Bài Thứ
6
Mười Tông Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa
Không phải riêng gì
Ðạo Phật, tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, theo với
thời gian và sự phát-triển, đều có chia ra nhiều tôn phái.
Sự phân phái ấy là một lẽ đương nhiên phải có để cho các căn
cơ và hoàn cảnh khác nhau đều có thể thích hợp được. Nếu
không, thì đạo không thể phát-triển được về bề sâu cũng như
bề rộng. Hơn một tôn giáo nào cả, Ðạo Phật không có những
giáo điều thần khải, không có một tinh thần rắn chắc, gò bó
trong những hình thức hẹp hòi, câu nệ, mà trái lại, rất
phóng khoáng, tự do, dễ khoan hòa, dung hiệp, nên Ðạo Phật
đi đến đâu cũng có thể phát-triển đúng theo căn cơ và hoàn
cảnh riêng biệt ở địa phương ấy. Do đó, mà Ðạo Phật có rất
nhiều màu sắc riêng biệt khi lan tràn trên các nước.
Riêng ở Trung Hoa,
Ðạo Phật đã có chia mười tôn phái. Trong mỗi tôn phái đều có
đặc điểm riêng, nhưng không bao giờ vượt ra ngòai giáo pháp
của Phật cả. Những tôn phái này cũng như những con đường
khác nhau, có đường thẳng đường cong,đường cao đường thấp,
đường rộng đường hẹp, nhưng con đường nào cũng đưa đến một
mục đích chung cả. Hành giả tùy theo trình độ, trí thức, khả
năng, sở thích riêng mà lựa chọn con đường nào thích hợp với
mình nhất để tu tập. Có như thế thì sự tu hành mới chóng có
kết quả.
Mười tôn phái ở
Trung Hoa là: Luật tôn, Tịnh độ tôn, Thiền tôn, Pháp tướng
tôn, Mật tôn, Thiên thai tôn, Hoa nghiêm tôn, Tam luận tôn,
Câu xá tôn và Thành thật tôn.
Trong 10 tôn này,
Câu xá tôn và Thành thật tôn chủ trương về Tiểu Thừa; Luật
tôn và Thiền tôn thông cả Ðại và Tiểu Thừa, còn 6 tôn kia
thuộc về Ðại Thừa.
Nghĩa lý của các tôn
rất mầu nhiệm kinh điển cũng rất nhiều, muốn hiểu cho thấu
đáo, cần phải chuyên môn nghiên cứu, công phu trong nhiều
năm trong phạm vi của khóa Phật học phổ thông này, chúng ta
không thể đi sâu vào mỗi tôn được. Ở đây, chúng ta chỉ nên
biết qua đại khái về giáo lý và làm quen với danh từ các tôn
ấy, để có chổ nhập môn mà thôi. Sau này, khi học cao hơn,
chúng ta sẽ đi sâu vào từng tôn phái một và sẽ tùy theo căn
cơ sở thích của mình mà lựa một trong những tôn ấy để tu
hành.
I.- Luật Tông
Duyên Khởi Lập
Tông: Tôn này dùng luật làm chỗ căn cứ nên gọi là
Lụât tôn. Ðức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy hoàn
cảnh mà chế ra nhiều lọai giới luật để răn dạy đệ tử, hóa độ
chúng sinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, các đệ tử của
Ngài,như Ngài Ưu-Ba-Li là vị tinh thông về giới luật đứng
trên pháp tọa trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, đã
tụng đọc lại những giới luận mà Ðức Phật đã chế ra. Lần kết
tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên Ngài Ưu-Ba-Li
phải đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi người trong hội
đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên là "Bát thập tụng luận".
Về sau,tuần tự theo thời gian, nguyên thủy Phật giáo lần hồi
chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo
một bộ lụât riêng. Trong số các bộ luật này, bộ được nói đến
và áp dụng nhiều nhất là các bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng
kỳ, Ngũ phần.
Những bộ luật này
được truyền sang Trung Hoa và được phiên dịch ra Hán văn.
