A Di Đà Phật! Kính chào quư khách ghé thăm 

 

 
 

Mục Lục Khóa Thứ Hai
Thiên Thừa Phật Giáo


01 Bổn phận của Phật tử tại gia
02 Vu lan bồn
03 Vô thường
04 Thiểu dục và Tri túc
05 Nhân quả

06 Luân hồi
07 Thập thiện nghiệp
08 Tứ nhiếp pháp
09 Lục ḥa

10 Tịnh độ
11 Lược sử Đức Phật A Di Đà và 48 đại nguyện


Bài Thứ 1 
Bổn Phận Của Phật Tử Tại Gia

 
A. Mở Đề

 
1. Người đời ai cũng có bổn phận: 
Người ta sanh ra trên hoàn vũ này, ai cũng có bổn phận. Nói một cách tổng quát, th́ đă có cái danh, tất phải có cái phận. Con kiến, con ong, có cái phận của kiến, của ong; mặt trăng, mặt trời có cái phận của mặt trăng, mặt trời. Dù nhỏ dù lớn, mọi vật mọi người đều có cái phận riêng của ḿnh. Những điều cần phải làm, đối với cái phận ấy, chính là bổn phận. 
Danh càng lớn, th́ phận càng nhiều; phận càng nhiều th́ bổn phận càng nặng. Hễ có thêm một cái danh là có thêm bổn phận. Càng nhiều danh lại càng nhiều bổn phận...Người có bổn phận của người; nhưng khi người + làm quan, tất nhiên ngoài bổn phận người, có thêm bổn phận làm quan, (bổn phận người + bổn phận quan). Và nếu người làm quan ấy lại làm quan đầu tỉnh, (người + quan + đầu đỉnh) th́ tất nhiên ngoài hai bổn phận trên, c̣n thêm bổn phận cai trị cả tỉnh nữa (bổn phận người + bổn phận quan + bổn phận cai trị cả tỉnh). Nếu muốn có nhiều danh, mà lại muốn trút bớt bổn phận, th́ là gian lận, lừa bịp. Và khi ấy, cái danh ấy chỉ là hư danh. Và khi danh đă hư, th́ mọi viẹc đều hư cả. Cho nên người xưa đức Khổng Tử nêu lên thuyết "Chính danh" để chỉnh đón xă hội là v́ thế.

 
2. Người Phật tử tại gia lại có nhiều bổn phận hơn ai cả: 
Dựa vào lư luận trên mà suy diễn, chúng ta thấy bổn phận của người Phật tử tại gia thật là nặng nề. Cái danh của chúng ta gồm có đến năm chữ: Người + Phật tử + tại gia. Như thế, tất nhiên chúng ta có những bổn phận của người + bổn phận của Phật tử +bổn phận tại gia. Đó là chưa kể người Phật tử tại gia ấy c̣n có những cái danh khác như: Công chức, Giáo sư, Tỉnh trưởng v.v...Nhưng để cho vấn đề này khỏi đi vào chi tiết quá; dưới đây chúng ta chỉ nói đến bổn phận người Phật tử tại gia mà thôi. Nhưng nếu muốn vấn đề được đặt một cách sáng sủa, giản dị, và sát đề hơn nữa, chúng tôi đề nghị nên bỏ bớt chữ người nữa. Nghĩa là chúng ta sẽ không nói đến bổn phận của người ở đây; bổn phận ấy mọi người, v́ đă là người đều biết cả rồi (trong mọi sách luân lư, công dân đều có nói đến). 
Như thế dưới đây, chúng tôi chỉ xin đề cập đến "bổn phận của Phật tử tại gia" mà thôi.

 
B. Chánh Đề

 
Bổn phận của Phật tử tại gia là những ǵ? 
Phật là bậc toàn trí, toàn năng, toàn đức, đă dứt sạch ngă chấp, pháp chấp tất cả việc lành ǵ cũng được, nên công đức được đầy đủ và Phật đă biết rơ các phép đều tuân theo luật nhân quả, nên bao giờ cũng chỉ biết gieo nhân lành, làm việc lành. 
Phật tử , muốn được làm con Phật , muốn theo dấu chân Phật , muốn xứng đáng với danh từ Phật tử , tất phải làm tṛn bổn phận của Phật tử nghĩa là nghe những lời Phật đă dạy, làm theo những việc Phật đă làm, đi theo con đường Phật đă đi. 
Phật tử , đáng lẽ phải làm y như thế đó. Nhưng bởi v́ chúng ta là Phật tử tại gia, nên chưa có thể hoàn toàn theo đúng như Phật. Hai chữ tại gia ràng buộc chúng ta trong những bổn phận mà chúng ta phải làm tṛn. 
Do đó, Phật tử tại gia, có những bổn phận như sau:

 
Bổn phận đối với tự thân 
Bổn phận đối với gia đ́nh, quyến thuộc 
Bổn phận đối với người ngoài gia đ́nh.

 
I. Bổn Phận Đối Với Tự Thân 
Tu tâm dương tánh: Ngoài bổn phận làm người cho xứng với danh nghĩa con người, cho tṛn nhân cách, Phật tử c̣n luôn luôn cố gắng trau dồi đức hạnh, tu tâm dưỡng tánh, để cho thân tâm được an lạc, thanh tịnh, hầu hưởng được hạnh phúc trong hiện tại và bước lên đường giải thoát trong tương lai.

 
Mỗi Phật tử phải luôn luôn cố gắng vượt lên khỏi kiếp người, vượt ra ngoài lục đạo. Chúng ta từ vô thỉ đến nay, vẫn sống say chết ngủ trong trường giả danh mộng huyễn, luân hồi đă nhiều đời nhiều kiếp mà chúng sanh cũng hoàn lại chúng sanh. Ngày nay, chúng ta may nhờ phúc báo đời trước, được làm học tṛ Phật , mắt được trong vào quyển kinh, tai được nghe Phật pháp, cũng như đêm tối sẵn có đèn, trong bể khổ gặp thuyền tế độ. Nếu chúng ta không gắng sức tu tập, dứt bỏ những thói quen mê lầm phiền năo, để cho tâm tánh chúng ta được tiến hóa dần đến chỗ hoàn toàn viên măn, th́ sao cho khỏi phụ duyên lành đời trước của chúng ta và phụ công ơn đức Thích Ca, đấng Từ phụ đă hiện thân thuyết pháp, chỉ bày cho chúng ta những phương pháp tu hành để thoát khỏi sanh tử luân hồi. Phương pháp tu hành mà một Phật tử tại gia cần phải quyết tâm thực hiện là: giữ Ngũ Giới, tu Thập thiện, sám trừ các phiền năo, chuyên tâm niệm Phật , phát tâm từ bi tế độ. Có như thế th́ mới có thể vượt ra khỏi kiếp người, bước thêm một bước dài trên con đường giải thoát.

 
II. Bổn Phận Đối Với Gia Đ́nh 
Phật tử tại gia c̣n có gia đ́nh quyến thuộc, nên c̣n nhiều bổn phận không thể làm ngơ được. Phật tử có cha mẹ, vợ hay chồng, con cái, bà con thân thích, người giúp công hay kẻ mướn việc...Đối với mỗi hạng người ấy, Phật tử đều có mỗi cách đối xử, mỗi bổn phận. 
Theo kinh Thiện Sanh, th́ Phật tử tại gia có những bổn phận như sau đối với những người trong nhà:

 
1. Bồn phận con đối với cha mẹ, phải đủ năm điều: 
a) Làm con phải hết ḷng hiếu kính đối với cha mẹ, tùy theo mùa tiết hàn, nhiệt, mà chăn nom mền chiếu, ấm áp hợp thời, để cha mẹ được nghỉ ngơi yên giấc. 
b) Làm con mỗi ngày phải dậy sớm, để phân công việc cho người làm lụng đúng giờ, và lo sắp đặt miếng ăn thức uống cho cha mẹ được vừa miệng đẹp ḷng. 
c) Làm con phải gánh vác tất cả công việc nhọc nhằn, thay thế cho cha mẹ, để cha mẹ được thư thới, vui vẻ trong tuổi già. 
d) Làm con phải nhớ nghĩ luôn luôn đền ơn sanh thành, dưỡng dục, để lo báo đáp cho kịp trong lúc cha mẹ c̣n sanh tiền. 
đ) Làm con, khi cha mẹ đau ốm, phải hết ḷng săn sóc, hầu hạ bên giường, không nài khó nhọc và ân cần rước thầy xem mạch, thuốc thang điều trị không sợ hao tốn.

 
2. Bổn phận cha mẹ đối với con, cũng phải đủ 5 điều: 
a) Phải dạy dỗ con dứt trừ tất cả điều hung ác, làm tất cả điều lành, để trở nên người có đức hạnh. 
b) Phải khuyên răn con cái, nên gần gũi người trí tuệ. 
c) Phải nhắc nhở con cái, cần mẫn học hành. 
d) Phải liệu định cưới gả con cái cho kịp lúc xuân thời. 
đ) Phải cho con cái bàn tính tham dự việc nhà, cùng góp công trong sự xây dựng hạnh phúc gia đ́nh.

 
3. Bổn phận vợ đối với chồng, phải đủ 5 điều: 
a) Phải kính yêu và ḥa thuận với chồng, khi chồng ra đi hay trở về, phải đưa đón niềm nở. 
b) Khi chồng đi vắng, ở nhà phải lo quét dọn, may vá, cơm nước sẵn sàng, đợi chồng về mới cùng ăn uống. 
c) Phải giữ ǵn tiết hạnh, không được ngoại t́nh. 
d) Lúc chồng nóng giận nặng lời, không nên bừng mặt căi lẫy, làm mất ḥa thuận và có khi phải ră rời giềng môí. Lại khi chồng có lời khuyên bảo chánh đáng, vợ phải vâng theo; khi có món ngon vật quí, không nên dùng riêng cho ḿnh. 
đ) Mỗi đêm, khi chồng nhủ rồi, phải xem xét cửa nẻo, trước sau đóng gài kín đáo, cắt đặt cẩn thận, soi rọi khắp cả trong nhà, rồi mới đi ngủ sau.

 
4. Bổn phận chồng đối với vợ, cũng phải đủ 5 điều: 
a) Khi vợ ra đi hay lúc trở về, phải đưa đón niềm nở. 
b) Phải ăn uống cho có giờ khắc, và đừng quá khó khăn, để vợ khỏi phải làm phiền ḷng nấu nướng không chừng, và lo lắng cực nhọc. 
c) Phải tùy phận giàu nghèo của ḿnh, để vợ mua sắm áo quần và đồ trang sức vừa theo sở thích, không hẹp ḷng làm vợ buồn phiền. 
d) Phải tin cậy phó thác cho vợ các công việc nhà. 
đ) Không được sanh tâm tà vạy, sớm mận tối đào, làm cho vợ ghen tuông sầu năo.

 
5. Bổn phận đối với bà con thân thích, phải có đủ 5 điều: 
a) Khi thấy bà con có người làm việc chẳng lành, th́ phải thượng xót khuyên can, răn nhắc. 
b) Trong bà con thân thích, có người nào bị đau ốm, tai nạn, tật nguyền, th́ phải hết ḷng giúp đỡ, hoặc cơm cháo thuốc men, hoặc áo quần, tiền bạc v.v.. 
c) Những việc kín đáo, riêng tư của người này, ḿnh có biết cũng không nên tiết lộ cho người khác biết. 
d) Bà con thân thích, phải năng tới lui thăm viếng, nhắc nhở nhau tránh dữ làm lành. Đôi khi có ư kiến chẳng đồng, cũng nên hoan hỷ, đừng cố chấp giận hờn nhau. 
đ) Trong thân bằng quyến thuộc, có kẻ giàu người nghèo, lẽ cố nhiên người dư ăn dư để, phải giúp đỡ cho kẻ thiếu hụt.

 
6. Bổn phận chủ đối với người giúp việc trong nhà, phải có đủ 5 điều: 
a) Chủ nhà trước khi sai khiến người giúp việc làm ǵ, trước phải biết họ, đói, no, ấm, lạnh thế nào để họ có đủ sức khỏe và vui ḷng làm lụng. 
b) Lúc nào người giúp việc bị bịnh loạn, phải chăm non thuốc thang và để cho họ được nghỉ ngơi, để bồi bổ sức khỏe lại. 
c) Khi họ có phạm lỗi ǵ, phải xét coi họ cố ư hay vô t́nh. Nếu vô ư lầm lỡ, th́ nên dung thứ; nếu họ quyết ḷng phá hại, th́ phải làm nghiêm trách hẳn hoi, với lời lẽ thanh nhă, cho họ biết lỗi để chừa. 
d) Khi họ tiện tặn tích góp được số tiền riêng, không nên t́m cách thâu đoạt. 
đ) Khi muốn thưởng công lao cho họ, phải giữ mực công b́nh, tùy công lao của mỗi người mà phân chia cho cân xứng.

 
7. Bổn phận người giúp việc đối với chủ nhà, cũng phải có đủ 5 điều kiện: 
a) Mỗi buổi sáng phải thức dậy trước chủ nhà, không đợi kêu. 
b) Phải biết phần việc nào của mỗi ngày, cứ y như thường lệ mà thi hành, không đời chủ sai bảo. 
c) Khi làm việc phải thận trọng đồ dùng của chủ, không làm vụt chạc, hư hao. 
d) Phải hết ḷng kính mến chủ nhà, lúc chủ ra đi, phải ân cần đưa tiễn, lúc chủ trở về, phải vui mừng tiếp đón. 
đ) Không nên chỉ trích, nói xấu chủ với người ngoài.

 
III. Bổn Phận Đối Với Người Ngoài Gia Đ́nh 
Những người ngoài gia đ́nh, chúng tôi muốn nói ở đây, không phải những người xa lạ, hay hàng xóm láng giềng, mà chính là những người có sự liên quan mật thiết với chúng ta, nhưng  cũng không quyến thuộc, không ở chung dưới một mái nhà, nên tạm gọi là những người ngoài gia đ́nh. 
Những người nầy giữ vai tṛ quan trọng trong đời sống của chúng ta, lái chúng ta đi trên con đường hiểu biết đạo đức, góp một phần lớn lao trong việc xây dựng hạnh phúc cho chúng ta. Đó là những vị thầy dạy dỗ và những vị Tăng già và thiện hữu tri thức.

 
1. Bổn phận học tṛ đối với thầy, phải đủ 5 điều: 
a) Phải kính mến thầy như cha mẹ 
b) Phải vâng lời thầy dạy bảo. 
c) Phải giúp đỡ thầy trong cơn hoạn nạn. 
d) Phải siêng năng học tập cho vui ḷng thầy. 
đ) Khi thôi học rồi, cũng phải năng tới lui thăm viếng thầy, để tỏ ḷng cảm mến công ơn dạy dỗ và quư trọng tài đức của Thầy.

 
2. Bổn phận thầy đối với tṛ, cũng phải đủ 5 điều: 
a) Phải cần mẫn dạy dỗ học tṛ. 
b) Phải cố gắng làm sao cho học tṛ ḿnh mau tiến bộ hơn học tṛ khác, về tài năng cũng như về đức hạnh. 
c) Phải để ư đến những điều cấn yếu làm sao cho học tṛ in sâu măi vào tâm trí. 
d) Phải giảng giải rơ ràng các lư thuyết mắc mỏ và hỏi lại nhiều lần cho học tṛ không lầm lạc. 
đ) Phải có ḷng rộng răi, mong muốn làm sao cho học tṛ ḿnh được trở nên giỏi hơn ḿnh.

 
3. Bổn phận Tín đồ đối với chư Tăng và thiện hữu tri thức phải đủ 5 điều: 
a) Phải hết ḷng thành thật đối với chư Tăng và thiện hữu tri thức. 
b) Phải cung kính và vâng lời dạy bảo của quí vị minh sư và các thiện hữu. 
c) Phải chăm chỉ nghe lời giảng dạy của các vị Tăng già đức độ, thẩm xét cho kỹ lưỡng rồi như pháp mà tu hành. 
d) Phải cầu học với chư Tăng và thiện hữu những chỗ bí yếu về đạo lư mà ḿnh chưa hiểu. 
đ) Phải cầu thỉnh các vị minh sư chỉ dạy cho ḿnh những pháp môn cần yếu, như "tham thiền", "niệm Phật " để ngày đêm chuyên tâm tu tŕ, không gián đoạn.

 
IV. Cách Xưng Hô Và Một Số Nghi Thức Cần Thiết Của Người Phật Tử Tại Gia  
Ngoài những bổn phận nói trên, Phật tử tại gia c̣n cần phải biết cách xưng hô khi tiếp xúc với quư vị Tăng già, và những nghi thức cần thiết khi đến chùa, khi lễ Phật , cầm kinh v.v...Đă là Phật tử , th́ những điều này, mặc dù là h́nh thức, cũng không thể không biết đến.

 
1. Cách chào hỏi và xưng hô với Tăng già: 
Phật tử phải biết cách đối xử, xưng hô với chư Tăng cho phải phép: 
a) Khi gặp một vị hay nhiều vị Tăng tại chùa hay ngoài đường, nên chắp tay kính cẩn chào, bằng cách niệm: "Nam mô A Di Đà Phật ", với vẻ mặt hoan hỷ với ḿnh. Lối chào ấy biểu lộ một t́nh cảm đậm đà, c̣n hơn lối chào bắt tay của người Âu Tây. Sở dĩ chào nhau bằng một câu bảo hiệu Phật , là để nhắc rằng ai cũng có Phật tánh (bản tánh A Di Đà), nếu quyết chí tu, rồi cũng đến được cảnh giới Tịnh độ và cuối cùng sẽ thành Phật. 
b) Về cách xưng hô, Phật tử tại gia không nên kêu chư Tăng bằng Huynh hay Sư huynh hay Đạo hữu mà nên kêu bằng thầy, mặc dù vị ấy là đồng sư. 
Những tiếng Thượng Tọa, Đại Đức không nên quá lạm dụng, không phải đối với vị sư nào cũng gọi là Thượng Tọa hay Đại Đức được cả. Chỉ đối với những vị sư có đạo hạnh, nhiều niên lập (tuổi Đạo), và đối với ḿnh chưa quen thân lắm, mới nên dùng chữ Thượng Tọa hay Đại Đức. Đối với các vị Bổn sư, các vị Tăng già ḿnh thường quen biết, dùng chữ "Thầy" là phải cách và đầy đủ ư nghĩa nhất. Thầy là có ư tôn kính như cha (quân, sư, phụ) và là người thường dạy bảo ḿnh trên đường tu tập. Thầy có vẻ vừa tôn kính, vừa thân mật, vừa chân thật, chứ không như chữ Thượng Tọa hay Đại Đức có vẻ xă giao kiểu cách, đăi bôi, bề ngoài. Hiện nay đang lan tràn cái dịch, dùng danh từ Thượng Tọa và Đại Đức. Chúng ta nên thận trọng mỗi khi dùng những chữ ấy, để khỏi bị người ngoại đạo hiểu lầm là quí vị Tăng già muốn được gọi như thế, v́ c̣n thích chức tước, hư danh. 
c) Trước khi vào Chánh điện lễ Phật , phải rửa mặt, súc miệng, rửa tay cho sạch sẽ, để giấy guốc ngoài thềm cửa, đừng mang vào Điện mà tổn Phước. Khi tiến tới Điện th́ đi ở phía trái, khi ra th́ đi về phía hữu, theo cách "hữu nhiễu" của nhà Phật (đi quanh theo chiều hữu, ba hay bảy ṿng, để tỏ ḷng kính mến Phật ). 
Khi đi ra, phải chú ư coi chừng dưới chân, để tránh khỏi sự dẫm đạp trùng kiến. Giữ được như thế, được phước đức hơn là phóng sanh mà không biết giữ. 
d) Khi tụng kinh, phải chắp hai tay ngang ngực, mười ngón tay từng cặp bằng nhau, không so le, hai ḷng bàn tay khít lại, đừng để trống giữa. Chân đứng ngang bằng, h́nh chữ "bát", mắt ngó xuống, chăm chỉ tụng cho các câu rành mạch, không nên ỷ giọng hay, tụng to tiếng động chúng. Phải tụng cho ăn nhịp, theo tiếng mơ và tiếng tụng của ông Duy na (dẫn đầu). 
Khi lễ Phật , năm vóc phải sát đất, nghĩa là đầu, hai tay, hai gối, phải sát chiếu, hết ḷng thành kính mà lễ. Khi lạy phải xích qua một bên, v́ phía sau c̣n có chùa thờ Hộ pháp hay tượng Phật và nhương chỗ cho ngôi Trụ tŕ. Khi lễ Phật xong, đi ra phải bước lui, mắt ngó tượng Phật , đừng quay lưng lại. 
đ) Trước khi cầm kinh hay tụng phải rửa tay. Cầm kinh sách đem đi đâu, nên ôm trên ngực, đừng cặp bên nách như quyển sách thường, v́ kính kinh như kính Phật. Nếu cầm kinh mà muốn chào người, th́ phải để kinh trên bàn trước khi chào. Gặp trường hợp không có chỗ để kinh, th́ ôm vào ngực mà chào: "A Di Đà Phật " là được. Kiêng nhất là cầm quyển kinh mà xá chào người. 
Trên đây là kể sơ lược một số oai nghi tế hạnh mà Phật tử tại gia phải giữ ǵn. Oai nghi của người xuất gia th́ nhiều lắm, nhưng không phải phạm vi của bài này, nên không nói đến.

 
C. Kết Luận 
Khuyên Phật tử tại gia giữ tṛn bổn phận. 
Bổn phận của Phật tử tại gia như vừa tŕnh bày ở trên, tuy kể ra th́ nhiều, nhưng không có ǵ là cao kỳ khó khăn phức tạp. Những điều ấy, một người chưa phải là Phật tử , nhưng có chút đức hạnh, cũng đă hiểu rồi, biết rồi. 
Nhưng điều quan trọng ở đây, không phải là hiểu biết mà là thực hành, những điều đă hiểu biết ấy. Trong cuộc sống tầm thường hằng ngày, làm tṛn bổn phận có nhiều khi c̣n khó hơn là ra trận giết quân thù, hay trèo non lội suối. Những công việc khó khăn như bất thường này chỉ cần vận động sự cố gắng và hăng hái trong một khoảng thời gian nhất định, chứ những bổn phận tầm thường hằng ngày, muốn làm cho tṛn, phải vận dụng sự kiên nhẫn và cố gắng suốt cả đời. V́ lư do ấy mà tục ngữ ta có câu: " Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa". 
Vậy chúng ta không nên xem thường những bổn phận tầm thường của chúng ta, mà phải luôn luôn cố gắng làm cho tṛn. Sự cố gắng này sẽ đem lại cho chúng ta một phần thưởng chắc chắn thật là đưa dần chúng ta lên đường giải thoát.

 
Trở Lên

Bài Thứ 2 
Vu Lan Bồn 

A. Mở Đề 

1. Công ơn sanh thành dưỡng dục rất lớn lao: 

Chúng ta thường nghe câu ca dao:

 

"Công cha như núi Thái sơn; 

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". 

(Công ơn cha mẹ thật quá lớn lao như núi cao, bể cả). 

Mẹ th́ chín tháng cưu mang, ba năm cho bú mớm, suốt đời chỉ biết hy sinh cho con. Khi đang ăn cũng như khi ngủ nghỉ, hễ con cần đến là có mẹ ở bên cạnh. Con lỡ đại, tiểu tiện ở trên ḿnh, mẹ vẫn vui cười không chút hờn giận. Gặp cảnh nghèo hèn, mẹ nhịn bớt cơm cho con ăn, dành chỗ khô ráo cho con nằm (bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn). Rủi khi con đau ốm, mẹ ngồi bên cạnh, năm canh thao thức lo âu; chỉ khi con khỏe mạnh tươi cười, mẹ mới vui tươi hớn hở. Ca dao có câu: 

" Lên non mới biết non cao, 

Nuôi con mới biết công lao mẫu tử". 

C̣n cha mẹ phải lo làm lụng vất vả để nuôi con. Nếu gặp cảnh nghèo khó, cha phải làm thuê, ở mướn, mua tảo bán tần, đổ mồ hôi lấy bát cơm, manh áo cho con. Ngoài ra cha c̣n dạy dỗ cho con học hành, ngày đêm lo lắng đào tạo cho con thành người hữu dụng, khôn ngoan, khỏi thua chúng kém bạn. 

Công ơn cha mẹ nói ra bao nhiêu cũng không cùng. 

2. Vậy làm con phải báo đền ơn cha mẹ: 

Bất luận luân lư đạo đức nào, Đông hay Tây, xưa hay nay; đều lấy chữ: "Hiếu" làm đầu. Một người con đă bất hiếu với cha mẹ, th́ không c̣n việc xấu xa ǵ mà không làm được. Một kẻ vong ơn bội nghĩa như thế, th́ không c̣n biết nhân nghĩa, bác ái, công bằng là ǵ nữa. Bởi vậy cho nên, người xưa có câu: 

"Thiên kinh vạn quyển, Hiếu nghĩa vi tiên", 

(Ngàn quyển kinh, vạn quyển sách, đều lấy Hiếu làm đầu). 

Kinh Thi có nói một câu rất cảm động: 

"Phụ hề sanh ngă, mẫu hễ cúc ngă, 

Ai ai phụ mẫu, sanh ngă cù lao, 

Dục báo thâm ân, hiệu thiên vơng lạc". 

Nghiă là cha sanh ta, mẹ nuôi ta. Hỡi ôi, cha mẹ sanh ta cực nhọc. Muốn đền đáp ân đức của cha mẹ, như vói lên trời cao chẳng cùng. 

Phật cũng dạy: 

"Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế". 

Nghĩa là cha mẹ c̣n sinh tiền, cũng như Phật c̣n ở đời. Xem thế, Phật đă đề cao biết bao sự hiện diện quí trọng của cha mẹ. V́ cha mẹ quí trọng như thế, nên Ngài dạy thêm: 

" Hiếu vi vạn hạnh chi tiên". 

(Hiếu thảo đứng đầu trong mọi việc). 

Để Phật tử làm tṛn nhiệm vụ hiếu đạo, nên đức Phật dạy pháp Vu Lan Bồn dưới đây. 

B. Chánh Đề 

Vu Lan Bồn là một phương pháp báo hiếu có hiệu quả nhất. Nhưng trước tiên, chúng ta hăy hiểu nghĩa Vu Lan Bồn thế nào đă. 

I. Định Nghĩa 

Vu Lan Bồn là phiên âm theo tiếng Phạn. Người Trung Hoa dịch là: "giả đảo huyền", nghĩa đen là cổi trói người bị treo ngược; nghĩa bóng là cứu vớt những kẻ đau khổ nặng nề như đang bị treo ngược. 

II. Nguyên Nhân Phật Dạy Pháp Vu Lan Bồn 

Ngài Đại hiếu Mục Kiền Liên, sau khi tu hành chứng được 6 phép thần thông, ngậm ngùi nhớ đến công ơn cha mẹ, Ngài t́m cách báo đáp. Dùng đạo nhăn xem trong thế gian, Ngài nhận thấy mẹ ḿnh sanh làm loài ngạ quỷ, thân thể ốm gầy, da bọc xương, thân h́nh tiều tụy, bụng lớn, đầu to, cổ nhỏ như ống chỉ, đói khát suốt năm không được ăn uống. Thương xót quá, Ngài liền đem bát cơm đang ăn dâng mẹ. Ngài vận thần thông, bưng bát cơm đi đến chỗ mẹ ở. Bà mẹ khát khao, nên khi được cơm, ḷng tham nổi lên, sợ người cướp giựt, lấy tay trái che giáu bát cơm, tay mặt bốc ăn. Bởi ḷng tham lam độc ác trong tiền kiếp trước nổi bừng lên, nên cơm mới đưa vào miệng, th́ hóa thành ra lửa, bà chẳng ăn được. 

Ngài Mục Kiền Liên thấy thế, hết sức đau buồn kêu khóc thảm thiết. Ngài liền trở về bạch Phật, thuật lại như trên và cầu Phật chỉ dạy cho phương pháp cứu độ thân mẫu. 

