước mắt của
đau khổ và bùn nhơ của dục vọng, sống trôi lăn trong
cảnh ấy, chúng ta khó thấy được bến bờ sáng sủa, yên ổn
để lội vào. Thật là đáng thương cho thân phận con người
chúng ta.
Nhưng bản nguyện chúng ta đâu có thế! Chúng ta, từ vô
thỉ, ở nơi nguồn chơn vắng lặng, sáng suốt vô cùng. Vì
một niệm bất giác, khởi vô minh vọng tưởng, nên chúng ta
bị quay cuồng trong sanh tử, trôi nổi trong ba cõi sáu
đường.
Vậy thì trong chúng ta ai là người không muốn thoát ra
khỏi cõi đen tối, sầu đau này, để được trở về nguồn
trong sáng, an vui?. Nhưng làm sao để thoát ra được? Ai
sẽ là kẻ rủ lòng thương để đưa đường chỉ lối cho chúng
ta? Ai là người có đủ phương pháp thần diệu để giúp
chúng ta ra khỏi sinh tử luân hồi?
- Ðấng cao cả sáng suốt và đầy đủ năng lực ấy không ai
khác hơn là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đã chứng quả
bất sanh, bất diệt; và chỉ có Giáo pháp của Ngài mới cứu
được chúng sanh ra khỏi vô thường đau khổ.
Vậy chúng ta còn ngần ngại gì nữa mà chẳng chịu quy y
Tam-Bảo.
B- Chánh Ðề:
I - Ðịnh Danh Và Giải Nghĩa.
1- Quy-y nghĩa là gì? Quy là trở về; Y là nương tựa,
Quy-y là trở về nương tựa nơi mà mình đã vì si mê, phóng
đãn lià bỏ ra đi, như đứa trẻ khờ dại đã rời bỏ cha mẹ
để ra đi trong hoan phá, bây giờ biết sự dại khờ do kinh
nghiệm khổ đau, quay trở về nương tựa lại dưới bóng hạnh
phúc và yêu thương của cha mẹ. Chữ Quy-y nguyên dịch
nghĩa là kính vâng hay phục tòng.
2- Tam bảo nghĩa là gì? Tam bảo là ba ngôi báu: PHẬT,
PHÁP, TĂNG.
Ở thế gian, vàng bạc, ngọc ngà và danh vọng là quí báu.
Nhưng sự thật, vàng bạc, danh vọng đâu có cứu được con
người khỏi khổ, sống, già, bịnh, chết, mà lắm khi còn
làm cho con người thêm khổ nữa! Còn Phật, Pháp, Tăng thì
có đủ năng lực dắt dẫn con người ra khỏi những cái khổ
nói trên. Bỡi thế, người đời mới tôn sùng Phật Pháp,
Tăng là ba ngôi báu (Tam Bảo).
a) PHẬT: Chữ Phật do chữ Phạn Bouddha phiên âm ra. Tàu
dịch là Giác Giả nghĩa là: Bực đã giác ngộ sáng suốt
hoàn toàn về ba phương diện: Tự giác, giác tha, giác
hạnh viên mãn.
b) PHÁP: Pháp là do chữ Phạn Dharma mà dịch nghĩa ra.
Pháp là phuơng pháp tu hành mà Phật đã phát huy ra để
diệt trừ mọi mê muội, khổ đau và chứng được quả Phật. Ba
Tạng Kinh Ðiển đều gọi chung là Pháp.
c) TĂNG: Tăng hay Tăng già là do chữ Phạn Shanga mà
phiên âm ra; Tàu dịch là: Hòa hợp chúng, nghĩa là một
đoàn thể tu hành từ bốn người sắp lên, cùng nhau sống
chung một chỗ, đồng giữ giới luật của Phật, đồng chia
sớt cho nhau một cách hòa thuận những gì đã thâu nhận
được, từ vật chấc đến tinh thần.
3- Quy-y Tam-bảo là thế nào? - Quy-y Tam-bảo là trở về
nương tựa ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG.
Tại sao phải Quy-y Phật? - Vì Phật là đấng hoàn toàn
sáng suốt, từ bi vô lượng, phước huệ vô biên, đức hạnh
viên mãn; - Vì Phật là người dẫn đường vĩ đại nhất, đã
có cái kinh nghiệm bản thân thoát ra ngoài vòng sanh tử
để chứng Ðạo.
Tại sao quy-y Pháp? - Vì chỉ có phương pháp của Phật là
đầy đủ công năng để đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bờ
giải thoát.
Tại sao lại quy-y Tăng? - Vì Tăng là người đã hy sinh
gia đình, tiền của, danh vọng... để tình nguyện theo
Phật dắt dẫn chúng sanh trên đường Ðạo.
II- Ba Bực Tam Bảo
Tam Bảo có ba bực:
- Ðồng thể Tam bảo,
- Xuất thế gian Tam bảo,
- Thế gian trụ trì Tam bảo.
1 - Ðồng Thể Tam Bảo
a) Ðồng Thể Phật Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng
chư Phật đồng một thể tánh sáng suốt.
b) Ðồng Thể Pháp Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng
chư Phật đồng một pháp tánh từ bi bình đẳng.
c) Ðồng Thể Tăng Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng
chư Phật đồng một thể tánh thanh tịnh, sự, lý hòa hợp.
2 - Xuất Thế Gian Tam Bảo
a) Xuất Thế Gian Phật Bảo: là chỉ cho Ðức Phật Thích Ca
Mâu Ni, Ðức Phật A-Di-Ðà, Chư Phật trong mười phương ba
đời, đã tự giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế gian.
b) Xuất Thế Gian Pháp Bảo: là chỉ cho Chánh pháp của
Phật, có công năng làm cho chúng sanh thoát khỏi sự ràng
buộc của thế gian, như Tứ-đế, Thập-nhị nhân-duyên, Lục
-độ v.v...
c) Xuất Thế Gian Tăng Bảo: là chỉ cho các vị Thánh-Tăng
đã thoát ra ngoài sự ràng buộc của thế gian như đức
QuánThếÂm, Ðại Thế Chí, Văn Thù, Ca-Diếp, A-Nan v.v...
3- Thế Gian Trụ Trì Tam Bảo
a) Thế Gian Trụ Trì Phật Bảo, là chỉ cho Xá Lợi của
Phật, tượng Phật đức bằng kim khí, chạm trổ bằng danh
mộc, tô bằng đất, đắp bằng xi măng, thêu bằng vải, hay
vẽ trên giấy.
b) Thế Gian Trụ Trì Pháp Bảo, là chỉ cho ba tạng Giáo
điển: Kinh, Luật, Luận viết hay in trên giấy, trên vải
trên lá buôn v.v...
c) Thế Gian Trụ Trì Tăng Bảo, là chỉ các vị Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni tu hành chơn chánh, đạo đức trong sạch, giới
luật trang nghiêm trong hiện tại.
III- Sự Quy y Tam Bảo
Sau khi đã hiểu rõ thế nào là Quy-y Tam bảo, tất nhiên
phải thực hành sự hiểu biết ấy.Thực hành bằng sự tướng
cung kính, vâng theo Tam-bảo, như thế gọi là sự quy-y
Tam-bảo.
1 - Sự Quy-Y Phật: Hằng ngày chúng ta phải nhớ tưởng
luôn đến Phật, niệm danh hiệu Phật, chiêm ngưỡng tượng
Ngài, và nguyện suốt đời theo bước chân Ngài, ấy là sự
quy-y Phật.
2 - Sự Quy-Y Pháp: Hằng ngày tụng đọc Kinh, Luật, Luận;
sớm hôm hai thời công phu, tìm hiểu nghĩa lý thâm huyền
của Pháp bảo. Khi đọc tụng Kinh điển tâm trí ta không
nghĩ xằn bậy, không nhớ tưởng những việc không hay,
không bàn mưu tính kế để lợi kỷ, tổn nhơn. Chúng ta trừ
bỏ được dục vọng, tâm trí được sáng suốt, an lành, thanh
tịnh.
3- Sự Quy-Y Tăng: Thế gian thường nói: "Trọng Phật, phải
kính Tăng". Cho nên, nếu chúng ta thành tâm thờ Phật bao
nhiêu, thì chúng ta phải thật dạ kính Tăng bấy nhiêu.
Người thực hành sự quy-y Tăng, hễ thấy người đầu tròn áo
vuông, chân chính tu hành, giữ gìn giới luật, thì liền
kính nể, quý trọng, xem như đó là vị đại diện cho Ðức
Phật. Làm như thế là sự quy-y Tăng.
Tóm lại, thờ Phật, tụng Kinh, giữ Giới, nghiên cứu Phật
pháp, kính trọng Tăng già chân chính, đó chính là sự
quy-y tam-bảo.
IV- Lý Quy y Tam Bảo
Lý là bên trong. Lý quy-y Tam-bảo nghĩa là quy-y Tam-bảo
trong tâm chúng ta. Nếu chúng ta chỉ thực hành sự quy-y,
chỉ dong ruổi theo Tam-bảo bên ngoài, mà quên lý quy-y,
nghĩa là quên Tam-bảo bên trong tâm chúng ta, thì chúng
ta chưa thực hành đúng nghĩa Tam-quy. Thật thế, bên
trong tâm chúng ta cũng có đủ Tam-bảo. Chúng ta cần thực
hành lý quy-y, hay Tam Tự Quy-Y:
1- Tự Quy-Y Phật: Tự nghĩa là mình đối với tự tâm mình.
Tư quy-y Phật là mình tự trở về với Phật tánh sáng suốt
của tâm mình, - Vâng mỗi người đều có Phật tánh, và đều
có thể thành Phật. Ðó là lời Phật Thích Ca đã dạy. Nhưng
Phật tánh ấy bị mê lầm, vọng tưởng che lấp. Vọng tưởng
như mây mờ, Phật tánh như trăng. Mây mờ có thể che
khuất, chứ không thể tiêu diệt được trăng sáng. Phật
tánh chúng ta bị vọng tưởng vô minh che lấp sâu kín đến
đâu cũng vẫn thường còn. Vậy thì sao chúng ta lại bỏ
quên Phật tánh của chúng ta, mà chỉ chạy theo cầu khẩn
Phật bên ngoài; như đứa "cùng tử" có viên ngọc quý, cha
mẹ đã giấu sẵn trong chéo áo mà nó không biết, lại đi
xin ăn cùng khắp mọi nơi!
2- Tự Quy-Y Pháp: nghĩa là vâng theo pháp tánh của mình.
Trong tâm ta có đủ tất cả các Pháp: Từ-bi, Trí-tuệ, Bình
đẳng, Sáng-suốt, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn... chúng ta cần
phát huy những đức tánh ấy và hành động theo chúng, tuân
theo chúng. Như thế là Tự Quy-Y Pháp.
3- Tự Quy-Y Tăng: nghĩa là vâng theo Thầy trong tâm
mình, Thầy trong tâm mình là đức tánh hòa hợp thanh tịnh
của mình, như Tăng già là hiện thân của sự hòa hợp thanh
tịnh bên ngoài. Bấy lâu vì mình mê muội, không nhận thấy
được ông Thầy trong tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, mình nhận
thấy được ông Thầy thanh tịnh ấy, thì mình phải quy-y
Thầy của mình trước đã chứ!
Nói tóm lại, mình phải nương tựa, quay về với Phật trong
tâm mình là tánh sáng suốt; với Pháp trong tâm mình là
các đức tính Từ-bi, Hỷ-xả v.v..., với Tăng trong tâm
mình là sự hòa hợp, thanh tịnh của bản tâm. Như thế là
Lý Quy-Y Tam-bảo.
V- Nghi Thức Quy Y
Sau khi chúng ta đã hiểu rõ SỰ và LÝ Quy-y rồi, chúng ta
cũng cần biết qua nghi thức của lễ Quy-y.
1- Trưóc Tiên Phải Gội Rửa Thân Tâm Cho Trong Sạch.
Quy-y là buổi lễ quan trọng nhất trên đường tu tập của
chúng ta. Nó là cuộc khởi hành để đi đến mục đích giải
thoát, vì thế chúng ta không thể xem thường, cử hành một
cách bừa bãi được.
Khi muốn quy-y, chúng ta phải y-phục chỉnh tề, sắm khay
lễ thỉnh chư Tăng đến trai đường, đảnh lễ và cầu xin chư
Tăng rủ lòng Từ-bi truyền trao quy-giới cho mình.
Trước ngày hành lễ, thân tâm chúng ta phải được gội rửa
trong sạch. Ta tắm rửa sạch sẽ ăn mặc chỉnh tề. Ðó là về
thân; còn về tâm thì ta phải ba phen sám hối, cho ba
nghiệp được thanh tịnh. Nhờ sự tẩy gội cả trong lẫn
ngoài ấy, ta mới xứng đáng đón nhận Pháp thanh tịnh cao
quý của Tam-bảo.
2- Phát Nguyện.
Ðến giờ quy-y, chúng ta phải qùy xuống; theo lời hướng
dẫn của chư Tăng, chí thành phát nguyện:
- Ðệ tử suốt đời quy-y Phật.
- Ðệ tử suốt đời quy-y Pháp.
- Ðệ tử suốt đời quy-y Tăng.
Sau khi phát nguyện Tam-quy rồi, người phát nguyện tin
chắc rằng mình đã gieo hạt giống giải thoát, thế nào
cũng sẽ gặt được kết quả tốt là thoát ly ba đường ác:
Ðịa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh. Vì thế người quy-y liền nói
tiếp ba lần:
- Ðệ tử quy-y Phật rồi, khỏi đọa địa ngục.
- Ðệ tử quy-y Pháp rồi, khỏi đọa ngạ quỷ.
- Ðệ tử quy-y Tăng rồi, khỏi đọa súc sanh.
Thế là trọn vẹn Tam-quy và Tam-kiết.
Ðể bảo tồn lý tưởng cao cả của mình và giữ vững đức tin
trên đường Ðạo, người quy-y tự nguyện một cách mạnh mẽ
và thành khẩn:
- Ðệ tử quy- Phật, nguyện trọn đời không quy y thiên,
thần, quỷ, vật.
- Ðể tử quy-y Pháp, nguyện trọn đời không quy-y ngoại
đạo, tà giáo.
- Ðệ tử quy-y Tăng, nguyện trọn đời không quy-y tổn hữu
ác đảng.
Như thế là lễ quy-y đã hoàn tất. Người Tín đồ chỉ còn
việc làm theo đúng những lời mình đã phát nguyện và đã
tuyên thệ trước Tam-bảo.
VI- Lợi Ích Của Quy Y Tam Bảo
1- Khỏi đi lạc đường đòi vào nơi tăm tối.
Như chúng ta đã thấy ở đoạn mở đầu bài này, chúng ta
đang lặng hụp trong biển khổ, đang bơ vơ lạc lỏng giữa
đêm tối mênh mông. Trong hoàn cảnh bi đát như thế, nếu
không thấy được những phương tiện để đi đến, không có
những bậc Thầy để dìu dắt đến, thì chúng ta sẽ quay
cuồng mãi mãi trong biển sanh tử luân hồi. Cái đích sáng
ấy là Ðức Phật, những phương tiện ấy là Pháp, và những
bậc Thầy dìu dắc ấy là Tăng. Khi chúng ta đã biết có
những sự quý báu như thế mà không nắm bắt lấy, thì chẳng
khác gì người sắp chết đuối thấy cái bè gỗ trôi qua mà
lại dại khờ xua đẩy nó ra.
Sự quy-y chính là một cách bám víu vào cái bè Tam-bảo mà
Phật đã chế ra để cứu vớt những kẻ sắp chết duối trong
biển đời là toàn thể chúng ta.
2- Khi đã phát nguyện quy-y, mình dễ giữ đúng lời đã
hứa, vì có sự chứng minh của Chư Phật và Chúng Tăng.
Có người nói: "Tôi tôn sùng Ðức Phật, vì biết Ngài là
một Ðấng sáng suốt hoàn toàn; Tôi trọng trọng Pháp vì
biết Pháp Phật có đủ năng lực đưa người đến giải thoát;
tôi kính Tăng vì biết đấy là những vị đại diện cho Ðức
Phật. Biết như thế cũng đủ, cần gì phải làm lễ phát
nguyện quy-y?"
Nói như thế là chưa hiểu giá trị về phương diện tâm lý
của lời hứa, lời thề trước mặt người khác. Khi chúng ta
đã hứa với ai một điều gì, mà nuốt lời hứa, thì tâm hồn
chuíng ta bức rức, hối hận không an. Ðã hứa tất có bổn
phận làm trọn lời hứa, nếu thất lời hứa, tất ta sẽ tự
khinh ta. Nhất là khi lời hứa, lời nguyện ấy lại cử hành
trong một khung cảnh trang nghiêm trước Ðiện Phật, trên
có sự chứng tri của Chư Phật, dưới có sự chứng tri của
chư Tăng, chung quanh có sự hộ niệm của những thân bằng
quyến thuộc; phát nguyện trong khung cảnh ấy, tất nhiên
chúng ta khó lòng mà trái lời nguyện hay xao lảng được.
C - Kết Luận
Khuyên tín đồ nên quy-y cả Sự lẫn Lý và tinh tiến trong
sự quy-y
Chúng ta đã thấy, là Phật tử thì phải quy-y. Quy-y phải
đủ Sự và Lý. Không nên hoàn toàn ỷ lại bên ngoài mà xao
lảng bên trong. Cũng không nên hoàn toàn tự tôn tự trọng
riêng mình mà khinh thị bên ngoài. Muốn quy-y thì trước
tiên phải long trọng làm lễ quy-y để đánh dấu bước đi
đầu tiên của mình trên đường giải thoát. Lễ ấy như là lễ
tiễn đưa một người ra đi nhận một nhiêm vụ mới. Nhưng
một khi đã đặt chân lên đường, thì người ấy phải dong
ruổi, quyết tiến mau cho đến đích, chứ không phải chần
chờ, quay đi lộn lại một chỗ, hay rẽ qua một ngả khác.
Ðã phát nguyện quy-y mà không theo dấu chân của Ðức Phật
đã để lại, không soi vào gương sáng của Ðức Phật đã nêu
cao, không theo giáo pháp mà rèn luyện tâm tánh; không
giữ giới luật, không vâng lời nhắc nhở của Chư Tăng, như
thế là tự lừa dối mình và lừa dối người khác, và cái tai
hại lại càng lớn lao hơn cả không quy-y.
Trái lại, nếu chúng ta quy-y và thực hành đúng như lời
đã phát nguyện thì con đường giải thoát dù xa, cũng sẽ
có ngày thấy đích.
Xin hãy luôn luôn ghi nhớ lời nói cuối cùng của Ðức
Phật:
- "Hãy tinh tiến lên để giải thoát!".
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 5
Ngũ Giới
A.-Mở Ðề
Sau khi quy y Tam bảo phải sống đúng theo quy luật mà
Ðức Phật đã chế ra, để tiến bước trên đường Ðạo. Quy
luật ấy là Ngũ Giới. Người theo đạo Nho phải sống đúng
theo Tam cương, Ngũ thường, thì người theo Ðạo Phật cũng
không thể chỉ thọ Tam Quy mà không trì Ngũ Giới.