Ðến đời Ðường, Ngài Trí Thủ luật sư chú giải các bộ ấy, và
đệ tử của Ngài là Ðạo Tuyên luật sư, nhận thấy trong các bộ
ấy, bộ luật Tứ phần là thích hợp căn cơ người Trung Hoa, nên
đã căn cứ vào luật này để lập ra Luật tôn. Ngài Ðạo Tuyên là
người ở Chung nam sơn, nên người đời gọi tôn này là "Chung
nam sơn" để phân biệt với các Luật tôn khác, như của các
Ngài Pháp Lệ bên phái Hữu tướng bộ,hay Ngài Hoài Tố ở Ðông
pháp.
Trong các Tôn này,
chỉ có Luật tôn của Ngài Chung nam sơn là thịnh hành hơn hết
và được truyền bá cho đến bây giờ, vì nó trung hòa cả Ðại
Thừa lẫn Tiểu Thừa.
II.-Tôn Chỉ Và
Ðặc Ðiểm Của Luật Tông
Phàm một tổ chức,
một công viếc gì đúng đắn cũng đều phải tuân theo những quy
luật nhất định. Hơn tất cả, sự tu hành lại càng phải tuân
theo những giới luật nghiêm minh. Như chúng ta đã biết trong
phần giáo lý căn bản, nghiệp là động lực chính của vũ trụ
nhân sinh. Nghiệp định đoạt tất cả đời sống chúng ta. Nghiệp
có ba loại: Nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói và
nghiệp của ý nghĩ. Nếu những nghiệp ấy được thanh tịnh,
không tạo ra các điều ác, thì ta không thọ quả báo sinh tử
luân hồi. Không có quả báo sinh tử luân hồi thì tất nhiên là
được giải thoát. Muốn các nghiệp được thanh tịnh thì ta phải
giữ gìn giới luật, chính là một phương pháp tu hành trong
nhiều phương pháp mà Phật đã chia ra. Phương pháp này rất
thiết thực và rất hiệu nghiệm đối với Phật tử chúng ta:
-Giữ giới không sát
nhơn hại vật, hiện người không làm người hung dữ, khỏi bị tù
tội, về sau khỏi bị đọa trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ
quỷ, súc sinh, và khỏi bị người giết haị, đó là tu.
-Giữ giới không trộm
cướp thì hiện thời làm người lương thiện khỏi bị giam cầm
xiềng xích, đời sau không mắc quả báo, bị người giựt của
cướp nhà, đó là tu.
-Giữ giới không tà
dâm, hiện thời thành người tốt, gia đình mình và người không
bị rầy rà, đánh đập, khổ sở vì ghen tương, đó là tu.
-Giữ giới không nói
dối, không nói láo xược, thèo lẽo, thêm bớt, đâm thọc, không
nói hung ác và thô tục, thì không bị người khinh khi, lại
được sự kính trọng, đó là tu.
-Giữ giới không cờ
bạc, hút xách, rượu chè, thì khỏi mất tiền, thiếu nợ, khỏi
say sưa, làm điều tội lỗi và khỏi bị người khinh bỉ, trí tuệ
tăng trưởng, đo là tu.
Nói một cách tổng
quát, giữ một giới là ngăn ngừa được một điều tội lỗi,và
thêm được một điều lành; giữ nhiều giới là ngăn ngừa được
nhiều điều tội lỗi và thêm được nhiều điều lành. Bởi thế,
nên giữ giới luật là phương pháp tu không xa thực tế và rất
cần thiết cho các Phật tử cầu đạo giải thoát.
Nhờ giữ "giới luật"
không làm các việc tội lỗi, nên tâm được "định"; do tâm định
nên phát ra "trí huệ sáng suốt". Nhờ có trí huệ sáng suốt
nên phá trừ được vô minh si ám, và được minh tâm kiến tâm
thành Phật.
Người tu tại gia có
giữ giới, mới thành Phật tử chơn chính. Người xuất gia thọ
Sa-di, có giữ giới mới phải là chơn tu. Thầy Tỳ-kheo có giữ
giới mới phải là Tỳ-kheo thanh tịnh. Bồ Tát có giữ giới mới
phải là chơn Bồ Tát. Bởi thế nên trong ba món vô-lậu học
(giới,định,huệ ), "giới" đứng đầu tất cả.
