A Di Đà Phật! Kính chào quý khách ghé thăm 

 
 
 
 

Mục Lục Khóa Thứ Năm 
Lịch Sử Truyền Bá Phật Giáo, 
10 Tông Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh

 

01 Lịch sử Phật giáo Ấn Ðộ
02 Lịch sử Phật giáo Trung Hoa
03 Lịch sử Phật giáo Việt Nam
04 Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tiếp theo)
05 Phong trào chấn hưng Phật giáo trên thế giới và Việt Nam cận đại
06 Mười tông phái ở Trung Hoa: Luật tông, Tịnh độ tông, Thiền tông

 

 
 

Bài Thứ 1 
Lịch Sử Phật Giáo Ấn Ðộ

  

A.-Mở Ðề 

Khao-khát cái tuyệt-đối, khinh-thường cái cái tương-đối; mong cầu cái vĩnh-viễn trường-tồn, ruồng-bỏ cái biến-chuyển vô-thường, người Viêt-Nam nói riêng và người Á-Châu nói chung đã được huân tập mấy ngàn năm trong một thái-độ tư-tưởng như trên, nên đã xem thường lịch sử, là một môn học theo sát sự biến-chuyển vô-thường của sự thế, mà mục-đích là mong ghi chép một cách trung-thành những gì đã mất hút trong bóng tối của thời-gian. 

Quan niệm khinh thường lịch sử ấy đã đem lại cho chúng ta nhiều điều tai hại không nhỏ. Chúng ta đã bỏ mất bao nhiêu bài học quý giá mà ông cha chúng ta mua với một giá rất đắt; chúng ta đã mất rất nhiều liên lạc với quá-khứ, tắt mất đường thông-cảm với người xưa, và đang lạc-loài trong hiện tại vì không biết nên bỏ con đường nào và nên theo con đường nào. Người ta thường nói rất đúng: một dân-tộc không quá-khứ, thì cũng khó mà có tương-lai. 

Riêng trong phạm-vi Phật Giáo chúng ta, tìm về cho đúng nguồn-gốc, thử vạch lại con đường đi truyền-giáo của ông cha, xây dựng lại mô-hình của một thời-đại huy-hoàng của Phật Giáo, đó là những công-việc vô cùng khó-khăn, nhọc mệt. 

Nhưng mặc dù mệt nhọc, khó-khăn, không lẽ thấy vết xe đổ của người xưa mà nay chúng ta không tránh, cứ nhắm mắt đi càn? Người xưa đã xem thường lịch sử, ngày nay trái lại, chúng ta phải dành cho nó một địa-vị quan-trọng. Có thấy rõ được nguồn-gốc, sự phát-triển, những thời-đại thịnh-suy của môt tôn giáo, chúng ta mới hiểu rỏ được giá trị chân-thật của tôn giáo ấy. Nhất là nếu chúng ta là những người có nhiêm vụ truyền-bá giáo-lý của Phật-Ðà, thì hơn ai cả, chúng ta phải học lịch sử Ðạo-Phật để tìm hiểu lẽ thịnh suy, nguyên-nhân những thành bại của công cuộc hoằng-dương chánh-pháp trên khắp năm châu, hầu bắt chước những điều hay có lợi cho Ðạo, bỏ những điều dở, có hại cho Ðạo, để Phật Pháp được hoằng truyền mãi mãi với thời-gian. 

Vậy trước tiên, chúng ta hãy trở về nguồn, tuần-tự đi theo bước chân trên đường truyền giáo, từ khi Ðức Giáo-chủ Thích-Ca mới xuất thế ở Ấn Ðộ, dần dần qua Trung-Hoa, rồi đến Việt-Nam, để cuối cùng có một ý-niệm tổng-quát về hiện tình Phật Giáo ở nước nhà và trên Thế-Giới phức tạp ngày nay.

 

B.- Chánh Ðề 

Phật Giáo Ở Ấn Ðộ 

I.- Sự Khai Nguồn Của đức Giáo Chủ Thích Ca  

1.- Tình-trạng xã-hội đen tối và tư-tưởng phức-tạp ở Ấn Ðộ khi đức Phật xuất thế 

Xét về sự bất công trong xã-hội trên 2500 năm trước đây, thì xã-hội Ấn Ðộ có lẽ là một trong những xã-hội có một chế-độ xã-hội và chính-trị bất công nhất. Dân chúng Ấn Ðộ thời bấy giờ bị phân chia rất nhiều giai-cấp khác nhau, tựu trung có thể liệt vào những giai-cấp chính sau đây: 

a)Bà-la-môn (Brahmanes) gồm những Giáo-sĩ, những người giữ quyền thống-trị tinh-thần, phụ-trách về lễ-nghi, cúng bái. Họ tự nhận mình là hạng cao-thượng, sinh từ lỗ miệng Phạm-Thiên (Brahma) hay Phạm-Thiên cầm cương lãnh đạo tinh-thần dân-tộc, nên có quyền ưu-tiên được tôn-kính, và an-hưởng cuộc đời sung-sướng nhất. 

b) Sát-đế-ly (Kastryas) là hàng vua chúa quý-phái, tự cho mình sinh từ cánh tay Phạm-Thiên, thay mặt cho Phạm-Thiên nắm giữ quyền-hành thống-trị dân-chúng. 

c) Vệ-Xa (Vaisyas) là những hàng thương-gia chủ-điền, tin mình sinh ra từ bắp về Phạm-Thiên, có nhiệm-vụ đảm-đương về kinh-tế trong nước (mua bán, trồng-trọt, thu huê-lợi cho quốc-gia ). 

d) Thu-Ðà-La ( Souđras) là hàng Hà-tiện, nô-lệ tin mình sinh từ gót chân Phạm-Thiên, nên thủ-phận làm khổ-sai suốt đời cho các giai-cấp trên. 

Ngoài bốn giai-cấp trên, còn có một hạng người hà-tiện nhất là giống Ba-ri-a (Pariahs) giống dân-tộc mọi rợ, bị coi như sống ngoài lề xã-hội loài người, bị các giai-cấp trên đối-xử như thú-vật, vô cùng khổ nhục, tôi-tăm. 

Năm giai-cấp này mặc y-phục màu sắc khác nhau. Mỗi giai-cấp sống theo luật lệ hệ thống cha truyền con nối, không được thay đổi nghề-nghiệp hay cưới hỏi lẫn nhau, và không được di chuyển chổ ở khác. Theo luật Bà-la-môn, chỉ ba giai-cấp trên có quyền đọc kinh, học đạo, còn hai giai-cấp dưới thì đời đời chỉ làm nô lệ cho ba giai-cấp trên mà thôi. 

Hạng Bà-la-môn hưởng sung sướng nhàn-hạ bao nhiêu, thì đám người hà-tiện ở dưới lại khổ sở, nhục-nhã bấy nhiêu. Sự bất công xã-hội thật không thể nào diễn-tả nổi. Giữa người với người, thật không có một nhịp cầu thông-cảm nào, nguồn yêu thương tắc nghẹn, giai-cấp này đối với giai-cấp khác là địch thủ mà càng bóc lột được bao nhiêu là càng tốt bấy nhiêu.  

Về phương-diện tôn-giáo, Triết-học, tư-tưởng thì xã-hội Ấn Ðộ thời bấy giờ cũng diễn ra một cảnh tượng vô cùng hỗn-tạp. Về tín-ngưỡng người thờ thần lửa kẻ thờ thần núi, thần sông, kẻ thờ thần gió, thần chớp, thần mặt trời. Về triết-học, kẻ cho rằng Phạm-Thiên là căn-bản của vũ-trụ, vạn-hữu, kẻ cho rằng đất là căn-bản, kẻ cho rằng nước là căn- bản, kẻ cho rằng gió là căn-bản ...có phải đi xa hơn, từ cụ thể đến trừu-tượng, lập ra những thuyết: thời gian luận, không gian luận, phương hướng luận, chủ trương nhất nguyên, nhị nguyên, đa nguyên ...Gồm một trăm phái khác nhau, luôn luôn đã kích chóng báng nhau.  

Tóm lại, xã-hội Ấn Ðộ lúc bấy giờ là một xã-hội về vật-chất thì đang rên-siết dưới ách bất công, áp-bức, về tinh-thần thì đang quay-cuồng, điên-đảo trong những luồng tư-tưởng lỳ thuyết rối-reng, tà-vay. Xã-hội ấy đang khao-khát tình thương và bình đẳng, đang mong chờ được chói rạng dưới ánh sáng của trí-huệ.  

Trong hoàn-cảnh ấy, Ðức Phật Thích-Ca đã xuất-hiện đúng lúc để cứu vớt cõi đời sầu khổ.

 

II.- Ðức Phật Thích-Ca ,vị giáo-chủ của Ðạo Từ-bi và Trí-huệ: 

a) Niên-lịch Giáng-Sinh

Như chúng ta đã nói ở phần mở đề, người Phật-Tử chúng ta không cho vấn-đề lịch sử là quan-trọng; lại thêm trải qua một thời-gian lâu dài từ khi Ðức Phật xuât-hiện đến nay, tài-liệu bị thất-lạc nhiều, nên có nhiều thuyết khác nhau về niên-lịch Giáng-Sinh của Ðức Phật. 

Tuy thế, ngày nay để được thống-nhất toàn vẹn về niên-lịch Phật Giáo thế-giới họp tại Ðông-Kinh năm 1952, đã thỏa thuận rằng ngày trăng tròn tháng hai của xứ Ấn Ðộ (tức ngày rằm tháng tư âm-lịch) năm 624 trước Jésus Christ ra đời là ngày Ðản-sanh của Ðức Phật Thích-Ca. Như vậy, tính đến năm nay (1964) thì Ðức Phật Giáng-sinh đã được 2588 năm (1964+624). Nhưng nếu chúng ta thấy ghi Phật-lịch 2508 (tính đến năm Tây-lịch là 1964) là vì Tổng-hội Phật Giáo Quốc-Tế lấy năm nhập Niết-bàn của Ðức Phật làm năm đầu kỷ-nguyên, chứ không phải lấy năm sinh (2588-80 năm đời Ðức Phật =2508). 

b).Quốc-độ và dòng họ. 

Thời bấy giờ xứ Ấn Ðộ gồm nhiều tiểu-quốc, khi hòa khi chiến với nhau như đời Chiến-quốc bên Tàu. Tuy thế, đại-cuộc vẫn thu về nước Ma-kiêt-đà (Magatha) như nhà Chu ở Trung-Quốc đối với các nước chư-hầu vậy. Nước này lớn nhất ở phía nam sông Hằng-Hà (Gange) làm trung tâm cho toàn xứ Ấn Ðộ. Ở phía Bắc xứ Ấn Ðộ, gần dưới chân dãy núi Hy-mã-lạp-sơn (Bây giờ là nước Népal) có một Quốc-độ tên là Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Vua trị-vì nước này là Tịnh-Phạn-Vương (Sudhodana) thuộc giai-cấp Sát-đế-ly (Kastrya) dòng Kiều-Tât-la (Gotama) là một đại quý tộc ở Ấn Ðộ. Bà Hoàng-Hậu, vợ của vua Tịnh-Phạn là Ma-Gia (Maha-maya) đến 45 tuổi mới có thai. 

Theo tục lệ Ấn Ðộ, gần ngày sinh, Hoàng-Hậu trở về nhà cha mẹ là vua A-Nậu-Thích-Ca (Anucakya) ở nước Câu-Ly (Koli). Một buổi bình minh, Hoàng-Hâu ra dạo chơi trong vườn hoa Lâm-Tỳ-ny (Lumbini) và sinh hạ Thái-tử ở đấy. Thái-tử được đặt tên là Tất-Ðạt-Ða (Siddharta) và theo tục lệ Ấn Ðộ lấy họ mẹ là Thích-Ca (Cakya). Sau khi đã sanh  Thái-tử Tất-Ðạt-Ða được 7 ngày, Hoàng-hậu Ma-Gia tạ thế. Em gái của hoàng hậu là Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Ðề (Maha-Prajapati) thay chị nuôi Thái-Tử Tất-Ðạt-Ða cho đến lớn. 

Thái-tử Tất-Ðạt-Ða, sau này tức là Ðức Phật Thích-Ca Mâu-ni, vị Giáo-chủ từ-bi và trí-huệ của Ðạo Phật. 

c)Hình-tướng và tư-chất 

Hình tướng của Thái-Tử có những nét đặc biệt hơn người thường: Ngài có ba mươi hai tướng quý và tám mươi vẽ đẹp. Cho nên khi xem tướng Ngài, Ðạo sĩ A-Tư-Ða (Asita) đã tiên đoán sau này Ngài sẽ thành Phật, làm chủ cả tam thế, dắt đường chỉ nẻo cho chúng sinh thoát khỏi bể khổ luân-hồi. 

Thuở thơ ấu, tư chất thông minh và tánh tình đức-độ của Ngài đã biểu lộ một cách rỏ rệt. Những Ðạo-sĩ thông thái, những Vỏ-sĩ tài danh điều được Tịnh-Phạn vương mời đến dạy cho Thái-Tử; và chẳng bao lâu Thái-Tử đã trở thành một vị văn vỏ toàn tài, không ai sánh kịp.  

Cùng một nhịp với tài-năng, đức-độ của Ngài cũng được phát triển một cách vô cùng nhanh chóng và sâu rộng. Tình thương của Ngài lan tràn, bao phủ tất cả mọi vật mọi người. 

Và cũng do tư chất thông minh nhìn thấy rỏ được tánh cách giả dối, vô thường của sự thế, và lòng thương vô hạn, không thể ngồi yên để nhìn thấy sự rên-siết, khổ đau của cỏi đời, nên tâm-hồn của Ngài không bao giờ được yên ổn. Ngày đêm, Ngài luôn luôn nghĩ đến phương pháp cứu khổ cho chúng sinh. 

Vua Tịnh-Phạn, để làm khuây-khỏa lòng con, truyền dựng lên một cung điện nguy nga, bày đủ trò đàn ca múa hát bao vây lấy Thái-Tử, và còn cưới cho Ngài một người vợ tuyệt-thế giai-nhân làm nàng Da-Du-Ðà-La (Yosodhara) nhưng Thái-Tử vẫn không khuây nổi buồn mênh mông của cõi thế. 

d) Xuất-gia . -Năm ngài mười chín tuổi (có chổ nói 29 tuối) sau khi đã để lại cho Tịnh-Phạn vương một người cháu nội là La-Hầu-La(Lahula).Thái-Tử quyết -định rời bỏ Hoàng-gia, từ bỏ cuôc đời vinh-hoa phú-quy, trốn ra khỏi hoàng-thành, cắt tóc vào rừng sâu mong được yên-tĩnh để tìm nghĩ phương-pháp cứu độ chúng-sinh thoát khỏi vòng khổ ải và đưa họ lên bờ giác-ngô vĩnh-viễn yên vui. Ban đầu Ngài phải đi tìm học hỏi với những đạo-sĩ danh-tiếng nhất Ấn-Ðộ thời bấy giờ, nhưng rồi Ngài nhận thấy chân-lý và lối tu hành của họ cũng không có gì là siêu-thoát. Từ đó, Ngài đi vào ẩn trong dãy núi Tuyết-Sơn, phải tự mình tu luyện để tìm ra cái đạo giải thoát như ý Ngài mong muốn. Trong sáu năm trời tu khổ-hạnh, Ngài củng chưa thu-thập được-kết quả gì khả-quan. Bấy giờ, Ngài mới đi đến núiTượng-Ðầu (Gajasirsa) bên bờ sông Ni-Liên-Thiền. Sau khi tắm rửa xong Ngài thọ bát cháo sữa (đè-hồ) của mấy nàng mục-nữ cúng. Rồi Ngài đi đến dưới gốc cây Tất-bát-la (Pippale, sau này người đời gọi là cây Bồ-đề nghĩa là cây giác ngộ, để kỷ niệm sự giác ngộ cuả Ðức Phật dưới gốc cây ấy). Ngài ngồi thiền-định ở đó và thề rằng: 

"Nếu ta ngồi đây mà không chứng được đạo-quả, thì dù thịt nát xương tan,ta quyết không bao giờ đứng dậy". 

đ)Thành đạo và thuyết pháp độ sinh.-ngài ngồi thiền định dưới gốc cây Tất-bát-la, cho đến ngày thứ bốn mươi chín, lúc sao mai vừa mọc, thì Ngài hốt-nhiên đại-ngộ, thấy được chân lý của vũ trụ và nguồn gốc sinh tử của chúng-sinh. Ngài đã thành Phật với danh hiệu là Phật Thích-Ca-Mâu-Ni (Cakya Muni). 

Sau khi thành đạo trong khoảng thời gian bốn mươi chín năm (Có chổ chép là bốn mươi lăm năm) đức Phật chu du khắp cả các lưu vực sông Hằng, đem đạo vô thượng của ngài giáo hóa chúng sinh, không phân biệt già trẻ, nam nữ, giàu nghèo, sang hèn, màu da, chủng tộc, trí thức hay ngu si. 

Nhờ lòng từ bi không bờ mé, đức hy sinh rộng lớn vô biên, Ngài đã giảng nói pháp trên năm trăm hội, hóa-độ vô số quần-sinh, thoát vòng mê-mờ khổ não. Và do đó, đạo Phật được thành lập trên cõi đời. 

e)Phật nhập Niết-bàn.-Vào năm 554 năm Trước tây-lịch (tính đến năm 1964 tức là: 1964+554=2508 năm) Ðức Phật bây giờ đã 80 tuổi. Nhận thấy chí nguyện của mình đã thực hiện, nhiệm vụ độ sinh của mình đã đầy đủ, một hôm, đức Phật cho hội đệ từ của Ngài lại, ban những lời di chúc cặn kẽ, rồi từ giã cõi đời một cách bình thản, giản dị, móc ở giữa hai cây bông vải (Cala) ngoài châu thành Câu-thi-la (Kusivagarâ), 

Như thế ấy, một cuộc đời vô cùng vĩ dại đã xuất hiện và biến ẩn như một luồng ánh sáng mầu nhiệm khi đã đánh dấu ba giai đoạn lớn một cách vô cùng giản dị và đầy ý nghĩa: 

-Ra đời bên cạnh một gốc cây 

-Thành đạo bên một gốc cây 

-Và lìa đời ở giữa hai cành cây !

 

II.-Lịch Sử Truyền Bá Phật Giáo Tại Ân Ðộ 

1.-Bốn thời kỳ kiết tập kinh-điển.a)-Bốn tháng sau khi Ðức Phật nhập niết-bàn, Ngài Ma Ha Ca Diếp (MaHa Kasypa) thay Phật thống suất tăng-chúng đã triệu-tập một hội nghị gồm khoảng 500 đại đệ-tử của Phật, ở thành Vương-Xá ( Rajagrika) để giảng tụng lại những giáo-lý mà Ðức Phật đã dạy. Trong hội-nghị đầu tiên này, Ngài Ma Ha Ca Diếp được suy tôn ngồi ghế chủ-tọa; Ngài A-Nan, là Vị đệ-tử thường theo Phật nghe nhiều và nhớ lâu, được cử ra tụng lại những lời dạy của Phật; còn Ngài Ưu-Ba-Ly (Upali) là vị đệ-tử thông-suốt và nghiêm-trì giới luật nhất, được cử ra tụng giới-luật. Hội nghị này đã kết-thúc sau bảy tháng làm việc và 500 vị đại đệ-tử đều công nhận đó là những lời chân thật của Phật. 

Ðại-hội này được mệnh-danh là "Kỳ kết-tập thứ nhất ".  

b). Kỳ kết-tập thứ hai. -Khoảng một trăm năm sau khi Phật nhập- diệt , vì có sự bất đồng về giới-điều, nên tăng chúng chia làm hai nhóm, họp riêng ở hai thành Vaisaly và Vàjji. 

Nhóm tăng-sĩ họp ở thành Vaixaly do sự triệu tập của Ngài trưởng-lão Yasa thọ 165 tuổi, gồm có 12.000 Tăng-sĩ, nhưng trong số ấy chỉ có 700 vị lão-thành mới có quyền biểu quyết . Hội-nghị này họp dưới quyền chủ-tọa của Ngài Revala và đồng-thanh biểu-quyết: "Không nên sữa đổi cho sai những điều luật của Phật đã truyền đạo mặc dù Ðức-Thề-Tôn đã có di-huấn rằng nếu chư Tăng đồng ý cùng nhau là thấy điều-luật nào của Như-Lai đã chế-định là ít quan-trọng và không thể thụ-trì được nữa, thì được phép sữa chửa".  

Trong khi ấy thì nhóm Tăng-sĩ ở thành Vajji họp dưới quyền chủ-tọa của đại-đức Vajjiputra lại chấp-thuận. Trong kỳ kết-tập thứ hai này chỉ đặt trọng tâm trong việc giải-quyết về giới-luật mà thôi. Tuy thế, Tăng-đồ cũng chia thành hai phái rõ rệt. Phái do Ngài Yasa triệu-tập và giữ đúng giới-luật của Phật, thì gọi là phái nguyên thủy (Théravadins) hay thượng-tọa bộ. 

Phái do Ngài Vajjiputra sữa đổi mười điều luật của Phật thì gọi là phái Tiến-thủ, hay là Ðại-chúng bộ (Mahasanghikas). 

Từ đấy, Phật Giáo chia ra hai phái rỏ rệt và là cội rể cho hai mươi tôn-phái sau này. 

c). Kỳ kết-tập thứ ba:Hơn hai thế-kỷ sau ngày Phật nhập-diệt (274 năm trước tây lịch), Hoàng-Ðế A-Dục lại triệu-tập 1000 vị Ðại-trưởng-lão Uyên-thâm để kết-tập kinh điển tại thành Pataliputra (tức là Bihar và Patra ngày nay) duới quyền chủ tọa của Ngài Mục-Kiền-liên Tu-Ðế (Mogaliputta Tissa). Sau chín tháng làm việc,hội nghị đã hoàn- thành công -tác kết tập kinh-điển,ngòài ra lại còn chỉnh đốn Tăng giới, bài trừ những hạng Tu-sĩ phạm trai, phá giới, vô kỷ -luật. 

d)Kỳ kết-tập thứ tư .-Vào khoảng 600 năm sau khi Phật nhập -diệt ,nghĩa là vào thế-kỷ thứ nhất Tây-Lịch,Vua Ca-Ni-Săc-Ca (Kaniska) một vị Ðại-Ðế Ấn Ðộ, có tâm hộ pháp chẳng thua gì Vua A-Dục, đã triệu tập 500 vị Bồ Tát, 500 vị Tỳ-kheo cùng 500 người tại-gia cư-sĩ, tại thành Ca-Thập-DiLa để kết-tập kinh-điển dưới quyền chủ-tọa của hai Ngài Hiếp-Tôn-Giả và Thế Hữu. 

Kỳ kết-tập này gọi là kỳ kết-tập lần thứ tư. 

Trong bốn kỳ kết-tấp này thì hai kỳ đầu chưa cần đến sự biên chép,nghĩa là chỉ đọc tụng lại, xem lời lẽ nào là của Phật đã nói ra, hay xét những ý nghĩa nào là đúng với chánh-pháp. 

Ðến thời kỳ thứ ba và thứ tư mới dùng đến văn-tự để biên chép thành sách vở. Trong sự biên chép này, chư Tăng chia làm hai phái: Phái Nam thì ghi bằng văn Pali, còn phái Bắc thì ghi bằng văn phạn. 

2.-Nam -phương và Bắc-phương Phật Giáo. -Như trên đã nói, vì kinh-điển được ghi chép bằng hai thứ văn: Pali và Phạn, nên những xứ nói tiếng Pali thì kinh-điển bằng Pali được truyền bá, còn những xứ dân chúng nói tiếng Phạn thì kinh-điển bằng Phạn-văn được truyền tụng. Nếu lấy Trung Ấn Ðộ là cứ-điểm, thì những xứ phía Nam Ấn Ðộ và lan ra đến những xứ Tích-lan, Miến-điện, Thái-lan, Ai-lao, Cao-mien ...đều theo kinh điển Pali, nên cũng gọi là Nam-phương Phật Giáo. 

Còn những xứ thuộc Trung Ấn Ðộ, Bắc Ấn-Ðo và lan ra đến Nêpal, Tây-tạng, Trung-hoa, Việt-nam, Cao-ly, Nhật-bổn...thì lại căn-cứ theo kinh điển chữ Phạn, và được gọi là Bắc-phương Phật Giáo. 

Nam-phương hay Bắc-phương Phật Giáo đều thờ chung một đấng giáo-chủ là Ðức Phật Thích-ca và đều tuân theo những yếu điểm mà Phật đã dạy. Tuy thế, tùy theo căn-cơ, tâm-lý và ảnh hưởng văn hóa cùng đời sống của dân chúng có khác nhau giữa Nam và Bắc-phương mà phương pháp tu hành và sự phát huy giáo lý có điểm dị và đồng. Bắc-phương phần nhiều đi về lối tung-hoành, phát-triển, phóng-túng không câu nệ về hình thức. Nam-phương thì lại có tánh-cách thủ-cựu, trung thành với Phật Giáo Nguyên-thủy, tôn-trọng hình-thức. Do đó mà có hai phái: Tiểu-thừa Phật Giáo ở Nam-phương và Ðại-thừa Phật Giáo ở Bắc-phương. 

3.- Sự phát-triển của Ðại-thừa và Tiểu-thừa . Ở đây vì chúng ta còn đang ở trong phần lịch sử truyền bá Phật Giáo, nên chưa vội đề-cập đến sự sai khác giữa giáo-lý Ðại-thừa và Tiểu-thừa . Chúng ta hãy khu-biệt vấn-đề và nói đến sự phát-triển của hai phái ấy ở Ấn Ðộ như thế nào mà thôi. 

a) Sự phát-triển của các bộ-phái Tiểu-thừa .- Như chúng ta đã biết, nguyên-nhân Tiểu-thừa chia ra làm hai bộ-phái, vì trong kỳ kết-tập lần thứ hai, về vấn-đề giới-luật có chổ bất-đồng, Tăng-chúng mới chia ra làm hai phái: Một phái gồm các vị Trưởng-lão gọi là Thượng-tọa-bộ; và một phái gồm phần nhiều các vị Tăng-sĩ trẻ tuổi, nhưng rất đông đảo, gọi là Ðại-chúng-bộ. 

Trong khoảng thời-gian 100 năm sau kỳ kết-tập lần thứ hai ấy, Ðại-chúng-bộ lần lượt chia ra tám bô-phái như sau:  

-Nhất-thuyết-bộ  

Lần thứ nhất chia làm ba bộ -Thuyết-xuất-thế-bộ  

-Kê-dẫn-bộ 

Lần thứ hai chia ra một bộ nữa là -Ða-văn-bộ 

Lần thứ ba chia ra một bộ nữa là -Thuyết-giả-bộ  

-Chế-đa-bộ  

Lần thứ ba chia ra một bộ nữa là Tây-sơ-bộ 

Bộ nữa là: Bắc-sơn-bộ 

Như thế là từ một bộ phái chính là Ðại-chúng-bộ mà lần lượt chia làm tám chi bộ (cộng là 9 bộ). Trong lúc ấy thì bên Thượng-tọa-bộ ban đầu sống một cách yên-ổn trong núi Ca-Tháp-di-la, nhưng theo với thời-gian, cũng phân phái dần, và cuối cùng gồm những bộ như sau: 

1. Thuyết-nhứt-thế-hữu bộ   2. Ðộc-tử bộ  
3. Pháp-thượng bộ  4.Thượng-Tọa-Bộ 5. Hiền-vị bộ  

6. Chánh-thượng bộ   7. Mật-lâm-sơn bộ 
8
. Hóa-địa bộ  9. Pháp-tạng bô 
10
. Âm-quang bô  11.Kinh-lượng bộ  

Tóm lại, bên phía Thương-Tọa-bộ, từ căn-bản (Thương-Tọa-bộ) đến chi nhánh, gồm cả thảy 11 bộ. 

Nếu tổng cộng cả Thương-Tọa-bộ lãnh Ðại chúng bộ, thì Tiểu-thừa gồm cả thảy là 20 bộ. 

b) Sự phát triển của phái Ðại-thừa. 

Mặc dù trong giáo-lý của Ðức Phật có gồm cả ý nghĩa Tiểu-thừa lẫn Ðại-thừa, nhưng trong bốn, năm thế-kỷ đầu của Phật-lịch, vì căn- cơ của Tăng-sĩ và tín đồ Ấn Ðộ thích hợp với Tiểu-thừa hơn, nên giáo-phái Tiểu-thừa được phát triển mạnh. Nhưng từ thế kỷ thứ nhất Tây-lịch, hay thứ sáu Phật-lịch, giáo -lý Ðại-thừa bắt đầu phát-triển mạnh ở phía Bắc Ấn Ðộ và dần dần lan rộng ở Bắc-phương. 

Công đầu tiên, nhờ đó Ðại-thừa Phật Giáo được phát-triển mạnh là của Ngài Mã-Minh. 

Ngài Mã-Minh, người ở Bắc Ấn Ðộ, sanh vào thế-kỷ thứ nhất Tây-lịch, lúc đầu theo ngoại-đạo, có tài biện-bác, sau vì biên-luận thua Ngài Hiếp-Tôn-Giả, nên mới quy-y theo Phật Giáo. Chính Ngài là tác-giả bộ luận Ðại-thừa Khởi-tín, Ðại-thừa Trang-nghiêm kinh luận, và nhờ sự hộ-pháp đắc-lực của Vua Ca-Ni-Sắc-Ca, Ngài đã phục-hưng và truyền-bá môt cách mạnh-mẽ giáo-lý Ðại-thừa. 

Một trăm năm sau, nối tiếp sự nghiệp của Ngài Mã-Minh, có Ngài Long-Thọ ở nước Tỳ-Đạt-La (Nam Ấn Ðộ) có thiên-tư rất tốt, lúc còn nhỏ đã thông-hiểu những kinh-giáo của Bà-La-Môn, Phệ-Ðà..., tinh-thông cả thiên-văn, địa-lý, y-học, số-học. Ban đầu Ngài tu theo Tiểu-thừa, sau Ngài nghiên-cứu giáo-lý Ðại-thừa và làm ra những bộ luận Trung-quán, Thập-nhị-môn, Trí-độ...để phá-trừ tà-chấp, chỉ rỏ chánh-lý Ðại-thừa, và đi chu-du các nước để hàng-phục ngoại-đạo. Ðại-thừa nhờ đó ngày một thêm tỏ rạng. 

Nối tiếp Ngài Long-Thọ có hai vị đệ-tử là Ngài Long-Trí và Ðề-bà là những người có công lớn trong việc phát dương Ðại-thừa. 

Sau khi Phật nhập Niết-bàn hơn 900 năm, nghĩa là khoảng thế-kỷ thứ tư Tây-lịch, có hai anh em Ngài Vô-trước và Thế-thân, sanh ở Bắc Ấn Ðộ, trước theo Bà-la-môn giáo, sau quy-y theo Phật. 

Ngài Vô-trước là anh, giác ngộ giáo-lý Ðại-thừa trước, còn Ngài Thế-Thân ban đầu tu học giáo-lý Tiểu-thừa, sau nhờ anh là Ngài Vô-trước hướng-dẫn sang Ðại-thừa. Từ đó hai anh em tích-cực phát-dương giáo-nghĩa Ðại-thừa Duy-thức và làm ra các bộ: Hiển-Dương Thánh-giáo luận, Nhiếp-Ðại-thừa luận...cả hai Ngài đều chủ trương về Duy-thức, biên rỏ cái lý:"Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức". Do đó, học thuyết của hai Ngài gọi là Pháp-tướng Duy-thức-học, và hai Ngài được xem như là khai-tổ của Pháp-tướng Duy-thức-học. 

Ảnh hưởng của hai Ngài nối tiếp lan rộng sang đến thế-kỷ thứ 10 Tây-lịch và làm cho Ðại-thừa Phật Giáo ở Ấn Ðộ được phát-triển một cách rực-rỡ, và lu-mờ giáo-lý Tiểu-thừa . 

4- Sự suy-tàn của Phật Giáo tại Ấn Ðộ. -Vào khoảng 2000 năm sau khi Phật nhập -diệt, đạo Phật ở Ấn Ðộ lu mờ dần và hầu như không còn vang bóng gì nữa. Nguyên-nhân của sự suy-tàn ấy có thể quy vào ba lý-do sau đây: 

a.-Ðạo Bà-La-Môn, trước thời kì Ðức Phật xuất hiện là một Tôn-giáo độc-tôn ở Ấn Ðộ. Nhưng từ khi đạo Phật ra đời và càng ngày càng được phát-triển mạnh vì tinh-thần từ-bi bình-đẳng và ánh-sáng rực-rỡ của trí-huệ Ðạo Bà-La-Môn mất dần thân-thế và lui mãi vào trong bóng tối. Nhưng những vị lãnh đạo tôn-giáo ấy không ngã lòng, một mặt họ lo tu-chỉnh giáo-lý của họ, một mặt họ thanh-lọc hàng ngũ và dựa vào thế-lực của chính-quyền, dần dần họ chiếm lại địa-vị cũ và hết sức bài-xích Phật Giáo. 

b.-Hồi-giáo là một tôn-giáo nguyên ở Thổ-Nhĩ-Kì (Turquie) khi đã xâm nhập Ấn Ðộ bằng quân-sự, đã dùng những thủ-đoạn khốc-liệt để hủy diệt chánh-pháp, tàn hại Phật Giáo bằng cách đập tháp, phá chùa, đốt kinh-điển, giết hại Phật-tử. Do đó, đạo Phật hầu như không còn chổ đứng ở Ấn Ðộ nữa. 

c.-Lý do thứ ba là lý do nội-lai. Nếu chỉ vì hai lý do ngoại-lai nói trên, thì đạo Phật ở Ấn Ðộ không dễ gì bị tiêu-diệt một cách nhanh chóng như thế. Sự suy-sụp Phật Giáo ở Ấn Ðộ còn là sự suy-đồi của Tăng-giới, Phật-tử thiếu tu thiếu học, thiếu tinh-thần tiến-thủ của giới lãnh-đạo Phật Giáo Ấn Ðộ lúc bấy giờ nữa 

Nếu sự phá-phách ở bên ngoài không có sự gián-tiếp tiếp tay phá hoại ở bên trong, thì Phật Giáo ở Ấn Ðộ không diễn ra cái cảnh suy-tàn hoang-vắng như chúng ta đã thấy trong năm thế-kỷ trước đây.

 

C.- Kết Luận  

Ðức Phật đã dạy: có sanh thì có diệt, có thành thì có hoại. Vậy sau mười lăm thế-kỷ hưng-thịnh, Phật Giáo ở Ấn Ðộ dần dần suy-đồi cũng là một sự thường. Luật Vô-thường chi phối tất cả những sự việc của đời này. 

Và cũng do cái luật biến-dịch, chổ này khuyết thì chổ kia bồi, làn sóng lặn ở chổ này để hưng ở chổ khác. Ðạo Phật đã chuyển đi từ trung-tâm điểm là Ấn Ðộ để lan ra, hưng thịnh ở nước khác trước tiên là chung quanh Ấn Ðộ, rồi sang Trung Hoa và dần dần lan ra khắp thế-giới.

Trở Lên 

Bài Thứ 2 
Lịch Sử Phật Giáo Trung Hoa

 

A. Mở Ðề 

Như chúng ta đã biết qua trong bài học thứ nhất, cái của đạo Phật ở Ấn Ðộ, trong khi trưởng thành đã chia thành hai thân cây lớn,một thân cây hướng về phía Nam, tức là Nam tông Phật Giáo, trong thân cây hướng về phía Bắc, tức là Bắc phương Phật Giáo. 

Nói đến Bắc Phương Phật Giáo, thì quốc độ lớn nhất và có một ảnh hưởng quyết định đến những nườc chung quanh là Trung hoa. Vậy muốn biết lịch sử truyền bá Phật Giáo ở Bắc phương hay Ðại-thừa Phật Giáo, chúng ta không thể không nghiên cứu sự phát-triển, sự thăng trầm của đạo Phật Trung hoa, từ khi đạo Phật mới du nhập vào cái khối người đông đảo nhất thế giới này cho đến thời cận đại.  

Khi chúng ta đã nhận thấy được những đường nét chính của lịch sử Phật Giáo Trung hoa, thì chúng ta cũng sẽ có được một vài khái niệm và màu sắc chính của đạo Phật ở Việt nam trong quá khứ:

 

B.- Chánh Ðề: 

I.- Thời Kỳ Sơ Khởi 

Theo các sách sử còn truyền lại, thì dân Trung hoa đã có nghe nói đến đạo Phật lâu lắm và rải rác trong dân chúng ở phía Tây, đã có người đã theo đạo Phật rồi. Nhưng mãi đến đời nhà Ðông hán, niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười (T.L67) Vua Minh Ðế sai các ông Vương Tuân, Thái Hâm, cả thảy mười tám người qua nước Ðaị Nhuc Chi (môt nước ở phiá Tây, trên đường từ Ấn Ðộ sang Trung Quốc) để rước Phật về thờ và có mời được hai vị sư là Ca-Diếp Ma Ðằng (Kerssoapa Matanga) và Trúc Pháp Lan (Falan) qua Trung hoa. Vua Hán Minh Ðế truyền dựng chùa Bạch Mã để thờ Phật và cho hai Ngài ở đó dịch kinh truyền Ðạo. Hai Ngài đã dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương và mười sáu quyển kinh khác. Phật Giáo được thừa nhận ở Trung Quốc, được xây chùa, dịch kinh được bắt đầu từ đó. Dần dần đạo Phật càng bành trướng và càc nhà truyền Ðạo từ Tây-Vức lục đục kéo sang Trung Quốc, trong số đó có những bậc nổi tiếng nhất là Ngài An Thế Cao, Chi Lâu Ca Sấm, Chi Diệu, Trúc Phật Sóc. Số kinh chử Phạn dịch ra chử Hán trong thời kỳ sơ khởi này chúng đã lên đến 300 quyển.

 

II.- Những Thời Kỳ Hưng Thịnh 

Trong khoảng thời gian dài hơn hai ngàn năm từ khi bắt đầu du nhập vào Trung hoa cho đến hiện đại, đạo Phật đã nhiều lần không thành và suy vong theo các thời đại. Cứ kể một cách tỷ mỷ sự hưng thịnh và suy vong một cách liên tiếp ấy, thì viết không biết bao nhiêu trang giấi mới xong, và độc giả cũng khó nhớ cho hết được. Vì thế phải giúp trí nhớ cho quý vị chúng tôi chỉ nêu lên những điểm chính, nổi bật nhất tronh lịch trình biến chuyển của Phật Giáo Trung hoa. Trước tiên chúng tôi phải nêu những thời kỳ hưng thịnh nhất, sau đó nêu những thời kỳ đen tối nhất, để quý vị có một khái niệm khá rỏ rệt nhất về lịch sử truyền bá Phật Giáo Trung hoa. 

Về sự hưng thịnh, chúng ta có thể ghi nhận bốn thời kỳ chíng sau đây: 

1.- Thời kỳ thứ nhứt. Từ Tam Quốc đến Tây Tấn (thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ IV T.L). sau khi nhà Ðông Hán mất ngôi, nước Tàu bị chia làm ba khối, tức là thời Tam Quốc: Ngụy, Thục, Ngô. Mặc dù phân chia như thế, trong những nước ấy, từ vua chúa đến dân gian đều quy ngưỡng theo đạo Phật, và mỗi nước đều có những vị cao tăng từ Tây Vức sang truyền đạo: ở Ðông Ngô có Ngài Khương Tăng Hội, ở Bắc Ngụy có Ngài Ðàm Ma Ca La; ở Tây Thục có Ngài Châu Tử Hàng là một cao tăng Trung hoa, đã qua Tây Vức học chữ Phạn và tìm nguyên bản kinh chữ Phạn để dịch lại, hầu làm giàu thêm cho kho tàng kinh điển Trung hoa. 

Nhưng phải đợi đến đời Tây Tấn, Phật Giáo Trung hoa mới thấy được cái vẽ rực rỡ của thời kỳ thịnh phát thứ nhất. Năm 310 Tây lịch, dưới đời nhà Tây Tấn, niên hiệu Vĩnh Gia một vị cao tăng từ Tây Vức là Ngài Phật Ðộ Trừng sang thuyết pháp được nhân dân quy ngưỡng có hàng vạn, người. Ngài đã đào tạo được một số đệ tử có tiếng tăm như các Ngài: Ðạo An Pháp Hoa.  