III. Phật Dạy Pháp Vu Lan Bồn Cho Ngài Mục Kiền Liên 

Sau khi nghe Ngài Mục Kiền Liên thỉnh cầu phương pháp báo hiếu, Phật dạy rằng: 

" Nầy Mục Kiền Liên! Mẹ của ông do ḷng tham lam, độc ác đă tạo ra tội lỗi nặng nề trải qua nhiều kiếp, nay sanh trong ác đạo, làm loài ngạ quỷ nên không thể một ḿnh ông cứu độ được. Mặc dù ḷng hiếu thảo của ông vô cùng lớn lao, cũng không sao chuyển được hoàn cảnh, chẳng khác ǵ chiếc thuyền con, không thể chở được tảng đá lớn. Vậy ông phải nhờ oai thần của chúng Tăng trong mười phương, đức lớn như biển, mới cứu độ mẹ ông được giải thoát. Ta nay sẽ v́ ông, chỉ dạy phương pháp cứu rồi, khiến cho cha mẹ ông xa ĺa được các điều tội lỗi. 

Nầy Mục Kiền Liên ! Ngày rằm tháng 7 là ngày Tự Tứ của chư Tăng trong mười phương, sau ba tháng an cư kiết hạ, sách tấn tu hành. Ngày ấy cũng là ngày hoan hỷ của các chư Phật , v́ thấy chư Tăng sau ba tháng an cư kiết hạ, đă tiến bộ rất nhiều trên đường tu học, các nghiệp được thanh tịnh, ba món vô lậu học được tăng trưởng, công đức thêm nhiều và đến ngày viên măn. Vậy ông nên nhân ngày ấy làm lễ Vu Lan Bồn để báo hiếu cho mẹ ông. 

Ông hăy sắm đủ các món trai diên trăm mùi, năm thứ trái, cùng hương dầu đèn nến, giường chơng, chiếu chăn, mùng mền, quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay; tóm lại là đủ bốn món cúng dường quí báu trong đời. Rồi ông phải thân hành đi rước các vị Đại Đức Tăng trong mười phương, hoặc những vị thiền định trong núi rừng, chứng được bốn quả Thánh, hoặc có vị kinh hành dưới cội cây được sáu phép thầụn thông tự tại hàng Thanh Văn, Duyên Giác, các vị Thánh Tăng, hoặc các vị thập địa Bồ Tát thị hiện làm thầy Tỳ kheo v.v...Ông phải thành tâm kính lễ trai Tăng cúng dường và thỉnh cầu chư Tăng chú nguyện cho vong linh mẹ ông được thoát khổ. Nhờ công đức chí thành chú nguyện, vong linh mẹ ông đă được siêu thoát. Cũng như tảng đá dù nặng trăm cân, song có nhiều người khiêng, th́ dời đi đâu cũng được". 

Ngài Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng 7 làm lễ Vu lan, sắm đủ các vật liệu, rước chư Tăng trong mười phương thành tâm kính lễ trai Tăng cúng dường, nên vong mẫu của Ngài được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, sanh về cảnh giới lành. 

IV. Ngài Mục Kiền Liên Hỏi Phật Các Hàng Phật Tử Đời Sau Có Thể Làm Lễ Vu Lan Bồn Được Không?   

Sau khi thấy thân mẫu được thoát khổ, Ngài Mục Kiền Liên hết sức vui mừng, liền đến trước Phật chấp tay bạch rằng: 

Bạch Thế Tôn! Thân mẫu của con được nhờ công đức Tam Bảo và oai thần của chư Tăng, nên được thoát ly kiếp ngạ quỷ khổ năo. Vậy về đời sau, trong hàng Phật tử , nếu có người muốn làm lễ Vu Lan Bồn nầy, để cứu độ cha mẹ hiện tại cũng như cha mẹ nhiều kiếp trước, chẳng biết có được không? 

Phật dạy rằng: 

"Quư lắm! Nầy Mục Kiền Liên! Đời sau, nếu có được các thầy Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, vua, Thái Tử, các quan tể tướng, những hàng tam công cho đến thứ dân, v́ ḷng hiếu thảo muốn đền đáp công ơn cha mẹ hiện tại hay quá khứ, th́ cứ ngày rằm tháng 7 là ngày "Phật hoan hỷ", làm lễ Vu Lan nầy, để cúng dường trai Tăng. nhờ công đức của chư Tăng chú nguyện, cha mẹ hiện tại được tăng long phước thọ, khỏi những điều tai hoạn, khổ năo,, c̣n cha mẹ bảy đời trước th́ khỏi bị khổ ngạ quỷ, được sanh trong cơi nhơn thiên, hưởng phước vui vẻ không cùng". 

Khi đó Ngài Mục Kiền Liên và bốn chúng Đệ tử hoan hỷ vâng làm. Và từ đó về sau, mỗi năm cứ đến ngày Rằm tháng 7, các hàng Phật tử chí hiếu, đều có làm lễ Vu Lan để đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. 

V. Ư Nghĩa Đứng Đắn Và Đầy Đủ Của Sự Báo Hiếu Theo Quan Niệm Đạo Phật  

Tất nhiên sự báo hiếu không những chỉ nhắm vào một lễ Vu Lan. Không phải mỗi năm chỉ tổ chức một lễ Vu Lan, là đă tự cho ḿnh là người con chí hiếu v́ đă làm đầy đủ hiếu đạo. 

Như trên đă nói, công ơn cha mẹ rộng như trời bể, làm con suốt đời báo ơn cha mẹ vẫn chưa vừa. Nhưng trong lúc báo hiếu, phải có quan niệm sáng suốt, đúng đắn mới thật có lợi ích và hiệu quả. 

Báo hiếu có nhiều cách, nhưng không ngoài hai phương diện: vật chất và tinh thần. 

1. Báo hiếu về vật chất: Người Phật tử phải hầu hạ vâng thờ, thay làm các việc nhọc, săn sóc miếng ăn thức uống, áo quần, chiếu giường, chỗ nghỉ ngơi, không để cho cha mẹ thiếu thốn, lo nghĩ. Song người Phật tử phải sáng suốt trong khi báo hiếu, không nên quá chiều theo ư muốn của cha mẹ mà tạo những nghiệp dữ, như sát nhân, hại vật, gây tội lỗi để làm cho cha mẹ sung sướng trong vật chất. Làm như thế không phải là báo hiếu mà chính là bất hiếu, v́ đă gây tạo tội lỗi thêm cho cha mẹ và cho ḿnh. 

Vả lại, báo hiếu về vật chất, dù đầy đủ cho mấy đi nữa, cũng chẳng qua làm việc cho cha mẹ được vui vẻ thỏa măn trong một kiếp hiện tại mà thôi. Cái vui vật chất là vui giả tạm, vui trong ṿng sanh tử luân hồi. Vậy sự báo hiếu về vật chất chưa phải là đủ. 

2. Báo hiếu về tinh thần: Người Phật tử phải tiến lên một tầng nữa, là lo báo hiếu về tinh thần. Báo hiếu về tinh thần là làm sao cho tinh thần của cha mẹ được nhẹ nhàng, cao thượng và đi dần đến chỗ giải thoát. Phật tử phải khuyên cha mẹ tin nhơn quả tội phước và quy y Tam Bảo, bố thí phóng sinh, niệm Phật , làm các việc lành, giữ giới và tu nhơn giải thoát. Có như thế, th́ không những trong hiện tại cha mẹ được yên vui, thanh tịnh và đời sau cũng được nhiều phước báo, và sinh trong cảnh giới sáng sủa nhẹ nhàng. 

VI. Quyết Nghi 

1. Có người nghi: Chư Tăng chỉ tụng kinh chú nguyện làm sao vong linh được siêu độ?  

Đáp: Tinh thần của người ta rất mạnh, mỗi khi chúng ta tập trung tư tưởng, chăm chú vào một việc ǵ, th́ sẽ thấy sức mạnh của nó phi thường. Kinh nói: "Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện"; nghĩa là: để tâm định lại một chỗ, th́ không việc ǵ làm không thành tựu. Chúng ta thấy như các nhà thôi miên, dùng tinh thần sai sử người đi, đứng, nằm, ngồi, v.v...đều được cả. Người thế gian dụng tâm c̣n được như thế, huống chư Tăng tŕ trai giữ giới thanh tịnh tu hành, tất nhiên tinh thần phải sáng suốt, mạnh mẽ hơn. Như thế mà các vị lại tập trung tư tưởng, thành tâm chú nguyện th́ vong linh quyết nhờ sức mạnh của chư Tăng mà được siêu sanh. Lại nữa, Phật và Bồ Tát sẵn có ḷng từ bi tế độ, thương tất cả chúng sanh như mẹ thương con. Chúng ta cảm, th́ lo ǵ các Ngài không ứng hiện? Cúng như mặt trăng luôn luôn sẵn có ánh sáng, nếu nước hồ không xao động và lóng trong , th́ trăng kia sẽ chiếu xuống tận đáy hồ. 

2. Có người hỏi: "Y như lời Phật dạy trong kinh Vu Lan, th́ phải sắm cho đủ các thứ thực phẩm và vật dụng quư báu để cúng dường chư Tăng. Như thế đối với những người nghèo hèn th́ sao? 

Đáp: Bổn ư của Phật dạy chúng ta là phải chí thành và tận lực trong việc lo sắm đủ những thứ ấy. Đối với những kẻ nghèo khó, nếu họ đă tận lực mà chỉ mua được một nén hương hay đĩa quả, nhưng có ḷng chí thành, th́ cũng đủ lắm rồi. Trái lại, nếu có người sắm dư giả các vật mà chưa chí thành, th́ cũng chưa có thể gọi là đầy đủ. 

3. Có người hỏi: Ngài Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, tự ḿnh có thể cứu vớt cha mẹ được , cần ǵ phải nhờ đến chư Tăng. Cũng như các ông quan lớn trong xứ, đủ thế lực, có thể cứu bà con có tội được rồi, cần ǵ phải nhờ đến các quan khác? 

Đáp: Bà Thanh Đề bị tội khổ, do trước kia tâm bà gây nên. Hôm nay nhờ Ngài Mục Kiền Liên là con hiếu thảo, sắm các lễ vật cúng dường Phật , Tăng, lúc ấy bà sanh ḷng hoan hỷ cũng muốn cúng dường Phật , Tăng. Do đổi niệm bỏn sẻn, trở lại tâm rộng răi, mà bà được giải thoát. Nếu như chỉ nhờ đức chúng Tăng mà tâm bà không hoan hỷ mở rộng, th́ cũng khó mà cứu vớt được. 

C. Kết Luận 

Chúng ta đă rơ biết hiệu quả tốt đẹp của lễ Vu Lan. Vậy chúng ta nên noi theo gương của Ngài Đại hiếu Mục Kiền Liên mà báo hiếu, th́ chắc chắn cha mẹ hiện tại và bảy đời trước đều được thoát khổ ngạ quỷ u đồ, và hưởng vui giải thoát. Chuyện "Mục Liên, Thanh Đề" không có ǵ là hoang đường, huyền bí, mà là một hiện tượng có thể giải thích được. Đó là do ḷng hiếu thảo chí thành của người con và công đức tŕ trai, giữ giới thanh tịnh trong ba tháng hạ, thúc liễm tu hành của chư Tăng, thành tâm chú nguyện, nên có sức mạnh cảm thông và kích thích đến tâm hồn người đau khổ, làm cho họ thức tỉnh cơn mê, xoay chuyển tâm niệm ác, hướng về nẻo thiện. Nhờ sự chuyển hướng của cái tâm này, mà họ thoát khỏi sự h́nh phạt đau khổ mà trước kia chính cũng do cái tâm ấy tạo ra. Trong kinh có nói: "Tâm có thể tạo nghiệp, mà tâm cũng có thể chuyển nghiệp". Ḱa, như nhà thôi miên học, chỉ tập trung tư tưởng mà c̣n có thể xoay chuyển sự vật được , huống chi sự chú nguyện của chư Tăng, là kết tinh của bao nhiêu phước đức trí huệ, thanh tịnh, lại không thông cảm đến người ở chốn tội khổ hay sao? Nghiệp lực sâu thẳm vô biên, th́ từ lực và nguyện lực cũng dơng mănh vô lượng, có thể chuyển được tâm người tạo nghiệp, đập vở được lao ngục xiềng xích khổ h́nh ở chốn u đồ. 

Pháp Vu Lan nầy chính là phương pháp thần diệu để cứu rỗi vong linh cha mẹ trong cảnh khổ tối tăm. 

Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng; báo hiếu không phải chỉ đợi khi cha mẹ đă khuất bóng và mỗi năm chỉ một lần cử hành lễ Vu Lan là đủ. 

Người con chí hiếu, bao giờ cũng vui sướng khi thấy cha mẹ c̣n ở bên ḿnh và tận lực phụng dưỡng cha mẹ, để cha mẹ được thảnh thơi về cả hai phương diện vật chất và tinh thần. 

Như thế mới khỏi hối hận và than thở như Thầy Tử Lộ: 

"Mộc dục tịnh nhi phong bất đ́nh! 

Tử dục dưỡng nhi thân bất tại". 

(Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng ! Con nuôi dưỡng báo hiếu mà cha mẹ chẳng c̣n sống).

Trở Lên

Bài Thứ 3 
Vô Thường 

 

A. Mở Đề

Ḷng tham lam của con người ôm ấp bám víu măi măi vào sự vật

Chúng ta, đă là chúng sinh, th́ ít nhiều đều có tham vọng. Ḷng tham vọng ấy bám víu chặt chẽ vào sự vật mà chúng ta đă cấu tạo, nắm bắt được. Chúng ta chỉ buông thả chúng ra, sau khi trút hơi thở cuối cùng. Nói cho đúng, không phải đến phút cuối cùng chúng ta mới chịu buông thả mọi vật; chúng ta vẫn cứ muốn nắm giữ chúng măi, nhưng chính chúng đă rời bỏ chúng ta mà đi. Chúng ta đă bất lực, không c̣n đủ hơi sức để nắm giữ chúng nữa, nên đành buông xuôi tay để chúng tuôn đi, chứ nếu c̣n hơi sức, chúng ta vẫn c̣n muốn nắm lại và giam giữ một cách tuyệt vọng những ǵ đă nắm được. Suốt đời, chúng ta vẫn lặp đi lặp lại măi cái cử chỉ nắm bắt, giữ ǵn ấy. Và suốt đời biết bao nhiêu lần chúng ta đă đau khổ, thất vọng, v́ mọi sự vật ở đời không bao giờ chiều theo ư muốn của chúng ta mà chịu ở yên một chỗ. Mọi sự vật đều luôn luôn biến chuyển, đổi thay, nay đây mai đó, như một anh chàng lăng tử, như một ḍng sông, như một đám mây, như một vó ngựa ! Thời gian trôi qua như thế nào, th́ mọi vật cũng trôi qua như thế ấy. Nói theo danh từ nhà Phật , th́ sự biến chuyển, đổi thay ấy là luật Vô thường.

 

B. Chánh Đề

 

1. Định Nghĩa

Vô thường là thế nào? Hăy nghe đức Phật dạy: "Tất cả những ǵ trong thế gian đă là biến đổi, hư hoại, đều là Vô thường". Vậy Vô thường nghĩa là không thường, không măi măi ở yên trong một trạng thái nhất định; luôn luôn thay h́nh đổi dạng; đi từ trạng thái h́nh thành đến biến đi rồi tan ră...Đạo Phật gọi những giai đoạn thay đổi của một vật là: thành, trụ, hoại, không (hay sanh, trụ, dị, diệt). Như một làn sóng, khi mới nhô lên gọi là thành (hay sanh) khi nhô lên cao nhất th́ gọi là trụ; khi hạ dần xuống th́ gọi là hoại (hay dị), khi tan ră th́ gọi là không (hay diệt). Tất cả sự vật trong vũ trụ, từ nhỏ như hạt cát, đến lớn như trăng sao, đều phải tuân theo bốn giai đoạn ấy cả, nên gọi là Vô thường.

Để có một ư niệm rơ ràng hơn về sự Vô thường, chúng ta hăy quan sát, suy nghiệm ngay cái thân chúng ta, cái tâm chúng ta và cái hoàn cảnh chúng ta đang sống, th́ sẽ biết.

 

II. Thân Vô Thường

"Thân tôi mạnh khỏe luôn, trẻ đẹp măi, và đời tôi là cả một bài thơ.."Ấy là quan niệm nông nỗi của một số nam nữ thanh niên, quá yêu chuộng thân thể họ trẻ măi, hay nếu có già, th́ cũng c̣n lâu lắm, không ngờ rằng nó già, nó chết, từng giây từng phút. Câu thơ sau đây của người xưa thật đă nói lên được sự thay đổi mau chóng của thân ta:

 

"Quân bất kiến cao đường minh cảnh bi bạch phát ! Triêu như thanh ti, mộ như tuyết?"

"Anh không thấy cha già soi gương buồng tóc bạc !

Sớm c̣n như tơ xanh, tối đă trắng như tuyết"

 

Khoa học đă chứng minh rằng, trong thân thể ta, các tế bào thay đổi luôn, và trong mỗi thời kỳ 7 năm, là các tế bào cũ hoàn toàn đổi mới. Sự thay đổi ấy làm cho thân thể chóng lớn, chóng già và chóng chết. Thân năm trước không phải thân năm nay, thân ban mai không phải thân buổi chiều, mỗi phút giây trong thân ta đều có sanh và có chết.

 Sau đây là một câu chuyện rất có ư nghĩa để chứng minh sự Vô thường của thân xác:

 

Một người bộ hành lỡ đường vào trọ trong một ngôi nhà bỏ hoang. Đêm đến, anh ấy thấy một con quỷ tóc xanh, vác một cái thây ma mới chết vào, định xé xác ra ăn. Bỗng một con quỷ khác, tóc đỏ, xô cửa bước vào. Hai con quỷ tranh nhau cái xác chết, con nào cũng nói của ḿnh bắt được trước. Chúng sắp xăn tay áo đánh giết nhau, để giành cái xác. Bỗng chúng nh́n thấy anh chàng bộ hành đang nằm run sợ trong góc pḥng; chúng vội vă kéo anh ta ra làm trọng tài, hỏi xem trong hai chúng, ai là kẻ đáng làm chủ cái xác. Anh bộ hành sợ hăi quá, nhưng cứ t́nh thật nói rằng: cái xác thuộc về con quỷ tóc xanh v́ chính anh ta thấy nó mang xác vào trước. Con quỷ tóc xanh được xác, mừng rở cảm ơn rối tít anh bộ hành; nhưng con quỷ tóc đỏ mất miếng mồi ngon, tức giận lôi đầu anh ta ra quyết ăn tươi nuốt sống cho hả giận. Nó đè anh ta xuống, rứt một cánh tay bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến...Con quỷ tóc xanh thấy thương t́nh anh bộ hành và để tỏ ḷng tri ân, rứt cánh tay của cái xác chết lắp vào cho anh ta. Con quỷ tóc đỏ lại rứt cánh tay kia của anh bộ hành ăn tiếp; và con quỷ tóc xanh chắp tay của xác chết vào cho anh ta. Cứ như thế, hể con quỷ tóc đỏ rứt một phần nào trong thân thể anh bộ hành để ăn, th́ con quỷ tóc xanh lại lấy một phần của thây ma điền vào cho thân anh ta...Sau khi ăn hết cả thân thể của anh bộ hành, con qủy chùi miệng đầy máu me, rồi bỏ ra đi. Con quỷ tóc xanh cũng đi theo.

Anh bộ hành bàng hoàng như vừa tỉnh một cơn ác mộng và cứ phân vân tự hỏi: không biết cái thân hiện tại anh đang mang đó là của anh hay của ai?

 

Câu chuyện trên chứng minh cho chúng ta thấy từ khi sanh cho đến khi chết, thân ta đă không biết bao lần thay đổi; và cái xác khi người ta dặt vào quan tài, thật không c̣n ǵ giống với cái thân khi mới sơ sanh.

 

Ḍng nước hôm qua của con sông Đồng Nai chẳng hạn, ngó bề ngoài th́ không khác ǵ ḍng nước hôm nay; nhưng nước hôm qua, bây giờ có lẽ đă ḥa với nước mặn ở ngoài Đại dương và nước hôm nay chính là nước khác ở nguồn mới chảy về đây. Thân người cũng vậy, "hằng chuyển như bọc lưu" (chảy luôn như nước lũ).

Nhưng khổ thay ! Có phải nó thay một cái này để đổi lấy một cái khác, giống y như cái trước đâu ! Một tế bào nầy mất di, một tế bào khác thế lại, nhưng tế bào trước trẻ hơn tế bào sau; tế bào sau già hơn tế bào vừa được kế tiếp...Và cứ như thế mà thân người đi từ trẻ đến già, từ sống đến chết !

 

Đức Phật , lúc c̣n là một Thái Tử, đă than với bà Da Du trong cung vui, khi nghĩ đến Vô thường của thân người.

"...Chúng ta sẽ già yếu và xấu xa. Thời gian sẽ phủ lên đầu chúng ta những lớp tro bạc. Ôi! mắt trong của em rồi sẽ mờ đục ! Môi đỏ của em rồi sẽ úa màu !...Ta nghe trong ta, trong em và trong cả mọi người, mỗi ngày mỗi đổ vỡ, dưới sức tàn phá cảu búa thời gian, tất cả những ǵ quư báu của đời người...chúng ta ôm giữ một cách tuyệt vọng, những bảo vật ở trong ta, như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương !".

 

Trí huệ thay ! Con người cao sang và đang trẻ đẹp, bên cạnh lại có vợ hiền sớm hôm hầu hạ, thế mà vẫn đủ sáng suốt, để nh́n thấy luật đẹp của đời người ! Những lời thống thiết ấy, chanửg những đă cảnh tỉnh Công chúa Da Du, mà c̣n đánh thức những ai c̣n say đắm trong cảnh đời giả tạm, cảnh sanh, già, bệnh, chết, là hiện thân của luật Vô thường. Có thân th́ phải chịu công lệ sanh già bệnh chết, không thể tồn tại măi được. Đức Lăo Tử cũng đă nhận thấy thân là nguồn tội lỗi, là gốc khổ đau, nên đă thốt ra câu:

"Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân,

Ngô nhược vô thân, hà hoạn chi hữu?"

(Ta có cái khốn khổ lớn, v́ ta có thân,

Nếu ta không thân th́ đâu khổ ǵ?)

 

Thân là Vô thường, thế mà lắm người v́ muốn trao dồi, bồi bổ, cung phụng xác thân đến nỗi gây biết bao tội ác ghê ghớm ! V́ muốn được thích khẩu, bổ thân, mà lắm người đành tay giết hại nhứng con vật yếu hèn và hành h́nh những con vật vô tội trước khi chết một cách rùng rợn. Đọc lịch sử, nghe Tần thỉ Hoàng ăn óc khỉ sống, ta đă cảm thông được nỗi đau đớn những con vật bị giết, thế mà người dự tiệc vẫn vui cười sung sướng, không đoái hoài đén tiếng rên xiết, kêu la, vùng vẫy của chúng, th́ thật là độc ác đến chừng nào ! Ḷng trắc ẩn của người ở đâu? Hỡi ôi ! Hung ác và thâm hiểm thay, ḷng dạ của con người !

V́ tham lam làm vẩn đục, tối tăm lương tri, nên con người không thấy rơ được lư Vô thường của thân xác và mới nỡ tâm làm điều tàn ác như thế !

 

III. Tâm Vô Thường

Thân đă Vô thường, nhưng c̣n tâm niệm có thường không? Tâm niệm cũng âm thầm dời đổi, lại có phần mau lẹ và vi tế hơn, nếu chúng ta không nh́n sâu vào, ắt khó mà thấy được.

Tâm niệm chúng ta thay đổi trong từng phút giây, theo với ngoại cảnh: chúng ta buồn đó rồi vui đó, thương đó rồi giận đó. Phút trước ta nhớ chuyện nầy, phút sau ta nghĩ chuyện khác. Hôm qua ta tinh tiến tu hành, hôm nay đă ưu phiền thổi chuyển. Thật đúng như đức Phật đă nói:

 

"Tâm người như vượn chuyền cây,

Như ngựa rông nơi đồng nội.."

 

Tâm niệm ta sanh diệt trong từng sát na; và chính v́ nó sinh diệt mau lẹ như thế, nên ta có cảm tưởng như nó không thay đổi ǵ cả. Đối với một đứa trẻ con, nếu chúng ta bảo rằng những h́nh ảnh cử động in như thật trên màn bạc, là do sự tiếp nối những tấm phim, ảnh hiện lên rồi biến mất, để nhường chỗ cho những tấm ảnh khác, trước ngọn đèn chiếu..nếu ta bảo như thế với một đứa bé, chắc nó không tin, v́ nó chưa hiểu được cái công dụng của tốc lực. Cũng như thế đó, tâm ta được cấu tạo bởi từng niệm sanh diệt, nhưng v́ chúng ta không nhận được sự biến chuyển mau lẹ của nó, nên ta cứ tưởng là nó đơn thuần và bất biến. Cái ta phút trước phải đâu là cái ta phút nầy? Và cái ta phút nầy đâu c̣n là cái ta phút sau? Vậy cái ta nào là cái ta thật? Cái ta phút trước, cái ta phút nầy hay cái ta phút sau? Một nhà thi sĩ đă hỏi một câu có vẻ ngớ ngẩn nhưng nghĩ kư thật là vô cùng sâu sắc:

 

"Ai bảo giùm: ta có ta không?"

 

Cái ta (hay cái tâm cũng thế) Vô thường tạm bợ, giả tạo như thế, thế mà người đời cứ cho nó là trung tâm điểm của vũ trụ, bám víu vào nó, nhơn danh nó để tham lam, vơ vét tài sản, danh lợi ở chung quanh, và dù có dẫm đạp lên hạnh phúc của kẻ khác, gây bao đau thương cho người đồng loại, cũng mặc ! Thật mê mờ lắm thay !

 

IV. Hoàn Cảnh Vô Thường

Như trên chúng ta đă thấy luật Vô thường ở khắp mọi nơi, chẳng những thân, tâm là Vô thường, mà hoàn cảnh, sơn hà đại địa, cũng Vô thường nữa.

Sách thường có câu:

"Thương hải, tang điền" (Băi biển nương dâu)

Câu ấy mới nghe như là một h́nh ảnh bóng bẩy về văn chương; nhưng thật ra, đó là một nhận xét rất đúng trong thực tế. Chúng ta, thường lầm tưởng chỉ có sinh vật là biến đổi và mau già chết, chứ những vật lớn lao như núi sông, đất cát, th́ muôn đời cũng vẫn ở yên một chỗ. Nhưng chúng ta đă lầm, sông núi cũng có cái già cái trẻ, đất cát cũng có khi lở khi bồi. Không có vật ǵ là vĩnh vin tồn tại. Tục ngữ ta có nhiều câu nói lên được sự Vô thường của sự vật một cách rất thâm thúy như: "Vật đổi, sao dời" hay "Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời".

Thật thế, một đời của chúng ta đă chững kiến biết bao sự thăng trầm, vinh nhục, lên voi xuống chó. Giàu nghèo, sang hèn tiếp tục diễn ra trước mắt chúng ta như một bức tranh vân cẩu, như một khúc phim trong rạp chiếu bóng. Bao nhiêu người, trước đây, nào dinh thự nguy nga, ruộng vườn c̣ bay thẳng cánh, thế mà sau một cơn binh lửa, sự nghiệp bỗng tan tành như mây khói ! Bao nhiêu người quyền cao, chức trọng hống hách, nghinh ngang, thế mà một phút sa cơ thất thế, bỗng trở thành những kẻ tha phương cầu thực, hay vướng cảnh tù đày !

Sự Vô thường đă sờ sờ trước mắt, thế mà có biết bao nhiêu người vẫn chưa tỉnh ngộ, cứ đeo đuổi bám víu vào những cái hào nhoáng nhất thời ấy. Kẻ bán tước, người mua quan, kẻ tham danh người ham lợi...gây biết bao tṛ cười cho khách bàng quan, và bày ra lắm cảnh nhọc nhằn cho người trong cuộc.