Người đã phát tâm quy y Tam Bảo là đã bước chân lên nấc
thang giải thoát, nhưng nếu không giữ năm giới là chỉ
mới bước một nấc đầu rồi dừng lại, không thể tiến đến
giải thoát thật sự được. Năm Giới này không những đưa
người mạnh tiến trên đường giài thoát, mà còn đem lại
trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, Quốc gia, xã hội
nữa. Ngũ giới chính là giềng mối chắc thật tạo hạnh phúc
cho cá nhân và đoàn thể, chính là ông thầy ngăn ngừa
chúng ta làm điều xằng bậy trong thời mạc pháp. Vì thế,
Ðức Phật Thích Ca đã có lời di chúc khẩn thiết sau đây
trước khi Ngài nhập Niết bàn:
- "Sau khi ta diệt độ, các người tu hành phải tôn kính
giới luật làm thầy; dầu cho ta còn tại thế để dạy dỗ cho
các người mấy ngàn đời đi nữa, ta cũng thêm điều nào
ngoài giới luật." giới luật Phật chế ra rất nhiều, vì
cần phải áp dụng cho nhiều hạng người tu hành: - Tỳ
kheo,- Tỳ kheo ni,- Sa di, -Sa di ni. Riêng đối với hàng
Phật tử tại gia, thì chỉ có 5 giới mà thôi. Nhưng nếu
giữ được 5 giới ấy thì lợi ích cho mình, cho người không
xiết kể.
B.- Chánh Ðề:
I.- Ðịnh Nghĩa
Ngũ
giới là năm điều ngăn cấm mà Phật đã chế ra, để ngăn
những tưởng niệm ác, nói năng chẳng lành, hành động bất
chính. Năm điều răn ấy là: - Không
được giết hại, - Không được trộm cướp, - Không được tà
dâm, - Không được nói dối, - Không được uống ruợu.
Năm điều này y cứ trên tâm từ bi, bình đẳng trên phương
diện dứt trừ tội lỗi cá nhân và đem lại trật tự, an vui
cho xã hội mà thành lập. Ðức Phật không bắt buộc chúng
ta phải triệt để tuân theo và cũng không hăm dọa nếu
chúng ta không tuân theo thì phải bị Ngài trừng phạt. Sự
giữ hay không giữ giới là do chúng ta hoàn toàn tự liệu
lấy. Ðạo Phật khác với các Tôn giáo khác chính là ở điểm
Ðức Phật không phải là một quan tòa tối cao giữ quyền
thưởng phạt. Một ý nghĩ, một lời nói, một hành động tốt
hay xấu chính đã mang theo nó một mầm thưởng phạt rồi.
Ðức Phật chỉ là một vị dẫn đường rất từ bi, và rất sáng
suốt. Ngài chỉ cho chúng ta con đường nào là con đường
sáng và con đường nào là con đường nguy hiểm không nên
đi. Nhưng nếu chúng ta không theo con đường sáng mà lại
muốn đi vào con đường nguy hiểm, thì tất nhiên chúng ta
sẽ gặp tai họa tự nhiên, chứ Phật không tạo ra tai họa
để trừng phạt chúng ta. Tòa án chính là luật nhân quả.
Ta làm ác thì ta chịu quả xấu; ta làm thiện thì ta được
qủa tốt. Năm giới chính là năm thành trì ngăn chận cho
ta đừng đi lạc vào đường ác, là năm hàng rào ngăn chận
cho ta khỏi rơi xuống vực sâu, trong khi ta đi trên con
đường giải thoát.
II.- Năm Giới
1.- Không được giết hại. Ðiều ngăn cấm thứ
nhứt mà Phật khuyên chúng ta, là không được giết sanh
mạng, từ loài người cho đến loài vật. Sanh mạng là một
gía trị qúy báu, nhất là sanh mạng người; giết hại sanh
mạng kia để tô bồi cho sanh mạng này là một điều ác,
không hợp lý đạo.
Phật giáo cấm sát sanh bỡi nhiều lý do:
a) Tôn trọng sự công bằng. - Chúng ta coi sanh
mạng mình là quý, là một của báu tuyệt đối. Nếu ai mưu
hại, là mình chống trả triệt để bảo vệ sanh mạng. Mình
đã biết quý trong thân mạng mình, tại sao lại muốn chà
đạp sanh mạng người? Suy rộng ra, các loài vật cũng biết
quý trọng mạng chúng. Như một con bò hay một con heo sắp
bị đập đầu, thọc huyết, ta thấy sự phản kháng mãnh liệt,
sự đau thương cùng cực của chúng, bằng những tiếng kêu
gào, những cái dãy dụa thoát chết! Theo lẽ công bình,
đìều ta không muốn ai làm cho ta, thì ta cũng đừng làm
cho người khác, hay loài khác. Phật dạy: "Ai ai cũng sợ
gươm dao, ai ai cũng sợ sự chết. Vậy nên lấy lòng mình
suy lòng người, chớ giết! Chớ bảo giết!".
b) Tôn trọng Phật tánh bình đẳng. - Chúng ta mỗi
loài tuy thân hình khác nhau, mà vẫn đồng một Phật tánh.
Phật tánh đã bình đẳng thì không thể viện lý do gì để
nói rằng Phật tánh ở người giá trị hơn ở vật, ở giai cấp
này màu da này gía trị hơn giai cấp kia màu da kia. Sát
hại một sanh vật là sát hại Phật tánh.
c) Nuôi dưỡng lòng từ bi. - Lòng từ bi của Ðức
Phật xem mọi loài như con, nên Ngài không đồng ý cho đệ
tử Ngài sát hại sanh vật, bất cứ trong trường hợp nào.
Bỡi vì đem tâm giết hại sanh mạng là lòng độc ác đã cực
thịnh, tâm từ bi bị bóp chết. Nhẫn tâm vô cớ giết một
con vật, tính bạo ác không kém giết một con người. Nhẫn
tâm làm cho kẻ khác hay vật khác phải dãy dụa, rên siết,
quằng quại trong máu đào, trong lệ nóng trước khi trút
hơi thở cuối cùng, là tự giết lòng từ bi của mình, là
bóp chết cái mầm thương yêu rất quý báu trong tâm hồn
chúng ta. Như thế, khó mà tu hành để thành chánh quả
được. Ðức Khổng Tử có dạy: "Văn kỳ thanh bất nhẫn kiến
kỳ thực, kiến kỳ sanh bất nhẫn kiến kỳ tử". (Nghe tiếng
kêu la của con vật, không nỡ ăn thĩt nó; thấy nó sống
không đành thấy nó chết). Như vậy người có tâm từ bi hay
lòng nhân đều không nỡ giết hại người hay loài vật.
d) Tránh nhân qủa báo ứng oán thù. - Khi ta giết
một người hay một con vật thì sự oán hận của họ tràn trề
khó dập tắt được. Họ vì cô thế, vì yếu sức nên bị ta
giết hại. Trong khi ấy, họ ôm lòng căm hận, chờ gặp dịp
báo thù, hay con cái thân nhân họ sẽ báo thù lại. Cứ thế
mỗi ngày ta đều gieo căm hờn cho người và vật, tích lũy
lâu ngày, khối oan gia ấy to hơn sức ta, chừng ấy ta bị
nó sát hại lại. Càng tạo nghiệp sát, càng lao mình vào
đau khổ. Phật dạy: "Người thường sanh tâm sát hại, càng
tăng trưởng nghiệp khổ,, mãi xoay vần trong sanh tử,
không có ngày ra khỏi" (Kinh Lăng Già).
Lợi ích của sự không sát hại.
- Vì
những lý do trên, Ðức Phật cấm Phật tử không giết haị.
Không giết hại, sẽ có những điểm lợi sau đây:
a) Về phương diện cá nhân. - Một người không tàn
nhẫn sát nhân, hại vật, không độc ác làm đổ máu, không
lóc da, xẻ thịt, chặt đầu, thắt cổ, thì trong lòng không
bức rứt, hối hận, thân tâm được nhẹ nhàng, thơ thới,
giấc ngủ được an lành, nét mặt được hiền hòa, trong
sáng.
b) Về phương diện xã hội. - Nếu tất cả nhân loại
trên thế giới này đều giữ đúng giới thứ nhất của Phật
dạy đây, thì chiến tranh sẽ không có, mà các nghiệp sanh
tử luân hồi cũng đươc giải thoát. Cho nên Tổ xưa có dạy:
''Hết thảy chúng sanh không nghiệp giết,
Mười phương nào có nổi đao binh.
Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu Thiện.
Lo gì thiên hạ chẳng thái bình. ''
Hạn chế: Vẫn biết giết hại là tạo nhân khổ, nhưng người
tại gia còn ăn mặn, còn làm công việc kia nọ, thì khó
tránh khỏi phạm giới sát. Ở đây không bắt buộc chúng ta
phải giữ triệt để như thế, chỉ cần giữ phần quan trọng
là không giết người, và những con vật lớn như: Trâu, bò,
ngựa, chó, heo, gà v.v... Còn những con nhỏ nếu tránh
được bao nhiêu quý bấy nhiêu. chúng ta nên đi từ từ thì
chắc ăn hơn. Nhất là không nên giết hại sinh vật một
cách vô lý, giết để thỏa lòng thích giết. Trong khi giữ
giới sát, ta nên đề phòng hai đều sau đây:
a) Không nên để cho ác ý sanh khởi. Giết một con
vật lớn mà vì vô ý hay tự vệ, thì cái qủa của nó còn nhẹ
hơn là giết một con chuồn chuồn với cái ác ý muốn giết
cho vui tay.
b) Nên tránh sự huân tập trong hoàn cảnh giết hại:
Những đứa bé lên 3, lên 5 ra sân gặp chuồn chuồn, bươm
bướm chụp bắt rồi ngắt cánh, rứt đầu nếu cha mẹ thấy mà
không rầy la; đến 12,13 tuởi, chúng sắm ná, giàng thun
bắn chim, đến 20,25 tuởi, chúng đâm họng heo, giết chó,
vẫn không bị ngăn cấm thì sau này, quen với tánh hung
bạo, trong cơn giận dữ, chúng có thể giết người không
gớm tay. Vậy chúng ta không nên để tự do cho con cái
quen cái sự giết hại sinh vật, mà cũng không cho chúng
mục kích những cảnh chém giết ở các rạp chiếu bóng hay ở
giữa đời.
2. - Không được trộn cướp. Ai cũng biết
trộn cướp là lấy những tài vật thuộc quyền sở hữu của
người, mà không có sự ưng thuận , hay cưỡng ép người ta
ưng thuận bằng võ lực hay quyền hành. Những vật quý giá
như nhà cửa, ruộng vườn, tiền bạc, ngọc ngà... cho đến
vật hèn mọn như lá trầu, trái ớt... người ta không cho
mà mình tự lấy đều là trộm cướp. Trộm cướp có nhiều hình
thức: Ỷ mạnh bè đảng giựt ngang của người là ăn cướp,;
cậy thế ỷ quyền làm tiền kẻ yếu là ăn cướp; bắt chẹt
người ta trong lúc túng thiếu để cho vay nặng lời, cầm
bán gía rẻ mạt là ăn cướp; tích trử đầu cơ để bán giá
chợ đen là ăn cướp. Dùng mưu mẹo rình rập, lén lút lấy
của người là ăn trộm; cân non, đong thiếu, trốn xâu, lậu
thuế, được của người ta mà không tìm cách trả lại là ăn
trộm. Có thể nói tóm một câu là; Bất cứ hình thức nào,
do lòng tham lam lấy của người bất chính đều là trộm
cướp cả. Nếu vì nghèo nàn thiếu thốn, vợ ốm con đau,
thiếu gạo thiếu thuốc, nên phải buộc lòng gian xảo, thì
tội còn được châm chế; chứ đã giàu có, ăn sung mặc
sướng, lên xe xuống ngựa mà còn lường gạt người lấy của,
cướp công, để sống một cách vương giả trên mồ hôi nước
mắt của kẻ nghèo đói, thì tội ác thật nặng nề!
Vì lý do gì Phật cấm trộm cướp? Phật cấm trộm cướp
vì những lý do sau đây:
a) Tôn trọng sự công bằng: Chúng ta không muốn ai
lấy của mình, tại sao mình lại chăm chăm muốn đoạt của
người? Quyền sở hữu cá nhân của ta, ta biết tôn trọng,
thì tại sao ta lại chà đạp lên quyền sở hữu của người?
Làm như thế là trái lẽ công bằng. Một xã hội mà thiếu
công bằng thì không thể tồn tại lâu dài được.
b) Tôn trọng sự bình đẳng. - Mỗi người đều có
Phật tánh như nhau, tại sao ta lại muốn làm khổ người
khác để ta được sung sướng? Tại sao ta lại muốn hưởng
nhữnh đặc ân bất chính trong khi ta cũng chỉ là một con
người như bao nhiêu con người khác?
c) Nuôi dưỡng lòng từ bi. - Một khi vô ý đánh mất
một vật gì hay một số tiền, ta dàu dàu buồn khổ, ăn
không ngon, ngủ không yên, tại sao ta lại nỡ tâm lấy của
người để cho người phải khóc than, đau khổ vì ta? Người
ta thường nói: "Tiền tài là huyết mạch". Như vậy, kẻ
cướp đoạt của người tức là cướp đoạt xương máu người,
sát hại sinh mạng người vậy. Chỉ những người không có
lòng thương người, tán tận lương tâm mới làm những việc
đen tối như vậy. Còn ta, đã là Phật tử, đang cố gắng
nuôi dưỡng lòng từ bi, ta không thể trộm cướp của ai
được.
d) Tránh nghiệp báo oán thù. - Trong xã hội có tổ
chức, tôn trọng lẽ công bằng, thì tội trộm cướp bao giờ
cũng bị trừng trị. Ăn trộm là bị đưa ra tòa án tiểu
hình, ăn cướp thì ra tòa án đại hình. Khi chưa bị bắt,
kẻ trộm cướp phải tìm trăm phương ngàn kế để trốn tránh.
sống chui rúc trong bóng tối. Khi bị bắt, người trộm
cướp phải bi trói buộc, tra khảo, ngồi tù, nhốt khám.
Phận mình đã đành cực thân khổ trí, lại làm cho gia đình
mình, cha mẹ, vợ con cũng buồn rầu xấu hổ, và mất hết cả
hy vọng ở tương lai.
Nhưng nếu luật pháp thế gian không trừng trị, thì người
trộm cướp cũng không thoát khỏi luật nhân quả nghiệp
báo. Trộm cướp của người thì sẽ bị người trộm cướp lại,
gây bao thù oán khổ đau. Phật dạy: "Người tham luyến sắc
tài không chịu rời bỏ, cũng như đứa bé luyến tiếc một
chút mật trên lưỡi dao, thè lưỡi liếm, phải bị cái họa
đứt lưỡi" (Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Chính thế, vì tham
tiền của, lắm người đã tự gieo mình vào khám đường, vào
địa ngục. Chúng ta hãy lắng nghe bài kệ cảnh tỉnh của
vua Trần Thái Tông:
Khoét vách xoi tường chí những đâu,
Ngàn mưu trăm kế luống tham cầu;
Của người dầu có đời nay được,
Ðời khác luôn luôn kiếp ngựa trâu.
Vì những lý do trên nên Ðức Phật cấm các để tử trộm
cướp.
Lợi ích của sự không trộm cướp.
a) Về phương diện cá nhân. - Người không gian
tham thì đời sống hiện tại được an ổn, không bị đòi hỏi,
giam cầm, tù tội, đi đâu cũng được người khác tin cậy,
giao phó cho mình những địa vị quan trọng. Người không
gian tham thì đời sau được hưởng phước báu giàu sang, an
vui, và con cháu nhiều đời cũng nhờ thừa hưởng âm chất
của ông bà, cha mẹ để lại mà được vinh hiển.
b) Về phương diện đoàn thể. - Nếu một ngày nào
trong xã hội không ai có tâm gian tham, trộm cướp thì
nhà không cần đóng cửa, của khỏi lo gìn giữ, vật đánh
rơi không mất, thật không còn gì sung sường hơn! Người
ta khổ bỡi không có của, nhưng kẻ có của nhiều cũng vẫn
khổ, vì phải lo gìn giữ. Người không trộm cướp tức là đã
âm thầm ban cho người khác sự an ổn rồi. Nhà Nho có câu:
"Nhơn phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ", Huống
chúng ta là Phật tử lại đi trộm cướp hay sao?
3. - Không được tà dâm. Tà dâm tức là muốn
nói về sự dâm dục phi lễ, phi pháp. Luật dạy người xuất
gia ly tục phải dứt hẳn dâm dục, còn người tại gia thì
không được tà dục. Khi vợ chồng có cưới hỏi đủ lễ gọi là
chánh; ngoài ra, lén lút lang chạ làm việc phi pháp với
người khác phái gọi là tà. Nhưng nếu vợ chồng chính thức
đi nữa, mà nằm không phải chỗ, gần giũ nhau không chừng
mực thì cũng thuộc về tà dâm cả. Ðó là nói về mặt thô
thiển. Nói một cách vi tế hơn, thì phàm những sự phóng
tâm đắm sắc, nghĩ ngợi bất chánh, chơi bời lả lơi, cũng
đều thuộc về loại tà dâm cả.
Phật cấm tà dâm vì những lý do sau đây:
a) Tôn trọng sự công bình. - Mỗi người ai cũng
muốn gia đình mình êm ấm, yên vui, vợ con mình đoan
chánh, thì sao lại đi phá hại gia cang, làm nhục nhã
tông môn người, đưa vợ con người vào con đường dâm loạn.
b) Bảo vệ hạnh phúc gia đình. - không gì đau khổ,
đen tối hơn, khi một gia đình mà chồng hoặc vợ có dạ
riêng tư, tà vạy. Hạnh phúc đâu còn, khi chồng vợ không
tin nhau! Một khi gia đình lâm vào cảnh ấy, thì con cái
sẽ xấu hổ, bê tha, côi cút, bà con không đoái hoài đến,
sự nghiệp tan tành, làng xóm chê bai, danh giá hoen ố.
Ðiều kiện thiết yếu để giũ gìn hạnh phúc gia đình chính
là lòng chung thuỷ của hai vợ chồng. Người ta bảo:
"Thuận vợ thuận chồng, tác bể Ðông cũng cạn". Vì sự tà
dâm của một trong hai người bạn đường mà trong gia đình
thường xảy ra những vụ ghen tương, cãi vã, đánh đập có
khi đến gây án mạng. Có khi, để trả thù, người ta thường
thấy xảy ra cái cảnh "Ông ăn chả, bà ăn nem". Một người
chồng để tâm dòm ngó vợ người, thì chính vợ con họ cũng
lăm le vạch rào sang nhà kẻ khác rồi. Họ phá hạnh phúc
gia đình ngưởi, thì chính hạnh phúc gia đình họ cũng đã
tan rã trước.