Sau đó ít lâu,Ngài Cưu-Ma-La-Thập tiếp nối sự nghiệp hoằng dương chính pháp của các bật tiền bối và đã đưa đạo Phật Trung hoa đến một địa vị vô cùng rực rỡ. Chính trong giai đoạn thứ nhất nầy, Trung hoa bắt đầu có những tôn phái mới là Tam luận tôn và thành thật tôn. 

2.- Thơì kỳ thứ hai. -Dưới thời Nam Bắc triều (thế kỷ thứ V đến đến thế kỷ thứ VI ). Trong thời kỳ này nhiều vị cao tăng đã gây thêm uy thế cho đạo Phật cả trong dân gian lẫn cả triều đình, như Ngài Hệ Lâm được tham dự triều chính. Và đã nhiều ngài đã du nhập những tôn phái từ ngoài vào, hay sáng lập thêm nhựng tôn phái mới. Như ngài Bồ Dề Ðạt Ma đã từ Thiên Trúc sang truyền pháp Thiền Tôn, và là vị tổ đầu tiên của phái nầy ở Trung hoa; Ngài Tam Tạng Chơn Ðế dịch truyền luận Ðại-thừa Khởi tín, Ngài Ðàm Vô Sấm dịch truyền Niết Ban Tôn, Ngài Nam Nhạc đại sư lập Thiên Thai Tôn. Ðó là giai đoạn hưnh thịnh thứ hai của Phật Giáo Trung hoa. 

3.-Thời kỳ thứ ba.-Dưới đời nhà đường(thế kỷ thứ VII- IX )Vào khoảng đầu thế kỷ thứ bảy, dưới đời vua Ðường Thái Tôn (ông vua thứ hai đời đường), sau một thời gian bị phân tán vì giặc giã, đạo Phật ở Trung hoa bắt đầu thịnh phát lại. Vị cao tăng đã mở đầu cho giai đoạn hưng thịnh nầy là Ngài Huyền-Trang, thường được gọi là Ðường Tam-Tạng pháp sư. Nhận thấy kinh điển ở nước nhà hoặc bị thiêu hủy thất lạc vì giặc giã, hay bị sai lạc nguyên bản vì dịch sai hay chép lộn, Ngài Huyền-Trang tự phát đại nguyện sang Ấn Ðộ, tìm học đạo với những bậc minh-sư, và đi chu du khắp Ấn Ðộ. Sau 15 năm, Ngài trở về Trung hoa, đem rất nhiều kinh tạng bằng Phạn-Văn và tổ chức cuộc phiên dịch sang Hán-Văn có trên 1.500 quyển. Vua Ðường Thái-Tôn rất quý trọng Ngài, truyền dựng chùa Ðại-Từ-Ân để Ngài dịch kinh truyền đạo (1). Chính Ngài Huyền-Trang và các đệ-tử của Ngài là những vị có công lớn trong việc làm sáng tỏ giáo-lý pháp-tướng tôn ở Trung hoa. 

Ðộc giả muốn tìm hiểu rõ-ràng công cuộc Tây-du và phiên dịch kinh tạng của Ngài Huyền-Trang xin hãy tìm đọc hai tập Huyền-Trang của tác giả Vỏ-Ðình-Cường do nhà Hưng-Ðạo xuất bản. 

Sau Ngài Huyền-Trang , có Ngài Nghĩa-Tịnh cũng sang du lịch Ấn Ðộ bằng đường biển và cũng thỉnh kinh đem về dịch được 60 bộ, tổng cộng được 230 quyển. 

Từ đó, dưới thời Ðường, trừ một vài vị Vua, còn hầu hết các vị khác, vị nào cũng ủng hộ, sùng bái đạo Phật, và đạo Phật được thâm nhập một cách mạnh mẽ trong dân gian. Xét trong bốn thời kỳ hưng thịnh, thì thời kỳ này là thời kỳ hưng thịng lừng lẫy nhất của Phật Giáo Trung Hoa. 

4.-Thời kỳ thứ tư.- Dưói đời nhà Minh. Từ khi nhà Ðường mất thiên hạ, đến nhà Minh, trải qua mấy trăm năm trước Trung Hoa tuần tự trải qua các đời: Ngũ Ðại (hậu Lương, hậu Ðường, hậu Tấn, hậu Hán, hậu Chu ). Nhà Tống, rồi đến nhà Nguyên. 

Trong các đời vua nầy, chỉ có nhà Tống là có thiện chí chấn-hưng Phật Giáo, sau một giai đoạn điêu tàn vì chiến tranh và sự phá hủy chùa chiền của vua Thế-Tôn nhà hậu Chu. Các vị vua nhà Tống đã sai sứ sang Tây-Vức thỉnh kinh cầu danh Tăng, và sắc dịch kinh điển, nên đạo Phật dần dần cũng được hồi phục, tuy có kém hơn trước. 

Nhưng phải đợi đến đời vua Thái-Tổ nhà Minh (Chu Nguyên Chương) đạo Phật mới lấy lại được cái vẽ huy hoàng của những thời hưng thịnh trước. Minh Thái-Tổ, nguyên lúc nhỏ là một vị Sa-Di, nên khi lên ngôi, Ngài hết sức ủng hộ Phật Giáo. 

Ngài quy định phép tắc cho tăng-lữ,đặt những ty Tăng-cang, Tăng-chánh, Tăng-hội để chưởng lý các tăng-lữ. Ngài lại triệu tập các vị cao tăng ở Trường-Sơn để kiểm duyệt kinh tạng. Các vị vua kế vị vua Minh Thái-Tôn, cũng tiếp tục trùng hưng Phật Giáo, nhờ thế, đạo Phật ở Trung Hoa lại thêm một lần nữa có sắc thái huy hoàng của thời xưa. Nhưng đó cũng là thời kỳ hưng thịnh cuối cùng vậy. 

Thật thế, từ khi nhà Minh mất ngôi, sang nhà Thanh, mặc dù các vua chúa củng có ủng hộ Phật Giáo, nhưng trong nhân gian ít người hiểu thấu đạo lý của Phật, mà chỉ nghĩ đến cúng cấp, mê tín, dị đoan thôi. 

Phải đợi đến cuộc cách-mạng Tam-dân chủ-nghĩa (1912), đạo Phật mới trổi dậy bằng hình thức nghiên cứu Phật học và sự thành lập các hội Phật Giáo khắp trong nước. Nhưng đây lại thuộc vào thời kỳ cận đại và hiện đại Phật Giáo, mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong một bài sau.

 

III.-Những Thời Kỳ Suy Vong  

Như chúng ta đã biết, cuộc đời đã là vô thường, thì không có một việc gì có thể thoát ra ngoài cái luật chung ấy được. Ðạo Phật Trung Hoa đã có thời cực thịnh, như chúng ta đã thấy ở trên, tất cũng có thời kỳ suy vong mà chúng ta sắp đề cập sau đây. 

Nhà viết sử Phật Giáo Trung Hoa, khi nói đến những thời kỳ suy vong của Ðạo Phật thường tóm tắt trong một câu:"Tam Vỏ, nhất Tôn chi ách ". Câu này muốn nói cái thời vận đen tối của đạo Phật, nằm trong ba đời vua Võ 'Thái Hoa nhà Hậu Ngụy, Võ -Ðế nhà Bắc-Chu, Võ-Tôn nhà Ðường ' và trong một đời vua Thế-Tôn nhà hậu Chu. 

Dưới đây, chúng ta tuần tự nói đén bốn thời kỳ đen tối ấy: 

1.- Thời kỳ thứ nhứt.- Dưới đời hậu Ngụy Thái-Võ-Ðế ( 439-450 T.L). giữa thời Nam Bắc triều ( 420-588 ) trong lúc đạo Phật đang thịnh hành, vua chúa đang sùng mộ, giới tăng sĩ mỗi ngày một đông, thì đến niên hiệu Thaí-Bình Chơn-Quân thứ bảy (446 T.L) vua hậu Ngụy Thái-Võ-Ðế là một ông vua tàn bạo, nghe lời sàm tấu, tàn sát một cách ghê gớm các tăng lữ và phá hủy kinh tượng chùa tháp trong nước. Nhưng vận mệnh của kẻ bạo tàn không thể lâu dài được, cho nên bốn năm sau khi thi hành thủ đoạn tàn ác trên, Thái-Võ-Ðế từ trần. Văn-thành vương lên nối ngôi, nhận thấy việc làm tàn ác, vô lý và nguy hại trên, nên đã truyền phục hưng Phật Giáo, nhờ đó đạo Phật dần dần lấy lại thanh-thế cũ. 

2.- Thời kỳ thứ hai:-Dưới đời bắc Chu Võ-Ðế (574 T.L). Ðến đời Võ-Ðế nhà bắc Chu, Phật Giáo lại bị tai ách lần thứ hai. Vua ra sắc lệnh bãi bỏ Phật Giáo, bắt các tăng-sĩ về làm dân, xung vào binh nội; chùa chiền bị biến thành phủ đệ cho các vương hầu ở, dân chúng bị ngăn cấm không cho thờ cúng Phật. 

Nhưng ít năm sau, Võ-Ðế mất, Tuyên-đế nối ngôi, lại sắc chiếu phục hưng Phật Giáo, truyền dịch kinh luận. Nhờ đó, đến đời Tùy, Phật Giáo mới trở lại thạnh hành, vua quan đều quy-y Phật pháp. 

3.- Thời kỳ thứ ba. Dưới đời Võ-Tôn nhà Ðường (840-847 T.L). Tai ách thứ ba của Phật Giáo Trung Hoa xảy ra vào năm 845 T.L dưới đời Võ-Tôn nhà Ðường. 

Như chúng ta đã biết, đời Ðường là một giai đoạn cực thịnh của lịch sử Phật Giáo Trung Hoa, các vua chúa đời này đều sùng thượng đạo Phật. Nhưng đến đời Võ-Tôn là một ông vua sùng mộ Lão-giáo, nghe theo các đạo sĩ xúi giục, đã thẳng tay đàn áp đạo Phật cũng như các tôn giáo khác, bắt 265.000 tăng ni hoàn tục; những chuông thánh bằng đồng đều bị tịch thu để đúc tiền. 

Nhưng có lẽ các ông vua tàn ác không thể sống lâu, hai năm sau Võ-Ðế mất. Vua Tuyên-Tôn lên ngôi, lại hạ sắc tu bổ chùa chiền, chánh hưng Phật Giáo. 

4.- Thời kỳ thứ tư .- Dưới thời thế tôn nhà hậu chu ( khoảng giữa thế kỷ thứ X). Sau khi nhà đường mất ngôi, nước Trung Hoa làm mồi cho sự tranh giành xâu xé giữa các chư hầu, chiến tranh nỗi dậy khắp nơi, đạo Phật cũng chịu nhiều ảnh hưởng tai hại lớn vì thời cuộc. Thêm vào đó, còn có sự phá phách của một ông vua nhà Hậu-Chu là vua Thế-Tôn. 

Thế-Tôn rất ghét Phật Giáo, nên đã sắc chỉ phá hủy chùa chiền đến 30.336 ngôi, đem tượng đồng, chuông, khánh ra đúc tiền, các kinh tạng đều bị thiêu hủy hay bị thất lạc gần hết. Trước tình trạng đen tối ấy, đạo Phật Trung Hoa tưởng đến mất tích. Nhưng không ! Nhà Tống sau khi bình được thiên hạ, đã ra sức chấn hưng đạo Phật và sai sứ sang Tây-Vức thỉnh kinh và pháp sư về Trung Hoa Hoằng-dương chánh-pháp.

 

IV. Sáu Vị Tổ Thiền Tông Trung Hoa  

Kể về các tôn phái Phật Giáo ở Trung Hoa, thì thiền tôn phát-triển mạnh mẽ và sâu rộng nhất. Ðiều đó củng không lấy làm lạ, vì thiền tôn rất thích hợp với phần đông căn cơ người Trung Hoa và các vị tổ của Thiền-Tôn là những vị thánh tăng rất được tín-đồ sùng mộ. Dười đây chúng ta hãy biết qua về các vị Tổ ấy: Vị Tổ Thiền-Tôn truyền ở Trung Hoa đầu tiên là đức Bồ-Ðề Ðạt-Ma. Sau khi Ngài được Tổ Bát-Nhã-Ða-La truyền tâm pháp và phú chúc Ngài sang Trung Hoa truyền hóa vào đời vua lương Võ-Ðế (528 D.L). Ngài ngồi xây vào mặt tường tham thiền luôn trong chín năm, tại chùa Thiếu-Lâm. Ngài thị tịch tại chùa Thiên-Thánh ở vùng Vỏ-Môn, an táng tại chùa núi Hùng-Nhỉ bên cạnh chùa Ðịnh-Lâm. 

Trươc khi thị tịch, Tổ Ðạt-Ma có nói bài kệ để phú-chúc cho Ngài Huệ-Khả, tức Thành-Quang, (Người đã chặt cánh tay để cầu pháp với Ngài Ðạt-Ma). Bài kệ ấy như sau: 

Hán văn:  

Ngô bổn lai tự độ 
Truyền pháp độ mê tình 
Nhứt hoa khai ngũ diệp 
Kết quả tự nhiên thành 

Dịch nghĩa: 

Ta đến xứ Trung Quốc  
Thuyết pháp cứu mê tình 
Một bông nảy năm cánh 
Kết quả tự nhiên thành. 

Ngài Huệ Khả kế thừa Ngài Ðạt Ma, làm tổ thứ hai, Ngài Tăng Xán làm tổ thứ ba, Ngài Đạo Tín là tổ thứ tư, Ngài Hoằng Nhẫn là tổ thứ năm và Ngài Huệ-Năng là tổ thứ sáu, tức là tổ cuối cùng của phái Thiền Tôn ở Trung Hoa.

 

C.- Kết Luận 

Sau khi đọc lịch sử truyền bá Phật Giáo ở Trung Hoa, chúng ta có thể rút ra một vài nhận xét bổ ích sau đây: 

1.- Đạo Phật là một Tôn giáo ngoại lai, từ Ấn Ðộ truyền sang. Trong khi Phật Giáo ở Ấn Ðộ mỗi ngày mỗi suy đồi, thì Phật Giáo ở Trung Hoa mỗi ngày mỗi thêm thanh thế và cuối cùng chinh phục được hầu hết cả một khối người đông đảo nhất trên thế giới. Vì sao? Có lẽ vì ở Ấn Ðộ, các nhà lãnh đạo truyền giáo đã không biết thích nghi với hoàn cảnh, với sự tiến triển của thế giới của thời thế, cứ giữ chặt nếp sống cũ, trong khi ấy thì ở Trung Hoa, các nhà truyền giáo đã hiểu rõ căn cơ của quần chúng, biết thích nghi với hoàn cảnh và thời thế, luôn luôn phát huy những Tôn phái mới để đáp ứng cho những nhu cầu tinh thần của những lớp người. Do đó mà đạo Phật ở Trung Hoa không bị một tôn giáo nào lấn lướt được.  

2.- Cũng như ở Việt nam, các triều đại ở Trung Hoa khi mới lên ngôi, thì các ông vua khai quốc bao giờ cũng sùng mộ đạo Phật và khuyến khích sự truyền giáo, còn các ông vua cuối cùng, trái lại, thường hay hủy phá đạo Phật, trước khi mất ngôi. Những sự kiện ấy cho phép ta kết luận rằng: Các ông vua khai quốc phần nhiều những vị có đức hạnh và sáng suốt nhận thấy cần phải chấn hưng Phật Giáo thì dân chúng mới được thuần lương và nước nhà mới thịnh trị. Trái lại, các ông vua cuối cùng phần nhiều là những hôn quân vô đạo, nên đã hủy phá Phật pháp. Vì thế, nước đã loạn lại càng loạn thêm và các ngai vàng của các ông cũng sụp đỗ theo với đà sụp đỗ của các nước. 

3.- Đạo Phật ở Trung Hoa có lúc thịnh và lúc suy. Trong sự thịnh suy ấy, công và tội của các ông vua rất lớn, nhưng không phải là tất cả. Các ông vua chỉ tăng cường thượng duyên, còn nguyên nhân chính, động cơ chính vẫn là giới tín đồ và nhất là giới lãnh đạo Phật Giáo. Khi mà tín đồ có đạo hạnh và lòng tin tưởng mạnh mẽ, các nhà truyền giáo có nhãn quan sáng suốt, thì dù các ông vua có muốn phá đạo cũng chỉ phá được một phần nào thôi. Cũng như khi mà tín đồ thiếu đạo hạnh và lòng tin, các vị lãnh đạo thiếu tinh thần tiến thủ và sáng suốt, thì ông vua dù có muốn nâng đỡ đạo Phật, cũng chỉ nâng đỡ một phần nào thôi. 

Cho nên, bao giờ cũng thế, sự xây dựng hay sự phá hoại, trước tiên đều do ở bên trong mà ra cả.

Trở Lên 

Bài Thứ 3 
Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam 
(Từ Lúc Mới Du Nhập Ðến Hết Ðời Nhà Lý)

 

A.-Mở Ðề 

Trong thời Pháp thuộc, vì vận mệnh chung cả nước nhà đang suy đồi, lại bị văn hóa Tây phương và ngoại đạo lấn áp, nên Phật Giáo đối với phần đông dân tộc Việt nam như là một tôn giáo hạ đẳng, phụ thuộc, không có nghĩa lý gì. 

Nhưng vì nếu có ai đi sâu vào lịch sử Phật Giáo Việt-Nam theo dõi bước đi của sự truyền giáo qua các thời đại từ khi dân tộc Việt-Nam mới lập quốc đến ngày nay, thì sẽ thấy Phật Giáo giữ một địa vị quan trọng vô cùng trong công trình gây dựng văn hóa Việt-Nam. Có thể nói một cách không quá rằng: Văn hóa Việt-Nam một phần lớn là văn hóa Phật Giáo. Rút cái tánh chất Phật Giáo trong văn hóa Việt-Nam ra thì văn hóa ấy thật là nghèo nàn, nông cạn. Chính Thượng tọa Mật Thể, trong quyển '' Việt-Nam Phật Giáo sử lược'' đã nói rất đúng: ''nhờ tinh thần sáng suốt của thể đạo, với công nghiệp bố giáo của các tổ sư Phật Giáo rất có công to trên lịch sử văn hóa nước nhà''. 

Ngày nay, để nhận chân đứng đắn cái vai trò quan trọng và sứ mệnh lịch sử của Phật Giáo nước nhà, cũng như để thêm tinh tưởng và phấn khởi mà tu học, để thừa tiếp cái tinh thần ''Bi-Trí-Dũng'' của đạo mà truyền lại cho các thế hệ về sau, chúng ta, Phật tử Việt-Nam cần phải biết rõ lịch sử Phật Giáo Việt-Nam.

 

B.-Chánh Ðề 

I.- Phật Giáo Du Nhập Vào Việt Nam  

1.- Con đường du nhập.- A- Nước Việt-Nam ta nằm trên bán đảo Ấn Ðộ China, giữa hai nước rộng lớn, hai dân tộc đông đảo nhất thế giới, hai nền văn minh sáng lạn của châu Á là Ấn Ðộ và Trung Hoa. Vì địa thế của nước Việt-Nam nằm ở giữa con đường biển đi Ấn Ðộ đến Trung Hoa , nên đã chịu ảnh hưởng nhiều của hai nền văn minh ấy . 

Riêng về Phật Giáo , thì sư du nhập vào Việt-Nam củng do cả hai con đường: đường biển từ phía Nam lên và đường bộ từ phía Bắc xuống. Trong số bốn nhà truyền giáo đầu tiên đặt chân lên Việt-Nam, thì hết ba nhà sư là người Ấn Ðộ, đi đường thủy sang Trung Hoa truyền đạo và đã ghé tại Việt-Nam là các Ngài: Ma-Ha-Kỳ-Vực, Khương-Tăng-Hội và Chi-Cương-Lương. 

Nhà truyền giáo thứ tư là người Trung Hoa, Ngài Mâu-Bác, đã đi đường bộ từ phía Bắc xuống. Ðó là điều chứng minh rằng Phật Giáo vào Việt-Nam do cả đường thủy và đường bộ cả từ phía Nam lên và phía Bắc xuống. Nhưng vì nước ta bị Trung Hoa đô hộ ngót một ngàn năm và sau đó vẩn còn lệ thuộc vào văn hóa và chính trị nên về sau con đường truyền giáo từ Trung Hoa sang là con đường chính 

2.- Thời đại du nhập đầu tiên. -Theo các sử gia đáng tin cậy, thì nhà truyền-giáo đầu tiên đến Việt nam (lúc bấy giờ là đất Giao-Châu) là Ngài Mâu-Bác, người quận Thương Ngô tức là Ngô Châu (Trung Hoa bây giờ). Sau khi vua Hán Linh-Ðế mất (189) nước Tàu thường loan lạc, Ngài theo mẹ qua ở Giao Châu và truyền bá đạo Phật. 

Nhà truyền giáo thứ hai đặt chân lên đất Giao-Châu là Ngài Khương-Tăng-Hội, Ngài gốc Khương-Cư (Soadiane, Ấn Ðộ). Mục đích của Ngài là sang Trung Hoa, nhưng ông thân của Ngài sang Giao-Châu buôn bán nên Ngài cũng theo đường Giao-Châu để sang Trung Hoa. Trung Hoa lúc ấy về đời Tam-Quốc, Ngài đến nước Ðông-Ngô và được Ngô-Tôn-Quyền sùng mộ, xin quy-y với Ngài (229-252). Như thế là Ngài Khương-Tăg-Hội ghé lại Giao-Châu vào khoảng đầu thế kỷ thứ III, sau Tây lịch. 

Vào khoảng giữa thế kỷ thứ III đến cuối thế kỷ thứ III, đất Giao-Châu lại đón tiếp hai nhà sư Ấn Ðộ nữa là Ngài Ma-Ha-Kỳ-Vực và Chi-Cương-Lương, trên bước đường sang Trung Hoa truyền-giáo của các Ngài, vào đời nhà Tần (265-306). 

Như thế, có thể nói rằng: Ðạo Phật du nhập đầu tiên sang Việt-Nam trong khoảng cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ III, sau Tây lịch. 

3.- Các môn phái du nhập.- Trong thời kỳ đầu tiên du nhập Việt-Nam, đạo Phật chỉ phớt qua trên đất nước, chưa có màu sắc riêng biệt và dân chúng chỉ mới tiếp xúc với Ðạo-Phật trong phương tiện thờ cúng lễ bái mà thôi. 

Phải đợi đến vài ba năm sau, đạo Phật mới thâm nhập dần vào dân chúng và do ảnh huởng của Phật Giáo Trung Hoa. Có một đều chúng ta ngạc nhiên là, mặc dù Phật Giáo Trung Hoa gồm mười tôn phái, mà chỉ có Thiền-Tôn là được truyền đi sang Việt-Nam trước nhất và mạnh mẽ nhất. Tôn này được truyền vào Việt-Nam trước hết do Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi (Vinitaruci) đưa sang (580). Ngài là đệ-tử được truyền tâm-pháp của Tam-tổ Tăng-Xán, và chính là sơ-tổ Thiền-Tôn ở Việt-Nam. 

Ðến đời Đường (820) lại có Ngài Vô-ngôn-Thông ở Trung Hoa sang truyền giáo, lập thành phái Thiền-Tôn thứ hai; kế đó là các phái Thảo-Ðường, Tào-động, Lâm-tế v.v.. lần lượt truyền sang Việt-Nam. 

Tóm lại, đạo Phật du nhập vào Việt-Nam, chỉ có Thiền-Tôn là gây ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả. 

B- Phật Giáo Dưới Thời Hậu Lý Nam Ðế (571-602) Và Bắc Thuộc Lần Thứ Ba (603-939)  

Từ khi Phật Giáo truyền vào Việt-Nam cho đến thời Tiền Lý Nam-Ðế, kể cả trên ba năm (189-548) nhưng vẫn còn nằm trong thời kỳ phôi-thai chưa có gì đáng gọi là thạnh hành lắm. Ðến thời Hậu Lý Nam-Ðế (571-602) và Bắc thuộc lần thứ III (603-939) Phật Giáo mới bắt đầu bước vào thời thành đạt. 

1.-Giai đoạn thứ nhất.- Sự truyền bá Thiền-Tôn của Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi ở Trung Hoa sang (580) đem Thiền-Tôn truyền bá vào, được người Việt-Nam hết sức sùng mộ. Do đó, lần đầu tiên nước Việt-Nam được biết đến ThiềnTôn và Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi chính là sơ-tổ phái Thiền-Tôn ở Việt-Nam. Sau Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi có Ngài Pháp-Hiển là đệ tử của Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi nối nghiệp thầy, đem đạo Phật truyền sâu trong dân chúng. 

2.-Giai đoạn thứ hai.- Ảnh hưởng của ba đoàn truyền giáo: 

Ðến đây, Phật Giáo Việt-Nam bắt đầu thịnh. Lúc bấy giờ nước ta đang lệ thuộc nhà Tùy, vua Cao-Tổ nhà Tùy , nghe nước ta đạo Phật đang phát-triển mạnh, nên vua ban cho các vị danh tăng ở nước ta năm hòm lễ vật, và sắc lịnh cho xây tháp ở ở chùa Pháp-Vân, chùa Trung-Khánh cùng các danh địa khác. 

Sau này Tùy mất ngôi (618) nhà Ðường kế nghiệp, vua Ðường-Cao-Tổ củng có ban cho An-Nam năm viên ngọc Xá-Lỵ và sắc dựng chùa xây tháp. 

Cũng trong giai đoạn này, những nhà truyền giáo Trung Hoa và Ấn Ðộ, thường mượn đường nước ta mà qua lạ. Trong khi đi ngang Việt-Nam các Ngài thường ghé lại ít lâu để thuyết-pháp, do đó chung ta cũng chịu được nhiều ảnh hưởng tốt. Trong số những doàn truyền giáo ấy, đang kể nhất là ba đoàn sau đây: 

a) -Ðoàn thứ nhất:Gồm có các Ngài Minh-Viễn pháp-sư, Huệ-Mạnh thiền-sư, và Vô-Hành thiền-sư, đều là người Trung Hoa.  

b) -Ðoàn thứ hai: Gồm các Ngài Ðàm-Nhuận pháp-sư, Trí-Hoàng pháp-sư, và Tăng-Già-Bạt-Ma (Hai Ngài đều người Trung Hoa và Ngài sau người Tây-Trúc). 

c ) -Ðoàn thứ ba: Gồm sáu nhà sư Việt-Nam là các Ngài Vân-Kỳ thiền-sư, Mộc-Xoa-Ðề-Bà, Khuy-Sung pháp-sư, Huệ-Diệm pháp-sư, Trí-Hành thiền-sư bốn Ngài đầu người Giao-Châu, hai Ngài sau người Ái-Châu (Thanh-Hóa, Nghệ-An bây giờ). Các Ngài này đếu từ Việt-Nam đi sang cầu pháp ở Tây-Trúc và tịch, phần nhiều rất sớm, ở Ấn Ðộ hay Tích-lan. 

3.- Giai đoạn thứ ba.- Sự truyền bá của phái Vô-Ngôn-Thông: 

Vào năm 820, nước ta lại được một vị cao-tăng thuộc phái Thiền-Tôn sang truyền giáo và lập thành một phái Thiền-Tôn thứ hai là Ngài Vô-Ngôn-Thông. 

Ngài họ Trịnh, quê ở Quảng-Châu. Lúc nhỏ Ngài đã mộ đạo, xuất gia tu học tại chùa Song-Lâm, đất Vũ-Châu (Triết-Giang). Tính Ngài điềm đạm, ít nói nhưng sự lý gì củng hiểu, nên người thời ấy gọi Ngài là Vô-Ngôn-Thông. 

Một hôm Ngài đang ngồi lễ Phật, gặp một vị thiền-sư đến điểm-hóa cho Ngài và đưa Ngài di tìm đúc Mã-Tổ mà tham học. Nhưng đến Giang-Tây, Ngài nghe tin đức Mã-Tổ đã tịch rồi, nên Ngài đi đến xin tòng sư với tổ Bạch-Tượng thiên-sư. 

Một hôm trong buổi giảng, có vị học tăng hỏi Bạch-Tượng: 

Thế nào là pháp-môn của phái Ðại-thừa? 

Tổ trả lời: 

Tâm địa nhược thông, huệ nhật tự chiếu (nghĩa là: nếu tâm địa thông rồi thì mặt trời huệ tự nhiên chiếu sáng). 

Nghe được mấy câu ấy, Ngài Vô-Ngôn-Thông liền ngộ đạo. Ngài trở về Quảng-Châu, trụ trì tại chùa An-Hòa. Ðến năm 820, Ngài qua Việt-Nam trú ở chùa Kiến-Sơ, làng Phù-Ðổng (Bắc Ninh ) trọn ngày ngồi xây mặt vào vách mà thiền định. Như thế đã mấy năm mà không ai biết; chỉ có vị sư ở chùa ấy là Cảm-Thành thiền-sư biết Ngài là bậc Cao-tăng đắc đạo trông phái Thiền-Tôn, nên hết lòng kính trọng và thờ làm thầy. Ngài thị-tịch một cách rất an nhiên tự-tại, vào năm 826 Tây lịch, sau khi truyền tâm ấn cho Ngài Cảm-Thành thiền-sư  

Ngài Cảm-Thành thiền-sư lại truyền tâm-ấn cho Ngài Thiện-Hội và gây thành một truyền thống cho phái Vô-Ngôn-Thông (Chúng ta sẽ học tiếp trong các đời vua sau). 

Tóm lại, trong khoảng thời gian gần bốn trăm năm, từ đời Hậu Lý Nam-Ðế (571-602) cho đến hết thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba (603-939), sự truyền giáo ở Việt-Nam có thể chia làm ba giai đoạc: giai đoạn thứ nhất, do công đức của phái Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi; giai đoạn thứ hai, do các đoàn truyền giáo Trung Hoa và Việt-Nam, và sự khuyến khích ủng hộ của các đời vua Tùy và Ðường; giai đoạn thứ ba, do phái Vô-Ngôn-Thông.

 

III.- Phật Giáo Dưới Thời Ðinh Và Tiền Lê (968-1009)  

1.- Tình trạng tổng quát của Phật Giáo trong hai đời Ðinh, Lê: 

Trong hai đời vua nầy, đạo Phật được tiến phát rất nhiều. Có thể nói Ðạo Phật trở thành độc tôn. Tất cả văn hóa, chính trị trong nước, một phần lớn đều thuộc về tăng-sĩ, cho nên Ðạo Phật được phổ biến dễ dàng trong quần chúng. Mặc dù Nho-giáo và Lão giáo đã truyền vào từ lâu, nhưng không làm sao có uy thế được như Phật Giáo. Trong triều chính thì Ngài Ngô-Châu-Lưu làm đến chức Khuông-Việt thái-sư; trong giới tăng-sĩ thì Ngài Trương Ma-Ni làm Tăng-lục đạo sĩ và pháp-sư Ðặng Huyền Quang làm Sùng-Chân uy-nghi. 

Sau khi nhà Ðinh mất ngôi, Lê-Ðại-Hành lên kế vị, chóng lại quân nhà Tống (980) và được thắng lợi. Trong giai đoạn này, các vị tăng-sĩ lại được biệt đãi hơn; vua Lê-Ðại-Hành thường triệu thỉnh các vị Tăng-thống vào triều để bàn hỏi việc nước và khuyến khích việc truyền bá Phật-pháp. 

Ðều đáng chú ý trong giai đoạn này là, sau khi đã hòa với nhà Tống, vua Ðại-Hành sai sứ sang triều cống nhà Tống và xin thỉnh bộ "Cữu kinh" và "Ðại tạng kinh" đem về truyền bá. Ðây là lần đầu tiên nước tăng-sĩ công khai sang thỉnh kinh ở Trung Hoa về. 

Một điều đáng ghi nhớ nữa là trong giai đoạn này, trong giới tăng-sĩ có hai vị cao-tăng xuất chúng đã làm vẽ vang cho nước nhà một thời. Ðó là Ngài Khuông-Việt thái-sư và Ngài Ðổ-Thuận thiền-sư. 

2.-Khuôn việt thái-sư:- Ngài họ Ngô pháp hiệu là Chân-Lưu, quê ở làng Cát-Lỵ, trụ trì chùa Phật-Ðà. Thuở nhỏ Ngài theo học Nho, lớn lên thọ giới ở Vân-phong thiền-sư ở chùa Khai-Quốc. Từ đó Ngài chuyên đọc kinh điển nhà Phật, hiểu được mọi lẽ cốt yếu của Thiền-Tôn, tiếng tăm lừng lẫy trong nước. Năm Ngài 40 tuổi, vua Ðinh-Tiên-Hoàng vời vào hỏi đạo, Ngài ứng đối tinh tường, vua rất mến phục và phong làm Tăng-Thống. Năm sau vua lại phong Ngài làm Khuông-Việt thái-sư (Khuông Việt là người có công giúp đở sửa sang người Việt). 

Ðến đời vua Lê-Ðại-Hành, Ngài càng được kính trọng hơn nữa. Bao nhiêu việc quan, việc nước, vua thường triệu Ngài đến hỏi. Ngài ở triều được ít lâu rồi lấy cớ già yếu xin cáo vê, dựng một ngôi chùa ở núi Du-hý. Ở đó, Ngài mở trường dạy hạc, học trò đến rất đông. 

Ngày rằm tháng hai, niên hiệu Thuận-Thiên thứ hai đời nhà Lý, Ngài gọi Ða-Bảo thiền-sư là đệ tử thân tín của Ngài đến, truyền tâm pháp qua bài kệ sau đây, rồi chắp tay an-nhiên thị-tịch. 

Nguyên văn  

Mộc trung nguyên hữu hỏa, 
Nguyên hỏa phục hoàn sinh, 
Nhược vị một vô hỏa, 
Toản toại hà do sinh?  

Dịch nghĩa: 

Trong cây vốn có lữa, 
Tia lữa mới sáng lòa, 
Nếu bảo cây không có lữa,  
Cọ sát sao lại ra? 

Ngài thọ được 81 tuổi, và là người thứ tư được truyền tâm pháp của phái Vô-Ngôn-Thông. 

3.-Ðỗ-Thuận Thiền-sư: Ngài dòng họ Ðỗ, không rõ nguyên quán ở đâu, xuất-gia từ thuở nhỏ, thọ-giới với Long-Thọ Phù-Trì thiền-sư. Khi nhà Tiên Lê mới thành nghiệp, Ngài thường được vời vào triều để bàn luận chính trị và ngoại-giao. Vua Ðại-Hành thường gọi là Ðỗ pháp-sư, chứ không dám gọi chính tên. Ngài làm thơ rất hay, và thường được cử ra để đối đáp với các sứ-giả Trung Hoa. 

Niên hiệu Hưng-Thống thư hai nhà Tiền-Lê, Ngài thị-tịch, thọ được 76 tuổi. Ngài có làm quyển "Bồ Tát hiệu sám-hối văn", nay truyền lại. Ngài là đời pháp truyền-thống thứ mười của phái Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi. 

4.- Nhận xét chung về Phật Giáo trong giai đoạn này: Phật Giáo đời Ðinh-Tiên-Hoàng và Tiền-Lê, sở dĩ được ưu đãi và giữ địa vị độc-tôn, vì những lý do sau đây: các vị tăng-sĩ phần nhiều là nhưng vị bác học thâm Nho. Chữ Nho mặc dù trước đó đã được đem dạy ở đất Việt, nhưng vì chưa có khoa thi cử, nên ít người theo học. Chỉ có các vị thiền-sư, vì cần nghiên cứu Phật Giáo qua kinh điển bằng chữ Hán, nên phải học nho nhiều. Những vị sư lúc bấy giờ, vừa túc Nho, vừa hiểu đạo lý mà vừa có đức hạnh, thì lẽ dĩ nhiên trong triều được vua trọng vọng, ngoài được  dân chúng kính nể. Ðạo Phật được thạnh hành trong giai đọan này cũng không có gì đáng ngạc nhiên.

 

IV.- Phật Giáo Dưới Thời Nhà Lý (1010-1225). 

1.- Dưới đời Lý-Thái-Tổ: 

a.-Vua Lý-Thái-Tổ và tình hình Phật Giáo dưới đời nầy (1010-1028). 

Vua Lý- Thái Tổ tên húy là Lý-Công-Uẩn ,con nuôi của sư Lý-Khánh-Vân ở chùa Cổ Pháp, thọ giáo với Ngài Vạn Hạnh Thiền-Sư .Sau khi vua Lê Ngọa-Triều mất, Ngài mới lên ngôi kế vị,lây hiệu Thuận-Thiên đóng đô ở Thăng Long (Hà Nội). Lý-Thái -Tổ là một Phật tử thuần thành, nên sau khi lên ngôi, Ngài hết sức chú trọng đến sự truyền bá Phật Giáo.Ngài đã dựng rất nhiều ngôi chùa và độ rất nhiều tăng chúng .Ðáng chú ý hơn cả là năm 1019, Ngài sai sứ thần sang Trung Hoa thỉnh kinh đem về để tại kinh viện Ðại-Hưng. 

Triều đại này có thể nói là triều đại mà Phật Giáo được thịnh đạt nhất. Các vị thiền sư lúc bấy giờ như Ngài Vạn-Hạnh, Ða-Bảo, Sùng-Phạm thiền-sư đều là những bậc danh tăng mà nhà vua rầt tín trọng. Cho nên sự truyền giáo của các Ngài rất dễ dàng có hiệu quả.Những vị danh tăng này đều ở hai pháiTỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi và Vô- Ngôn-Thông cả. 

b)Vạn- Hạnh Thiền-Sư: 

Ngài họ nguyễn, không rõ tên húy là gì, người làng Cổ-Pháp. Gia đình Ngài đời đời thờ Phật, Ngài thông minh xuất chúng từ thuở nhỏ, học hết tam giáo và tinh thông về giáo lý nhà Phật. Năm 20 tuổi Ngài xuất- gia, theo học với Ngài Thiền-Ông đạo giả, tức là vị thư hai được truyền tâm pháp của phái Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi . Ngài chuyên tập pháp "Tổng-trì-tam-ma-địa". Người đời thường xem câu nói của Ngài như những câu sấm. Trong thời vua Ðại-Hành còn sống, Ngài được vời vào triều hỏi việc quan. 

Năm Thuận-Thiên thứ IX (1018) Ngài không đau ốm gì mà tịch. Thi hài Ngài được triều đình và các đệ tử của Ngài hỏa táng và thờ ở trong tháp. Trước khi tịch Ngài có làm bài kệ như sau: 

Nguyên văn:  

Thân như điện ảnh hữu toàn vô. 
Vạn một xuân vinh thu tựu khô. 
Nhậm vận thịnh suy vô bổ úy. 
Thịnh suy nhưl ộ thảo đầu phô. 

Dịch nghĩa:

Thân như bóng chớp chiều tà. 

Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời. 
Sá chi suy thịnh việc đời. 
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.  

2.- Dưới đời Lý Thái Tôn (1028-1054): 

a.-Tình hình Phật Giáo dưới đời vua này: Lý Thái Tôn nối ngôi Thái Tổ, lấy niên hiệu Thiên Thành. Ngài cũng là người rất sùng mộ đạo Phật. Sau khi đánh dẹp giặc chiêm ở đất Hòang Châu (nghệ An) về, Thái Tôn sắc lập 95 ngôi chùa cử lễ khánh thành, hạ chiếu miễn thuế cho dân trong nước một năm. Ðến năm 1034, Thái Tôn đổi niên hiệu là Thông Thụy, lúc bấy giờ nước Việt-Nam được nhà Tống ban Ðại tạng kinh và tự sai sứ thỉnh qua nước ta. Hành động ấy gây một ảnh hưởng khả quan cho Phật Giáo nước nhà, và một vinh dự cho triều đình nhà Lý lúc bấy giờ. 

Từ lúc nhận lãnh Ðại tạng kinh của nhà Tống, vua Thái Tôn thường đến nghe kinh và hỏi đạo với Ngài Thiền Lão thiền sư và tự xưng là đệ tử. Về sau vua được Ngài Thiền Lão truyền tâm pháp là người thứ bảy trong đời truyền thống của phái Vô Ngôn Thông. 