 

Thuở xưa, có một ông vua, sau khi đi dạo khắp phố phường, thấy nhân dân giàu có sung túc, mới sanh ḷng tham lam, muốn sung công bớt tài sản của họ, để bỏ vào kho. Nhà vua liền ra lệnh ai có của phải nạp bớt cho triều đ́nh.

Lịnh truyền ra, nhà nhà đều công phẫn, nhưng biết kêu ca với ai bây giờ? Trong lúc ấy, có một người lái buôn, muốn thức tỉnh nhà vua, nên đánh bạo đem hết tài sản về kinh đô, đến giữa trào, dâng lên vua và tâu rằng:

Hạ thần xin dâng hết tài sản cho triều đ́nh

Vua ngạc nhiên phán hỏi:

Ta chỉ thâu một phần thôi, sao ngươi lại dâng hết cả như thế?

Tâu, v́ hạ thần nghĩ của này không phải của Hạ thần, mà là của 5 nhà: nước trôi, lửa cháy, giặc cướp, sung công và vợ con phá tán. Hạ thần dù cố sức giữ ǵn thế nào đi nữa, cũng không khỏi bị một trong 5 nhà ấy chiếm đoạt. V́ thế hạ thần xin dâng hết, không giữ làm ǵ, để về sau khỏi khổ sở v́ nó. Mong Hoàng thượng nhận hết cho, hạ thần rất cảm tạ ơn sâu ấy.

Sau khi nghe lời tâu của người lái buôn, nhà vua ngẫm nghĩ hồi lâu, chợt tỉnh ngộ, cả thẹn và thầm bảo: "Người nầy đến dạy khôn cho ta. Giang sơn cẩm tú của ta, ta có giữ ǵn được lâu dài không? Hay sẽ bị năm nhà, mà người lái buôn vừa nói, đoạt mất? Giang sơn c̣n chưa giữ được, huống hồ tài sản của nhân dân ! Người ấy là ân nhân của ta, nếu không có người đem ánh sáng thức tỉnh ta, th́ ta sẽ làm một việc rất tàn ác".

Suy nghĩ xong, vua bèn hạ lệnh ngưng sung công, lại c̣n xuất tiền phát cho dân nghèo nữa. Thật là một mẩu chuyện quư báu, để thức tỉnh những ai đang c̣n ch́m đắm trong ṿng danh lợi, đang gây đau khổ cho ḿnh và những người chung quanh, v́ chưa nhận chân được lẽ vô thường của hoàn cảnh.

 

V. Quyết Định

Có người nghi rằng: Đạo Phật nói vô thường, phải chăng vô t́nh gieo vào ḷng mọi người những quan niệm chán đời thối chí? V́ sự vật đă vô thường th́ không nên làm ǵ cả, có siêng năng hoạt động kinh doanh sự nghiệp rồi cũng không đi đến đâu cả. Tro bụi, người sẽ trở thành tro bụi hay sao?

Xin đáp: Vô thường của đạo Phật là một phương pháp chỉ rơ mặt trái của đời, để bài trừ những sự mê lầm, ngăn chặn người chạy theo vật dục, nó chưa phải là thuyết tuyệt đối.

Đức Phật cũng như vị lương y tùy theo chứng bệnh mà cho thuốc. Với bịnh "chấp thường c̣n không mất", th́ dùng phương thuốc "vô thường" để đối trị, khi lành bịnh th́ Phật lại cho thứ thuốc bổ khác quí báu hơn, là "thuyết chơn thường bất biến". Theo kinh Lăng Nghiêm, Ngài A Nan cũng lầm như chúng ta, cho nên đức Phật bảo Ngài La Hầu La đánh chuông để chỉ bày cho Ngài A Nan phân biệt cái "biến đổi tiêu diệt", và cái "thường c̣n không thay đổi". Khi tiếng chuông do Ngài La Hầu La đánh ngân lên, đức Phật hỏi Ngài A Nan có nghe không?

Ngài A Nan đáp:

Bạch Thế Tôn ! Nghe.

Khi tiếng chuông dứt, Phật lại hỏi:

A Nan có nghe chăng?

Ngài A Nan đáp:

Bạch Thế Tôn ! Không c̣n nghe nữa. Đức Phật lại bảo Ngài La Hầu La, đánh tiếng chuông thứ hai, rồi Phật cũng hỏi như lần trước, và Ngài A Nan cũng đáp có nghe.

Đức Phật quở:

A Nan, sau ông trả lời lẩn quẩn như thế?

Ngài A Nan ngạc nhiên; đáp:

Chẳng những một ḿnh con mà mọi người ai cũng thừa nhận có tiếng th́ có nghe, tiếng dứt th́ không c̣n nghe.

Đức Phật gạn lại:

"Ông và mọi người đều cho có tiếng là có nghe, tiếng dứt, th́ không có nghe nữa; thế là "tánh nghe" theo tiếng mà mất, th́ có lẽ không bao giờ nghe nữa. Tại sao lúc tiếng thứ hai ngân lên, lại c̣n nghe nữa ? Nếu nghe được tiếng thứ hai, th́ nhất định biết không phải tiếng dứt mà không nghe. Tiếng có lúc c̣n lúc mất, "tánh nghe" vẫn thường không dời đổi. Vả lại, nếu tiếng dứt rồi mà tánh nghe không c̣n, th́ cái ǵ biết được sự không nghe ấy?"

Cho biết, Phật dạy "vô thường" để đối trị chấp thường c̣n của chúng sanh. Đến khi chúng sanh đă hiểu lẽ vô thường, th́ Phật lại chỉ bày lẽ chơn thường bất biến.

 

C. Kết Luận

Vô thường là một định luật chi phối tất cả sự vật, từ thân, tâm cho đến mọi hoàn cảnh. Hiểu lư vô thường, chúng ta đă có một phương thuốc thần diệu để trừ bệnh tham ái, mê mờ. Chúng ta đă đau khổ v́ màu sắc tốt xấu, v́ tiếng dở hay, v́ mùi vị ngọt bùi, cay đắng, v́ vật thích thân, vừa ư. Nay chúng ta uống thuốc "giáo lư vô thường", để trừ bịnh tham ái và tiến tới sự an tịnh của tâm hồn.

Biết được vô thường, con người giữ được b́nh tỉnh thản nhiên trước cảnh đổi thay bất ngờ và có thể lạnh lùng trước cảnh ân ái chia ly. Biết vô thường, con người dám hy sinh tài sản, sanh mạng để làm việc nghĩa. Biết vô thường con người mới chán ngán với những thú vui tạm bợ, giả trá, và sáng suốt đi t́m những cái vui chân thật thường c̣n. V́ thật ra, cái vui chân thật thường c̣n, cái tánh chân thường vẫn có, nhưng nó nằm bên trong cái lớp giả dối tạm bợ; vô thường của cơi đời nầy, nên chúng ta không thể thấy được. Khi chúng ta đă cương quyết gạt bỏ cái vỏ giả dối ấy, th́ tất nhiên cái giá trị chơn thật, cái hạnh phúc chơn chính, cái Phật tánh sáng suốt, chắc thật muôn đời sẽ hiện ra.

Trở Lên

Bài Thứ 4 
Thiểu Dục Và Tri Túc  

A.. Mở Đề

Người đời phần nhiều thường đua chen, dong ruổi theo vật chất, không biết bao nhiêu cho vừa. Người thiếu thốn tham muốn đă đành, nhưng người dư giả, tiền bạc lấy thước mà đo, thế mà vẫn c̣n tham muốn.

Đă tham muốn, th́ không bao giờ thấy ḿnh đầy đủ cả. Ngạn ngữ có câu: "Bể kia dễ lấp, túi tham khó đầy". Thật đúng như thế, "ḷng tham đă không đáy", th́ làm sao đầy được?

Để đối trị ḷng tham, Phật khuyên chúng ta phải "Thiểu Dục và Tri Túc". Trong Khế kinh có nói: "Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng du vi an lạc, bất chi túc chi nhơn, tuy xứ thiên đường diệt bất xưng ư". Nghĩa là: Người biết đủ, dù nằm trên đất cát vẫn an lạc, trái lại, người không biết đủ, dù ở cung trời cũng không vừa ư.

Vậy muốn được sung sướng an vui, chúng ta cần phải Thiểu Dục và Tri Túc.

B. Chánh Đề

I. Định Nghĩa

Thiểu Dục là muốn ít: Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà v́ nhu cầu, mong cho có. Như muốn có cái nhà ở vừa sạch, vừa che kín nắng mưa; cần đi cho mau, muốn có một phương tiện giao thông ǵ cho tiện lợi, chỉ cốt đỡ mỏi chân, đỡ tốn th́ giờ là được , chứ không muốn một chiếc xe hơi lộng lẫy, mấy trăn ngh́n, quá sức tài chánh của ḿnh.

Biết đủ, gặp hoàn cảnh nào cũng đều an phận tùy duyên. Đối với việc ăn, mặc và ở, tự thấy ḿnh có đủ dùng rồi, không tham cầu nhiều hơn nữa, mà phải khổ sở về tinh thần. Người Đời Thường Tham Muốn Những Ǵ?

Người đời thường bị năm thứ tham muốn sau đây sai khiến:

a) Tham muốn tiền của

b) Tham muốn sắc đẹp

c) Tham muốn danh vọng

d)Tham muốn ăn ngon

đ) Tham muốn ngủ kỹ.

Người tham muồn tiền của, th́ tiền kho bạc đống, nhà ngang dăy dọc, đất ruộng c̣ bay thẳng cánh, cũng chưa cho là vừa, mà vẫn c̣n mong muốn được làm giàu thêm nữa.

Người tham muốn sắc đẹp, th́ suốt đời giong ruổi đi t́m hoa; thấy ai có nhan sắc là mê mết, t́m cách nầy cách khác để gần gũi cho kỳ được. Một khi đă thỏa măn, th́ lại ruồng bỏ người đẹp nầy để chạy theo người đẹp khác; luôn luôn bị vật dục sai khiến, mất hết cả nhân cách.

Người tham muốn danh vọng, th́ suốt đời giong ruổi theo chức cả, quyền cao, tiếng danh, hay tốt. Họ c̣n cúi hết chỗ này đến chỗ khác, để mong được cái địa vị cao sang. Họ lao tâm, khổ trí, t́m mọi cách để nắm giữ cho được cái hư danh.

Người tham muốn ăn ngon, th́ suốt đời lân la bên cạnh những cao lương mỹ vị, quanh quẩn bên những tiệc bàn, t́m khoái khẩu trong những rượu ngon, vị lạ. Thế giới của họ thu hẹp lại trong những món ăn và những người bạn rượu.

Người tham muốn ngủ nghỉ, th́ quá nửa đời ḿnh lẩn quẩn trên chiếc giường; ăn xong lại nghỉ chuyện đi nằm, nằm là ngủ, ngủ xong lại muốn ngủ nữa, mất cả tự chủ của ḿnh.

Tóm lại, khi đă tham muốn những thứ ấy, th́ cuộc đời của những kẻ ham muốn kia, chỉ c̣n thu hẹp lại trong sự ham muốn của ḿnh, và làm tôi mọi cho vật dục mỗi ngày mỗi thêm chặt chẽ. Xét cho cùng th́ những sự tham muốn trên, ngoài sự tham muốn danh vọng là do kiêu căng ngă mạn, c̣n các thứ tham vọng khác, đều do ngũ dục là động lực chính cả. Ngũ dục là: Sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, và xúc dục.

Sắc dục là ǵ? Là nhăn căn đối với sắc trần, sanh tâm tham muốn. Trong th́ "chánh báo" là thân phần của nam nhơn hay nữ nhơn: Mày tằm mắt phượng, môi đỏ má hồng...Ngoài th́ "y báo" là vật dụng của thế gian: ngọc, ngà, châu, báu, vật quư đồ xưa, sắc màu lộng lẫy...Những món ấy, đại đa số người vừa trông thấy liền sanh tâm tham ái.

Thanh dục là ǵ? Là tai nghe tiếng hay, tâm sanh say đắm; như tiếng ca, giọng hát, khúc lư câu t́nh, âm điệu du dương, khêu gợi tâm dục của người, sanh tâm dắm nhim.

Hương dục là ǵ? Là lỗ mũi khi đối với hương trần sanh tâm tham muốn; như dầu thơm ngào ngạt, phấn sáp nồng nàn v.v...Những món hương trần ấy, khiến cho người ngửi đến th́ sanh tâm ưa thích đắm nhim, mơ tưởng vẫn vơ.

Vị dục là ǵ? Là khi lưỡi đối với mùi vị, sanh tâm tham đắm, như các mùi vị thơm tho, ngọt bùi, chua chát, mặn lạt, mỡ thịt, cá tôm, chả gỏi nem b́, những đồ cao lương mỹ vị..

Vẫn biết nhân loại đối với sự ăn uống phải cần dùng nhiều món để nuôi sống mà làm việc. Thế nên cả nhân loại ăn chẳng công nhận nó là điều cần thiết nhất, nếu ăn uống kém thiếu, th́ thân thể phải ốm gầy. Nhưng ta nên xem sự ăn uống như là uống thuốc, để chữa bịnh đói khát mà thôi. Nếu quá tham món cao lương mỹ vị, chỉ biết lo sống để mà ăn, th́ con người có cho là cao thượng? Phật nói: "Chúng sanh sở dĩ đi không cách đất, không khỏi cỏ cây, ra vào không rời khỏi không khí, là bởi ăn những món "do đất sanh ra", nên thân thể rất nặng nề".

Xúc dục là ǵ? Là thân thể khi giao thiệp với xúc trần, sanh tâm tham muốn. Bố vải thô sơ, mặc vào ḿnh biết nhám; lụa là, gấm nhiu xuông, vào ḿnh biết trơn láng, gỗ chạm vào ḿnh biết cứng, bông đụng vào ḿnh biết mềm v.v...Những vật ǵ mềm mại th́ sanh tâm ưa thích, những vật ǵ cứng nhám th́ sanh ḷng ghét bỏ.

II. Tai Hại Của Ḷng Tham Quá Độ

Những sự tham muốn quá độ, làm cho ḷng người xao xuyến, mất hết cả tự chủ, và chỉ c̣n là nô lệ cho những thèm muốn của ḿnh mà thôi. Một khi đă bị ḷng tham dục điều khiển, th́ con người gây không biết bao nhiêu tội lỗi, dám làm những chuyện hung ác mà chẳng gớm tay. Lại chính v́ ḷng tham muốn không ngằn mé, mà ḿnh không tự nhận biết, nên đến khi muốn mà không được , th́ đổ lỗi cho người, nhân đó sinh ra cạnh tranh, xung đột, làm cho nhân loại chịu lắm điều tàn hại. Ḷng tham muốn quá độ, làm cho con người tối mắt trước những sự phải, trái, thúc đẩy người đời vào đường tội lỗi. Chẳng hạn một kẻ không có năng lực, đạo đức mà muốn được giàu có lớn và quyền thế to, th́ có thể dùng những mưu mô gian xảo, đen tối, dă man để đạt ư muốn của ḿnh. Hoặc giả, cũng v́ muốn được như ư bà vợ yêu quí, mà có lắm ông chồng bị bắt buộc làm những việc trái với lương tâm cho đến tan thân mất mạng.

Tóm lại, ngũ dục làm hại cho loài người không thể kể xiết: V́ ngũ dục mà sanh ra lo buồn giận dữ, v́ ngũ dục mà sanh ra dối trá, gian tham v́ ngũ dục mà sanh ra cạnh tranh xâu xé, nhân loại đưa nhau vào rừng tên mũi đạn.

Trong hiện tại ḷng tham muốn quá độ, sự chạy đuổi theo ngũ dục đă làm tổn hại chẳng những cho ḿnh và cho người, mà trong tương lai, chúng lại c̣n đưa con người vào chốn tam đồ ác đạo, nhất là vào ṿng ngạ quỷ, để phải chịu thiếu thốn cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần.

Đó là kết quả thảm khốc của người quá tham, không biết "Thiểu dục" và "Tri túc".

III. Phương Pháp Đối Trị Ḷng Tham Muốn Quá Độ: Thiểu Dục Và Tri Túc

Túi tham đă không đáy, th́ càng tham lại thấy càng thiếu, càng khổ. Phật dạy: "Càng tham muốn, càng khổ sở". Chúng ta đừng lầm tưởng rằng: một khi ḷng tham muốn được thỏa măn, là hết tham muốn. Hễ c̣n củi th́ lửa c̣n cháy. Tham muốn được toại nguyện th́ tham muốn lại càng to lên. Tục ngữ thường nói: "Được voi đ̣i tiên" là thế. Người mà lửa tham vọng mong cầu nung nấu trong ḷng, bao giờ cũng thấy ḿnh c̣n thiếu thốn. Không thấy thiếu món nầy, lại thấy thiếu món khác, rồi thèm khát măi, không lúc nào được toại chí. Mà không toại chí là con đau khổ.

Để đối trị ḷng tham vô độ, đạo Phật cũng như đạo Nho đều dạy chúng ta phải "Tri túc" tức biết đủ. Có bao nhiêu ta hưởng bấy nhiêu, tự cho ḿnh không c̣n thiếu ǵ nữa, đừng nh́n lên những kẻ giàu có sang trọng hơn ḿnh, thế là "biết đủ". Có bao nhiêu ta hưởng bấy nhiêu, tự cho ḿnh không c̣n thiếu ǵ nữa, đừng nh́n lên những kẻ giàu có sang trọng hơn ḿnh, thế là "biết đủ".

Trong kinh Di Giáo, Phật dạy: "Nầy các Tỳ kheo ! Nếu các ông muốn thoát khỏi sự khổ năo, nên suy nghiệm hai chữ "Tri túc". Hễ biết đủ th́ ở cảnh nào cũng yên vui. Người không biết đủ, tuy giàu mà nghèo; người biết đủ tuy nghèo mà giàu. Người không biết đủ thường bị năm thứ ham muốn kéo dắt, làm người biết đủ thương hại.

Một người trong tay thâu tóm tất cả của cải trong thế gian, với người nghèo mà không tham muốn, hai người đều giàu như nhau.

Chúng ta hăy chiêm nghiệm những lời dạy đầy ư nghĩa ấy. Làm chủ đời ta, chính là ḷng ta. Giàu nghèo sang hèn chỉ là vấn đề phụ thuộc. Nếu ta kiềm chế được dục vọng, tham muốn là ta giàu sang; nếu ta không kiềm chế được dục vọng tham muốn là ta nghèo hèn.

IV. Lợi Ích Của Hạnh Thiểu Dục Và Tri Túc

Ḷng tham muốn làm cho ta khổ bao nhiêu, th́ Thiểu dục và Tri túc lại làm cho ta sung sướng bấy nhiêu. Đó là lẽ đương nhiên. Nhờ "ít tham dục", nên con ma dục vọng không làm sao xui khiến được ḿnh; nhờ "biết đủ", nên con quỷ tham lam chẳng có quyền hành sai sử ḿnh nữa. Một khi con người không c̣n làm nô lệ cho vật chất đê hèn nữa, th́ ḷng người bắt đầu tự do giải thoát. Con người lúc ấy mới xứng danh là con người, Mới có đủ nhân cách và không hổ thẹn với địa vị làm anh cả muôn loài. Chỉ khi ấy con người mới có thể tự cho là ḿnh có hạnh phúc được; và dù cho thường ngày vẫn ăn cơm hẩm canh rau, quanh năm cứ quần bô, áo vải, cũng vẫn thấy trong ḷng thơ thới, an vui, sung sướng. Từ xưa đến nay, không có một vị giáo chủ nào, hiền triết ṇa xứng đáng với danh nghĩa ấy mà lại không khinh thường vật chất, mà lại chạy theo danh vọng tiền của, ăn sung, mặc sướng cả.

Hơn nữa, nhờ Thiểu dục và Tri túc mà gia đ́nh, xă hội được an vui, ḥa b́nh, không c̣n ai giành giật của cải, danh vọng, miếng ngon, vật lạ của ai nữa. Có lợi ích của Thiểu dục và Tri túc thật không sao kể xiết được. Giải Đáp Những Thắc Mắc Về Thiểu Dục Và Tri Túc

Có người hỏi: Con người muốn tiến bộ, cần phải nỗ lực phấn đấu, cạnh tranh trong tất cả mọi trường hợp. Đạo Phật lại day phải Thiểu dục và Tri túc. Như thế là chủ trương làm cho nhân loại thối hóa chăng?

Đáp: Không ! Đạo Phật dạy "Thiểu dục" và "Tri túc" cốt yếu ngăn ngừa con đường trụy lạc, chận đứng ḷng tham lam độc ác không bờ bến của chúng sanh, đang sống trong cơi đời vật dục, chứ không phải chủ trương ngăn chận sự tiến triển của con người trên đường lợi người, lợi vật, ích nước, ích dân. Nhận thấy tai hại lớn lao của bịnh tham lam, nên đức Phật đưa ra phương thuốc rất công hiệu là "muốn ít" và "biết đủ" để điều trị căn bệnh ấy cho tận gốc. Phương thuốc nầy sẽ làm yếu dần tâm tham lam, nên các mối dục vọng, tội ác dần dần tiêu diệt, chỉ c̣n lại tấm ḷng từ bi rộng răi bao la mà thôi. Một khi con người hết chạy theo dục vọng, hết đuổi bắt những hạnh phúc vật chất tạm bợ, giả trá cũng không đào bớt thêm đau khổ của người khác, để t́m hạnh phúc cho ḿnh nữa, th́ lúc ấy, hạnh phúc chân thật liền đến với họ.

Như thế, nghĩa là hạnh "Thiểu dục" và "Tri túc" bắt đàu hăm bớt tốc lực của ḷng dục vọng tham lam, kế đó chận đứng nó lại, sau hết buộc nó xoay chiều, đổi hướng, tinh tiến măi trên con đường lành. Vậy th́ hạnh "muốn ít" và "biết đủ " chẳng những không đưa con người vào con đường thối hóa, mà lại giúp cho sự tiến hóa của nhân loại.

Vả lại, ngày nay nhân loại đang chứng kiến môt sự mất quân b́nh nguy hiểm giữa sự tiến hóa mau lẹ của vật chất và sự chậm tiến của tinh thần. Sự mất tinh thần ấy có thể đưa nhân loại đến chố diệt vong. Vậy cần phải quân b́nh sự tiến hóa vật chất và tinh thần. Muốn thế, chẳng có phường pháp nào là tuân theo hạnh "Thiểu dục" và "Tri túc". Con người nếu biết coi thường vật chất một ít, th́ mới tiến hóa thêm về tinh thần.

Sỡ dĩ ngày nay trên thế giới, đứng về phường diện vật chất, khoa học, con người có tiến triển rất nhiều, rất nhanh; c̣n về phương diện tinh thần, đạo đức, con người tiến rất chậm, v́ ít ai quan tâm lưu ư đến nó, mà chỉ chạy theo vật chất. Hễ vật chất quá tiến, th́ tinh thần phải lùi, vật chất càng cao th́ ḷng tham càng nặng, càng sâu, càng lớn, không biết lúc nào là cùng. Tai họa chiến tranh ngày nay, gieo rắc khắp nơi trên thế giới, cũng do ḷng tham không đáy của con người "bất tri túc" vậy

Vậy Thiểu dục và tri túc là hai phương thuốc thần diệu cho căn bệnh trầm trọng của thế giới ngày nay, không ai có thể chối căi được.

C. Kết Luận:

Kẻ ngoài đời và người trong đạo, muốn được hạnh phúc chân thật, th́ nên tu hạnh "thiểu dục" và "tri túc ". V́ thật sự, những người không quá đ̣i hỏi về vật chất, th́ chẳng hề so sánh với bề trên; do đó, không thấy ḿnh thiếu thốn về vật chất, nên ít khổ. Hơn nữa, họ chỉ so sánh với kẻ dưới, thấy ḿnh khá giả, đầy đủ hơn, nên dể măn nguyện.

Muốn tránh khỏi tai nạn trong gia đ́nh và xă hội, mỗi người trên thế gian nầy, đều phải giữ phận thủ thường, đừng vượt quá khả năng của ḿnh. Trên thể giới năm châu hiện nay, muốn có ḥa b́nh để mà hưởng lạc thú ḥa b́nh vĩnh viễn, th́ cũng không ngoài cái hạnh "Thiểu dục" và "Tri túc" mà được.

Trở Lên

Bài Thứ 5 
Nhân Quả 

A. Mở Đề 

Vũ trụ, vạn vật không phải tuần hành, biến dịch một cách tự nhiên, vô lư, mà tuân theo một cái luật chung. luật đó là luật Ngài nhân quả. Luật nào không phải do một đấng nào, xẫ hội nà đặt ra, mà là một lụat thiên nhiên âm thầm, lặng lẽ, nhưng đúng đẵn vô cùng. Người đời v́ không quan sát một cách kỹ càng, tường tân nên không thấy được luật ấy. Do đó, họ đă hành động một cách bừa băi, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với bản thân ḿnh và với người chung quanh. Và cùng chính v́ thế mà họ đau khổ, lặn hụp măi trong biển mê mờ, tội lỗi. Trái lại, Đức Phật là vị hoàn toàn giác ngộ, đă phát huy ra cái luật nhân quả đang chi phối, điều hành mọi sự vật trong vũ trụ nầy, nên Ngài đă hành động một cách sáng suốt, lời lạc cho chính ḿnh và chúng sanh. Vậy chúng ta là Phật tử, chúng ta cần phải hiểu biết cái luật nhân quả mà đấng từ phu đó phát huy nó như thế nào, để rồi hành động đúng theo như lời Ngài đă làm, hầu đem lại hạnh phúc chân thật, lâu bền cho ḿnh và cho người chung quanh. 

B. Chánh Đề 

I. Định Nghĩa:

 

"Nhân" là nguyên nhân, "Quả" là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, Quả là sự h́nh thành của năng lực phát động ấy. Nhân và Quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có Nhân th́ không có Quả; nếu không có Quả th́ không có Nhân.

 
Những Đặc Tính Của Luât Nhân Quả 
1. Nhân thế nào th́ quả thế ấy: 
Nếu ta muốn có quả cam th́ ta phải ươm hạt giống cam; nếu ta muốn có hạt đậu th́ ta phải gieo giống đậu. Không bao giờ ta trồng cam mà lại được đậu, hay trồng đậu mà lại được cam. Người học đàn th́ biết đàn, người học chữ th́ biết chữ. nói một cách khác, nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau. Hễ nhân đổi th́ quả cũng đổi.

 
2. Một nhân không thể sanh ra quả: 
Sự vật trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một nhân nào, có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói một cách giản dị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra ǵ được cả, nếu để một ḿnh nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng đất nước, nhân công. 
Cho nên, khi ta nghe bất cứ ai tuyên bố rằng: Mọi vật do một nhân sinh ra, hay một nhân có thể sanh ra vạn vật; ta có thể chắc chắn rằng, người ấy nói sai sự thật.

 
3. Trong nhân có quả, trong quả có nhân: 
Chính trong nhân hiện tại đă có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong cái quả hiện tại, đă có h́nh bóng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, h́nh thành ra cái quả mà ta mong muốn, chờ đợi. Một sự vật ta gọi là quả, là khi nó chưa biến chuyển, h́nh thành ra trạng thái mà ta mong đợi ước muốn. Mỗi vật, v́ thế, đều có thể gọi là nhân hay quả được: đối với quá khứ, th́ nó là quả, nhưng đối với tương lai th́ nó là nhân. Nhân và qủa tiếp nối nhau, đắp đổi nhau như những ṿng trong sợi dây chuyền.