Cho nên cấm tà dâm là một điều kiện cần thiết để xây
dựng hạnh phúc cho gia đình mình và gia đình người.
c) Tránh oán thù và quả báo xấu xa. - Phật dạy:
"Người ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốt đi ngược gió,
quyết bị nạn cháy tay" (Kinh Tứ Thập Nhị chương). Thật
vậy, người ta có tâm xấu xa đắm mê sắc dục, không sớm
thì chầy quyết bị hại: nếu không tan nhà mất nước, thì
cũng gãy chân mất mạng bỡi mũi súng, ngọn gươm. Xưa nay
những kết qủa thảm khốc đen tối do sự đắm mê sắc dục gây
ra không thiếu gì; chúng ta chỉ cần dở những chồng sách
lịch sử hay chồng bao hằng ngày, sẽ thấy nhan nhản trong
mỗi trang, mỗi đoạn. Trong các sự oán thù, không có sự
oán thù nào mãnh liệt bằng sự oán thù do sự lừa dối phụ
rẫy về tình ái gây ra. các cuộc án mạng xảy ra hằng
ngày, phần lớn là kết qủa của tà dâm.
Lợi ích của sự không tà dâm.Vì thế nên sự giữ giới cấm
tà dâm sẽ có những lợi ích sau đây:
a) Về phương diện cá nhân.
- Kinh ThậpThiện nói:"Người thế gian không tà hạnh thì
được hưởng bốn điều lợi sau:
- Sáu căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được vẹn
toàn.
- Trọn đời được người kính trọng.
- Ðoạn trừ được hết cả phiền lụy khuấy nhiễu.
- Cuộc tình duyên trọn đời không ai dám xâm phạm."
b) Về phương diện đoàn thể.
- Trong một xã hội mà ai cũng không tà hạnh, thì gia
đình được yên vui hạnh phúc, những sự thương luân bại lý
sẽ tiêu tan, những cảnh thù hiềm, chém giết sẽ không xảy
ra nữa; con cái được mạnh khẻo, nâng niu, xã hội
sẽ cường thịnh. Nói tóm lại, cõi Ta bà ô trọc, đau khổ
này sẽ biến thành thế giới thanh tịnh, an vui.
4. - Không được nói sai sự thật. Nói sai
sự thật có bốn cách: Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai
chiều, nói lời hung ác.
a) Nói dối hay nói láo, là không nói thật, chuyện
có nói không, chuyện không nói có, việc phải nói trái,
việc trái nói phải; điều nghe nói không nghe, điều không
nghe nói nghe; hoặc giả trước mặt khen dồi, sau lưng chê
mạc; hay là khi ưa thì nói dịu ngọt thơm tho, khi ghét
lại đắng cay chua chát. Tóm lại, ý nghĩ lời nói việc làm
trước sau mâu thuẫn, trên dưới khác nhau, trong ngoài
bất nhứt, đều thuộc về nói dối cả.
b) Nói thêu dệt, là việc ít xít cho nhiều, làm
cho người nghe nổi sân hận; là trau tria lời nói, chuốt
ngót giọng hay, lên hơi xuống giọng cho êm tai mát dạ để
cám dỗ người nghe, làm cho người say mê đắm nhiễm; cũng
có khi là nói biếm, nói bâm, nói châm, nói chích làm cho
người nghe phải khổ sở. Tóm lại, bao nhiêu lời nói không
đúng nghĩa chân thật, thêm bớt cho đến văn chương phù
phiếm, bóng bẩy làm cho kẻ nghe phải loạn tâm, sanh
phiền não, đều gọi là nói thêu dệt cả.
c) Nói lưỡi hai chiều, hay nôm na hơn, là nói
"đòn xóc nhọn hai đầu", nghĩa là đến chỗ này thì nói hùa
với bên này để nói xấu bên kia, đến bên kia thì nói hùa
bên ấy để nói xấu bên này, làm cho bạn bè đang thân nhau
trở lại chống nhau, kẻ ân, người nghĩa chống đối, oán
thù nhau.
d) Nói lời hung ác, là nói những tiếng thô tục
cộc cằn chửi rủa, làm cho người nghe phải đau khổ, buồn
rầu, sợ hãi.
Vì sao Phật cấm nói sai sự thật? Phật cấm nói sai
sự thật vì những lý do sau đây:
a) Tôn trọng sự thật. - Ðạo Phật là Ðạo như thật;
người tu theo Ðạo Phật phải tôn trọng sự thật. Người
quen với dối trá, không thiết tìm sự thật thì khó có thể
chứng qủa được. Chúng ta đang sống trong vọng tưởng,
công việc chính của người tu hành là cố gắng phá tan
vọng tưởng ấy để thấy được bản nguyện; nếu không làm
được như thế mà trái lại còn chồng chất thêm cái vọng
tưởng ấy với những sự dối trá lừa phỉnh nữa, thì thật là
trái đạo.
b) Nuôi dưỡng lòng từ bi. - Cái động lực chính
của sự dối trá là lòng ích kỷ, ác độc, muốn hại người để
thỏa lòng dục vọng đen tối của mình. Người bị lừa dối,
phỉnh gạc phải đau khổ vì mình, có khi phải mắt thù vươn
oán, có khi phải tan gia bại sản. Người tu hành mà làm
như thế là đã tán tận lương tâm, đã bóp chết tình thương
trong lòng họ rồi. Một khi lòng từ bi không có nữa,
nghĩa là cái động lực chính đã mất, thì sự tu hành chỉ
còn là giả dối, lừa bịp người, và tất nhiên không bao
giờ có kết qủa
tốt.
c) Bảo tồn sự trung tín trong xã hội. - Trong một
gia đình, một đoàn thể, một xã hội mà không ai tin ai,
thì mọi công cuộc từ nhỏ đến lớn đều thất bại. Trong đạo
Nho, một trong 5 đức tính căn bản là lòng tin. "Nhơn vô
tín bất lập", đó là lời dạy của Khổng Tử, Hạnh phúc gia
đình và xã hội không thể có được trong sự dối trá. nghi
ngờ, đố kĩ.
d) Tránh nghiệp báo khổ đau. - lời nói tuy không
phải là lưỡi kiếm, nhưng nó nguy hiểm hơn lưỡi kiếm, vì
nó có hai mũi ngọn, một mũi đâm vào người khác, một mũi
đâm vào chính người xử dụng nó. Ai ai cũng chắc chưa
quên câu chuyện thằng bé chăn cừu muốn đánh lừa hàng
xóm, bằng cách la "Lửa! Lửa!", nhưng nó chỉ phỉnh người
được một lần, lần sau nhà nó cháy thật, mặc dù nó kêu la
thảm thiết cũng không ai thèm đến chữa nữa. Ðấy, người
dối trá chỉ gây họa cho mình. Do đó, Phật dạy: "Phàm kẻ
ở đời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ chém mình
là do lời nói ác". Ðã đành nói ly gián, nói xuyên tạc là
để hại người, nhưng khi đã làm hại người thì thế nào
người cũng hại lại mình. "Ác lai ác báo" là thế. Ðể
tránh sự thù hằn, tránh nghiệp dữ, chúng ta không nên
dối trá, điêu ngoa.
Lợi ích của sự không dối trá:
a) Về phương diện cá nhân. - Ðược người trọng nể,
tin cậy, không ai oán hận thù hiềm; đi đâu cũng được
người chung quanh dành cho một địa vị thân tín, niềm nỡ
tiếp đón. Trong nghề nghiệp làm ăn, người chân thật được
nhiều thân chủ, và được giao phó cho nhiều trọng trách
quý báu.
b) Về phương diện đoàn thể. - Gia đình và xã hội
được đoàn kết trong sự tin cậy. Mọi công cuộc chung,
được xúc tiến có kết qủa tốt.Ðồng bào thương yêu, thông
cảm nhau hơn.
Hạn chế: Nói dối là một tai họa lớn lao, cho mình và xã
hội. Tuy nhiên, cũng có vài trường hợp nên nói dối. Ðó
là khi nào vì lòng từ bi mà phải nói dối để cứu người
hay vật. Nói dối phạm tội là trong trường hợp do lòng
tham, sân làm động cơ thúc đẩy . Ngược lại, nếu do lòng
từ bi thúc đẩy mà phải nói dối, thì không phạm tội.
5. - Không được uống rượu. Tất cả những
thứ có chất men làm say người, hay chấc độc hại người
đều không được uống. Chính mình không uống đã đành, mà
cũng không được ép nài người khác uống. Ép nài, khuyến
khích người khác uống, tội lại nặng hơn cả chính mình
uống nữa. Lúc lâm bịnh nặng, uống các thứ thuốc không
lành, lương y bảo phải dùng rượu hòa vào thuốc, thì tạm
được dùng. Nhưng trước khi dùng phải bạch cho chúng Tăng
biết. Khi hết bịnh, không được tiếp tục uống thuốc có
hòa rượu ấy nữa.
Vì những lý do gì Phật cấm uống rượu? - Phật cấm
uống rượu vì những lý do sau đây:
a) Bảo toàn hạt giống trí tuệ. - Rượu còn nguy
hiểm hơn thuốc độc. Một ché thuốc độc ta uống vào chết
ngay, nhưng chỉ chết một thân hiện tại, chứ rượu uống
vào, làm mất giống trí tuệ, phải chết đi sống lại vô số
kiếp. Vì thế để bảo toàn hạt giống trí tuệ quý báu, Phật
cấm uống rượu.
b) Ngăn ngừa những nguyên nhân sanh ra tội lỗi. -
Rượu chính nó không phải là một tội lỗi như sát sanh,
trộm cướp, tà dâm, nhưng nó có thể làm nhân cho những
tội lỗi kia sanh ra. Khi đã uống rượu vào say sưa, thì
tội nào cũng có thể phạm được. Dưới đây là một câu
chuyện để chứng minh đìều đó: - Một anh nông phu kia
đang cày ruộng giữa đồng, bỗng thấy hiện ra sừng sững
trước mặt mình một hung thần to lớn, kỳ dị, hăm giết
anh. Anh kinh sợ, khóc lóc xin tha mạng. Vị hung thần
bảo:
- Nếu ngươi làm một trong ba việc này thì ta tha chết
cho: hoặc là giết cha ngươi, hoặc là đánh mẹ ngươi hay
uống hết lít rượu để trên bàn nhà ngươi.
Anh nông dân suy nghĩ mộ hồi rồi trả lời:
- Xin Ngài cho con được uống lít rượu.
Hung thần nghe xong có vẻ hài lòng rồi biến mất. Trưa
hôm ấy, anh nông dân về nhà, thấy lít rượu mà ông thân
mua để đãi khách, vì nhà sắp có giỗ, anh ta vội vàng
chụp lấy, nốc cạn một hơi. Cha anh thấy đứa con hỗn láo,
nắm gậy xông lại đánh mắng con. Ma men đã thấm, anh ta
không còn biết phải trái, giựt gậy của cha, đánh ông một
cây chết tốt! Bà mẹ chạy đến ôm con la làng. Anh ta chưa
hả giận, đánh mẹ túi bụi. Xóm làng chạy lại bắt anh dẫn
lên quan vì tội giết cha đánh mẹ. Tỉnh lại anh mới biết
uống rượu là tội nặng nhứt trong ba diều mà hung thần
bắt anh làm.
Tóm lại rượu gây ra nhiều tội lỗi. Sau đây là 10 tai hại
của rượu mà trong Kinh đã nói đến: 1 - Của cải rơi mất;
2 - Tăng trưởng lòng giết hại; 3 - Trí tuệ kém dần; 4 -
Sự nghiệp chẳng thành; 5 - Thân tâm nhiều khổ; 6 - Thân
hay tật bịnh; 7 - Tâm sân hận bồng bột, ưa cãi lẫy; 8 -
Phước đức tiêu mòn; 9 - Tuổi thọ giảm bớt; 10 - Mạng
chung đọa vào địa ngục.
Lợi Ích Của Sự Cấm Uống rượu
a) Về phương diện cá nhân. - Người không uống rượu thì
tránh được 10 điều hại vừa kể trên.
b) Về phương diện đoàn thể. - Gia đình được yên vui, con
cái ít tật bịnh, xã hội được hòa mục, nòi giống được
hùng cường.
C. - Kết Luận
1. - Phật tử không giữ giới không phải là Phật tử. -
Chúng ta đã thấy công dụng thiết thực và lợi ích của 5
giới về phương diện cá nhân và đoàn thể. Nếu Tam Quy là
nền tảng, thì ngũ giới là 5 nấc thang của người Phật tử
tại gia để bước dần lên Thánh qủa. Trong bước đầu, người
Phật tử nếu có thể phát nguyện giữ cả năm giới thì càng
tốt; nếu vì nhiều sự ràng buộc chưa thể giữ được cả năm
giới thì có giữ vài giới mà mình thấy có thể thực hành
được, như: Không uống rượu, không nói dối. Rồi với sự
tinh tấn và Bồ đề tâm dũng mãnh , ta tiếp tục phát
nguyện giữ thêm những giới khác như không trộm cắp,
không tà dâm... Nhưng đã phát nguyện giữ giới nào thì
giữ cho trung kiên, đừng có một bước tiến tới, hai bước
thoái lui, dùng dằng như thế mãi thì không bao giờ đi
đến đâu cả. Nếu người Phật tử mà không giữ giới nào thì
sao gọi là Phật tử? Người thường, không theo Phật mà còn
giữ đúng tư cách như không uống rượu, không nói dối,
không trộm cắp thay, huống hồ là Phật tử? Ta đến với Ðạo
Phật là muốn vượt lên trên đời tầm thường của thế nhân.
Nếu chúng ta vào Ðạo rồi mà vẫn tiếp tục cuộc đời trôi
nổi cũ, hay còn tệ hơn cuộc đời thường của thế nhân, thì
đó là chúng ta muốn làm hoen ố Ðạo,
Cho nên người Phật tử phải cố gắng giữ giới để cho xứng
đáng với danh nghĩa của mình, để đem hạnh phúc đến cho
mình và chúng sanh.
2 Người không theo Ðạo Phật cũng nên giữ giới. - Năm
giới nói trên không có gì là cao siêu, huyền bí. Ðó là
một bài học công dân thông thường mà bất cứ một xã hội
nào, một quốc gia nào muốn phồn thịnh, hùng cường cũng
không thể bỏ sót được. Cho nên năm điều luật ấy không
phải chỉ để áp dụng riêng cho giới Phật tử, mà còn chung
cho tất cả những ai muốn sống một cuộc sống lành mạnh,
an vui, có lễ nghĩa và tiến bộ.
Một xã hội mà mọi phần tử đều thực hiện được năm giới
cấm ấy, thì đó là một xã hội gương mẫu, văn minh nhứt
thế giới.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 6
Sám Hối
A - Mở Ðề
Chúng ta sống trên đời này không ai là hoàn toàn trong
sạch. Phật thường dạy: "Phàm còn xuống lên ba cõi, lăn
lộn trong sáu đường, thì không một loài nào được hoàn
toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi".
Thật thế, cõi đời này đã được gọi là cõi trần, thì làm
sao trong sạch được? Người ta thường nói "ở bầu thì
tròn, ở ống thì dài"; vậy thì ở trong bụi tất phải lấm
bụi. Bụi đời đã lâu đời lâu kiếp phủ lên thân, lên đầu
chúng ta, vào trong buồng gan lá phổi của chúng ta. Nó
làm cho chúng ta mờ mắt không thấy được đường chánh; nó
làm cho chúng ta đục lòng, không thấy được chân tâm. Nếu
chúng ta muốn sống mãi trong cảnh bụi nhơ, muốn đắm mình
trong tội lỗi, thì không nói làm gì. Nhưng khi chúng ta
đã muốn được trong sạch thảnh thơi, muốn trút bỏ tội lỗi
cho lòng được nhẹ nhàng, thư thới, thì tất nhiên chúng
ta phải tìm phương pháp để trừ cho hết bụi bặm, tẩy trừ
cho hết tội lỗi. Trong Ðạo Phật, phương pháp tẩy trừ ấy
gọi là sám hối.
B.- Chánh Ðề
I.- Ðịnh Nghĩa:
Chữ "Sám", tiếng Phạn gọi là Samma; Tàu dịch là "Hối
quá". Kinh nói: "Sám giả sám kỳ tiền khiên, Hối giả hối
kỳ hậu quá". Nghĩa là, Sám là ăn năn lỗi trước, còn Hối
là chừa bỏ lỗi sau. Nếu dùng một chữ Sám hay một chữ Hối
không thì chưa đủ ý nghĩa, nên các Tổ xưa ghép hai chữ
lại thành danh từ "Sám hối", dịch theo tiếng Việt là "ăn
năn chừa lỗi". Như thế trong chữ Sám hối có hàm nghĩa ăn
năn, hối hận vì những lỗi lầm trong quá khứ, bất luận là
lâu mau, và bây giờ cho đến về sau, mình nguyện là không
tái phạm nữa. Nếu biết lỗi cũ là bậy, bây giờ mình xin
chuộc lỗi, mà sau nầy vẫn còn làm lại, thì không phải là
đúng nghĩa Sám hối trong Ðạo Phật.
II.- Các cách Sám Hối.
1.- Sám hối sai lầm.
Ðúng ra chữ Sám hối là danh từ riêng của Ðạo Phật. Khi
Sám hối mà gọi là sai lầm, thì không phải là Sám hối nữa
rồi. Nhưng để tiện việc diễn đạt, chúng ta hãy tạm dùng
hai chữ ấy để nói chung những cách chuộc tội ở thế gian
hay trong các đạo ngoài (ngoại đạo).
Người thế gian, khi có tội lỗi với ông bà, làng nước,
thường dùng trầu ruợu, hay heo gà, tiền bạc để tạ tội,
xin lỗi. Có khi người ta lại dùng hình thức "đoái công
chuộc tội", nhưng khi phạm tội với triều đình hay trong
quân ngũ chẳng hạn. Hình thức lấy công chuộc tội cũng có
chỗ hay, nhưng chưa hoàn hảo và còn thô thiển. Nó chỉ áp
dụng để đối phó với bên ngoài, chứ bên trong trường hợp
những tội lỗi xảy ra trong nội tâm của chúng ta, những
tội lỗi rất vi tế, rất sâu xa, thì khó có thể mà áp dụng
được hình thức nói trên.
Trong các ngoại đạo, người ta cũng có dùng nhiều hình
thức chuộc tội: như có đạo dùng máu thú vật để xin rửa
tội với thần linh; có đạo chủ trương xuống tắm ở những
sông, suối mà người ta cho là linh thiêng thì hết tội;
có đạo lại đem phẩm vật để xin Thánh Thần xả tội; có đạo
lại chủ trương khổ hạnh, ép xác như đánh đập thân mình,
nhịn đói khát, chịu nóng rét, nằm gai nếm mật để được
giải thoát tội lỗi. Những cách chuộc tội như thế đều sai
lầm hết. Tội lỗi thuộc về tâm lý, không có hình tướng.