Dưới đời này có nhiều vị cao tăng rất có công trong sự truyền bá chính pháp, như ngài Huệ Linh thiền sư, Ðịnh Lương trưởng lão, Thiền Lão thiền sư v.v.. . 

b.-Huệ Linh thiền sư: Ngài họ Lâm, tên tục là Khu, quê ở Ðông phù liệt , nguyên là con cháu Lâm Phú ở Trà Sơn (Hà Ðông bây giờ). Ngài có tướng mạo khôi ngô, ăn nói lưu loát, từ nhỏ đã nổi tiếng văn hay chữ tốt. Nhưng khi hồi nhỏ còn thừa thời giờ, ngài lại nghiên cứu kinh Phật. Gần 70 tuổi Ngài theo học đạo với Ngài Ðinh Huệ thiền-sư . Từ đó sự tu học của Ngài càng ngày càng tiến. Khi được sư phụ truyền tâm pháp cho, Ngài mới đi hành hóa khắp chốn tùng lâm, rồi đến núi Bồ đề. Mỗi lần Ngài ngồi nhầp định ít nhất cũng năm bảy ngày. Người đời bấy giờ thường gọi Ngài là ông "Phật sống". Nhà vua cho người đi thỉnh Ngài nhiều phen, Ngài mới chịu về triều. Sau khi đàm đạo vua rất kính phục và phong Ngài làm chức Nội cung phụ tăng và truyền sắc ở chùa Vạn Tuệ gần thành Thăng Long. Một hôm trong đại nội có thiết việc chay đãi các tăng sĩ, vua hỏi:  

- Ðối với tâm nguyện của Phật, các học giả thường cãi nhau. Trẫm muốn các bậc thượng đức ở đây, bày tỏ chỗ sỡ đắc, để Trẫm được biết sự học vấn của các Ngài như thế nào?  

Huệ Linh Thiền sư liền ứng khẩu bài kệ sau đây: 

Nguyên văn:  

Pháp bổn như vô Pháp  
Phi hữu diệc phi không 
Nhược nhơn tri thử pháp 
Chúng sinh giữ Phật đồng 
Tịch tịch Lăng Già nguyệt 
Không không độ hải châu 
Tri không không giác hữu  
Tam muội nhậm thông châu. 

Dịch nghĩa:  

Pháp vốn như không pháp 
Chẳng có cũng chẳng không 
Nếu hiểu được pháp ấy  
Chúng sinh Phật vẫn đồng 
Trăng Lăng Già phẳng lặng 
Thuyền Bát Nhã chơn không 
Biết không rồi biết có 
Tam muội mặc dung thông. 

Nghe bài kệ , vua rất lấy làm mến phục. Thời ấy các vị vương công trong triều và sĩ thứ nhiều người đến hỏi đạo lý và đều tôn Ngài là thầy. 

Sang đời thánh Tôn, Ngài được phong làm Tạ Nhai Tăng đô thống đến năm Gia Khánh thứ năm (1063) Ngài tịch. Ngài có soạn mấy cuốn: "pháp sự trai nghi, đạo tràng khánh tân văn" nhưng đều thất truyền. 

c.-Thiền-lảo thiền-sư: Ngài trụ trì tại chùa Trùng-Minh huyện Tiên-du, đệ-tử của Ða Báo thiền-sư. Sau khi học đã đắc đạo, Ngài về ngôi chùa vùng Từ-Sơn, danh tiếng lừng lẩy, học trò đông đến nghìn người. Chổ ở của Ngài thành Ðại-Tồng-Lâm. 

Trong khoảng niên hiệu Thông-Thụy (1034-1038) vua Lý-Thái-Tôn nhơn một hôm đến thăm và hỏi Ngài: 

Hòa Thượng tới ở chùa này bao lâu?  

Vị thiền-sư đọc hai câu rằng: 

Nguyên văn:  

Ðản tri kim nhật nguyệt  
Thùy thức cựu xuân thu 

Dịch nghĩa: 

Sống ngày nay biết ngày nay 
Còn xuân thu trước, ai hay làm gì? 

Vua lại hỏi: Ngày thường Hòa-Thượng thường làm việc gì? 

Ngài lại đọc: 

Nguyên văn: 

Túy trúc huỳnh hoa phi ngoại cảnh 
Bạch vân Minh nguyệt lộ toàn chân 

Dịch nghĩa: 

Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác 
Trăng trong, mây bạc hiện toàn chân. 

Sau khi về cung, vua định sai sứ rước Ngài vào triều để thỉnh làm cố vấn. Sứ giả đến nơi thì Ngài đã tịch rồi. 

3.-Dưới đời Lý-Thánh-Tôn (1054-1075) 

a).- Tình hình Phật Giáotrong đời này: Thánh-Tôn lên ngôi, đổi quốc hiệu là Ðại Việt và lấy niên hiệu là Long-Thụy-Thái-Bình. Ngài là một ông vua rất sùng mộ Ðạo Phật. Năm Long-Thụy thứ năm (1059), Ngài xuống sắc lịnh dựng chùa xây tháp và đúc quả chuông trọng lượng 12.000 cân đồng, tại làng Bảo Thiên thuộc tỉnh Hà Nội. Quả chuông ấy hiện nay vẫn còn.  

Trong thời đại này, phái Thảo Ðường xuất hiện ở Việt-Nam, do Ngài Thảo-Ðường, đệ tử Ngài Tuyết-Ðậu Minh-Giáp bên Tầu truyền sang. Vua Lý-Thánh-Tôn thọ giáo với Ngài, sau được truyền trong pháp làm đệ tử đầu tiên của Ngài Thảo-Ðường. Phái Thảo-Ðường tức là phái Thiền-Tôn là phái thứ ba ở nước ta vậy. 

Lý-Thánh-Tôn là một tăng-sĩ được quyền truyền tâm pháp thì chắc chắn Ðạo Phật lúc bấy giờ rất được phát đạt và có ảnh hưởng lớn lao trong dân chúng lắm.  

b.-Phái Thảo-Ðường: Năm 1069 vua Lý-Thánh-Tôn đi đánh chiên thành, bắt được vua Chiêm-Thành là Chế-Củ và nhiều dân, quân về làm tù binh. Những tù binh này, vua ban cho các quan trong triều làm hầu hạ. Trong số các quan trong triều, có một vị Tăng-Lục. Một hôm, vị Tăng ấy đi vắng, về bổng thấy "Ngữ lục" của mình bị một tù nhân sửa chữa lại cả. Vị Tăng Lục thất kinh, đem về tâu với vua. Vua cho đòi tên tù nhân ấy hỏi, thì y ứng đối rất thông suốt, luận về kinh Phật rất sáng đáng. Hỏi ra mới biết đó là một vị Thiền-sư người Trung Hoa, theo thầy qua Chiêm-Thành, rồi bị bắt làm tù binh. Vị Thiền-sư ấy tức là Ngài Thảo-Ðường. 

3.- Dưới đời Lý-Nhân-Tôn (1072-1127). 

a)- Tình hình Phật Giáo trong thời kỳ này: 

Lý-Nhân-Tôn, mặc dù khi lên ngôi Lý-Nhân-Tôn tuổi còn nhỏ mà rất thông minh, anh dủng. Ngài rất hâm mộ Phật Giáo, cho nên ngoài công việc triều chánh ra, Ngài còn để tâm lo truyền bá Phật-pháp. Ngài có đặt một vị quan cao cấp trong nom hết thảy các chùa trong nước. Ngài lại phong cho Khô Ðầu thiền-sư làm quốc sư để cố vấn việc quốc chính, như Ngài Khuông-Việt, dưới đời Ðinh và Tiền-Lê. 

Song song với công việc chấn hưng Phật-pháp của vua, bà Hoàng-Hậu cũng là một tín nữ đắc lực, đã xuất của riêng ra lập hơn trăm ngôi chùa trong nước. 

Trong đời nầy, lại có nhiều bậc thiền-sư lỗi lạc, trước thuật những sách vỡ làm vẻ vang cho lịch sử Phật Giáo nước nhà như Ngài Viên-Chiếu Thiền-sư, Ngộ-Ấn thiền-sư ...  

b.- Viên-Chiếu Thiền-sư: Ngài họ Mai, tên húy là Trực, quê ở huyện Long-Ðàm, con anh bà Linh-Cảm Thái Hậu (Vợ vua Thái-Tôn). Ngài thông minh từ thủa nhỏ. Mặc dù con nhà quyền quý, Ngài từ giã gia đình, vào chùa Tiêu-Sơn, xin làm đệ tử Ngài Ðịnh-Hương Thiền-sư, nghiên cứu thiền học. Ngài rất am hiểu pháp "Tam quán " trong kinh Viên-Giác, tu đến đắc đạo và được sư phụ truyền tâm ân. 

Sau Ngài về Thăng Long, dựng một ngôi chùa ở mé tả kinh thành và trụ trì tại đó. Người bốn phương nghe tiếng xin theo học rất đông. 

Ngài có soạn quyển:"Dược sư thập nhị văn", trong ấy bàn giãi về 12 điều đại nguyện trong kinh dược sư. Vua Lý-Nhân-Tôn có đưa bản sách ấy cho các sứ thần sang Tầu dâng vua Triết-Tôn nhà Tống. Vua Tống giao sách ấy cho các vị thượng tọa ở chùa Tướng Quốc xem và có chổ nào đáng sữa thì sữa lại. Các đại sư Tầu xem rồi và tâu với vua Tống rằng: "Ðây là đấng hóa thân đại sĩ ra đời ở phương Nam, giảng giãi kinh nghĩa rất tinh vi, bọn phàm tăng chúng tôi đâu dám thêm bớt một chữ nào nữa !". 

Vua Tống săc cho sao lại một bản, còn bản chính thì trả lại cho vua tăng-sĩ với nhiều khen tặng. Ngài Viên-Chiếu tịch năm Quãng-Hựu thứ sáu (1090) thọ 92 tuổi. 

Sau đây là bài thơ của Ngài còn truyền lại: 

Nguyên văn: 

Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo 
Sơn nham đáo nguyệt quá tường lai 
Vũ trích nham hoa thần nữ lệ 
Phong xao đính trúc Bá nha cầm. 

Dịch nghĩa: 

Theo gió tiếng còi luồng bụi trúc 
Kèm trăng trái núi quá đầu tường 
Hoa núi mưa xa thần nữ khóc 
Tre xanh gió thổi Bá-Nha đàn. 

5.- Dưới đời Lý-Thần-Tôn (1128-1138). 

Lý-Nhân-Tôn không có con, lập con của hoàng đệ là Súng-Hiền-Hầu lên làm Thái Tử, sau lên ngôi tức là Thần-Tôn. Năm Thiên Chương Bảo Tự thứ tư (1136) vua mắc bệnh nặng, nhờ có Minh-Không Thiền-sư chữa khỏi, nên vua phong cho thiền-sư làm quốc sư và sắc lập chùa Linh-Cảm. 

Trong đời này củng có nhiều vị danh tăng như Minh-Không-Huyền Sư, Thông-Biện Thiền-sư, Bảo-Giám Thiền-sư và đặc biệt có một sư ni, con gái một vị hoàng thân, tức là bà Diệu-Nhân. Vị sư ni này thọ giới với Chân-Không Thiền-sư, và là vị ni đầu tiên trong phái Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi. Ngoài ra, trong thời này cũng có nhiều vị cao tăng trong phái Vô-Ngôn-Thông, Thảo-Ðường mở đạo tràng dạy đệ tử hoặc đi hành hóa, dùng pháp thuật cứu giúp kẽ bệnh tật rất nhiều. 

6.- Dưới đời các vị vua cuối đời nhà Lý: Lý-Anh-Tôn (1138-1175), Lý-Cao-Tôn (1176-1210), Lý-Huệ-Tôn (1211-1225). 

a).- Lý-Anh-Tôn và thời đại này: Thần Tôn mất, thái tử Thiên-Tộ lên làm vua lấy đế hiệu là Anh-Tôn. Anh-Tôn là đệ tử của Thiền-sư (phái Thảo-Ðường) và được truyền tâm pháp, tức là vị đệ tử thứ tư nối truyền thống của phái Thảo-Ðường. 

Những vị Thiền-sư có tiếng trong đời này là: Trí-Thuyền, Am-Trí, Bảo-Giám, Viên-Thông Thiền-sư. Ngài Viên-Thông Thiền-sư được phong làm quốc sư vào năm 1143, tịch năm 1151, thọ 72 tuổi. Ngài có trước tác những bộ sách hiện còn lưu lại: 

- Chư Phật tích dư sự (30 chương). 

- Hồng chung văn bi ký Tăng già tạp lục (50 chương). 

- 1000 bài thơ 

b.-Lý Cao Tôn và thời đại này: Anh-Tôn mất, Thái tử Long-Cán nối ngôi, hiệu là Cao-Tôn. Cao-Tôn lên ngôi mới ba tuổi, công việc trong triều giao trong tay quan phụ chánh Hồ-Hiến-Hành. Cao-Tôn lớn lên thụ giáo với Ngài Trương-Tam-Tạng Thiền-sư trong phái Thảo-Ðường. 

Trong đời này, tuy vua chúa, các bà cung phi và triều đình (như thái úy Tô-Hiến-Thành, thái bảo Ngô-Hòa-Nghĩa) đều sùng mộ Ðạo Phật, nhưng sự phát-triển không có gì đặc sắc đáng kể. Vận nước đang xuống, và Phật Giáo củng xuôi theo đà. 

c) Lý-Huệ-Tôn với thời đại này:- Thái tử Sam nối ngôi Cao-Tôn, tức là Huệ-Tôn. Nhà Lý đến giai đoạn này, đã suy lắm. Trong triều thì nổi loạn, vua không có thực quyền, ngoài dân gian cũng không được yên ổn. Do đó, Phật Giáo cũng bị ảnh hưởng theo.  

Năm 1224, Huệ-Tôn chán ngán cái đời làm vua, truyền ngôi cho con gái mới 7 tuổi là công chúa Phật-Kim, tức Lý-Chiêu-Hoàng, rồi xuất gia ở chùa Chân-giáo, tự xưng là Huệ-Quang Ðại-Sư. 

Lý-Chiêu-Hoàng truyền ngôi cho chồng là Trần-Cảnh. Nhà Lý chấm dứt từ đấy !. 

7.- Nhận xét chung về Phật Giáo đời nhà Lý. 

Nếu ở Trung Hoa, đời Ðường là đời Phật Giáo thịnh hành nhất, thì ở Việt-Nam đời Lý là đời Phật Giáo được thịnh hành nhất. 

Trong hơn hai trăm năm, Ðạo Phật giữ địa vị độc tôn về mọi phương diện: Ðạo đức, văn học, chánh trị, ngoại giao. Tám đời vua nhà Lý đều sùng một Ðạo Phật và có nhiều vị đã xuất gia đắc đạo. Các vị Tăng trong đời vua ấy là những cao Tăng, Ðại đức, thông thái và giữ nhiều địa vị quan trọng trong triều đình. Không những thế, các Ngài còn là những là thi sĩ lỗi lạc, những nhà ngoại giao tài tình và những nhà mô phạm uyên bác. Các Ngài đã tận tụy đem cái sơ học, sở đắc của mình nhập thế cứu đời, gây uy tín rất lớn cho Ðạo Phật. Chính các Ngài đã gián tiếp cải chính một cách hùng hồn bằng những hành động của mình rằng: Ðạo Phật không phải là yêm thế, nhu nhược mà chính là tích cực, dõng mảnh cứu đời và đã góp công rất lớn trong công cuộc dựng nước và an dân. Ðọc lịch sử Phật Giáo nước nhà đến đọan này, chúng tăng-sĩ thật vô cùng phấn khởi và càng thêm tin tưởng vào sứ mệnh cứu đời của Phật Giáo.

Trở Lên

Bài Thứ 4 
Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (Tiếp Theo) 
(Từ Nhà Trần Ðến Các Vị Vua Ðầu Nhà Nguyễn)

 

V.- Phật Giáo Dưới Thời Nhà Trần (1225-1400).

 

1.-Tình hình chung của Phật Giáo dưới đời nhà Trần:  

Nhà Trần nối nghiệp nhà Lý, thừa hưởng về mọi phương-diện , một di sản quý báu mà nhà Lý đã xây dựng trên hai thế kỷ. Riêng về Phật Giáo, mặc dù về cuối đời nhà Lý, triều đình gặp nhiều vụ nội biến và trong phái thiền môn, ít có được những vị cao-Tăng đại-đức như ở đầu đời Lý; nhưng trong dân chúng, Ðạo Phật đã thấm nhuần sâu xa, đâu đâu củng có chùa, có tượng Phật để tín đồ sùng bái. Bước sang đầu đời nhà Trần, có nhiều lý do khiến chúng ta tin-tưởng rằng Ðạo Phật sẽ được phát-triển mạnh thêm, nhất là các vị vua đầu nhà Trần là những vị vua thông hiểu và sùng mộ Phật Giáo còn hơn cả những vị vua đầu nhà Lý. Thế mà Ðạo Phật trong đời nhà Trần, chỉ thịnh phát trong khoảng 50 năm đầu, rồi dừng lại và thoái bộ mãi. Vì hai lý do làm cho Ðạo Phật không thể tiến phát được là ở bên ngoài, sự cạnh tranh ráo riết, có nhiều khi là cả một sự đàn áp của Khổng-Giáo; và ở bên trong, giáo lý Ðạo Phật dần dần bị xen lẫn mê tín, dị đoan của những tà giáo, ngoại đạo mà các vua chúa trong đời nhà Trần rất sùng mộ. Vì những sự mê-tín, dị-đoan này, Ðạo Phật trước con mắt những nhà thức giả, nhất là phía Khổng-Giáo, trở thành một cái đạo vô bổ, nguy hiểm cho đời sống quốc gia. Các nhà nho đua nhau công kích Phật Giáo. Triều đình mỡ những kỳ khảo hạng tăng-sĩ về những giáo-lý thông thường. Những vị sư nào thi hỏng thì phải hoàn tục. Những người thi đổ thì được bổ làm chức Triều-cung (coi việc các cung), Triều-quan (coi việc các đền), Triều-tự (coi việc các chùa). Thật là một hiện tượng suy đồi rõ rệt: các tăng-sĩ phải đi thi để giữ chức coi việc cúng bái ở các cung vua và các đền miếu. Mỉa mai cay độc hơn nữa, là trong đời vua Phế-Ðế (1381) tăng-chúng của đạo từ bi lại bị triệu tập làm thành một đạo binh dưới sự thống lĩnh của một vị Thiền-sư để đi đánh giặc Chiêm-Thành.

 

2.- Các vị vua nhà Trần có công với sự truyền bá Phật-Pháp: 

Như đoạn trên đã nói, trong đầu đời nhà Trần, có nhiều vị vua rất sùng mộ Phật-Pháp và đã có công lớn đối với việc truyền bá Ðạo Phật trong nước. 

a). Vua Trần-Thái-Tôn (1225-1258): Trần-Thái-Tôn tên húy là Trần-Cảnh, chồng bà Lý-Chiêu-Hoàng. Sau khi được vợ nhường ngôi, Trần-Thái-Tôn trở thành vị vua khai nguyên đời Trần. Ngài là một vị quốc vương hiếu đạo rất sâu xa. Khi mới lên ngôi, Ngài đã lo việc truyền bá Ðạo Phật bằng cách lập chùa, đúc chuông và hộ trì Phật, Pháp,Tăng. Ngài lại còn soạn được hai tập sách rất có giá trị và gây ảnh hưởng quý báu cho việc truyền bá Phật-Pháp thời bấy giờ, là quyễn: "Thiền-tôn chỉ Nam" và quyễn "Khóa hư". Tập Thiền-tôn chí Nam nói rỏ về đạo lý tu thiền; còn tập Khóa-hư giãi rỏ hành-tướng của cái khổ: sanh, lão, bệnh, tử. Hai tập ấy, ngày nay vẩn còn lưu truyền. 

b). Vua Trần-Nhân-Tôn (1278-1293): Trần-Nhân-Tôn là vị vua thứ ba đời Trần. Sau khi đã đánh bại quân Mông-Cổ một cách oai hùng, Ngài truyền ngôi lại cho con và vào tu ở núi Yên-Tử. Ngài thường đi khắp đó đây để bài trừ những hình thức mê-tín dị-đoan trong dân gian, thiết lập tu-viện, thuyết pháp-độ-sanh, mỡ rộng những trạm phát thuốc để cứu giúp người tật bệnh. Sau Ngài truyền pháp lại cho Tôn-Giả Pháp-Hoa và tịch ở am Ngọc-Vân trong lúc đang đi du hóa. Ngài chính là sư-tổ phái Trúc-Lâm. 

c). Trần-Anh-Tôn (1293-1314): Trần-Anh-Tôn là vị vua thứ tư của nhà Trần, kế vị vua Trần-Nhân-Tôn. Ngài là đệ tử của Pháp-Loa tôn-sư, nên rất tinh thông về Phật-pháp. Noi gương phụ vương là vua Trần-Nhân-Tôn, Ngài đã hăng hái truyền bá Phật Giáo trong nước. 

Sau khi thỉnh được đại tạng kinh ở Trung Hoa về, Ngài sắc in nhiều bản và phát cho HoàngTrần-Nhân-Tôn, Ngài lại còn tuyền thiết những đàn tràng lớn để hành lể và phát chẩn cho dân nghèo. 

Tuy vậy, đến đời Anh-Tôn, Ðạo Phật không còn giữ được cái sắs-thái rực-rỡ như đầu đời Trần nữa. Sau đời vua này, các vị vua kế vị tuy vẫn là những Phật tử, nhưng không còn được lòng tin sáng suốt và thuần túy nữa. Ngoại đạo, tà-giáo từ Trung Hoa truyền sang đã xen lấn trong niềm tin của họ. 

3.- Phái Trúc-Lâm Yên-Tử và các vị tổ trong phái ấy: Trong đời Trần, các vị danh tăng không được đông đảo như ở đời Lý. Tuy thế, trong đời này Phật Giáo Việt-Nam củng đã phát-triển được một tôn phái mới là Trúc-Lâm, phát tích từ nước Yên-Tử, và các vị tổ trong phái này cũng là những bậc cao Tăng mà đời sau không thể nhớ được, mỗi khi nói đến Ðạo Phật về đời Trần. Sau đây chúng tăng-sĩ hãy tìm biết qua tiểu-sử và nghiệp-sự của các vị ấy: 

a). Tuệ-trung Thượng-Sĩ: Ngài húy là Trần-Quốc-Toản, con trai của Hưng-ÐạoVương Trần-Quốc-Tuấn khi giặc Nguyên (Mông-Cổ) hai lần sang đánh chiếm nước ta, Ngài theo Hưng-Ðạo-Vương đi chống giặc, lập được nhiều chiến-công và được phong đến chức Tiết-Ðộ-Sứ. Ngài có lòng mộ đạo từ nhỏ, nhưng vì gặp lúc quốc biến, Ngài phải ra tay phò vua, giúp nước. Khi giặc yên, Ngài xin từ chức lui về Phong-Ấp là Vạn-niên-hương, chuyên tâm học đạo với Tiêu-Giáo thiền-sư, là một đệ tử cuối cùng của phái Vô-Ngôn-Thông. 

Khi ngộ đạo, Ngài thường lập đàn giảng đạo, các môn đồ thiện-tín đến dự thính rất đông. 

Vua Thánh-Tôn rất kính trọng Ngài, tứ hiệu Ngài là "Tuệ-Trung Thượng-sĩ" và ký thác vua Trần-Nhân-Tôn cho Ngài. Ngài hết lòng dạy bảo Thánh-tôn về phần đạo lý và sau này Nhân-Tôn lập ra phái Trúc-Lâm và trở thành đệ nhất tổ của phái này, củng là nhờ ảnh hưởng tinh thần của Tuệ-Trung Thượng-sĩ. 

Khi gần hóa, Ngài khiến người nhà kê ghế giữa căn nhà trống, ngồi tựa vào ghế mà tịch. Các nàng hầu khóc lên, Ngài liền mở mắt ra quở rằng: 

Sanh tử lẽ thường, có gì đáng thương xót mà làm nhiểu tâm hồn tăng-sĩ thế? 

Các nàng hầu im bặt; Ngài lại nhắm mắt mà tịch. Ngài thọ 62 tuổi. 

b). Trần-Nhân-tôn, đệ nhất tổ của phái Trúc-Lâm Yên-Tử (đã nói ở đoạn trên rồi).  

c). Pháp-loan tôn-sư, vị tổ thứ hai của phái Trúc-Lâm: Ngài họ Ðồng, người hàng Cửu-la, Phủ nam sách (nay thuộc tỉnh Hải Dương), Ngài thiên tư đỉnh ngộ, năm 21 tuổi gặp Ngài Ðiều-Ngự (tức là vua Nhân-Tôn) khen có pháp nhãn, và được thâu làm đệ tử. Ngài ngộ đạo rất sớm. Năm 25 tuổi Ngài phụng mệnh làm lễ khai giảng ở chùa Siêu-Loại, có vua và đình-thần đến dự. Sau buổi khai-giảng ấy, Ngài Ðiều-Ngự phong cho Ngài làm chủ sơn môn Yên-Tử và đem kinh điển hơn hai trăm bộ giao phó cho Ngài. 

Ngài phụng chiếu, định chức các tăng-đồ và quản-lãnh tăng-chúng. Tăng-đồ có Tăng-tịch, sổ sách rõ ràng là bắt đầu từ đó. Trong một đời, Ngài đúc được 1300 tượng Phật, dựng hai đài giảng đạo, năm ngôi tháp, hai trăm sở tăng đường, độ cho hơn 15.000 tăng ni, trong số ấy có 3.000 người được đắc pháp. Ngoài ra, Ngài còn soạn hai tập "Ðọan sách lục " và "Tham thiền yếu chỉ", nay còn lưu truyền. Công nghiệp lớn lao như thế, nhưng tiếc thay đời Ngài lại rất ngắn ngủi, hưởng thọ 47 năm. 

d). Huyền-Quang Tôn -Sư, vị tổ thứ ba của phái Trúc-Lâm. Ngài họ Lý, người làng Vạn-Tài (thuộc tỉnh Bắc-Giang bây giờ), cha là Tuệ-Tổ, có công đánh Chiêm-Thành, nhưng không chịu ra làm quan. Ngài hình dung kỳ-dị, nhưng bẩm tánh thông minh, đổ trạng nguyên vào lúc 20 tuổi. Trước khi thi đỗ, mệ Ngài đi hỏi vợ cho Ngài, nhưng đến đâu củng bị từ chối, vì hình dung kỳ-dị của Ngài, và sự nghèo hèn của gia đình Ngài. Nhưng khi Ngài thi đỗ, các nhà phú quý tranh nhau gọi gả con gái, và vua cũng đòi gả công chúa cho, nhưng Ngài đều từ chối. Do đó, người đời có câu ca dao: 

"Khó khăn thì chẳng ai nhìn, 

Đến khi đổ Trạng, tám nghìn quân duyên"

Vì thấy nhân tình thế thái như thế, nên mặc dù làm quan lớn và được đi sứ sang Trung Hoa, Ngài vẫn không lấy thế làm mãn nguyện. Một hôm nhân đi theo vua Anh-Tôn nghe Pháp-Loa Tôn-sư thuyết pháp, Ngài liền giác ngộ nên dâng biểu xin từ chức, rồi xuất gia thọ giáo với Ngài Pháp-Loa. 

Sau khi được Ngài Pháp-Loa truyền tâm ấn, Ngài trụ trì ở chùa Vân-Yên núi Yên-Tử, tăng ni theo học có đến hàng nghìn. Ngài lập chùa, in kinh, mở pháp-hội bố thí cho kẻ nghèo, làm rất nhiều việc công đức. 

Ba vị tổ Trúc-Lâm trên đây đã gây tạo một uy-thế rất lớn, không những trong giới tăng-già mà còn cả ngoài nhân gian nữa, nhưng sau đó rất tiếc là những vị kế nghiệp ba Ngài không có ai tương xứng nữa.  

Tóm lại, trong đời Trần, cũng như đời Lý, lịch sử Phật Giáo có thể chia làm hai thời kỳ phồn-thịnh gồm trong bốn vị vua đầu (gần 100 năm); thời kỳ thứ hai là thời kỳ suy-vi, gồm các đời vua sau (trong khoảng 80 năm).

 

VI.- Phật Giáo Dưới Ðời Nhà Hồ (1400-1407) Và Dưới Ðời Hậu Lê (1428-1527)  

Phật Giáo dần dần suy sụp từ dưới đời các vua cuối nhà Trần, sang nhà Hồ và kéo dài cho đến cuối đời Hậu Lê. Trên gần hai ngàn năm Phật Giáo có mặt trên đất nước này, có thể nói giai đoạn này là giai đoạn tối tăm nhất của Phật Giáo. 

Trong 7 năm chiếm đoạt ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly chưa làm gì được thì nhà Minh mượn cớ khôi phục nhà Trần, kéo quân sang đánh nước ta, và đặt nền đô hộ khốc liệt trong bảy năm trời, bảy năm tuy ngắn ngủi, nhưng nhà Minh đã để lại một hậu quả rất tai hại mà 100 năm sau vẫn chưa xóa nhòa hết. Thật vậy, sau khi xâm chiếm nước ta Nhà Minh tịch thu hết cả sách vở trong nước, trong ấy gồm cả kinh điển nhà Phật, đem về Kim Lăng, và đốt phá nhà chùa rrất nhiều. 

Một mặt phá hoại, một mặt nhà Minh cho truyền vào nước ta những hình thức mê tín dị đoan của các đạo Lão và Lạt Ma giáo. 

Do đó, Ðạo Phật mất hết cả tính thuần túy của các thời đạị trước, và trở thành một thứ tôn giáo hổn tạp, kỳ quái. Phật không ra Phật ma không ra ma. Thật là một cảnh điêu tàn hoang phế đã diễn ra trong chốn Thiền môn ! 

Sang đến thời Lê, Nho học rất thịnh hành, các sĩ phu đua nhau vào đường khoa cử, miệt mài trong tư tưởng Tống Nho. Giáo-lý nhà Phật không còn làm danh lợi cho ai, nên đã bị bỏ quên. Phê bình tình trạng Phật Giáo trong giai đoạn này, Thượng tọa Thích Mật Thể, trong cuốn Việt-Nam Phật Giáo sử lược đã viết rất đúng như sau: 

'' Việc tu đạo, đối với hạng ít học thì chỉ là một kế quyền nghi theo hình thức (1); với hạng sĩ phu, thì chỉ là môĩt chổ để người nào lận đận công danh, chán nãn cuộc thế, bất bình với thói đời, nghĩa là chỉ có những người yếm thế mới tìm đến để tiêu dao ngày tháng, mượn cảnh chùa am, tiếng chuông, câu kệ, mà dứt bỏ cuộc ngoài thôi, chứ không phải mến hiểu giáo-lý của Phật mà tu hành, rồi mộ đạo, rồi lại đem đạo lý ra mà giác ngộ cho kẻ khác''. 

Bởi vậy trong thời Hậu Lê có thể nói ''thời đại Phật Giáo suy đồi'' ! 

(1) Ðể khỏi nói là một kế sinh nhai.

 

VII.- Phật Giáo Trong Thời Nam Bắc Phân Tranh (1528-1802) 

Nhà Hậu Lê làm Vua đến đời vua Chiêu Tôn, Cung Hoàng (1516-1527) thì bị Mặc Ðăng Dung thoán đoạt nhưng những trung thần của Nhà Lê đả chống lại Mặc Ðăng Dung và lập triều đình nhà Lê ở Thanh Hóa, Nghệ An. Sau sáu năm chống nhau với nhà Mạc, nhà Lê đã nhờ công lao to lớn củ họ Trịnh mà giành lại Giang Sơn. 

Họ Trịnh ỷ mình có nhiều công lao, nắm hết quyền hành ở trong triều, vua Lê chỉ ngồi cho có vị, chứ không có thực quyền. 

Họ Nguyễn, vì không muốn phục tùng họ Trịnh, nên đả lánh vào nam, hùng cứ một phương. Từ đó nươc ta phân chia làm hai: 

Phía Bắc sông Gianh là giang sơn của họ Trịnh; Phía Nam sông Gianh là giang sơn của họ Nguyễn;. Hai họ Trịnh, Nguyễn đều muốn bành trướng thế lực của mình để diệt trừ đối thủ, nên họ ra công xây dựng phần đất của mình về mọi phương diện. Về phương diện tôn giáo, hai bên đều lấy Phật Giáo làm quốc giáo và củng sốt sắn xây chùa tạo tượng rất nhiều. 

Cũng trong giai đoạn này, ở Trung Quốc thường có loạn lạc, và các tôn giáo Phật Giáo thường bị chèn ép của Lạt Ma giáo, nên một số vị cao tăng đã rời quê hương, sang Việt-Nam truyền giáo, người thì vào ở đất Bắc, người thì vào Nam. Nhờ thế, nước ta  

Có nhiều tôn phái mới và nhiều vị sư Trung Hoa danh tiếng mà ảnh hưởng còn truyền đến bây giờ. 

1.- Phật Giáo trong thời các chúa Trịnh: 

Phật Giáo trong thời kỳ này.- Vào khoảng đời vua Lê Thế Tôn (1573-1599) ở Bắc có phái Tào Ðộng, củng là chi phái của phái Bồ Ðề Ðạt Ma ở bên Tàu. Phái này truyền vào bởi nhà sư Trung Hoa Trí Giáo Nhất Cú. Hiện nay các vị sư trụ trị tại các chùa Hòe Lai, Hàm Long, Trấn Quốc ở Hà Nội là đệ tử của phái Tào Ðộng. 

Vào khoảng đời vua Lê Hy Tôn (1676-1705) lại có phái Liên Tôn, do một vị vương công họ Trịnh là Lân Giác thiền-sư lập ra ở chùa Liên Phái (Bạch Mai, Hà Nội). Ðồng thời sư Nguyệt Quang cũng lập ra phái ấy ở Kiến An. Hai Ngài Lâm Giác và Nguyệt Quang đều là đệ tử của chi phái Lâm Tế ở Trung Hoa truyền sang. Hiện nay các vị sư trụ trì ở chùa Bà Ðá (Hà Nội) là đệ tử của chi Lâm Tế. 

Ngoài sự phát triển hai phái trên, Phật Giáo ở Bắc lại được chúa Trịnh ủng hộ mạnh: trùng tu tự viện, thỉnh Ðại tạng ở Trung Hoa về...Các cao tăng lúc bấy giờ củng khá đông, danh tiếng nhất là Ngài Hương Hải thiền-sư, mà chúng ta sẽ nói dưới đây: 

Hương Hải thiền-sư: -Ngài nguyên trước ở miền Nam, trong phần đất của chúa Nguyễn và là dòng dõi thế phiệt. Thân sinh Ngài là một công thần của chúa Nguyễn. Ngài đổ Hương Cống (cử nhân) lúc 18 tuổi, được tuyển vào làm việc ở phủ chúa Nguyễn rồi được bổ ra làm tri phủ ở Triệu Phong (Quảng Trị ngày nay). Ngài rất hâm mộ đạo Phật và thường đàm luận giáo-lý với các vị cao tăng. Ðến 28 tuổi Ngài xin từ quan, xuất gia đầu Phật. Ngài ra chơi ở núi Tiêm Bút ngoài Nam Hải, rồi lập am ở lại trụ trì. Ðạo hạnh Ngài rất cao, quan dân gần xa đều cảm mộ. Chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Chu 1691-1715) nghe danh, sai người ra hải đảo mời về, và lập chùa để Ngài trụ trì. Nhưng sau vì sự nghi ngờ của chúa Nguyễn, Ngài bỏ miền Nam, đóng thuyền vượt biển cùng 50 đê tử ra Bắc và được chúa Trịnh và vua Lê rất mến phục. Vua Lê Vũ Tôn (1706-1726) thường mời Ngài vào cung để hỏi đạo. 

Một hôm vua hỏi Ngài: 

Trẫm nghe thiền-sư học rộng nhớ nhiều, vậy xin thiền-sư thuyết pháp cho nghe để Trẫm hiểu được Ðạo. Ngài nói: 

Bần tăng có bốn câu kệ này, xin bệ hạ để tâm suy nghĩ: 

Nguyên văn: 

Phản văn tự kỷ mổi thường quan 
Thẩn sát tư duy tử tế khan 
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức 
Tương lai diện thượng đổ sư nhan 

Dịch nghĩa: 

Nghe lại điều mình thấy những ngày 
Suy đi nghĩ lại kỹ càng hay 
Chớ tìm triều thức trong cơn mộng 
Có thế mới hay nhận được thầy (Ðạo) 

Vua hỏi: 

Thế nào là ý của Phật? 

Ngài đáp: 

Nguyên văn: 

Nhạn quá trường không 
Á
nh trầm hàn thủy 
Nhạn vô di tích chi ý 
Thủy vô lưu ảnh chi tâm. 

Dịch nghĩa: 

Nhạn liệng giửa không 
Bóng chìm dưới nước 
Nhạn không để dấu lại 
Nước chẳng lưu bóng làm chi 

Ngài thường đọc những câu kệ hay để dạy tăng chúng, như sau: 

Nguyên văn: 

Tầm ngưu tu phỏng tích (*Xem Thập Mục Ngưu đồ)
Học đạo quý vô tâm 
Tích tại ngưu hoàn tại 
Vô tâm đạo dị tầm. 

Dịch nghĩa: 

Tìm trâu, tìm đấu chân 
D
ấu còn trâu chẳng mất đâu bao giờ 
Những người học đạo chớ nhờ 
Vô tâm thì đạo cơ sơ đễ tìm 

2.- Phật Giáo trong thời các chúa Nguyễn: 

a- Phật Giáo trong thời kỳ này. -Trong khi Phật Giáo miền ngoài trổi dậy, thì Phật Giáo miền trong cũng phát đạt. Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận Hóa, cho đến khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước, trong hơn hai trăm năm, họ Nguyễn đối với Phật Giáo hết lòng sùng thượng, tạc tượng, đúc chuông, lập tự viện rất nhiều, bấy giờ có nhiều vị tăng tử Trung Hoa như Ngài Tế Viên, Ngài Giác Phong .. . ở Trung Hoa sang truyền giáo, trong các vị tăng Trung Hoa, có một vị Thánh tăng mà ảnh hưởng còn truyền lại đến bây giờ là Tô Nguyên Thiều. Riêng các vị tăng Việt-Nam, thời có Ngài Liễu Quán là một vị tổ đã làm cho Phật Giáo miền Nam thời ấy được vô cùng rực rỡ. 

b.- Các vị danh tăng: -Ngài Nguyên Thiều: Ngài họ Tạ, quê ở Trùng Hương (quảng Ðông). Xuất gia năm 19 tuổi, Ngài tu ở chùa Bảo Tự, thọ giáo với Ngài Ðổi Khao Khoán Viên Hòa-thượng. Niên hiệu Cảnh Trị năm thứ ba đời Lê Huyền Tôn (1665). Ngài đi theo tàu buôn của An Nam, trú ở phủ Quy Ninh (Bình Ðịnh) lập chùa Thập Tháp Di Ðà, mở truyềntrường dạy Phật Pháp, sau ra Thuận Hóa lập chùa Hà Trung, rồi lên Xuân Kinh (Huế) lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Ðồng. 

Sau Ngài phụng mạng đức Anh Tôn ( Nguyễn Phúc Tráng 1687-1691) trở về Trung Quốc, tìm mời các vị danh tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí. Ngài về Quảng Ðông mời được Hòa Thượng Thạch Liêm và các danh tăng khác, cùng thỉnh được nhiều kinh điển, tượng, pháp khí trở về Nam. Chúa Nguyễn liền sắc mở đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên Mụ. Sau đó, chúa Nguyễn sắc ban Ngài chức trụ trì chùa Hà Trung. 

Một hôm, Ngài lâm bệnh, họp môn đò lại dặn dò mọi việc và truyền bài kệ sau đây: 

Tịch tịch, kính vô ảnh 

Minh minh, châu bát dụng 

Đường đường,vật phi vật 

Liểu liểu, không vật không 

Ðại ý: Thể pháp thân thanh tịnh sáng suốt như mãnh gương sạch không bụi, như ngọc minh châu, trong sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền sự sự, vật vật sai khác, nhưng đều là thể pháp thân biểu hiện. Thể pháp thân thường vắng lặng mà không phải là không, tức là lý ''chân không diệu hữu''. 