 
4. Sự phát triển nhanh và chậm từ nhân đến quả: 
Sự biến chuyển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao giờ cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất: 
Có những nhân và xảy ra kế tiếp nhau, liền nhau, nhân vừa phát khởi th́ quả đă xuất hiện, như khi vừa đánh xuống mặt trống (nhân) th́ tiếng trống liền phát hiện ra (quả); hay khi hai luồng điện âm và dương vừa gặp nhau, th́ ánh sáng liền bừng lên. Có khi nhân đă gây rồi, nhưng quả đợi một thời gian, quả mới h́nh thành, như từ khi gieo hạt giống, cho đến khi gặt lúa, cần phải có một thời gian ít nhất là bốn tháng. 
Có khi từ nhân đến quả cách nhau từng chục năm, như đứa trẻ mới cắp sách đi học đến ngày thành tài, phải qua một thời gian ít nhất là mười năm. 
Có khi cần đến một vài trăm năm, hay nhiều hơn nữa quả mới xuất hiện. Chẳng hạn như từ ư niệm giành độc lập của một quốc gia, đến khi thực hiện được nền độc lập ấy, cần phải qua bao thế kỷ. 
V́ lư do mau chậm, trong sự phát hiện cái quả, chúng ta không nên nóng nẩy hấp tấp, mà cho rằng cái luật nhơn quả không hoàn toàn đúng, khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả.

 

Phân Tích Hành Tướng Của Nhân Quả Trong Thực Tế

 

Như các đoạn trên đă nói, nhân quả chi phối tất cả vũ trụ vạn hữu, không có một vật ǵ, sự ǵ, động vật hay thực vật, vật chất hay tinh thần, thoát ra ngoài luật nhân quả được. Ở đây, để có một quan niệm rơ ràng hơn về luật nhân quả, chúng ta hăy tuần tự phân tích hành tướng của nhân quả trong mọi sự vật:

 

1. Nhân quả có trong những vật vô tri vô giác: 
Nước bị lửa đốt th́ nóng, bị gió thổi th́ thành sóng, bị lạnh th́ đông lại. Nắng lâu ngày th́ đại hạn, mưa nhiều th́ lụt, gió nhiều th́ sanh băo.

 

2. Nhân quả trong loài thực vật: 
Hạt cam th́ sanh ra cây cam, cây cam th́ sanh trái cam. Hạt ớt th́ sanh ra cây ớt, cây ớt th́ sanh ra trái ớt. Nói một cách tổng quát, giống ngọt th́ sanh trái ngọt, giống chua th́ sanh trái chua, giống nào th́ sanh quả ấy.

 

3. Nhân quả trong các loài động vật: 
Loài chim sanh ra trứng, nên chúng ta gọi trứng là nhân, chờ khi ấp nở thành con là quả; con chim ấy trở lại làm nhân, sinh ra trứng là quả. 
Loài thú sanh con, con ấy là quả. Con thú lớn lên, trở lại làm nhân sanh con là quả.

 

4. Nhân quả nơi con người: 
Về phương diện thể chất: Thân tứ đại là do bẩm thụ huyết của cha mẹ, và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả, và cứ tiếp nối như thế măi, nhân sanh quả, quả sanh nhân, không bao giờ dứt. 

Về phương diện tinh thần: Những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tánh t́nh tốt hay xấu, một nếp sống trong hiện tại: tư tưởng và hành động quá khứ là nhân, tánh t́nh nếp sống tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh t́nh và nếp sống này là nhân, để tạo ra những tư tưởng và hành động trong tương lai là quả. 

Để nhận rơ cái phần tinh thần quan trọng nầy, chúng ta hăy dành riêng ra một mục, để đặt biệt chú ư đến hành tướng của nó dưới đây.

 

II. Nhân Quả Về Phương Diện Tinh Thần

  

1. Nhân quả của tư tưởng và hành vi không tốt: 

Tham: Thấy tiền của người, nổi ḷng tham lam sanh ra trộm cắp, hoặc giết hại người là nhân; bị chủ đánh đập hoặc đâm chém, phải tàn tật, hay bị nhà chức trách bắt giam trong khám đường, chịu những điều tra tấn, đau khổ là quả. 
Sân: Người quá nóng giận, đánh dập vợ con, phá hoại nhà cửa, chém giết người không gớm tay là nhân; khi hết giận đau đớn, nh́n thấy vợ con bịnh hoạn, nhà cửa tiêu tan, luật pháp trừng trị, phải chịu nhiều điều khổ cực là quả. 
Si mê: Người say mê sắc dục, liễu ngơ hoa tường, không có biết sự hay dở, phải trái là nhân; làm cho gia đ́nh lủn củn, thân thể suy nhược, trí huệ u ám là quả. 

Nghi ngờ: Suốt đời cứ nghi ngờ việc nầy việc khác, ai nói ǵ cũng không tin, ai làm ǵ cũng không theo, đó là nhân; kết cuộc không làm nên được việc ǵ cả, đến khi lâm chung, buông xuôi hai bàn tay trắng đó là quả. 

Kiêu mạn: Tự cho ḿnh là hơn cả, khinh bỉ mọi người, chà đạp lên nhân phẩm người chung quanh, là nhân; bị người ghét bỏ, xa lánh, sống một đời lẻ loi, cô độc là quả.

Nghiện rượu trà: chung quanh tiện bạc ăn nhậu cho thỏa thuê là nhơn; đến lúc say sưa chén bát ngổn ngang, ghế bàn nghiêng ngả nhiều khi gây ra chém giết nhau làm những điều tội lỗi, phải bị phạt vạ và tù tội là quả. 

Say mê cờ bạc: Thấy tiền bạc của người muốn hốt về ḿnh, đắm đuối quanh năm, suốt tháng theo con bài lá bạc, là nhân; đến lúc của hết nhà tiêu, nợ nần vây kéo, thiếu trước hụt sau, thâm quỹ thụt két là quả. 

 

2. Nhân quả của tư tưởng và hành vi tốt: 

Như trên chúng ta đă thấy, những tư tưởng hành vi xấu xa tạo cho con người những hậu quả đen tối, nhục nhă, khổ đau như thế nào, th́ những tư tưởng và hành vi đẹp đẽ tạo cho con người những hậu quả sáng lạng, vinh quanh và an vui như thế ấy. 

Người không có tánh tham bỏn sen, th́ tất không bị của tiền trói buộc, tâm trí được thảnh thơi. Người không nóng giận, tất được sống cảnh hiền ḥa, gia đ́nh êm ấm; người không si mê theo sắc dục, th́ tất được gia đ́nh kính nể, trí huệ sáng suốt, thân thể tráng kiện; người không hay ngờ vực, có đức tin, th́ hăng hái trong công việc, được người chung quanh tin cậy, dễ thành tựu trong đời; người không ngạo mạn th́ được bạn bè quí chuộng, niềm nở đón tiếp, tận tâm giúp đỡ khi ḿnh gặp tai biến. Người không rượu chè, cờ bạc th́ không đến nỗi túng thiếu, bà con quen biết ḱnh nể, yêu v́...Những điều nầy, tưởng không cần phải nói nhiều, quí đọc giả cũng chán biết. Hàng ngày quanh chúng ta, những cảnh tượng nhân và quả ấy, diễn ta không ngớt, chỉ cần giở tờ báo hàng ngày, đọc các mục tin tức là thấy ngay. 

Nói một cách tổng quát, về phương diện tinh thần cũng như về vật chất, người ta gieo thứ ǵ, th́ gặp thứ ấy. Người Pháp có câu: Mỗi người là con đẻ của công nghiệp ḿnh

III
. Lợi Ích Đem Lại Cho Chúng Ta Do Sự Hiểu Biết Và Áp Dụng Luật Nhân Quả.

 

1. Luật nhân quả tránh cho ta những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào thần quyền: 

Luật nhân quả cho chúng ta thấy được thực trạng của sự vật, không có ǵ mơ hồ, bí hiểm. Nó vén tất cả những cái ǵ đen tối, phĩnh phờ của mê tín dị đoan, đang bao trùm sự vật. Nó cũng phủ nhận luôn cái thuyết chủ trương Vạn vật do một vị thần sinh ra, và uy quyền thưởng phạt muôn loài. Do đó, người hiểu rơ luật nhân quả sẽ không đặt sai ḷng tin tưởng của ḿnh, không cầu xin một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ hoang mang.

 

2. Luật nhân quả đem lại ḷng tin tưởng vào chính con người: 
Khi đă biết cuộc đời của ḿnh do nghiệp nhân của ḿnh tạo ra, ḿnh là người thợ tự xây dựng đời ḿnh, ḿnh là kẻ sáng tạo, mà không tin tưởng ở ḿnh th́ c̣n tin tưởng ở ai nữa? Ḷng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng quư báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh hăng hái làm điều tốt. V́ những hành động tốt đẹp ấy, họ biết sẽ là những cái nhân quư báu, đem lại những kết quả đẹp đẽ.

 

3. Luật nhân quả làm cho chúng ta không chán nản, không trách móc: 
Người hay chán nản, hay trách móc là v́ đă có thói quen ỷ lại ở kẻ khác, là v́ hướng ngoại. Nhưng khi đă biết ḿnh là động lực chính, là nguyên nhân chính của mọi sự thất bại hay thành công, th́ c̣n chán nản trách móc ai nữa? Đă biết ḿnh là quan trọng như thế, là chỉ c̣n lo tự sửa ḿnh, thôi gieo nhân xấu, để khỏi phải gặt quả xấu, tránh tạo giống ác để khỏi mang cái ác. 

 

IV. Quyết Nghi 

 

1. Có người nghĩ rằng: Nhân quả là một luật tự nhiên rất đúng đắn công bằng, sao có người cả đời hiền từ mà lại gặp lắm tai nạn khổ sở; trái lại, những người hung ác, sao lại vẫn được an b́nh ? 

Đáp: Những đọan trên đă nói, thời gian tiến triển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải khi nào cũng đồng nhau. Có cái nhân từ đời nay, đến đời sau mới h́nh thành quả v.v... 

Vậy nếu có người trong đời hiện tại làm việc hung ác, mà được an lành, là do kiếp trước họ tạo nhơn hiền từ. C̣n cái nhơn hung ác, mới tạo trong đời nay, th́ tương lai hay qua đời sau, họ sẽ chịu quả báo. Cũng như có người năm nay ăn chơi, không làm ǵ hết, mà vẫn no đủ, là nhờ năm rồi họ có làm, có tiền của để dành vậy. C̣n cái nhân ăn chơi không làm năm nay, th́ sang năm họ sẽ chịu quả đói rách. 

C̣n người đời nay hiền từ, làm các điều phước thiện, mà vẫn gặp tai nạn, khổ sở, là do đời trước, họ tạo những nhơn không tốt. Cái nhơn hiền từ đời nay, qua đời sau họ sẽ hưởng quả vui. Cũng như có người tuy năm nay siêng năng làm ruộng, mà vẫn thiếu hụt, là v́ nhân ăn chơi năm vừa rồi. Cái nhân siêng năng năm nay, sang năm sau họ sẽ hưởng quả sung túc. Do đó, Cổ nhân có nói: 

Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, 
Chỉ danh lai tảo dữ lai tŕ 
(Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi)

 

2. Có người hỏi: Theo luật nhân quả th́ làm nấy chịu: cha làm tội, con không thể thay thế được; con làm tội, cha không thể thay thế được. Sao thấy có những việc: cha làm con phải chịu liên can, con làm cha phải chịu ảnh hưởng? 
Trả lời: Trong kinh Phật dạy: Nhân quả nghiệp báo có hai thứ: Biệt nghiệp và Cộng nghiệp. 

Biệt nghiệp là nghiệp báo riêng của mỗi chúng sanh, như ḿnh có học nhiều th́ ḿnh biết nhiều, ḿnh ăn th́ ḿnh no, ḿnh siêng năng th́ ḿnh dễ thành công, ḿnh nhác lười th́ ḿnh thất bại. 

Cộng nghịêp là nghiệp chung cho nhiều chúng sinh; cùng sống trong một hoàn cảnh. Như người Việt Nam, sống trên mảnh đất chữ S nầy trong giai đoạn chiến tranh Việt Pháp vừa qua, th́ dù giàu, dù nghèo, dù trí thức, dù b́nh dân, đều chịu ảnh hưởng chung của chiến tranh; như sanh ở một nước tiên tiến, th́ mọi người đều tương đối được hưởng một đời sống vật chất đầy đủ hơn ở một nước bán khai. Đă sanh chung một gia đ́nh, một xứ sở hay một dân tộc, cố nhiên cái nghiệp quả phải có liên quan với nhau. Sách có câu: 

Nhất nhơn tác phước, thiên nhơn hưởng, 
Độc thọ khai hoa, vạn thọ hương. 

(Một người làm phước, ngàn người đều được ảnh hưởng; một cây trổ hoa, muôn cây chung quanh đều được thơm lây). 

 

C. Kết Luận: 
Chúng ta đă biết giá trị của luật nhân quả, vậy chúng ta nên đem bài học nầy ra áp dụng vào mọi công việc hằng ngày của chúng ta. Khi chúng ta làm một việc ǵ, nói một lời ǵ, cũng nên nghĩ trước kết quả tốt hay xấu của nó, chứ đừng làm liều, nói liều, rồi phải chịu hậu quả đau khổ, nhục nhă trong tương lai. Nếu chúng ta làm được như thế, th́ chúng ta sẽ thấy tánh t́nh và hành vi của chúng ta, mỗi ngày mỗi cải tiến, các việc sai quấy sẽ giảm bớt, các việc lành càng thêm tăng trưởng. Và do sự gieo nhân toàn thiện đó, từ địa vị người, chúng ta có thể tiến dần lên đến quả vị thánh hiền, siêu nhân.

Trở Lên

Bài Thứ 6 
Luân Hồi

  

A. Mở Đề: 

Vấn đề mất cón, sống chết là một vấn đề vô cùng quan trọng, từ xưa đến nay đă làm băn khoăn, thắc mắc không biết bao nhiêu người, đă làm hao tổn không biết bao nhiêu giấy mực. tựu trung, có hai thuyết làm cho người ta chú ư đến nhiều nhất: 

Một thuyết cho rằng, loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không c̣n ǵ tồn tại sau đó nữa: "Cát bụi, con người trở về với cát bụi" 
Một thuyết chủ trương trái lại: loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn c̣n lại, để lên thiên đàng, thọ hưởng măi măi những sự khoái lạc, an vui, hay xuống địa ngục chịu cực h́nh măi măi. 

Hai thyết trên nầy đều không đúng với sự thật: 

Chết rồi, không thể là hoàn toán mất hẳn được, v́ như chúng ta ở đời nầy, không có vật ǵ là mất hẳn. Cho đến một hạt cát, một mảy lông cũng không thể mất hẳn, huống là cái thân hay biết nơi con người. 

Nhưng bảo rằng linh hồn thường c̣n, ở măi trên thiên đàng hay dưới địa ngục cũng không đúng. Sự nhận xét thông thường cũng đủ cho người ta nhận thấy rằng: trong vũ trụ không có một cái ǵ có thể vĩnh viễn ở yên một chỗ, mà trái lại, luôn luôn biến đổi và xê dịch. Vả lại, có ǵ bất công hơn là chỉ v́ những cái nhân đă gieo trong một đời hiện tại ngắn ngũi, mà phải chịu cái quả vĩnh viễn tốt hay xấu trong tương lai? 

Hai thuyết "chấp đoạn" và "chấp thường" trên nầy đều bị đạo Phật bác bỏ. Theo giáo lư đạo Phật th́ chúng sanh không phải đoạn diệt, cũng không phải thường c̣n, mà là quay lộn trong cảnh sanh tử Luân hồi.

 

B. Chánh Đề: 

 

I. Định Nghĩa: 

Luân hồi dịch ở chữ Samsera trong tiếng Phạn. Theo chữ Hán th́ Luân là bánh xe; Hồi là xoay tṛn. H́nh ảnh bánh xe quay tṛn là một h́nh ảnh rất rơ ràng mà Phật đă dùng để h́nh dung sự xoay chuyển, lên xuống, xuất hiện của mỗi chúng sanh trong sáu cơi (lục đạo) khi đầu thai ở cơi nầy, khi ở cơi khác, luôn luôn tiếp nối tử sanh, sanh tử không ngừng, như bánh xe lăn. Luân hồi là một thuyết có thể chứng nghiệm được, chứ không phải hoang đường. 

Khi chúng ta đă công nhận luật nhân quả, th́ chúng ta cũng không thể từ chối, không công nhận sự Luân hồi, v́ Luân hồi chẳng qua là nhân quả liên tục, nhưng v́ nó khi biến, khi hiện, khi lên, khi xuống, khi mất, khi c̣n, khi thay h́nh đổi dạng, nên chúng ta tưởng như gián đoạn và không ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau đó thôi.

 

II. Sự Luân Hồi Trong Mọi Sự Vật Và Người  

Trong vũ trụ tất cả sự vật, từ vật nhỏ như hạt bụi, đến lớn như quả địa cầu, không vật nào chẳng Luân hồi.

 

1. Đất Luân hồi: 

Như cái b́nh bông đang ở trước mặt chúng ta đây, trước kia nó là đất, người thợ gốm đem nó nhồi nắn làm thành cái b́nh, trải qua một thời gian, cái b́nh sẽ bị bể nát, tan thành cát bụi và trở về lại trạng thái đất cát. Đất cát nầy lại làm thức ăn cho cây cỏ; cây cỏ hoặc tàn rụi, sau một thời gian, để trở thành phân bón cho cây khác, hoặc làm thực phẩm cho động vật. Động vật ăn cây cỏ nầy vào, hoặc bài tiết ngay ra ngoài để thành phân, thành đất, hoặc biến thành máu huyết, da thịt để một ngày kia thân thể động vật già yếu, sẽ tan ră thành đất cát lại. Bao nhiêu lần thay h́nh đổi dạng, v́ nhân duyên nầy hoặc nhân duyên khác, nhưng đất cát, nó cũng lại trở thành đất cát sau một thời gian, một ṿng luân chuyển dài hay ngắn.

 

2. Nước Luân hồi: 

Nước ở biển, bị sức nóng mặt trời bốc thành hơi; hơi bay lên không, gặp hơi lạnh biến thành mây; mây nhiều tụ lại rơi xuống thành mưa; mưa chảy xuống ao hồ, hoặc gặp hơi lạnh quá, đọng lại thành băng thành giá. Băng giá gặp hơi nóng mặt trời tan ra thành nước lại. Từ vô thỉ đến nay, nước thay đổi trạng thái biết bao nhiêu lần, xoay vần măi măi như vậy, nhưng nước vẫn là nước. Hiện tượng của nước th́ biến đổi vô cùng, bản thể của nước th́ không bao giờ mất. Nó chỉ Luân hồi mà thôi.

 

3. Gió Luân hồi: 
Gió là sự luân chuyển của không khí. Không khí bị sức nóng mặt trời bốc cháy. giăn ra, bốc lên cao làm thành những khoảng trống. Để bù vào những khoảng trống ấy, không khí ở các nơi khác chạy tới điền vào, gây thành luồng gió. Không khí xê dịch chậm th́ gió nhỏ, không khí xê dịch nhanh th́ gió lớn. Xê dịch nhanh nữa th́ thành băo. Gió có khi hiu hiu, khi thoang thoảng, khi hây hây, khi ào ào, khi cuồng bạo, nhưng bản chất của nó bao giờ cũng là không khí.

 

4. Lửa Luân hồi: 
Lửa là một sức nóng làm cháy được vật. Khi đủ nhân duyên th́ sức nóng phát ra lửa. Chẳng hạn hai thanh củi trong trạng thái b́nh thường th́ chúng ta chẳng thấy sức nóng, ở đâu cả, nhưng khi chà xát vào nhau một hồi, th́ lửa liền bật lên. Ngọn lửa nầy có thể đốt hai thanh củi kia, và hai thanh củi nầy một phần hóa thành tro than, một phần biến thành thán khí. Những cây khác dùng rễ ḿnh để thu hút thán khí, chất chứa lại sức nóng để một ngày kia, gặp đủ nhân duyên lại bừng cháy lên. Như thế, sức nóng bao giờ cũng có sẵn, nhưng khi th́ nó ở trạng thái tiềm phục, khi th́ ở trạng thái phát hiện. Mắt chúng ta chỉ thấy khi nó phát hiện, và chỉ khi ấy mới cho là nó có, c̣n khi nó ở trạng thái tiềm [hục th́ ta bảo là nó không có. thật ra th́ nó chỉ Luân hồi qua những trạng thái khác nhau, chứ không phải dứt đoạn hay mất hẳn.

 

5. Cảnh giới Luân hồi: 
Trong khinh Phật thường nói: Thế giới nhiều như cát sông Hằng. Thật thế, ban đêm chúng ta nh́n lên trời, thấy hằng hà sa số tinh tú. Mỗi tinh tú là một thế giới. và mỗi thế giới ấy đều không thoát ra ngoài định luật chung là Thành, Trụ, Hoại, Không. Mỗi phút giây nào cũng có sự sanh diệt của thế giới. Thế giới nầy tan đi, th́ thế giới khác nhóm lên, như một làn sóng nầy mất đi th́ một làn sóng khác nổi lên, làm nhân làm quả, tiếp nối cho nhau, Luân hồi không bao giờ dứt.

 

6. Thân người Luân hồi: 
Thân người, hay thân thú vật cũng thế, xét cho cùng th́ cũng do tứ đại mà có là đất, nước, gió, lửa. Những chất cứng dẽo như da thịt gân xương là thuộc về Đất; những chất đượm ướt như máu, mỡ, mồ hôi, nước mắt, là thuộc về Nước; hơi thở ra vào, trái tim nhảy, phổi hô hấp, tay chân cử động là thuộc về Gió; hơi nóng trong người là thuộc về Lửa. Như trên chúng ta đă thấy, tứ đại đều Luân hồi, th́ thân người do tứ đại mà có, cũng phải Luân hồi theo. Khi thân nầy chết và đến lúc tan ră, th́ chất cứng dẽo trả về cho Đất; chất đượm ướt trả về cho nước; hơi nóng trả về cho Lửa; hơi thở và sự cử động trả về cho Gió. Rồi bốn chất nầy tùy theo duyên chung hợp lại, làm thành cây cỏ hay thân người khác. Người khác đến khi chết rồi, bốn chất đó trở về bản thể cũ của chúng. Khi thành thân người, lúc làm thân súc, năm nay tụ hợp ở đây, sang năm đă dời đi nơi khác, không phải thường c̣n, cũng không phải mất hẳn, mà là Luân hồi. 
Nhà Học giả tiếng tăm của Trung Hoa là ông Lương Khải Siêu có nói, trong khi nghiên cứu về Phật Giáo Ấn Độ:"...Con người luôn luôn, trong từng phút giây đều ở trong Luân hồi, bất quá hoặc mau hoặc chậm. Chậm th́ gọi là sanh diệt hoặc biến dị, c̣n mau th́ gọi là Luân hồi" (Luân hồi chẳng qua cũng là một h́nh thức trong các loại biến dị). Xem như xác thân chúng ta, biến hóa không ngừng, xương thịt máu huyết chúng ta, chẳng qua không đầy một tuần, cũng rất có thể hóa ra đất bụi bên đường."

 

7. Tinh thần Luân hồi: 
Con người không phải chỉ gồm có tứ đại. Ngoài tứ đại, c̣n có phần tâm lư nữa, hay nói một cách tổng quát hơn, c̣n có tinh thần. Đó là gồm tất cả những thứ mà đạo Phật gọi là: Thọ, tưởng, hành, Thức. Phần thể xác gồm tứ đại chỉ là phần mà đạo Phật gọi là Sắc. Sắc đă không tiêu diệt mà chỉ biến hóa Luân hồi, th́ Tâm hay Tinh thần, cũng không tiêu diệt mà chỉ biến chuyển xoay vần mà thôi. 

Như trong chương II đă nói, tất cả những hành động của thân tâm tạo thành cho mỗi chúng ta một cái nghiệp. Cái nghiệp ấy biến dịch, xoay vần măi, khi đội lớp nầy khi mang h́nh dáng khác, khi rời cảnh giới nầy, khi vào cảnh giới khác, quanh lộn trôi lăn trong lục đạo (sáu đường) măi măi cho đến ngày nào được giác ngộ mới thôi. 

Nhưng sự lên xuống, trôi lăn, xoay vần của nghiệp trong ba cơi sáu đường ấy, không phải t́nh cờ, ngẫu nhiên, may rủi, vô lư, mà trái lại, nó theo một cái định luật chung, đó là luật Nhơn quả. Đến đây, chúng ta thấy được sự tương quan mật thiết giữa nhơn quả và Luân hồi. Đă có Nhơn quả, tức phải có Luân hồi (trừ trường hợp tu nhơn giải thoát); đă có Luân hồi phải tuân theo luật Nhơn quả.

 

III. Luân Hồi Theo Luật Nhân Quả Qua Sáu Cơi 

 

Có thể nói một cách chắc chắn rằng, chúng ta lúc sanh tiền tạo nhân ǵ, th́ khi chết rồi, nghiệp lực dắt dẫn tinh thần đến chỗ nó thọ báo không sai. nếu tạo nhân tốt, th́ Luân hồi đến cảnh giới giàu sanh, thân người tốt đẹp. C̣n tạo nhân tội ác, th́ Luân hồi đến cảnh giới nghèo hèn, thân h́nh xấu xa, tàn tật, sự nghiệp khi thăng khi giáng, lúc thạnh lúc suy. 

Sau đây là những cảnh giới mà một chúng sinh có thể bị hay được nhập vào, tùy theo nghiệp nhân mà ḿnh tạo:

 

1. Địa ngục: Tạo nhân sân hận, độc ác làm nhiều điều tội lỗi vừa hại ḿnh vừa hại người, phải Luân hồi vào địa ngục, chịu đủ điều khổ sở. 

2. Ngạ quỷ: Nhân tạo tham lam, bỏn sẻn, không biết bố thí, giúp đỡ người, từ tiền của đến giáo pháp. Trái lại, c̣n mưu sâu, kế độc, để cướp đoạt của người, sau khi chết, Luân hồi làm ngạ quỷ. 

3. Súc sanh: Tạo nhân si mê sa đọa theo thất t́nh, lục dục, tửu sắc, tài khí, không xét hay dỡ, tốt xấu, chết rồi, Luân hồi làm súc sanh. 

4. A Tu La: gặp việc nhân nghĩa th́ làm, gặp việc sai quấy cũng không tránh, vừa cang trực, mà cũng vừa độc ác. mặc dù có làm những điều phước thiện, nhưng tánh t́nh hung hăng nóng nảy vẫn c̣n, lại thêm tà kiến, si mê, tin theo tà giáo. Tạo nhân như vậy, kết quả sẽ Luân hồi làm A Tu La, gặp vui sướng cũng có, mà buồn khổ cũng nhiều. 

5. Loài người: Tu nhân Ngũ Giới: Không sát hại, không trộm cướp, không tà dâm, không dối trá, không rượu trà say sưa, th́ đời sau trở lại làm người, cao quư hơn muôn vật. 

6. Cơi trời: Bỏ mười điều ác tu nhơn Thập thiện (bài sau sẽ nói rơ) th́ sau khi chết, được sanh lên cơi trời. Nhưng nên nhớ cơi trời nầy cũng c̣n ở trong ṿng phàm tục, chịu cảnh sanh tử, Luân hồi. 
Muốn thoát ra ngoài cảnh giới sanh tử Luân hồi, và đến bốn cơi Thánh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, và Phật, th́ phải tu nhân giải thoát.

 

IV. Vài Bằng Chứng Về Luân Hồi: Một Chuyện Luân Hồi Ở Ấn Độ 

 

Cách đây vài chục năm, tờ báo Mai có chụp h́nh và đăng một câu chuyện như sau: 

Tại Ấn độ, ở thành Delhi (đen li) có một cô gái 8 tuổi tên Phatidevin (Pha ti đơ vanh). Cô gái đă nhiều lần khóc lóc với cha mẹ đ̣i về thành Mita thăm chồng là một giáo viên. Thành Delhi cách thành Mita trên 200 cây số. Cha mẹ cô gái lấy làm lạ, mời một phóng viên nhà báo đến, để nhờ anh điều tra giùm. 