Vậy thì làm sao có thể lấy vật chất như nước, máu huyết,
phẩm vật hay xác thân để làm sạch tội được.
2.- Sám hối chân chính.
Ðức Phật dạy rằng tội lỗi do tâm của người tạo ra, không
ai có quyền thưởng phạt được. Kẻ gieo giống xấu thì ăn
trái dở, người trồng giống quý thì hưởng quả ngon. Tội
lỗi đã từ tâm tạo, thì cũng phải từ tâm mà sám. Lời nói
thật rõ ràng, chí lý, hợp với thực nghiệm. Vậy chúng ta
muốn hết tội, phải y theo những pháp Sám hối chân chánh
của Ðạo phật mà thật hành. Trong Ðạo Phật, có 4 pháp sám
hối sau đây, có pháp thuộc về sự, có pháp thuộc về lý:
a) Tác pháp sám hối: Pháp sám hối này thuộc về sự, phải
lập giới đàn và thỉnh thanh tịnh Tăng chứng minh, nên
gọi là tác pháp. Khi vào giới tràng, mình phải thành
thật tỏ bày tội lỗi một cách thành khẩn, chí tâm ăn năn
và nguyện về sau không tái phạm nữa. Một lòng thành kính
sám hối như vậy, khi giới thể được thanh tịnh, tức là
hết tội.
b) Thủ tướng sám hối: Pháp nầy thuộc về sự, và khó hơn
pháp trước. Phật chế pháp này, là sám hối thuộc quán
tưởng, cho những người tu hành có trình độ cao, hoặc ở
chỗ không có Tăng, hay có, nhưng không được thanh tịnh.
Muốn tu pháp này, hành giả phải đến trước Tượng Phật hay
Bồ tát, thành tâm lễ bái, trình bày những tội lỗi đã
phạm, và nguyện ăn năn chừa bỏ. Làm như thế từ 1 ngày, 3
ngày, 7 ngày, 49 ngày, và mãi mãi đến khi nào thấy được
hảo tướng: như thấy hào quang, hoa sen báu, thấy Phật,
Bồ tát đến xoa đầu v.v... thì mới thôi.
c) Hồng danh sám hối: Pháp sám hối này cũng thuộc về sự,
do Ngài Bất Ðộng Pháp Sư đời nhà Tống bên Trung hoa soạn
ra. Ngài rút 53 danh hiệu Phật trong Kinh "Ngũ Thập Tam
Phật" tức là từ Ðức Phật Phổ Quang cho đến Ðức Phật Nhứt
Thế Pháp Tràng Mãn Vương, và rút 35 hiệu Phật trong Kinh
"Quán Dược Vương, Dược Thượng", với Pháp thân Ðức Phật
A-Di-Ðà, sau thêm vào kệ Phổ Hiền Ðại Nguyện, thành nghi
thức sám hối này, tổng cộng là 108 lạy, để ám chỉ trừ
108 phiền não. Nghi thức sám hối này, nếu ai chí thành
kính lễ, thì sẽ diệt trừ được những phiền não và tội lỗi
đã tạo, trong đời hiện tại cũng như nhiều đời quá khứ.
Ðức Phật Tỳ-Bà-Thi nói: "Nếu chúng
sanh nào nghe danh hiệu 53 vị Phật này, thì trăm ngàn ức
kiếp không đọa vào ba đường ác". Ðức Phật Thích
Ca nói: "Thuở xưa, đời Phật Diệu Quang, ta đi tu nhằm
đời mạt pháp, nhờ được nghe danh hiệu 53 vị Phật này, và
thành tâm lễ bái, mà tránh khỏi những đau khổ trong
đường sanh tử luân hồi nhiều kiếp". Còn 35 danh hiệu
Phật sau, từ Ðức Phật Thích Ca cho đến Ðức Phật
Bửu-Liên-Hoa Thiện-Trụ-Ta-La-Thọ Vương, thì trong Kinh
Bưủ-Tích nói: "Nếu tất cả chúng sanh, hoặc phạm tội ngũ
nghịch hay thập ác, đến muôn kiếp không thể sám hối, chỉ
xưng danh hiệu 35 vị Phật này và lễ bái, thì bao nhiêu
tội chướng đều tiêu trừ".
Hồng danh của Chư Phật có công đức không thể nghĩ bàn
như vậy, nên Ngài Bất Ðộng Pháp sư mới soạn ra để làm
nghi thức sám hối. Pháp hồng danh sám hối hiện nay, hầu
hết các chùa đều thực hành theo. Về sau Ngài Từ Vân Pháp
sư vì những người yếu đuối hoặc không quen lạy nhiều,
nên đã soạn ra một nghi thức sám hối, rất gọn dễ và đầy
đủ ý nghĩa, cũng gọi là pháp tiểu sám hối, để cho Phật
tử hằng ngày có thể sám hối tội lỗi của mình.
d) Vô-sanh sám hối: Pháp này thuộc về lý sám hối, rất
cao và khó, bực thượng căn mới có thể thực hành được
- QUÁN TÂM VÔ SANH: Nghĩa là quan sát tự tâm mình
hiện tiền không sanh. Như trong Kinh Kim-Cang nói: "Tâm
quá khứ không thể được, tâm hiện tại chẳng có, tâm vị
lai cũng không". Quán trong ba thời gian đều không có
tâm, thì vọng niệm không từ đâu mà có, nếu vọng niệm
không có, thì các tội lỗi cũng không. Kinh nói: "Tội từ
nơi tâm sanh mà cũng từ nơi tâm diệt. Nếu tâm này không
sanh, thì tội cũng chẳng còn, thế mới thật là sám hối".
- QUÁN PHÁP VÔ SANH: Nghĩa là quan sát thật tướng
(chơn tánh) của các pháp không sanh. Chữ "thật tướng",
nghĩa là cái tướng ấy không sanh không diệt, không hư
dối; từ xưa đến nay nó vẫn thường như thế, không bị thời
gian thay đổi, hay không gian chuyển dời, suốt xưa thấu
nay, nên gọi là thật tướng (Tướng chân thật). Nó cũng có
tên là chơn như hay chơn tâm... Khi nhận được thật tướng
rồi, thì các giả tướng đều không còn. Lúc bấy giờ những
tội lỗi (giả tướng) kia, không còn gá nương vào đâu mà
tồn tại. trong Kinh Quán Phổ Hiền có chép: "Muốn sám
hối, phải quán thật tướng của các pháp, thì tội mới hoàn
toàn tiêu diệt.
III .- Phát Triển Hạnh Lành mới Ðể Tiêu Trừ Tội Lỗi
Cũ
Làm lễ sám hối xong , phải phát triển những hạnh lành
cho nhiều, để tiêu trừ những tội lỗi cũ.
1.- Luận về tội lỗi thời gian đã qua. Những tội
lỗi xưa của chúng ta rất nhiều, có thể nói là vô số. Sự
sống của chúng ta tiếp nối liên lạc với nhau từ đời nọ
đến đời kia, như một xâu chuỗi dài vô tận. Rồi cứ trong
mỗi đời, từ sanh đến tử, từ tử đến sanh, chúng ta cứ tạo
thêm tội mãi. Từ cái tệ này bắt qua cái dở khác, rồi từ
cái lỗi nhỏ đi đến cái tội lớn, cái đà ấy cứ tăng tiến
mãi tạo thành một sức mạnh gọi là nghiệp lực, dắt dẫn
chúng ta vào đường khổ não, mê lầm, tức là dòng sanh tử
mà chúng ta đang thọ vậy. Trong Kinh Hoa Nghiêm Ðức Phổ
Hiền Bồ tát có nói: "Nếu tội lỗi
chúng sanh có hình tướng, thì tất cả hư không cũng không
chứa hết". Thật thế, tội lỗi của chúng sanh chất
chồng từ muôn vạn kiếp, và truyền nối qua thời gian, bỡi
di truyền, phong tục, thói quen v.v ... Chẳng hạn như
tánh tham, chúng ta mới sanh, nào có ai dạy cho chúng ta
đâu, thế mà chúng ta vẫn biết! Cũng không ai bảo chúng
ta giận hờn, vậy mà gặp điều gì trái ý, là chúng ta cau
có, ù la lối liền. Những tánh xấu ấy có một lần với thân
và rất sâu sắc, khó dứt trừ. Trong Kinh gọi chúng nó là
"câu sanh phiền não", hay "bổn hữu chủng tử", nghĩa là
những hạt giống có từ lâu. Những hạt giống xấu này lại
còn làm duyên sanh ra các tội lỗi khác, mà trong Kinh
luận gọi là "phân biệt phiền não" hay "thỉ khởi chủng
tử", nghĩa là hạt giống mới nhiễm do ảnh hưởng thời đại,
tập quán, phong tục chi phối. "Phân biệt phiền não thì
có thể dễ trừ, nhưng "câu sanh phiền não" rất khó trừ.
Chúng như cỏ cú, đâm sâu gốc rễ rất xa; nếu người làm
vườn khinh thường nó thì không dễ gì dọn đất sạch cỏ.
Cho nên chúng ta không nên sám hối lấy lệ, lấy có được!
Chúng ta phải làm sao cho:
a) Những tánh xấu kia yếu bớt dần dần, do sức mạnh
của lòng thành khẩn và chí cương quyết;
b) Rồi dứt tuyệt các tính xấu không cho chúng tái sanh.
Muốn dứt tuyệt chúng, mà nếu không có phương pháp thích
hợp, thì chẳng khác gì lấy đá đè cỏ: nó nằm bẹp tạm
thời, nhưng khi dời đá đi, nó sẽ mọc lên mạnh mẽ hơn
trước. Phương pháp thích hợp trong sự sám hối là: Phát
triển hạnh lành, để tiêu trừ tội lỗi cũ.
2.- Phát triển hạnh lành. Trong lòng mỗi chúng ta
không phải toàn chứa đựng những tánh xấu xa. Nếu tánh
xấu đã có từ muôn đời, thì tánh tốt cũng đã có từ vô
thỉ. Chúng ta mỗi người đều có Phật tánh là cái mầm của
muôn hạnh lành, cái mầm ấy đã bị chôn vùi dưới bao lớp
dục vọng, si mê. Bây giờ muốn tiêu trừ dục vọng thì
chúng ta phải tạo điều kiện, cho cái mầm Phật tánh trổ
lá, lên hoa, kết trái Bồ đề. Ðiều kiện làm cho mầm Bồ đề
phát triển là những hạnh lành như: Từ bi, Hỷ xả, Bố thí,
Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn v.v... Nếu chúng ta phát
triển những tính tốt ấy, tất nhiên những tánh xấu không
có đất để mọc lên nữa.
C.- Kết Luận:
Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, người thế gian hay
các tôn giáo đều có những cách thức ăn năn ngừa lỗi cả.
Song, chỉ có pháp sám hối của Ðạo Phật mới dứt trừ được
tội lỗi, do chỗ lấy sự cải ác, tùng thiện làm cốt yếu.
Trong bốn pháp sám hối của Ðạo Phật, có pháp về sự, có
pháp về lý, có pháp cao, có pháp thấp. Vậy phải tùy theo
căn cơ và hoàn cảnh của mỗi người mà áp dụng. Người
thượng căn, thì quán pháp vô sanh sám hối. Người không
gặp cảnh thuận tiện, không có giới đàn, không gặp cao
Tăng, thì dùng pháp thủ tướng sám hối. Người được cảnh
thuận tiện có giới đàn thanh tịnh, có cao Tăng Ðại đức
thì dùng pháp tác pháp sám hối. Còn thấy mình tội chướng
nặng nề, và thấy các pháp trên khó thực hành được, thì
cứ mỗi đêm, hay trong những bữa ăn chay và ngày sóc
vọng, tuỳ tiện đến chùa hay ở nhà chí tâm lạy Hồng Danh
sám hối, hoặc tiểu sám hối cũng tốt.
Trong các pháp sám hối của Ðạo Phật, mặc dù có lạy, có
quỳ, có lễ bái, nhưng không phải để cầu cạnh van xin
được tha tội đâu. Trong cái lạy, cái quỳ ấy, có chứa
không biết bao nhiêu ý nghĩa và ích lợi. Vẫn biết lạy và
quỳ, nhứt là trong pháp Hồng danh sám hối, thật là hao
hơi mệt xác, nhưng trong cái mệt xác thân, có cái vui
tinh thần, trong cái sự tướng bên ngoài có hàm cái ý
nghĩa bên trong. Thật vậy, tuy có lạy nhiều, niệm lâu,
nhưng vẫn không ra ngoài những mục đích sau:
1.- Tìm cách thiết thực làm cho tâm tánh con người
được trong sạch, hết sự lỗi lầm ở trong đời hiện tại, mà
cũng tiêu trừ những tội ác trong những đời quá khứ.
2.- Tìm cách phát triển những hạnh cao cả, noi theo
những gương mẫu sáng suốt của các bậc Thánh hiền.
Tóm lại, các pháp sám hối của Ðạo Phật, nếu thực hành
một cách đứng đắn, sẽ đem lại những kết quả quí báu sau
đây:
- Làm phát triển lòng thành thật.
- Trau dồi đức tánh cương quyết trong sự diệt trừ tánh
xấu.
- Dứt được tội, sanh phước.
- Mau thắng đến chỗ giải thoát an vui.
Nhờ pháp sám hối của Ðạo Phật, con người có thể cải hóa
lòng mình tốt đẹp hơn. Nhờ pháp sám hối, con người có
thể làm cho đời sống cá nhân được hạnh phúc, và đời sống
xã hội được hòa bình, an lạc.
Vậy ai là người muốn hết tội lỗi; ai là người muốn giải
thoát sanh tử luân hồi; ai là người yêu chuộng chân lý,
hãy cùng nhau nghiên cứu và thực hành các pháp sám hối
của Ðạo Phật cho kỹ lưỡng, để trước là cải thiện đời
sống cá nhân, sau là đời sống của giống hữu tình được
bớt đau khổ, và thêm an vui.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 7
Thờ Phật, Lạy Phật, Cúng Phật
A. Mở Ðề
Xưa nay, những bậc có công ơn lớn đối với Quốc gia, xã
hội đều được tôn sùng, nhưỡng mộ. Sự tôn sùng ngưỡng mộ
này do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là
lòng tri ân và sự mong muốn được noi theo gương sáng.
Tục ngữ có câu: "Ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây, uống
nước phải nhớ người đào giếng". Lòng tri ân là một đức
tính quí báu, mà những người có chút công bằng không thể
thiếu được. Một xã hội gồm những phần tử phi ân bội
nghĩa, ăn cháo đá bát, không có thể tồn tại được lâu
dài, vì nó làm chán nản những kẻ có lòng, và làm khô cạn
nguồn hy sinh. Vả lại, nếu con người thấy điều tốt,
người hiền mà chẳng hâm mộ, thấy điều xấu, người ác mà
không tránh xa, thì con người ấy là người thiếu căn bản
đạo đức, thiếu mầm thiện, khó có thể tiến bộ. Vì những
lý do trên, ta thấy trên thế giới, bất luận ở phương
trời nào, dân tộc nào, thời đại nào, hễ kẻ có công với
làng xóm, thì được làng xóm tôn thờ, kẻ có công với quốc
gia, dân tộc, thì được quốc gia, dân tộc tôn thờ, kẻ có
công đức với nhân loại, thì được nhân loại sùng thượng.
Sự thờ cúng trong các tôn giáo cũng không ra ngoài những
lý do đã kể trên. Nhưng ở các tôn giáo, sự thờ cúng có
tính cách thường trực và thiết tha hơn, vì các vị Giáo
chủ là những bậc có công ơn lớn đối với nhân loại và là
những gương sáng mà tín đồ cần đặt luôn luôn ở trước mắt
để soi sáng đời mình. Trong các vị Giáo chủ, thì Ðức
Phật là Vị được nhiều tín đồ sùng mộ nhất. Sự sùng mộ ở
đây biểu hiện trong sự thờ, lạy và cúng Phật.
B. Chánh Ðề
I.- Thờ Phật
1) Phật là bậc đáng tôn thờ. Phật là những bậc đã
dày công tu luyện phước đức và trí tuệ, cho nên đã được
hoàn toàn sáng suốt và có đầy đủ đức hạnh cao quý. Các
Ngài đã dùng đức và trí ấy để dẫn dắt chúng sanh ra
ngoài biển khổ luân hồi, và đưa đến địa vị sáng suốt an
vui. Trong công việc độ sanh ấy, các Ngài lại không bao
giờ thối chuyển ngã lòng mặc dù gặp trở lực khó khăn.
Các Ngái đã nguyện độ cho toàn thể chúng sanh, cho đến
khi nào không còn một chúng sanh nào để độ nữa mới thôi.
thật là đúng với câu: "Tự giác, giác tha, giác hạnh viên
mãn". Một bậc có đủ ba đức tính quý báu là Bi, Trí,
Dũng, ba đức tính căn bản mà một con người muốn được
toàn thiện, toàn mỹ, toàn chân, không thể thiếu được.
Một bậc siêu phàm xuất chúng, có những lời dạy quý báu,
những cử chỉ cao thượng, những hành động sáng suốt, một
đời sống gương mẫu như Phật, mà chúng ta không tôn thờ,
thì còn tôn thờ ai nữa?
2) Nhưng chúng ta phải thờ Phật như thế nào mới đúng
ý nghĩa. Như trên đã nói, chúng ta thờ Phật là để tỏ
lòng tri ân của chúng ta đối với một Vị đã có ân đức lớn
với nhân loại. Chúng ta thờ Phật là để có luôn luôn ở
trước mặt một gương mẫu sáng suốt trọn lành để khuôn rập
tư tưởng, lời nói và hành động của chúng ta được chân,
thiện, mỹ như Phật vậy. Người ta thường nói: "Gần mực
thì đen, gần đèn thì sáng". Chúng ta thờ Phật là muốn
luôn luôn được có bên mình ngọn đèn trí tuệ của Ngài,
cái hương từ bi của Ngài, để được sáng lây, thơm lây,
chứ không phải chúng ta có mục đích cầu cạnh Ngài để
Ngài ban phước, trừ họa, để Ngài che chở cho chúng ta
mua may bán đắt một cách bất lương, hay để chúng ta dựa
vào thế lực của Ngài, tha hồ làm những điều bất chính.
Nếu chúng ta thờ Ngài với mục đích sai lạc như vừa nói ở
trên, thì không những chúng ta đã phỉ bán Ðức Phật, mà
chúng ta còn tự tạo tư tưởng không tốt cho chúng ta nữa.