Ngài viết xong bài kệ, ngồi yên lặng mà tịch. 

Ngài Liễu Quán: Ngài họ Lê, húy Thiện Diệu, quê ở làng Bạch Mã, huyện Ðồng Xuân, tỉnh Phú Yên (sông Cầu bây giờ). Ngài mồ côi lúc 6 tuổi, thân sinh Ngài cho Ngài xuất gia và đầu sư với Ngài Tế Viên Hòa Thượng, người Trung Hoa. Ðược 7 năm Hòa thượng Viên tịch, Ngài ra Thuận Hóa học với Giác Phong Lão tổ (người Trung Hoa ) ở chùa Bảo Quốc. Năm 1691 Ngài trở về cố hương phụng dưỡng cha già, phải đi đốn củi để sinh nhai. Ðược bốn năm sau khi thân phụ Ngài qua đời, ngài trở ra Thuận Hóa, thọ giới Sa -di với Ngài Thạch Liêm Hòa thượng (cũng người Trung Hoa). 

Năm 1699, Ngài đi tham lễ khắp Thiền Lâm để bồi bổ cho sự tu hành. Qua năm 1702, Ngài đến Long Sơn, cầu học pháp tam thiền với Ngài Tử Dung hòa thượng (tổ khai sơn chùa Từ Ðàm, Huế). 

Về phần hóa đạo, Ngài rất tinh tấn không nệ khó nhọc. Luôn luôn Ngài lập đàn truyền giới, tiếp chúng độ tăng. Năm 1740, ngài Tấn Ðàn phóng giới, rồi từ đó Ngài trở về núi Thiên Thai, dựng thảo am, ẩn náu tu hành, nay tức là chùa Thiền Tôn. 

Chúa Nguyễn Minh Vương rất trọng đạo hạnh Ngài, thường mời Ngài vào cung đàm đạo. Mùa xuân năm 1742, Ngài trở lại dự giới đàn ở chùa Vĩnh Thông, cuối mùa thu ấy, Ngài thọ bệnh, khi sắp lâm sung, Ngài gọi môn đồ lại dạy rằng: 

Các ngươi khóc làm gì ! các đức Phật ra đời còn nhập niết bàn,thì ta nay đi đến rỏ ràng, về tất có chổ, các ngươi không nên khóc và đừng nên buồn thảm. 

Kế đó Ngài viết bài kệ , từ biệt: 

Nguyên văn: 

Thất thập dư niên thế -giới trung 

Không không, sắc sắc, diệu dung thông 

Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý 

Hà tất bôn man vấn tổ- tông. 

Dịch nghĩa 

Ngoài bảy mươi năm trong thế- gian 

Không không, sắc sắc thảy dung- thông. 

Ngày nay nguyện mãn về nơi củ 

Nào phải ân cần hỏi tổ- tông. 

Viết xong, ngài bảo môn đồ rằng: 

-"Sau khi ta đi, các ngươi phải nghĩ đến cơn vô thường nhanh chóng, cần phải siêng năng tu học, các ngươi hãy cố gắng tới, chớ bỏ quên lời ta". 

Ðến ngày 22 tháng 11 giữa mùa đông năm Nhâm-tuất (1742) vào giờ mùi, Ngài dùng nươc trà xong, vui vẽ từ biệt môn đồ, tiêu -diêu thoát hóa. 

Chúa Minh-Vương được tin, liền ban thụy-hiệu là " Ðạo Hạnh Thụy Chánh Giác Viên Ngộ Hòa- Thượng".

 

VIII.-Phật Giáo Dưới Ðời Các Vị Vua Ðầu Triều Nguyễn  

Tình trạng Phật Giáo trong giai đoạn này: 

Nhà Nguyễn Tây- Sơn, trong một giai đoạn ngắn, đã chấm dứt tình trạng Nam Bắc phân tranh và thống nhất sơn hà về một mối.Nhưng chẳng bao lâu, Chúa Nguyễn Phúc-Ánh diệt được nhà Nguyễn Tây -Sơn, thu hồi lại đất nườc và mỡ đầu cho triều Nguyễn, lấy niên hiệu Gia- Long. 

Trong giai đoạn này, nước ta sống trong cảnh chiến- tranh thường trực,ít ai có thì giờ nghĩ đến chuyện chấn hưng đạo đức tôn-giáo.Một số chùa chiền bị tàn phá, kinh-điển thất lạc, cảnh hoang tàn thật tiêu điều buồn bã. Vua Gia -Long lên ngôi, công việc trước tiên của Ngài là lập lại nên an ninh trật-tự trong nước, chứ cũng chưa có thì giờ nghĩ đến chuyện chấn hưng Phật Giáo. Qua đến đời Minh-Mạng và Thiệu Trị, các Ngài cũng bắt đầu sắc trùng tu những ngôi chùa tổ đình quan trọng ,nhưng trong dân gian thì ảnh hưởng đạo Phật mỗi ngày mỗi lu mờ, phai nhạt dần. Các vị cao tăng vẫn có, như Ngài Phổ-Tịnh Hòa-Thượng, Giac Ngộ Hòa Thượng . Nhưng vì quá ít ỏi, nên quý vị ấy, chẳng khác gì những ngôi sao lẻ tẻ trong bầu trời đen tối, chẳng soi sáng đươc gì. 

Ðến khi người Pháp đặt nền đô hộ trên đất nước này, thì đạo Phật lại càng suy đồi, mất hết cả những gì thuần túy, cao siêu, mà chỉ còn như là một thần đạo, mà nhiệm vụ chính là lo việc cúng bái mà thôi. 

Ðể có một ý niệm chung về một sự tồi tệ của Phật giáo trong giai đoạn này, chúng tôi xin trích một đoạn nhận xét rất chính xác sau đây, mà Thượng-Tọa Thích-Mật-Thể đã viết trong cuốn Việt Nam Phật Giáo sử lược:  

"..Ðến đây,từ vua quan cho đến thứ dân, ai ai cũng an trí đạo Phật là ở sự cúng cấp, cầu đảo, chứ không biết gì khác nữa. Và phần đông họ chỉ trọng ông thầy ở chổ danh vọng, chức tước, mặc dù ông ấy thiếu học, thiếu tu. Bởi tệ hại ấy, tăng đồ trong nước lần lần vào con đường trụy lạc, cờ bạc, rượu chè đắm trước thanh sắc. 

"Ở miền trung nguyên Bắc -kỳ,về kỷ luật tăng già bên ngoài còn giữ được nghiêm chỉnh đôi chút, chứ ở Trung kỳ, phần nhiều họ đã có vợ, có con một cách công nhiên, không áy náy. Nhất là ở Nam kỳ lại càng hổn độn hơn nữa...Phần đông tăng đồ chỉ nghĩ đến danh vọng, chức tước: xin bằng Tăng-cang, Trụ trì, Sắc tứ v.v.. hay chỉ biết cúng cấp, cầu đảo , phù chú, làm tay sai cho các vua chúa, quan quyền, phú hộ để làm kế sinh nhai. Còn một hạng nữa, chỉ giữ mình cho được thanh nhàn, ăn chơi tiêu khiển, bảo là giải thoát v.v..! 

"Bởi vậy, các cảnh chùa trong nước đã thành cảnh gia đình riêng, không còn gì là tính cách đoàn thể của một tôn giáo nữa. Họ sống trong Phật Giáo hầu hết chỉ còn là "dốt" và "quên"! "Quên" để khỏi phải biết đến bổn phận chơn chánh của một tăng-đồ. 

"Ở trong tăng-đồ thì như vậy, ở ngoài tín-đồ cư-sĩ thì ngơ-ngác, mù lòa tin bướng, theo càn, ít ai là người hiểu đạo lý. 

"Trong lịch sử Phật GiáoViệt-Nam, ta có thể đánh vao đây một dấu than (!) rất to tướng".

 

C.-Kết Luận: 

Chúng ta đã theo dõi dấu chân của những nhà truyền bá đạo Phật đầu tiên ở trên đất nước này cho đến thời cận đại. Trong gần hai mươi thế kỷ hiện-diện trên dãy đất Việt-Nam này, đạo Phật đã trãi qua biết bao cơn thăng trầm, suy thịnh. Những sự biến chuyển ấy, không đơn phương, mà bao giờ cũng đi song song với sự biến chuyển chung của đất nước. Mỗi lần vận nước hưng lên thì đạo Phật cũng phát triển mạnh, mỗi lần vận nước suy nhược, thì đạo Phật cũng thoái trào. 

Ðiều nhận xét thứ hai là những vị anh quân thường thường là những Phật-tử thuần thành, luôn luôn ủng hộ và khuyến khích sự truyền bá Phật Pháp. Trái lại, những vị vua ít hiểu đạo, phá đạo phần nhiều cũng là những vị vua ít thành công nhất trong sự trị nước, an dân. 

Do hai nhận xét trên, chúng ta có thể kết luận rằng: Ðạo Phật đã mật thiết hòa mình trong cuộc sống của dân-tộc Việt-Nam trong quá khứ. Và từ đây về sau, muốn cho đất nước được an cư lạc nghiêp và có một tương lai rạng rỡ, những nhà lãnh đạo quốc giả phải dành cho đạo Phật một địa vị quan trọng trong mọi sinh hoạt của nước nhà.

Trở Lên 

Bài Thứ 5 
Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo
Trên thế-giới và ở Việt-Nam hiện- đại 

 

A.-Mở Ðề: 

Trong thế kỷ thứ 18 và 19 ở Việt- Nam cũng như ở các nước Phật Giáo khác , sự truyền-bá đạo Phật hình như thiếu một luồng sinh khí mới, nên cứ chìm dần, tưởng gần như sắp cáo chung. Nhất là khi Á-đông mới bắt đầu tiếp xúc với cái văn-minh sống động, rưc rỡ của Tây-phương; các dân tộc Á-đông bị "mặc cảm tự ti", cho rằng mình thua sút Tây phuơng về mọi phương diện. Do đó, các dân-tộc Á châu, nhất là các dân tộc đông đảo như Ấn Ðộ, Trung Hoa, đều ruồng rẫy cái gia tài tinh thần của ông cha, để theo học đòi cái văn minh cơ khí, hùng mạnh của Tây phương. Ðao Phật, cũng như các tôn giáo khác ở Á châu, chỉ còn lại hình thức lễ bái cổ truyền, còn các phần tinh-hoa quý báu của nó bị chôn sâu trong lớp bụi quyên lãng của thời-gian. 

Nhưng sau cái chóa mắt của những phút đầu tiếp-xúc với ánh sáng lạ, người Á-Châu nhận thấy văn minh Âu-Tây chưa hẳn đã hoàn thiện. Những nhà tư tưởng, triết-gia, lãnh đạo tôn giáo đạo đức ...sau khi đã đọc được phương pháp suy luận, phân tách, tìm tòi một cách có khoa học của Tây-phương, đã quay về đào xới, khám phá cái gia-tài tinh thần của ông cha để lại mà họ đã ruồng rẫy. Giúp vào công việc ấy, có những nhà bác-học, khảo-cổ, nhân-chủng-học đã tìm thấy được rất nhiều bằng chứng cụ thể nói lên giá trị chân-chất của nền văn minh Á-đông mà Ðạo Phật đã động lực chính. 

Do đó Ðạo Phật được đặc-biệt chú ý. Và càng đi sâu vào văn hóa Phật Giáo, người ta (Âu-tây cũng như Á-đông) lại càng ngạc nhiên vì tánh-chất thuần-thiện, cao khiết, trong sáng của nó. Từ đấy, một luồng sinh khí mới thổi lên, đem lại cho người tín-đồ Phật Giáo nhiều phấn-khởi và tin tưởng ở giáo lý cao siêu của Ðức Bổn Sư Thích-Ca. Luồng sinh-khí trên đã gây được một phong trào chấn hưng Phật Giáo, mỗi ngày mỗi lan rộng, ban đầu ở các nước Á-châu, và bây giờ ở khắp năm châu bốn biển. Trong cái bừng dậy chung ấy, tín-đồ Việt-Nam cũng đã đóng góp một cách xứng đáng cái phần công đức của mình, và có thể tự hào rằng mình không quên sứ-mạng. 

Vậy dưới đây, chúng ta hãy tuần tự điễm qua cái phong trào chấn-hưng ấy trên các quốc gia Phật Giáo như thế nào, trước khi nói riêng về phong trào chấn-hưng ở Việt-Nam trong hiện tại. 

 

B.- Chánh Ðề: 

I.- Sự Chấn Hưng Phật Giáo Ở Ấn độ Và Các nước Thuộc Khu Vực Ảnh Hưởng Ấn 

1.- Phật Giáo Ấn Ðộ.- Như chúng ta đã thấy trong đoạn nói về lịch sử truyền bá đạo Phật tại Ấn Ðộ ở bài thứ nhất: mặc dù là xứ sở phát nguyên Phật Giáo, Ấn Ðộ chỉ thấy được cái vẻ huy hòang của ánh đạo vàng trong 15 thế kỷ đầu. Những thế kỷ về sau, Ðức Phật lu mờ dần ở đây và nhường chỗ cho Bà-la-môn giáo và Hồi-giáo để lấn tràn ra lân bang. 

Vào thế kỷ thứ 18, Ðức Phật ỏ Ấn Ðộ chỉ còn vang bóng một thời xưa. Nhưng khi người Anh bắt đầu đi sâu trong sự tìm hiểu nền văn hóa Ấn Ðộ, và ngạc nhiên khi nhận thấy một nền văn chương, triết học thâm thúy của Ðạo Phật đã bị chôn vùi trong lãng quên, thì người Anh cũng như người Ấn Ðộ đều đồng thanh hô hào và cổ xúy sự phục hưng của Phật Giáo. 

Trong số những học giả Phật Giáo đầu tiên đẵ có sáng kiến xây dựng phong trào chấn hưng này, thì ông Rayendachilala là người có công nhất. tiên sinh đã căn cứ vào 144 lọai kinh chữ Phạn ở Népal để viết ra cuốn "Văn chương Phật Giáo" bằng Phạn ngữ của Népal. Năm 1888, Tiên sinh lại cho xuất bản quyển "Tiểu phẩm Bát-nhã". Năm 1893,ông Sarat Chandrodas, một học giả Ấn Ðộ khác, lại đề xướng lên hội"Nghiên-cứu Thánh-điển Phật Giáo Ấn Ðộ và nhân lọai học thuật". Chính hội nghiên cứu này đã thu thập được một số đông hội viên thông thái,gồm Ấn Ðộ lẫn Anh quốc và đã gây nên phong trào tìm hiểu Phật Giáo trong nước và sang đến Anh quốc. 

Người có công thứ ba, mà hiện nay Tổng hội Phật Giáo Quốc tế quyết nghị sẽ làm lễ kỷ niệm đệ bách chu niên sanh nhật (17-9-64) khắp nơi trên thế giới là Ðại đức Anagarica Dharmapala. Chính Ðại đức là người sáng lập ra hội Ðai Bồ Ðề (Mahabodhi) là một đoàn thể rất có lực lượng trong công cuộc vận động phục hưng Phật Giáo ở Ấn Ðộ ngày nay. Sáng lập năm 1891, hội này dần dần có chi nhánh ở Âu Mỹ và lân bang Ấn Ðộ. 

Về công đức của Ðại đức Dharmapala quyết nghị của đại hội Phật Giáo Quốc tế lần thứ VI tại Nam Vang đã ghi như sau: 

"Ðại đức Anagarica Dharmapala đã tiên phong hướng đạo phục hưng Phật Giáo Ấn Ðộ, và củng là vị pháp sư đầu tiên tới thăm các nước Âu Châu và Mỹ Châu. Nhờ con đường mà công trình hoằng pháp mới được vạch rỏ tại các nước Âu Mỹ như chúng ta đã nhận thấy ngày nay...'' 

Ðồng thời với sự chấn hưng Phật Giáo ở Ấn Ðộ trong các nườc trước kia chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Ðộ và nằm trong khối Tiểu-thừa Phật Giáo như Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan ...củng có những luồng sinh khí mới đem lại cho nền Phật Giáo cổ truyền một sắc thái mới mẻ,trong sáng và hùng mạnh. 

2.- Phật Giáo Miến Ðiện. -Hiện nay ở Miến Ðiện Phật Giáo được xem là quốc giáo. Từ 1948,sau khi thu hồi độc lập, chánh phủ Miến Ðiện và vị thủ tướng (ông U Nu) là một Phật tử, nhiều kế hoạch dự trù chấn hưng Phật Giáo đã được thực hiện. Chính phủ đã cho xây dựng khắp nơi trong nước nhiều Phật học viện nhiều trường Trung, Ðại học Pali, tổ chức những cuộc thi giáo-lý và triệu tập nhiều đại hội Phật Giáo quan trọng . 

Năm 1954, đại hội tu chỉnh kinh điển Phật Giáo lần thứ VI được tổ chức tại Miến với sự tham dự của 2500 bậc danh tăng ở các nước Tích Lan, Cam Bốt, Ai Lao, Thái Lan, Ấn Ðộ, Hồi Quốc...để trùng duyệt lại tất cả những bản kinh Pali. Ðây là một công tác trọng đại không riêng gì Phật Giáo Miến Ðiện mà chung cho Phật Giáo Thế giới. 

3.- Phật Giáo Tích lan. Tích lan cũng là một xứ mà Ðạo Phật rất thạnh hành. Dân chúng hầu hết là Phật tử. Số tu sĩ trong nươc rất đông và có ảnh hưởng rất lớn trong quần chúng cũng như trong chính quyền. Năm năm sau trận chiến Thế giới chấm dứt 1950), chính Tích lan là nước đứng ra triệu tập một đại hội Phật Giáo Thế giới gồm trên 500 đại biểu thuộc 26 quốc gia Phật Giáo tại thủ đô Cô Lôm Bô (Colombo). Chính trong đại hội này, tổng hội Phật Giáo Thế giới được thành lập, và một ban chấp hành đã được bầu cử, mà chủ tịch là một vị học giả Phật tử Tích lan, Bác sỹ Malalasekera. 

4.- Phật Giáo Thái Lan. Cũng như Miến Ðiện, Phật Giáo Thái Lan được xem như quốc giáo, vị Trưởng lão Tăng thống (vua Sãi) là người có một ảnh hưởng tinh thần và được tôn trọng hơn cả Quốc Vương. 

Hiện nay Thái Lan có phỏng chừng trên 20000 ngôi chùa và 200000 tỳ kheo và Sadi. So với hai mươi triệu dân Thái Lan, thì số tu sĩ như thế củng là một tỷ lệ rất cao, cứ 100 người dân thì có một tu sĩ 

Nhưng cái đà phát-triển vẫn đang còn mạnh, nhiều ngôi chùa đồ sộ đang được xây cất và nhiều thanh niên đang theo tập môn tham thiền trong các thiền viện. Hiện nay, Thủ tướng Thái Lan vừa ra một dự án và đã được toàn thể nội các chấp thuận là thành lập những cơ sỡ thích đáng dành cho các Tỳ kheo ngoại quốc để họ đủ phương tiện đến tu học Phật pháp. 

5.- Phật Giáo Cam Bốt: Phật Giáo Cam Bốt từ xưa đã là một quốc giáo. Từ kinh đô cho đến thôn xóm hẻo lánh xa xôi, màu vàng của các ngôi chùa và các tấm y của tu sĩ chói rực khắp nơi. Ðời sống đạo lý và đời sống thường nhật của dân gian đã ăn nhịp một cách khăn khít. Củng như ở Miến Ðiện, ở Thái Lan, ở Cam Bốt cứ mỗi năm vào đầu mùa mưa, các thanh niên có lệ vào tu ở các ngôi chùa một thời gian, dài hay ngắn tùy thuộc ý nguyện của mình,. Cái tục lệ quý báu này, không chỉ có người thường dân thi hành mà ngay cả các vị vua nữa. 

Từ ngày thu hồi đọc lập, Chính phủ Cam Bốt đặc biệt chú tâm phát-triển và chấn hưng Phật Giáo. 

Theo gót các nước đàn anh Phật Giáo, Cam Bốt cũng vừa tổ chức tại Nam Vang đại hội Phật Giáo Thế giới lần thứ VI và nhiều thành quả tốt đẹp đã thu được trong kỳ đại hội này. 

Trên đây là đại khái về phong trào chấn hưng và phát triển Phật Giáo ở các phái theo Tiểu Thừa hay Nam tông. Tiếp theo đâ, chúng ta sẽ nhận xét phong trào chấn hưng và phát triển Phật Giáo ở các nước theo Ðại Thừa hay Bắc tông.

 

II.- Sự Chấn Hưng Phật Giáo Ở trung Hoa Và các Nước Lân Bang: 

1.-Phong trào chấn hưng Phật Giáo ở Trung Hoa: Như chúng ta đã biết, vào cuối đời nhà Thanh, Phật Giáo ở Trung Hoa đã suy đồi rất nhiều: Mê tín dị đoan đã thâm nhập một cách trầm trọng vào các thiền môn. Tăng ni, cũng như tín đồ ít ai hiẻu rõ giáo lý cao siêu của đức Phật, nên Phật Giáo cũng bị người ta liệt vào hàng các tà đạo có nguy hại cho đời sống xã hội quốc gia. 

Ảnh hưởng của văn minh Tây âu bắc đầu vang dội trong nước. Một phong trào rộng lớn bài trừ mê tín dị đoan nổi dậy trong toàn quốc. Các chùa chiền phần nhiều bị đổi ra làm trường học hoặc các việc công ích xã hội khác ! 

May sao, một số học giả Trung Hoa có tinh thần quốc gia, nhận thấy phải làm một cuộc thanh lọc trong nền văn minh Ðông phương, để chọn những cái hay thì giữ lại,và những cái dỡ thì bỏ đi. Sau cuộc tìm tòi, tra cứu ấy, các nhà nghiên cứu đồng thanh tán dương giá trị chân chính cao siêu của Phật Giáo. 

Từ khi cách mạng Tân Hợi (1912) nổi lên lật đổ nhà Thanh và lập nên Dân quốc, thì phong trào học và nghiên cứu Phật Giáo càng tăng. Nhờ thế Phật Giáo trở nên thịnh hành và phát triển mạnh.  

Trong mấy năm đầu của nền Dân quốc có Ngài Kỉnh Sơn cùng các đồng chí sa môn và cư sĩ đứng lên sáng lập Trung quốc Phật Giáo Tổng hội. Các cư sĩ ở Thượng Hải cũng lập Phật Giáo cư sĩ lâm, Phật Giáo tịnh nghiệp xã. 

Về sau các vị Tăng già và cư sĩ tiếp tục mở ra ở nhiều nơi những Phật học viện, hay những giảng đường như: Giảng đường chùa Quán Tôn ở Ninh Ba (Chiết Giang) do ngài Ðế Nhàn pháp sư chủ giảng; ở Vũ xương (Hồ Bắc) có Phật học viện do ngài Thái Hư Pháp sư chủ giảng; ở Giang Tô có Hoa Nghiêm học viện, ở Nam Kinh có Nội học viện do Âu Duơng Vĩnh Vô chủ giảng. 

Cùng một lần với sự thành lập các Phật học đường nói trên, nhiều tạp chí Phật Giáo của nhóm nghiên cứu đã được xuất bản ở khắp nước để hoằng dương giáo nghĩa như Phật học tùng báo, Hải triều âm, Cư sĩ lâm san, Tịnh nghiệp nguyệt san, China nội học, Oai âm, Vi Diệu Thanh, Phật Giáo Tân văn... 

Trong số các vị đề xướng phong trào chấn hưng Phật Giáo ở Trung Hoa, người đã có công đức và ảnh hưởng lớn nhất là Ngài Thái Hư pháp sư. Pháp sư là một vị cao Tăng học rộng, hiểu nhièu và rất hăng hái với các hoằng dương chánh pháp. Ngài đã đi giảng về Phật pháp khắp nơi trong nước và sang tận Âu Mỹ để giới thiệu Ðại Thừa Phật Giáo cho người Tây Phương. Ngài viết rất nhiều sách nói về đạo Phật và đứng chủ trương tờ Hải triều âm là một tạp chí rất có giá trị. Những họat động Phật sự của Ngài không những chỉ gây ảnh hưởng lớn lao quý báu cho Phật Giáo Trung Hoa mà còn lan rộng ra các nước lân bang như Việt-Nam, Nhật Bản và sang tận đến Âu Mỹ. 

2.- Phật Giáo ở Nhật Bản: Nhật Bản chịu ảnh hưởng của Ðại-thừa Phật Giáo Trung Hoa truyền sang từ lâu đời, và là nước có một nền Phật Giáo mạnh nhất trong các nước theo Ðại-thừa. Ngọai trừ một số người theo ngoại đạo và Thiên Chúa Giáo, còn đa số dân chúng đếu là Phật tử thuần thành. Chùa chiền được các đời vua chúa trong quá khứ xây dựng rất nhiều khắp trong nước, và ngày nay các thắng cảnh có tiếng nhất ở Nhật Bản đều là những danh lam. Người Nhật lấy làm hãnh diện về kiến trúc và vẽ đồ sộ của danh lam ấy lắm, cho nên người khách ngọai quốc nào đến nước Nhật cũng được đem giới thiệu các cảnh chùa chiền trước hết. 

Về phần giáo lý thì Ðạo Phật ở Nhật cũng chia ra làm nhiều Tôn phái như ở Trung Hoa. Nhưng các Tôn được thịnh hành nhứt là Thiên Tôn, Pháp Hoa Tôn và Pháp Tướng Tôn . 

Ðạo Phật Nhật Bản trong quá khứ đã có một thành tích rất vẽ vang mà hiện nay vẫn còn rực rỡ. Trong buổi giao thời tiếp xúc với Âu Tây, trong khi Ðạo Phật ở các nước Á Ðông đều có một giai đoạn suy đồi, thì Ðạo Phật ở Nhật Bản vẫn giữ được uy thế của mình trong toàn quốc. Và ngày nay, với một tinh thần biết dung hòa cải tiến, biết tồn cổ mà cũng biết nghinh tân, nên Ðạo Phật Nhật Bản vẫn đi theo kịp cái đà tiến bộ chung của toàn quốc và giữ giềng mối cho luân thường đạo đức ở trong nước. Chúng ta chắc rằng rồi đây, sau khi các nước Phật Giáo ở Á Châu được dịp tiếp xúc và thông cảm với nhau nhiều hơn nữa, thì Nhật Bản sẽ là nước xứng đáng đứng ra lãnh nhiệm vụ lãnh đạo phong trào Phật Giáo Thế Giới.

 

III.- Sự Truyền Bá Phật Pháp Ở các Nước Châu Mỹ 

Từ khi tiếp xúc với Á Châu, người Tây phương bắt đầu khảo cứu nền văn minh cổ của châu này và khám phá ra rằng văn hóa Á Châu không phải tầm thường như họ lầm tưởng lúc đầu, mà trái lại có nhiều điểm quý giá cần học tập. Trong kho tàng quý báu ấy, Ðạo Phật đã phát chiếu ra nhiều hào quang rực rỡ. Do đó, các học giả Tây phương đã đổ xô sang nghiên cứu giáo-lý nhà Phật và đã viết rất nhiều tác phẩm về đạc Phật. Dần dần Ðạo Phật không còn xa với quần chúng Âu Mỹ nữa. Mở đầu phong trào học Phật là những học giả người Anh, tiếp xúc nhiều với Á châu. Sau đó, họ thành lập những hội Phật học và xuất bản những tạp chí nói về Phật pháp. Những hội này có rất đông hội viên thực hành rất hăng hái . Hiện nay ở Âu châu và Mỹ châu hầu hết các nước đều có hội Phật- học, báo chí truyền bá Phật -pháp, những chùa hay thiền-viện để các tín đồ hay hội viên đến tập tham thiền. Có người sang ngay ở các nước Phật Giáo Á châu như Ấn Ðộ, Tích lan, Thái lan để xuất gia cầu đạo. 

Trong các đại hội Phật Giáo thế giới Phật-tử Âu Mỹ đều có đại diện của họ và đã tỏ ra là những Phật-tử thuần thành. 

Nhũng bằng chứng cụ thể trên, cho phép chúng ta hy vọng rồi đây đạo Phật sẽ bành trướng mạnh mẽ ở Âu Mỹ và đem lại cho các dân tộc ấy một nguồn an lac mà họ không tìm thây ở nền văn minh cơ khí họ đã sáng tạo ra.

 

IV.-Các Ðại Hội Phật Giáo Thế Giới 

Nhân loại càng tiến bộ, sự giao thông càng dễ dàng mau lẹ, thì các dân -tộc trên thế giớ không còn lạ lùng xa cách với nhau nưã. Ðạo Phật ngày nay đã thành một tôn giaó có tầm hoạt động khắp thế giới, thì người Phật tử, dù ở chân trời nào cũng vẫn là anh em một nhà, cùng thờ một bậc thầy chung là đức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Nhiều kỷ niệm thống nhất những hoạt động và những tổ chức Phật Giáo đã manh nha từ trước trận thế chiến thứ II mới thực hiện được. 

Ðại hội Phật Giáo thế giới đầu tiên đã được triệu tập vào năm 1950 tại Cô-Lôm Bô, kinh đô Tích -lan, gồm gần 500 đại biểu của 26 quốc gia và tổ chức Phật Giáo trên thế giới. Ðại hội ấy đã đặt nền tảng cho tổng hội Phật Giáo thế giới và đã bầu ra một ban chấp hành chung cho cả thế giới Phật Giáo. Một nội quy của tổng hội đã được biểu quyết và trụ sở của văn phòng ban chấp hành đã đặt ở Cô-lôm-bô. Sau đại hội vài tháng, bác sĩ Malaláekera chủ tịch Tổng hội đã đi thăm các nước Phật Giáo hội viên, và hai tờ tạp chí Phật Giáo của Tổng hội được phát hành trên thế giới là tờ: New Letter và The Buddhist World. 

Từ đại hội đầu tiên ấy đến nay, cứ hai năm lại có một đại hội khác, mà địa điểm tuần tự thay đổi như sau: 

-Năm 1952, đại hội kỳ II, họp tại Tokyo, kinh- đô Nhật Bản, mà mục tiêu chính là quyết-định thống nhất hoạt động và các hình thưc Phật Giáo trong các nước hội viên. 

Năm 1954, đại hội kỳ III họp tại Rangoon, kinh đô Miến-Ðiện, cùng một lần với đại hội kết tập Tam tạng kinh điển kỳ thứ VI, từ khi đức Phật nhập diệt đến nay. 

Năm 1956, đại hội thứ IV họp tại Kathmandu , thủ đô Népal , nơi đức Phật đã giáng sinh, nội dung của đại hội này là thảo luận về văn hoá Phật Giáo: triết-lý, văn chương, nghệ thuật.. 

Năm 1958, đại hội kỳ thứ V họp tại Bangkok, kinh đô Thái-lan, mà chương trình nghị sự là duyệt lại bản nội quy của Tổng hội. 

Năm 1961, đại hội kỳ thư VI họp tại Nam vang, kinh đô Cam bốt. Trong đại hội này, 21 quyết nghị đã được chấp thuận, trong ấy có nhiều quyết nghị rất quan trọng như vấn đề phát triển văn hóa và giáo lý trong các nước Phật Giáo, thành lập một học viện Phật Giáo Á châu, nhằm mục đích tương trợ, cung cấp tin tức và tài liệu, huấn luyện cán bộ các nghành hoạt động của Phật Giáo bảo vệ hòa bình thế giới và tín đồ Phật Giáo v.v.. 

Ngoài những đại hội có tính cách thường kỳ nói trên, các nước Phật Giáo Á châu còn thi nhau tổ chức rất trọng thể và có mời đại biểu quốc tế đến dự những lễ kỷ niệm 2.500 năm đức Phật nhập niết bàn, như ở Ấn Ðộ, Nhật -bản, Tích lan, Miến-Ðiện v.v..

 

V.-Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo Ở Việt Nam 

1.-Sự phát triển của phong-trào ở Nam, Trung, Bắc.- Noi gương thế giới, và nhất là Trung -Quốc, một phong trào chấn hưng Phật Giáo đã nỗi lên tại Việt nam vào khoảng năm 1920. Lúc đầu chỉ là những cố gắng lẻ tẻ của một số quý vị Tăng già lão thành trong nước, mong giữ lại một ít giềng mối của đạo. Ở Bắc có sư cụ Vĩnh Nghiêm (Thanh Hạnh) sư cụ Tế Các (Phan Trung Thứ) sư cụ Bằng Sở (Dương Văn Hiển); ở trung có Ngài Tâm-Tịnh , Ngài Huệ Pháp, Ngài Phước-Huệ; ở Nam có Ngài Khánh-Hòa, Ngài Huệ Quảng, Ngài Khánh Anh, lại có sáng kiến mở trường dạy một số đệ tử với mục đích gây giống đạo pháp cho thế hệ sau. Ðồng thời, các học giả có tiếng tăm trong nước như ông Phạm Quỳnh, cụ Trần-Trọng-Kim ..cũng có viết nhiều bài nghiên cứu về giáo lý đạo Phật rất có giá trị. 

Tuy nghiên, phải đợi đến năm 1931, những cố gắng lẻ tẻ trên mới kết hợp thành lực lượng có tổ chức. Ðầu tiên một hội Phật học được thành lập tại Sài gòn lấy tên là Nam Kỳ nghiên cứu Phật học; kế đó là hội Lưỡng Xuyên Phật học. Những vị có công khởi xướng cái tên hội này là Khánh Hòa, Ngài Huệ Quang, Ngài Khánh Anh cùng một số quý vị Tăng già và Cư sĩ tân tiến. 

Năm 1932, ở Trung kỳ các Ngài Giác Tiên, Phước Huệ và một nhóm Cư sĩ Tân Hồng mà đứng đầu là đạo hữu Tâm Minh Lê Ðình Thám đã thành lập Phật học hội mà hội quán là chùa Từ Ðàm. 

Năm 1934, ở Bắc kỳ có thượng tọa Tố Liên, thượng tọa Trí Hải, cụ Nguyễn Năng Quốc, Trần Trọng Kim cùng một số quý vị Ðại đức và Cư sĩ lầp ra Phật giáo Tổng Hội. 

Những hội trên đây đều có mục đích và chương trình họat động giống nhau: Chỉnh đốn Thiền môn, vãn hồi quy giới, đào tạo một thế hệ thanh niên tu sĩ chân chính, hữu học và hoằng dương chính pháp. 

Ðể đạt được mục đích trên, các hội đều mở đạo trường cả. Ở Bắc, có trường Tăng học ở chùa Quán sứ, trường nhiều ở chùa Bồ đề; ỞTrung có Phật học viện chùa Tây Thiên và chùa Bảo Quốc, trường Ni ở chùa Diệu Ðức; ở Nam có Phật hoc viện Lưỡng Xuyên (Trà Vinh) trường Ni ở chùa Vĩnh Bửu (ở Thơm). 

Ngoài ra, các hội còn xuất bản những tạp chí để hoằng dương Phật pháp, như tờ Ðuốc Tuệ ở Bắc, tờ Viên âm ở Trung, tờ Pháp âm, tờ Từ bi âm, Duy Tâm ở Nam. Những hội này được tín đồ nhiệt liệt hưởng ứng và bành trướng rất mau lẹ, chẳng bao lâu mỗi tỉnh trong nước đều có chi nhánh của hội. Nhờ sự hưởng ứng ấy mà các hội đã xây dựng thêm cơ sở , mở mang thêm nhiều Phật học viện, xuất bản thêm kinh sách, báo chí. 

Nhưng trong khi phong trào chấn hưng Phật Giáo đang lên, thì trận thế chiến thứ 2 bùng nổ và tiếp theo là trận chiến tranh Việt-Pháp làm gián đọan các sự hoạt động của các hội Phật học trong nước. 

2) Tổng hội Phật Giáo Việt-Nam. Ðến năm 1948, mặc dù chiến tranh Việt-Pháp chưa ngưng tiếng súng, nhưng vì nóng lòng vì Ðạo pháp và để đem lại cho đồng bào một niềm an ủi trong cảnh tang thương chết chốc do chiến tranh gây ra, những nhà lãnh đạo Phật Giáo ở trong các vùng bị quân đội Pháp chiếm đóng, tích cực hoạt động để chỉnh đốn để phát triển những cơ sở của các hội đã bị chiến tranh tàn phá. 

Ở Hà Nội các thượng tọa Tố Liên, Trí Hải với sự giúp đỡ của một nhóm cư sĩ tận tâm vì Ðạo, đã làm sống dậy phong trào chấn hưng Phật Giáo và đem lại một sắc thái mới, chú trọng nhiều về các công tác từ thiện và xã hội, như lập cô nhi viện, tư thục, các cơ quan từ thiện cứu trợ nạn nhân chiến tranh. 

Ở Huế cũng vậy, quý vị Tăng già và một nhóm cư sĩ đã hợp tác chặt chẽ để sữa sang lại các ngôi chùa đã bị đỗ nát vì chiến tranh, đứng lên qui tụ những tín đồ và hội hữu đã tản mác vì thời cuộc, lập lại các tỉnh hội, các khuôn hội Phật học và đặc biệt phát triển nghành gia đình Phật tử là một tổ chức giáo dục thanh, thiếu niên Phật tử, để làm hậu thuẩn cho Phật Giáo ngày mai... 

Ở Việt-Nam các vị Tăng già và cư sĩ chung nhau thành lập hội Phật học Việt-Nam. Mặc dầu ở trong những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, các hội nói trên đã phát triển một cách mau lẹ, mạnh mẽ và được sự tín nhiệm của đồng bào nói chung, và nhất là của giới tín đồ Phật tử nói riêng. Trong khoảng vài năm, các hội ấy đã xây dựng thêm được nhiều hội quán, mở nhà in, phòng phát thuốc, thư viện, phát hành các cơ quan ngôn luận, kinh dịch ... 

Ðồng thời với các hội nói trên, các giáo hội Tăng già cũng tuần tự được tổ chức có qui cũ, tập trung được nhiều vị tăng tài, có thực tu; thực học và do đó đã gây được sự tín nhiệm lớn trong hàng Phật tử và lấy lại cái địa vị và trọng trách lãnh đạo tín đồ mà đức Phật đã giao phó. 

Các hội cư sĩ và các Giáo hội Tăng già đã được chỉnh đốn và có thực lực ở Bắc, Trung, Nam ba miền, nhưng chưa có cơ hội thuận tiện để thống nhất ý chí và hành động, mặc dù ý niệm thống nhất đã manh nha từ lâu trong đầu óc những nhà lãnh đạo Phật Giáo. 

Nhưng cái gì phải đến, sẽ đến. Ngày 6-5-1951 một đại hội toàn quốc đã được triệu tập tại chùa Từ Ðàm ở Huế, gần 51 đại biểu Tăng già và cư sĩ của 6 tập đoàn ở ba miền (3 tập đoàn Tăng già và 3 tập đoàn cư sĩ) để thành lập ''tổng hội Phật Giáo Việt-Nam '' và bầu ban chấp hành Trung ương cho hội Phật Giáo toàn quốc, hay ban ''quản trị Tổng hội Phật Giáo Việt-Nam ''. 

Hiện nay, Tổng hội Phật Giáo Việt-Nam là đoàn thể quan trọng nhất ở Việt-Nam có tổ chức chặt chẽ hơn hết, theo đúng tinh thần của đạo Phật và qui tụ trên một triệu hội viên. 

Tổng hội Phật Giáo Việt-Nam cũng là hội viên sáng lập của Tổng hội Phật Giáo Thế giới, thành lập năm 1950 tại Columbo và đã cử đại biểu đi tham dự tất cả các khóa họp của Tổng hội Phật Giáo Thế giới. Tổng hội Phật Giáo Việt-Nam gồm các ngành hoạt động sau đây: Hoằng Pháp, Giáo dục, Văn mỹ nghệ, Thanh niên, Nghi lễ, Từ thiện xã hội...(1)

 

C.-Kết Luận: 

Từ thuở đức Từ phụ nhập Niết bàn đến nay đã trên 25 thế kỷ rồi mà mặt trời chánh pháp, mặc dù đôi khi bị đám mây đen lướt qua, nhưng vẫn chiếu sáng toàn cõi đại địa. Riêng ở Việt-Nam đã được ánh sáng ấy chiếu đến gần 20 thế kỷ. Trong lịch sử Việt-Nam, những giai đoạn Phật Giáo thịnh hành là quốc gia được tự chủ, độc lập và hùng cường. Ngày này Phật Giáo Việt-Nam đã được phục hưng, ánh sáng lại rực rỡ thêm. Ðây là tin lành báo trước cho dân tộc Việt-Nam. 