Phóng viên nhà báo đến hỏi, th́ được cô cho hay rằng: Cô là vợ của một giáo viên, ăn ở với nhau sanh được một đứa con. Khi đứa con lên 11 tuổi, th́ cô lâm bịnh và từ trần. Người phóng viên hỏi xem cô ta, có cái ǵ làm bằng chứng không. Cô trả lời cô có để lại vàng bạc và đồ đạc chôn ở chỗ nọ chỗ kia...Và cô c̣n nhớ rơ có một cái quạt, do người chị em bạn tặng, trên quạt có ghi lại mấy ḍng chữ, rồi cô đọc mấy dơng chữ ấy cho phóng viên chép vào sổ tay. 
Phóng viên liền đến thành Mita, t́m hỏi tên họ ông giáo viên, th́ thật quả không sai. Phóng viên hỏi ông giáo: 

Ông có người vợ chết độ 8,9 năm nay phải không? 
Ông giáo trả lời: 
Vâng, có ! Vợ tôi chết nay đă chín năm. Chảng biết ông hỏi có việc chi? 
Phóng viên tŕnh bày những lời cô bé đă nói. 
Ông giáo nghe đều cho là đúng cả. 
Phóng viên lại lấy quyển sổ tay đưa mấy ḍng chữ cho ông giáo, đọc và hỏi: 
Khi vợ ông mất, có để lại một cây quạt, trên ấy có ghi mấy ḍng chữ như thế này có phải không? 
Ông giáo trả lời: 
T
rúng y như vậy cả ! 
Qua ngày sau, phóng viên lại mời cha mẹ và cô Phatidevin cùng đi tới thành Mita. từ khi sanh ra đến tám tuổi, cô chưa từng đi xa, thế mà đường đi đến thành Mita, cô đều thuộc cả, cô chỉ đường nầy là đường ǵ, đi về đâu, đường kia tên ǵ, đi về đâu, và c̣n nói trúng cả tên những nhà quan ở hai bên đường nữa. gần đến nhà ông giáo, cô bảo xe đi chậm lại và dừng ngay trước nhà ông giáo. 
Vào đến nhà, gặp ông già độ 80 tuổi, đầu tóc bạc phơ, cô vừa mừng vừa khóc ̣a mà nói rằng: 
Đây là cha chồng tôi. 
Cô chỉ ông giáo mà nói: 
Kia là chồng tôi. 
Rồi chạy lại ôm đứa con mà khóc và nói: 
Đây là con tôi. 
Mọi người trông thấy ai cũng lấy làm ngạc nhiên và cảm động ! 
Việc này làm sôi nổi dư luận Ấn độ và các báo trên thế giới đều bàn tán xôn xao. Các nhà Bác học ra sức t́m ṭi nghiên cứu, nhưng không sao giải thích được. Chúng ta đă rơ biết lư Luân hồi, th́ việc này cũng chẳng lại ǵ.

 

Một Chuyện Luân Hồi Ở Mỹ  

vào khoảng năm 1956, ở Mỹ có một thiếu phụ 33 tuổi, tên Xi Mông (Ruth Simmons) v́ quá tin tưởng có kiếp Luân hồi nên cô đă nhờ nhà thôi miên Mô rây Bét tanh (Morey Bernstein) giúp, được thấy lại kiếp trước của cô. Nhà thôi miên kia, sau khi đưa cô vào giấc ngủ, liền bảo: 
Thử nhớ lại hồi 10 tuổi, cô đă làm ǵ? 
Cô Xi Mông, trong cơn mê, nói lại thuở thiếu niên của cô, những lúc cô đi học và tả tỉ mỉ những lúc cô nô đùa với bạn. Nhà thôi miên lại bảo:   
Bây giờ thử nhớ lại lúc cô 1 tuổi, cô thấy ǵ? 
Cô trả lời bằng những tiếng bập bẹ y như đứa trẻ chưa biết nói. Nhà thôi miên lại dồn hết tinh thần vào cặp mắt, nh́n thẳng vào mặt cô Xi Mông và nói: 
Thử nhớ lại tiền kiếp của cô? 
Sau một lúc im lặng, cô Xi Mông mới nói, nhưng giọng nói của cô đă đổi khác, giọng Ái Nhĩ Lan (ở Anh Quốc), chứ không phải giọng người Mỹ. 
Cô kể lại rằng:"Kiếp trước cô đầu thai vào gia đ́nh họ "Mướt phi" (Murphy) ở làng "Cót" (Cork) bên Ái Nhĩ Lan vào năm 1898. Cô tả nơi chôn nhau cắt rún của cô và cho biết nhiều chi tiết về làng này. Cô nói thêm rằng chồng cô tên "Mắc Các Ty" (Brian Mac Carthy), giáo sư trường luật đă từng cộng sự với tờ báo "Ben phát niu" (Belfast News). Rồi sau cùng cô nói đến ngày cô chết, mả cô hiện ở đâu, và cô phải làm ma hơn một thế kỷ. Sau đó, cô đầu thai vào gia đ́nh họ "Xi Mông" (Simmons) ở Mỹ hồi năm 1923. 
Nhà Thôi miên đă thâu tất cả lời nói của Xi Mông về tiền kiếp của cô, và sau đó viết một quyển sách nhan đề là: Đi t́m gốc tích cô Mướt phi (Murphy). Sách này in ra 170 ngàn cuốn, và chỉ trong ba tháng đă bán sạch. Sau đó, nhà Thôi miên lại lấy lời thuật chuyện của cô Xi Mông thâu vào ba mươi ngàn (30.000) dĩa nhựa và chỉ trong hai ngày đă bán sạch. 
Chuyện này báo chí quốc tế có đăng tin, riêng ở Pháp có tờ "Ba ri Mách" (Baris Math) thuật lại rất rơ; ở Việt Nam cũng có nhiều tờ báo nói đến, như tờ Tin Điển, tờ Liên Hoa v.v... 

 

Một Câu Chuyện Thay Nghiệp Đổi Xác Ở Việt Nam 

Ở Cà Mau cách đây vào khoảng 30 năm, có một câu chuyện lạ lùng đă làm dư luận bàn tán xôn xao: 

 Ông Cả Hiêu, ở làng Tân Việt, xứ Đầm Dơi (Cà Mau) có cô gái 19 tuổi, lâm bịnh rồi chết. Cách đó độ 100 cây số, ông Hương Thừa ở làng Vĩnh Mỹ (Bạc Liêu) cũng có cô con gái đau rồi chết, nhưng lại sống lại. Khi sống lại, cô nầy nh́n không biết cha mẹ và nói chuyện đâu đâu, không ai hiểu ǵ cả. Cha mẹ cô tưởng rằng, v́ cô đau nên lăng trí nói bậy. Nhưng khi cô lành mạnh hẳn, cô lại khóc lóc, một hai đ̣i về nhà ông Cả Hiêu và chỉ cả nơi ở, làng tổng rơ ràng nữa. 
Cha mẹ cô cho người đến t́m ông Cả Hiêu và thuật câu chuyện cho vợ chồng ông này nghe. Vợ chồng con cái ông Cả nghe xong, đều đi đến xem thật hư như thế nào. 

Khi mọi người đến nơi, cô gái chạy ngay đến ôm ông Cả, bà Cả khóc kể...Rồi cô thuật những chuyện đă xảy ra trong nhà ông Cả, không sai một mảy. Vợ chồng ông Cả, tuy thấy xác cô gái này không phải con ḿnh, nhưng về tinh thần lại chính là con họ, nên đều thương yêu và công nhận là con. Về sau, cô hưởng được hai phần gia tài của cải, cả hai bên cha mẹ.

 

V. Quyết Nghi 

1. Có người hỏi: Nếu có luân hồi, th́ khi chết rồi, một người chỉ sanh lại một người thôi, tại sao trên thé giới nầy, khi mới khai thiên lập địa, chưa có người, mà cứ mỗi ngày nhân loại cứ thêm đông? Vậy do đâu mà có nhiều người thế? 
Trả lời: Trong đoạn trước, chúng tôi đă nói: chúng sinh luân hồi trong sáu cảnh giới là Thiên, Nhơn, A tu la, Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục, và một chúng sanh ở cảnh giới này, có thể đầu thai qua cảnh giới khác, đắp đổi cho nhau, khi lên khi xuống, chứ không phải chỉ có người mới đầu thai làm người mà thôi. Những loài thú có những tâm trạng gần giống người, có thể đầu thai làm người được, cũng như những người, có tâm trạng lang sói, sẽ trở thành lang sói. 

Hơn nữa, trong đoạn trước, chúng ta cũng đă thấy, trong kinh Phật có chép: thế giới trong vũ trụ nầy nhiều như cát sông Hằng, chứ đâu phải chỉ một quả đất nầy là trung tâm điểm của vũ trụ, và mới con người? Các nhà bác học cũng công nhận mỗi ngôi sao là một thế giới, trong hằng hà sa số thế giới ấy, có biết bao nhiêu là thế giới có hoàn cảnh giống như quả đất nhỏ bé chúng ta đang ở đây ! Thế giới đă nhiều như thế, th́ nhân loại đâu phải ít? Tại sao chúng ta không thể tin được rằng: thế nào cũng có sự luân chuyển, sự lưu thông, sự trao đổi về phương diện tinh thần, về cái nghiệp giữa thế giới khác? Mỗi một thế giới sặp hoại, th́ chúng sinh ở thế giới ấy sẽ di cư đến thế giới khác, gần đó. Trong kinh Địa Tạng có chép: 

"Thử thế giới hoại thời, hoàn kư tha phương.."( thế giới nầy hoại, gởi qua thế giới khác, thế giới khác hoại, lại gởi đến thế giới khác nữa...). Như châu thành Saigon hiện nay, dân số rất đông, là do người ở các tỉnh đến. Khi giặc yên, dân chúng lại trở về các tỉnh, th́ dân số Saigon tự nhiên bớt. Nên nhiều hay ít là do số dân ở các nơi tựu đến, hay tan đi. Trong thế giới hiện nay nhân loại nhiều hay ít cũng như vậy. 

2. Có người hỏi: Người và thú vật hoàn toàn khác nhau, làm sao người có thể tái sanh thành thú vật và thú vật thành người được? 

Trả lời: Người ta thường có quan niệm sai lầm rằng, người có linh hồn người, thú vật có linh hồn thú vật. Linh hồn người hay linh hồn thú vật đều bất biến, dù chết hay sống. V́ tưởng tượng như thế, nên người ta không thể công nhần rằng: chết rồi, linh hồn người trở lại chui vào thân h́nh chó, mèo chẳng hạn, và hồn chó mèo lại có thể vào nằm trong lốt thân h́nh người ta. 

Thật ra, nghiệp không phải là linh hồn, mà là một năng lực có nhuốm tính chất những hành động của mỗi chúng sinh. V́ tính chất riêng biệt ấy, mà nghiệp lực nhập vào một h́nh thức nầy hay một h́nh thức khác, do cái luật hấp dẫn, (đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu). 

Thay v́ nói người kia trở thành thú, hay trái lại, thú kia trở thành người, đúng hơn, nên nói: Nghiệp lực phát hiện dưới h́nh thể người hay dưới h́nh thể thú !"(Narada Maha Théra).

 

C. Kết Luận: 

Giáo lư luân hồi đem lại cho chúng ta nhiều điều lợi ích: 

Nó phá "đoạn kiến" sai lầm, làm cho con người đâm ra chán nản, v́ nghĩ rằng, dù ḿnh có cố gắng ăn ở cho có đạo đức, làm các điều hay đẹp, rồi cuối cùng cũng chẳng đem theo địa được cái ǵ, chẳng được hưởng ǵ cả, một khi thân thể đă tiêu tan. 

Nó phá "thường kiến" sai lầm, làm cho con người tin rằng, loài người chết rồi, vẫn giữ địa vị của ḿnh, dù có làm phúc hay tôi cũng vậy. Do đó, người ta cũng không cần phải cố gắng trong lúc sanh tiền. 

Với giáo lư luân hồi, chúng ta phấn khởi mà tin rằng: chết rồi không thể mất hẳn; nhưng nếu chúng ta không biết vun trồng cội phúc, không cố gắng sống một đời sống có đạo đức, th́ đời sau, chúng ta sẽ sanh vào cảnh giới xấu xa đen tối. 
Giáo lư luân hồi làm cho chúng ta thêm ḷng tự tín, tự thấy ḿnh là chủ nhân của đời ḿnh, ḿnh tạo nghiệp nhân ǵ, th́ ḿnh chịu nghiệp quả ấy, chứ không ai cầm cân thưởng phạt, ban phước, giáng họa cho ḿnh cả. 

Nay chúng ta đă hiểu ư nghĩa và giá trị của giáo lư luân hồi, chúng ta nên cố gắng cải tạo tư tưởng, lời nói là hành vi của chúng ta, để tránh cho kiếp sau khỏi lâm vào cảnh giới đau khổ. Một khi các nhân ác đă được rửa sạch, những quả lành đầy đủ, các nghiệp hữu lậu không c̣n, lúc bấy giờ chúng ta có thể thoát ra khỏi luân hồi sanh tử và đạt đến cảnh giới tốt đẹp, bất sanh bất diệt của các vị A La Hán, Bồ Tát hay Phật.

Trở Lên

Bài Thứ 7 
Thập Thiện Nghiệp  

 

A. Mở Đề 

Thập Thiện Nghiệp là cội gốc của tất cả pháp lành thế gian và xuất thế gian 

Trong hai bài "Nhân quả" và "Luân hồi" mà chúng ta đă học, chúng ta đă thấy một cách tường tận rơ ràng: hễ chúng ta gieo nhân ǵ th́ chúng ta gặt quả ấy hoặc ngay trong đời hiện tại, hoặc trong những đời sau. Nhân nhỏ th́ qủa nhỏ, nhân lớn th́ quả lớn. 

Nếu muốn được quả làm người th́ phải gieo nhân làm người. Nhân làm người là sự chuyên giữ năm giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu). Với nhân nầy, ta được cái quả trong hiện tại là mọi người từ trong gia đ́nh quyến thuộc cho đến ngoài xă hội, đều thương yêu quí trọng. Nhưng nếu chúng ta muốn tiến xa hơn một bực nữa, chúng ta gắng tu Thập Thiện Nghiệp, chúng ta sẽ hưởng được cuộc sống an lạc trong hiện tại và đời sau, chúng ta sẽ sanh lên sáu từng Trời cơi Dục, hưởng cảnh vui thú, an nhàn. 

Nếu chúng ta muốn vượt khỏi ba cơi thế gian, để chứng quả tam thánh (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát), ta phải tu nhân Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên và Lục Độ. Tuy thế, muốn thực hiện được các môn tu nầy, không thể bỏ qua được môn tu Thập Thiện Nghiệp. Thập Thiện Nghiệp như là nấc thang quan trọng cần phải vượt qua, nếu muốn trèo lên cao nữa. Nó như là cơ sở căn bản, hạ tầng vững chắc nhất, để xây dựng lâu đài cao lớn lên trên. V́ lẽ đó, người ta nói Thập Thiện Nghiệp là cội gốc của tất cả các pháp lành thế gian và xuất thế gian.

 

B. Chánh Đề 

I. Định Nghĩa

 

"Thập Thiện Nghiệp" là 10 nghiệp lành. 

"Nghiệp" là ǵ? 

"Nghiệp" là tiếng người Trung Hoa dịch từ chữ Phạn Karma mà ra. Nó có nghĩa là tạo tác, hành động. Nghiệp có thể chia ra ba tánh cách: lành, dữ, hoặc không lành không dữ (vô kư). Lành, theo đạo Phật, nghĩa là có lợi ích cho chúng sinh trong hiện tại cũng như trong tương lai. Dữ, nghĩa là có hại cho chúng sinh trong hiện tại cũng như trong tương lai.

 

II. Chỗ Phát Khởi 10 Nghiệp Dữ và 10 Nghiệp Lành 

Nghiệp th́ nhiều, không thể kẻ xiết được. Nhưng tựu trung, người có thể phân ra mười loại nghiệp lành và mười loại nghiệp dữ. Những loại nghiệp nầy do ba chỗ phát khởi sau đây: Thân (việc làm), Khẩu (lời nói), Ư (ư nghĩ).

 

1. Những nghiệp dữ: 

Những nghiệp dữ chia ra như sau: 

a) Những nghiệp dữ về Thân có ba là:Sát sanh, trộm cắp, dâm dật. 

b) Những nghiệp dữ về Khẩu có bốn là: 

Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. 

c) Những nghiệp dữ về Ư có ba là: 

Tham lam, giận hờn, si mê. 

Cộng tất cả Thân, Khẩu, Ư th́ có mười nghiệp dữ. 

2. Những nghiệp lành: 

Nếu con người làm ngược lại với 10 nghiệp dữ trên đây th́ sẽ có được 10 nghiệp lành. Mười nghiệp lành chia ra như sau: 

a) Về Thân có ba: Không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dật. 

b) Về Khẩu có bốn: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác. 

c)Về Ư có ba: Không tham lam, không giận hờn, không si mê.

 

III.Ư Nghĩa Của 10 Nghiệp Lành 

1. Không sát sinh 

Không có sự vui mừng nào hơn sự vui mừng khỏi bị giết. Cũng chẳng có ân huệ nào hơn ân huệ không hại mạng. 

Khi một con chim sặp bị cắt cổ nhổ lông, một con cá sặp bị chặt kỳ, đánh vẩy, thế mà được thả ra, th́ hăy tưởng tượng nỗi vui sướng của chúng, lớn lao là bao nhiêu ! Chim sẽ nhảy nhót, tung bay, kêu hót giữa khoảng trời rộng; cá sẽ vùng vẫy, bơi lội, giữa khoảng nước sâu. Thế mới rơ, thoát nạn giết hại, chúng sanh nào lại không khấp khởi vui mừng? Cho nên, không sát sanh mà lại phóng sanh là nghiệp lành đứng đầu trong Thập Thiện Nghiệp. 

Không sát sanh cũng như không ăn thịt chúng sanh th́ khỏi phạm hai tội lớn sau đây: 

a) Giết hại các bực vị lai Phật. V́ Phật nói: 

"Tất cả chúng sinh đều là chư Phật vị lai" 

b) Giết lộn bà con nhiều đời, ăn lầm bà con nhiều kiếp. 

Trong kinh Bồ Tát giới có nói: "Tất cả lục đạo chúng sinh đều là họ hàng ta, cha mẹ ta đă chết đi rồi sanh lại trong nhiều đời nhiều kiếp". 

Người hằng ngày không sát sanh th́ trong đời sống hiện tại sẽ mở rộng thêm ḷng từ bi, là một nhân chánh để tu hành thành Phật, và được mười pháp lành, như kinh Thập Thiện Nghiệp đạo đă nói, dưới đây: 

a) Tất cả chúng sinh đều kính mến 

b) Ḷng từ bi mở rộng đối với tất cả chúng sinh  

c) Trừ sạch thói quen giận hờn 

d) Thân thể thường được khỏe mạnh 

đ) Tuổi thọ được lâu dài 

e) Thường được Thiên thần hộ trợ 

ê) Ngủ ngon giấc và không chiêm bao giữ 

g) Trừ hết các mối oán thù 

h) Khỏi bị đọa vào ba đường ác. 

i) Sau khi chết, được sanh lên cơi Trời.

 

2. Không trộm cướp 

Không trộm cắp là không lấy những vật ǵ không thuộc quyền sở hữu của ḿnh, và người ta không cho ḿnh. 

Quyền tư hữu là một quyền quan trọng. Đă đành, mạng sống là quư trọng, nhưng nếu có mạng sống mà không có đủ vật thực, áo quần, nhà cửa, những thứ cần thiết để cung cấp cho thân mạng, th́ người không thể sống được. V́ thế, mọi người đều thấy ḿnh cần phải nỗ lực làm việc, để có tài sản đủ bảo đảm cho đời sống hiện tại và tương lai của ḿnh và con cháu. Người đời quư trọng tài sản là v́ thế. Nếu v́ một lư do, bất chính, người ta bị tướt đoạt mất tài sản, th́ người ta cũng đau khổ, buồn phiền như chính ḿnh bị mất một phần sanh mạng. Tiền của là huyết mạch, cho nên khi bị trộm cắp hết của cải, nhiều người đă thất vọng, buồn phiền đến sinh đau ốm, có khi đến quyên sinh. Như vậy, ai nỡ ḷng nào trộm cắp cho đành ! 

Vả lại, theo lẽ công b́nh, ḿnh không muốn ai lấy của ḿnh, th́ ḿnh đừng lấy của ai. Việc ǵ ḿnh không muốn người làm đau khổ cho ḿnh, th́ ḿnh cũng đừng làm đau khổ cho người. Xă hội chỉ tồn tại được, khi mọi người đều tôn trọng lẽ công bằng. 

Vả lại, của phi nghĩa, thường vào cửa trước ra ngơ sau, tiêu hao mau lẹ như nước xoi, cát chảy, rốt cuộc, tay trắng cũng lại hoàn tay trắng, mà c̣n lại bị người đời khinh khi, phỉ nhổ, xấu hổ cho ḿnh và con cháu về sau. 

Trái lại, người không trộm cắp, bao giờ ḷng dạ cũng được thảnh thơi, không sợ luật pháp truy tầm, chẳng lo ai thù oán. Một xă hội không có trộm cắp, th́ nhà nhà khỏi đóng cửa, của đánh rơi không mất, cảnh tượng giành giựt không diễn ra, xă hội được thái b́nh an lạc: 

Nếu không gian tham trộm cắp, mà lại làm hạnh bố thí th́ theo kinh Thập Thiện Nghiệp, được những pháp lành như sau: 

a) Tiền của có dư không bị nạn giặc giả cướp mất, chánh quyền tịch thâu, không bị nạn lụt trôi, lửa cháy và con cái phá tán. 

b) Được nhiều người tin cậy chúng sanh Không bị lừa dối, gạt gẫm. 

d) Xa gần đều khen ngợi ḷng ngay thẳng của ḿnh  

đ) Ḷng được an ổn, không lo sợ v́ sự tổn hại ǵ cả 

e) Khi chết rồi được sanh lên cơi Trời 

3. Không tà dục 

Dâm dật là cái nhân sanh tử luân hồi. Nó là ma chướng làm ngăn trở bước đường tu giải thoát. Bởi vậy, người xuất gia muốn chứng quả, thành đạo, phải đoạn trừ dâm dật ở thân cũng như ở tâm. Kinh Lăng Nghiêm nói: 

"Ḷng dâm không trừ, th́ không thể ra khỏi trần lao". 

C̣n người tại gia, Phật chỉ ngăn tà dâm, nghĩa là vợ chồng có cưới hỏi chánh thức mới được ăn ở, nhưng phải có tiết độ, không lang chạ, ngoại t́nh. 

Trong gia đ́nh, chồng không tà dâm, vợ không lang chạ, th́ cuộc sống chung được đầm ấm, an vui. Do đó, gia đ́nh được hạnh phúc, sự làm ăn tấn phát, sự nghiệp vững bền, bà con đôi bên vui vẻ, ḍng họ hai phiá thơm lây, xóm giềng vừa ḷng, làng nước quí chuộng. 

Kinh Thập Thiện Nghiệp đạo nói: 

Không tà dục và giữ được tịnh hạnh sẽ được bốn điều lợi: 

a) Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư) đều được vẹn toàn 

b) Đoạn trừ hết những sự phiền năo, quấy nhiễu. 

c)Không ai dám xâm phạm vợ chồng con cái 

d) Được tiếng tốt, người đời khen ngợi 

4. Không nói dối 

Không nói dối là nghĩ thế nào nói thế ấy, trong ḷng và lời nói không trái nhau, việc phải th́ nói phải, việc quấy th́ nói quấy, việc có th́ nói có, chuyện không th́ nói không. 

Có người cho rằng nói dối để lừa phỉnh chơi, th́ không hại ǵ. Thật ra, sự nói dối ấy vẫn có hại, v́ nó làm cho ta quen với thói xấu ấy, và làm cho người chung quanh không tin ở lời nói của ta nữa, dù đôi khi ta nói thật. 

Nói dối v́ sợ hăi, khiếp nhược, lại càng nên tránh, v́ nó làm cho ta quen tánh che giấu tội lỗi, và không chịu sửa chữa. 

Nói dối để thu lợi hay khoe khoang, lại càng nặng tội. Nhà buôn nói dối rất dễ ế hàng; và nhất là kẻ học Đạo, nếu nói dối rằng ḿnh đă chứng quả Thánh, hay đắc đạo để cho người kính phục, sùng bái ḿnh, th́ sẽ mắc tội đại vọng ngữ, bị đọa vào ba đường ác. 

Nói dối, chỉ trong trường hợp để cứu khổ, độ nguy cho người và vật mới không phạm tội. 

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không nói dối mà lại nói lời ngay thật, th́ được những điều lợi ích như sau: 

a) Miệng thường thơm sạch 

b) Thế gian và nhân, thiên đều kính yêu 

c) Lời nói không lầm lộn và vui vẻ 

d) Trí tuệ thù thắng, không ai hơn 

đ) Được hưởng lạc thú như ư nghuyện và ba nghiệp đều sạch. 

5. Không nói thêu dệt 

Không nói thêu dệt, nghĩa là không trau chuốt lời nói, không thêu hoa, dệt gấm, không ngọt ngào đường mật, để lung lạc ḷng dạ của người, để quyến rũ làm những điều sái quấy. Những kẻ nói lời thêu dệt là những kẻ có ḷng dạ bất chính, lợi dụng ḷng dễ tin của người để trục lợi. Những người nầy thường bị người đời chê cười, khinh rẻ và tránh xa, để khỏi bị tổn hại tài sản, danh giá và tánh mạng nữa. 

Theo kinh Tập Thiện Nghiệp đạo, người không nói lời thêu dệt sẽ được ba điều lợi ích: 

a) Được người trí thức yêu mến. 

b) Hay đáp được những câu hỏi khó khăn. 

c) Được làm người có uy đức, cao quư trong cơi nhân thiên. 

6. Không nói lưỡi hai chiều 

Không nói lưỡi hai chiều, hay nói hai lưỡi, nghĩa là không đến bên nầy nói xấu bên kia, không đến bên kia nói xấu bên này; không đem chuyện người nầy ra dèm pha, mà cũng không khêu chuyện người nọ ra nhạo báng; không làm cho đôi bên sân hận đấu tranh, cũng không đứng trung gian gây ác cảm cho hai đàng thù oán. Tóm lại, người không nói hai lưỡi là người không có ác tâm, không dùng lời trái ngược để làm cho những kẻ thân thành thù, gần thành xa. 

Người không nói hai lưỡi, không khi nào có chuyện lôi thôi với bà con, và cũng không có việc phiền muộn với hàng xóm, nên được thân bằng quyến thuộc, kẻ xa người gần kính mến. Người không nói hai lưỡi mà c̣n nói những lời êm ái ḥa thuận, làm cho bạn bè thêm kính trọng nhau, bà con thêm tin yêu nhau, khiến cho ai ai cũng vui vẻ bằng ḷng nhau. Những người ấy đi đến đâu cũng được tiếp đăi tử tế, gặp việc ǵ khó cũng dàn xếp được dẽ dàng. 

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không nói hai lưỡi, sẽ được những điều lợi ích sau đây: 

a) Bà con, ḍng họ được luôn luôn sum họp 

b) T́nh bằng hữu của thiện tri thức được vững bền bất hoại 

c) Đức tin bất hoại 

d) Pháp hạnh bất hoại 

7. Không nói lời hung ác 

Không nói hung ác là không nói những lời hung dữ ác độc, cộc cằn, thô tục làm cho người nghe khó chịu; không mắng nhiếc làm cho người nghe hổ thẹn, tủi đau v.v... 

Người không nói lời hung ác, chẳng hề bươi móc việc không hay của ai, mà trái lại, ưa bày những điều tốt đẹp của kẻ khác. Lời lẽ của họ thốt ra dịu dàng, thanh nhă, hiền hậu, toàn là lời đạo đức, từ bi, lợi lạc cho tất cả chúng sinh, ai nghe cũng hân hoan, kính trọng. 

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không nói lời hung ác mà lại nói lời ôn ḥa, được những công đức như sau: 

a) Nói lời nào cũng khôn khéo đúng lư và lợi ích 

b) Nói điều ǵ, ai cũng nghe theo và tin cậy 

c) Nói ra lời nào cũng không ai chỉ trích mà c̣n được mến yêu. 