3) Phải thờ Ðức Phật nào? Ðức Phật nào cũng có
nghĩa vô lượng quang, vô lượng thọ bao la cùng khắp và
công đức tu hành phước trí vô lượng vô biên cả; nên hễ
thờ một Ðức Phật là thờ tất cả các Ðức Phật. Nhưng chúng
ta cũng nên tuỳ theo thời kỳ giáo hóa của mỗi Ðức Phật
và pháp môn tu hành mà thờ cho xứng lý, hợp cơ. Thí dụ
như hiện nay, chúng ta ở vào thời kỳ giáo hóa của Ðức
Phật Thích Ca Mâu Ni, thì lẽ cố nhiên, chúng ta phải thờ
Ngài trước hết. Nếu tín đồ nào tu về "Tịnh Ðộ Tông",
chuyên về pháp môn "Trì danh niệm Phật" để cầu vãng
sanh, thì tín đồ ấy phải thờ Ðức Phật A-Di-Ðà. Hoặc giả,
nếu Phật tử muốn thờ tất cả Phật trong ba đời, thì nên
thờ Ðức Phật Thích Ca, Ðức A-Di-Ðà, và Ðức Di-Lặc, gọi
là thờ "Tam Thế Phật".
4) Cách thức thờ Phật. Như vậy trong nhà tín đồ,
nếu muốn thờ tượng Phật, thì nhiều nhất là ba Vị. Và nên
nhớ rằng, trong khi thờ Tam Thế Phật, phải sắp đặc chung
một bàn. Nếu tượng lồng kiếng thì nên treo ngay thẳng,
không được cái cao, cái thấp, cũng không được cái to,
cái bé; còn như tượng gỗ, tượng đồng tượng sành, thì để
ngang hàng đồng bực, không nên để tùng trên, cấp dưới.
Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà, bàn thờ ông bà ở
phía dưới hoặc sau đúng câu: "Tiền Phật hậu Linh, hay
Thượng Phật hạ Linh". Nếu nhà lầu thì thờ Phật ở tầng
trên. Tại bàn thờ Phật không nên để tạp vật nào khác,
ngoài bình bông, lư hương,, chân đèn và dĩa quả. Những
vật này mỗi ngày đều chăm sóc lau quét sạch sẽ luôn. Lần
đầu tiên thỉnh Tượng Phật, tín đồ phải làm lễ thượng
tượng, cũng gọi là lễ an vị Phật. Lễ này không bắt buộc
phải tổ chức linh đình, chỉ nên làm một cách đơn giản,
nhưng không kém vẻ trang nghiêm và tinh khiết. Muốn được
hai đặc diểm ấy, chủ nhà phải dọn mình sạch sẽ: ăn chay,
giữ giới và mời thêm thiện hữu trí thức đến hộ niệm một
thời kinh. Và bắt đầu từ ngày làm lễ an vị Phật trở đi,
tất cả mọi người trong nhà, mỗi ngày ra vô trông thấy
tượng Phật, nên nghĩ nhớ đến đức hạnh cao cả của Ngài mà
chỉnh đốn lại thân tâm mình. Mỗi ngày đều lo cải thiện
lại sự cư xử với nhau, đối nội cũng như đối ngoại, phải
luôn luôn thấm nhuần tinh thần từ bi, bác ái và bình
đẳng. Như thế mới xứng đáng với danh nghĩa của một gia
đình có thờ Phật. Thờ phụng lâu năm, tượng Phật bi hư
rách, không thể sơn phết hay sửa chữa lại được, thì nên
thay đổi tượng mới. Khi có tượng mới rồi thì tượng cũ
phải dâng vào chùa chờ dịp nhập tháp, chớ không nên bạ
đâu bỏ đó, mà mang tội.
II.- Lạy Phật
1) Ý nghĩa lạy Phật.- Ngày xưa, khi Ðức Phật còn
tại thế, các đệ tử từ vua quan , đến dân chúng, mỗi lần
được may mắn gặp Ðức Phật Thích Ca, đều cuối xuống ôm
chân Phật và đặt trán mình lên chân Ngài để tỏ lòng
ngưỡng mộ, tôn thờ một bậc tối thượng: Bi, trí siêu
phàm. Cử chỉ ấy là một cử chỉ vô cùng khiêm tốn, nhu
thuận và hoàn toàn tin cậy đối với Ðức Phật. Sau khi
Phật nhập diệt, toàn thể tín đồ vẫn xem Ngài như còn tại
thế, và cái cử chỉ cuối xuống ôm chân Phật vẫn còn tiếp
nối tồn tại cho đến ngày nay và muôn ngàn năm sau. Cái
cử chỉ ấy chỉ có cái công dụng làm cho tínn đồ bao giờ
cũng hình dung như Ðức Phật còn ngồi trước mặt mình để
chứng giám cho tấm lòng thành kính thiết tha của mình.
2) Phải lạy Phật như thế nào mới đúng ý nghĩa.-
Ðể cho đúng với ý nghĩa trên, khi lạy Phật phải quỳ
xuống, ngửa hai bàn tay ra như đang nâng hai chân Phật
và cuối lưng xuống đặt trán mình trên hai lòng bàn tay.
Trước khi lạy Phật, phải dọn mình cho sạch sẽ: rửa mặt,
súc miệng, lau tay chân, thay y phục và mặc áo tràng.
Xong xuôi, mới đốt hương ra trước bàn Phật, đứng ngay
thẳng, tay chắp để trước ngực, mắt nhìn tượng Phật, tâm
tưởng đến các tướng tốt và những đức hạnh cao cả của
Ngài, và tỏ bày nguyện vọng chân chánh của mình, xá rồi
cắm hương vào lư, đánh tiêng chuông và lạy Phật ba lạy.
Lễ Phật như thế mới đúng pháp; trong kinh gọi là "thân
tâm cung kính lễ" , nghĩa là thân tâm hăng hái tề chỉnh,
nghiêm trang, tâm thì hớn hở vui mừng và hết lòng thành
kính như gặp được Phật còn tại thế. Trái lại, chúng ta
lễ Phật với lòng ngã mạng (ngã mạng lễ), hay với tâm cầu
danh (cầu danh lễ), thì đã không có kết quả gì, mà còn
mang thêm tội.
Ngã mạng lễ, là khi lạy Phật mà trong tâm còn ngạo nghễ,
kiêu căng, năm vóc (đầu, hai tay, hai chân) không sát
đất, đứng lên cuối xuống một cách cẩu thả, qua loa cho
có chuyện. Cầu danh lễ, là khi thấy có đông người thì
miệng liền to tiếng dài hơi xưng danh hiệu Phật, thân
lại siêng năng lạy không ngừng nghỉ, cố ý để cho mọi
người khen ngợi. Trái lại khi không có người thì thân
lại biếng nhác, tâm lại giải đãi, không muốn lễ bái gì
cả. Hai cách lễ ái trên đây rất giả dối, vậy những ai
muốn tiến trên đường Ðạo, thì phải nên tránh ngay.
3) Bốn phép lạy (thuộc về lý).- Về phương diện lý
thì có bốn phép lễ.
a) Phát trí thanh tịnh lễ.- Trong phép này, người
hành lễ phải thấu suốt rằng cảnh giới của Chư Phật đều
tùy tâm hiện bày, nên lạy một Ðức Phật, tức là lạy tất
cả Chư Phật, lạy một lạy, tức là lạy tất cả Pháp giới,
vì Pháp thân của Phật dung thông.
b) Biến nhập pháp giới lễ.- Trong pháp này, người
hành lễ phải tự quán thân, tâm cùng tất cả các pháp, từ
hồi nào đến giờ đều không rời pháp giới.
c) Chánh quán lễ.- Trong pháp này, người hành lễ
lạy Ðức Phật ngay nơi tự tâm của mình, chứ không duyên
với Ðức Phật nào khác, vì tất cả chúng sanh từ xưa đến
nay, đều sẵn có Phật tánh viên mãn, bình đẳng và chân
giác.
d) Thật tướng bình đẳng lễ.- Trong pháp lễ này,
người hành lễ không thấy có tự, có tha; người và mình là
một, phàm và Thánh nhứt như, thế và dụng không hai. Do
đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát có nói: "Năng lễ, sở lễ
tánh không tịch", nghĩa là người
lạy, và đấng mình lạy, thể tánh đều vẳng lặng. Như thế
mới thấu đáo và hợp lý Bát Nhã.
Bốn phép lễ này, lý cao khó nghĩ bàn, nếu chẳng phải bực
thượng căn, thượng trí, thì không thấu nổi và khó làm
theo được.
III.- Cúng Phật :
Là nói tắt, nói cho đủ nghĩa là cúng dường Tam Bảo:
Phật, Pháp, Tăng. Cúng dường có nghjĩa là cung cầp và
nuôi dưỡng.
1.- Ý nghĩa về cúng Phật.- Có người sẽ hỏi: Tại
sao Ðức Phật đã là bất sanh, bất diệt mà lại còn phải
cúng dường? Thật ra, Ðức Phật đã thoát ra ngoài vòng
sanh tử, thì đâu còn hạn cuộc trong sự ăn uống. Nhưng
đây chỉ là một hình thức để ngụ ý rằng, mặc dầu Phật đã
nhập diệt lâu rồi, nhưng đối với chúng ta, bao giờ cũng
xem như Ngài còn tại thế. Xưa, các đệ tử, các đàn na thí
chủ đã cúng dường Ngài như thế nào, nay chúng ta vẫn
tiếp tục cái cử chỉ ấy. Sự cúng dường này làm cho chúng
ta gần với Phật, có cảm tưởng như bao giờ cũng ở bên
cạnh Phật. Cũng nhơn sự thờ phụng, lễ bái cúng dường này
mà chúng ta được kết duyên lành với Phật, hình dung rõ
rệt cuộc đời của Ngài để quyết noi theo bước chân của
Ngài.
2.- Phải cúng Phật với những gì? (Về sự) .- Vẫn
biết rằng chúng ta nên cúng dường Phật để hình dung như
Ngài còn tại thế, nhưng nếu chúng ta, mỗi khi cúng Phật,
lại bày biện đủ thức ăn uống, nào yến tiệc cỗ bàn linh
đình thì thật là phí của, phí công mà lại còn làm sai
lạc ý nghĩa sâu xa của sự cúng Phật. Vậy muốn cúng Phật
đúng ý nghĩa thì chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa
tươi, trái tốt, nước trong và đôi khi thêm cơm trắng là
đủ.
3.- Năm món diệu hương để cúng Phật. Ðoạn trên là
nói về Sự, về hình tướng bên ngoài để cúng Phật. Còn về
phương diện Lý, thì phải dùng năm món diệu hương để cúng
Phật như sau:
a) Giới hương.- Pháp thân của Phật rất thanh
tịnh, nếu về mặt Sự, chúng ta đã dùng hương trầm đốt
cúng, thì về mặt Lý, chúng ta cũng phải trì giới cho
trang nghiêm thanh tịnh, để cúng dường được đủ cả về Sự
và Lý.
b) Ðịnh hương.- Thân tâm chúng ta bị mê nhiễm và
thường loạn động trong mọi hoàn cảnh. Nếu để buông trôi
mãi trong tình trạng ấy, thì chúng ta chẳng tu hành gì
được. Vậy hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây,
hằng sát na chúng ta phải cố gắng tập định tĩnh tâm hồn,
đừng để cho những ý nghĩ, hành động xấu xa xâm chiếm tâm
hồn và làm cho chúng ta phải loạn động. Làm cho tâm tư
lắng xuống, như thế là dùng Ðịnh hương cúng Phật.
c) Huệ hương.- Huệ hương cúng Phật là lúc nào
cũng phải lưu tâm vào ba món sáng tỏ: Văn huệ, Tư huệ,
và Tu huệ. Văn huệ là lắng nghe lời giáo hóa quý báu của
Chư Phật và Thánh Hiền Tăng, Tư huệ là đem những lời quý
báu nói trên ra suy xét, nghiền ngẫm, biết thế nào là
phải, thế nào là quấy, cái nào là chân thật, cái nào là
luống dối để khỏi lầm lạc vào đường tà; Tu huệ là quyết
tâm thực hành những điều mình cho là phải, trừ bỏ những
điều mình cho là trái, thực hiên đúng đắng giáo lý sáng
suốt của Ðức Phật.
d) Giải thoát hương.- Giải thoát hương cúng Phật
là quyết tâm phá trừ ngã chấp, nguồn gốc của bao sự đau
khổ luân hồi. Chúng ta phải luôn luôn quán vô ngã, không
nhận chiếc thân tứ đại này là mình, cũng không nhìn cái
nghiệp thức phân biệt là mình, để được thoát ly ra ngoài
vòng sanh tử luân hồi.
e) Giải thoát tri kiến hương.- Chúng ta đã biết
quán vô ngã, để phá trừ ngã chấp thì được giải thoát,
song vẫn còn "Pháp chấp" ràng buộc, nên chưa đến được
cảnh giới tự tại, vô ngại như Phật. Còn Pháp chấp nghĩa
là còn thấy các pháp như : đất, nước, gió, lửa là có
thật; còn thấy vui buồn sướng khổ là có thật. Khi nào
chúng ta thể nhận được rằng tứ đại sở dĩ in tuồng có
thật là vì chúng ta còn ở trong nghiệp người, chớ đối
với các loài khác, như cá chẳng hạn, thì nước đâu phải
là nước như chúng ta quan niệm, mà chính là lâu đài, nhà
cửa; đối với loài mọt, thì gỗ đâu phải như chúng ta quan
niệm, mà là những thức ăn và nhà ở. Cho đến vui, buồn,
sướng, khổ đều là đối đãi với nhau mà sanh ra. Vậy thì
Pháp cũng như Ngã, đều là giả dối, không có thật, mà chỉ
là những danh từ suông mà thôi. Luôn luôn, quán như thế,
để được giải thoát ra khỏi sự chấp Pháp, như thế gọi là
"Giải thoát tri kiến hương" cúng Phật.
4.- Cúng dường Pháp bảo: Pháp bảo là các Pháp của
Phật đã giảng dạy, để cho chúng sanh y theo đó mà tu
hành. Muốn cúng dường Pháp bảo, trước hết chúng ta phải
học Kinh, Luật, Luận và nghiên cứu giáo lý để nhận định
thế nào là Pháp bảo, là chánh giáo. Nếu chúng ta có học
thức rộng thì phải nghĩ đến việc phiên dịch các Kinh
điển Ngoại ngữ ra Việt ngữ để hoàn thành một bộ Tam Tạng
Việt Nam, chúng ta có thể giúp vào việc hoằng pháp lợi
sanh bằng sự diễn giảng hay sáng tác những vấn đề có
liên quan đến Phật pháp. Nếu chúng ta có tài chánh thì
nên xuất tiền ra ấn tống hay xuất bản Kinh điển để phổ
thông Pháp bảo. Những việc làm như trên đều là cúng
đường Pháp bảo cả.
5.- Cúng dường Tăng bảo: Nếu chúng ta đã thành
tâm thờ cúng Phật, thì tất nhiên chúng ta phải kính
trọng Tăng. Chư Tăng đã thay Phật mà truyền giáo lý của
Ngài lại cho chúng ta, lẽ nào chúng ta lại làm ngơ không
biết đến? Chúng ta không nên phân biệt Tăng ở xứ nào,
chùa nào hay phái nào. Vị Tăng nào có đủ giới đức chúng
ta cũng sẵn sàng cung phụng cả, như thế gọi là cúng
dường Tăng bảo.
C.- Kết Luận:
1.- Lợi ích của sự thờ lạy và cúng Phật. Như các
đoạn trên đã nói, chúng ta thờ lạy và cúng Phật là do
lòng tri ân sâu xa của chúng ta đối với bậc đã hy sinh
tất cả hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng sanh; Lý do thứ hai
của sự thờ lạy và cúng, ấy là để cho chúng ta luôn luôn
có trước mắt, trên đầu chúng ta, một cái gương mẫu hoàn
toàn chân, thiện, mỹ để noi theo. Sự thờ lạy và cúng
Phật, nếu thực hành một cách thành tâm, thiện chí và
đúng ý nghĩa, thì sẽ đem lại cho người rất nhiều lợi ích
trong hiện tại và vị lai:
a) Trong hiện tại: mỗi chúng ta và gia đình chúng
ta, bao giờ cũng như sống trong bầu không khí xán lạn,
trong ảnh hưởng tốt lành, đạo vị của Chư Phật. Chúng ta
luôn luôn sống trong nghiêm chỉnh, trong lễ nghi, trên
thuẫn dưới hòa, vì mỗi ý nghĩ, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói
của chúng ta đều được đôi mắt sáng suốt của Ðức Phật soi
xuống. Chúng ta không dám sống bừa bãi, làm xằng, nghĩ
quấy khi Ðức Phật đang ngự trị trong gia đình và trong
lòng mỗi chúng ta. Chỉ những tâm hồn trống rổng, không
tin tưởng, không tôn thờ một vị thiêng liêng cao cả nào,
mới dễ sa ngã, trụy lạc. Cho nên trong gia đình, nếu
muốn có hạnh phúc trong hiện tại, muốn sống một đời sống
có ý nghĩa, muốn con em đừng bê tha, trụy lạc, thì người
gia chủ nên thiết bàn Phật, để ngày ngày lễ bái và cúng
dường Ngài và tập cho con em sống một đời sống hiền
lương và có đạo vị.
b) Khi lâm chung: Nghiệp lành mà chúng ta đã huân
tập trong hằng ngày sẽ cảm ứng đến lòng từ bi vô hạn của
Chư Phật và Bồ tát. Do "Luật đồng thanh tương ứng, đồng
khí tương cầu", Chư Phật và Bồ tát sẽ phóng quang đến
tiếp dẫn giác linh chúng ta về cõi Tịnh độ an vui, tự
tại.
2.- Khuyên phát tâm chánh tín trong sự thờ, lạy và
cúng Phật, Pháp, Tăng. Muốn có được kết qủa tốt đẹp
như trên, chúng ta phải phát tâm chánh tín. Nếu thờ, lạy
và cúng dường Tam bảo một cách sai lạc thì không những
không ích lợi gì cho ta mà lại còn mang thêm tội, và
trôi lăn mãi trong cảnh sanh tử luân hồi. Chúng ta phải
tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng:
a) Ðức Phật là bậc hoàn toàn gíac ngộ, siêu sanh, thoát
tử, có năng lực độ thoát chúng sanh khỏi nẻo luân hồi,
và xứng đáng làm thầy chúng sanh trong ba cõi. Vì thế
nên chúng ta thờ Ngài.
b) Phật pháp là phương thuốc thần diệu, trừ được tất cả
nguyên nhân đau khổ của chúng sanh; vì thế cho nên chúng
ta thờ Phật pháp.
c) Chư Tăng, nếu có đủ giới hạnh thanh tịnh, là những
Thầy sáng, bạn lành của chúng ta. Vì thế, chúng ta kính
thờ, thân cận các Ngài để học hỏi đường lối tu hành.
d) Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sáng suốt, nếu chí
tâm tu tập theo Phật pháp, thì chắc chắn sẽ thành Phật.
e) Lý nhân quả không hề sai chạy, nếu tạo nhân lành thì
hưởng quả tốt. Trong các nhân lành, không có nhân lành
nào thù thắng hơn là nhân "Thờ Phật, lạy Phật, và cúng
dường Tam Bảo", đủ cả sự và lý. Vẫn biết thờ, lạy và
cúng phật đủ cả hai phương diện sự và lý là khó, nhưng
chung quanh chúng ta, ở trong thế giới này sẵn có vô
lượng vô biên kim cương Bồ tát và Hộ pháp thần vương,
đồng phát tâm giúp đỡ, hộ niệm cho tất cả những người
phát tâm chánh tín thờ cúng Phật, thì lo gì công của
chúng ta không tròn, qủa của chúng ta không mãn?