Tôn này sỡ dĩ lập ra
là nhằm vào lợi ích thiết thực và chín chắn của giới luật,
như đã trình bày ở trên.
III.- Các Loại
Giới Luật
Giới luật có nhiều
lọai từng bậc, tùy theo căn cơ, tùy theo giới tu sĩ, tùy
theo sự phát nguyện của kẻ tu hành mà áp dụng. Nhưng nói một
cách tổng quát thì giới luật có thể phân chia làm hai lọai
lớn là: Giới
lụât của Ðại Thừa
và giới luật của
Tiểu Thừa.
-Những giới luật nào
có tánh cách tiêu cực, tự lợi, chỉ có mục đích chính là
tránh tội lỗi cho riêng mình là thuộc về giới Tiểu Thừa. Tất
nhiên trong khi giữ giới cho riêng mình, thì người khác cũng
được lợi như giữ giới không trộm cướp, thì mình được lợi là
kềm giữ lòng tham, mà người khác cũng được lợi là khỏi phải
bị cái khổ vì tiếc của đã mất. Mặc dù thế, giới không trộm
cướp cũng chỉ liệt vào giới Tiểu-thừa, vì trong khi giữ
giới, mục đích chính, trực tiếp là giữ cho mình; còn cái lợi
cho người chỉ ảnh hưởng gián tiếp của giới ấy. Những giới
như: Ngũ giới (5 giới do Phật chế cho người tại-gia),
Bát-quan-trai giới (8 giới Phật chế cho người tại gia-tập
sống như người xuất gia), Sa-di giới và Sa-di-nhiều giới (10
giới Phật chế cho người mới xuất gia), Thức-xoa (6 điều nữ
học giới), Tỳ-kheo giới (250 giới), và Tỳ-kheo nhiều giới
(348 giới) là những giới thuộc về phái Tiểu-thừa.
Những giới luật nào
có tánh cách tích cực, nhắm vào mục đích lợi tha hơn tự lợi
tì thuộc về Ðại-thừa giới. Những giới thuộc về Ðại-thừa giới
như 10 giới trong 48 giới khinh của Bồ Tát, Tam-tụ tịnh giới
(gồm có: Nhiếp-luật-nghi giới là giới không làm việc ác,
Nhiếp-Thiện-Pháp giới là giới làm việc lành, Nhiêu-ích
hữu-tình giới là giới làm ích lợi cho chúng sanh, như làm
các việc có tánh cách từ thiện xã hội v.v..).
Nếu đứng về phương
diện hành trì mà phân loại, giới-luật có thể chia làm hai
phần lớn: một phần thuộc về chỉ trì, nghĩa là ngăn đứt ác
nghiệp, một phần thuộc về tác trì, tức hành động theo
thiện-nghiệp.
1.-Về chỉ trì:
có hai bộ giới bổn:
a.-Tỳ-kheo giới
bổn, gồm có 250 giới, chia làm 8 loại là: 1.- Ba-la-di
(4 giới), 2.-Tăng-tàng (13 giới), 3.-Bất-định (2 giới), 4.-
Xã-đọa (30 giới), 5.- Ðơn-đọa (90 giới), 6.- Ðề-xà-nhiều (4
giới), 7.- Chúng-học (100 giới), 8.- Diệt-tránh (7 giới).
Hai trăm năm mươi giới này có thể chia làm tám loại (ngũ
thiên), sáu loại (lục tụ) hay bảy loại (thất tụ).
b.-Tỳ-kheo-nhiều
giới bổn, (giới của Tỳ-kheo-nhiều giới gồm có 348 giới,
chia làm 7 loại là:
1.-Ba-la-di (8
giới), 2.- Tăng-tàn (17 giới), 3.-Xả-đọa (30 giới),
4.-Ðơn-đọa (178 giới), 5.-Ðề-xà-nhiều (8 giới ),
6.-Chúng-học (100 giới), 7.-Diệt-tránh (7 giới). Ba trăm
mươi bốn tám giới này, có thể chia là bảy loại như trên,
nhưng củng có thể làm tùy nghi chia làm năm loại, sáu loại
,bảy loại như bên tăng (1).