8. Không tham muốn 

Ở đời, có 5 món dục lạc, mà người ta thường tham muốn nhất là: tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Ngũ trần dục lạc ấy, thật ra, vui ít mà khổ nhiều. Như tham tiền của phải đày đọa thân sống, đôi khi c̣n dùng những phương tiện bất chính, để thâu tóm về ḿnh, và khi mất th́ lại vô cùng đau khổ. Tham sắc th́ tồn tiền nhiều, lại mất sức khỏe và hao tổn tinh thần; nhiều khi lại t́m những mưu chước tồi tệ để thỏa ḷng ước muốn; nếu không được, lại đâm ra ghen tương, thù hận, giết chóc. Tham danh vọng, quyền tước th́ phải vào ḷn ra cúi, lao tâm khổ trí, mất ăn bỏ ngủ, đôi khi lại c̣n làm tṛ cười cho người chung quanh. Tham ăn uống cao lương mỹ vị, th́ bị nhiều bịnh khó trị, thân thể mệt nhọc, mạng sống không thọ. Tham ngủ nghỉ, ngủ sớm dậy trưa, th́ trí năo hóa đần độn, tối tăm. 

Ngũ dục lạc chính là những nguyên nhân chính ràng buộc kiếp người vào ṿng sanh tử, Luân hồi, sa đọa. 

Người không tham muốn những thứ ấy, là người biết tu hành Thiểu Dục và Tri Túc. Thiểu Dục là muốn ít; Tri Túc là biết đủ. Người Thiểu Dục, Tri Túc th́ có một đời sống giản dị, thanh cao và an toàn. 

Xă hội nếu chỉ gồm những hạng người ấy, th́ những thảm trạng: kẻ mạnh hiếp người yếu, kẻ giàu đàn áp người nghèo, người nghèo oán hận kẻ giàu, không c̣n tiếp diễn, và cơi đời cũng được sống trong cảnh thanh b́nh an lạc. 

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không tham muốn th́ được thành tựu những điều tốt đẹp sau đây: 

a) Ba nghiệp (thân, khẩu, ư) được tự tại, v́ nhân các căn đều đầy đủ 

b) Của cải không mất mát, hay bị cướp giựt 

c) Phúc đức tự tại 

d) Những sự tốt đẹp sẽ đến với ḿnh, mặc dù ḿnh không mong ước. 

9. Không giận hờn 

Không giận hờn là vẫn giữ sự b́nh tĩnh, điềm đạm, nhu ḥa trước những cảnh trái ư nghịch ḷng. 

Giận hờn là một tánh xấu rất tai hại, nó như một ngọn lửa dữ, đốt cháy cả ḿnh lẫn người chung quanh. Kinh Phật có câu: 

"Một niệm giận hờn nổi lên, th́ trăm, ngh́n cửa nghiệp chướng đều mở. Lửa tức giận một phen phát ra, liền đốt tất cả rừng công đức". 

Khổng giáo cũng có nói: 

"Dằn tâm giận xuống một lúc th́ khỏi lo sợ cảm trăm ngày. Nên chi việc đáng nhịn th́ nhịn, chuyện đáng răn th́ răn. Nếu chẳng nhịn chẳng răn, th́ việc nhỏ hóa ra to. Bao nhiêu điều phiền năo, đều do chẳng nhịn mà ra". 

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người nào không giận tức, th́ được tám món tâm pháp, vui mừng như sau: 

a) Không tâm khổ năo 

b) Không tâm giận hờn 

c) Không tâm tranh giành 

d) Tâm nhu ḥa ngay thẳng 

đ) Tâm từ bi như Phật  

e) Thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sanh  

ê) Thân tướng trang nghiêm, chúng sinh đều tôn kính 

g) Có đức nhẫn nhục, được mau sanh lên cơi Phạm Thiên. 

10. Không si mê. 

Không si mê là biết phán đoán rành rẽ, nhận định rơ ràng, đúng đắn, không cố chấp theo sự hiểu biết riêng của ḿnh, không tin những thuyết không hợp chơn lư, nhất là không mê tín dị đoan. 

Người không si mê, tức là người có trí huệ, giản trạch, tin có nhân quả luân hồi, nên không tạo tội mà cứ làm phước, thường tu hạnh Bát nhă, dứ trừ vô minh, để tiến măi trên con đường giải thoát. 

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không si mê, th́ thành tựu được 10 pháp công đức sau đây: 

a) Được ư vui chơn thiện và bạn chơn thiện 

b) Tin sâu nhân quả, thà bỏ thân mạng chớ không làm ác. 

c)Chỉ quy y Phật, chứ không quy y thiên thần và ngoại đạo 

d)Tâm sanh ngay thẳng, chánh kiến 

đ)Sanh lên cơi trời, khỏi bị đọa vào ba đường ác 

e) Phúc huệ không lường, thường tăng lên măi 

ê) Dứt hẳn đường tà, chăm tu đạo chánh 

g) Không ḷng chấp ngă, bỏ hết ác nghiệp 

h) Yên ở vào nơi chánh kiến 

i) Khỏi bị nạn dữ

 

C. Kết Luận 

Mười nghiệp lành, cũng như mười nghiệp dữ, đều do thân, khẩu, ư phát khởi ra. Nghiệp dữ ví như cỏ, nghiệp lành ví như lúa, đều mọc chung trên một đám ruộng. Cỏ thường làm chướng ngại lúa, không cho sanh trưởng tốt tươi. Nếu muốn lúa tốt để măn mùa thu hoạch được nhiều, th́ phải nhổ sạch cỏ. Cũng thế, muốn được nghiệp lành, th́ cần phải dứt hẳn mười nghiệp dữ. 

Hàng phục mười nghiệp dữ, mỗi ngày cứ phát triển nghiệp lành măi, th́ sẽ được bốn điều lợi ích sau nầy: 

1. Cải tạo thân tâm 

Thân tâm con người thường bị nghiệp lực chi phối. Sự thực hành mười nghiệp lành, sẽ hoán cải thân tâm con người trở thành tốt đẹp. Dụ như không sát sanh mà lại phóng sanh, th́ ḷng hung ác sẽ đổi ra ḷng từ bi, sự oán thù sẽ đổi ra thành ân nghĩa. 

2. Cải tạo hoàn cảnh 

Hoàn cảnh cũng như tấm gương lớn phản ảnh tất cả những cử chỉ hành động, đời sống của mỗi người. Nếu ta cười th́ tấm gương cười lại; nếu ta khóc, tấm gương cũng khóc lại. Cũng thế, nếu ta làm các việc lành, giúp ích đồng loại, cứu vớt chúng sanh, th́ hoàn cảnh đối với ta, sẽ trở thành cảnh giới tốt đẹp. Chẳng hạn, khi ta không giận hờn, lại tu hạnh nhẫn nhục, th́ hoàn cảnh không có sự đấu tranh giết hại, mà chỉ là sự tương thân tương ái. 

3. Chánh nhân thiên giới 

Tu Thập Thiện Nghiệp là gieo nhân tốt để đời sau gặt kết quả đẹp đẽ là sanh lên cơi Trời, hưởng phước lạc đầy đủ. 

4. Căn bản Phật quả 

Mười phương ba đời, các vị hiền thánh thoát khỏi sanh tử, chứng quả vô thường, đều lấy mười nghiệp thiện làm căn bản; v́ mười nghiệp lành nầy, có công năng ngăn ngừa các hành vi độc ác, làm cho ba nghiệp (Thân, Khẩu, Ư) được thanh tịnh, nhờ đó, con người mới thoát ly sanh tử, chứng qủa Niết Bàn. Nếu đem mười nghiệp lành nầy, hồi hướng cho toàn thể chúng sanh, th́ sẽ được Phật quả. 

Tóm lại, tu Thập Thiện Nghiệp th́ trong đời hiện tại, thân tâm ta được cải thiện đẹp đẽ, hoàn cảnh ta sống được sáng sủa tươi vui; và tương lai ta tránh khỏi đọa lạc chốn tam đồ, lại được hưởng phước báo cơi Nhân, Thiên và Niết Bàn 

Vậy ước mong tát cả mọi người, nên tu Thập Thiện Nghiệp để tạo hạnh phúc cho ḿnh và cho tất cả chúng sanh. Có như thế mới là bực trí huệ làm theo lẽ phải. V́ một phen được thân người mà không tu để tiến hóa lên, th́ khi mất nhân thân rồi, muôn kiếp khó trở lại được.

Trở Lên

Bài Thứ 8 
Tứ Nhiếp Pháp

 

A. Mở Đề 

Tu hạnh lợi tha nhiếp hóa chúng sinh là bổn phận của Bồ Tát 

Đức Phật ra đời nhằm mục đích cứu rỗi chúng sinh ra khỏi ṿng sanh tử luân hồi. 

Người Phật tử theo dấu chân Phật tất phải tập làm những ǵ đức Phật đă làm. Trong khi tu hành, Phật tử không bao giờ nên quá chú trọng đến ḿnh mà quên người, không nên chỉ lo giác ngộ cho ḿnh mà không t́m cách giác ngộ cho người. Trong đạo Phật, ḿnh với người là một khối, ḿnh không khác người, không thể phân chia ra được. Càng lo tự lợi chừng nào lại càng đi ngươc với sự tu hành chừng ấy. Trái lại, càng hy sinh cho người, càng chú trọng đến lợi tha, lại càng mau chứng ngộ chừng ấy. 

Phật có vô lượng phương pháp cứu độ chúng sanh, chúng ta muốn áp dụng phương pháp nào cũng được. Song muốn có kết quả cụ thể, chúng ta phải tùy theo căn cơ, hoài băo của chúng sanh mà lựa pháp môn tu hạnh lợi tha. Đối với người đồng loại, chúng tôi tưởng không có phương pháp nào có hiệu quả thiết thực lợi ích cho người và làm cho người cảm hóa sâu xa bằng pháp môn Tứ nhiếp pháp.

 

B. Chánh Đề 

I. Định Nghĩa

 

Tứ nhiếp pháp là ǵ? Tức là bốn phương pháp lợi tha để nhiếp phục chúng sanh quay về với Phật pháp. 

Bốn phương pháp đó là: 

Bố thí nhiếp 
Ái
ngữ nhiếp 
Lợi hành nhiếp 
Đồng sự nhiếp 

 

II. Hành Tướng Của Tứ Nhiếp Pháp

 

1. Bố thí nhiếp: 

Một xă hội tốt đẹp hay xấu xa, ḥa b́nh hay hỗn loạn không phải là không nguyên nhân. Nguyên nhân của hỗn loạn xấu xa chính là ḷng ích kỷ. Nhân loại đang quằn quại trong khổ đau, những cảnh nồi da xáo thịt, tái diễn hằng ngày là do đâu, nếu không phải chính là ḷng tham lam ích kỷ? 

Đạo Phật là đạo từ bi, nghĩa là cứu khổ. Mà những nỗi khổ lớn của con người là ǵ? Đó là sự thiếu thốn về vật chất sự mê mờ về tinh thần, và ḷng lo sợ về đủ mọi thứ, như lo sợ mất tiền của, mất thân mạng, gặp tai biến v.v... 

Vậy người có ḷng từ bi, muốn cứu khổ th́ trước tiên phải xả bỏ tánh ích kỷ, phải cho mọi người những ǵ ḿnh có, phải cho những ǵ người khác mong muốn. Nghĩa là phải làm hạnh bố thí. Do sự bố thí ấy mà ḿnh cảm phục được người chung quanh, mà người chung quanh mới gần gũi thân mến ḿnh và mong cầu học đạo giải thoát. Bố thí có 3 lối: 

Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí. 

a) Tài thí: Tài là tiền của. tài thí là đem tiền của mà bố thí, để cứu vớt người đồng loại thoát khỏi đau khổ. Cảnh khổ của chúng sinh về vật chất không thể kể xiết: người thiếu cơm, kẻ thiếu áo, người thiếu thuốc thang, kẻ thiếu nơi nương náu...Đứng trước bao cảnh khổ ấy, người Phật tử không thể nào an nhiên hưởng sự súng sướng riêng được, mà trái lại thấy ḿnh có bổn phận xuất của, ra công giúp kẻ nghèo khổ, thiếu hụt. 

Đừng viện cớ, hay tự an ủi, ḿnh nghèo không có của tiền giúp đỡ người chung quanh. Thật ra miễn là ḿnh có từ tâm hay không, chứ không phải ḿnh hoàn toàn thiếu phương tiện để giúp đỡ người khác. Một chén cơm vẫn có thể chia hai được, một manh chiếu vẫn c̣n đủ chỗ cho thêm một người nằm được. Người ta thường nói: "chật bụng chớ chật chi nhà", là thế. Người triệu phú đem cho năm, bảy ngàn bạc không làm cho người ta cảm phục, quư mến bằng người nghèo chỉ có hai bộ quần áo, mà đem cho bớt đi một bộ. 

b) Pháp thí: Pháp là giáo pháp, là những lời dạy, những giáo lư của đức Phật và các bậc Thánh Hiền Tăng, là tam tạng kinh điển. Pháp thí là đem những giáo pháp quư báu ấy mà bố thí, giảng dạy cho chúng sinh. 

Chúng sinh đang mê mẫn, xoay vần trong sáu cơi, gây nghiệp rồi thọ báo, khác nào tỉnh mộng rồi lại mơ. Trong lúc mộng nào biết có mơ, cứ lăn lộn vào đường ái, như bướm đâm đầu vào đèn. V́ thế, đức Phật mới đem giáo pháp ra giảng dạy khiến cho chúng sinh ra khỏi biển khổ luân hồi. 

Pháp của Phật nhiều vô số lượng, cao nhiêu cũng có, thấp bao nhiêu cũng có, đủ cỡ, đủ loại cho mọi căn cơ. Dù người nước nào, bực nào, căn cơ cao hay thấp, sáng hay tối, một khi nghe đến pháp của Phật, tùy sức đều được hiểu cả. Nên trong kinh có câu: "Phật thuyết nhất âm, chúng sinh tùy loại đắc các giải". 

Chúng ta đừng viện cớ ḿnh c̣n kém Phật pháp, không thể làm công việc thí pháp được. Như trên dă nói, Pháp Phật có vô số lượng pháp môn, nếu không biết được pháp môn cao thâm, th́ cũng biết được pháp môn thông thường. Mỗi Phật tử ít ra cũng biết tụng kinh, niệm Phật, lễ Phật, ăn chay. Chúng ta đem những điều ấy chỉ bảo cho người, thế cũng là thí pháp rồi. Nếu làm những điều ấy với tấm ḷng chân thật, hoan hỷ, cố mong sao cho người chung quanh đi đến với đạo để được lợi ích, th́ sự thí pháp ấy c̣n đáng quí hơn là giảng những giáo lư cao với một thái độ dửng dưng hay tự cao tự đại. 

Tuy thế, đă là Phật tử th́ chúng ta có bổn phận phải luôn luôn trao dồi, học hỏi để biết rộng hiểu nhiều, hầu tự giải thoát và để công việc thí pháp của chúng ta được hiệu quả hơn, phổ biến rộng răi hơn và ứng dụng trong mọi trường hợp. 

Thí pháp càng lan rộng, th́ người xu hướng về với Phật pháp càng nhiều và cơi đời càng bớt đau khổ. 

c)Vô úy thí: Vô úy là không sợ hăi. Vô úy thí là đem cái không sợ mà thí cho chúng sinh. Sự sợ hăi là một tâm trạng rất thông thường của chúng sinh trong cơi đời giả tạm và đầy đau khổ này. Vậy người có ḷng từ bi, phải cố gắng làm sao cho chúng sinh chung quanh có được sự b́nh tĩnh, yên ổn của tâm hồn, không hoang mang lo lắng, sợ hăi. 

Vô úy thí, không phải chỉ những người có can đảm, có tài năng, có uy quyền mới làm được. Hằng ngày chung quanh ta, biết bao người đang ở trong cảnh sợ hăi; nếu thật chúng ta có ḷng từ muốn giúp đỡ cho họ khỏi sợ hăi th́ không có lúc nào là không thể làm được: một đứa bé đang kinh hăi trước hàm răng của con chó dữ; một bà lăo lo sợ bị xe cán không dám băng qua đường nhiều xe cộ; một thiếu nữ đi đêm "sợ ma"; một htí sinh run rẩy trước giờ vấn đáp v.v...đó là bao nhiêu cơ hội mà chúng ta có thể thi hành pháp Vô úy thí. gặp người bị tai nạn, ta đem tài năng hay thế lực ra đùm bọc, che chở, cho họ khỏi sợ hăi; gặp người đau ốm, lo sợ thần chết mang đi, ta lấy luật vô thường giảng giải cho họ và bảo họ niệm đức Quan Thế Âm Bồ Tát hay Phật A Di Đà v.v...đó là Vô úy thí. 

Tóm lại, bố thí là do ḷng từ bi vô hạn mà làm. Nó có một phạm vi rộng răi vô cùng. Khi nào c̣n có chúng sanh đau khổ th́ ta c̣n bố thí. 

H́nh thức cao nhất của bố thí là bố thí Ba la mật, nghĩa là bố thí rất nhiều mà không thấy ḿnh có bố thí; bố thí mà không phân biệt thân sơ, không chấp ta, người, thù, bạn; bố thí mà không chấp số lượng những vật thí. Như thế là ta đă thành tựu pháp "Tam luân không tịch" về bố thí. Khi ấy, bố thí không c̣n là một việc làm phúc hay ban ân nữa, mà chính là một việc tự nhiên, không thể bỏ qua được như ăn, như uống, như một bổn phận nhất định hàng ngày. 

Vậy đă là Phật tử th́ không thể nào không thi hành pháp bố thí được. Sự thi hành này tùy phương tiện, tài năng, thế lực của ḿnh, và ở trong hoàn cảnh nào cũng làm được, chứ không phải đợi có đủ một số điều kiện nào đó mới làm được. Miễn là ta càng cố gắng giúp ích, cứu khổ cho người được chừng nào th́ quí chừng ấy.

 

2.Ái ngữ nhiếp: 

Ái ngữ nhiếp là tùy theo căn cơ tánh chúng sanh mà khôn khéo nói năng, an ủi, khuyên lơn, nhân thế khiến cho họ sinh ḷng thân mến, cảm phục, rồi từ đó họ mới theo ta mà học đạo. 

Ở đời phần nhiều người ỷ của, cậy quyền, đối với mọi người dùng lời không tao nhă, nên làm cho người chung quanh chán ghét. Một khi họ không yêu mến, cảm phục, th́ tuy trước mặt họ dạ dạ, vâng vâng, mà sau lưng lại không chịu phục tùng, nghe theo. V́ thế, nhiều việc phải bị hư hỏng. 

Tục ngữ có câu: "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa ḷng nhau". Thật thế, lời nói là một của báu mà mọi người đều có cả, không phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn. Nhưng cũng lời nói ấy người nầy sử dụng th́ nên công việc, c̣n người kia sử dụng th́ lại tán gia bại sản. Sở dĩ như thế là v́ một bên biết lựa lời ăn nói dịu dàng, dễ nghe, c̣n một bên cộc cằn, thô tục. Nhiều người, tự bào chữa, thường bảo: "Tánh tôi ngay thẳng và có hơi nóng, nên hay ăn to nói lớn, chứ thật ra tôi không có ác ư". 

Không có ác ư, nhưng làm cho người chung quanh phải đau khổ, khó chịu v́ lời nói khiếm nhă, thô bạo của ḿnh, th́ có khác ǵ người ác? 

Vậy Phật tử chúng ta muốn cảm hóa, dẫn dắt người chung quanh về con đường chánh, trước tiên phải áp dụng cho được pháp ái ngữ, nghĩa là luôn luôn và trong mọi trường hợp, phải dùng lời dịu dàng, êm ái, thương yêu trong khi tiếp xúc với mọi người. Nhất là khi người ta đang ở trong cảnh khổ, th́ những lời khuyên lơn, vỗ về lại càng vô cùng quí báu, v́ có thể thoa dịu được vết thương ḷng và làm cho người ta vô cùng cảm kích, khó mà có thể phai mờ được. 

 

3. Lợi hành nhiếp: 

Lợi hành nhiếp là làm lợi ích cho người bằng ư nghĩ, lời nói hay hành động, khiến cho người ta sinh ḷng thân mến mà theo ta học đạo. 

Cái gương sáng nhất về phương diện lợi hành là cái gương Ngài Tŕ Địa Bồ Tát. Suốt đời, Ngài thường gánh đất đắp đường, ban cho bằng phẳng, hoặc bắc cầu để cho khách bộ hành đi lại được dễ dàng tiện lợi. Ngài thay người già gánh nặng, đẩy giúp cỗ xe lên dốc cao, chèo giúp cho người lái thuyền ngược nước... 

Tóm lại, bất luận việc lớn nhỏ, miễn giúp ích được cho người là Ngài không bao giờ từ nan. Xem thế, th́ không cần phải đợi có dủ phương tiện mới làm lợi ích cho người được. Chỉ với một ít sức khỏe cũng có thể giúp được nhiều việc lợi ích cho người rồi. 

Có khi chỉ cần một ư nghĩ tốt, một lời giới thiệu hay cũng có thể giúp cho người chung quanh có công ăn việc làm. 

Đối với người giàu có, nhiều phương tiện th́ phạm vi hoạt động cho lời hành lại càng rộng răi. Họ có thể xuất tiền của ra làm nhà dưỡng lăo, nuôi người tuổi già sức yếu, để tuổi già của họ bớt đen tối, nguy nan; hay họ xây viện dục anh, nuôi trẻ mồ côi cha mẹ, cho chúng học hành và có nghề nghiệp, huấn luyện cho chúng thành những công dân hữu dụng. Hay dựng trại tế bần, cấp dưỡng cơm ăn áo mặc cho kẻ đói khó, hay dựng bệnh xá để cứu chữa những kẻ bệnh tật; hay xây trường học giúp con em có nơi học hành. Đó là bao nhiêu công việc vô cùng lợi ích, vừa cho đời vừa cho đạo. Những công việc lành ấy sẽ cảm hóa ḷng người và hướng họ trở về con đường giải thoát là con đường của đạo Phật.

 

4. Đồng sự nhiếp: 

Đồng sự nhiếp là tùy theo căn cơ, hoài băo, địa vị, nghề nghiệp của người mà lặn lội vào công việc của họ, cộng tác với họ, để một mặt giúp đỡ họ trong nghề nghiệp, một mặt nêu cao gương lành, làm cho họ cảm mến mà theo ta đến gần đạo cả. 

Chẳng hạn như khi ta cùng làm việc trong một công sở, trong một xí nghiệp, trong thương trường hay trong nông nghiệp, mà từ việc lớn cho đến việc nhỏ, từ ư nghĩ cho đến câu nói, ta luôn luôn nêu gương đạo đức, tận tâm tận lực làm việc, sẵn sàng hy sinh quyền lợi ḿnh, cho bạn đồng nghiệp, dần dần những người cộng sự, sẽ tiêm nhiễm những đức tánh tốt đẹp của ta, sẵn sàng nghe theo, làm theo những điều ta khuyên bảo. 

Đồng sự nghiệp, là một phương pháp có hiệu quả nhất để nhiếp hóa người chung quanh quay về con đường đạo. Bố thí nhiếp, ái ngữ nhiếp hay lợi hành nhiếp, mặc dù đều cảm hóa được người, nhưng không thường trực và không có ảnh hưởng sâu xa như đồng sự nhiếp. Chẳng hạn như người được ta bố thí, hay lợi hành, th́ không phải lúc nào cũng ở bên cạnh ta, mà chỉ thỉnh thoảng mới được ân huệ ấy; c̣n ái ngữ th́ chỉ hạn cuộc trong lời nói; mà lời nói dù có hay ho êm dịu bao nhiêu, cũng không thể biến thành cơm thành áo, thành những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống đau khổ, thiếu thốn của người chung quanh được. 

Nhưng với đồng sự nhiếp, ta có thể giúp đỡ một cách thiết thực và thường xuyên cho những người cùng sống trong một hoàn cảnh một nghề nghiệp với ta. Ta luôn luôn gần gũi chung đụng với họ, nên ta thấu rơ những hoài băo, tâm trạng, nhu cầu của họ; nhờ thế ta có thể giúp ích cho họ một cách có hiệu quả hơn. Ta trở thành một cột trụ chính cho họ nương tựa; v́ thế ta có thể nhiếp hóa họ dễ dàng, sâu xa hơn. Một sự nhận xét thông thường là ở đâu, công sơ hay tư sở, nhà máy hay nông trường, hễ có một Phật tử chân chính, thuần thành, gương mẫu, th́ ở đó số người theo Phật càng ngày càng đông, càng mạnh.

 

III.Lợi Ích Của Tứ Nhiếp Pháp 

Nếu ta thực hành đúng theo tứ nhiếp Pháp ta sẽ thấy những kết quả đẹp đẽ sau đây: 

1. Về phương diện cá nhân: 

Ta sẽ là một con người gương mẫu; mỗi ư nghĩ, mỗi lời nói, mỗi hành động của ta đều là một hạt giống thiện gieo vào ruộng phước mà sau nầy ta sẽ gặt được những kết quả quư báu, tốt lành. Những ǵ của ta nói ra, làm ra đều được thông cảm, tán thành, mến phục. Ta có thể thu hút nhân tâm một cách dễ dàng, rộng răi, và mỗi khi đi đến đâu, ta đều được tiếp đón một cách chân thành, nồng nhiệt. Do đó, ta sẽ dễ dàng thành công trong mọi việc. 

2. Về phương diện gia định: 

Khi người ngoài, xa lạ mà c̣n mến phuc, thương yêu ta, th́ sao cha mẹ, vợ con, anh em là những người thân thuộc lại không quư mến ta được? Do ảnh hưởng tốt đẹp và uy tín của ta, mọi người trong gia đ́nh đều trở thành thuần lương, đức độ cả. Và một gia đ́nh gồm những phần tử như thế, th́ thể nào cũng được trên thuận dưới ḥa, trong ấm ngoài êm, nghĩa là có hạnh phúc. 

3. Về phương diện xă hội: 

Một người tu hạnh tứ Nhiếp pháp cũng đă gây được ảnh hưởng tốt lành và hoán cải được một phần nào hoàn cảnh xa hội. Số người tu Tứ Nhiếp Pháp cành nhiều th́ xă hội lại càng được cải tiến, và trở thành thuần lương, thiện mỹ. 

Người ta thường trách đạo Phật là tiêu cực yếm thế. Những lời chỉ trích sai lầm ấy, chỉ đem một giáo lư Tứ Nhiếp Pháp nầy ra chứng minh, cũng đủ đánh đổ được ngay. Thật vậy, nếu áp dụng triệt để tứ Nhiếp Pháp vào cuộc đời thực tế, th́ xă hội sẽ được cải tiến một cách vô cùng lợi lạc.

 

C.Kết Luận 

Như trên đă nói, Tứ Nhiếp Pháp là một pháp môn để cải tiến xă hội một cách có hiệu quả nhất. Nó lấy lợi sanh làm căn bản, lấy hạnh phúc của chúng sanh làm mục đích. Đây chúng ta hăy nhớ lại từng điểm một: 

1) Hăy đem của cải giúp cho người túng thiếu, tật nguyền, đem Phật pháp giảng nói để cho mọi người cải ác tùng thiện, đem dũng lực tinh thần hay vật chất để che chở cho người chung quanh khỏi lo sợ. 

2) hăy nói lời ôn ḥa nhă nhặn, để cảm hóa người ta đi theo con đường lành. 

3) Hăy làm lợi ích chomọi người trong mọi trường hợp. 

4) hăy ḥa ḿnh trong cuộc sống, trong công việc của người chung quanh, để nhận rơ được người có nhu cầu thiết tha của họ, hầu giúp đỡ họ một cách có hiệu quả, và đưa dần dần họ về con đường chính. 

Vậy là Phật tử, chúng ta không thể dửng dưng trước những lời kêu gọi lợi tha ấy được. 

Nếu chúng ta làm ngơ, chúng ta chưa phải là Phật tử chân chính, v́ chúng ta đă thiếu hai yếu tố quan trọng nhất để tu hành: đó là ḷng từ bi và lợi tha. Thiếu hai điểm ấy không bao giờ chúng ta có thể tiến triển trên đường đạo và thành Phật được.