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 8
Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật
A.-
Mở đề
Người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng
chưa có thể gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần
thành còn phải tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Vả lại
nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ,
lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý được. Vì
phần Lý là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta
không tụng kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng
suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh
đìển, thì chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép
lạy thuộc về Lý là: Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập
pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng bình đẳng lễ và
5 món diệu hương để cúng Phật là: Giới hương, Ðịnh
hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến
hương. Và nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý và
cúng dường được 5 món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ
là phần "Sự" là phần hình thức, và vì thế, kẻ tín đồ khó
có thể tiến được trên đường Ðạo. Bỡi vậy, cùng một lần
với thờ, lạy và cúng Phật, chúng ta phải tụng kinh, trì
chú và niệm Phật. Ðó là những điểm căn bản tối thiểu mà
một Phật tử thuần thành không thể bỏ qua được.
B.- Chánh Ðề
I.- Ðịnh Nghĩa
1) Tụng kinh:
Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm diệu và thành
kính. Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời Ðức
Phật đã dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ
của chúng sanh.
2) Trì chú: Trì
là nắm giữ một cách chắc chắn. Chú là lời bí mật của Chư
Phật mà chỉ có Chư Phật mới hiểu được, chứ các hàng Bồ
tát cũng không hiểu thấu. Các bài chú đều có oai thần và
công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng,
tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi
là thần chú.
3) Niệm Phật:
Niệm là tưởng nhớ. Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu
Phật, hình dung
Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo
bước chân Ngài.
II.- Lý Do Phải Tụng
Kinh - Trì Chú - Niệm Phật
1) Vì sao phải tụng
kinh? Chúng ta sống trong cõi dục, cho nên lòng
dục vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho đến
trong giấc ngủ, cũng còn chiêm bao cãi lẩy, cười khóc,
vui buồn như lúc thức. Trong cảnh mê mờ đầy dục vọng ấy,
may thay, Ðức Phật vì đã thương xót chúng sanh mà truyền
dạy những lời vàng ngọc, có thể phá tan màng mây u ám
của vô minh và tội lỗi. Nhưng những lời lẽ cao siêu ấy,
chúng ta nghe qua một lần , hai lần cũng không thể hiểu
thấu và nhớ hết được. Cho nên chúng ta cần phải đọc đi
đọc lại mãi, để cho lý nghĩa thâm huyền được tỏa ra, và
ghi khắc trong thâm tâm chúng ta, không bao giờ quên
được. Ðó là lý do khiến chúng ta phải tụng kinh.
2) Vì sao phải trì chú?
Chú có công năng phi thường, nếu người thành tâm trì
chú, thì được nhiều hiệu lực không thể tưởng tượng.
Chẳng hạn thần chú "Bạc nhứt thế nghiệp chướng căn bổn
đắc sinh Tịnh độ Ðà la ni" có hiệu lực tiêu trừ được hết
gốc rễ nghiệp chướng, làm cho người được vãng sanh về
Tịnh độ. Thần chú "Tiêu tai kiết tường" có hiệu lực làm
cho tiêu trừ các hoạn nạn, tai chướng, được gặp những
điều lành. Thần chú "Lăng Nghiêm" thì phá trừ được những
ma chướng và nghiệp báo nặng nềv.v... Thần chú "Chuẩn
Ðề" trừ tà, diệt quỷ. Thần chú "Thất Phật diệt tội" có
công năng tiêu trừ tội chướng của chúng ta từ nhiều đời
nhiều kiếp v.v... Vì thế nên chúng ta phải trì chú.
3) Vì sao phải niệm
Phật? Tâm chúng ta bị vô minh làm mờ đục, chẳng
khác gì nước bị bùn nhơ làm ngầu đục. Muốn cho nước đục
kia hóa ra trong, không có phương pháp nào hay hơn là
gia một chút phèn vào, thì các chất dơ bẩn ngầu đục kia
dần dần lắng xuống, bấy giờ nước đục trở nên trong sạch.
Phương pháp niệm Phật cũng vậy, có công năng trừ phá các
vọng niệm đen tối ở nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm mê
muội, mờ ám trở nên sáng suốt, chẳng khác gì chất phèn
làm cho nước trở nên trong vậy.
Vì sao niệm Phật lại làm cho tâm mê muội trở nên trong
sáng ? Vì lý do rất dễ hiểu sau đây:
Tâm chúng ta rất điên đảo, không bao giờ dừng nghỉ. Kinh
thường nói: "Tâm viên, ý mã", nghĩa là "tâm" lăng xăng
như con vượn nhảy từ cành nầy qua cành khác, và "ý" như
con ngựa chạy lung tung luôn ngày suốt buổi. Làm sao cho
tâm ý chúng ta đừng nghĩ xằng bậy? Chỉ có một cách là
bắt nó nghĩ những điều tốt lành, hay đẹp. Niệm Phật
chính là nhớ nghĩ đến những Vị hoàn toàn tốt đẹp, những
hành động trong sáng, những đức tánh thuần lương. Càng
niệm Phật nhiều chừng nào, thì ít niệm ma chừng ấy. Ma ở
đây là tất cả những gì xấu xa đen tối, làm hại mình hại
người. Vì thế chúng ta nên luôn luôn niệm Phật.
III.- Phải Thường Tụng
Những Bộ kinh Nào, Trì Chú Gì Và Niệm Danh Hiệu Phật Nào
?
1.- Các kinh thường
tụng. Phàm là kinh Phật thì bộ nào tụng cũng được
cả, vì kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ
mê mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sanh, nếu
chúng ta chí thành đọc tụng. Nhưng vì căn cơ của chúng
ta không đến, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh nào
thích hợp với căn cơ và sở nguyện của chúng ta mà đọc
tụng.
Thông thường, các Phật tử Việt Nam, từ xuất gia cho đến
tại gia đều trì tụng những kinh như: Di-Ðà, Hồng Danh,
Vu-Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Ðịa Tạng, Kim Cang, Lăng
Nghiêm, Pháp Hoa v.v...
Nhiều người có quan niệm, chọn bộ kinh cho thích hợp với
mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng, như lúc:
- Cầu siêu thì tụng kinh Di-Ðà, Ðịa Tạng, Vu Lan v.v...;
- Cầu an thì tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư v.v...; - Cầu
tiêu tai giải bịnh thì tụng kinh Kim-Cang, Lăng-Nghiêm
v.v...; - Cầu sám hối thì tụng kinh Hồng-Danh.
Cái quan niệm lựa chọn như thế cũng có phần hay là làm
cho tâm chuyên nhất sẽ được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng
ta không nên quên rằng về mặt giáo lý cũng như về mặt
công đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu chí tâm trì
tụng, thì kết qủa cũng đều mỹ mãn như nhau cả.
2.- Các chú thường trì.
Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa trụng
khuya, trì chú Lăng Nghiêm, Ðại Bi, Thập chú hay Ngũ Bộ
chú v.v... còn ở nhà, phần nhiều cư sĩ trì chú Ðại Bi và
Thập chú, bỡi hai lẽ: một là thời giờ ít ỏi, vì còn phải
lo sinh sống cho gia đình; hai là chú Lăng Nghiêm đã
dài, lại thêm chữ âm vận, trắc trở khó đọc, khó thuộc.
Nhưng nếu cư sĩ nào có thể học hết các thần chú, trì
tụng được như chư Tăng thì càng tốt.
3.- Các hiệu Phật thường
niệm. Ðúc Phật nào cũng đủ cả 10 hiệu, đồng một
tâm toàn giác, từ bi vô lượng, phước trí vô biên, thương
chúng sanh vô cùng vô tận, nên chỉ niệm danh hiệu một
Ðức Phật nào cũng đều được cảm ứng đến tất cả Chư Phật,
công đức cũng đều vô lượng vô biên.
Nhưng đứng về phương diện trình độ và hoàn cảnh mà luận,
thì hiện nay, chúng ta là người ở thế giới Ta Bà, nhằm
quốc độ của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, lẽ cố
nhiên chúnng ta phải niệm danh hiệu của Ngài. Dụ như dân
chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến ơn nhà cầm
quyền chính trị sáng suốt ở trong nước đó.
Nếu Tín đồ nào tu theo pháp môn Tịnh Ðộ, thì thường ngày
phải niệm danh hiệu Ðức Phật A-Di-Ðà. Pháp môn này được
thành lập do lời dạy sau đây của Ðức Phật Thích Ca:
"Ở cõi thế giới Ta Bà này, đến thời kỳ mạc pháp, cách
Phật lâu xa, chỉ có pháp "Trì danh niệm Phật", cầu vãng
sanh về Tây phương cực lạc là quốc độ của Ðức Phật
A-Di-Ðà, thì dễ tu dễ chứng hơn hết". Ngoài ra,
cũng có người niệm danh hiệu Ðức Phật Di-Lặc, để cầu
sanh về cõi trời Ðâu Xuất; hoặc niệm danh hiệu Ðức Phật
Dược Sư, để cầu cho khỏi tật bịnh.
Tóm lại, tín đồ phải niệm đủ Tam thế Phật:
a) Niệm Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Ðức Phật hiện
tại, cũng là Ðức Phật Giáo chủ của chúng ta.
b) Niệm Ðức Phật A-Di-Ðà, là niệm Ðức Phật đã thành từ
quá khứ xa xưa, mà cũng là Ðức Phật tiếp dẫn chúng ta về
Cực Lạc.
c) Niệm Ðức Phật Di-Lặc, là niệm Ðức Phật vị lai.
IV.- Lợi Ích Của Sự Tụng
Kinh - Trì Chú - Niệm Phật
1.- Lợi ích của sự tụng
kinh. Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh điển
của Phật, đều toàn là những lời hiền lành, sáng suốt do
lòng từ bi và trí tuệ siêu phàm của Phật nói ra. Kinh
Phật, vì thế, có phần siêu việt hơn tất cả những lời lẽ
của thế gian. Nếu chúng ta chí tâm trì tụng, chắc chắn
sẽ được nhiều lợi ích cho mình, cho gia đình và những
người chung quanh:
a) CHO MÌNH: Lúc
tụng niệm, hành giả đem hết tâm trí chí thành đặt vào
văn kinh để khỏi sơ xuất, nên sáu căn: Mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý không còn móng lên mười điều ác nữa, mà
chỉ ghi nhớ những lời hay, lẽ phải.
b)CHO GIA ÐÌNH:
Trước khi sắp sửa tụng kinh, những người trong nhà đều
dứt các câu chuyện ngoài đời và khách hàng xóm đến ngồi
lê đôi mách cũng tự giải tán. Trong gia đình nhờ thế
được thanh tịnh, trang nghiêm, hòa thuận.
c)CHO NGƯỜI CHUNG QUANH:
Trong những lúc đêm thanh canh vắng, lời tụng kinh trầm
bỗng theo với tiềng mõ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga,
có thể đánh thức người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào
tai kẻ lạc lối những ý nghĩa thâm huyền, những lời
khuyên dạy bổ ích, chứa đựng trong kinh mà hành giả đang
tụng.
Như vậy rõ ràng tụng kinh chẳng những có lợi ích cho
mình, cho gia đình, mà còn cho những người chung quanh
nữa. Ðó là mới nói những điều ích lợi thông thường có
thể thấy được, ngoài ra tụng kinh còn có những điều lợi
ích, linh nghiệm lạ thường, không thể giải thích được,
ai tụng sẽ tự chứng nghiệm mà thôi.
2.- Lợi ích của sự trì
chú. Các thần chú tuy không thể giải nghĩa ra
được, nhưng người chí tâm thọ trì, sẽ được công hiệu
thật là kỳ diệu, khó có thể nghĩ bàn, như người uống
nước ấm, lạnh thì tự biết lấy. có thể nói: một câu thần
chú, thâu gồm hết một bộ kinh, vì vậy, hiệu lực của các
thần chú rất phi thường. Khi gặp tai nạn, nếu thực tâm
trì chú, thì mau được giải nguy. Như thuở xưa, Ngài
A-Nan mắc nạn, Ðức Phật liền nói thần chú Lăng Nghiêm,
sai ngài Văn Thù Sư Lợi đến cứu, thì Ngài A-Nan liền
được thoát nguy.
Ngày nay có nhiều trường hợp mà người thành tâm niệm chú
thấy được hiệu nghiệm rõ ràng. Theo lời Bác sĩ Thiện
Thành nói lại, thì vào năm 1946, giữa lúc loạn ly, BS ở
trong một vùng rừng sâu, núi hiểm tại Trung việt. Một
lần BS bị một chứng bịnh nan y, mặc dù lương dược Ðông,
Tây sẵn có trong tay, cũng không làm sao trị được. Bác
sĩ tưởng sẽ bỏ mình trong xóm người Sơn cước, không ngờ
lúc còn ở dưới mái nhà cha mẹ, thường đêm nghe thân phụ
trì chú "Công Ðức Bảo Sơn", BS liền đem thần chú ấy ra
áp dụng. Trong lúc ấy, các người nuôi bịnh cũng xúm lại
hộ niệm cho BS suốt đêm. Sáng hôm sau, quả thật BS lành
mạnh trở lại một cách dễ dàng, làm cho tất cả các bạn
đồng nghiệp đều ngạc nhiên.
3.- Lợi ích của sự niệm
Phật. Niệm Phật công đức lại còn to lớn hơn nữa,
vì một câu niệm Phật có thể gồm thâu cả 3 tạng kinh
điển, hết thảy thần chú, cùng là các pháp viên đốn, như
tham thiền, quán tưởng v.v...
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng: "Sau khi Phật nhập
diệt , về thời kỳ mạt pháp, đến kiếp hoại, các kinh sẽ
bị tiêu diệt hết, chỉ còn kinh Di-Ðà lưu truyền lại độ
trăm năm rồi cũng diệt luôn. Lúc bấy giờ chỉ còn một câu
niệm Phật gồm 6 chữ "Nam mô A-Di-Ðà Phật", mà đủ năng
lực đưa chúng sanh về cõi "Cực-Lạc".
Lời Phật nói không sai, bằng chứng là có nhiều nhân vật
chuyên trì một câu niệm Phật, mà biết được ngày giờ và
thấy được điềm lành trước khi vãng sanh. Như Tổ Huệ
Viễn, trong 10 năm niệm Phật, 3 lần thấy Ðức Di-Ðà rờ
đầu; trong hội Liên xã, có 123 người chuyên tu phép "Trì
danh niệm Phật", đều lần lược được Phật rước về cõi Tịnh
Ðộ. Gần đây ở Nam phần VN, vào năm 1940, có 3 vị sĩ quan
Pháp là Ðại úy Touffan, Trung úy Retourna, Thiếu úy
Brillant đồng lái một chiếc thuỷ phi cơ bay từ đảo Côn
Lôn về Sài gòn. Giữa đường, chiếc phi cơ hư, , rơi xuống
biển. Thiếu úy Brillant (người Pháp lai Việt) niệm Phật
cầu cứu. Chiếc thủy Phi cơ lửng thửng trên mặt biển suốt
3 giờ , mới gặp một chiếc tàu đánh cá của người Nhật đến
cứu. Khi 3 vị vừa bước sang tàu, thì chiếc phi cơ chìm
ngay xuống biển. Ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi nhau: Tai
sao khi nãy có 3 người ngồi nặng, phi cơ lại nổi, mà bây
giờ không có người nó lại chìm ngấm? Chỉ có thiếu úy
Brillant mới giải thích được sự lạ lùng ấy. Ông kể lại
cho mọi người nghe sự linh ứng của pháp niệm Phật mà ông
thường áp dụng, và lần nầy là lần thứ hai ông được thoát
nạn nhờ phép niệm Phật ấy. Ðại úy Touffan và trung úy
Retourna hết lòng tin tưởng, nên khi về đến Saigon, hai
vị sĩ quan ấy chung nhau một số tiền, cất một cái am đẹp
đẽ ở Cát lái, làng Thạnh Mỹ Lợi, tỉnh Gia Ðịnh để thờ
Phật gọi là tỏ lòng tri ân. Ðây chỉ là một câu chuyện
trong muôn ngàn câu chuyện về sự lợi ích của phép niệm
Phật.
C.- Kết Luận
Khuyên Phật Tử Tụng kinh Niệm Phật Và Trì Chú Cả Sự Lẫn
Lý Cho Được Viên Dung . Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là
3 phương pháp tu hành gồm đủ cả Sự và Lý. Dù tại gia hay
xuất gia, dù tiểu thừa hay Ðại thừa, tiêu cực hay tích
cực, không ai có thể rời 3 phương pháp nầy được. Bỡi
thế, Phật tử cần phải học tụng kinh, niệm Phật và trì
chú cho Sự,Lý đi đôi, lời nói và việc làm phù hợp, mới
có được kết quả tốt đẹp.
Ba pháp môn tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tuy không
đồng mà kết qủa đều thù thắng. Phật tử có thể tùy theo
trình độ, hoàn cảnh của mình mà tu một, hai hay cả ba
pháp ấy. Thí dụ như người biết chữ và mạnh khoẻ, công ăn
việc làm hằng ngày không bận rộn lắm, thì nên tụng kinh,
trì chú, niệm Phật đủ cả ba pháp môn. Còn người tuổi
gìa, sức yếu, mắt mờ, răng rụng, miệng lưỡi phều phào,
thân thể mỏi mệt, nếu tụng kinh , trì chú không nổi, thì
phải chuyên tâm niệm Phật, đi đứng nằm nồi, túc nào cũng
phải niệm Phật. Nhưng các Phật tử nên nhớ, khi miệng
tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông,
lần chuỗi, thì tâm trí phải gột rửa hết bao ý nghĩ bất
chính, những ham muốn đê hèn, và đạc vào dấy hình ảnh
của Ðấng Từ Bi. Rồi phải noi gương Ngài, mở lòng thương
rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát
nguyện đem sức mình ra, ban vui cứu khổ cho tất cả. Ðến
khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, thì phải
làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi
như tư tưởng và lời nói của mình vậy.
Người tụng kinh trì chú và niệm Phật, làm đúng như thế,
thì chắc chắn sẽ được chứng qủa Thánh không sai.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 9
Ăn Chay
Mở Ðề
Ăn Chay Là Một Phương Pháp Tu Hành Của Người Phật Tử
Vấn đề ăn uống là một vấn đề quan trọng đối với tất cả
mọi người, mọi chúng sanh. Nếu sống mà không cần ăn, thì
tất cả chúng sanh đều thành Thánh cả rồi. Ðức Phật Thích
Ca, khi còn là một vị Thái Tử, đã nói một câu đầy ý
nghĩa: "Sự sống sống bằng sự chết". Hãy nghĩ lại mà xem:
từ khi lọt lòng mẹ đến bây giờ, để được sống, mỗi chúng
ta đã làm chết bao nhiêu sinh vật rồi? Chúng ta ăn,
chúng ta uống, chúng ta thở, chúng ta nằm, chúng ta
đứng, chúng ta đi, mỗi mỗi động tác như thế, đều đã gây
bao tang tóc cho những sinh vật ở chung quanh chúng ta!