Giới Tỳ-kheo và
Tỳ-kheo-nhiều trên này gọi là Cụ-túc giới, nghĩa là những
giới đem lại cho người thọ vô lượng giới-hạnh, phước đức.
Nhưng 250 hay 348 giới, chưa phải là nhiều. Ðó chỉ là giới
tóm thâu những giới-luật chính, làm giềng-mối cho sự trì
phạm mà thôi. Nếu kể cho hết giới-luật thì về "lượng" sánh
đồng hư-không, về "cảnh" lại nan khắp cả pháp-giới. Nếu kể
về bậc trung, thì bên tăng có đến 3.000 oai nghi, 80.000
tế-hạnh; bên Ni có đến 80.000 oai-nghi và 120.000 tế-hạnh.
Vì sao Phật lập ra
nhiều giới-luật như thế?
- Vì mỗi một giới là
ngăn ngừa tội lỗi, mà con người chúng ta là phàm phu, từ tâm
niệm cho đến hành vi, có không biết bao nhiêu điều tội lỗi,
nên phải có vô số giới luật để ngăn ngừa.
2.- Về tác
trì, gồm có 20 kiền-độ.
Kiền độ nghĩa là
phẩm loại, điều luật (Khanda).
20 Kiền độ là:
Thọ giới Kiền độ
Thuyết giới Kiền
độ
An cư Kiền độ
Tứ tự Kiền độ...
Sự chia ra chủ trì
và tác trì là cốt lõi đễ phân biệt trong khi giữ giới, chứ
thật ra nói một cách rốt ráo thì trong ''chỉ'' có ''tác'',
trong ''tác'' có ''chỉ'', không thể nói một cách dứt khoát
được.
(1) Chúng tôi chỉ
giới thiệu những danh từ của các giới luật tăng, ni chứ
không nói rõ hơn, vì theo luật Phật, người thọ giới ở cấp
bực nào thì chỉ biết giới luật của cấp ấy mà thôi.
IV.-Các Danh Từ
Và Phương Pháp Thực hành
Như chúng ta đã thấy
ở trên, giới-luật của Phật chế ra rất nhiều; do đó, danh từ
chuyên môn và cách thức giữ giới cũng rất phức tạp. Vậy muốn
giữ giới được kết quả, trước tiên phải biết những điều sau
đây:
1.-Sao gọi là
''danh, chủng, tánh, tướng''?.
a.-Danh là tên (danh
từ) nghĩa là tên chỉ mỗi giới, như giới bất sát sinh, giới
bất thâu đạo.v.v...
b.- Chủng là chủng
loại, hay nhóm; như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới
của Tăng, Ni: Ba-la-di, Tăng tàng.v.v..
c.-Tánh là tâm tánh,
là tánh chất ở bên trong; như người giữ giới, trong tâm niệm
không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng v.v.. hoặc
thấy người phạm giới cũng không sanh tâm vui mừng hay liên
tưởng đến. Giữ gìn tâm tánh ở bên trong được thanh tịnh như
vậy, gọi là ''giới tánh''.
d.- Tướng là hình
tướng ở bên ngoài; như bên trong đã không nghĩ đến sát sanh,
trộm cướp (tánh giới) .v.v.. mà bên ngoài cũng không làm
những điều ác ấy, gọi là ''giới tướng''.
Tóm lại, mỗi khi
phạm một điều tội lỗi, người giữ giới phải biết tội ấy là gì
(danh), sát hay đạo .v.v..? thuộc về loại nào (chủng),
Ba-la-di hay Tăng tàng.v.v..? thuộc về nội tâm (tánh) hay
ngoài thân (tướng)? Và cuối cùng hành giả phải biết tôi ấy,
theo luật phải trị phạt thế nào mới được thanh tịnh?
2.- Sao gọi là
'' khai, giá, trì, phạm ''?
a.- Khai là mở, cho
làm.
b.- Giá là cấm,
không cho làm.