Trở Lên

Bài Thứ 9 
Lục Ḥa 

 

A Mở Đề 

1. Tai hại của sự bất ḥa:

 

Trong sự sống chung đụng hằng ngày, không có ǵ tai hại bằng sự bất ḥa. Sự bất ḥa làm ung độc cuộc sống chung và bắt buộc người ta phải xa nhau, nếu không muốn ở gần nhau để làm khổ cho nhau. 

Trong gia đ́nh, anh em không ḥa, th́ t́nh cốt nhục chia ly. Vợ chồng không ḥa, th́ gia nghiệp chẳng thành, con cái phải bị đau khổ, v́ gần cha th́ phải xa mẹ; gần mẹ th́ phải xa cha. Xóm làng không ḥa th́ hay sinh ra rầy rà, kiện cáo, chém giết lẫn nhau. Quốc gia không ḥa th́ sanh ra giặt giă loạn lạc, dân chúng khổ sở. Nhân loại bât ḥa, th́ chiến tranh tiếp diễn, nhân sinh điêu đứng, suy tàn.

 

2. Sự quan trọng của nhu ḥa: 

Đă thấy sự bất ḥa như thế nào, tất nhiên cũng phải thấy đức tánh nhu ḥa là cần thiết như thế nào cho đời sống tập thể. 

Chúng ta thường nghe nói: "Dỉ ḥa vi quư" (lấy ḥa làm quư). Bốn chữ giản dị ấy có một công dụng ích lợi vô cùng. Những ai lấy nó làm phương châm, th́ bất luận việc lớn việc nhỏ đều thành tựu dễ dàng. Trái lại, những ai khinh thường nó, th́ công việc chung không bao giờ có kết quả. 

Sách Nho cũng có nói: "Thời thế thuận, không bằng địa thế lợi; địa thế lợi, không bằng nhân tâm ḥa" (thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân ḥa). Xem thế th́ đủ biết: yếu tố ḥa là quan trọng hơn hết trong mọi việc, mọi tổ chức. Gia đ́nh ḥa th́ gia đ́nh có hạnh phúc; nước nhà ḥa th́ nước nhà được thạnh trị; nhơn loại ḥa th́ thế giới an lạc. 

Hiểu biết hơn ai hết sự quan trọng của đức tánh nhu ḥa trong đời sống tập thể, đức Phật đă chế ra pháp "Lục ḥa" cho hàng Phật tử.

 

B. Chánh Đề 

I. Định Nghĩa

 

Lục ḥa là sáu phương pháp cư xử với nhau cho ḥa hợp từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm. Ḥa ở đây là ḥa với mục đích tiến tới sự cao đẹp, đến con đường giải thoát, toàn thiện toàn mỹ, chứ không phải ḥa một cách nhu nhược, thụ động, ai nói quấy cũng ừ, ai nói phải cũng gật. Ḥa ở đây cũng không phải là phương tiện trong giai đoạn để rút thắng lợi về ḿnh, rồi lại chiến. Ḥa ở đây nhằm mục đích làm lợi cho tất cả, gây hạnh phúc cho tất cả, trong ấy có ḅng dáng "tự và tha" không có so đo "ta và người".

 

II. Lục Ḥa Là Những Ǵ 

Lục ḥa gồm có sáu điểm sau đây:

 

1. Thân ḥa cùng ở (Thân ḥa đống trú): 

Nghĩa là cùng nhau ở dưới một mái nhà, trong một phạm vi, một tổ chức, hôm sớm có nhau, cùng ăn cùng ngủ, cùng học cùng hành. 

Khi đă sống chung đụng hằng ngày như thế, th́ phải ḥa thuận với nhau, không dùng sức mạnh, vơ lực để lấn hiếp, đánh đạp nhau. Nếu là anh em, vợ chồng, con cái trong một gia đ́nh, th́ phải trên thuận dưới ḥa, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, chứ không được lộn xộn vô trật tự, hiếp đáp, sát phạt nhau. 

Nếu là những Phật tử, cùng ở với nhau học tập dưới một mái chùa, th́ tuy là không phải ruột thịt, nhưng cũng là những người con chung của đức Phật, cùng một lư tưởng mục đích, th́ cũng phải lấy cái ḥa khí làm đầu, không được chia phe phái, ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ thế hiếp cô, mạnh ai nấy được. 

Nếu là đồng bào, cùng chung sống trong một quốc gia xă hội, th́ phải lấy sự đoàn kết làm đầu, không được gây cảnh nồi da xáo thịt, chia năm xẻ bảy, làm thành giặc cḥm, giặc xóm; sát phạt nhau, chém giết nhau. Người nước ta có câu ca dao rất có ư nghĩa: 

"Bầu ơi thương lấy bí cùng,  

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn". 

Khác giống, mà sống chung trên một giàn, c̣n phải ḥa thuận, thương yêu nhau; huống chi là cùng một dân tộc, một giống ṇi ! 

Cũng thể, đă là nhân loại, cùng chung sống trên quả dịa cầu nầy, th́ dù là da trắng, da đen, da vàng hay da đỏ cũng là "Tứ hải giai huynh đệ" cả. Đă là giống người như nhau mà lại đem nhau ra chiến trường bắn giết nhau, tàn sát nhau, làm mồi cho súng đạn vô trí, th́ thật là vô cùng phi lư. 

Tóm lại, đă cùng chung sống với nhau trong một địa vị, một giới hạn, một hoàn cảnh, th́ bao giờ cũng phải ḥa hảo với nhau.

 

2. Lời nói ḥa hiệp, không tranh căi nhau: 

Muốn thân không đánh đạp nhau, không đối chọi nhau, khi ở bên cạnh nhau, th́ lời nói phải giữ ǵn cho được ôn ḥa nhă nhặn; trong mọi trường hợp, nhất thiết không được rầy rà, căi cọ nhau. 

Có người thân ḥa mà khẩu không ḥa, ăn thua nhau từng câu nói, t́m cách mỉa mai, châm thọc nhau, hạch hỏi nhau từng tiếng một, cuối cùng sanh ra ấu đả nhau. 

Trong một gia đ́nh, cũng v́ một lời nói không ḥa, mà nhiều khi anh em xa ĺa nhau, vợ chồng ly tán nhau, cha con không thấy mặt nhau, trở thành những kẻ xă lạ, thù hằn nhau. 

trong xă hội, cũng v́ một lời nói không ḥa, mà nhiều khi quốc gia phải lâm nạn chiến tranh, nhân loại phải bị đẩy vào ḷ sát sanh thảm khốc. 

Bởi thế, nên thân thể ḥa chưa phải là đủ, mà Phật dạy phải ḥa cả miệng nữa. Nghĩa là người Phật tử phải nói lời dịu dàng, ḥa nhă với nhau, nhất thiết không được căi lẫy, gây gỗ nhau. Nếu có ǵ thắc mắc, cần phải bàn căi cho ra lẽ, th́ tuyệt đối phải dùng lời nói ôn tồn, ḥa nhă mà bàn luận.

 

3. Ư ḥa cùng vui (Ư ḥa đồng duyệt): 

Duy thức học có nói: Ư là hệ trọng hơn hết, nó là động cơ thúc đẩy miệng và thân. Kể công th́ nó đứng đầu, mà kết tội, nó cũng đứng trước (công vi thủ, tội vi khôi). Bởi thế cho nên, trong một gia đ́nh, một đoàn thể, mỗi người cần giữ ǵn ư tứ, tâm địa của ḿnh. Nếu ư tưởng hiền ḥa, vui vẻ th́ thân và lời nói dễ giữ được ḥa khí. Trái lại nếu ư tứ bất ḥa, thường trái ngược nhau, ganh ghét nhau, th́ thân và khẩu khó mà giữ cho được ḥa hảo. Dù có cố gắng bao nhiêu, để thân và khẩu được ḥa khí, hay v́ sợ một uy quyền ǵ trên, mà phải ăn ở ḥa thuận với nhau, th́ sự ḥa thận này cũng chẳng khác ǵ một lớp sơn đẹp đẽ, tô lên một tấm gỗ đă mục. Một khi sự xung đột bên trong đă đến một mức độ không thể chứa đựng được nữa, tất nó sẽ nổ tung ra trong lời nói hay trong những cái đấm đá; cũng như tấm gỗ khi đă mục quá rồi th́ thế nào lớp sơn bên ngoài cũng rạn nứt, đổ bể. 

Đức Phật đă thấu rơ như thế, nên Ngài dạy phải có tâm ư vui vẻ ḥa hiệp trong khi chung sống với nhau. 

Muốn được tâm ư ḥa hiệp, phải tu hạnh Hỷ xà. Hỷ xả nghĩa là bỏ ra ngoài những sự buồn phiền, hờn giận, không chấp chặt trong ḷng những lỗi lầm của kẻ khác. Có như thế, tâm hồn mới thư thái, vui vẻ được, và ư nghĩ mới trong sáng, thanh tịnh được. Vậy Phật tử chúng ta hăy cố gắng tu hạnh hỷ xả mới được.

 

4. Giới ḥa cùng tu (Giới ḥa đồng tu): 

Trong một tổ chức, một đoàn thể nào có trật tự, tất đều có kỹ luật qui củ hẳn hoi. 

Trong đạo Phật, mỗi Phật tử, tùy theo địa vị cấp bậc tu hành của ḿnh, mà thọ lănh ít hay nhiều giới luật. Người tại gia th́ thọ Ngũ Giới; người xuất gia th́ thọ 10 giới nếu là Sa Di, thọ 250 giới nếu là Tỳ kheo, thọ 348 giới nếu là Tỳ kheo Ni v.v... 

Khi Phật tử hội họp lại, hay khi cùng chung sống để tu học, mỗi ngày tùy theo cấp bậc của ḿnh mà giữ giới. Đă cùng một cấp bực với nhau, th́ tất phải thọ giới và giữ giới như nhau, chứ không được lộn xộn, giữ giới nầy, bỏ giới kia, giữ giới kia, bỏ giới nọ, mỗi người mỗi thứ. nếu có sự vô kỷ luật nầy th́ lẽ tất nhiên tổ chức ấy sẽ tan ră. V́ thế, đức Phật dạy: khi Phật tử đă chung sống với nhau, th́ triệt để phải cùng nhau tu những giới luật như nhau, giữ đúng những giới luật của cấp bực ḿnh. 

Nói rộng ra, trong một trường học, một gia đ́nh Phật tử, một hội chẳng hạn, bao giờ cũng lấy kỷ luật làm đầu. Trong trường, nếu học sinh không giữ kỷ luật của trường, ai muốn ra cứ ra, ai muốn vào cứ vào, ai muốn học cứ học, ai muốn chơi cứ chơi, th́ trường ấy ắt phải sập. Trong gia đ́nh Phật tử, đoàn sinh mỗi người mỗi làm theo mỗi ư riêng ḿnh, không tuân năm điều luật của gia đ́nh, không làm theo huấn lệnh của Huynh trưởng, th́ gia đ́nh Phật tử ấy sẽ tan ră. Trong một hội, hội viên không tôn trọng điều lệ của hội, phân chia giai cấp, tự cho ḿnh sang không cần giữ giới như người hèn, tự cho ḿnh giàu, không gữ giới như người nghèo, tự cho ḿnh có học thức không giữ giới như người vô học; nếu có t́nh trạng như thế tất hội ấy sẽ tan ră. 

Nói tóm lại, trong một đoàn thể, đạo hay đời, nếu không cùng nhau ǵn giữ giới điều, kỷ luật, quy tắc, th́ chúng ta không bao giờ sống chung với nhau được. Vậy Phật tử, muốn ḥa hợp cùng nhau để tu tập, th́ mỗi người cần phải ǵn giữ giới luật như nhau.

 

5. Thấy biết giải bày cho nhau hiểu: 

(Kiến ḥa đồng giải): 

Trong sự sống chung, mỗi người hiểu biết được điều ǵ, khám phá được điểm ǵ, phải giải bày, chỉ bảo cho người khác hiểu. Như thế tŕnh độ hiểu biết mới không chênh lệch, sự tu học mới tiến đều về tinh thần b́nh đẳng, mới dễ giữ vững giữa những người cùng ở một đoàn thể. 

Khi ta khám phá ra được một điều ǵ mới lạ, hay có một ư kiến ǵ hay ho, nếu ta không giải bày cho người chung quanh, th́ không những ta là một kẻ ích kỷ, mà c̣n tạo ra một sự tắc nghẽn giữa sự thông cảm với những người khác. Ḷng ích kỷ và sự tắc nghẹn ấy là mối dây của sự chia rẽ, bât ḥa, xung đột. Trớc một vấn đề, mỗi người sẽ nghĩ, sẽ thấy mỗi cách, và do đó, sẽ gây nghi ngờ, hoang mang trong đoàn thể, v́ phần đông không biết tin vào ai. 

Nhất là trong kinh sách Phật, vừa nhiều, vừa cao siêu, vừa đủ loại, mỗi Phật tử có thể khám phá ra một khía cạnh khác nhau, t́m ra một ư nghĩa có thể đúng, mà cũng có thể sai. Trong trường hợp ấy, mà không gấp rút giải bày quan điểm, ư kiến của ḿnh cho mọi người trong đoàn thể hiểu biết, th́ khó mà có thể sống ḥa hiệp với nhau.

 

6. Lợi ḥa cùng chia cân nhau 

(Lợi ḥa đồng quân): 

Về tài lợi, vật thực, đồ dùng phải phân chia cho cân nhau hay cùng nhau thọ dụng, không được chiếm làm của riêng, hay giành phần nhiều về ḿnh. 

Trong khi sống chung, nếu có người đem cho vật thực, y phục, mền chiếu, thuốc thang v.v...th́ phải đem phân tất cả, nghĩa là chia cho đều nhau, không v́ t́nh riêng, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt người xấu, nhưng phải lấy công bằng làm trọng. Giữ được như thế, th́ dù ở chung ngh́n người cũng vẫn ḥa vui. Trái lại, nếu v́ tính tư, ư riêng tham tài ham lợi th́ dù chỉ có vài ba người chung sống với nhau, cũng không thể ḥa được. 

Trong xă hội sở dĩ có sự xung đột dữ dội, phân chia giai cấp, cũng do v́ thiếu sự "Lợi ḥa đồng quân" cả. Người giàu th́ giài quá, kẻ nghèo th́ nghèo xơ, kẻ dinh thự nguy nga ruộng đất c̣ bay thẳng cánh, có kẻ không có một cḥi tranh vách đất. Do đó, không thể có ḥa b́nh được: người vô sản xung đột với kẻ hữu sản, nước nghèo đói sanh sự với nước phú cường. 

nếu nhân loại thâm hiểu rằng: cuộc giàu sang phú quư trong nhân gian, như hạt sương đọng trên cành hoa, công danh vinh hiển trên đời như bọt nước nổi trên mặt biển, th́ chắc sự chênh lệch giữa giàu và nghèo sẽ bớt đi nhiều lắm, và nhân loại sẽ bớt xung đột nhau hơn. 

Với một tinh thấn b́nh đẳng lợi tha, từ bi cứu khổ, với một tri huệ soi thấu rơ sữ vô thường, giả tạm của cuộc đời, Đức Phật đă dạy: "Có tài lợi, nên tuỳ phận chia sớt cho nhau", hay triệt để hơn nữa: "Lợi ḥa đồng quân". 

Bậy chúng ta đă là Phật tử, phải nên cố gắng thực hành cho được lời dạy ấy. 

 

C. Kết Luận 

Để có một ư niệm tổng quát về Lục ḥa chúng ta hăy ôn lại một lần nữa, những ư chính trong 6 điều chỉ bảo của đức Phật: 

1) Hăy chung sống với nhau một cách ḥa hợp, hăy chung lưng đấu cật, đùm bọc nhau, chứ không nên dùng vơ lực để đàn áp nhau. 

2) Hăy nói năng với nhau một cách dịu dàng, ḥa nhă; nếu có điều ǵ thắc mắc cần bàn căi, th́ cũng phải bàn căi trong ôn ḥa, lễ độ. 

3) Hăy nuôi dưỡng ư tốt đẹp đối với nhau, hăy trau dồi đức hỷ xả; đừng bao giờ thù hiềm, ganh tỵ nhau. 

4) Hăy giữ đúng giới luật như nhau, hăy lấy kỷ luật làm đầu. Vô kỷ luật th́ không một đoàn thể nào có thể tồn tại được. 

5) Hăy giải bày những sự hiểu biết, những ư kiến của ḿnh cho người chung quanh. Người thông hiểu nhiều, phải có bổn phận chỉ bày cho người hậu tiến và dắt họ đi kịp ḿnh. 

6) Hăy chia đồng đều tài lợi thu thập được cho những người cùng sống chung với ḿnh, để mọi người đều được thỏa măn, vui vầy. 

Sáu điều dạy trên đây, nếu chúng ta thực hiện một cách triệt để th́ trong gia đ́nh, cha mẹ vợ chồng, anh em, đều được ḥa thuận yên vui, gia nghiệp mỗi ngày một thịnh đạt; quốc gia được hùng cường thịnh trị, thế giới  ḥa b́nh an lạc. 

Riêng về trong giới Phật tử chúng ta, nếu áp dụng đúng đắn pháp "Lục ḥa", th́ sự tu học của chúng ta mau được tiến bộ, con đường giải thoát được gần hơn, và cảnh giới Cực lạc không phải chỉ là một ước vọng. 

Vậy xin khuyên các Phật tử mỗi người sau khi học hiểu rơ Lục ḥa, phải thật hành cho được và khuyên mọi người thật hành theo, để cùng hưởng hạnh phúc chung.

 
Trở Lên

Bài Thứ 10 
Tịnh Độ

  

A. Mở Đề

 

Trong vũ trụ có vô lượng thế giới 

Như đức Phật ngày xưa đă dạy và các nhà khoa học ngày nay đă xác nhận, trong vũ trụ nầy có hằng hà sa số thế giới. Mỗi đêm, chúng ta ngước mặt lên ḍm trời, bao nhiêu ngôi sao lấp lánh hay lu mờ xa tít, hiện ra trước mắt ta đây là bao nhiêu thế giới. Ngay một dăy ngân hà với những đám trắng lờ mờ như mây bạc đó, cũng đă chứa đựng từng triệu thế giới rồi. Huống cho trong vũ trụ, đâu phải chỉ một dăy ngân hà mà có mấy ngàn dăy như thế. Cái phần chúng ta thấy được mỗi đêm, mặc dù không thể đếm hết, chỉ mới là phần rất nhỏ so với vũ trụ mênh mông mà ta không thể thấy được. 

Trong kinh thường dạy: phương Đông có vô số thế giới như cát sông hằng, mà phương Tây, phương Nam, phương Bắc cũng như thế (kinh Di đà). 

Nhưng chỉ có thế giới Cực lạc (Tịnh độ) là vui hơn cả 

Trong bao nhiêu thế giới ấy, có thế giới ô uế, có thế giới thanh tịnh, có thế giới đau khổ, có thế giới an vui, có thế giới mới thành h́nh, có thế giới sắp tiêu diệt, có thế giới thiên về vật chất, có thế giới trọng về tinh thần. 

Theo lời đức Phật Thích Ca dạy, th́ trong vô lượng thế giới ấy, chỉ có thế giới Cực lạc hay Tịnh độ của đức Phật A Di_Đà là vui hơn cả.

Hôm nay chúng tôi xin tŕnh bày về thế giới Cực lạc ấy, theo như lời đức Phật Thích Ca đă dạy.

 

B.Chánh Đề 

I. Danh Hiệu Và Cảnh Trí Cơi Cự Lạc Hay Tịnh Độ

  

Một hôm nh́n thấy Đức Phật Thích Ca, dung mạo khác lạ, vô cùng hoan hỷ, Ngài A Nan mới hỏi Phật: 

Hôm nay tại sao dung mạo của Phật lại khác hơn ngày thường? 

Phật dạy rằng: 

Ta cảm nhớ đức Phật A Di Đà, muốn nhắc đến nhân địa của Ngài, để chỉ dạy cho chúng sanh pháp môn tu Tịnh độ. 

Ngày dạy rằng: từ cơi Ta Bà nầy hướng về phía tây, hơn mười muôn ức cơi, có một thế giới gọi là Cực Lạc hay Tịnh độ. Ở nước đó có đức Phật, hiệu là A Di Đà, Ngài thường thuyết pháp. Cảnh giới ở nước thanh tịnh ấy, vô cùng đẹp đẽ, sáng lạng vui tươi, phong cảnh cả toàn xơi như là một vườn hoa vĩ đại với những hàng cây ngay ngắn, những tường hoa những dây leo rũ xuống như màn gấm, như lụa là; có những hồ nước chứa đầy những thứ nước có tám công đức. Đáy hồ lát bằng cát vàng; trong hồ có những hoa sen lớn bằng bánh xe, đủ màu sắc, hương tỏa thơm ngát, và có hào quang đẹp đẽ: hễ hoa màu xanh, th́ phát ra hào quang xanh; hoa màu trắng, th́ phát ra hào quang trắng; hoa màu hồng, th́ phát ra hào quang hồng...Đường sá cầu cống, đèn đài, điện các ở cơi Tịnh độ đều làm bằng ngọc vàng châu báu, vô cùng quư giá. 

Chim chóc ở đây là những thứ chim báu, như bạch hạc, khổng tước, anh vỏ, xá lợi, ca lăng, tần già v.v...những thứ chim này, ngày đêm sáu thời, hót ra những thứ tiếng pháp vi diệu, ḥa lẫn trong những điệu nhạc thiêng, làm cho ai nghe đến, cũng phải liền phát tâm hoan hỷ niệm Phật. Các loài chim do đức Phật A Di Đà biến hóa ra để thuyết pháp cho chúng sinh nghe. Chẳng những chim biết nói pháp, mà cho đến nước chảy, gió thổi cây reo đều là những lời thuyết pháp vi diệu, ai nghe cũng đều phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Ở đấy, không bao giờ có bóng tối, v́ nhờ hào quang của Phật phát ra, sáng chói luôn luôn. Cảnh giới trang nghiêm, huy hoàng, xinh đẹp như thế là do sức đại nguyện của đức Phật A Di Đà, các bậc Bồ Tát và Thánh chúng, toàn là bậc Thượng thiện gây nên. 

Trong hoàn cảnh thuận tiện, vui tươi như thế nên tất cả mọi người ở đấy, ai cũng tinh tấn tu hành và dễ được thành đạo nghiệp.

 

II. Những Điều Kiện Để Văng Sanh Về Cơi Tịnh Độ 

Muốn được sanh về cơi Tịnh độ, trước tiên cần phải đủ ba điều kiện sau đây: 

1. Đức tin chắc chắn: 

Trong kinh Hoa Nghiêm có nói: "Tin là mẹ các công đức. Tin có thể thành tựu quả bồ đề". Ḷng tin có ba khía cạnh: 

a) Tin Phật là đấng sáng suốt từ bi cứu khổ mọi loài. V́ muốn cứu độ chúng sanh mau hết khổ sanh tử, nên Ngài mới chỉ bày cảnh Tịnh độ của Phật A Di Đà là một cảnh có thật. 

b) Tin giáo pháp của Phật nói ra là đúng đắn chơn thật, dạy chúng ta phải nhất tâm niệm Phật, cầu văng sanh về cảnh giới của Phật A Di Đà. Chúng ta tin chắc theo giáo pháp của Ngài mà tu hành th́ sẽ được thành công. 

c) Tin ở nơi sức mạnh của ḿnh. nếu ta thật tâm tin chắc: ta là Phật sẽ thành, nhất tâm tŕ niệm danh hiệu Phật, quyết chắc sẽ được vănh sanh cơi Tịnh độ. 

2. Lập nguyện vững vàng: 

Nguyện là ư muốn tốt đẹp. lập nguyện vững vàng nghĩa là thiết tha mong muốn, lập chí nguyện không thối chuyển, quyết sinh về Cực lạc, dù có gặp bao trở ngại gian lao, khổ sở. Phải có tấm ḷng thiết tha, không giờ phút nào xao lăng ư muốn được về gần Phật A Di Đà, như con đi xa thiết tha được về gặp mẹ. 

Trong mọi công việc lớn lao, chí nguyện là quan trọng. Không có chí nguyện, th́ không có ǵ thành tựu được cả. một nhà văn đă viết rất đúng: "Đường đi khó, không khó v́ ngăn sông cách núi, mà khó v́ ḷng người ngại núi e sông". Người có chí nguyện, như thuyền có lái, như ngựa có cương. Từ việc đời cho đến việc đạo, muốn thành công, điều cần yếu là lập chí nguyện cho vững vàng. 

3. Thực hành theo đúng chí nguyện: 

Đă có chí nguyện rồi, phải thực hành theo đúng chí nguyện. Thực hành ở đây là luôn luôn tŕ niệm danh hiệu Phật A Di Đà, niệm luôn luôn trong khi đi đứng, nằm ngồi, cho đến "nhất tâm bất loạn". 

Tóm lại, điều kiện tiên quyết để văng sanh về thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà, không có ǵ khó khăn, cũng không có ǵ bó buộc lắm, mà trái lại, bất luận ai, sang hèn, giàu nghèo, trí thức hay thiếu học đều có thể có được. Đó là: Có đức tin mạnh mẽ, lập nguyện vững vàng, thực hành theo đúng chí nguyện. Có đủ ba yếu tố Tín, hạnh, Nguyện, là có thể bước lên đường đi đến cơi Cực lạc. Cuộc hành tŕnh ấy có thể chậm có thể mau, có thể khó khăn có thể dễ dàng, nhưng ai đă có đủ ba điều kiện ấy, th́ thế nào cũng đến đích, Đức Phật A Di Đà lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để đón tiếp chúng ta, như mẹ chờ con đi xa về. Nhưng nếu mẹ chờ con mà con không nhớ mẹ, không muốn quay về, th́ mặc dù có gần nhau đi nữa, cũng chẳng khác ǵ hai người xây lựng lại với nhau mà đi, một người đi về phương Nam, một người đi về phương Bắc, càng đi càng xa, không thể gặp nhau được nữa. Trái lại, nếu con nhớ mẹ, một ḷng muốn gặp mẹ, trong lúc mẹ cũng đang nhớ và chờ đợi con th́, cũng như hai người hướng về nhau mà đi, một người ở phương Tây đi về phương Đông, một người ở phương Đông đi về phương Tây, mặc dù có cách xa muôn trùng, thế nào cũng sẽ gặp nhau. 

Ta tin có Phật A Di Đà, ta quyết tâm thực hiện chí nguyện ấy, th́ mặc dù cơi Cực lạc cách xa mười muôn ức cơi, khi lâm chung, ta cũng sẽ được đức Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện ra để tiếp độ ta về cơi ấy.

 

III. Pháp Tu Về Cực Lạc (Tịnh Độ) 

Phương pháp tu về Cực lạc có nhiều lối, nhưng không ngoài các pháp niệm Phật. Đây lược kể bốn pháp niệm Phật:

 

1. Tŕ danh niệm Phật: 

Tŕ danh niệm Phật tức là giữ một ḷng nhớ nghĩ danh hiệu Phật, là niệm "Nam mô A Di Đà Phật ". Khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống cũng niệm. Niệm từ buổi mai khi mới thưc dậy, cho đến buổi tối, trước khi đi ngủ. Niệm suốt cả ngày không xen hở. Khi gần đi ngủ, ngồi xếp bằng bán già hay kiết già, chắp tay mà nguyện rằng: 

"Con tin lời của đức Phật A Di Đà, giữ một ḷng niệm danh hiệu Ngài, nguyện đời nầy, bao nhiêu tội chướng thảy đều tiêu sạch, đến khi lâm chung được Phật và các vị Bồ Tát, đến tiếp dẫn chúng con về Cực lạc.

 

2. Tham cứu niệm Phật: 

Pháp niệm Phật tương tợ pháp tŕ danh, nhưng mà có khác nghĩa, làm môi miệng không động, niệm không ra tiếng, mà trong tư tưởng có niệm Phật. 