Ðó là chưa kể những kẻ hung ác, giết để được thích thú,
được tiền tài, danh vọng...Nếu sự sống mà không làm ai
chết cả, thì cuộc đời sẽ đẹp đẽ biết bao nhiêu ! Sự ước
ao này có thể thực hiện được một phần lớn, nếu chúng ta
áp dụng phương pháp ăn chay mà Phật đã chế ra.
Như thế, ăn chay đối với người Phật tử không phải là một
sự hiếu kỳ, một sự hiếu danh, một cách đổi món ăn cho
ngon miệng, một cách kiêng cữ theo lời dặn của bác sĩ.
Ăn chay chính là một phương pháp tu hành rất quan trọng,
mà người Phật tử thực hành được nhiều chừng nào thì được
nhiều kết quả tốt đẹp chừng ấy.
Chánh Ðề
Ðịnh Nghĩa
Ăn chay, hay ăn lạt, nghĩa là ăn những loài thảo mộc:
hoa quả, rau cải, không ăn những món ăn thuộc loài động
vật như thịt, cá, tôm, cua, sò, ốc những vật hữu tình,
biết tham sống sợ chết như người.
Lý Do Ăn Chay
1. Vì lòng từ bi và bình đẳng
Khi đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài A Nan hỏi Phật
rằng:
-Bạch Phật , tại sao trước kia, Phật cho các Ðệ tử ăn
ngũ tịnh nhục (Ngũ tịnh nhục là năm thứ thịt thanh tịnh:
a) Thịt ăn mà không thấy người giết. b) Thit ăn mà mình
không nghe tiếng con vật bị giết kêu. c) Thịt ăn mà mình
không nghi người ta giết cho mình. d) Thịt con thú tự
chết. đ) Thịt con thú khác ăn còn dư), mà nay Ngài lại
cấm tuyệt ăn thịt cá?
Phật trả lời Ngài A Nan: Vì trình độ các ông trong buổi
sơ cơ còn thấp kém, chưa có thể lãnh thọ giáo pháp Ðại
Thừa, thực hành đúng lý đặng, nên khi ta còn nói pháp
Tiểu Thừa, phương tiện cho các ông tạm dùng ngũ tịnh
nhục. Ðến nay trình độ các ông đã cao, lãnh thọ được
giáo pháp Ðại Thừa, nên ta cấm tuyệt ăn thịt cá. Còn ăn
thứ ấy, thì còn phạm giới sát sanh, nếu không trực tiếp
sát thì cũng gián tiếp sát, làm mất hạt giống từ bi bình
đẳng, không thể nào tu hành thành Phật được.
Lời Phật dạy đã rõ ràng: Ăn chay là cốt yếu để nuôi
dưỡng lòng từ bi và tinh thần bình đẳng.
Thật thế, Phật tử là người đã theo đạo từ bi, thì không
lý nào lại không thực hành đức từ bi trong đời sống của
mình từ ý nghĩ, lời nói, cho đến cách ăn uống.
Nếu chúng ta vì muốn ăn cho khoái khẩu, sướng bụng, mà
nhẫn tâm nhìn cảnh chặt đầu, lột da những con vật hiền
lành vô tội, nhẫn tâm bịt tai giả điếc trước những kêu
la thảm thiết của những con vật đang giẫy giụa trêm tấm
thớt, trên bàn thịt, thì sao được gọi là Phật tử.
Nếu không có một lòng thương xót trước những cảnh giết
chóc như thế, thì hạt giống từ bi mỗi ngày mỗi héo khô,
cằn cỗi, và công phu tu hành, tụng kinh niệm Phật của
chúng ta trở thành vô ích.
Ðạo Phật là đạo Từ Bi mà cũng là đạo Bình Ðẳng. Phật
dạy: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như nhau". Vậy
thì người Phật tử dưới tầm con mắt của mình, không nên
thấy Người và vật khác nhau, mà chỉ đồng một tri giác
bình đẳng, ẩn trong thân hình sai biệt. Nói rằng: "Vật
dưỡng nhơn" là một quan niệm rất sai lầm, do sự ích kỷ
và ngạo mạn của người sinh ra. Quan niệm ấy dung túng
cho người ta thẳng tay giết hại sanh vật, và tạo ra một
tình trạng bất bình đẳng, thì không bao giờ cõi đời có
thể yên ổn, hòa bình được.
2. Vì muốn tránh quả báu
luân hồi
Phật dạy: "Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, cứ tạo
nhân tội ác, sát hại ăn thịt lẫn nhau, nên bị ác quả, là
sanh tử luân hồi mãi trong sáu đường". Kinh Lăng Nghiêm
nói: "Hể giết một mạng thì hãy trả lại một mạng; tâm
giết hại chẳng dứt trừ, thì không thể nào ra khỏi trần
lao được." Vậy muốn tránh oan báo luân hồi, tránh các
điều tội lỗi thuộc về giới sát. Phật tử phải ăn chay.
Nếu ăn mặn hoài thì không thể nào hết nợ thân mạng và nợ
xương thịt, máu huyết được.
3. Vì hợp vê sinh
Không phải mới từ nay mà từ ngàn xưa, một triết gia, ông
Senèque, đã nói rằng: "Mỗi bữa ăn, người ta dùng thịt là
tự đầu độc, thành thử con người tự sát ngấm ngầm mà
không hay biết, do đó con người bị mạng yểu, chết sớm".
Thật thế, ngày nay những nhà y khoa bác sĩ trứ danh như
ông Soteyko, Varia Kiplami có nói: "Trong các thứ thịt,
có nhiều chất độc rất nguy hiểm cho sức khỏe con người".
Bằng chứng cụ thể là rau cải để lâu ngày thì héo khô,
hoặc ung bấy mà ít hôi; còn thịt cá để lâu ngày thì
sình, ương, hôi tanh không ai chịu nổi, và khi ăn vào,
ta thấy trong người rất nặng nề, mệt nhọc ,khó tiêu. Hơn
nữa, các loài thú vật, thường mắc bệnh này hay bệnh khác
như: bệnh lao, bệnh thương hàn, bệnh sán, sên v.v...,nếu
chúng ta ăn vào, sẽ vướng bệnh, rất nguy hiểm.
Ðể tránh những bệnh tật, và tăng sức khỏe, chúng ta nên
ăn nhiều rau cải. Các nhà khoa học, cũng như các nhà y
học Ðông, Tây đều công nhận đồ ăn chay là nhẹ nhàng,
thanh khiết, dễ tiêu hóa và có nhiều sinh tố rất bổ. Bởi
thế, ở nước Nhật có hội "Tổ Thực Chủ Nghĩa", ở Pháp,
Ðức, Anh, Mỹ đều có "Thảo Mộc Thực Hội".
Có nhiều người có thành kiến sai lầm rằng: ăn thịt cá,
mới có đủ sức mạnh. Thật ra, người ăn thịt không có sức
mạnh và sức chịu nhọc dẻo dai bằng người ăn chay trường.
Chính Giáo sư Irwin Fischer ở Ðại học đường Yale, sau
nhiều cuộc thí nghiệm, đã long trọng tuyên bố rằng:
Ăn thịt hay ăn những vật có nhiều chất đạm, sẽ làm cho
con người không đủ sức chịu nhọc, không khác nào như
người uống rượu.
Bà White, một bác học gia cũng đã tuyên bố rằng:
Các thứ hột, các thứ trái cây, đậu và rau cải là những
thức ăn mà thiên nhiên đã dành để nuôi chúng ta. Các
thức ăn ấy nấu nướng một cách giản dị, thì rất hợp vệ
sinh và rất bổ. Nó làm cho thân thể tráng kiện, tinh
thần sáng suốt và tránh biết bao nhiêu bệnh tật.
I. Cách Thức Ăn Chay
1. Chương trình ăn chay
Mặc dù sự ăn chay đối với người Phật tử là một điều cần
thiết, một phương pháp tu hành nhưng muốn được lợi ích
thiết thực, cần phải có phương pháp, và áp dụng một cách
tuần tự theo căn cơ và sở nguyện của mình. Trước tiên,
không phải người Phật tử nào cũng có thể bỏ hẳn ngay tập
quán ăn mặn của mình để ăn chay. Vì thế, trong đạo có
chia làm hai loại: ăn chay kỳ và ăn chay trường.
a) Ăn chay kỳ.
Ăn chay kỳ là ăn có kỳ hạn nhất định trong mỗi tháng hay
mỗi năm:
Nhị trai: Ăn 2 ngày chay trong mỗi tháng vào ngày mồng
một và rằm âm lịch.
Tứ trai: Ăn 4 ngày chay trong tháng: mồng một, mồng tám,
rằm và hăm ba.
Lục Trai: Ăn sáu ngày chay trong tháng là: mùng 8, 14,
15, 23, 29, 30. (tháng thiếu thì ăn ngày 28, 29.)
Thập trai: Ăn mười ngày chay trong tháng là: mồng một,
mồng tám, mồng bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm
tám, hăm chín và ba mươi (nếu tháng thiếu thì 27, 28,
29).
Nhất nguyệt trai: Là ăn một tháng chay vào tháng giêng
hay tháng bảy.
Tam nguyệt trai: Là ăn ba tháng chay: Tháng giêng, tháng
bảy và tháng chín (hay tháng mười); hoặc ăn liên tiếp
trong ba tháng.
Nếu tập ăn chay kỳ trong một thời gian mà không gặp một
phản ứng nào về thân, tâm và nhận thấy có lợi ích, thì
nên lần đến ăn chay trường.
b) Ăn chay trường.
Ăn chay trường hay trường trai là ăn toàn chay luôn
trong mỗi ngày, không gián đoạn cho đến hết đời.
Nếu mỗi ngày, phát tâm không ăn sau 12 giờ trưa, thì gọi
là ngọ trai.
2. Phương pháp thực hành
a) Chọn lựa thay đổi
thức ăn. Ðể ăn cho được lâu dài và không ngán,
chúng ta nên chọn những món ăn có nhiều sinh tố, bổ
dưỡng như: cà chua, rau muống, đậu nành, nấm rơm, cải
bắp, khoai tây, nếp lức v.v...và những món ăn cũng phải
thay đổi luôn
Vậy trong một bữa ăn, cần phải ăn những món gì để bữa ăn
có đầy đủ chất bổ và ngon miệng? Dưới đây là vài bữa ăn
kiểu mẫu:
Trái cây cùng ăn với cơm hay bắp, bột mì và rau, cải,
đậu phụng rang.
Sữa tươi cùng ăn với trái cây ngọt và cơm, bắp hay bột
mì.
Các món ăn chính nói trên là cần thiết, nhưng cũng cần
thêm gia vị như hột cải cay, tiêu ớt, giấm v.v...để giúp
bộ máy tiêu hóa làm việc dễ dàng. Nhưng nếu dùng gia vị
quá nhiều thành ra có hại, như làm cho bộ máy tiêu hóa
nóng, sinh bệnh hay làm kích thích cơ thể.
b) Cách nấu.
Thức ăn là cần thiết nhưng cách nấu cũng quan trọng;
chúng ta đừng có quan niệm sai lầm là đã ăn chay thì nấu
thế nào cũng được cả, không cần thiết là phải quan tâm
đến. Nếu thức ăn bổ mà không biết cách nấu, thì cũng làm
cho nó hết bổ, và có khi làm hại bộ máy tiêu hpá nữa.
Dưới đây là vài điều nên nhớ trong khi nấu ăn:
Không nên chiên xào nhiều quá, vì sinh tố B và C sẽ bị
dầu sôi tiêu diệt và các món có nhiều dầu làm cho bao tử
mệt.
Nên ăn đồ nướng, nhất là nướng không có thoa dầu.
Khi nấu hay luộc phải nên đậy nắp để sinh tố khỏi bị mất
và nên đổ ít nước để chất bổ khỏi loãng. Và nước luộc ấy
rất tốt, không nên đổ đi, vì nó chứa rất nhiêu chất bổ
và sinh tố.
c) Giảm thịt cá dần dần trong những ngày ăn mặn. Ðối với
những người ăn chay kỳ thì khi ăn mặn, nên mua những vật
người ta làm sẵn, hoặc làm giảm bớt số lượng thịt cá, ăn
nhiều rau cải, sữa, tạm dùng trứng gà, trứng vịt không
tượng con.
Khi đã tinh tấn về mặt tinh thần, không nên ăn trứng gà,
trứng vịt, vì trứng cũng là một sanh vật sắp nảy nở.
3. Những điều cần tránh
a) Không nên kiêu mạn. Người có phúc duyên ăn
chay được dễ dàng, không nên sanh lòng kiêu mạn, tự cho
mình là hơn người, và khinh người ăn mặn. làm như thế đã
sanh ác cảm với người mà lại còn làm tổn âm đức của mình
nữa.
b) không nên háo danh.
Có người mới bước vô đường đạo, đã ăn trường trai ngay,
cốt để người khác khen ngợi. Ăn chay như thế là do lòng
háo danh mà ra; hành động này không có lợi cho sự tu
hành mà lại còn có hại: khi không còn ai khen ngợi nữa,
thì không thấy hứng thú để tiếp tục ăn chay nữa.
c) Không nên ép xác.
Có người tưởng lầm rằng: ăn chay là để hành hạ thân xác,
nên cố ăn một cách cực khổ, như chỉ ăn ròng rã tương
rau, muối sả...từ năm này sang năm khác. Ăn như thế thì
sẽ hao mòn thân xác và chết yểu trước khi thành đạo.
d) Không nên giả mặn.
Có nhiều bà nội trợ muốn trổ tài khéo léo của mình bằng
cách nấu chay mà giả mặn, rồi đặt tên món ăn mặn, hay
làm ra những hình thức giống như đồ mặn. Thí dụ như: củ
hủ cao, củ hủ dừa kho mà gọi là cá tra kho; bắp chuối
luộc trộn giấm và rau răm, lại đặt tên thịt gà xé phay;
bí đao xắt mỏng cặp gắp nướng ăn với bánh hỏi mà lại đặt
tên là thịt bò lụi v.v....
Như thế, là đã vô tình xúi giục người ăn chay nghĩ đến
món mặn, miệng ăn rau dưa, mà lòng tưởng nhớ đến thịt
cá, làm trò cười cho thế gian.
đ) Không được quên ngày
chay. Không nên khinh thường quên những ngày chay
mà mình đã phát nguyện, dù gặp trường hợp bất thường như
đi lỡ đường, làm việc quá buổi, lúc đói quá mà không có
sẵn thức ăn chay.
e) Không nên dùng ngũ
vị tân. Ngũ vị tân là: hành, hẹ, tỏi, nén và hưng
cừ, không nên dùng, vì các thứ này đã hôi, lại có nhiều
chất kích thích lòng dục vọng.
IV.Lợi Ích Của Sự Ăn
Chay
1. Phương diện cá nhân
Những lới ích của sự ăn chay đối với cá nhân rất lớn
lao. Người ăn chay không những thâu hoạch được những lợi
ích trong hiện tiền mà cả trong đời sống tương lai nữa.
a) Trong hiện tại, người ăn chay được hưởng lợi
ích sau đây:
Tiết kiệm được tài chánh, vì đồ ăn chay rẻ hơn đồ ăn
mặn.
Tiết kiệm được ngày giờ và công lao nấu nướng, vì mướp,
dưa, bầu bí, khoai...cắt rửa mau và ít tốn nước; và kho,
luộc, nấu nướng lại mau chín, ít hao củi.
Thân thể được mạnh khỏe; tinh thần được nhẹ nhàng, trong
sạch; trí tuệ được minh mẫn dể tu thiền quán.
b) Trong đời sau, không chịu quả báu giết hại,
nên không phải trả nợ máu thịt, khỏi phải thường mạng.
Nếu trở lại làm người, thì được trường thọ.
2. Phương diện xã hội,
nhân loại, chúng sanh
Ăn chay không những có lợi ích cho cá nhân, mà còn cho
xã hội, nhân loại, chúng sanh nữa. Nếu ai ai cũng ăn
chay thì thế giới Ta Bà này làm gì có tiếng rên siết vì
chết oan của oài vật và tiếng than thở, đau đớn của
người vì nạn tương tàn, tương sát.
Một nhà Bác học có nói: "Muốn thế giới hòa bình, bắt đầu
trong bữa ăn con người phải không có một chút máu hay
một miếng thịt cá nào cả".
Câu nói đầy đạo đức này cũng đồng một ý nghĩa với câu
nói của Cổ nhân:
"Nhất thế chúng sanh vô
sát nghiệp,
Hà sầu thế giới động đao binh".
(Nếu tất cả chúng sanh không sát hại lẫn nhau, thì sợ gì
thế giới có giặc giã).
Người ăn chay là một chiến sĩ của Hòa bình. Thật vậy
người ăn chay, với một tâm từ bi vô lượng, coi muôn loài
là mình, mình là muôn loài, không giết hai sanh vật để
thỏa mãn dục vọng, không bao giờ nỡ tâm tàn sát đồng
loại để đạt mục đích lợi danh.
Nếu trong xã hội, ai ai cũng ăn chay, thì đâu có những
chuyện gây gỗ, đánh đập nhau, như chúng ta thường thấy
hằng ngày.
Nếu trong một nước, ai ai cũng ăn chay thì không có
chuyện mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, chém giết lẫn nhau
để thỏa lòng dục vọng.
Nếu trong thế giới, ai ai cũng ăn chay, thì thế giới này
là Cực lạc thế giới.
Kết Luận
Mọi Người Dù Phật Tử Hay Không Ðều Nên Ăn Chay
Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, xét về phương diện
khoa học hay Phật học, về phương diện cá nhân hay đoàn
thể, về hiện tại hay tương lai, sự ăn chay đều có rất
nhiều lợi ích.
Vì vậy, những người không phải là Phật tử , nếu muốn
thân thể được mạnh khỏe, tinh thần được khinh an, trí
tuệ được minh mẫn để học tập; nếu muốn tiết kiệm được
tài chánh, công lao, thời giờ, nếu muốn gia đình được
hòa thuận yên vui, thì hãy mau mau làm quen với những
thức ăn chay.
Còn những ai đã là Phật tử , đã nguyện theo bước chân
của đức Từ phụ, thì phải thực hành phép ăn chay, để lòng
Từ bi được mở rộng, tinh thần bình đẳng được lan xa, trí
tuệ được tỏ ngộ, đạo quả được chóng viên thành.
Vẫn biết, nói dễ mà làm khó; nhưng một người tiến bộ và
có thiện chí, khi đã thấy rõ những điều lợi ích, thì dù
khó bao nhiêu cũng quyết thực hành cho được. Sự thực
hành ấy không phải làm ngay trong một lần, mà phải tuần
tự tiến bước.