Như khi Phật còn tái
thế, Ngài cấm các vị Tỳ Kheo leo lên cây, đó là ''Giá" .
nhưng về sau có vị Tỳ Kheo đi vào rừng, bị ác thú rượt, Ngài
không dám leo lên cây để tránh, vì sợ phạm giới, và cuối
cùng bị ác thú hại. Từ đó, Phật dạy: ''nếu có duyên sự thì
được leo cây'', như thế gọi là ''Khai''.
Một thí dụ thứ 2:
người Phật tử phải giữ giới không uống rượu. Ðó là ''Giá''.
Nhưng khi bị bịnh nặng, nếu cần rượu để hòa với thuốc, uống
mới lành bệnh, thì tạm được dùng. Ðó là ''Khai''. Nhưng
trước khi uống, phải bạch với chư tăng.
c.- Trì là giữ gìn;
như khi đã thọ giới rồi mà giữ gìn cho được thanh tịnh thì
gọi là ''Trì''.
d.- Phạm là vi phạm;
như đã thọ giới rồi mà không giữ gìn giới thì gọi là
''Phạm''.
Tóm lại, trong khi
tu hành giữ giới-luật, hành giả luôn luôn quan sát mỗi hành
vi hàng ngày của mình xét xem một cách sáng suốt, thế nào là
''Trì'', thế nào là ''Phạm''; trong trường hợp nào, và giới
nào được ''Khai''; Trong trường hợp nào, và giới nào không
được ''Khai''.v.v.. nói một cách tổng quát khi đã thọ giới
rồi thì phải ''Trì''. Nếu không ''Trì'' là ''Phạm''. Tuy thế
nếu vì lòng từ bi, vì lợi ích chung, hay vì trí huệ thúc
đẩy, thì có thể ''Khai'' mà không phạm tội. Nhưng nếu vì tâm
nhiểm ô, vì phiền nảo thúc đẩy mà ''Khai'' là ''Phạm''.
3.-Sao gọi là
''chỉ trì, tác phạm và tác trì chỉ phạm''?
a.- Chỉ trì là nói
về phương diện các điều ác, quyết giũ gìn không gây tội
lỗi.
b.- Tác phạm là nói
về phương diện các điều ác, đáng lẽ phải giữ gìn, mà lại
không giữ được, cho nên phải phạm tội lỗi.
c.- Tác trì là nói
về phương diện các điều thiện, cần phải làm, là không phạm
giới.
d.- Chỉ phạm là nói
về phương diện các điều thiện, nếu đình chỉ không làm, là
phạm giới.
Thí dụ: về tội ăn
trộm, nếu không làm là chỉ trì, nếu làm tác phạm. Trái lại,
về hạnh bố thí, nếu làm là tác trì, nếu không làm là chỉ
phạm.
4.- Sao gọi là
'' tánh tội và giá tội, hay tánh giới và giá giới''?.
a). Tánh tội là tội
sẳn có trong bản tánh chúng sanh, như sát, đạo, dâm, vọng.
Bốn tánh này có sẳn trong tâm tánh chúnh sanh từ vô thỉ đến
nay, hể có chúng sanh lá có chúng nó. Mỗi người, không cần
ai dạy bảo, không cần học tập, mà ai cũng đều biết sát, đạo,
dâm, vọng. Vì thế cho nên gọi là tánh tội.
b). Giá tội là tội
không sẵn có trong bản tấn nhưng do hoàn cảnh, do tập nhiễm
mà phát sinh; như tội uống rượu chẳng hạn. Nói một cách tổng
quát, ngoài bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng, còn bao
nhiêu tội khác là giá tội cả.
c). Tánh giới là để
ngăn ngừa bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng. Giới này rất
quan trọng, nhưng củng rất khó giữ. Giữ được bốn giới này
thì sư tu hành tất sẽ kết quả và con đường giải thoát chắc
chắn sẽ chờ đón hành giả.
d). Giá giới là giới
để ngăn ngừa tội lỗi do hoàn cảnh là huân tập mà phát sinh.