Chúng ta tin chắc với cái đà tiến triển như hiện nay, phong trào Phật GiáoThế giới nói chung và Phật Giáo Việt-Nam nói riêng sẽ còn dâng cao, bủa rộng hơn nữa. Chúng ta có đủ lý do để tin tưởng như vậy, vì Phật Giáo không trái với khoa học ngày nay, mà còn là một nguồn an ủi, một suối yêu thương rất cần thiết cho nhân loại. 

------------- 

(1):Tập sách này soạn trước khi Giáo hội Phật Giáo Việt-Nam thống nhất ra đời 

Trở Lên

Bài Thứ 6 
Mười Tông Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa 

 

Không phải riêng gì Ðạo Phật, tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, theo với thời gian và sự phát-triển, đều có chia ra nhiều tôn phái. Sự phân phái ấy là một lẽ đương nhiên phải có để cho các căn cơ và hoàn cảnh khác nhau đều có thể thích hợp được. Nếu không, thì đạo không thể phát-triển được về bề sâu cũng như bề rộng. Hơn một tôn giáo nào cả, Ðạo Phật không có những giáo điều thần khải, không có một tinh thần rắn chắc, gò bó trong những hình thức hẹp hòi, câu nệ, mà trái lại, rất phóng khoáng, tự do, dễ khoan hòa, dung hiệp, nên Ðạo Phật đi đến đâu cũng có thể phát-triển đúng theo căn cơ và hoàn cảnh riêng biệt ở địa phương ấy. Do đó, mà Ðạo Phật có rất nhiều màu sắc riêng biệt khi lan tràn trên các nước. 

Riêng ở Trung Hoa, Ðạo Phật đã có chia mười tôn phái. Trong mỗi tôn phái đều có đặc điểm riêng, nhưng không bao giờ vượt ra ngòai giáo pháp của Phật cả. Những tôn phái này cũng như những con đường khác nhau, có đường thẳng đường cong,đường cao đường thấp, đường rộng đường hẹp, nhưng con đường nào cũng đưa đến một mục đích chung cả. Hành giả tùy theo trình độ, trí thức, khả năng, sở thích riêng mà lựa chọn con đường nào thích hợp với mình nhất để tu tập. Có như thế thì sự tu hành mới chóng có kết quả. 

Mười tôn phái ở Trung Hoa là: Luật tôn, Tịnh độ tôn, Thiền tôn, Pháp tướng tôn, Mật tôn, Thiên thai tôn, Hoa nghiêm tôn, Tam luận tôn, Câu xá tôn và Thành thật tôn. 

Trong 10 tôn này, Câu xá tôn và Thành thật tôn chủ trương về Tiểu Thừa; Luật tôn và Thiền tôn thông cả Ðại và Tiểu Thừa, còn 6 tôn kia thuộc về Ðại Thừa. 

Nghĩa lý của các tôn rất mầu nhiệm kinh điển cũng rất nhiều, muốn hiểu cho thấu đáo, cần phải chuyên môn nghiên cứu, công phu trong nhiều năm trong phạm vi của khóa Phật học phổ thông này, chúng ta không thể đi sâu vào mỗi tôn được. Ở đây, chúng ta chỉ nên biết qua đại khái về giáo lý và làm quen với danh từ các tôn ấy, để có chổ nhập môn mà thôi. Sau này, khi học cao hơn, chúng ta sẽ đi sâu vào từng tôn phái một và sẽ tùy theo căn cơ sở thích của mình mà lựa một trong những tôn ấy để tu hành.

 

I.- Luật Tông 

Duyên Khởi Lập Tông: Tôn này dùng luật làm chỗ căn cứ nên gọi là Lụât tôn. Ðức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà chế ra nhiều lọai giới luật để răn dạy đệ tử, hóa độ chúng sinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, các đệ tử của Ngài,như Ngài Ưu-Ba-Li là vị tinh thông về giới luật đứng trên pháp tọa trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, đã tụng đọc lại những giới luận mà Ðức Phật đã chế ra. Lần kết tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên Ngài Ưu-Ba-Li phải đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi người trong hội đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên là "Bát thập tụng luận". Về sau,tuần tự theo thời gian, nguyên thủy Phật giáo lần hồi chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo một bộ lụât riêng. Trong số các bộ luật này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều nhất là các bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng kỳ, Ngũ phần. 

Những bộ luật này được truyền sang Trung Hoa và được phiên dịch ra Hán văn. Ðến đời Ðường, Ngài Trí Thủ luật sư chú giải các bộ ấy, và đệ tử của Ngài là Ðạo Tuyên luật sư, nhận thấy trong các bộ ấy, bộ luật Tứ phần là thích hợp căn cơ người Trung Hoa, nên đã căn cứ vào luật này để lập ra Luật tôn. Ngài Ðạo Tuyên là người ở Chung nam sơn, nên người đời gọi tôn này là "Chung nam sơn" để phân biệt với các Luật tôn khác, như của các Ngài Pháp Lệ bên phái Hữu tướng bộ,hay Ngài Hoài Tố ở Ðông pháp.  

Trong các Tôn này, chỉ có Luật tôn của Ngài Chung nam sơn là thịnh hành hơn hết và được truyền bá cho đến bây giờ, vì nó trung hòa cả Ðại Thừa lẫn Tiểu Thừa.

 

II.-Tôn Chỉ Và Ðặc Ðiểm Của Luật Tông 

Phàm một tổ chức, một công viếc gì đúng đắn cũng đều phải tuân theo những quy luật nhất định. Hơn tất cả, sự tu hành lại càng phải tuân theo những giới luật nghiêm minh. Như chúng ta đã biết trong phần giáo lý căn bản, nghiệp là động lực chính của vũ trụ nhân sinh. Nghiệp định đoạt tất cả đời sống chúng ta. Nghiệp có ba loại: Nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói và nghiệp của ý nghĩ. Nếu những nghiệp ấy được thanh tịnh, không tạo ra các điều ác, thì ta không thọ quả báo sinh tử luân hồi. Không có quả báo sinh tử luân hồi thì tất nhiên là được giải thoát. Muốn các nghiệp được thanh tịnh thì ta phải giữ gìn giới luật, chính là một phương pháp tu hành trong nhiều phương pháp mà Phật đã chia ra. Phương pháp này rất thiết thực và rất hiệu nghiệm đối với Phật tử chúng ta: 

-Giữ giới không sát nhơn hại vật, hiện người không làm người hung dữ, khỏi bị tù tội, về sau khỏi bị đọa trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, và khỏi bị người giết haị, đó là tu. 

-Giữ giới không trộm cướp thì hiện thời làm người lương thiện khỏi bị giam cầm xiềng xích, đời sau không mắc quả báo, bị người giựt của cướp nhà, đó là tu. 

-Giữ giới không tà dâm, hiện thời thành người tốt, gia đình mình và người không bị rầy rà, đánh đập, khổ sở vì ghen tương, đó là tu. 

-Giữ giới không nói dối, không nói láo xược, thèo lẽo, thêm bớt, đâm thọc, không nói hung ác và thô tục, thì không bị người khinh khi, lại được sự kính trọng, đó là tu. 

-Giữ giới không cờ bạc, hút xách, rượu chè, thì khỏi mất tiền, thiếu nợ, khỏi say sưa, làm điều tội lỗi và khỏi bị người khinh bỉ, trí tuệ tăng trưởng, đo là tu. 

Nói một cách tổng quát, giữ một giới là ngăn ngừa được một điều tội lỗi,và thêm được một điều lành; giữ nhiều giới là ngăn ngừa được nhiều điều tội lỗi và thêm được nhiều điều lành. Bởi thế, nên giữ giới luật là phương pháp tu không xa thực tế và rất cần thiết cho các Phật tử cầu đạo giải thoát. 

Nhờ giữ "giới luật" không làm các việc tội lỗi, nên tâm được "định"; do tâm định nên phát ra "trí huệ sáng suốt". Nhờ có trí huệ sáng suốt nên phá trừ được vô minh si ám, và được minh tâm kiến tâm thành Phật. 

Người tu tại gia có giữ giới, mới thành Phật tử chơn chính. Người xuất gia thọ Sa-di, có giữ giới mới phải là chơn tu. Thầy Tỳ-kheo có giữ giới mới phải là Tỳ-kheo thanh tịnh. Bồ Tát có giữ giới mới phải là chơn Bồ Tát. Bởi thế nên trong ba món vô-lậu học (giới,định,huệ ), "giới" đứng đầu tất cả. 

Tôn này sỡ dĩ lập ra là nhằm vào lợi ích thiết thực và chín chắn của giới luật, như đã trình bày ở trên.

 

III.- Các Loại Giới Luật 

Giới luật có nhiều lọai từng bậc, tùy theo căn cơ, tùy theo giới tu sĩ, tùy theo sự phát nguyện của kẻ tu hành mà áp dụng. Nhưng nói một cách tổng quát thì giới luật có thể phân chia làm hai lọai lớn là: Giới lụât của Ðại Thừagiới luật của Tiểu Thừa

-Những giới luật nào có tánh cách tiêu cực, tự lợi, chỉ có mục đích chính là tránh tội lỗi cho riêng mình là thuộc về giới Tiểu Thừa. Tất nhiên trong khi giữ giới cho riêng mình, thì người khác cũng được lợi như giữ giới không trộm cướp, thì mình được lợi là kềm giữ lòng tham, mà người khác cũng được lợi là khỏi phải bị cái khổ vì tiếc của đã mất. Mặc dù thế, giới không trộm cướp cũng chỉ liệt vào giới Tiểu-thừa, vì trong khi giữ giới, mục đích chính, trực tiếp là giữ cho mình; còn cái lợi cho người chỉ ảnh hưởng gián tiếp của giới ấy. Những giới như: Ngũ giới (5 giới do Phật chế cho người tại-gia), Bát-quan-trai giới (8 giới Phật chế cho người tại gia-tập sống như người xuất gia), Sa-di giới và Sa-di-nhiều giới (10 giới Phật chế cho người mới xuất gia), Thức-xoa (6 điều nữ học giới), Tỳ-kheo giới (250 giới), và Tỳ-kheo nhiều giới (348 giới) là những giới thuộc về phái Tiểu-thừa. 

Những giới luật nào có tánh cách tích cực, nhắm vào mục đích lợi tha hơn tự lợi tì thuộc về Ðại-thừa giới. Những giới thuộc về Ðại-thừa giới như 10 giới trong 48 giới khinh của Bồ Tát, Tam-tụ tịnh giới (gồm có: Nhiếp-luật-nghi giới là giới không làm việc ác, Nhiếp-Thiện-Pháp giới là giới làm việc lành, Nhiêu-ích hữu-tình giới là giới làm ích lợi cho chúng sanh, như làm các việc có tánh cách từ thiện xã hội v.v..). 

Nếu đứng về phương diện hành trì mà phân loại, giới-luật có thể chia làm hai phần lớn: một phần thuộc về chỉ trì, nghĩa là ngăn đứt ác nghiệp, một phần thuộc về tác trì, tức hành động theo thiện-nghiệp. 

1.-Về chỉ trì: có hai bộ giới bổn: 

a.-Tỳ-kheo giới bổn, gồm có 250 giới, chia làm 8 loại là: 1.- Ba-la-di (4 giới), 2.-Tăng-tàng (13 giới), 3.-Bất-định (2 giới), 4.- Xã-đọa (30 giới), 5.- Ðơn-đọa (90 giới), 6.- Ðề-xà-nhiều (4 giới), 7.- Chúng-học (100 giới), 8.- Diệt-tránh (7 giới). Hai trăm năm mươi giới này có thể chia làm tám loại (ngũ thiên), sáu loại (lục tụ) hay bảy loại (thất tụ). 

b.-Tỳ-kheo-nhiều giới bổn, (giới của Tỳ-kheo-nhiều giới gồm có 348 giới, chia làm 7 loại là: 

1.-Ba-la-di (8 giới), 2.- Tăng-tàn (17 giới), 3.-Xả-đọa (30 giới), 4.-Ðơn-đọa (178 giới), 5.-Ðề-xà-nhiều (8 giới ), 6.-Chúng-học (100 giới), 7.-Diệt-tránh (7 giới). Ba trăm mươi bốn tám giới này, có thể chia là bảy loại như trên, nhưng củng có thể làm tùy nghi chia làm năm loại, sáu loại ,bảy loại như bên tăng (1). 

Giới Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-nhiều trên này gọi là Cụ-túc giới, nghĩa là những giới đem lại cho người thọ vô lượng giới-hạnh, phước đức. Nhưng 250 hay 348 giới, chưa phải là nhiều. Ðó chỉ là giới tóm thâu những giới-luật chính, làm giềng-mối cho sự trì phạm mà thôi. Nếu kể cho hết giới-luật thì về "lượng" sánh đồng hư-không, về "cảnh" lại nan khắp cả pháp-giới. Nếu kể về bậc trung, thì bên tăng có đến 3.000 oai nghi, 80.000 tế-hạnh; bên Ni có đến 80.000 oai-nghi và 120.000 tế-hạnh. 

Vì sao Phật lập ra nhiều giới-luật như thế?  

- Vì mỗi một giới là ngăn ngừa tội lỗi, mà con người chúng ta là phàm phu, từ tâm niệm cho đến hành vi, có không biết bao nhiêu điều tội lỗi, nên phải có vô số giới luật để ngăn ngừa. 

2.- Về tác trì, gồm có 20 kiền-độ. 

Kiền độ nghĩa là phẩm loại, điều luật (Khanda). 

20 Kiền độ là: 

Thọ giới Kiền độ 

Thuyết giới Kiền độ 

An cư Kiền độ 

Tứ tự Kiền độ... 

Sự chia ra chủ trì và tác trì là cốt lõi đễ phân biệt trong khi giữ giới, chứ thật ra nói một cách rốt ráo thì trong ''chỉ'' có ''tác'', trong ''tác'' có ''chỉ'', không thể nói một cách dứt khoát được. 

(1) Chúng tôi chỉ giới thiệu những danh từ của các giới luật tăng, ni chứ không nói rõ hơn, vì theo luật Phật, người thọ giới ở cấp bực nào thì chỉ biết giới luật của cấp ấy mà thôi.

 

IV.-Các Danh Từ Và Phương Pháp Thực hành 

Như chúng ta đã thấy ở trên, giới-luật của Phật chế ra rất nhiều; do đó, danh từ chuyên môn và cách thức giữ giới cũng rất phức tạp. Vậy muốn giữ giới được kết quả, trước tiên phải biết những điều sau đây: 

1.-Sao gọi là ''danh, chủng, tánh, tướng''?. 

a.-Danh là tên (danh từ) nghĩa là tên chỉ mỗi giới, như giới bất sát sinh, giới bất thâu đạo.v.v... 

b.- Chủng là chủng loại, hay nhóm; như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới của Tăng, Ni: Ba-la-di, Tăng tàng.v.v.. 

c.-Tánh là tâm tánh, là tánh chất ở bên trong; như người giữ giới, trong tâm niệm không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng v.v.. hoặc thấy người phạm giới cũng không sanh tâm vui mừng hay liên tưởng đến. Giữ gìn tâm tánh ở bên trong được thanh tịnh như vậy, gọi là ''giới tánh''. 

d.- Tướng là hình tướng ở bên ngoài; như bên trong đã không nghĩ đến sát sanh, trộm cướp (tánh giới) .v.v.. mà bên ngoài cũng không làm những điều ác ấy, gọi là ''giới tướng''. 

Tóm lại, mỗi khi phạm một điều tội lỗi, người giữ giới phải biết tội ấy là gì (danh), sát hay đạo .v.v..? thuộc về loại nào (chủng), Ba-la-di hay Tăng tàng.v.v..? thuộc về nội tâm (tánh) hay ngoài thân (tướng)? Và cuối cùng hành giả phải biết tôi ấy, theo luật phải trị phạt thế nào mới được thanh tịnh? 

2.- Sao gọi là '' khai, giá, trì, phạm ''? 

a.- Khai là mở, cho làm. 

b.- Giá là cấm, không cho làm. 

Như khi Phật còn tái thế, Ngài cấm các vị Tỳ Kheo leo lên cây, đó là ''Giá" . nhưng về sau có vị Tỳ Kheo đi vào rừng, bị ác thú rượt, Ngài không dám leo lên cây để tránh, vì sợ phạm giới, và cuối cùng bị ác thú hại. Từ đó, Phật dạy: ''nếu có duyên sự thì được leo cây'', như thế gọi là ''Khai''.  

Một thí dụ thứ 2: người Phật tử phải giữ giới không uống rượu. Ðó là ''Giá''. Nhưng khi bị bịnh nặng, nếu cần rượu để hòa với thuốc, uống mới lành bệnh, thì tạm được dùng. Ðó là ''Khai''. Nhưng trước khi uống, phải bạch với chư tăng. 

c.- Trì là giữ gìn; như khi đã thọ giới rồi mà giữ gìn cho được thanh tịnh thì gọi là ''Trì''.  

d.- Phạm là vi phạm; như đã thọ giới rồi mà không giữ gìn giới thì gọi là ''Phạm''. 

Tóm lại, trong khi tu hành giữ giới-luật, hành giả luôn luôn quan sát mỗi hành vi hàng ngày của mình xét xem một cách sáng suốt, thế nào là ''Trì'', thế nào là ''Phạm''; trong trường hợp nào, và giới nào được ''Khai''; Trong trường hợp nào, và giới nào không được ''Khai''.v.v.. nói một cách tổng quát khi đã thọ giới rồi thì phải ''Trì''. Nếu không ''Trì'' là ''Phạm''. Tuy thế nếu vì lòng từ bi, vì lợi ích chung, hay vì trí huệ thúc đẩy, thì có thể ''Khai'' mà không phạm tội. Nhưng nếu vì tâm nhiểm ô, vì phiền nảo thúc đẩy mà ''Khai'' là ''Phạm''. 

3.-Sao gọi là ''chỉ trì, tác phạm và tác trì chỉ phạm''? 

a.- Chỉ trì là nói về phương diện các điều ác, quyết giũ gìn không gây tội lỗi. 

b.- Tác phạm là nói về phương diện các điều ác, đáng lẽ phải giữ gìn, mà lại không giữ được, cho nên phải phạm tội lỗi.  

c.- Tác trì là nói về phương diện các điều thiện, cần phải làm, là không phạm giới. 

d.- Chỉ phạm là nói về phương diện các điều thiện, nếu đình chỉ không làm, là phạm giới.  

Thí dụ: về tội ăn trộm, nếu không làm là chỉ trì, nếu làm tác phạm. Trái lại, về hạnh bố thí, nếu làm là tác trì, nếu không làm là chỉ phạm. 

4.- Sao gọi là '' tánh tội và giá tội, hay tánh giới và giá giới''?. 

a). Tánh tội là tội sẳn có trong bản tánh chúng sanh, như sát, đạo, dâm, vọng. Bốn tánh này có sẳn trong tâm tánh chúnh sanh từ vô thỉ đến nay, hể có chúng sanh lá có chúng nó. Mỗi người, không cần ai dạy bảo, không cần học tập, mà ai cũng đều biết sát, đạo, dâm, vọng. Vì thế cho nên gọi là tánh tội. 

b). Giá tội là tội không sẵn có trong bản tấn nhưng do hoàn cảnh, do tập nhiễm mà phát sinh; như tội uống rượu chẳng hạn. Nói một cách tổng quát, ngoài bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng, còn bao nhiêu tội khác là giá tội cả. 

c). Tánh giới là để ngăn ngừa bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng. Giới này rất quan trọng, nhưng củng rất khó giữ. Giữ được bốn giới này thì sư tu hành tất sẽ kết quả và con đường giải thoát chắc chắn sẽ chờ đón hành giả.  

d). Giá giới là giới để ngăn ngừa tội lỗi do hoàn cảnh là huân tập mà phát sinh. Những giới này ít quan trọng hơn tánh giới nói trên. Nhưng muốn giữ được tánh giới một cách ít khó khăn, phải cần giữ giá giới. Như người muốn đốn cây lớn, trước tiên phải chặt ngành ngọn; như người dùng binh giỏi, trước khi muốn chiếm một đô thị lớn, phải ngăn chặn các con đường đi vào đo thị ấy. 

 

V.-Kết Luận 

Như chúng ta đã rỏ, mục đích của giáo pháp mà Ðức Phật chỉ bày cho chúng ta là để được minh tâm, kiến tánh, và thành Phật. Tất cả các tôn phái, mặc dù có chủ trương và đặc điểm khác nhau, nhưng mục dích cuối cùng đều là một: Giác-ngộ và thành Phật. 

Luật tôn củng không đi ra ngoài mục đích trên, mặc dù phương pháp có khác phần nhiều các tôn khác thì phải hiểu rồi mới tu; Luật tôn trái lại chủ trương; hãy tu đi rồi sẽ hiểu, hảy giữ gìn giới luật phải nghiêm chỉnh, thì tâm sẽ định tĩnh, thanh tịnh; tâm đã thanh tịnh thì trí huệ sẽ sáng suốt, chân tâm sẽ hiện bày, Phật tánh sẽ phát lộ. 

Thật là một chủ trương rất thiết thực, mà kết quả lại chắc-chắn ! Những kẻ học rộng biết nhiều mà không giữ giới củng chẳng khác gì đèn trước gió, có thể sáng lắm, nhưng không biết sẽ tắt khi nào. Trái lại kẽ học ít biết hẹp mà giữ giới một cách chân thật, thì củng như ngọn đèn có ống khói, khi mới thắp thì lu, nhưng không tắt thì càng cháy lâu cáng sáng tỏ. 

Vì những lí lẽ trình bày ở trên, Luật tôn đều phải thích hợp với mọi căn cơ, nhất là với những căn cơ chậm lụt. Ở đời chúng ta thường thấy phần nhiều những người có căn trí lanh lẹ, hiểu nhanh biết lẹ, nhưng vì hay ỷ sức mình , không chịu đặt mình vào khuôn phép kỷ luật, nên cuối cùng, chẳng thu hoạch được kết quả gì tốt đẹp cả. Trái lại, những kẻ có căn trí tầm thường, nhiều khi chậm lụt nữa , nhưng lại dễ thành công trên đường đời củng như trên đường đạo, vì họ biết thủ phận chịu khó khép mình vào kỷ luật, không tự mãn, tự cao. Những đệ tử của Phật, có ai có một địa vị xã hội hạ tiện (đi gánh phân) và một căn trí thấp thỏi như Ngài Ưu-Ba-Li !Thế mà Ngài Ưu-Ba-Li lại trở thành một đệ tử của Phật, đã thành một bậc hiền thánh, chỉ vì đã nghiêm trì giới luật! Chúng ta đây, địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém Ưu-Ba-Li, lẻ nào chúng ta không thu hoạch được thành quả tốt đẹp như Ngài , nếu chúng ta củng tập nghiêm trì giới-luật như Ngài . 

 

2.-Tịnh Ðộ Tông 

Tôn này thuộc về Ðại- thừa, chủ trương dạy người chuyên tâm niệm Phật để được cảnh vãng sanh về Tịnh độ của Phật A-DI-Ðà. Do đó, tôn này mới có tên là Tịnh độ tôn. 

Ðây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng. Với pháp môn này, bất luận hạng người nào, trong thời gian nào, hoàn cảnh nào, củng có thể tu hành được cả. Nếu so sánh với con đường đi, thì tôn này là môt đại lộ bằng phẵng ,rộng rãi, mát mẽ, hành giả dễ đi mà mau đến, không sợ gặp nguy hiểm chướng ngại giữa đường. 

Bởi những lẻ ấy, nên từ xưa đến nay, đã có không biết bao nhiêu người chọn lựa pháp môn này để tu hành. Riêng ở Việt nam chúng ta, ngày xưa củng như hiện nay, có biết bao nhiêu người là môn đồ của tôn này. Ðó là lý do thúc đẩy chúng tôi gấp rút biên soạn bài này để giới thiệu "con đường tu thứ hai" trong mười tôn phái của Phật Giáo.

 

I.- Duyên Khởi Lập Tông  

Tịnh độ căn cứ vào những kinh điền gì để thành lập? Kinh điển mà Tịnh độ tôn đã y-cứ thì rất nhiều. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu lên một ít bộ kinh căn bản, thường được nói đến thôi. Ðó là các bộ: 

1.-Kinh vô lượng thọ: Kinh này được chép lại 48 lời thề nguyên của đức A-Di-Ðà , khi còn là một vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng. Nội dung của 48 lời thệ nguyện ấy là: sau khi thành Phật, ngài sẽ lập ra một quốc độ hết sức trang nghiêm thanh tịnh, để tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương Thế giới về đó, nếu những chúng sanh ấy thường niệm đến danh hiệu Ngài và thường cầu được vãn sanh về cõi tịnh độ của Ngài. 

2.- Kinh Quán Vô lượng thọ: Kinh này chép rõ 16 Pháp quán và 9 Phẩm, để dạy người cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ. 

3.- Kinh tiểu bổn A-Di-Dà: Kinh này lược tả cõi tiên giới Cực Lạc, trang nghiêm (Tịnh độ) khiến người sanh lòng ham mộ, phát nguyện tu theo pháp môn ''trì danh niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn'' để được vãng sanh về cõi ấy. 

Ba kinh trên này là ba bộ kinh chính; cổ nhân thường gọi là ''ba kinh Tịnh độ''. Ngoài ra còn có các kinh khác như:  

Kinh Bửu Tích chép việc đức Phật vì vua Tịnh phạn và bảy vạn người trong thân tộc, nói pháp môn ''trì danh niệm Phật'' để cầu sanh về Thế giới Cực lạc. 

Kinh đại bổn A-Di-Dà, Kinh Thập Lục Quán, kinh Ban châu niệm Phật, kinh Bi-Hoa, kinh Phương Ðẳng, kinh Hoa nghiêm.v.v.. 

Giáo điển về Tịnh độ truyền qua Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Ðông-Tấn nhờ Ngài Huệ-Viễn đại sư ra công hoằng hóa, nên tôn này mới bắt đầu thịnh hành. Ngài là vị tổ đầu tiên ở Trung Hoa. Sau đó, các vị đạo sư danh tiếng như Ngài Ðàm Loan, ngài Ðạo Xước, ngài Thiện-Đạo.v.v.. đều dùng pháp môn này mà tu chứng và hóa độ rất nhiều người và mãi lưu truyền cho đến ngày nay.

 

II. Bốn Cõi Tịnh Ðộ. 

Tịnh độ không phải chỉ có một cõi, mà rất nhiều cõi. Ðứng về phương diện phân tích, từ tế đến thô, có thể chia làm 4 cõi Tịnh độ sau đây: 

1.- Thường tịch quang Tịnh độ: đây là cảnh giới mà Pháp thân Phật an trụ. ''Thường'' là không thay đổi, không sanh diệt, tức là Pháp thân Phật; ''Tịch'' là xa lìa các phiền não vọng nhiễm, tức là đức Giải thoát của Phật; ''Quang'' là chiếu sáng khắp cả mười phương, tức là đức Bát-nhã của Phật. Như thế là cõi Tịnh độ này đủ cả ba đức quý báu của Phật là Thường, Tịch và Quang, cho nên gọi là ''Thường tịch quang Tịnh độ''. 

Cảnh Tịnh độ này không có hình sắc mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm, hay tánh viên giác ''thường vắng lặng, chiếu soi và thanh tịnh'', nên gọi là ''Thường tịch quang Tịnh độ''. Chư Phật khi đã chứng được cảnh giới này rồi thì thanh và độ không hai, song vì căn cứ theo ba loại Tịnh độ sau đây mà gọi là có Thân, có Ðộ. Chứng đến chỗ này, nếu đứng về Thân thì gọi là ''Pháp Thân'', còn về độ, thì gọi là ''Thường tịch quang Tịnh độ''. 

Kinh Tinh danh, về lời sớ có chép: Tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn viên quả mãn, thành bực Diệu giác (Phật) sẽ ở cõi ''Thường tịch quang Tịnh độ''. 

2.- Thật-báo trang nghiêm Tịnh độ: hành giả trải qua ba số kiếp tích công lũy đức do phước báu tu hành nhiều đời dồn chứa lại, làm trang nghiêm cảnh giới chơn-thật nên gọi là ''Thật-báo trang nghiêm Tịnh độ''. Cảnh giới Tịnh độ này là chỗ ở của Báo thân Phật. Kinh Quán-Vô-Lượng Thọ về lời sớ có chép: ''Tu-tập chơn-thật'', cảm đặng quả báo tốt đẹp, cho nên gọi là ''Thật báo trang nghiêm''. Bên Ðại-thừa Viên giáo thì cõi này là của các bậc Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng); còn bên ngoài Ðại-thừa Biệt-giáo, thì đây là cõi các bậc từ Thập địa cho đến Ðẳng giác Bồ Tát. 

3.-Phương tiện hữu dư Tịnh độ: Cảnh Tịnh độ này không phải là cứu cánh rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Ðây là cõi Tịnh độ của hàng Nhị thừa. Các vị này tuy đã dứt được kiến-hoặc và tư-hoặc trong ba cõi (Dục-giới, Sắc giới và Vô-sắc-giới), nhưng còn dư lại hai hoặc là: vô-minh hoặc và trần-sa hoặc chưa trừ được, nên gọi là ''hữu-dư ''. Ðã là ''hữu-dư '' tức là chưa phải hoàn toàn cứu-cánh, nên gọi là cõi Tịnh độ này là '' Phương-tiện hữu-dư Tịnh độ ''. 

4.- Phàm thánh đồng cư Tịnh độ: Ðây tức là cõi Tịnh độ của Ðưc Phật A-Di-Đà ở Tây-phương. Ðã gọi là Tịnh độ, hay Cực-lạc, tuy nhiên có đủ các đức thanh tịnh trang-nghiêm, không có bốn ác thú. Nhưng đây vì Phật, Bồ Tát và các vị thượng thiện nhơn (thánh) cùng sống chung với chúng sanh mới vãng-sanh, chưa chứng được quả thánh (phàm) nên gọi là ''Phàm thánh đồng cư Tịnh độ ''. 

Vì phần đông tín-đồ Phật Giáo Việt-Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp môn Tịnh độ, đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ này, tức là cõi Cực-lạc của Phật A-Di-Ðà, nên ở đây, chúng tôi xin căn cứ theo kinh ''Tiểu bổn A-Di-Ðà'' thuật lại lời Ðức-Phật Thích Ca đã tả về cảnh giới của cõi Tịnh độ này: ''...Từ cõi Ta-bà này, cứ về hướng Tây, cách đây hơn mười muôn cõi Phật, có thế giới tên là Cực-lạc. Vị Giáo-chủ ở Thế-giới ấy là Phật A-di-đà, thường hay nói pháp. Cõi ấy có 7 lớp câu-lơn (tường-hoa) bảy lớp lưới giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có hồ thất bảo đầy nước tám công đức. Ðáy hồ toàn là cát vàng. Bốn phía bờ hồ đều cẩn vàng ngọc, châu báu. Trong hồ có hoa sen bốn màu lớn bằng bánh xe, hương thơm ngào ngạt, màu nào cũng có hào quang chiếu sáng. Quanh hồ, vươn lên những tòa lâu đài nguy nga, xinh đẹp làm toàn bằng thất bảo. 

Trên không trung hòa lẫn những bản nhạc thiêng, có những tiếng chim báu, do Phật hóa hiện ra, để thuyết pháp luôn trong sáu thời cho dân chúng nghe. Người nghe rồi liền phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Không những chỉ có tiếng chim, mà cho đến tiếng nước chảy, gió thổi, cây reo, cũng đều phát ra tiếng pháp nhiệm mầu. 

Cảnh giới Cực-lạc tốt đẹp, trang nghiêm như thế là do công đức của Phật A-Di-Dà (1) là vị giáo chủ của cõi ấy và các vị Bồ tát, Thánh chúng chung nhau tạo thành.

(1) Chữ A-Di-Ðà, người Trung Hoa dịch là "vô lượng thọ" hay "vô lượng quang", nghĩa là Ðức Phật này sống lâu không lường và hào quang chói sáng cũng không lường

 

III.- Ba Yếu Tố Ðể Cầu Sanh Tịnh Ðộ 

Muốn được vãng-sanh, về cõi Tịnh độ nói trên, hành giã phải chuẩn bị ba yếu tố sau đây là: Tín, Nguyện và Hành. Ba yếu tố này thường được gọi là ba món tư-luơng (Lương phạn đi đường). Nếu thiếu một món ăn nào, hành-giả củng không thể tu hành có kết quả được. 

1.-Thế nào là ''Tín''? -Tín là đức tin vững chắc, không gì lay chuyển được. Ðức tin rất quan trọng và cần thiết cho người tu hành. Kinh Hoa-Nghiêm có dạy: '' Tin là mẹ sanh ra các công đức ''. Nhờ đức tin mà quả Bồ-đề có thể thành tựu được. 

Tin có ba phần: 

a). Tin Phật: Tin rằng Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, biết các việc sáng suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại và vị lai, thấy hết thảy hằng sa thế giới, hiểu biết các pháp một cách rõ ràng. Tin rằng do lòng từ-bi muốn cứu khổ sanh-tử luân hồi cho chúng sanh, mà Phật Thích Ca nói pháp môn niệm Phật, để chúng sanh thực hành theo người mà được vãng-sanh về Tịnh độ. Tin rằng lời dạy của Ðức-Phật Thích- ca không hư dối. Ðức-Phật A-Di-Ðà và cảnh Tịnh độ đều có thật. 

b). Tin Pháp: Tin rằng pháp-môn niệm Phật là pháp-môn dễ tu, dễ chứng, có bảo đảm chắc chắn. Tin rằng 48 lời thệ nguyền của Phật A-Di-Ðà có đầy đủ hiệu lực để cứu độ chúng sanh, và nếu ta thực hành đúng theo pháp môn này, chắc chắn sẽ được vãng-sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Ðà. 

c). Tin mình: Tin rằng mình có đầy đủ khả năng và nghị lực để tu theo pháp-môn này. Tin rằng nếu mình thực-hành đúng như lời Phật Thích-Ca đã chỉ dạy trong kinh A-Di-Ðà, chuyên trì danh hiệu Phật A-Di-Ðà cho đến ''nhất tâm bất loạn'' thì khi lâm-chung chắc chắn thế nào mình cũng sẽ được sanh về cõi Tịnh độ. 

2.-Thế nào là ''nguyện''? Nguyện là lời hứa-hẹn, sự ước ao, là chí nguyện, mong muốn thực hiện những điều chân chính. Nguyện là sức hút của đá nam châm, là cánh buồm căng gió của chiếc thuyền, là cái chong chóng của máy bay. Nguyện là động cơ thúc đẩy cho con người tu hành mau đến mục đích. 

Nguyện quan trọng như thế, nên hành-giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn luôn kiên tâm, trì chí tu theo pháp-môn niệm Phật này, ngày đêm chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong cầu được sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Ðà. 

Ðể có một ý-niệm về chữ ''nguyện '', chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời nguyện, trong 48 lời nguyện của Phật A-Di-Ðà, khi còn làm Pháp-tạng Tỳ-Kheo: 

-''Sau khi ta thành Phật, chúng sanh ở mười phương một lòng tin ưa, muốn về cõi ta, từ một niệm cho đến mười niệm, nếu chúng sanh ấy không đặng vãng-sanh, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh-pháp ''. 

-'' Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương pháp-giới phát tâm Bồ-Ðề, tu các công đức, một lòng phát-nguyện, muốn sanh về cõi nước ta, giá như ta không cùng với đại chúng vây quanh hiện ra ở trước mắt chúng sanh ấy, thời ta thề không thành bậc Chánh-giác". 

''Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta, chuyên niệm cõi nước ta, mà nếu không được thỏa nguyện, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác ''. 

3.-Thế nào là ''Hành''?- Hành là thực-hành, làm theo. Nếu tin (tín) mà không ước ao, mong muốn (nguyện) thì chỉ là tin suông, vô bổ. Nhưng nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không làm (hành) thì chỉ ước ao, mong muốn ảo-huyền, không đi đến kết quả gì. Bởi thế, Tín, Nguyện,Hành ba yếu tố căn bản này bao giờ cũng phải có đủ, mới đủ điều kiện vãng-sanh Tịnh độ. Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba chân mới đúng vững được, thiếu một chân, tất phải ngã.

 

IV.-Phương Pháp Tu Về Tịnh Ðộ 

Sau khi đã chuẩn bị đủ ba yếu tố hay ba món tư lương Tịnh độ nói trên, chúng ta phải hạ thủ công phu ngay. Nhưng muốn cho có hiệu quả, chúng ta cần hiểu rỏ phương pháp tu hành. Vẫn biết rằng pháp-môn niệm Phật là một pháp-môn rất giản dị, chỉ cần niệm Phật là đủ. Nhưng niệm Phật củng có nhiều cách, nhiều loại, mà chúng tôi xin dẫn một ìt phương pháp sau đây: 

1.-Trì-danh niệm Phật: -Trong lối niệm Phật này, hành-giả chỉ chuyên tâm trì-niệm danh hiệu của Phật A-Di-Ðà. Mỗi ngày từ khi mới thức dậy cho đến lúc đi ngũ, hành-giả phải chớ niệm luôn, không cho xen hở. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn, trước khi ngũ, hành-giả đừng bao giờ quên niệm Phật. Ngoài ra muốn có hiệu quả hơn, hành-giả cần phải xem phương pháp ''Kinh hành niệm Phật'' (xem nghi thức kinh hành niệm Phật). Mỗi khi niệm xong, hành-giả đều hồi hương cầu sanh Tịnh độ. 

2.- Tham-cứu niệm Phật: -Trong lối tu này, hành-giả phải tham khảo cứu-xét suy nghiệm câu niệm Phật. Như khi niệm ''Nam-mô A-Di-Ðà Ðà Phật'', hành-giả phải quán-sát câu niệm Phật này, từ đâu mà đến, đến rồi sẽ đi về đâu? Niệm đây là niệm ai v.v..? Nhờ sự chuyên tâm chú ý tham khảo một câu niệm Phật như thế, nên sóng vọng-tưởng dần dần chìm lặng, tâm hiện bày, hành-giả được ''nhất tâm bất loạn'', đến khi lâm chung, sẽ được sanh về cảnh-giới của Phật. Pháp niệm Phật này giống như pháp tham cứu câu ''thoại đầu'' bên Thiền-tôn, nên gọi là ''tham-cứu niệm Phật ''. 

3.- Quán-tương niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả chăm chú quan sát hình tượng của Phật. 

Hành-giả ngồi trước tượng Phật, chú tâm chiêm ngưỡng, quan sát các tướng tốt mà liên tưởng các đức-tánh của Phật. Như khi chiêm ngưỡng đôi mắt Phật, thì liên tưởng tới trí huệ của Phật; khi chiêm ngưỡng nụ cười hiền hòa của Phật, thì liên tưởng đến đức tánh từ bi, hỷ-xã của Phật. Nhờ quán trí huệ của Phật mà tánh Si của hành-giả phai dần; nhờ quán từ-bi của Phật mà tánh Sân của hành-giả bớt dần ...Hễ quán thêm một đức-tánh tốt của Phật, thì một tánh xấu của hành-giả được bớt đi. Tánh của Ðức-Phật như tia sáng mặt trời, tánh xấu của hành-giả như vết mực; tia sáng mặt trời càng sáng nhiều và càng chiếu rọi lâu ngày, thì vết mực càng phai nhanh. Tóm lại, nhờ sự chú tâm quán các tướng tốt trên hình tượng của Phật, mà các đức tánh như từ-bi, hỷ-xả, bình-dẳng, lợi tha được huân-tập, thấm nhuần vào tâm hành giả; lâu ngày, tâm hành-giả sẽ thanh-tịch, lọc sạch những niệm ác độc và sẽ giống tâm Phật, được vãng-sanh về cõi Phật. 