Khi niệm có tiếng th́ xét tiếng ấy từ đâu mà sanh ra. Đến khi hết niệm không nghe nữa, th́ xét tiếng ấy coi nó đi vào chỗ nào. Xét cho biết chỗ sinh ra, chỗ trở về là đă được một phần công phu khá cao rồi, cứ giữ như thế mà niệm, đừng cho tán loạn, th́ chắc có ngày minh tâm kiến tánh.

 

3. Quán tưởng niệm Phật: 

Là quán tưởng h́nh dung đức Phật ở trước mắt ta, ḿnh cao một trượng sáu thước, đứng trên hoa sen, và quán thân ta cũng ngồi trên hoa sen, chắp tay hầu Phật. Phật thấy ta, ta thấy Phật. Quán như thế lâu ngày, đi, đứng, nằm, ngồi, nhắm mắt, mở mắt đều thấy Phật, tức là pháp quán đă thuần thục.

 

4. Thật tướng niệm Phật: 

Thật tướng niệm Phật là niệm Phật hợp với chân tâm. V́ tất cả các pháp đều do tâm biến hiện, bởi tâm biến hiện, nên tướng nó đều là hư vọng (phàm sở tướng, giai thị hư vọng), duy có chân tâm là chân thật, không sinh, không diệt; không khứ, không lai, xưa nay thanh tịnh b́nh đẳng như như, không hư vọng, không biến diệt, cho nên mới gọi là thật tướng. 

Ba pháp niệm Phật trước thuộc về Sự, có tánh cách tiệm tu và tiệm quán. Đến pháp thứ tư nầy, là thuộc về Lư tánh, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến đây, mới hoàn toàn rốt ráo, mới ngộ tánh ḿnh là Phật A Di Đà, tâm ḿnh là cảnh Tịnh độ. 

Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự mới hiển ra Lư. Trước hết cũng do Tŕ danh niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật v.v...nhờ lối dụng công tu ba pháp trước, đến lúc thuần thục không c̣n thấy có ḿnh là người niệm Phật và Phật là một vị ḿnh niệm, chỉ c̣n có một chơn tánh vừa yên lặng, vừa chiếu soi không năng, không sở, không bỉ, không thử, không hữu, không vô. Chỗ này chính như trong Kinh tứ Thập Nhị Chương, Phật nói: "Niệm đến chỗ vô niệm"; hay trong kinh A Di Đà nói: "Được nhứt tâm bất loạn".

 

IV. Sự Quan Hệ Của Niệm Phật Trong Lúc Lâm Chung  

Theo quan niệm sai lầm của phần đông, th́ khi ông bà cha mẹ chết, con cháu phải khóc cho nhiều mới là có hiếu. Nhiều gia đ́nh lại c̣n thuê người đến "khóc mướn" để cho "rậm đám". Theo đạo Phật th́ trái lại, lúc ông bà cha mẹ chết, mà con cháu khóc lóc nhiều, làm ồn, rối loạn tâm thần người sắp chết là con cháu bất hiếu. Thật thế, phút quan trọng ấy cần để cho người sắp lâm chung được yên tĩnh, đừng làm cho họ động tâm, cảm xúc quá mà khó ĺa bỏ cơi đời. 

Một điều quan trọng nữa là, khi gần lâm chung, biết rằng không thể sống được, các trần duyên nên buông bỏ, đừng mến tiếc của cải, nhà cửa đẹp, con cháu ngoan. Ḷng quyến luyến ấy làm cho người sắp từ trần khó văng sanh. Trong sách có ví dụng: như con c̣ bị con ngao kẹp miệng lại, mặc dù có đủ cánh quạt mạnh, mà không thể bay lên được. 

Nên nhớ rằng trong các nghiệp nhân, cận tử nghiệp (nghiệp trước khi lâm chung) là có một lực rất lớn trong sự đầu thai. Nếu c̣n tâm niệm tham lam mến tiếc, th́ bị luân hồi trở lại, để giữ ǵn của cải, và kết duyên làm t́nh nghĩa ái ân nữa, măi măi sanh tử luân hồi không dứt. 

Vậy trong phút lâm chung, người đương sự cần có tâm hồn thanh thoát, không luyến tiếc đau khổ, mà trái lại, phải thiết tha cầu sinh Tịnh độ. C̣n những người thân thuộc th́ phải tránh sự khóc lóc, níu kéo người sắp từ trần và phải hộ niệm hết sức thành tâm, để vong linh người lâm chung được nhẹ nhàng siêu thoát.

 

V. Pháp Môn Niệm Phật Dễ Tu Và Chắc CHắn Có Kết Quả  

Đạo Phật có muôn ngàn pháp môn, tựu trung có pháp môn niệm Phật là dễ tu hơn cả. Các pháp môn khác như con mọt đục ống tre từng mắt mà lên, c̣n pháp môn niệm Phật như con mọt đục ngay ḿnh tre mà ra. hai phương pháp đều đưa con mọt ra khỏi ống tre cả, nhưng phương pháp sau kết quả mau chóng hơn phương pháp trước. 

Cổ nhơn dạy: "Người tu Thiền mà không tu Tịnh độ (niệm Phật ) th́ mười người lầm hết chín. Người tu Tịnh độ mà không tham Thiền, muôn người tu, muôn người được vănh sanh (nếu nhất tâm). Niệm Phật có cả tham Thiền, như cọp đă có sức mạnh, lại c̣n mọc thêm sứng". Nghĩa là lối tu niệm Phật đă chắc chắn rồi, mà c̣n tham Thiền, lại càng chắc chắn hơn nữa. C̣n người không tu Thiền, mà cũng không tu Tịnh độ, th́ như nằm gường sắt nóng, và ôm trụ đồng; nghĩa là không tu môn nào, cứ tạo điều ác, th́ phải đọa vào địa ngục, chịu hành phạt khổ sở. Một phen để mất thân người rồi, khó mà trở lại người được.

 

VI. Dẫn Chứng 

Pháp môn niệm Phật, chắc chắn được kết quả mỹ măn như ư muốn. Kinh Di Đà, kinh Thập Lục Quán, kinh Hoa Nghiêm, kinh Phương Đẳng v.v...đều tán thán pháp môn niệm Phật. 

Các vị Bồ Tát cũng đều tu pháp môn niệm Phật. Như Ngài Văn Thù Bồ Tát, trong bài kệ phát nguyện, có nói: "Nguyện ngă lâm dục mạng chung thời, tận trừ nhứt thế chư chướng ngại, diện kiến bỉ Phật A Di Đà, tức đắc vănh sanh An lạc quốc". (Nghĩa là: Nguyện khi tôi lâm chung, dứt trừ các điều ngăn ngại, thấy đức A Di Đà trước mắt, liền được vănh sanh về cơi An lạc). 

Ngài Phổ Hiền, Ngài Mă Minh, Ngài Long Thọ, Ngài Vô Trước, Ngài Thiên Thân bên tướng tôn, Ngài trí Giả Đại sư bên Thiên Thai tôn, Ngài Hiền Thủ bên Hiền thủ tôn, và c̣n nhiều vị Tổ sư khác cũng chuyên niệm Phật cầu vănh sanh Cực lạc. 

Pháp môn niệm Phật có sự linh nghiệm rơ ràng. Như ở Trung Hoa, Ngài Huệ Viễn lập hội Liên Xă, chuyên tu pháp môn niệm Phật, ba lần thấy Phật, khi lâm chung, biết trước ngày giờ vănh sanh. Tại Việt Nam, Ngài Nhất Định chùa Từ Hiếu, Ngài tường Vân (ở Huế), Ngài Ḥa Thượng Tế Xuyến (ở Hà Nam) đều biết trước ba ngày thị tịch. Chằng những các Ngài xuất gia, mà bên hàng cư sĩ như ông chủ Thời (Gia Định), ông Phó Kinh ở Nam Định (Bắc Việt) v.v...cũng biết trước ba ngày sẽ lâm chung. 

Pháp niệm Phật c̣n có nhiều linh nghiệm lạ thường khác nữa, không thể kể xiết được.

 

VII. Lợi Ích Của Niệm Phật Trong Đời Sống Hiện Tiền 

Niệm Phật có nhiều lợi ích, không những đời sau được vănh sanh cỗi Phật, là lợi ích chính, mà hiện tại cũng có nhiều lợi ích thiết thực.

 

1. Niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh: 

Niệm chúng sanh tức là nhớ nghĩ đến những điều xấu xa như tham, giận, kiêu căng...Do những điều nhớ nghĩa ấy mà lời nói hay việc làm đều vương mang tội lỗi. Nếu ta niệm Phật, th́ tâm trí không c̣n nhớ nghĩ đến những điều xấu xa, miệng và thân không tạo ra nghiệp ác nghĩa là ta diệt được niệm chúng sanh. Một giờ niệm Phật, là một giờ bớt niệm chúng sanh; một ngày, một tháng, một năm, một đời chuyên niệm Phật, làm một ngày, một tháng, một năm, một đời tránh được niệm chúng sanh, tránh được điều ác, và làm được việc lành.

 

2. Niệm Phật sẽ trừ được tâm buồn phiền: 

Trong những lúc buồn phiền đau khổ, như khi gặp cảnh con cái biệt ly, vợ chồng xa cách, nhà cửa tiêu tan v.v...nếu ta niệm Phật, th́ buồn phiền đau khổ sẽ tiêu tan. V́ sao vậy? V́ một khi ta nhớ nghĩ đến Phật A Di Đà, đến cảnh giới của Ngài, th́ không c̣n bận tâm nghĩ đến những nỗi niềm riêng của ta nữa. Niệm Phật đổi được niệm phiền năo là thế. Nếu niệm Phật tăng th́ niệm phiền năo phải giảm. Cho nên Cổ đức có nói: 

"Một câu niệm Phật giải oan khiên". 

Tóm lại, sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật, có lợi ích rất nhiều và thiết thực là làm tiêu tan được phiền năo nghiệp chướng. Nếu người không tin có nước Cực lạc, có Phật A Di Đà mà niệm Phật, cũng vẫn có lợi ích nhiều.

 

VIII. Quyết Nghi 

1. Có người hỏi rằng: 

Phật có vô số, v́ sao chỉ niệm Phật A Di Đà?

Trả lời: 

Tất cả chư Phật đều đồng một thể tánh chơn như b́nh đẳng. Niệm Phật A Di Đà tức là niệm tất cả chư Phật. Ví như trong một căn pḥng rộng, quanh tường có treo trăm cái gương, ta chỉ đứng soi vào một tấm gương, mà cả trăm tấm gương đều phản chiếu h́nh ảnh ta. 

2. Lại có người hỏi: 

Phật đă có khắp nơi, th́ cảnh Phật cũng có khắp nơi. Tại sao không niệm Đông phương Phật, Nam phương Phật, mà chỉ cầu về tây phương Cực lạc? 

Trả lời: 

Đúng là cơi Phật ở đâu cũng có, muốn cầu về cơi nào cũng được, nhưng chúng ta chỉ cầu về Tây phương Phật, v́ hai lư do: 

a) cảnh Cực lạc Tây phương là cảnh mà nhờ đức Phật Thích Ca giới thiệu, chúng ta biết rơ hơn cả. Đến một cảnh giới mà ta đă có ư niệm bao giờ cũng hơn là đến một nơi ta c̣n xa lạ, không rơ biết ǵ cả. 

b) Ta chuyên tưởng niệm một cảnh giới nhất định, th́ tâm sẽ được duy nhất. Nếu hôm nay niệm cảnh giới này, hôm sau niệm cảnh giới khác, th́ tâm sẽ tán loạn, ư niệm không được tập trung. Cũng như nhiều ngả th́ dễ lạc. Bắn tên phải nhắm vào một đích nhất định, mới hy vọng trúng. Tu pháp môn niệm Phật cốt nhất là được "nhất tâm bất loạn".

 

C. Kết Luận 

Pháp môn niệm Phật là một pháp môn dễ tu hành hơn cả. Niệm Phật không phải hao công, nhọc sức, khó khăn. Người trí thức, kẻ đi buôn, người làm ruộng, kẻ thợ thuyền, bất luận ở đâu và lúc nào, đều có thể niệm được cả. Pháp môn niệm Phật đă dễ tu mà lại có kết quả chắc thật, viên măn là văng sanh về tây phương Cực lạc. 

Song muốn có kết quả, điều kiện tiên quyết là phải có: Tín, Hạnh, Nguyện đầy đủ; phải có sự; lư viên dung, không nên chấp sự bỏ lư, hay chấp lư bỏ sự. Cốt yếu là phải niệm đến nhất tâm bất loạn, cầu sanh về Cực lạc, không c̣n khổ: sanh, già, bệnh, chết nữa. 

Chúng ta đă trót sinh ra ở cơi đời nầy, ai lại không biết có thân là khổ, dù có vui đi nữa, cũng chỉ vui trong chốc lát, mà cái khổ lại đeo đuổi theo luôn, như hai bánh xe lăn theo sau chân con ḅ. Vậy chúng ta nên chuyên cầu niệm Phật, để sớm được giải thoát. Sách có cấu: 

"Mạc đăi lăo lai phương niệm Phật. 

Cô phần đa thị thiếu niên nhơn". 

Nghĩa là: chớ đợi đến già mới niệm Phật; trong nghĩa địa, thiếu chi mồ của hàng thiếu niên. V́ vậy, trong giờ phút c̣n mạnh khỏe, chúng ta phải chuyên cần niệm Phật. Biết vô thường c̣n kiên tâm chờ đợi chúng ta cho đến ngày mai chăng?
 

Trở Lên

Bài Thứ 11 
Lược Sử Đức Phật A Di Đà và 48 Đại Nguyện

 

A.Mở Đề: 

Cây có cội, nước có nguồn. Phật tử chúng ta phần nhiều tu pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), th́ phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao. 

Đức Phật A Di Đà có công đức rất lớn và hạnh nguyện rất quảng đại.Ngài có nhân duyên hóa độ chúng sanh ở thế giới Ta Bà nầy rất nhiều. 

Muốn cho chúng sanh cơi nầy vượt khỏi kiếp lầm than của những cái khổ, sanh, già, bệnh, chết, nên đức Phật Thích Ca nói rơ nhân địa hạnh nguyện của Phật A Di Đà và khai thị pháp môn Tịnh độ tu hành. Từ thượng lưu trí thức đến hạng dân thường, nếu ai chuyên tu, cũng đều được văng sanh cả. 

 

B. Chánh Đề: 

I. Giải Nghĩa Danh Hiệu "A DI ĐÀ"

 

A Di Đà là dịch âm chữ Amita. tàu dịch nghĩa là Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang. Vô Lượng Thọ nghĩa là tuổi sống lâu không có số lượng; Vô Lượng Quang, là Ngài có hào quang sáng suốt không lường. 

 

II. Lược Sử Tu Nhân Và Chứng Quả Của Đức Phật A Di Đà

  

Chỗ nhân địa của đức Phật A Di Đà ở kiếp trước rất nhiều, không thể kể xiết, nay lược nói 4 kiếp như sau: 

1. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở phẩm Thí dụ, hóa thành có chép: 

"Đức Phật A Di Đà, kiếp trước là con của đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Ngài nhờ công đức thường giảng kinh Pháp Hoa cho chúng sanh nghe, nên thành Phật hiệu là A Di Đà,ở cơi Tây phương Cực lạc". 

2. Kinh Quán Phật Tam Muội Hải, chép: 

"Đời quá khứ Ngài làm Tỳ kheo, chăm ḷng kính lễ quán tưởng tướng lông mày trắng của đức Phật Không Vương, nên được thọ kư là Phật hiệu là A Di Đà". 

3. Kinh Bi Hoa, chép: 

Đời quá khứ hằng hà sa kiếp trước, Ngài là vua Chuyển Luân tên là Vô Tránh Niệm. Ngài có một quan Đại Thần tên là Bảo Hải, rất giàu ḷng tín ngưỡng. Một hôm vua nghe đức Phật Bảo Tạng đến thuyết pháp tại vườn Diêm Phù ở gần bên thành, Ngài với quan Đại thần Bảo Hải liền đến nghe và rất hài ḷng. Vua pháp tâm thỉnh Phật và đại chúng vào vương cung cúng dường trọn ba tháng để cầu phúc báu. 

Đức Phật khuyên vua nên phát Bồ đề tâm cầu đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. 

Khi đó đức Phật Bảo Tạng liền phóng hào quang sáng ngời, soi khắp cả thế giới của như Phật mười phương, cho chúng hội đồng thấy. Bảo Hải đại thần liền tâu với vua Vô Tránh Niêm: "Nay Bệ hạ nhờ oai thần của Phật, được thấy các thế giới, vậy Bệ hạ muốn cầu lấy thế giới nào?". 

Vua đảnh lễ Phật, quỳ gối chắp tay phát lời đại nguyện, cầu xin sau khi tu hành thành Phật, quốc độ và nhân dân của Ngài, đều được trang nghiêm thanh tịnh. Do nhơn duyên ấy, sau Ngài thành Phật hiệu là A Di Đà ở cơi Tây phương Cực lạc. 

4. Phật Thích Ca nói: 

"Đời quá khứ lâu xa, cách hơn 10 kiếp, có một nước tên là Diệu Hỷ, vua cha là Nguyệt Thượng Luân vương, mẹ là Thù Thắng Diệu Nhan. Vương hậu sanh ra ba người con: người con trưởng là Nhựt Nguyệt Minh, người con thứ hai là Kiều Thi Ca, người con thứ ba là Nhật Đế Chúng. Khi ấy có đức Phật ra đời hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai. Kiều Thi Ca bỏ ngôi vinh quí theo Phật Thế Tự Tại xuất gia, thụ Kỳ kheo giới, Phật cho hiệu là Pháp Tạng Tỳ kheo. Ngài Pháp Tạng đối trước Phật, pháp 48 lời nguyện rộng lớn, độ khắp tất cả mười phương chúng sanh; nếu có một nguyện nào chẳng viên măn, th́ Ngài thề chẳng thành Phật. Khi ấy chư thiên rải hoa, tán thán, quả đất rúng động, giữa không trung có tiếng khen rằng: 

"Pháp Tạng quyết định sẽ thành Phật hiệu là A Di Đà". 

Như thế, chúng ta biết rằng, đức Phật A Di Đà tiền thân là Thái Tử Kiều Thi Ca, bỏ ngôi sang, xuất gia tu chứng thành quả Phật là A Di Đà.

 

III. 48 Đại Nguyện Của Đức Phật A Di Đà 

 

Nguyện thứ 1: Lúc tôi thành Phật, nếu trong cơi nước tôi, có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 2: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi, sau khi thọ chung, c̣n trở lại sa vào ba ác đạo, thời tôi không ở ngôi Chánh giác. 

 

Nguyện thứ 3: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi, thân chẳng màu vàng tất cả, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 4: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi, thân h́nh có kẻ tốt người xấu chẳng đồng nhau, thời tôi không ở ngôi Chánh giác. 

 

Nguyện thứ 5: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi chẳng có Túc mạng thông, ít nhất là biết rơ những việc trăm ngh́n ức na do tha kiếp (vô số kiếp) thời tôi không ở ngôi Chách giác. 

 

Nguyện thứ 6: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi, chẳng đặng Thiên nhăn thông, ít nhất là thấy rơ trăm ngh́n ức na do tha thế giới của chư Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác. 

 

Nguyện thứ 7: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi, chẳng được Thiên nhĩ thông, ít nhất là nghe và thọ tŕ tất cả lời thuyết pháp của trăm ngh́n ức na do tha đức Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 8: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi chẳng được Tha tâm thông, ít nhất là biết rơ những tâm niệm của tất cả chúng sanh, trong trăm ngh́n ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 9: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi, chẳng đặng thần túc thông, khoảng một niệm, ít nhất là đi qua khỏi trăm ngh́n ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 10: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi, c̣n có quan niệm tham chấp lấy thân, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 11: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi, chẳng trụ định tu, nhẫn đến trọn diệt độ, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 12: Lúc tôi thành Phật, nếu quang minh c̣n hữu hạn, ít nhất cũng chiếu thấu trăm ngh́n na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 13: Lúc tôi thành Phật, nếu thọ mạng c̣n hữu hạn, ít nhất cũng đến trăm ngh́n na do tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.  

 

Nguyện thứ 14: Lúc tôi thành Phật, chúng Thanh Văn trong cơi nước tôi, nếu có ai tính đếm biết được số bao nhiêu, dầu đó là vô lượng Bích Chi Phật đồng tính đếm trong trăm ngh́n kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 15: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi, thọ mạng c̣n hữu hạn, trừ người có bổn nguyện riêng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 16: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi, c̣n có người nghe danh từ bất thiện thời tôi không ở ngoài Chánh giác.

 

Nguyện thứ 17: Lúc tôi thành Phật, nếu vô lượng chư Phật thập phương thế giới, chẳng đều ngợi khen xưng danh hiệu tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh, chí tâm tín mộ, muốn sanh về cơi nước tôi, nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác; trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch, cùng hủy báng Chánh pháp.

 

Nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát bồ đề tâm, tu các công đức, nguyện sanh về cơi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 20: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cơi nước tôi, và tu các công đức, chí tâm hồi hướng, muốn sanh về cơi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác. 

 

Nguyện thứ 21: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi, tất cả chẳng đủ ba mươi hai tướng đại nhơn, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 22: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở cơi khác sanh về nước tôi, cứu cánh đều quyết đến bực Nhứt sanh bổ xứ, trừ người có bổn nguyện riêng, tự tại hóa hiện, v́ chúng sanh mà thoát hoằng thệ nguyện, tu các công đức, độ thoát mọi loài, đi khắp thế giới, tu Bồ Tát hạnh, cúng dường thập phương chu Phật, khai hóa vô lượng chúng sinh, làm cho tất cả đều đứng vững nơi đạo vô thượng chánh giác, siêu xuất công hạnh của các bực thông thường, hiện tiền tu tập Đại nguyện của Phổ Hiền, nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Chánh giác. 

 

Nguyện thứ 23: Lúc tôi thành Phật, các Bồ Tát trong cơi nước tôi, thừa thần lực của Phật, mà đi cúng dường thập phương chư Phật, trong khoảng thời gian một bữa ăn, nếu không đến khắp vô lượng vô số ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 24: Lúc tôi thành Phật, các Bồ Tát trong cơi nước tôi, khi ở trước thập phương chư Phật, hiện công đức của ḿnh, muốn có những vật cúng dường, nếu không được đúng như ư muốn, thời tôi không ở ngôi Chánh giác. 

 

Nguyện thứ 25: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát trong cơi nước tôi, không được Nhứt thế trí, thời tôi không ở ngôi Chánh giác. 

 

Nguyện thứ 26: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát trong cơi nước tôi, chẳng đều được thân kim cương Na la diên, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 27: Lúc tôi thành Phật, th́ trong cơi nước tôi, tất cả đồ dùng của nhơn thiên, h́nh sắc đều sáng đẹp sạch sẽ, rất tột vi diệu, không có thể tính biết, dầu là người được thiên nhăn. Nếu có người biết danh số các đồ vật ấy được rơ ràng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 28: Lúc tôi thành Phật, nếu Bồ Tát trong cơi nước tôi, dầu là người ít công đức nhứt, chẳng thấy biết được cội cây đạo tràng cao bốn trăm muôn do tuần, vô lượng quang sắc, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 29: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong cơi nước tôi, nếu thọ tŕ, đọc tụng, giảng thuyết kinh pháp mà chẳng được trí huệ biện tài, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 30: Lúc tôi thành Phật, nếu có ai hạn lượng được trí tuệ biện tài của Bồ Tát trong cơi nước tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 31: Lúc tôi thành Phật, cơi nước tôi thanh tịnh, các nơi đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất tư nghị thế giới ở mười phương, như là thấy mặt ḿnh trong gương sáng. Nếu chẳng được như thế, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 32: Lúc tôi thành Phật, trong cơi nước tôi từ mặt đất tràn lên đến hư không, lầu nhà cung điện ao nước hoa cây, tất cả vạn vật đều là vô lượng chất báu và trăm ngh́n thứ hương, hiệp chung lại mà thành; vạn vật đều xinh dẹp kỳ diệu, mùi thơm xông khắp thập phương thế giới. Bồ Tát các nơi ngửi đến mùi thơm ấy, thời đều tu hạnh của Phật. Nếu chẳng như thế, tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 33: Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, được quang minh của tôi chiếu đến nhẹ nhàng hơn thiên nhơn, nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 34: Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh tong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, nghe danh hiệu của tôi mà không được vô sanh pháp nhẫn, cùng các môn thâm-tổng-tŕ, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 35: Lúc tôi thành Phật, các người nữ trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, vui mừng tin mến phát Bồ đề tâm, nhàm ghét thân gái. Nếu sau khi mạng chung mà c̣n làm thân người nữ nữa, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 36: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, nghe danh hiệu tôi, vẫn thường tu phạm hạnh, măi đến thành Phật. Nếu chẳng được như thế, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 37: Lúc tôi thành Phật, hàng nhơn thiên trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, nghe danh hiệu tôi, cuối đầu đảnh lễ, năm vóc gieo xuống đất, vui mừng tin mến tu Bồ Tát hạnh, thời chư Thiên và người đời đều kính trọng người đó. Nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 38: Lúc tôi thành Phật, hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi muốn có y phục, thời y phục tốt đúng pháp liền theo tâm niệm của người đó mà đến trên thân. Nếu c̣n phải cắt may nhuộm giặt, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 39: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi, hưởng thọ sự vui sướng không như vị Lậu tận Tỳ-kheo, thời tôi không ở ngôi Chánh-giác

 

Nguyện thứ 40: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cơi nước tôi, tùy ư muốn thấy vô lượng thế giới nghiêm tịnh của chư Phật ở mười phương, thời liền được thấy rơ cả nơi trong cây báu, đúng theo ư muốn, như thấy mặt ḿnh trong gương sáng. Nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 41: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó nhẫn đến lúc thành Phật, mà các căn c̣n thiếu xấu, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 42: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát, ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, thảy đều được giải thoát tam muội. Trụ tam muội đó, trong khoảng thời gian một niệm, cúng dường vô lượng bất tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà vẫn không mất chánh niệm. Nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Chánh giác. 

 

Nguyện thứ 43: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung thác sanh nhà Tôn quí, nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 44: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hơn hở, tu Bồ Tát hạnh, trọn đủ công đức, nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Chánh giác. 

 

Nguyện thứ 45: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, đều đặng Phổ đẳng tam muội, trụ tam muội nầy măi đến lúc thành Phật, thường được thấy Vô lượng bất tư nghị tất cả chư Phật. Nếu chẳng như thế thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 46: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở trong cơi nước tôi, muốn nghe pháp ǵ, thời liền tự nhiên đặng nghe pháp ấy. Nếu chẳng như thế thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

Nguyện thứ 47: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác, nghe danh hiệu tôi mà chẳng được đến bực bất thối chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác. 

 

Nguyện thứ 48: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, mà chẳng liền được Đệ nhất âm hưởng nhẫn, ở nơi Phật pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

 

C. Kết Luận 

Nói tóm lại, lịch sử đức Phật A Di Đà, với 48 đại nguyện. Công đức của Phật A Di Đà rất rộng lớn, là do ḷng đại bi đại nguyện lợi tha. Ngài đành bỏ tất cả ngôi sang cao quí, nguyện tu hành khi thành Phật, ở trên một cảnh giới huy hoàng trang nghiêm, để tiếp độ chúng sanh. Trải qua một thời gian được kết quả, y báo chánh báo xuất hiện rực rỡ như lời Ngài đă thệ nguyện. 

Phật tử chúng ta, từ hồi nào đến bây giờ, biết niệm danh hiệu Phật A Di Đà, biết được pháp môn niệm Phật cầu sanh Cực lạc (Tịnh độ) là nhờ đức Phật Thích Ca ta chỉ dạy. 

Vậy xin khuyên tất cả Phật tử, noi theo gương đại nguyện của Phật A Di Đà, nên phát tâm thệ nguyện rộng lớn, cầu khi lâm chung sanh về Cực lạc, hóa sanh từ hóa sen, tu chứng lên bực Bất thối, rồi trở lại cơi Ta Bà hóa độ bà con quyến thuộc và tất cả chúng sanh tu hành đồng thành Phật đạo.

Trở Lên