Những giới này ít quan trọng hơn tánh giới nói trên. Nhưng
muốn giữ được tánh giới một cách ít khó khăn, phải cần giữ
giá giới. Như người muốn đốn cây lớn, trước tiên phải chặt
ngành ngọn; như người dùng binh giỏi, trước khi muốn chiếm
một đô thị lớn, phải ngăn chặn các con đường đi vào đo thị
ấy.
V.-Kết Luận
Như chúng ta đã rỏ,
mục đích của giáo pháp mà Ðức Phật chỉ bày cho chúng ta là
để được minh tâm, kiến tánh, và thành Phật. Tất cả các tôn
phái, mặc dù có chủ trương và đặc điểm khác nhau, nhưng mục
dích cuối cùng đều là một: Giác-ngộ và thành Phật.
Luật tôn củng không
đi ra ngoài mục đích trên, mặc dù phương pháp có khác phần
nhiều các tôn khác thì phải hiểu rồi mới tu; Luật tôn trái
lại chủ trương; hãy tu đi rồi sẽ hiểu, hảy giữ gìn giới luật
phải nghiêm chỉnh, thì tâm sẽ định tĩnh, thanh tịnh; tâm đã
thanh tịnh thì trí huệ sẽ sáng suốt, chân tâm sẽ hiện bày,
Phật tánh sẽ phát lộ.
Thật là một chủ
trương rất thiết thực, mà kết quả lại chắc-chắn ! Những kẻ
học rộng biết nhiều mà không giữ giới củng chẳng khác gì đèn
trước gió, có thể sáng lắm, nhưng không biết sẽ tắt khi nào.
Trái lại kẽ học ít biết hẹp mà giữ giới một cách chân thật,
thì củng như ngọn đèn có ống khói, khi mới thắp thì lu,
nhưng không tắt thì càng cháy lâu cáng sáng tỏ.
Vì những lí lẽ trình
bày ở trên, Luật tôn đều phải thích hợp với mọi căn cơ, nhất
là với những căn cơ chậm lụt. Ở đời chúng ta thường thấy
phần nhiều những người có căn trí lanh lẹ, hiểu nhanh biết
lẹ, nhưng vì hay ỷ sức mình , không chịu đặt mình vào khuôn
phép kỷ luật, nên cuối cùng, chẳng thu hoạch được kết quả gì
tốt đẹp cả. Trái lại, những kẻ có căn trí tầm thường, nhiều
khi chậm lụt nữa , nhưng lại dễ thành công trên đường đời
củng như trên đường đạo, vì họ biết thủ phận chịu khó khép
mình vào kỷ luật, không tự mãn, tự cao. Những đệ tử của
Phật, có ai có một địa vị xã hội hạ tiện (đi gánh phân) và
một căn trí thấp thỏi như Ngài Ưu-Ba-Li !Thế mà Ngài
Ưu-Ba-Li lại trở thành một đệ tử của Phật, đã thành một bậc
hiền thánh, chỉ vì đã nghiêm trì giới luật! Chúng ta đây,
địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém Ưu-Ba-Li, lẻ
nào chúng ta không thu hoạch được thành quả tốt đẹp như Ngài
, nếu chúng ta củng tập nghiêm trì giới-luật như Ngài .
2.-Tịnh Ðộ Tông
Tôn này thuộc về
Ðại- thừa, chủ trương dạy người chuyên tâm niệm Phật để được
cảnh vãng sanh về Tịnh độ của Phật A-DI-Ðà. Do đó, tôn này
mới có tên là Tịnh độ tôn.
Ðây là một trong
nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất
thích hợp với đại đa số quần chúng. Với pháp môn này, bất
luận hạng người nào, trong thời gian nào, hoàn cảnh nào,
củng có thể tu hành được cả. Nếu so sánh với con đường đi,
thì tôn này là môt đại lộ bằng phẵng ,rộng rãi, mát mẽ, hành
giả dễ đi mà mau đến, không sợ gặp nguy hiểm chướng ngại
giữa đường.