4.-Quán-tưởng niệm Phật:- Trong lối tu này, hành-giả ngồi yên một chỗ, mặc dù không có hình tượng Phật trước mặt, mà hành-giả quán tưởng như có Ðức-Phật A-Di-Ðà, cao lớn đứng trên hoa sen, phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng, bao phủ cả thân hình mình. Hành-giả ngồi ngay thẳng, hai tay chắp lại, cũng tưởng mình ngồi trên tòa-sen, được Phật tiếp dẫn. Hành-giả chuyên chú quán tưởng mãi mãi như thế; đi, đứng, nằm, ngồi cũng không dừng nghĩ, cho đến khi nào, mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy Phật, tức là pháp quán đã thuần-thục. Khi lâm chung, hành-giả chắc chắn sẽ được vãng-sanh về Tịnh độ. 

Trong kinh Quán Phật tam-muội chép rằng: "Phật vì Phụ-vương, nói pháp quán-tưởng bạch hào ...''. Quán-tưởng bạch-hào nghĩa là quán-tưởng lông trắng có hào quang sáng chiếu, giữa hai chân mày của Phật, như trăng thu tròn đầy, trong suốt như ngọc lưu ly. Ðây là một phương pháp quán tưởng niệm Phật. 

5.-Thật tướng niệm Phật:- Thật tướng niệm Phật là niệm Phật đã đạt đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ lai, không hư không giả, cho nên gọi là"thật tướng". 

Trong năm pháp niệm Phật trên này, thì bốn pháp trước đều thuộc về sự, có niệm có tu; còn pháp thứ năm (thật tướng niệm Phật) là thuộc về lý: không còn niệm, không còn tu, không còn năng sở, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến chỗ này mới hoàn toàn rốt ráo. 

Nhưng, hành giả phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự , Lý mới hiển. Trước hết phải tu bốn pháp niệm trên, cho đến khi thuần thục, không còn thấy có mình là người niệm, Phật là vị bị niệm, chỉ có một tâm yên lặng chiếu soi, không năng sở, bi thử, không hữu, không vô. Ðến chỗ này, kinh Di-Ðà gọi là "được nhất tâm bất loạn". Kinh Tứ thập nhi chương chép; "niệm đến chỗ vô niệm, mới là chơn niệm". 

Trong năm pháp niệm Phật trên đây, từ xưa đến nay, người tu Tịnh độ, thường lựa pháp môn danh trì, là một pháp môn dễ hạ thủ công phu, hành giả ở trình độ nào, chỗ nơi nào hay lúc nào, củng đều có thể tu được. Thật là một pháp môn rất thù thắng.

 

V.-Lợi Ích Của Pháp Niệm Phật 

Lợi ích của pháp niệm Phật thật vô lượng vô biên, tựu trung có thể chia làm hai phần: lợi ích về Sự và lợi ích về Lý. 

1.-Lợi ích về Sự: 

a) Niệm Phật sẽ trừ được các phiền não. 

Những người gặp các cảnh khổ, như tử biệt sanh ly, nhà tan cửa mất, tai nạn bất thường v.v ..sanh các phiền não, nếu biết chí tâm niệm Phật, thì các phiền não khỗ đau dần dần tiêu tan. Vì sao lại có kết quả tốt đẹp như thế? Vì tâm ta cũng như dòng nước luôn luôn tuôn chảy. Nếu chúng ta pha vào những chất cáu bẩn, thì nước trở thành đục bẩn; nếu chúng ta pha vào những chất thơm tho, thì nước sẽ trở thành thơm mát. Nếu tâm ta chỉ nhớ nghĩ đến những tai nạn khổ đau, thì luôn luôn sẽ bị phiền não khuấy đục. Khi ta niệm Phật thì sẽ cố nhiên nhớ Phật, quên đau khổ. Ðem sự nhớ Phật này thế cho cái nhớ sự đau khổ; một giờ niệm Phật thì sẽ đổi được một giờ sầu khổ, một ngày niệm Phật thì đổi được một ngày khổ đau. Cứ như thế, nếu niệm Phật được tăng chừng nào, thì sự buồn phiền đau khổ sẽ giảm đi chừng âý. Cho nên cổ nhân có câu "Một câu niệm Phật giải oan khiên". 

Trong thời kỳ chiến tranh Việt-Pháp vừa qua, chúng tôi đã đem phương pháp niệm Phật này chi cho một số người sầu khổ gần như điên cuồng, vì sự nghiệp bị tiêu tan, con cháu mất lạc, họ thu lượm kết quả rất là tốt đẹp. 

b) Niệm Phật sẽ trừ được niệm chung sanh. 

-Chúng sanh hằng ngày nhớ nghĩ đến những điều tội lỗi như tham, sân, si v.v ..miệng thốt ra những điều tội ác, thân làm những việc xấu xa. Ðó là những ác nghiệp của chúng sanh. Nay nếu chúng ta niệm Phật, thì chúng ta không còn thì giờ để nhớ nghĩ việc tội lỗi nữa và thực hành những ác nghiệp trên nữa. Như thế là niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh. Niệm Phật càng nhiều thì niệm chúng sanh càng ít. Niệm Phật hoàn toàn thì niệm chúng sanh dứt sạch. 

c) Niệm Phật sẽ làm cho thân thể được nhẹ nhàng an ổn.

-Bệnh tật của chúng ta, một phần do thể xác, nhưng một phần củng do ảnh hưởng của tinh thần. Nhiều người mất ăn bỏ ngủ vì uất hận, nhục nhã v.v.. Do đó, uất khí tích tụ lâu ngày trong người, mà sinh bệnh mất ăn bỏ ngủ. Gặp những trường hợp như vậy, nếu chúng ta niệm Phật cho ra tiếng, thì những nỗi uất hận đè nặng lên tâm can chúng ta, sẽ như được trút ra cùng hơi thở, cùng tiếng niệm, và thân tâm ta được nhẹ nhàng dễ chịu. Những người yếu tim, nếu biết niệm Phật sẽ mau bình phục. Vì bệnh yếu tim thường làm cho người bệnh hồi hộp, lo sợ; nay nhờ niệm Phật nên tâm định, tâm định thì những sự hồi hộp lo nghĩ giảm đi. Do đó mà ăn được,ngủ yên và bệnh mau bình phục. 

d.-Niệm Phật tâm trí sẽ sáng suốt, học hành mau nhớ.

-Những người tâm trí loạn động thì tối tăm, như ngọn đèn bị gió, không sáng được nhờ niệm Phật, tâm trí sẽ định tĩnh, như ngọn đèn có ống khói, không lay động. Do đó tâm trí sẽ phát chiếu, như ngọn đèn tỏa ánh sáng vậy. 

đ) Niệm Phật, khi lâm chúngẽ được sanh về Tịnh độ.

-Như chúng ta đã thấy ở trên, niệm Phật đem lại cho chúng ta nhiều ích lợi thiết thực trong đời sống hiện tại, về phương diện thể chất lẫn tinh thần, về tính tình lẫn trí huệ. Nhưng cái lợi ích lớn nhất là ở đời sau. Nếu chúng ta thực hành pháp niệm Phật này, đúng như lời Phật dạy, cho đến "nhất tâm bất loạn" thì sau khi lâm chung, sẽ sanh về Tịnh độ,được luôn luôn thấy Phật nghe pháp, làm bạn với thánh hiền, và có đủ nhiều thiện duyên để tiếp tục tu hành cho đến quả Phật. 

2.-Lợi ích về Lý: 

Khi hành giả niệm Phật được "nhất tâm bất loạn", thì các vọng tưởng hết, chơn tâm thanh tịnh hiện ra. Chơn tâm không sanh diệt hư hoại là "Thường", chơn tâm thanh tịnh vắng lặng là "Tịch", chơn tâm sáng suốt vô cùng là " Quang". Cảnh "Thường-Tịch-Quang Tịnh-độ" chỉ ở nơi chơn tâm ta, chứ không nơi đâu khác. 

Lại nữa, chơn tâm không hoại diệt là "Phật Vô-lượng-thọ"; chơn tâm chiếu soi vô tận là "Phật Vô-lượng-quang" và đó củng tức là "Thanh -tịnh diệu pháp thân của Phật A-Di-Ðà". 

Tóm lại, người niệm Phật đến khi hết vọng, ngộ nhập được chơn tâm rồi, thì Phật A-Di-Ðà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở nơi tâm mình hiện ra, chứ không phải đâu xa. Vì thế nên kinh chép: "Tự tánh Di-Ðà, duy tâm Tịnh độ" là vậy. 

Xuyên qua các đoạn trên, chúng ta thấy pháp niệm Phật được sự lợi ích vô cùng. Nếu những người không tin có Phật A-Di-Ðà, có cảnh Tịnh độ mà chí tâm niệm Phật, thì cũng được nhiều lợi ích như trên.

 

VI.- Sự Quy Ngưỡng Và Cầu Sanh Tịnh Ðộ Của Các Vị Bồ Tát Và Tổ Sư  

Chúng ta đừng tưởng rằng Pháp môn Tịnh độ là một Pháp môn tầm thường, giản dị chỉ dành riêng cho những người căn trí thấp-thỏi, hẹp hòi tu hành. Thật ra, mặc dù Pháp môn này không đòi hỏi hành-giả có một sức hiểu biết thâm sâu, một trí óc thông minh xuất chúng, nhưng vì nó dễ tu dễ chứng, hiệu quả chắc chắn nên từ xưa đến nay, rất nhiều vị Bồ tát và Tố sư đã được thực hành pháp-môn này để cầu sanh về Tịnh độ. Ngài Văn Thù là vị Bồ tát có một trí tuệ tối-thắng, không ai sánh kịp, thế mà Ngài cũng phát nguyện sanh về nước Cực-lạc của Phật A-Di-Ðà như sau:

 

Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời  

Tận trừ nhất thế chư chướng- ngại 

Diện kiến bị Phật A-Di-Ðà  

Tức đắc vãng-sanh An-lạc sát.  

(Tôi nguyện đến khi lâm- chung, diệt trừ hết cả chướng ngại, trước mặt thấy được Phật A-Di-Ðà, liền được vãng -sanh về cõi Cực-lạc).

 

Các vị Bồ tát như Ngài Phổ Hiền, Quán-Âm, Ðại-Thế-Chí cũng đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ. 

Các vị Tổ ở các tôn khác, mặc dù hoằng truyền tôn mình, nhưng cũng vẫn tu về Tịnh độ. Như Ngài Thiên-Thân, tổ của Duy-Thức tôn; Ngài Trí-Giả đại-sư, tổ của Thiên-Thai tôn; Ngài Hiền-Thủ, tổ của Hoa-nghiêm tôn; Ngài Nguyên-Chiếu luật sư, tổ của Luật tôn; Ngài Mã-Minh, Long-Thọ, tổ của Thiền-tônv.v.. .cũng đều thực hành pháp môn Tịnh độ. 

Sau nữa, các vị Ðại sư danh tiếng ở Trung Hoa, như Ngài Ðàm Loan, Ngài Ðạo Xước, Ngài Thiện Đạo, Ngài Thừa Viễn, Ngài Pháp-Chiếu, Ngài Thiếu-Khương, Ngài Tĩnh-Am v.v..đều dùng pháp-môn này để tự độ và độ tha, và mãi mãi lưu truyền cho đến ngày nay. 

 

VII.- Kết Luận. 

Chúng ta đã biết qua tôn-chỉ, đặc điểm phương pháp tu hành và giá trị của Tịnh-độ tôn. Ðến đây chúng ta cần phải lắng tâm suy xét kỹ lưỡng, xem phương pháp tu về Tịnh độ tôn này, có thiết thực lợi ích và có thích hợp với chúng ta không. Trong phút giây quan trọng này, chúng ta hãy hết sức thành thực: nếu chúng ta nhận thấy phương pháp tu này rõ ràng không thích hợp với chúng ta, thì chúng ta có quyền chờ đợi lựa chọn một phương pháp khác. Nhưng chúng ta nhận thấy nó có một giá trị thiết thực, lợi ích chắc chắn cho đời chúng ta trong hiện tại và mai sau, thì chúng ta đừng chần chừ gì nữa, hãy hạ thủ công-phu ngay. Thời gian vùn vụt trôi qua, chẳng chờ ai cả. Hãy chuẩn bị ngay ba món tư-lương là Tín, Nguyện, Hành và tinh-tấn thực-hành các phương pháp niệm Phật. 

Với thái độ thiết tha chân thành, một quyết tâm không thối chuyển, chúng ta chắc chắn sẽ niệm Phật đến chỗ ''Nhất tâm bất loạn''.

 

3.- Thiền Tông

 

A.-Mở Ðầu 

Thiền tôn thuộc cả Ðại Thưà và Tiểu Thừa.củng như bao nhiêu tôn phái khác trong Phật Giáo, vị khai sáng đầu tiên của Thiền tôn vẫn là đức Phật. Trước Ngài , sự tham thiền nhập định của các ngoại đạo không phải là không có. Nhưng đến Ngài, phương pháp thiền định mới đạt đến chỗ rốt ráo. Như chúng ta đều biết qua lịch sử cúa Ngài , sau khi xuất gia, đức Phật đã trãi qua nhiều năm đi tìm đạo và tu khổ hạnh, nhưng vẫn chưa đạt được đạo quả như ý muốn. Ngài tự bảo cái đạo ấy không phải đi tìm đâu xa mà chính phải tìm trong trí huệ sáng suốt của Ngài . và từ đó, luôn trong 49 ngày đêm dưới cội Bồ Ðề, Ngài đã ngồi tham thiền nhập định cho đến khuya mồng 8 tháng chạp âm lịch, lúc sao mai vừa mọc thì Ngài "Minh tâm kiến tánh", chứng được đaọ quả Bồ-đề,. Ðó là một cuộc nhập định vô tiền khoáng hậu, mở đầu cho một pháp môn vô cùng hiệu nghiệm của đạo Bồ đề. Và từ đấy về sau, một tôn giáo riêng đã được thành lập. Ðó là Thiền tôn. 

Sao gọi là Thiền tôn?-Thiền tôn là một tôn phái của Phật Giáo lấy pháp môn tham thiền nhập định làm căn bản tu hành. 

Chữ "Thiền" là do chữ "Thiền-na", một tiếng Phạn, phiên âm theo tiếng Trung Hoa và dịch nghĩa là định lự (định các tự lự). Hiệp chung cả tiếng Phạn và tiếng Trung Hoa, thành ra chữ Thiền định. 

Có chỗ giải: Chữ "Thiền", xưa dịch tư là " tư duy", nay dịch là "Tịnh lự". Tư duy có nghĩa là suy nghiệm, nghiên cứu, suy tầm đối tượng của tâm thức (tức là chỉ) để cho tâm thể được sáng tỏ.  

Chữ "Ðịnh" nguyên tiếng Phạn là Samadhi, người Trung Hoa phiên âm là Tam muội, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một cảnh duy nhất không cho tán loạn. 

Hợp hai chữ Thiền và Ðịnh, chúng ta có một nghĩa chung như sau:Tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất, không cho tán lọan, để cho tâm thể được vắng lặng, tâm dụng được sáng tỏ, mạnh mẽ, đặng quan sát và suy nghiệm chơn lý. 

Phương pháp thiền định có hai cách: 

1.-Tham cứu về lý thiền, để cầu minh tâm kiến tánh, tỏ ngộ đạo quả, nên gọi là " Tham thiền", như tham cứu câu thoại đầu (câu nói thiền) v.v.. 

2.-Tập trung tư tưởng để quan sát cho sáng tỏ chân lý về một vấn đề gì như quán bất tịnh, quán từ bi v.v..nên củng gọi là " Quán tưởng". 

Có chỗ gọi là tu "Chỉ quán" hay tu "Ðịnh huệ". Chỉ là đình chỉ các vọng tưởng, không cho khởi động, tưc là định. Quán là quan sát cho sáng tỏ một vấn đề gì tức là Huệ. 

"Chỉ" là nhơn, mà "Ðịnh là quả. 

" Quán là nhơn", mà "Huê " là quả. 

Chủ Trương Của Thiền Tông 

Tất cả chúng sinh, trãi qua bao đời kiếp, phải trôi lăn trong biển khổ sanh-tử luân hồi vì bị vô minh mê hoặc. 

Tại sao lại có vô minh mê hoặc? Chúng ta hằng ngày bị thất-tình (1), lục-dục (2), bát phong (3), xuy động, làm cho tâm tánh chúng ta phải bị mờ ám; cũng như ngọn đèn bị thổi leo lét, không sáng tỏ được, để phá tan cái hắc ám ở chung quanh và soi sáng cảnh vật. Ðèn tâm của chúng ta không giờ phút nào chẳng bị gió lục-trần (4) làm chao động. Vì đèn tâm chao động (không định) nên ánh áng trí huệ không thể tỏa ra; và ánh sáng trí huệ không tỏ sáng, nên khỗng xé tan được mây vô-minh hắc ám ở chung quanh và không chiếu soi chơn lý của vũ-trụ. 

(1) Thất-tình: Mứng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn. 

(2) Lục-dục: Những sự tình dục do lục-căn sanh ra. 

(3) Bát-phong: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. 

(4) Lục-trần: Sáu trần-cảnh là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. 

Vậy hành-giả muốn rỏ chơn lý của vũ trụ, muốn được minh tâm kiến tánh thành Phật, thì phải phá trừ mây vô minh hắc ám. Muốn phá trừ vô minh hắc ám, hành-giả phải làm sao cho đèn trí huệ của mình được sáng tỏ. Muốn thế hành-giả phải tu thiền-định. Tâm có định, mới phát sinh trí-huệ. Trí-huệ có phát sinh mới phá trừ được vô minh hắc ám, và mới minh tâm kiến tánh thành Phật. 

Mới nghe qua chủ trương của Thiền-tôn, chúng ta thấy không có gì mới lạ, và tưởng là dễ dàng quá; nhưng khi thực hành thì lại không phải dễ dàng như thế. Trái lại, phép tu thiền-định rất khó, phải thường có thiện-hữu tri-thức dắt-dẫn, phải tốn rất nhiều công phu và kiên-nhẫn, phải trải qua một thời gian lâu dài, mới thu được kết quả.

 

B.-Các Loại Thiền Ðịnh 

Thiền-định có nhiều loại, nhiều thứ. Có thứ chánh, thứ tà, có thứ sâu, thứ cạn, có thứ thiền của ngoại-đạo, có thứ thiền của phàm-phu, có thứ thiền của Tiểu-thừa, có thứ thiền của Ðại-thừa. 

Hãy nghe Ngài Tôn-Mật Thiền-sư dạy: '' ...Người muốn cầu Thánh-đạo, tất phải tu thiền ''. Chơn-tánh không có dơ và sạch, thánh và phàm. Song thiền-định có cạn và sâu, từng bực không đồng: 

- Người tà-kiến, chấp trước sao lạc, ưa cõi trên, chán cõi dưới mà tu Thiền là ngoại đạo thiền; 

- Người chánh tín nhơn quả, nhưng cũng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền, là phàm phu thiền; 

- Người biết rõ lý ''ngã không'' mà tu thiền là Tiểu-thừa thiền; 

-Người ngộ được lý''ngã, pháp dều không'' mà tu thiền, là Ðại-thừa thiền; 

-Người đốn ngộ tự tâm, xưa nay vốn thanh-tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí huệ vô-lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác; y theo tâm ấy mà tu thiền là Tối Thượng thừa thiền, củng gọi là ''chơn như tam muội''  

Vì thiền có nhiều loại khác nhau như thế, nên trước khi muốn thực hành cho đúng đắn chúng ta cần biết sơ lược các lối tu thiền, để khỏi lạc vào đường nguy hiểm. 

I.- Ngọai Ðạo Thiền 

Trong phần ngoại đạo thiền này, chúng tôi muốn nói đến các loại thiền của ngoại đạo như đạo Tiên, đạo Bà la môn, các lối thôi miên, và những tà thiền định với mục đích không chơn chánh. 

Sao gọi là không chơn chánh? -Theo quan niệm của đạo Phật thì những hành động gì không nhằm mục đích trau dồi tâm tánh, dẹp trừ phiền não hữu lậu, để cầu giải thoát sanh tử luân hồi, đều không là chơn chánh. Dựa vào quan niệm trên mà phê phán thì những tà thiền định hay những loại thiền định của ngoại đạo đều không chơn chánh; vì những người tu theo lối thiền định nầy chỉ nhắm mục đích cầu được sống lâu, cầu được khỏe mạnh, được thần thông biến hóa để dạo chơi thế giới,được những phép lạ, huyền bí để cám dỗ, mê hoặc người, hay được thần tiên để hưởng lạc thú tiêu diêu nơi tiên cảnh... 

Bởi họ dụng tâm không chơn chánh, tu phương pháp không chơn tánh, nhắm mục đích thiển cận, bề ngoài và bị các phiền não tham, sân, si, làm động cơ thúc đẩy, nên các loại thiền của họ không rốt ráo và toàn thiện được. Trước tiên chúng ta hãy nói đến các tà thiền định. 

1.- Tà thiền định: Ðọc các loại sách xưa, chúng ta thường nghe nói đến các loại cầm thú như: bạch xà, chồn cáo, qui, khỉ, vượn...tu luyện lâu năm trong rừng sâu núi thẳm, cuối cùng củng có những phép thần thông, biến hóa. Nhưng mục đích của chúng là cầu cho được nhiều phép tắc để được gần phụ nữ, nhiễu hại nhơn dân, hớp hồn hớp via người lương thiện, để thỏa mãn thú tánh. Ðó là những loài yêu tinh quỷ quái, mà ngày nay theo con mắt nhà khoa học thì khó có thể tin được là có. Nhưng có lẽ những người xưa muốn đặt ra câu chuyện yêu tinh quỹ quái như thế, để ngụ ý các loài thú, nếu tu luyện lâu năm củng có thể có phép thuật hơn người. Nhưng bởi chúng thiếu lòng nhân, thiếu thiện tâm cho nên phép thuật càng cao cường bao nhiêu càng gây tai họa bấy nhiêu. 

Chúng ta củng thường nghe thầy phù thủy luyện thiên linh cái (đầu lâu). Họ củng tập trung tư tưởng, luyện phép tịnh tâm, và khi thành công củng sai được âm binh bộ hạ, được ma quỷ mách bảo cho các việc quá khứ, vị lai ...mà củng tác oai, tác oái không ít. 

Ðó cũng là do tu định cả, nhưng bởi dụng tâm tà, nên gọi là tà thiền định, và kết quả là có hại cho mình và nhân quần xã hội. 

Chúng ta hãy nghe lời Phật dạy.Ngài A-Nan trong kinh Lăng nghiêm về các lồi tà thiền định: 

" ..A-Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn lòng dâm, thì quyết đọa vào ma đạo, bực thượng thành ma chúa, bực trung thành ma dân, bực hạ làm ma nữ. Vì gốc của nó là dâm, thì làm sao khỏi sanh tử luân hồi được?. " 

''...A-Nan ! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn tâm sát hại, thì chỉ đọa vào thần đạo; bực thượng thành đại lực quỉ, bực trung làm phi hành dạ xoa và các quỉ tướng soái, bực hạ làm địa hành La sát và các quỉ thần...'' 

''...A-Nan ! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn trừ tâm trộm cướp thì quyết đọa vào tà đạo; bực thượng thành loài yêu tinh, bực trung làm ma quỉ, bực hạ làm người tà bị các tà ma nhập (đồng bóng)...''. 

2.-Thiền định của đạo Tiên: Theo các kinh sách của đạo tiên để lại, như kinh Huỳnh-đình, hay bộ Tánh mạng khuê chỉ v.v..thì con người sở dĩ sống được và minh mẫn là nhờ có đủ ba món: tinh, khí và thần. Tinh , khí là chủ cúa xác thân; Thần là chủ của mạng sống. Hể tinh thần lục dục quá mạnh thì tinh khí hao mòn: tinh khí hao mòn thì thân bị che lấp tối tăm, con người mất sáng suốt. Vì thế cho nên phải trừ dục tình để dưởng tinh, luyện khí cho thân được cởi mở và phát hiện. 

" Tiên đạo cho rằng khắp giáp thân thể con người đều có những cái huyệt, tức là những lỗ thông khí âm dương; huyệt ở chót bàn chân gọi là chi âm; huyệt ở đỉnh đầu là thiên thông. Khí đi trở lên là dương khí, khí di xuống là âm khí. 

Người tu tiên cốt luyện cho âm khí mất đi, chỉ còn cái khí thuần dương đi lên đỉnh đầu, tức là có thần thông và đắc đạo. Vì sao phải trừ bỏ khí âm? Bởi vì âm khí là trược khí, làm cho nặng nề, tối tăm, ưa thích điều dâm dục , làm hao tổn tinh thần. Hể tinh thần hoằng dương tổn thì cái thần là cái linh động sáng suốt nhất, cũng là cái thông hiệp với trời đất, bị bế tắc". Vậy nên, kẻ phàm là kẻ còn nặng khí âm, còn bậc tiên chỉ còn là khí thuần dương mà thôi (1). 

''Ðể luyện khí, người tu tiên có nhiều phép tu gần giống như phép tọa thiền, nghĩa là ngồi ở một nơi thanh tịnh, rồi tập luyện các phép như: ''Tọa công'', ''Giao thiên trụ'', ''Thiệt giải thấu yết''.v.v.. 

Tóm lại những người tu theo đạo này, nếu chuyên tâm trì chí tập trung tư tưởng, luyện ''Tinh'' hóa ''Khí'', luyện ''Khí'' hóa ''Thần'', sau khi đã thuần thục, cũng được năm phép thần thông biến hóa. Họ trở thành tiên, có thể xuất thần bay đi dạo chơi các Thế giới. Hoặc họ hứng nước mặt trăng, luyện linh đơn để trị bệnh hay để uống cho được trường sinh bất tử thành địa tiên. 

Những vị tiên này, rất tiếc là ngày nay, chúng ta không được thấy nên không dám chắc là có hay không. Nhưng dù có có đi nữa, thì trên lý thuyết, các vị này vì chưa được lậu tận thông, ''phiền não hữu lậu chưa hết'' nên khi phiền não rối lên họ cũng bị đọa trở xuống, như trường hợp ông Uất-Ðầu-Lâm-Phách, hay ông Ðộc -Giác-Tiên-Nhân.v.v...Hơn nữa dù họ có luyện cái thân mình cho được trường sanh bất tử cũng không thể toại nguyện được, vì cái thân này là tứ đại giả hiệp, tất phải bị luật vô thường chi phối, không thể sống vĩnh viễn được. Nó lại là cái đãy da chứa các vật bất tịnh thì dù có cưng dưỡng cho mấy rốt cuộc rồi cũng bị tan rã. Bởi lẽ đó người tu hành phải xem nó như cái bè đưa qua sông, khi qua sông rồi, chẳng nên mến tiếc cái bè mà chẳng chịu lên bờ. 

Trong bộ Qui-nguyên Trực chỉ, có kể chuyện ông tiên Lữ Ðồng Tân, học trò của Tiên Hớn Chung Ly, sau khi đấu phép với Ngài Huỳnh Long hòa thượng bị thua, ông đã bỏ đạo Tiên theo đạo Phật. Lý do sự đầu Phật là vì ông Lữ Ðồng Tân tự nhận thấy mình đã dụng tâm sai và đã đi lầm đường tu hành. Do đó, ông đã làm bài thơ sau đây để nói lên sự sai lầm của ông: 

Nguyên văn: 

Khí khước biều nan, kích tý cầm 

Như kim bất luyến hống trung câm 

Từ tùng nhất kiến Huỳnh long hậu 

Thị giác tùng tiên thố dụng tâm 

Dịch nghĩa:  

Bỏ lầu Linh dược ném đờn cầm.  

Tôi nay chẳng tiếc nước miếng vàng (2) 

Từ khi gặp Huỳnh Long hòa thượng 

Mới biết từ trước dụng tâm sai. 

(xem quyển Lữ Ðồng Tân đầu Phật)

 

(1) "Yoga và tọa thuyền" trong Đại chúng tuần san, số 219 

3.-Luyện Du già (Yoga). Yoga là một danh từ Ấn, gốc là chữ Yuj; Tàu dịch là Du già, nghĩa đen là ''tự đặt mình dưới một cái ách''; nghĩa bóng là ''tự trói buộc cả tinh thần, thể xác vào một quy luật khắc khe'' tự kiềm chế mình theo một kỷ luật đặc biệt, mà mục đích là tập trung toàn thể thân tâm làm một với bản thể của trời đất.  

Du già cũng gọi là thuật luyện khí của Ấn độ, gần giống thuật luyện khí của đạo Tiên. Theo thuyết Du già trong thân thể con người có rất nhiều huyệt; trong số ấy có bảy huyệt từ hậu môn lên tới đỉnh đầu là quan trọng nhất. Bảy huyệt ấy nằm dài theo xương sống, và có một đường lên một đường xuống thông nhau. Vì sự si mê và các thứ dục vọng che lấp cho nên bảy huyệt ấy bị chướng ngại, khiến cho cái ''chơn quả'' từ dưới ''hỏa hậu'' (chổ hậu môn) không thể lên được. Nhất là vì thân thể không luyện tập, xương sống bị cong đi, các huyệt do đó bị bế tắc. Vậy muốn cho hoả hậu (tức là cái thần lực trong con người) được thông qua các huyệt, lên tới đỉnh đầu thì phải chú tâm luyện cho xương sống giản ra, các khớp xương được thông và thẳng. 

Ðể đạt được mục đích nói trên, người luyện Du già phải tập nhiều tư thế, như tư thế ''giản lưng '' tư thế ''lưỡi cày'', tư thế ''trồng chuối'' (trút đầu xuống dưới, trở chân lên trên trời), để cho hỏa hậu dể lưu thông tới đỉnh đầu. 

Ngày nay Du già được phổ biến qua các nước Âu -Mỹ, gần như một phong trào. Phần đông cho đó là một phương pháp thể dục, để luyện cho thân thể được khỏe mạnh, trí huệ được sáng suốt, để tính toán và làm việc được nhiều và hiệu quả. Một số người đi xa hơn, muốn luyện Du già để được sống lâu, trẻ mãi, vượt ra khỏi những sự đòi hỏi của xác thân đầy dục vọng, thoát ra ngoài những nỗi lo âu, sợ sệt hằng ngày và sống một cuộc đời an vui, tự tại. Lại có một hạng người khác mong rằng Du già sẽ làm cho họ khám phá những năng lực tiềm tàng ẩn núp trong con người và làm cho họ trở thành những nhân vật phi thường, có những thần thông biến hóa, phép mầu chước lạ, họ cũng tập trung tư tưởng, định tâm chú ý như các lối tu thiền định; ngoài ra họ còn có tu tập một cách rất khổ sở, hành hạ thân xác, bắt nó chịu đựng những thử thách cực độ, như phơi nắng dầm sương, ngồi trên chông gai, đứng bằng hai tay, treo chân lên cổ, nhịn đói, nhịn khát,v.v...đó là những đạo sĩ người Ấn Ðộ thường gọi là ''pha-kia'' (fakir). 

Những người này khi tu đến mức độ cao, cũng có được những phép lạ, như dao chém không đứt, đâm không thủng, nhai ve chai, uống axit không sao, nằm ngũ một giấc luôn trong 3 tháng không ăn, không uống .v.v... 

Nhưng dù họ thành công bao nhiêu đi nữa, thì cũng không thể thoát ngoài vòng trần tục liễu sanh thoát tử và minh tâm kiến tánh được  

(2) Nước miếng vàng: Ðối với người tu tiên, thì nước miếng rất qúy, họ không bao giờ nhổ vì sợ tổn khí, và dùng nước miếng của mình để luyện thành linh dược 

4.- Luyện thôi miên. đây cũng là một lối tu thiền của ngoại đạo, hiện nay rất thịnh hành trên thế giới. Nguyên tắc của phương pháp tu luyện này cũng là vận dụng tập trung tư tưởng vào một chỗ để cho tinh thần có sức mạnh sai khiến được sự vật. Người tập thôi miên, lúc mới đầu ngồi yên một chỗ, nhìn chăm chú vào một chấm đen vẽ ở trên tường, để cả tâm trí tập trung vào đó, ngoài ra không còn để ý vào một sự vật gì ở chung quanh nữa. Họ ngồi tập hàng giờ như thế, bao giờ tinh thần không còn tán lọan nữa, và có đủ sức mạnh để sai sử kẻ khác là họ thành công. Những người thôi miên giỏi, có thể dùng thôi miên để trị lành bệnh hay sai sử những người khác làm những chuyện phi thường, như xuất thân đi đến một xứ khác để thăm bà con, kể lại việc quá khứ hay tiền thân của một người khác.v.v... 

Tóm lại, nhờ luồng điện tinh thần đã được tập trung thành sức mạnh, người thôi miên có thể bắt người khác làm những việc kỳ lạ theo ý muốn của mình. Nhưng vì lợi dụng, tâm không chơn chánh, chỉ tham cầu những điều huyền bí, mầu nhiệm bên ngoài, không lo dẹp trừ phiền não, hữu lậu, trau dồi tâm tánh bên trong, để được minh tâm kiến tánh nên không phải là chánh đạo. Ðến khi phiền não hữu lậu nỗi lên hoặc nhiễm sắc tham tài.v.v...thì các thần thông, diệu dụng đều mất hết. Bởi thế nên Phật dạy các đệ tử: ''ngộ được đạo thì tự nhiên sẽ có các thần thông. Nếu được thần thông mà chưa ngộ được đạo thì thần thông ấy có khi bị mất''.

 

II.- Phàm Phu Thiền. 

Phàm phu thiền cũng gọi là thế gian thiền. Sở dĩ gọi là phàm phu hay thế gian thiền là vì các pháp thiền này chưa có thể đưa hành-giả ra ngoài tam giới, chưa chứng được thánh quả, mà vẫn còn quanh quẩn trong vòng phàm phu hay thế gian. Các pháp như Tứ thiền, Tứ không.v.v...đều thuộc phàm phu thiền. 

1.- Tứ thiền. Tức là 4 giai đoạn tham thiền của phàm phu, đi dần từ chổ nhàm chán cái vui thô thiển đến cái vui vi tế thanh tịnh. Bốn giai đoạn tham thiền này tuần tự diễn tiến như sau: 

a.-Sơ thiền, ly sanh hỷ lạc.-Hành giả khởi đầu bằngg tâm lý nhàm chán cái ô trược của cỏi Dục, và mong cầu được xa lìa (ly) được cái ô trược của Dục giới, hành giả sanh vui mừng (sanh hỷ lạc). Ðó là kết quả của giai đoạn tham thiền đầu tiên (sơ thiền). 

b.- Nhị thiền, định sanh hỷ lạc.-Nhưng cái vui nói trên, lại làm cho tâm chao động, cần phải dứt trừ; vì thế hành giả phải vào định. Khi định có kết quả, cái vui mừng thô phù của sơ thiền chấm dứt và cái vui mừng vi tế trong định lại nãy sanh; vì thế cho nên gọi là " Ðịnh sanh hỷ lạc". 

c.-Tam thiền, ly hỷ diệu lạc.-Cái vui mừng ở cõi nhị thiền mặc dù vi tế, nhưng vẫn còn làm cho tâm rung động, vì thế hành giả lại cần bỏ cái vui mừng ở cõi nhị thiền. Khi bõ được cái vui mừng này, thì một nỗi vui mầu nhiệm khác lại phát sinh; vì thế cho nên gọi "Ly hỷ diệu lạc". 

Trong các kinh thường chép: Cõi tam thiền là vui hơn hết (diệu lạc), vì ở các cõi dưới thì chỉ có vui thô động, còn ở các cõi trên thì chủ là tịch tịnh, không còn vui nữa. 

d.-Tứ thiền, xả niệm thanh tịnh.-Ở cõi tam thiền, tuy đã hết cái vui thô đọng của Sơ thiền và Nhị thiền; nhưng vẫn còn cái vui mầu nhiệm. Nhưng hễ còn niệm vui, thì tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh. Hành giả lại phải còn tiến lên một bậc nữa, đi vào cái thiền thứ tư, xã luôn cả cái niệm vui, để tâm được hoàn toà thanh tịnh, vì thế nên gọi là "Xã niệm thanh tịnh". 

2.-Tứ không định.-Sau khi đã trãi qua Tứ thiền và đã thành tựu viên mãn, hành giả tiếp tục tu thiền định và sẽ trãi qua bốn giai đoạn gọi là tứ không định sau đây. Sở dĩ gọi là tứ không, vì khi vào bốn định này, thiên giả sẽ không còn thấy có cảnh thức tâm nữa. 

a) Không vô biên xứ định.-Thiền giả khi đã đạt được tứ thiền, tâm đã được hoàn toàn thanh tịnh, nhung vẫn còn thấy có sắc giới, còn thân còn cảnh và bị hình săc trói buộc, nên sanh tâm nhàm chán. Ðể rời bỏ các hình sắc về thân và cảnh, thiền giả vào định thứ nhất của tứ không, thể nhập với "Hư không vô biên",tức là không thấy có ngăn cách, có biên giới của cảnh. 

b) Thức vô biên xứ định.-Thiền giả khi đã định thứ nhất của tứ không, rời bỏ được sắc tướng của thân và cảnh, thấy được cái vô biên của hư không, nhưng vẫn còn giữ cái bản ngã hẹp hòi, vẫn còn thấy biên giới của tâm thức; khi thành tựu, tức thể nhập được vào cõi "Thức vô biên". 

c) Vô sở hữu xứ định:-Thiền giả ,mặc dù không còn thấy biên giới, ngăn cách của thức nhưng vẫn còn thấy có ngã, có tâm thức, có năng sở; mà hễ còn thấy năng sở, tức còn thấy mình và người , còn thấy có sở hữu. Vậy thiền giả phải vượt lên một tầng nữa, xa lìa sự chao động, năng sở, tức nhập định "Vô sở hữu xứ" (cõi không sở hữu). 

d) Phi tưởng, phi phi tưởng xứ định.-Thiền giả khi đã nhập định"Vô sở hữu", không còn thấy nhân ngã, năng sở, nhưng vẫn còn "tưởng". Mà còn tưởng thì còn vọng động. Vậy thiền giả phải tiến lên một tầng nữa, vào cõi "Ðịnh không tưởng". Nhưng không tưởng đây, không có nghĩa là vô triều vô giác như đất đá; không tưởng, nhưng không phải không tưởng của đất đá,. Không tưởng mà vẫn sáng suốt như một tấm gương, nhưng không phải là một tấm ván hay mặt đá. Ðó là ý nghĩa của cõi định "Phi tưởng , phi phi tưởng". 

Có chỗ nói định "Tứ không" thuộc về ngoại đạo , nhưng người tu thiền, bắt đầu từ Sơ thiền đến Tam thiền, lúc bấy giờ có hai con đường tẻ: Một con đường đi về ngũ A-na-hàm (1) ở cõi tứ thiên (2) thuộc về cảnh giới của thánh thứ ba (3); một con đường đi về tứ không của cõi Vô sắc, thuộc về ngoại đạo. 

(1) Ngũ A-Na-Hàm là năm cõi A-Na-Hàm: a) Vô phiền, b).vô nhiệt, c). thiện kiến, d).thiện hiện, đ)sắc cứu cánh. 

(2) Tứ thiền có chín cõi ngoài năm cõi A-na hàm, còn có bốn cõi: Vô vân, phước sanh, quảng quả, vô tưởng. 

(3)Tiểu Thừa thanh văn có bốn quả thánh A-na hàm thuộc quả thánh thứ ba 

 

III.-Nhị Thừa Thiền 

Nhị Thừa hay Tiểu-thừa thiền, thuộc về xuất thế gian thiền , nghĩa là các người tu theo các loại thiền nầy có thể vượt ra ngoài thế gian, thoát được sanh tử luân hồi. Tuy thế, pháp tu thiền nầy không đem lại một kết quả mau lẹ, lớn lao toàn diên như các lối Ðại-thừa thiền, mà chỉ có tánh cách chậm chạp, tuần tự, cuộc bó, tu một pháp chỉ trừ được phiền não; nghĩa là chứng quả thấp nhỏ, có hạn lượng, nên thuộc về Nhị thừa thiền (Nhị thừa thiền là Thinh văn thừa và Duyên giác thừa). 

Nhị thừa thiền có rất nhiều những phương pháp tu, như Ngũ đình tâm quán, Thập thứt thế xứ quán, Bát hồi quả, Bát thắng xứ quán, Cửu tưởng quán, Thập lục đặng thắng, Lục diệu pháp môn, Tứ vô lượng tâm, Thông minh thiền, Bát niệm, Thập tưởng, Tứ đệ định, Sư tử phấn tấn, siêu việt tam muội, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo..tóm lại, hành quả của Nhị thừa thiền có thể đem giáo-lý của một hay những pháp môn của Nhị thừa để tham sát tham thiền. 