Nếu chúng ta biết áp dụng phép ăn chay đúng như những
cách thức đã nói ở trên, thì thiết tưởng không có gì là
khó lắm. Ðiều quan trọng nhất là chúng ta thật có thiện
chí hay không mà thôi.
▲
Trở Lên
|
Bài Thứ 10
Bát Quan Trai Giới
A. Mở Ðề
Ðức Phật Thích Ca nói pháp gần 50 năm, có đến 84.000
pháp môn, vô lượng diệu nghĩa. Mặc dù giáo pháp nhiều
như thế, nhưng không ngoài ba môn chính là "giới, định,
huệ".
Trong "giới, định, huệ", thì giới là phần quan trọng, là
phần căn bản. Nhờ giới, tâm mới định, tâm có định, huệ
mới phát sanh, huệ có phát sanh mới dứt trừ được vô minh
phiền não; vô minh phiền não có dứt trừ mới minh tâm
kiến tánh và thành Phật. Nhưng giới cũng có nhiều thứ:
có thứ cao, thứ thấp, có thứ áp dụng cho hàng xuất gia,
có thứ cho hàng tại gia. Trong hàng xuất gia, thì Sa di
chỉ giữ 10 giới, Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ kheo ni đến
348 giới. Về phía tại gia thì có Tam quy, Ngũ Giới, Bát
quan trai giới, Bồ Tát giới, Tam quy Ngũ Giới, thì chúng
ta đã học rồi; Bồ Tát giới thì khó khăn hơn, chúng ta sẽ
học sau. Bây giờ đây, chúng tôi chỉ nói đến Bát quan
trai giới.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Bát quan trai giới là một phép tu hành của người tại gia
áp dụng trong một ngày một đêm (24 giời).
Chữ "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. Chữ
"Trai", tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi đã qua giờ
ngọ (12 giờ trưa) không được ăn nữa. Vậy "Bát quan trai
giới" là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong
24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi sau
đây:
1. Không được sát sanh
2. Không được trộm cướp
3. Không được dâm dục
4. Không được nói dối
5. Không được uống rượu
6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem
múa hát.
7. Không được nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ
8. Không được ăn quá giờ ngọ
II. Giải Rõ Tám Ðiều
Ngăn Cấm Nói Trên
1. Không được sát sanh.
a) Ý nghĩa vì sao không được sát sanh:
Chúng sanh mặc dù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có
một điểm quan trọng giống nhau là tham sống, sợ chết,
biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa
xôi, ngay trong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng
nhận thấy: cá thấy người cá lội xa, chim thấy người chim
bay cao, cũng như người thấy cọp người lẩn trốn, vì đều
sợ lâm nguy đến tính mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay
người đều vùng vẫy để trốn thoát. Và khi được thả ra,
thoát chết, chao ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Nhận
thấy được sự tham sống sợ chết, nối vui mừng, đau xót
của muôn loại như thế, mà chúng ta còn đang tâm giết hại
sanh mạng, thì thật lạ nhẫn tâm, tàn ác vô cùng.
Từ trước đến nay, loài người đã giết hại rất nhiều, bằng
đủ phương tiện, nào làm lưới để bắt cá dưới nước, dùng
cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất...và nhất là
dùng đủ mưu mô kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau.
Về phía thiện, thì có nhiều người cũng thiện vô cùng;
nhưng về phía ác, thì cũng nhiều người ác vô cùng.
Chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người theo đạo Từ
bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừng sát hại sinh vật và
nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người, trong
Ngũ Giới Phật đã tuyệt đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã
phát nguyện giữ giới ấy. Nhưng về sinh vật, vì một số
Phật tử còn ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới
sát. Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta
hãy tuyệt đối giữ giới ấy. Chúng ta không giết người,
không trù tính mưu mô giết người, đã đành ! Chúng ta
cũng không nên động lòng trước sanh mạng của tất cả mọi
loài hữu hình. Hơn nữa, nếu thấy ai có ý giết hại sinh
vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn cản đừng cho người ta
thi hành ác ý ấy.
Ðược như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù
chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ lớn lao vô cùng
cho việc tu hành của chúng ta.
2. Không được trộm cướp.
Hai chữ trộm cướp ở đây có một ý nghĩa vô cùng. Những
vật thuộc quyền sở hữu của người ta, từ vàng, bạc, châu
báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ,
cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp.
Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi làm trễ giờ,
bóc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của
người không trả lại, đều là trộm cướp.
Người đời coi tiền của hơn tánh mạng, trèo non, lặn
suối, lo mưu này tính kế nọ để làm ra tiền nuôi thân và
gia đình, và để dành dụm phòng khi đau ốm, tai nạn. Nếu
rủi bị mất tiền của do mồ hôi nước mắt mà có, người ta
vô cùng đau khổ, tuyệt vọng có khi đến quyên sinh. Chúng
ta cũng đã có nhiều khi đau buồn vì mất của, thì xét
người khác cũng vậy. Chúng ta không muốn ai trộm cướp
của mình, thì tất nhiên mình cũng không nên trộm cướp
của ai. Ðó là lẽ công bằng rất giản dị. Huống chi chúng
ta là Phật tử , nghĩa là những người quyết tâm diệt trừ
tham dục, để được giải thoát, thì lẽ nào ta lại lấy của
phi nghĩa?
Trong cuộc đời tranh đấu hằng ngày để sống, có nhiều khi
chúng ta không giữ được một cách tuyệt đối giới cấm này,
chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đòi lương cho cao, bán
hàng xấu với giá cao, mưu tính chước này kế nọ để được
lợi nhiều một cách thiếu chính đáng...Có khi chúng ta
nhận thấy như thế là bất chính, nhưng tự bào chữa rằng
vì sự sống của gia đình, thân thuộc mà phải làm như thế.
Nhưng trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy
quyết không trộm cướp đã đành, mà cũng không được để cho
một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Chúng ta không
trộm cướp, không nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai trộm
cuớp hay nẩy ra ý trộm cướp thì chúng ta cũng khuyên can
họ, ngăn ngừa không cho họ làm bậy. Không những không
trộm cướp và ngăn ngừa sự trộm cướp mà thôi, chúng ta
còn bố thí cho những người nghèo khổ, thiếu ăn thiếu
mặc, tìm cách giúp đỡ những người thân thuộc, trong cảnh
túng thiếu.
Giữ được giới này một cách tuyệt đối, thì dù thời gian
ngắn ngủi trong 24 giờ đồng hồ, chúng ta cũng đã gieo
được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của chúng
ta.
3. Không được dâm dục.
Dâm dục là cái nghiệp nhơn sanh tử luân hồi, nên người
xuất gia phải đoạn hẳn. Phật dạy rằng: "Người muốn đoạn
trừ sanh tử, chứng quả Niết bàn mà không trừ hẳn dâm
dục, thì không khác kẻ nấu cát sạn mà muốn cho thành
cơm, dù ra công đem nấu, trải qua năm ngàn kiếp cũng
không thành cơm được".
Vậy những Phật tử xuất gia, muốn thành Phật quả thì phải
trừ dâm dục.
Còn những Phật tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoàn
trừ dâm dục được, thì Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là
ngoài vợ chồng, không được lan chạ; và giữa vợ chồng,
cũng cần phải giữ chánh lễ, biết tiết dục để cho thân
tâm được trong sạch nhẹ nhàng.
Nhưng đây là nói về ngày thường của Phật tử tại gia. Chứ
đến ngày thọ Bát quan trai giới, thì tuyệt đối phải giữ
giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục đã đành, mà
cũng không được nhớ nghĩ đến những điều dâm dục.
Nếu triệt để giữ đúng giới này, thì dù chỉ trong 24 giờ
đồng hồ, lợi ích cũng rộng lớn vô cùng, vì chúng ta đã
có dịp để gieo nhơn tịnh hạnh là một nhơn rất quý báu
trong sự tu hành diệt dục.
4. Không được nói dối.
Nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4
cách, mà chúng ta đã có học rồi trong bài Ngũ Giới. Ðó
là: nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều,
nói lời hung ác.
Chúng ta đã thấy, hằng ngày trong đời, tai hại của sự
nói dối. Tai hại lớn nhất là làm mất lòng tin cậy nhau.
Trong một gia đình mà không tin nhau, thì gia đình sẽ
tan nát; trong một xã hội mà không tin nhau, thì xã hội
sẽ điêu tàn.
Trong đời sống hằng ngày chúng ta chưa có thể hoàn toàn
giữ giới này được, thì trong ngày thọ Bát quan trai
giới, chúng ta hãy triệt để thực hành giới cấm này.
Chúng ta không nói sai, không nói thêu dệt, không nói
hai chiều, không nói lời hung ác đã đành; chúng ta lại
còn khuyên răn những người chung quanh giữ đúng giới
không nói láo ấy !
Nếu thực hành triệt để giới cấm này, thì dù chỉ trong
một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieo được một hột nhơn
quý báu rất hiếm có trong đời này là: lòng chân thật.
5. Không được uống rượu.
Rượu làm say mê, tối tăm trí não người uống. Nó còn nguy
hiểm hơn cả thuốc độc, vì thuốc độc uống vào chết ngay,
song chỉ giết chết một đời người thôi; chớ rượu làm cho
người cuồng tâm, mất trí, gây nên nhièu tội lỗi, chết đi
sanh lại, luân hồi nhiều kiếp trong tối tăm si ám.
Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy: "Thà uống nước đồng sôi
cho tan mất thân này, chứ không nên uống rượu".
Chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người đang trau dồi
Trí tuệ để được sáng suốt như Phật, chúng ta không được
uống rượu. Chúng ta không uống rượu đã đành, mà cũng
không khuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội
còn nhẹ, chớ khuyên mời người khác uống, tội lại nặng
hơn.
Song, trong lúc đau ốm, nếu lương y bảo phải có rượu hòa
với thuốc uống mới lành bệnh, thì chúng ta cũng được tạm
dùng, Khi đó rượu trở thành một vị thuốc, chứ không phải
là một vị làm cho trí não ta cuồng loạn nữa.
Ðấy là nói về ngày thường, chứ trong ngày thọ "Bát quan
trai giới", chúng ta phải trừ tuyệt rượu, không được
uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đứng uống
nữa.
6. Không được trang
điểm, thoa dầu thơm, múa hát và đi xem múa hát.
Năm giác quan: tai, mắt, mũi, lưỡi, thân là năm cửa ngõ,
có thể mở đường cho chúng ta đến cảnh giới Niết Bàn, hay
vào địa ngục. Nếu chúng ta biết mở năm cánh cửa ấy về
nẻo thanh tịnh, nghe những lời hay lẽ phải, thấy những
điều thiện, điều lành, ngửi những mùi thơm tinh khiết,
đạo vị, thì con đường đến Niết Bàn, giải thoát không xa.
Trái lại, nếu chúng ta hướng những cánh cửa giác quan ấy
vào cõi ô trọc, mở rộng chúng cho tội lỗi ùa vào, nào
nghe tiếng du dương luyến ái của dục vọng, thấy cảnh
trụy lạc, dâm ô, ngửi mùi vị say nồng, kích thích dục
lạc, thì con đường địa ngục đã sẵn sàng mở rộng để đón
chờ chúng ta.
Phật cấm Phật tử trang điểm, tô sơn trét phấn, xức ướp
dầu thơm, múa hat lả lơi, quyến rũ, hay cấm đi xem những
cảnh múa hát ấy, là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa vào
địa ngục.
Nhưng trong đời sống hằng ngày của người Phật tử tại
gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội, nên phải ăn
mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những
buổi hòa nhạc, hay múa hát, miễn là những thứ âm nhạc,
những điệu múa hát ấy có tánh cách trong sạch, xây dựng
và hướng thiện. Nhưng trong hiện tại, các thứ nghệ
thuật: kịch nhạc, ca, vũ, cải lương, chiếu bóng..phần
nhiều có tánh cách trụy lạc, thoái hóa, chúng ta nên đề
phòng, đừng quá dễ dãi mà sa vào vòng tội lỗi.
Trên đây là nói trong ngày thường, chứ ngày thọ giới Bát
quan trai, chúng ta nhất định không được trang điểm, xức
ướp dầu thơm, múa hát hay đi xem múa hát. Hơn nữa, chúng
ta phải cố gắng diệt trừ những âm hưởng, bóng dáng của
những thứ nghệ thuật không lành mạnh, trong đầu óc chúng
ta.
Ðược như thế, thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ,
ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng quý báu cho sự tu hành
của chúng ta.
7. Không được nằm ngồi
giường cao đẹp, rộng lớn.
Ðiều răn cấm này cũng như điều răn cấm thứ sáu, có mục
đích ngăn ngừa thân xác ta, không cho buông lung theo
những cảm giác mơn trớn khoái lạc của giường cao nệm
tốt, chăn ấm màn êm. Vì những cảm giác này có thể kích
thích lòng ham muốn bất chính của xác thân, tạo điều
kiện cho chúng ta gây tội lỗi, nên Phật chế ra giới cấm
này. Xưa Ngài Ngộ Ðạt Quốc sư là một bực cao đức, được
vua Ý Tôn và vua Hy Tôn hết sức ưu đãi. Vua Ý Tôn cúng
cho Ngài một bảo tọa bằng trầm hương rất quý báu. Từ khi
được bảo tọa ấy, Ngộ Ðạt Quốc Sư mống niệm danh lợi,
thành ra thất đức, phải chịu nhiều tai vạ và đau khổ.
Vì hiểu rõ cái tai hại của giường cao chiếu rộng, chăn
ấm nệm êm, nên xưa Ngài Hiếp Tôn Giả từ khi xuất gia,
lưng không nằm chiếu; Ngài Cao Phong Diệu thiền sư lập
nguyện: ba năm không nằm giường chõng; đức Phật Thích Ca
, trong khi xuất gia tìm đạo, đã gối cỏ nằm sương, từ
năm này sang năm khác...
Noi gương người xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một
cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ không bao giờ dùng
giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức
tánh giản dị đạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày
thường, thì ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải triệt
để thi hành giới thứ bảy này.
8. Không được ăn quá giờ
ngọ.
Trong luật Phật dạy: "Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ
ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn tối, chư Tăng
học theo Phật, phải ăn đúng giờ ngọ".
Ăn đúng giờ ngọ, được năm điều lợi sau đây:
Ít mống tâm sai quấy
Ít buồn ngủ
Dễ được nhất tâm
Ít hạ phong
Thân được yên ổn và ít sanh bệnh.
Trừ một vài trường hợp như khi đau ốm, luật cũng châm
chước cho được ăn cơm cháo sau giờ ngọ, nhưng khi ăn
phải sanh lòng hổ thẹn.
Vì những lợi ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia
cần phải thực hành. Còn Phật tử tại gia, khi tu Bát quan
trai giới cũng phải giữ đúng giới này.
C Kết Luận
1. Lợi ích của Bát quan trai giới rất lớn lao.
Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, Bát quan trai giới
là một phát tu vô cùng lợi ích cho Phật tử tại gia.
Trong thời gian tu hành ấy, thân, khẩu, ý của người thọ
giới được hoàn toàn thạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng
hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quý báu hơn cả một đời của người
không tu hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều vô
cùng. Nó chỉ là giọt nước, nhưng là một giọt nước trong
sạch hoàn toàn, cho nên nó còn quý hơn cả một ao nước
đục bùn nhơ, nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu, nhưng đó
là viên ngọc Ma ni, nên nó còn quý hơn trăm ngàn châu
báu khác.
Chúng ta hãy phân tích một cách rõ ràng những lợi ích mà
chúng ta đã thâu hoạch được trong 24 giờ ấy mà xem.
Nhờ giới thứ Nhất, tâm ta không có ác ý giết hại sanh
vật, miệng ta không nhai nuốt những máu huyết tanh hôi,
thân ta không nặng nề vì thịt cá. Ðối với chung quanh,
ta không làm cho người và súc vật đau khỏ, mất thân
mạng.
Nhờ giới thứ Hai, tâm ta không động, ý ta không tham
lam, thân ta không mang nặng những vật phi nghĩa. Ðối
với người chung quanh, ta không làm họ đau khổ vì mất
của cải mà họ đã nâng niu, quý trọng.
Nhờ giới thứ Ba, tâm ta được thanh tịnh, thân ta khỏi ô
uế. Ðối với người bạn trăm năm, cùng những người chung
quanh, ta giữ đúng lề, làm choi họ kính trọng.
Nhờ giới thứ Tư, tâm ta không tà vạy, lưỡi ta không dối
trá, điêu ngoa. Ðối với người chung quanh, ta giữ được
chữ tín, làm mọi người khỏi lo sợ, nghi ngờ vì ta.
Nhờ giới thứ Năm, tâm ta được minh mẫn, miệng ta không
nồng nặc hơi men, thân ta không loạn động. Ðối với người
chung quanh, ta không làm cho họ phải lo sợ, khổ sở vì
con ma men này hành hạ.
Nhờ giới thứ Sáu, tâm ta không buông luông theo dục lạc
ta không dung chứa những hình ảnh, mùi vị, âm thanh tà
tạp, dâm ô...Ðối với người chung quanh, ta không làm cho
họ phải tập nhiễm những cảm giác không trong sạch, không
thanh thoát.
Nhờ giới thứ Bảy, tâm ta không mống lên những niệm danh
lợi, xa hoa; thân ta không bị dục lạc lôi cuốn. Ðối với
người chung quanh, ta gần gũi, thân cận, vì không bị cái
cao sang, phù phiếm bên ngoài ngăn cách.
Nhờ giới thứ Tám, tâm ta được định tỉnh, sáng suốt, thân
ta nhẹ nhàng, ít bệnh tật; đối với các loài chung quanh,
như người nghèo đoí, ngạ quỷ, súc sinh, ta không gây ra
sự thèm khát, vì sự lục lạo ăn uống về đêm.
Bao nhiêu sự lợi ích cho mình và cho người mà chúng ta
đã thâu thập được trong khoảng 24 giờ đồng hồ, thử hỏi
có một pháp tu hành của người tại gia nào quý báu hơn
thế nữa?
2. Bởi vậy Phật tử nên
thực hành Bát quan trai giới.
Phật tử tại gia mặc dù suốt ngày suốt tháng bận bịu về
sinh kế làm ăn, mỗi tháng cũng nên sắp xếp việc nhà, vào
chùa thọ Bát quan trai giới một vài lần. Nếu hoàn cảnh
thuận lợi, có thể thọ được nhiều lần lại càng tốt.
Nếu không đủ điều kiện đến chùa, thì phương tiện của nhà
tu cũng được, nhưng lợi ích không bằng đến chùa.
Vậy xin khuyên các Phật tử tại gia, nên cố gắng thực
hành y như lời Phật dạy, tu theo hạnh giải thoát, rồi
khuyên nhiều người thật hành theo, để cùng nhau tiến
bước lên đường giải thoát, an vui.
▲ Trở Lên
|
▲ Trở Lên
|
|
mm |