Trong phạm vi hẹp hòi của bài phổ thông nầy, chúng tôi không thể nói hết tất cả pháp môn tu thiền của Nhị thừa được, xin nói sơ lược một ít phương pháp . Nếu hành giả muốn đi sâu vào con đường tu này, phải chuyên môn học tập, phải nhờ minh sư dạy bảo, phải trải qua nhiều thời gian và nhiều công phu tu tập mới thành công. 

1.- Ngũ đình tâm quán: 

Quán sổ tức, trừ tâm toán loạn 

Quán bất tịnh, trừ tâm tham sắc dục 

Quán từ bi, trừ tâm sân hận 

Quán nhân duyên, trừ tâm si mê 

Quán giới phân biệt, trừ tâm chấp ngã. 

(xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV) 

2.- Cửu tưởng quán: 

a.-Tưởng thây sình tướng 

b.-Tưởng thây hoại diệt 

c.-Tưởng máu mủ chảy 

d.- Tưởng thây rục rã 

đ.- Tưởng thây xanh chàm 

e.- Tưởng thây bị giòi rúc rỉa 

ê.-Tưởng thây tan rã 

g.- Tưởng còn lại đống xương 

h.-Tưởng xương bị đốt tiêu. 

3.- Tứ vô lượng tâm: 

a.-Tâm vô từ vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng vô từ vô lượng, bao bọc chúng sanh trong tình thương rộng lớn vô biên. 

b.-Tâm bi vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng bi vô lượng, cứu khổ cho chúng sanh trong năm đường. 

c.-Tâm hỷ vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng tâm Hỷ (hoan hỷ) vô lượng, làm cho chúng sanh đều được Hỷ. 

d.-Tâm xã vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng Xã vô lượng, không lưu luyến cố chấp một việc gì. 

Tứ vô lượng tâm là một pháp môn rất linh nghiệm: Phàm phu tu tứ vô tâm lượng, thì sau khi mạng chung sẽ sanh làm vua ở cỏi Tứ thiền; Nhị thừa tu Tứ vô lượng tâm, thì phước đức được tăng trưởng, mau dặng Niết bàn, bồ tát tu Tứ vô lượng tâm thì lòng từ bi mở rộng vô biên và làm lợi ích cho chúng sanh không xiết kể . 

(xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV) 

4.- Thập lục đặc thắng: 

Thập lục đặc thắng tức là mười sáu phép rất đặc biệt thù thắng, có thiền có quán, có đủ các thiền và có thể phát sanh ra quả vô lậu, không phải như Tứ thiền, tứ không, không ra khỏi sanh tử. Mười sáu phép đặc biệt thù thắng này là: 

a.- Biết hơi thở vào  

b.- Biết hơi thở ra 

c.- Biết hơi thở dài ngắn 

d.- Biết hơi thở khắp thân 

đ.- Trừ các thân hạnh 

e.- Thọ hỷ 

ê.- Thọ lạc 

f.- Thọ các tâm hạnh 

g.- Tâm tác hỷ 

h.- Tâm tác nhiếp 

i.- Tâm tác giải thoát  

k.- Quán vô thường 

l.- Quán xuất tán 

m.- Quán ly dục 

n.- Quán diệt 

o.- Quán phí xả. 
   5.- Thông minh thiền: 

Thông minh thiền tức là tham thiền để được lục thông và tam minh. 

a.-Lục thông tức là sáu phép thần thông như:thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng thông, lậu tận thông. 

b.-Tam minh tức là thiên nhãn minh, thiên nhĩ minh, lậu tận minh. 

6.- Thập nhứt thế xứ quán: 

Thập nhứt thế xứ quán tức là phép quán mười món biến khắp các xứ sở, sau đây: 

a.- Quán sắc xanh, khắp giáp tất cả chổ 

b.- Quán sắc vàng, khắp giáp tất cả chổ 

c.- Quán sắc đỏ, khắp giáp tất cả chổ 

d.- Quán sắc trắng, khắp giáp tất cả chổ 

đ.- Quán đất, khắp giáp tất cả chổ 

e.- Quán nước, khắp giáp tất cả chổ 

ê.- Quán gió, khắp giáp tất cả chổ 

g.- Quán lửa, khắp giáp tất cả chô 

h.- Quán hư không khắp giáp tất cả chổ 

i.- Quán thức tâm, khắp giáp tất cả chổ 

7.- Bát bối xã quán: 

Bát bối xã quán tức là tám phép quán có thể trái bỏ (bối xả) cảnh giới Tứ thiền, tứ định của thế gian, dể thành tựu pháp xuất thế gian. Tám phép bối xả quán là: 

a.- Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc để trái bỏ cảnh giới Sơ thiền. 

b.-Trong không sắc tướng, ngoài quán sắc, để bỏ cảnh giới Nhị thiền . 

c.- Quán thanh tịnh để trái bỏ cảnh Tam thiền và Tứ thiền . 

d.- Quán trái bỏ Hư không vô biên xứ. 

Ð.- Quán trái bỏ Thức vô biên xứ 

e.- Quán trái bỏ Vô sớ hữu xứ 

ê.- Quán trái bỏ Phi tưởng, phi phi tưởng xứ. 

f.- Quán trái bỏ diệt thọ tưởng. 

8.- Bát thắng xứ quán: 

Thắng có nghĩa là thù thắng, là hơn. Tám phép quán nầy về cảnh sở quán, cũng như công đức thu thập được trong khi thu hành, đều thù thắng hơn tám món Bối xã trên, nên gọi là ''Bát thắng xứ quán'''. 

a.- Trong có sắc tướng, ngoài quán có ít sắc, thắng xứ. 

b.- Trong có sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ  

c.- Trong không sắc tướng, ngoài quán ít sắc ,thắng xứ  

d.- Trong không sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ  

đ.- Quán sắc xanh, thắng xứ  

e.- Quán sắc vàng, thắng xứ 

ê.- Quán sắc đỏ, thắng xứ 

f.- Quán sắc trắng, thắng xứ 

9.- Lục diệu pháp môn: 

Lục diệu pháp môn là sáu phép môn mầu nhiệm sau đây: 

a) Số. b) Tùy. c) Chỉ. d) Quán. e) Hoàn. f) Tịnh. 

(Xem quyển Lục Diệp pháp môn) 

10.- Bát niệm xứ: 

Với phép quán tám niệm sau nầy, thiền giả sẽ trừ được sự sợ hãi khi tu cửu tưởng và sẽ được đạo quả  

a)Niệm Phật. b) Niệm pháp . c) Niệm tăng. d) Niệm giới. f) Niệm xả. g) Niệm hơi thở ra vào. h) Niệm chết(nhớ chết). 

11.- Thập quán tưởng: 

Thập quán tương gồm có: a). Tưởng vô thường, b). Tưởng khổ, c), Tưởng vô ngã , d). Tưởng ăn vật bất tịnh, đ). Tưởng thế gian không vui, e). Tưởng chết, f). Tưởng bất tịnh, g). Tưởng đoạn, h). Tưởng lìa, i). Tưởng hết. 

12.- Cửu thế đệ định: 

Cửu thế đệ định là 9 món thiền-định mà thiền-giả sẽ tuần tự theo thứ lớp tu-luyện: từ Sơ-thiền đến Tứ-thiền, rồi đến Tứ-định, và cuối cùng, cộng thêm định Diệt-thọ-tưởng là chín món tất cả. 

13.- Sư-tử phấn tấn Tam-muội: 

Với pháp thiền này, hành-giả bắt đầu tham-thiền như pháp Cửu-thứ-đệ định nói ở trên, nghĩa là bắt đầu từ Sơ-thiền đến thiền-định thứ chín là Diệt-thọ-tưởng định, rồi đi ngược trở lại, từ thiền thứ chín đến Sơ-thiền. Thiền-giả tới lui trong thiền-định một cách thông suốt, tự-tại, đường hoàng, oai nghi như dáng đi đứng, tiến thoái của con sư-tử, nên gọi là ''Sư-tử phấn tấn tam-muội ''. Kết quả của lối thiền này, nếu được hòan toàn siêu-việt thì thiền-gỉa sẻ là Bồ Tát. Nếu không hoàn-toàn tự-tại và chưa siêu-việt thì thành Thanh Văn.  

14.-Ba mươi bảy pháp trợ đạo: 

Thiền-giả cũng có thể lấy một pháp-môn hay nhiều pháp-môn trong số 37 pháp trợ-đạo để tham-thiền, tu-luyện. Ba mươi bảy pháp trợ-đạo đã có nói rỏ trong Phật-học Phổ-thông khóa ba. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nhắc qua để quý độc-giả nhớ lại thôi: 

a). Ngũ căn b). Ngũ lực 

c). Tứ chânh cần d). Tứ như ý túc 

đ). Tứ niệm xứ e). Thất Bồ-đề phần 

ê). Bát chánh đạo phần.

 

Kết Luận Về Nhị Thừa Thiền 

Các pháp tu thiền của Nhị-thừa hay Tiểu-thừa nói trên, như quý độc-giả đã thấy, nhiều không thể kể xiết. Tuy thế, hành-giả muốn cho có kết quả, phải chọn lựa phương pháp nào thích-hợp với trình-độ của mình, chứ không phải gặp pháp môn nào tu theo pháp-môn nấy được. Sự lựa-chọn nầy cũng cần được các bậc thầy hướng-dẫn. Vì-thế, chúng ta thường nghe ngày xưa các vị chân tu đi ''cầu pháp '', hết xứ nầy đến xứ nọ, không quản công lao khó-nhọc, có nhiều khi hy-sinh cả tính mạng nữa. Cầu pháp nghĩa là tìm cầu minh sư chỉ dạy phương-pháp tu hành, như Ngài Thiện-Tài đi tham-cầu 53 vị Thiện-triều-thức, Ngài Huyền-Trang đi khắp nước Trung Hoa rồi sang Ấn Ðộ để cầu Pháp. Hành-giả sau khi được vị minh-sư nhận lời, còn phải theo hầu hạ một thời-gian rất lâu để vị minh-sư ấy quan sát, thăm dò căn cơ, trình độ một cách chu đáo, như Ngài Xá-lợi-phất đem pháp Sổ-tức dạy người giữ nghĩa-địa, hay pháp quán Bất-tịnh dạy người thợ rèn tu, thì chỉ hoài công vô ích, chứ không kết-quả gì hết. 

Hành-giả cũng nên nhớ một điều nữa, là trên bước đường tu hành chớ nên bôn-chôn, nóng-nảy vô ích. Sự tu hành củng như trồng cây, không thể nóng nảy được. Người trồng cây, lo vô phân tưới nước, làm đây đủ bổn phận của mình, rồi kiên-nhẫn chờ đợi; đến khi đủ sức đúng thời tiết, cây sẽ tự đơm bông trổ trái một cách tự nhiên. 

Người tu hành củng vậy, cứ hằng ngày lo tu tập, tích-trữ nhiều năm, đến khi công tròn quả mãn, thì được minh tâm kiến tánh. 

Hãy nhớ rằng tu-hành phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp, chứ không thể mới một hai đời mà thành Phật được.

 

IV.- Ðại Thừa Thiền 

Ðại-thừa Thiền là pháp tu thiền bực của Ðại-thừa, củng gọi là xuất-thế-gian thượng thượng thiền. Pháp thiền này chỉ dành riêng cho những người thượng căn rất thông-minh và lanh-lợi tu. Những bực Ðại-thừa Bồ Tát đã nhiều đời nhiều kiếp tu hành, phá hết các phiền nảo thô-trược, chỉ còn vi-tế vô-minh, nếu kiếp này gặp được minh-sư chỉ giáo cho phép tu Ðại-thừa thiền nầy, thì sẽ được tỏ ngộ. Cũng như cành hoa sắp nở, chỉ thêm chút ít công phu vun tưới, thì hoa sẽ trổ ngay. Yếu-tố căn bản của Ðại-thừa thiền là trí-huệ. Thiền-giả phải lấy trí-huệ để tự quan sát tâm-tánh. Nếu thiếu trí-huệ, thiền-giả khó được kết-quả khi tu theo Ðại-thừa thiền. 

Các Pháp Thiền Ðịnh Của Ðại Thừa  

Các pháp thiền-định của Ðại-thừa rất nhiều như: Pháp-hoa tam-muội, niệm Phật tam-muội, Ban châu tam-muội, Giác ý tam-muội, Thủ-Lăng-Nghiêm tam-muội, Tứ-tánh-thiền, Nhứt-thế-thiền, Nhứt thế môn thiền, Thiện nhơn thiền,, Nhứt tế hạnh thiền, Trừ phiền-não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh-tịnh thiền, Tự-tánh thanh-tịnh thiền, Như lai tối thượng thừa thiền, Ðat-ma sư-tổ thiền .v.v. 

Dưới đây chúng ta hãy nghiên cứu qua một số pháp thiền-định thông thường của Ðại-thừa. 

1.- Sao gọi là '' Pháp hoa tam-muội ''? 

Phương pháp này dựa theo kinh Ðại phẩm Bát-nhã. Hành-giả tu pháp này, tâm ý giác-ngộ tất cả các pháp và được vô-sanh-nhẫn (độc giả nào muốn rỏ thêm, hảy xem lời bình luận của Ngài Trí-Giả-Ðại-Sư). 

4.- Sao gọi là ''Thủ nghiêm tam muội''? 

Phương-pháp này căn cứ theo kinh Thủ-lăng-nghiêm. Hành-giả phải nhận chân rằng các pháp đều từ thưc-thể như là Như-Lai-Tạng tâm mà tùy duyên biến-hiện, như huyễn, như hóa. Hiểu rỏ các pháp đều như huyễn như hóa, rồi dựa theo lý ấy mà tham-thiền nhập-định, nên cũng gọi là như hiển tam-muội. 

5.- Sao gọi là '' Tự-tánh thiền, Nhứt thế thiền, nan thiền .v.v..''? 

Các món thiền như ''Tự tánh thiền, Nhứt thế thiền, Nan thiền, Nhứt thế môn thiền. Thiện nhơn thiền, Nhứt thế hạnh thiền, Trừ phiền não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh- tịnh tịnh thiền '', gồm cả thảy chín món và được gọi là Ðại-thừa thiền. 

Sở dĩ, gọi các món thiền này là Ðại-thừa thiền, vì các vị Bồ Tát nhờ y theo các món thiền này mà tấn tu làm nên được công-hạnh rộng lớn, thắm sâu không thể lường được (độc giả nào muốn hiểu rỏ thêm, hảy đọc quyễn ''Pháp giới thứ đệ sa môn'' do Ngài Trí-Giả Ðại-Sư soạn). 

6.- Sao gọi là ''Trực-chỉ thiền''? 

Trực-chỉ thiền là pháp thiền chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, không dùng phương-tiện tu quán và cũng không cần kinh giáo. 

7.- Sao gọi là '' Như-lai thanh-tịnh thiền''? 

Như-lai thanh-tịnh thiền là pháp thiền thanh-tịnh của Như-lai. Như chúng ta đã biết, Ðức-Phật Thích-Ca trước khi chưa thành đạo, đã ngồi tham-thiền 6 năm dưới gốc cây Bồ- đề. Sau khi phá trừ hết vô minh phiền-não, tâm được thanh tịnh, Ngài chứng được đạo Bồ-đề. Do đó, phép thiền này được gọi là '' Như-lai thanh-tịnh thiền''. 

8.- Sao gọi là '' Như-lai Tối-thượng-thừa thiền ''? 

Ðây là phép thiền cao-siêu hơn tất cả các phép thiền mà đức Như-lai đã ứng-dụng. 

9.- Sao gọi là Ðạt-Ma Tổ-Sư thiền ''? 

Như chúng ta nghe, Ngài Ðạt-Ma sau khi từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa truyền đạo, đã ngồi xây mặt vào tường chín nằm, tại chùa Thiếu-Lâm để tham-thiền. Ðat-Ma Tổ-sư thiền tức là phép thiền mà Ngài đã tu luyện ở chùa Thiếu-Lâm vậy. 

Các phép thiền của Ðại-thừa, như quý độc-giả đã thấy ở phần trên, tuy nhiều không kể xiết, tựu-trung có thể chia làm hai loại lớn: 

1.- Một loại thường gọi là tam-muội, căn cứ theo kinh sách của Phật Tổ truyền dạy mà tu tập, có tu có quán, có phương-pháp nhất định, như Pháp-hoa tam-muội, Niệm Phật tam-muội, Ban-châu tam-muội, Giác-ý tam-muội, Thủ-tăng-nghiêm tam-muội v.v...Các loại tam-muội này vì có quy củ, có phương pháp nhất định và được phổ biến bằng văn tự, tương đối ít khó khăn và bí hiểm hơn loại thứ hai mà chúng tôi sắp nói dưới đây, nên được nhiều người tu luyện và số người thành tựu cũng nhiều. 

2.- Một loại thứ hai, được truyền dạy không căn-cứ theo kinh-giáo, không có văn tự, tức là loại thiền ''giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn-tự '', như các pháp '' Trực-chỉ thiền, Như-lai thanh-tịnh thiền, Tự-tánh thanh-tịnh thiền, Như-lai tối-thượng thừa thiền, Ðạt-Ma Tổ-sư thiền v.v...Với loại thiền này là người ngộ trước dùng tâm giác-ngộ của mình để ấn-chứng cho người sau giác ngộ. Ðó tức là loại thiền ''Dĩ tâm ấn tâm, trực chỉ nhơn tâm kiến tánh thành Phật '': Vị minh-sư dùng tâm mình đễ tiếp xúc với tâm đệ tử, truyền thẳng sự giác ngộ của mình qua tâm của đệ-tử; như dùng ngộn đèn sáng chói mà tâm mình mã bừng phát ra để chiếu vào tâm đệ-tử; và tâm này cũng lại nhờ ảnh hưởng trực-tiếp của sự giác-ngộ của thầy mà bừng sáng lên và truyền nối từ thầy đến trò, từ đời này sang đời khác. Loại thiền náy tức là loại thiền đã xây dựng truyền nối từ Ðức-Phật Thích-Ca xuống cho đến Ngài Lục-tổ. Ðây là một lối ''truyền đạo'' hay ''truyền đăng'' trực tiếp linh động chính thống, nhưng không phổ biến như lối trên, vì mỗi đời chỉ truyền cho mỗi người, chứ không thể truyền cho nhiều người trong một lúc được. Và người được ấn chứng phải là một vị có trí-huệ xuất chúng, siêu phàm không ai sánh kịp. 

Cách truyền dạy pháp thiền này có hai lối: 

a). Tham cứu một câu thoại đầu. Thoại đầu là một câu nói thiền hay ''công-án'', nghĩa là một đề án hay luận án gồm một câu rất ngắn, nhưng ý-nghĩa sâu-xa, đối với người thường không hiểu được. 

Khi một vị Tổ của phái Thiền-Tôn này nhận thấy trong hàng đệ-tử của mình có một vị xuất chúng, có thể giữ giềng mối đạo tiếp nối sự nghiệp của Thiền-tôn và tỏ ngộ đạo mầu được, thì vị Tổ trao cho vị đệ-tử ấy một câu thoại-đầu (một luận-án, như bây giờ, các vị bác sĩ hay tiến sĩ, trước khi ra trường, phải nạp cho ban giám khảo). Vị đệ-tử này, đêm ngày tham cứu câu thoại-đầu ấy, có nhiều khi trải qua một thời gian mười năm hoặc mười lăm năm mới tỏ ngộ được. Sau khi xét thấy đệ-tử của mình đã tỏ ngộ đạo mầu rồi, vị Tổ-sư mới ấn chứng cho. 

b). Nhưng nhiều khi vị Tổ-sư lại không trao cho đệ-tử của mình một câu thoại-đầu để tham cứu, mà lại dùng những hình thức rất lạ-lùng, người thường khó có thể hiểu được như : đánh, hét, ra dấu, mời ăn cơm, uống nước trà v.v...chẳng hạn; như có một vị đệ-tử đến cấu đạo với một vị Tổ-sư, vị này không nói gì cả, chỉ dùng Thiền-tượng (roi thiền) đánh đập vị đệ-tử kia, để xem sự phản ứng ấy như thế nào. Do sự phản ứng mà vị Tổ-sư biết được vị đệ-tử kia đã giác ngộ hay chưa. 

( Xem Pháp Bảo Ðàn Kinh). 

Tóm lại, pháp thiền này rất là màu nhiệm, không thể nghĩ bàn được, cho nên người xưa có nói: ''Thiền cơ huyền diệu'' (máy thiền mầu-nhiệm). Các vị Tổ-sư trong khi truyền đạo, không dựa theo một nguyên tắc, một phương pháp gì nhất định cả. Các Ngài tùy theo thời cơ mà ứng-biến, nghĩa là quan sát căn cơ của người cầu đạo, xét đã đúng thời chưa, và phải dùng phương pháp gì cho vị đệ-tử kia được ngộ đạo, rồi các Ngài tùy cơ lập pháp. Tất nhiên phương-pháp này các Ngài dùng chỉ trong nhất thời thôi. Do đó, mà không thể biết trước được các Ngài sẽ dùng phương-pháp gì để truyền thọ. 

Về sau cũng có người bắt chước những phương-pháp như đánh, hét v.v...nhưng vì không biết quán thời cơ, nên chỉ làm cho người đau và sợ mà thôi, chứ không có hiệu quả gì. 

Hệ Thống Truyền Thừa Của các Tổ Trong Phái Thiền Tông Tại Ấn Ðộ  

1.-Ngài Ma Ha Ca Diếp, Sơ-tổ của Thiền-tôn ở Ấn Ðộ: 

Trong kinh Phạm thiên vấn Phật quyết nghi và trong bộ "Thích nghi kê cổ "quyển nhất,chùa chép đại khái như sau: khi Phật ở hội Linh Sơn, có ông Ðại Phạm Thiên Vương, đem hoa sen dâng cúng Phật. Phật cầm cành hoa sen lên để khai thị cho đại chúng (thiền cơ). Tòan thể chúng hội đều yên lặng, không ai hiểu thâm ý của Phật như thế nào. Duy có Ngài Ma Ha Ca Diếp là tỏ ngộ được thiền cơ của Phật, nên đổi sắc mặt vui vẻ, chúm chím mỉm cười (phá nhan vi tiếu). Ðức Phật nhận thấy, liền ấn chứng (chứng nhận) cho Ngài Ca-Diếp được đắc truyền và làm tổ thứ nhất (Sơ tổ ở Ấn Ðộ) Phật tuyen bố như sau: 

Nguyên văn:  

Ngô hữu chánh pháp nhãn tạng  

Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, 

Vi diệu pháp môn, kim phú Ma Ha Ca Diếp 

Dịch nghĩa: 

Ta ương "chánh pháp nhãn tạng",cũng gọi là Niết bàn diệu tâm", cũng tên là thật tướng vô tướng" cũng gọi là "Vi diệu pháp môn", nay ta truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp. 

Sau đó, Phật truyền y bát và nói bài kệ truyền pháp như sau:  

Nguyên văn: 

Pháp pháp bổn vô pháp  

Vô pháp pháp, diệc pháp  

Kim phú vô pháp thời  

Pháp pháp hà tằng pháp

Dịch nghĩa: 

Các pháp vốn không pháp 

Không pháp cũng là pháp  

Nay truyền cái vô pháp (vô tướng)  

Vô pháp nào có pháp. 

Ðây là nguồn gôc phát khởi Thiền tôn, lấy tâm truyền tâm (dĩ tâm ấn tâm) không dùng kinh giáo và phương tiện. 

2.- Ngài A-Nan, Tổ thứ hai của Thiền tôn ở Ấn Ðộ: 

Một hôm Ngài A-Nan hỏi Ca-Diếp: 

- Ngoài việc truyền y bát, đức Thích tôn còn truyền pháp gì riêng cho Ngài nữa không? 

Tổ Ca-Diếp gọi to: 

- A-Nan ! 

Ngài A-Nan: Dạ ! 

Tôí dạy tiếp: 

- Cây sào phướn trước của chùa ngã ! 

Ngài A-Nan liền tỏ ngộ Thiền cơ, nên được tổ Ca-Diếp truyền y bát và ấn chứng cho làm vị tổ thứ hai. (xem Phật học từ điển, trang 1638 về mục "Ca-Diếp can sát"). 

Từ Ngài A-Nan trở về sau, có thêm 26 vị Tổ về Thiền tôn nữa. Cộng cả Ngài Ca-Diếp và Ngài A-Nan, ở Ấn Ðộ có cả thảy là 28 vị Tổ, thứ lớp tuần tự như sau: 

1 .- Tổ Ma Ha Ca Diếp  2. Tổ A-Nan 

3. Tổ Thương-Na Hòa-Thứ  4. Tổ Ưu-Ba Cúc Ða 

5. Tổ Ðề-Ða-Ca  6. Tổ Di Giá Ca 

7. Tổ Bà Tu Mật  8 Tổ Phật Ðà Nan Ðề 

9 Tổ Phục Ðà Mật Ða  10 Tổ Hiếp Tôn Giả 

11 Tổ Phú Na Giạ Xa  12 Tổ Mã Minh 

13 Tổ Ca Tỳ Ma La  14 Tổ Long Thọ 

15 Tổ Ca Na Ðề Bà  16 Tổ La Hầu Na Ða 

17 Tổ Tăng Già Nan Ðề  18 Tổ Già Ða Xá Ða 

19 Tổ Cưu Ma La Ða  20 Tổ Xà Giạ Ða 

21 Tổ Bà Tu Bàn Ðầu  22 Tổ Ma Noa La 

23 Tổ Hạc Lặc Na  24 Tổ Sư Tử 

25 Tổ Bà Xá Tư Ða  26 Tổ Bát Như Mật Ða 

27 Tổ Bát Nhã Ða La  28 Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma. 

(Theo truyện Phú Pháp Tạng Nhơn duyên) 

Hai mươi tám vị tổ này được làm rực rỡ cho Phật Giáo ở Ấn Ðộ, chứ không cho riêng gì Thiền Tôn Phật Giáo sau này được lan rộng trên toàn cầu, một phần lớn do công đức của 28 vị Tổ này. Ngày nay khi nhắc đến những tên như Ma Ha Ca Diếp, A Nan, Hiếp Tôn Giả, Mã Minh, Long Thọ, không một Phật tử nào là không biết đến. Và sự kiện này chứng tỏ rằng phần lớn các vị Tổ có tiếng tăm đều ở trong Phật Thiền Tôn. Sự nhận xét này không những được chứng minh ở Ấn Ðộ, mà cả đến Trung Hoa, Nhật-Bản và đến Việt-Nam nữa. 

2.-Sự Truyền Thừa Thiền Tông Ở Trung Hoa 

1.- Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma, sơ Tổ của Thiền Tôn ở Trung Hoa. 

Sau khi Ngài Bát Nhã Ða La, vị Tổ 27 của Thiền Tôn ở Ấn-Ðộ, ấn chứng cho làm tổ thứ 28, Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma ở lại Ấn Ðộ ít lâu, rồi vâng lời phú chúc của sư phụ, Ngài sang Trung Hoa truyền đạo. 

Ngài sang Trung Hoa nhằm vào đời vua Lương Võ Ðế (528 dl.) trị vì, Ngài đến yết kiến vua và hy vọng rằng vua sẽ giúp một tay đắc lực trong việc truyền bá Phật Giáo ở Trung Hoa. Nhưng nhận thấy căn cơ của vua còn thấp thỏi và tín ngưỡng của vua chỉ có tánh cách hình thức bề ngoài, nên tổ Ðạt Ma được giả từ vua đến tu tại chùa Thiếu Lâm, ở Trung Sơn (đất Ngụy). Ngài ngồi xây mặt vào tường, tham thiên nhập định trong chín năm, đợi thời cơ thuận tiện để truyền đạo (xem quyển tổ Ðạt Ma, do Hương Ðạo xuất bản). Chính lối tham thiền này mà đời sau có tên là ''Ðạt Ma tổ sư thiền ''. trong thời gian chín năm, Ngài tham thiền ở Thiếu Lâm, có nhiều vị tu sĩ nghe danh Ngài , đến cầu đạo, nhưng Ngài không tiếp một ai. Ðó cũng là một phương pháp dò xét căn cơ, tâm tánh của những người đến cầu đạo có thiết tha với đạo hay không. Trong số những người đến cầu đạo này, chỉ có một vị tỏ ra vô cùng kiên nhẫn nhiệt thành, dám hy sinh tất cả vì đạo. Ðó là Ngài Thần Quang mà sau này được tổ Ðạt Ma ấn chứng cho làm tổ thứ hai của Thiền Tôn ở Trung Hoa, và đổi pháp hiệu là Huệ Khả. 

Để làm kim chỉ nam cho người tu thiền đời sau, tổ Bồ Ðề Ðạt Ma còn truyền lạ bộ kinh Lăng Già gồm 4 quyển, rất có giá trị. 

2.- Ngài Huệ Khả (Thần Quang) vị tổ Thiền Tôn thứ hai ở Trung Hoa. 

Ngài Thần Quang, nghe danh tổ Ðạt Ma đến cầu đạo. Nhưng tổ không tiếp. Ngài Thần Quang quỳ đợi luôn mấy năm, suốt mấy năm ở ngoài hiên chùa; nhưng tổ cũng không đoái hoài đến. Cuối cùng, để tỏ lòng chí thành tột mức của mình. Lúc bấy giờ tổ Ðạt Ma mới xoay lại hỏi: 

Ông đến đây cầu gì? 

Ngài đáp: 

Con cầu pháp an tâm. 

Tổ bảo: 

Ông đem tâm đến đây để ta an cho. 

Ngài thưa: 

Con tìm tâm không được. 

Tổ dạy: 

Ta đã an tâm cho ông rồi đó ! 

Ngài liền ngộ đạo. Tổ Ðạt Ma nói bài kệ sau đây, trong khi truyền pháp cho Ngài Huệ Khả: 

Nguyên văn: 

Ngô bổn lai tư độ 

Truyền pháp độ mê tình 

Nhất hoa khai ngũ diệp  

Kết quả tự nhiên thành. 

Dịch nghĩa: 

Ta đến nước Trung Hoa 

Truyền pháp độ kẻ mê 

Một bông trổ năm cánh 

Kết quả tự nhiên thành. 

3.- Ngài Tăng Xán, vị tổ thứ ba của Thiền ở Trung Hoa. 

Ngài Huệ Khả, sau một thời gian hành đạo, lại ấn chứng cho Ngài Tăng Xán làm vị Tổ thứ ba của thiền tôn ở Trung Hoa.  

4.- Ngài Ðạo Tín, vị tổ thứ tư của Thiền tổ ở Trung Hoa. 

Tổ Tăng Xán truyền pháp cho Ngài Ðạo Tín là vị tổ thứ tư. Sự truyền pháp ại chia ra làm hai dòng, do hai ngài sau đây cầm đầu. 

Ngài Hoằng Nhẫn ở núi Ðông Sơn, huyện Hùynh Mai. 

Ngài Pháp Dung ở non Ngưu Ðầu, cũng gọi là "Ngưu Ðâu Thiền". 

5.- Ngài Hoằng Nhẫn,vị tổ thứ năm của Thiền tôn ở Trung Hoa.  

Chữ Hoằng Nhẫn có nghĩa là kiên nhẫn tột độ, chịu đựng lâu dài. Hai chữ này có thể tóm tắt cho cả một câu chuyện truyền pháp, bao hàm nhiều tính chất nhẫn nhục sau đây: 

Một hôm Ngài Ðạo Tín, vị tổ thứ tư Thiền tôn,thấy một ông già đến cầu đạo, căn tánh thông lợi,có thể được truyền thọ đạo pháp. Nhưng vì tuổi ông đã già, chẳng còn sống được lâu nên Tứ tổ dạy: 

Ta đã già, ông đã già ! Nếu truyền pháp cho ông ít ngày ta chết, rồi ông cũng chết, thì ai ở lại mà truyền đạo? Vậy nếu ông có thể đi đổi xác, ta sẽ truyền đạo cho ! Ông già thưa: 

Nếu con đi đổi xác chưa xong, mà lỡ Tổ được tịch trước, thì làm sao truyền đạo cho con được? 

Ðức Tứ tổ dạy: 

Ta sẽ ở nán lại cỏi đời để chờ ông. 

Vâng lời tổ dạy, ông giá đi vòng theo dòng suối, thấy một cô gái gồi giặt bên bờ. Ông già hỏi: 

Cô cho tôi ngủ nhờ một đêm, có được không? 

Cô gái thưa: 

Ông hãy hỏi cha mẹ cháu. 

Ông già nói tiếp: 

Nếu cô bằng lòng thì tôi hỏi sau. 

Cô gái trả lời: 

Dạ bằng lòng 

Ðược lời, ông già đi khuất vào rừng rồi bỏ xác. 

Còn cô giá kia, không có chồng mà từ dó trở nên có mang. Bị cha mẹ đánh đuổi, cô gái phải bỏ nhà đi ăn xin vất vã, nhẫn chịu không biết bao nhiêu điều khổ nhục. Sau khi sanh được đứa bé được vài tuổi, cô bồng nó vào chùa. Ðứa bé vừa trông thấy Tứ tổ, mừng rỡ mỡ miệng cười. Tổ nói: 

-Ta đang trông đợi ngươi đây ! 

Tổ xin đứa bé để nuôi và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Ngài đặt tên ấy là có ý rằng: Tổ đã nhẫn đợi, chưa chết để chờ truyền đạo, và bà mẹ đã chịu bao sự nhục nhã, oan ức, khổ sở để sanh đứa bé. 

Tổ Ðạo Tín nuôi đứa bé cho đến khi khôn lớn rôi truyền pháp cho. Ngài Hoằng Nhẫn tức là vị tổ thứ năm của Thiền Tôn. sau khi truyền đạo xong, tứ tổ Ðạo Tín mới viên tịch (xem Quy Nguyên Trực Chỉ âm nghĩa). 

6.- Ngài Huệ Năng vị tổ thứ sáu của Thiền Tôn ở Trung Hoa. 

Ngài Huệ Năng lúc nhỏ nhà nghèo, không biết chử, chuyên nghề đốn củi đem bán lấy tiền về nuôi mẹ già. Một hôm, gánh củi đến bán cho một nhà phú ông. Trong khi chờ đợi Ngài lắng nghe chủ nhà tụng kinh Kim Cang. Ðến câu ''ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm '', Ngài liền ngộ đạo. 

Ðợi cho chủ nhà tụng kinh xong, Ngài trầm trồ khên ngợi và hỏi rằng: 

Chẳng hay ông tụng kinh gì mà hay quá vậy? 

Tôi cũng mốn thọ trì tụng đọc như ông. 

Phú ông mách cho Ngài: 

Tại núi Ðông Sơn, huyện Huỳnh Mai có đức Ngủ tổ, thường truyền Phật độ người, ông nên đến đó mà mà cầu đạo. 

- Ngài trả lời: 

Tôi cũng muốn như thế lắm; ngặt còn mẹ già không ai nuôi dưỡng nên không biết liệu làm sao ! 

- Phú ông bảo: 

Nếu ông thật quyết chí xuất gia cầu đạo, thì hãy về cố gắng đốn củi tật nhiều, đem đến đây tôi sẽ đổi vàng cho. Ông lấy vàng ấy để lại nuôi mẹ, rồi đi xuất gia. 

- Ngài Huệ Năng mừng rỡ trở về, ngày đêm cố gắng đốn thật nhiều củi, đem đến bán cho Phú ông, và sau khi thu xếp việc nhà xong xuôi, Ngài đến huyện Huỳnh Mai cầu bái yết đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. 

- Ngũ tổ thấy Ngài hỏi: 

Ông ở đâu đến và đến đây để cầu việc gì? 

- Ngài đáp: 

Con từ phương Nam đến đây, để cầu làm Phật. 

Ngũ tổ thấy hình thù Ngài kì dị, nhưng căn tánh lại thông lợi phi thường, có thể nối Tổ vị sau này. Ngài không muốn trong chúng biết, nên giả quở to rằng: 

Ông là người mọi rợ phương Nam mà cầu thành Phật làm gì? 

- Ngài Huệ Năng trả lời: 

Bạch tổ sư ! Thân người tuy có phân chia kẻ Nam người Bắc, chứ Phật tánh vẫn bình đẳng, không phân biệt Nam, Bắc. 

Ngũ tổ sợ trong công chúng để ý, lộ bí mật nên chẳng hỏi han gì nữa, mà truyền cho Ngài xuống nhà trù công giã gạo 

Trải qua một thời gian lâu, một hôm Ngũ tổ thấy mình đã già, muốn chọn người truyền Tổ vị, nên tuyên bố rằng: 

Nếu ai làm kệ dâng lên, được tỏ ngộ thiền cơ, thì sẽ ấn chứng và truyền pháp cho làm Tổ thứ sáu. 

Tin này được truyền ra rất mau chóng. 

Trong chúng mọi người đều nô nức, xôn xao bàn tán: 

Trong chúng chỉ có Thưởng tọa Thần Tú là thông minh, học nhiều và tài giỏi hơn hết, chắc thế nào Thượng tọa củng được truyền tổ vị. 

Nhưng Thượng tọa Thần Tú lại không dám tin chắc mình sẽ được cái may mắn ấy, nên không dám trực tiếp đem dâng bài kệ của mình cho Ngủ Tổ. Thượng tọa đợi đêm khuya thanh vắng, trong chúng đều ngủ cả, mới cầm đèn hồi hợp đến viết một bài kệ trên vách phía đông lang và không dám ký tên. Thượng tọa Thần Tú nghĩ thầm: "Nếu nhờ công phu tu hành bấy lâu mà bài kệ này được trúng ý Tổ, thì đây là một diễm phúc lớn lao vô cùng cho ta. Lúc bấy giờ ta sẽ ra bái nhận, bằng không thì ta sẽ làm thinh như không ai biết". 

Nguyên văn: 

Thân thị Bồ-Ðề thọ 

Tâm như minh cảnh đài 

Thời thời thường phất thức 

Dật sử nhá trần ai. 

Dịch nghĩa: 

Thân là cây Bồ-Ðề  

Tâm như đài gương sáng 

Thường ngày hằng quét lau 

Chớ cho dính bụi trần. 

Sáng nay, tăng chúng qua lại thấy bài kệ xuất hiểntên vách đông lang, ai nấy đều trầm trồ kính phục: 

-Ðây rồi! Kế tổ vị đây rồi! Nếu không phải Thượng tọa Thần Tú thì còn ai nữa! Nghe tăng chúng trầm trồ khen ngợi, nô nức kéo nhau đến xem bài kệ, Ngài Huệ Năng củng từ nhà trù theo chúng lên xem. Sau khi xem xong bài kệ,Ngài Huệ Năng nói:- Còn đứng ngoài cửa rào. 

Kẻ qua người lại nghe Ngài nói thế, bĩu môi khinh bỉ: 

-Ðã dốt nát không biết một chữ thế kia, mà dám chê là còn đứng ngoài cửa rào! 

Ngài Huệ Năng ôn tồn bảo: 

-Tôi củng có một bài kệ, xin các Ngài viết lên vách giùm tôi, vì tôi không biết chữ. 

Một người liền hoan hỷ viết hộ. Huệ Năng đọc bài kệ sau đây: 

Nguyên văn: 

Bồ-Ðề bổn vô thọ 

Tâm phi minh cảnh đài 

Bổn lai vô nhứt vật 

Hà xứ nhá trần ai? 

Dịch nghĩa: 

Bồ-Ðề vốn không cây 

Tâm không phải đài gương 

Xưa nay không một vật 

Chỗ nào dính bụi trần? 

Nghe xong bài kệ, mọi người dều kinh ngạc: Không ngờ một người dốt nát như thế mà lại làm được bài kệ xuất sắc thâm diệu như thế? 

Ngủ Tổ thấy trong chúng xôn xao bàn tán, muốn đánh tan dư luấn có thể nguy hại cho Ngài Huệ Năng, nên bảo trong chúng truyền đọc bài kệ của Thượng tọa Thần Tú, mà bôi bỏ bài kệ của Ngài Huệ Năng. 

Một buổi chiều, Ngủ Tổ một mình đi xuống nhà trù, đến chỗ Ngài Huệ Năng giã gạo và hỏi rằng: 

- Gạo đã trắng chưa? (mật ý hỏi: Ðạo đã ngộ chưa? ) 

Ngài Huệ Năng đáp: 

-Bạch Tổ, gạo con giả đã trắng rồi mà còn thiếu người sàng (mật ý Ngài muốn nói: Ðạo con đã ngộ rồi mà còn thiếu người truyền). 

Ngũ Tổ nghe xong, lấy cây gậy gõ lên dầu chày ba cái rồi đi lên (Ngủ Tổ bảo Huệ Năng canh ba vào phòng). Ngài Huệ Năng vào phòng Ngủ tổ. Ngài được Ngủ Tổ ấn chứng và truyền y bát cho Ngài làm tỏ thứ sáu, và dạy Ngài phải đi về phương nam ngay đêm hôm ấy, để hoằng hóa đạo pháp (Xem quyển Lục Tổ Huệ Năng). 

Từ đó, Ngài Lục Tổ Huệ Năng truyền pháp ở phương Nam, còn Ngài Thần Tú thì truyền pháp ở phương Bắc. Phương Bắc chủ trương về Tiệm tu, nên gọ là "Nam đốn, Bắc tiệm" hay" Nam Năng Bắc Tú". 

Sau đây là bản lược đồ về sáu vị tỏ thiền tôn ở Trung Hoa: 

Sơ tổ : Ngài Bồ-Ðề Ðạt -Ma 

Nhị tổ : Ngài Huệ -Khả (Thần Quang) 

Tam tổ :Ngài Tăng- Xán 

Tứ tổ :Ngài Ðạo Tín 

Ngũ tổ :Ngài Hoằng Nhẫn 

Ngài Ngưu Ðầu thiền Sư 

Lục tổ :Ngài Huệ Năng 

Ngài Thần Tú. 

Từ Ngài lục tổ Huệ Năng về sau, không còn cái lệ truyền y bát nữa, và các tổ không còn ấn chứng riêng cho một vị nào. Do đó trong Thiền thiền Tôn không còn truyền thống duy nhất nữa, mà lại chia ra làm hai phái và năm dòng sau đây: 

Hai Phái Và Năm Dòng Thiền 

Ngài Huệ Năng từ khi lên làm lục tổ đã truyền pháp cho rất nhiều đệ tử. Trong số các đệ tử, nỗi tiếng hơn hết là Ngài Hoài Nhượng ở Nam Nhạc và Ngài Hành Tú ở Thanh Nguyên (xem Pháp Bảo Ðàn Kinh). Hai Ngài này là mở đầu cho hai phái Thiền Tôn là phái Nam nhạc và phái Thanh Nguyên. 

Phái Nam nhạc về sau lại chia làm hai dòng là: Lâm tế và Quy ngưởng. 

Phái Thanh Nguyên lại chia làm ba dòng là: Tào Ðộng, Vân Môn và Pháp Nhãn. 

Sau đây là lược đồ của hai phái và năm dòng Thiền Tôn ở Trung Hoa. 

I.-Ngài Hoài Nhượng (Ở Nam nhạc) 

1.-Lâm tế 

2.-Quy Ngưởng 

II.-Ngài Hành Tú (Ở Thanh Nguyên) 3.-Tào Ðộng 

4.-Vân Môn 

5.-Pháp Môn

 

1.-Dòng Lâm Tế:  a)Sự truyền thừa của dòng Lâm Tế, tuần tự như sau: 

-Hoài Nhượng Thiền Sư 

-Ðạo Nhứt Thiền Sư(họ Mã, tục gọi là Mã Tổ) 

-Bách Trượng Thiền Sư(Hoài Hải) 

-Huỳnh Nghiệt Thiền Sư (Hỳ Vân)- Lâm Tế Nghĩa Huyền. 

b.-Sự truyền pháp (thiền cơ) của tôn Lâm Tế: 

Như chúng tôi đã nói ở phần đầu của tập sách này, sự truyền pháp của phái Thiền Tôn khó mà hiểu được, đối với người thường. Chẳng hạn như trong phái Lâm tế, sự truyền pháp chỉ dùng thiền trượng đánh và hét to lên, mà làm cho thiền giả được ngộ đạo. Cái lối khai ngộ này khởi đầu từ Ngài Huỳnh Nghiệt Thiền-sư: Để cầu giác ngộ, một hôm Ngài Lâm tế hỏi Huỳnh Nghiệt: 

-Sao gọi là đại ý Phật pháp? 

Ngài Huỳnh Nghiệt liền lấy thiền trượng (gậy hoặc roi) đánh Ngài Lâm tế một cái. Ba lần Ngài Lâm Tế hỏi, thì ba lần được dánh như thế. 

Ngài Lâm Tế lấy làm bối rối, không hiểu ý nghĩa làm sao, nên đến tham học với Ngài Ðại Ngu Thiền sư, nhờ thế Ngài Lâm Tế mới ngô được tôn chỉ của Ngài Huỳnh Nghiệt. 

Từ đó về sau, dòng Lâm Tế mỗi khi khai ngộ cho đệ tử, đều dùng phương pháp đánh và hét ấy. 

Ngài Lâm Tế nói: "Có khi hét một tiếng như bữu kiếm kim cương vương , có khi hét một tiếng như sư tử giậm chân , có khi hét một tiếng như quơ cây nơi bóng cỏ, có khi hét một tiếng, không khởi cái dụng của tiếng hét. "Bởi thế nên người đời gọi là "Lâm Tế tứ yết " 

(bốn tiếng hét của Lâm Tế). 

Dòng Lâm Tế sau lại chia làm hai nhánh: Dương kỵ và Huỳnh long. Từ đời Tống về sau, dòng Lâm Tế rất thạnh hành. Cho đến ngày nay về Thiền tôn trong các Ðại tòng lâm, phần nhiều là dòng Lâm Tế. 

 

2.-Dòng Quy Ngưỡng: Tổ Bách Trượng Thiền sư truyền cho Ngài Linh Hựu Thiền sư ở núi Quy sơn đất Ðàm châu. Ngài Linh Hựu truyền cho Ngài Quy Ngưỡng Huệ Tịch. 

Ngài Quy Ngưỡng là một vị Thiền sư đắc đạo, sự mầu nhiệm của Ngài , không ai có thể lường được, ảnh hưởng của Ngài rất lớn, vì thế cho nên người ta lấy tên Ngài để đặt tên cho cả một dòng Thiền tôn. Sự truyền đạo của Ngài củng rất kỳ lạ. Một khi có ai đến hỏi đào thì Ngài Quy Ngưỡng chỉ vẽ tướng trâu, hoặc vẽ tướng người , tướng Phật hay chữ Vạn, mà người được ngộ đạo.

 

3.-Dòng Tào Ðộng: Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau: 

Ngài Thanh Nguyên Thiền Sư 

Ngài Hy Thiên Thiền sư, tức Ngài Thạch Ðầu Hòa Thượng  

Ngài Dược Sơn Thiền Sư 

Ngài Vân Nham Thiền Sư  

Ngài Lương Giới Thiền Sư ở núi Ðông Sơn  

Ngài Bổn Tịch Thiền Sư ở núi Tào Sơn  

Ngài Vân Nham Thiền Sư đã dùng pháp Bửu cảnh tam muội, truyền cho Ngài Lương Giới (Ðông Sơn); Ngài Lương Giới cũng dùng pháp này để truyền cho Ngài Bửu Tịch (Tào Sơn).

 

4.- Dòng Vân-Môn: Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau: 

a).Ngài Thạch-Ðầu Thiền sư 

b).Ngài Thiên-Hoàng. 

c).Ngài Long-Ðàm. 

d).Ngài Ðức-sơn. 

đ).Ngài Tuyết-phong. 

e).Ngài Vân-Uyển Thiền-sư ở đất Thiền-châu, Vân-môn. 

Cách truyền pháp của Ngài Vân-Uyển (Vân-môn) cũng rất kỳ lạ, ít ai hiểu được nghĩa lý: ai đến hỏi đạo, thì Ngài chỉ nói một chữ ''Dám''. Nếu người cầu đạo ngần-ngại không hiểu, thì Ngài nói thêm chữ ''Di''. Vì Ngài chỉ đáp có một chữ như thế cho người cầu đạo, nên người đời gọi pháp quán của Ngài là '' Nhứt tự quán '' (Quán sát cái lý trong một chữ Dám hay chữ Di ''.

 

5.- Dòng Pháp-nhãn : Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau: 

a). Ngài Tuyết-phong Thiền-sư. 

b). Ngài Huyền-sang Thiền-sư. 

c). Ngài Xa-hán Thiền-sư. 

d). Ngài Vân-ích Thiền-sư. 

Phương pháp khai thị cho người đến cầu đạo của Ngài Vân-ích Thiền-sư là đúng sáu tướng trong kinh Hoa-Nghiêm sau đây: 

- Tổng tướng: Tức là muốn nói đến chơn-như nhứt tâm. 

- Biệt tướng: Tức là các duyên sanh khởi từ chơn-như nhứt tâm. 

- Ðồng tướng: Các pháp đều đồng như nhau. 

- Dị tướng: Tùy theo mỗi tướng không bình đẳng. 

- Thành tướng: Dựng lập ra cảnh-giới. 

- Hoại tướng: Vị trí không đồng tức là hoại tướng.  

Thiền Tông Ở Việt Nam 

Như chúng ta đã biết, Phật Giáo Việt-Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật Giáo Trung Hoa. Cho nên, nếu ở Trung Hoa Thiền tôn được thịnh hành truyền bá, thì ở Việt-Nam Thiền tôn củng được xem như là một phái chính của đạo Phật. Đấy cũng là một lẽ dĩ nhiên, không có gì là khó hiểu. 

Phật giáo truyền vào Việt-Nam từ thế kỷ thứ II tây lịch, do các vị danh Tăng người Ấn Ðộ và Trung Hoa, như các Ngài Ma-Ha-Ha-Kỳ Vực, Ngài Khương-Tăng-Hội (người Ấn Ðộ ), Ngài Mâu-Bác (người Trung Hoa). Trong thời gian xa xưa này, chúng ta không thể biết được các vị này thuộc tôn phái nào, và truyền vào Việt-Nam giáo lý gì. Nhưng chúng ta có thể biết chắc là không phải phái Thiền tôn, vì Thiền tôn ở Việt-Nam là do từ Trung Hoa truyền sang. Mà Thiền tôn ở Trung Hoa thì phải đợi đến đầu thế kỷ thứ VI, dưới đời Lương-Võ-Ðế (528), tổ Bồ-Ðề -Ðạt-Ma mới đưa vào. vậy thì nhất định là Thiền tôn ở Việt-Nam chỉ có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ VI Tây lịch. Sự phỏng đoán này đã được lịch sử truyền giáo ở Việt-Nam chứng minh. Vào năm 580 (cuối thế kỷ thứ VI), Ngài Tỳ-Nhiều-Ða-Lưu-Chi, lần đầu tiên truyền thiền tôn vào Việt-Nam , và là vị sơ tổ về Thiền tôn Việt-Nam . sau Ngài Tỳ-Nhiều-Lưu-chi củng có nhiều vị danh tăng khác đem truyền Thiền tôn vào Việt-Nam , và nhờ đó, Việt-Nam cũng có nhiều môn phái Thiền tôn như ở Trung Hoa. Một điều đặc biệt, đáng hãnh diện cho Phật tử Việt-Nam là ngoài những phái Thiền tôn ở Trung Hoa truyền sang, ngay ở nước ta, cũng có một phái Thiền tôn do một vị vua sáng lập, đó là phái Trúc Lâm mà vị sơ tổ là vua Trần Nhân Tôn. 

Dưới đây, chúng ta tuần tự nói về các môn phái Thiền tôn ấy:

 

1.-Phái Tỳ-Nhiều-Ða-Lưu-Chi: a) Vị Sơ tổ Thiền tôn ở Việt-Nam

Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi, người Ấn Ðộ là đệ tử Ngài Tăng-Xán (Tam tổ thiền tôn). 

Lần đầu tiên gặp tổ Tăng Xán ở núi Tư Không, thấy phong mạo của tổ khác thường, Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi sanh lòng kính phục, chắp tay đảnh lễ. Ngài đãnh lễ ba lần mà tổ vẫn ngồi lim dim đôi ắt chứ không nói gì hết (thiền cơ) .Ngài đứng yên nghĩ ngợi một hồi, bỗng thấy trong người đổi khác, như tỏ ngộ được điều gì. Ngài liền sụp xuống lạy ba lạy.Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái mà thôi (thiền cơ). Sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy, Ngài trở thành một trong những đệ tử xuất sắc nhất của tổ Tăng Xán. 

Về sau, Tổ dạy Ngài sang phương nam để truyền đaọ, Ngài vâng lệnh sang Việt-Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI, trụ trì tại chùa Pháp vân ở tỉnh Hà Ðông. 

Khi sắp thị tịch, Ngài gọi đệ tử là Ngài Pháp Hiển vào phòng phú chúc rằng: 

"Tâm ấn của Phật , không có thể mập mờ được, Tâm ấn viên mãn như thái hư không thừa, không thiếu, không đến, không đi, không được, không mất, không phải đông nhất, cũng không phải sai biệt, không thường cũng không đoạn, không sanh cũng không diệt, không xa cách cũng không phải không xa cách. Chỉ vì đối với vọng nên giả đặt ra tên ấy (Tâm ấn) mà thôi". 

Chư Phật trong ba đời do đó (tâm-ấn) mà được đạo. Lịch đại Tổ-sư cũng do đó mà chứng ngộ. Ta đây cũng vậy, mà ông cũng thế, cho đến các loại hữu tình vô tình cũng đều như thế cả. 

Khi đệ tam Tổ Tăng-Xán ấn chứng ''tâm-ấn'' cho ta, đã bảo rằng: ''Ông nên sang phương Nam hoằng đạo, chớ ở đây làm gì''. 

Do đó, ta đi trải qua bao nhiêu chỗ mới đến đây. Ta nay được gặp ông, thật đúng như lời huyền-ký ấy. Vậy ông nên nhớ kỹ lời ta. 

Giờ đây nhằm lúc ta đi rồi !'' 

Dạy xong, Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi chắp tay ngồi yên lặng mà tịch diệt. Ðệ-tử trà-tỳ (thiêu) rồi thu xá lợi, xây tháp để thờ. 

Về sau, vua Lý-Thái-Tôn có bài kệ truy-tán Ngài như sau: 

Nguyên văn: 

Sáng tự lai Nam Quốc 

Văn quân cữu tập thiền  

Ưng khai chi Phật tín 

Viễn hợp nhất tâm nguyên 

Hạo hạo Lăng-già nguyệt 

Phân phân Bát-nhã liên 

Hà thời hạnh tương kiến 

Tương dữ thoại trùng thuyền. 

Dịch nghĩa: 

Mở lối qua người Việt 

Nghe Ngài thông đạo thiền  

Nguồn tâm thông một mạch 

Cõi Phật rộng quanh miền 

Lăng-già ngời bóng nguyệt 

Bát-nhã nứt mùi sen 

Biết bao giờ được gặp 

Ðàm-đạo lẽ thâm-huyền. 

b). Ngài Pháp-hiển Thiền-sư, vị Tổ thừ hai của Thiền-tôn Việt-Nam: 

Sau khi Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi tịch, Ngài Pháp-Hiển là vị Tổ thứ hai của phái Thiền-tôn Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi. Ngài họ Ðỗ, quê ở Quận Chu-diên (Sơn tây bây giờ). Khi tới chùa Pháp-Vân, Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi thấy Ngài, thì nhìn kỹ vào mặt và hỏi: 

- Chú họ gì? 

Ngài Pháp-hiển hỏi lại: 

-Hòa-thượng họ gì? 

Tổ lại hỏi: 

-Chú không có họ à? 

Ngài trã lời: 

-Sao lại không có! Nhưng đố Hòa-thượng biết? 

Tổ quát lên: 

-Biết để làm gì? 

Ngài Pháp-Hiển chợt ngộ ý Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi (thiền cơ) liền sụp xuống lạy, xin theo làm đệ-tử và sau được truyền tâm-ấn. 

Ðược ít lâu, sau khi Tổ tịch, Ngài vào núi Từ-sơn tu thiền-định, những loại cầm thú thường quấn quýt chung-quanh. Người đời thấy thế càng lấy làm lạ và kính mộ. Ðệ-tử tìm đến học đạo rất đông. Thiền-tôn ở trong thời kỳ này có thể nói là thạnh nhất. Ðó cũng nhờ công đức hoằng-hóa của Ngài Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi và Ngài Pháp-hiển. Về sau trong pháp nẫy cũng có nhiều vị thiền-sư xuất-sắc như Ngài Pháp-thuận, Vạn-hạnh .v.v... 

2.- Phái Vô-Ngôn-Thông:  a). Vị Sư-tổ của Pháp Thiền-tôn thứ hai ở Việt-Nam: 

Ngài họ Tịnh, quê ở Quảng-châu, xuất gia ở chùa Song-Lâm (Triết-giang bây giờ). Tính Ngài điềm đạm ít nói, nhưng sự lý gì cũng thông hiểu, nên người đời đặt danh hiệu Ngài là Vô Ngôn Thông. Ngài là đệ tử của Bách Trượng thiền sư (đệ tử của Mã Tổ). 

Khi Ngài mới đến yết kiến Bách Trượng Thiền sư gặp lúc thiền sư đang dạy chúng tăng học. Một vị tăng hỏi Bách Trượng thiền sư rằng: 

Thế nào là pháp môn đốn ngộ của phái Ðại-thừa? 

Bách Trượng thiền sư dạy rằng: 

-Tâm địa nhược thông, huệ nhật tự chiếu (nêu tâm địa được thông thì mặt trời huệ tự nhiên chiếu sáng). 

Nghe được câu ấy, tự nhiên Ngài Vô Ngôn Thông ngộ đạo. Năm 820, Ngài qua Việt-Nam tu tại chùa Kiến Sơ, làng Phù Ðổng (Bắc Ninh), Ngài ngồi vây mặt vào vách trọn ngày tham thiền nhập định. Ngài tu như thế mấy năm không ai biết, chỉ trừ vị sư ở chùa ấy là Cảm Thành thiền sư, biết Ngài là bậc cao tăng trong Phật Thiền tôn, nên tôn thờ Ngài làm Thầy. 

Trước khi tịchn gọi Cảm Thành thiền sư mà bảo: 

-Ngày xưa tổ sư Nam Nhạc, khi sắp tịch có dặn lại bài kệ rằng: 

Nhất thế chư pháp, giai tùng tâm sanh 

Tâm vô sở sanh, pháp vô sở trú 

Nhược đạt tâm địa, sở trú vô ngại 

Phi ngộ thượng căn, thận vật kinh hứa. 

Nghĩa là: Hết thải các pháp, đều tự tâm sanh; tâm nếu không sanh, pháp không chổ trú. Nếu hiểu được vấn đề ấy thì làm việc gì cũng không trở ngại, cái tâm pháp ấy nếu không gặp được bậc tâm căn, chớ nên truyền bậy.'' 

''Ðó là lời dặn của người xưa nay ta cũng dặn lại câu ấy''. 

Nói xong Ngài chắp tay mà tịch. 

b) Vị Nhị tổ của phái Vô Ngôn Thông: Cảm Thành thiền sư: Thiền sư quê ở huyện Tiên Du (Bắc Ninh) trụ trì tại chùa Kiến Sơn (Bắc Ninh). 

Khi Ngài Vô Ngôn Thông vân du qua đấy, thấy Ngài có đủ tư cách để truyền mối đạo, nên ở lại. Và Ngài Cảm Thành cũng nhận thấy ở Ngài Vô Ngôn Thông một vị thiền sư đắc đạo, nên tôn làm thầy, sớm tối hầu hạ không hề trễ nải. Hai thầy trò rất mến nhau, do đó Ngài Vô Ngôn Thông mới đặt cho Ngài đạo hiệu là Ngài Cảm Thành thật xứng đáng là người nối chí của Ngài Vô Ngôn Thông. Một hôm có đệ tử hỏi Ngài : 

-Thế nào là Phật? 

Ngài trả lời: 

-Chổ nào cũng là Phật cả. 

Vị đệ tử lại hỏi: 

-Thế nào là tâm của Phật? 

Ngài trả lời: 

-Không hề che đậy chổ nào. 

Ðây cũng là một câu chuyện nhỏ, nhưng nói lên được cái truyền thọ tâm pháp đặc biệt, tuy giản ước mà bao hàm nhiều ý nghĩa vô cùng. 

Ngài Cảm Thành không bệnh mà tịch, và truyền tâm pháp cho Thiện Hội thiền sư. 

c) Vị tam tổ của phái Vô Ngôn Thông: Ngài Thiện Hội thiền sư: Ngài Thiện Hội quê ở Siêu Loại (Bắc Ninh). Ngài là đệ tử của Cảm Thành thiền sư, hầu thầy đã hơn 10 năm, một hôm Ngài vào phòng hỏi thầy: 

Trong kinh Phật có dạy: ''Ðức Thích Ca Như Lai từng tu hành trải vô số kiếp mới thành Phật, thế mà nay thầy cứ dạy rằng ''tâm tức là Phật, Phật tức là tâm'' là nghĩa làm sao? Thật đệ tử không hiểu xin thầy dạy rỏ cho. 

Cảm Thành thiền sư nói: 

-Ngươi nói trong kinh Phật nói thế là ai nói đó? 

-Vậy lời ấy không phải là Phật thuyết sao? 

-Lời ấy phải đâu là Phật thuyết. Kinh Văn Thù Phật có dạy: ''Ta trú ở thế gian để dạy chúng sanh 49 năm, chưa đặt ra một câu bằng văn tự để nói với ai bao giờ !'' Vì theo chánh đạo, nếu ta lấy văn tự để làm bằng chứng để cầu đạo, ấy là nệ; lấy sự khổ hạnh để cầu Phật, ấy là mê; lìa tâm ra mà cầu Phật, ấy là ngoại đạo; mà cố chấp cái tâm ấy là Phật, củng lại là ma vậy. 

-Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật, cái gì không phải là Phật? 

-Ngày xưa có người hỏi Mã Tổ rằng: ''Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật?'' Mã Tổ trả lời: ''Thế ông ngờ trong tâm ấy, cái gì không phải là Phật, hãy chỉ vào ấy cho ta xem !''. người ấy không chỉ được . Mã Tổ lại tiếp: '' Ðạt được thì khắp mọi nơi chổ nào cũng là Phật, mà không đạt được thì cứ sai lầm đi mãi mãi''. Thế là chỉ một lời nói nó che đi, mà thành ra sai lầm đó thôi. Người ta hiểu chưa? 

Ngài Thiện Hội trả lời: 

-Nếu như vậy đệ tử hiểu rồi. 

-Người hiểu thế nào? 

-Ðệ tử hiểu rằng khắp hết mọi nơi, chổ nào củng là tâm Phật cả. 

Nói xong Thiện Hội thiền sư sụp xuống lạy. Ngài Cảm Thành nói: 

-Thế là người hiểu tới nơi rồi đó. 

Do sự lãnh hội mau chóng đó ma Ngài Cảm Thành mới đặt cho đệ tử mình đạo hiệu Thiện Hội, nghĩa là ''khéo hiểu''. 

Trên đây là một vài câu chuyện đến đốn ngộ mà chúng ta thường thấy trong các vị thuộc phái Thiền tôn. 

Sự truyền pháp từ thầy đến trò trong phái Vô Ngôn Thông diễn ra như thế được 15 đời. Ðến đời cư sỉ Ứng Thuận(1221) là cuối cùng. 

3.- Phái Thảo Ðường: Năm kỷ dậu (1069) vua Lý Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành về, có bắt được vua nước ấy là Chế Cũ và rất nhiều thường dân và binh lính. Số binh lính và thường dân này được phân phát cho các quan trong triều đình để làm quân hầu. Trong số quan triều có một vị Tăng Lục. Một hôm vị này đi vắng về thấy bản ''Ngữ lục''của mình bị một tù binh sữa chưa lại cả. Hỏi ra thì mới biết đó là một vị thiền sư người Trung Hoa, theo thầy qua Chiêm Thành, chẳng may bị bắt làm tù binh. Vị thiền sư ấy là Ngài Thảo Ðường, đệ tử của Ngài Tuyết Ðậu Minh Giác ở Trung Hoa. 

Khi biết tung tích của Thảo Ðường thiền sư, vua Thánh Tôn liền sắc phong cho Ngài làm Quốc sư. Ngài Thảo Ðường lập đàn khai giảng ở chùa Khai Quốc trong thành Thăng Long. Ðệ tử đến học rất đông. Ngài Thảo Ðường lập ra một phái Thiền Tôn thứ ba ở Việt-Nam . Phái Thảo Ðường truyền xuống được năm đời, đắc đạo cả thầy được mười chín vị.

  

4.- Phái Trúc Lâm: Ðệ nhất tổ của phái Trúc Lâm tức là vua Trần Nhân Tôn (1278-1308). Ngài mộ đạo khi còn nhỏ. Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái tử, Ngài cố nhường lại cho em nhưng không được, nên trèo thành trốn đi, định vào tu ở núi Yên Tử. Nhưng Ngài mới đi nữa đường thì bại lộ tung tích, bị vua cha sai quan đi bắt về. Ngài phải miễn cưỡng trở về. Sau Ngài lên làm vua, trở thành một vị anh quân và giử vững nền độc lập nước nhà trước sự xâm lăng ồ ạt, nhưng vô hiệu quả của quân Nguyên. Sau khi đuổi được giặc nguyên, Ngài truyền ngôi lại cho con là Anh Tôn, và vào tu ở núi Yên Tử, thực hiện chí nguyện thuở thiếu thời của mình. Ngài lấy hiệu là ''Hương Vân Ðại Ðầu Ðà '' lập trường giảng pháp, môn đồ tìm đến tu học kể có hàng vạn người. Ngài thường đi khắp nơi để giảng đạo và phát thuốc. Ngài tịch một cách rất bình tĩnh vào lúc 51 tuổi. 

Trong các phái Thiền tôn ở Việt-Nam, chỉ có phái Trúc Lâm là phát tích tại đất nước Việt. Trong phái này, cũng có nhiều vị thiền sư có tiếng tăm như Ngài Pháp Loa tôn sư, Ngài Huyền Quang tôn sư ...

 

5.- Phái Lâm Tế: 

Phái Lâm Tế do Ngài Nguyên Thiều khai sáng tại Trung Việt. Ngài họ Tạ, quê ở Quảng Châu (Trung Hoa). Ngài đi theo tàu buôn qua An Nam, trú ở phủ Qui Ninh (Bình Ðịnh) lập chùa Thập Tháp Di Ðà, Mở trường dạy học. Sau Ngài ra thuận hóa lập chùa Hà Trung, rồi lên Xuân Kinh (Huế) lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Ðồng. 

Sau Ngài phụng mạng đức Anh Tôn (Nguyễn Phúc Tráng 1687-1691) trở về Trung Quốc, tìm mời các vị danh tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí. Ngài về Quảng Ðông mời được Hòa Thượng Thạch Liêm và các danh tăng khác, cùng thỉnh được nhiều kinh điển, tượng, pháp khí trở về Nam. Chúa Nguyễn liền sắc mở đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên Mụ. Sau đó, chúa Nguyễn sắc ban Ngài chức trụ trì chùa Hà Trung. 

Năm Bảo Thái thứ 10 nhà Lê, Ngài tịch tại chùa Hà Trung, sau khi dặn dò đệ tử và truyền bài kệ sau đây: 

Tịch tịch, kính vô ảnh 

Minh minh, châu bát dụng 

Đường đường,vật phi vật 

Liểu liểu, không vật không 

Ðại ý: Thể pháp thân thanh tịnh sáng suốt như mãnh gương sạch không bụi, như ngọc minh châu, trong sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền sự sự, vật vật sai khác, nhưng đều là thể pháp thân biểu hiện. Thể pháp thân thường vắng lặng mà không phải là không, tức là lý ''chân không diệu hữu''. 

Xét trong ''Lịch truyền tổ đồ'' thì Ngài đứng về đời 69, xét về chánh thống phái Lâm Tế thì Ngài đứng về đời 33, còn xét riêng về phái Lâm Tế ở Trung Việt, thì Ngài là sơ tổ.

 

6.- Phái Liễu Quán: 

Phái Liểu-quán xuất phát từ Liểu-Quán Hòa-Thượng. Ngài Liểu-quán quê ở Phú-yên (Song-cầu). Ngài ra Thuận Hóa thọ giới Sa-Di với Ngài Thạch-Liêm Hòa-Thượng. Năm 1702, Ngài đến Long-Sơn cầu học pháp tham-thiền với Ngài Tử-Dung Hòa-Thượng (Tổ khai sơn chùa Từ Ðàm Huế, người Trung Hoa). 

Tổ Tử-Dung dạy Ngài tham-cứu câu: ''Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ '', (muôn pháp về một, một pháp về đâu?) .Ngài tham cứu mấy năm, đến khi xem bộ Truyền-Ðăng-Lục, thấy có câu: ''Chỉ vật truyền tâm, nhơn bất hội xứ ''. Ngài liền tỏ ngộ. Năm 1742, cuối mùa thu, Ngài thọ bịnh. Trước khi lâm chung, Ngài gọi môn đồ đến dạy rằng: ''Nhơn duyên đã hết, ta sắp chết đây ''. 

Thấy môn đệ khóc, Ngài dạy rằng: ''Các người khóc làm gì? Các Ðức-Phật ra đời còn nhập niết-bàn. Ta nay đi đến rỏ ràng, về có chổ. Các người không nên khóc và đừng buồn thảm"

Rồi Ngài viết bài kệ từ biệt sau đây : 

Nguyên văn: 

Thất thập dư niên thế-giới trung 

Không không, sắc sắc diệu dung thông 

Kim triêu nguyệt mãn, hoàn gia lý 

Hà tất bôn ba vấn tổ tông. 

Dịch nghĩa: 

Ngoài bảy mươi năm trong thế-giới 

Không không, sắc sắc thảy dung thông 

Ngày nay nguyện mãn về nơi củ  

Hà phải ân cần hỏi tổ tông. 

Viết xong, Ngài bảo môn đồ: 

Sau khi ta đi, các ngươi phải nghĩ cơn vô-thường nhanh chóng, cần phải siêng năng tu học. Các người hãy cố gắng tới chớ bỏ qua lời ta. 

Ngài tịch vào ngày 22 tháng 11 năm Nhâm-Tuất (1742) vào giờ Mùi, sau khi dùng nước trà xong và vui vẻ từ biệt môn đồ. 

Ðến đây chúng ta cũng nên nhận định cho rõ ràng điễm này: Như tôi nói ở đoạn trước, Thiên-Tôn do người Việt sáng lập chỉ có một Phái duy nhất do vua Trần-Nhân-Tôn làm Sơ-tổ là phái Trúc-Lâm Yên-Tử. Nhưng đến nay, chúng ta lại thấy xuất phát một phái nữa là phái Liểu-quán, do Ngài Liểu-quán một danh tăng Việt-Nam chủ xướng, như vậy có mâu thuẩn với sự nhận xét ở trên không? Thật ra, so với các phái Thiền-Tôn khác ở Việt-Nam, thì phái Liểu-quán chỉ một phái nhỏ, chỉ nằm trong phạm vi mấy tỉnh miền Trung-Việt. 

Vả lại, Ngài Liểu-quán cũng là đệ-tử của Ngài Tử-Dung, một vị sư Trung Hoa thuộc phái Lâm-Tế. Do đó, phái Liểu-quán, nếu chúng ta đi tìm nguồn góc xa hơn một chút nữa, thì cũng chỉ là một chi nhánh của phái Lâm-tế mà thôi. 

Các Kinh Sách Nói Về Thiền 

Khi kinh sách nói về Thiền không thể kể xiết được. Tuy thế, đễ quý độc-giả khỏi bỡ-ngỡ trong khi nghiên cứu, học hỏi, chúng tôi xin dẫn một số sách thiết yếu sau đây: 

1.-Kinh Lăng-già  2.-Kinh Lăng-Nghiêm 

3.-Kinh Viên-Giác  4.-Kinh Pháp-Bảo-Ðàn 

5.-Ðại-thừa Chỉ-quán  6.-Tiểu Chỉ-quán 

7.-Ðồng môn Chỉ-quán  8.-Kinh Kim-cang 

9.-Truyền-đăng-lục  10.-Thuyền-gia ngữ-lục 

11.-Tọa-thiền chỉ nam  12.-Tông-cảnh-lục (của Ngài Tống Diên Thọ Thiền-sư) 

13.-Luận Ðại-thừa khởi tín (của Bồ Tát Mã-Minh)  14.-Vô-môn-quán (của Tổng Tôn-Thiện Thiền-sư) 

15.-Bích-Nha-Lục (của Phật quả Viên-ngộ)  16.-Thung-dung-lục (của Vạn tùng Lão-nhơn) 

17.-Thiền-lâm Vĩnh-gia tập (của Huyền-giác)  18.-Thiền-tôn chỉ nam (của vua Trần-Thái-Tôn) .v.v...

 

C.- Tổng Kết các Loại Thiền định 

Thiền-Ðịnh có nhiều loại, nhưng tóm lại có thể chia làm hai loại lớn: Chánh-định và tà-định, hay Phàm-phu thiền và Thánh-nhơn thiền và Phật Giáo thiền. 

Thiền Ngoại Ðạo: Những người theo lối thiền-định này do tâm niệm không chơn-chánh (phiền-nảo, tham, sân, si v.v....) làm động cơ thúc đẩy. Họ không nhắm ngay mục đích dẹp trừ vô-minh phiền-não, cầu được minh-tâm kiến-tánh, hay giác-ngộ, giải thoát, mà chỉ nhắm mục đích nhỏ hẹp, thiển cận, như cầu được thấy những điều huyền diệu, cầu được thần-thông biến-hóa để đi dạo chơi ở các thé-giới khác, cầu thành tiên để lạc-thú tiêu-dao ở cảnh tiên, cầu cho thân thể không bệnh hoạn, được trường sinh bất tử, cầu cho được phép lạ để trị bệnh, để thiên hạ sùng-bái, kính phục, hoặc để gần gũi nữ sắc, hay cầu tài lợi v.v.. 

Hảy lắng nghe lời Tổ Tôn-Mật dạy: ''Người tà kiến chấp trước sai lầm , ưa cõi trên, chán cõi dưới mà tu thiền, đó là ngoại đạo thiền ''. 

Thiền Phàm Phu: Những người tu theo loại thiền này không có tâm niệm cao thượng, chỉ vì chán ngán cõi Dục làm ô-trược mà cấu sinh về cõi sắc và Vô-sắc để hưởng thú vui thanh thoát.  

Hãy lắng nghe Tổ Tôn-Mật phê phán hạng người tu về loại thiền này: ''Người chán tin nhơn quả, nhưng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền là phàm-phu thiền ''. 

Thiền Phật Giáo: Thiền-định của Phật Giáo có hai loại: Tiểu-thừa thiền và Ðại-thừa thiền. 

-Tiểu-thừa thiền: là những pháp thiền dành cho người có căn tánh Tiểu-thừa. Người tu phép Thiền-định này chỉ có công-dụng hạn cục, vì tu pháp nào thì chỉ trừ được phiền-não cũa pháp ấy. Và sự tu luyện ở đây cũng chỉ tuần tự mà tiến, chứ không thể đốn-ngộ ngay được. 

Hơn nữa, người tu Tiểu-thừa thiền, tuy đã phá ngã-chấp, nhưng còn bị pháp-chấp. Họ không ngộ được rằng: những phương-pháp tu hành đều là phương tiện để giúp cho họ dẹp trừ vô-minh phiền não, tiến lên chổ giác ngộ, chớ không nên cố chấp có nên tu, thật chứng. 

- Ðại-thừa thiền: Ðây là phương-pháp tu thiền của các vị Bồ Tát, căn tánh mau lẹ, vượt bưc. Với hạng này, các vị chỉ nghe một câu nói hay chỉ tu một pháp, cũng có thể liền tỏ ngộ; như Ngài Huệ-Năng, chỉ nghe câu ''Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm '', hay Ngài Ca-Diếp, chỉ thấy Phật đưa cành hoa sen mà liền tỏ ngộ 

Sở dĩ các vị này mau tỏ ngộ như thế là vì họ đã trải qua nhiều kiếp tu hành rồi, sắp được giác ngộ, nay gặp thời cơ, nhân duyên thì liền phát-chiếu, như cành hoa đã được vun tưới đủ sức rồi, chỉ chờ thời tiết là trổ bông. 

Hãy nghe Tổ Tôn-Mật nói về các vị này: ''Người ngộ được lý ngã, pháp đều không mà tu thiền là Ðại-thừa thiền. Người đốn-ngộ tự tâm xưa nay vốn thanh-tịnh, không có phiền-não, đầy đủ trí-huệ vô-lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác. Y theo tâm này mà tu thiền là Tối-thượng thừa thiền, cũng gọi là Chơn-như tam-muội''. 

Về phương-pháp tu chứng và truyền thọ của Ðại-thừa thiền có ba cách: 

- Cách thứ nhất: Ðây là các loại tam-muội má hành-giả căn cứ theo các kinh sách Ðại-thừa tu luyện, như Pháp-hoa tam-muội, Niệm-Phật tam-muội, Gíác-ý tam-muội, Thủ-tăng-liêm tam-muội v.v.... 

- Cách thứ hai: Lối thiền này không căn cứ theo kinh điển, văn tự, mà chỉ dùng một câu nói ngắn ngủi để chỉ giáo. Trong Phật Giáo gọi lối thiền này là: ''Bất luận văn tự, giáo ngoại biệt truyền'' (không dùng văn tự, truyền ngoài kinh giáo). Thiền-giả chỉ căn cứ theo một câu nói ấy mà nghiên cứu mãi cho đến khi tỏ ngộ. Công việc tham-cứu này, Thiền-giả có nhiều khi kéo dài hàng chục năm. 

- Cách thứ ba: Với cách này,chúng ta khó có thể suy nghĩ luận bàn gì được. Trong cách này, khi có người đến cầu pháp, các Tổ sư không dùng lời nói mà chỉ dùng một cử chỉ gì đó, hay một tiếng la hét mà thôi. 

Như dòng Lâm-Tê, khi có người đến cầu đạo, Thiền-sư chỉ dùng gậy đánh và tiếng hét. 

Như dòng Quy-ngưỡng, các vị Tổ-sư chỉ vẽ hình thú, hình người, hình chữ Vạn mà khai ngộ cho đệ-tử . 

Như dòng Vân-môn, có vị Tổ chỉ nói một chữ, mà làm cho người cầu đạo tỏ ngộ. 

Như có Ngài chỉ đãi nước trà (Ngài Triệu-châu) hay mời ăn cơm, mà người đến cầu đạo được tỏ ngộ. 

Có Ngài lại ngắm bóng mình dưới nước và cười, khi đi ngang qua cầu, liền ngộ đạo (hổ khê tam chiếu chí kim truyền), hay nghe chim oanh hót trên cành liễu, hay lấy gậy đập cục đất cho để tan mà liền tỏ ngộ. 

Thật là thiền-cơ nhiệm-mầu, người ngoài không thê suy nghĩ, bàn luận được. 

Muốn cho người cầu đạo được kết-quả, các vị truyền pháp phải hội đủ ba diều kiện sau đây: 

-Biết căn-cơ người cầu đạo. 

-Biết thời-tiết đúng lúc truyền đạo. 

-Biết phương-pháp nào thích hợp, trong ba phương-pháp nói trên, nếu truyền bá không hợp cơ, hợp thời, hợp pháp thì người tu thiền không có kết-quả. 

Trước khi dừng bút, chúng tôi có một nhận xét sau đây mà chác quý độc-giả cũng đồng ý là: Nước ta ngày xưa là một nước chịu ảnh hưởng lớn của Thiền-tôn, và Thiền-tôn là môn phái rất thịnh hành trong nước. Thế mà ngày nay, vì bao cuộc biến thiên của lịch sử, Thiền-tôn không còn được truyền thọ trong các chùa cũng như trong dân chúng một cách sung-mậu như xưa nữa. 

Vậy chúng tôi hy-vọng rằng, từ đây về sau, nhờ sự giao-thông tiện lợi từ nước này sang nước khác, nhờ sự trao đổi văn hóa, và nhờ gia tâm tu học của các Phật-tử Việt-Nam, Thiền-tôn sẽ lấy lại sắc thái sung-mậu ở Việt-Nam như các thời Lý, Trần.

Trở Lên