Bởi những lẻ ấy, nên
từ xưa đến nay, đã có không biết bao nhiêu người chọn lựa
pháp môn này để tu hành. Riêng ở Việt nam chúng ta, ngày xưa
củng như hiện nay, có biết bao nhiêu người là môn đồ của tôn
này. Ðó là lý do thúc đẩy chúng tôi gấp rút biên soạn bài
này để giới thiệu "con đường tu thứ hai" trong mười tôn phái
của Phật Giáo.
I.-
Duyên Khởi Lập Tông
Tịnh độ căn cứ vào
những kinh điền gì để thành lập? Kinh điển mà Tịnh độ tôn đã
y-cứ thì rất nhiều. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu lên một ít
bộ kinh căn bản, thường được nói đến thôi. Ðó là các bộ:
1.-Kinh vô lượng
thọ: Kinh này được chép lại 48 lời thề nguyên của đức
A-Di-Ðà , khi còn là một vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng. Nội
dung của 48 lời thệ nguyện ấy là: sau khi thành Phật, ngài
sẽ lập ra một quốc độ hết sức trang nghiêm thanh tịnh, để
tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương Thế giới về đó, nếu
những chúng sanh ấy thường niệm đến danh hiệu Ngài và thường
cầu được vãn sanh về cõi tịnh độ của Ngài.
2.- Kinh Quán Vô
lượng thọ: Kinh này chép rõ 16 Pháp quán và 9 Phẩm, để
dạy người cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ.
3.- Kinh tiểu bổn
A-Di-Dà: Kinh này lược tả cõi tiên giới Cực Lạc, trang
nghiêm (Tịnh độ) khiến người sanh lòng ham mộ, phát nguyện
tu theo pháp môn ''trì danh niệm Phật cho đến nhất tâm bất
loạn'' để được vãng sanh về cõi ấy.
Ba kinh trên này là
ba bộ kinh chính; cổ nhân thường gọi là ''ba kinh Tịnh độ''.
Ngoài ra còn có các kinh khác như:
Kinh Bửu Tích chép
việc đức Phật vì vua Tịnh phạn và bảy vạn người trong thân
tộc, nói pháp môn ''trì danh niệm Phật'' để cầu sanh về Thế
giới Cực lạc.
Kinh đại bổn
A-Di-Dà, Kinh Thập Lục Quán, kinh Ban châu niệm Phật, kinh
Bi-Hoa, kinh Phương Ðẳng, kinh Hoa nghiêm.v.v..
Giáo điển về Tịnh độ
truyền qua Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Ðông-Tấn nhờ
Ngài Huệ-Viễn đại sư ra công hoằng hóa, nên tôn này mới bắt
đầu thịnh hành. Ngài là vị tổ đầu tiên ở Trung Hoa. Sau đó,
các vị đạo sư danh tiếng như Ngài Ðàm Loan, ngài Ðạo Xước,
ngài Thiện-Đạo.v.v.. đều dùng pháp môn này mà tu chứng và
hóa độ rất nhiều người và mãi lưu truyền cho đến ngày nay.
II. Bốn Cõi Tịnh
Ðộ.
Tịnh độ không phải
chỉ có một cõi, mà rất nhiều cõi. Ðứng về phương diện phân
tích, từ tế đến thô, có thể chia làm 4 cõi Tịnh độ sau đây:
1.- Thường tịch
quang Tịnh độ: đây là cảnh giới mà Pháp thân Phật an
trụ. ''Thường'' là không thay đổi, không sanh diệt, tức là
Pháp thân Phật; ''Tịch'' là xa lìa các phiền não vọng nhiễm,
tức là đức Giải thoát của Phật; ''Quang'' là chiếu sáng khắp
cả mười phương, tức là đức Bát-nhã của Phật. Như thế là cõi
Tịnh độ này đủ cả ba đức quý báu của Phật là Thường, Tịch và
Quang, cho nên gọi là ''Thường tịch quang Tịnh độ''.
Cảnh Tịnh độ này
không có hình sắc mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm,
hay tánh viên giác ''thường vắng lặng, chiếu soi và thanh
tịnh'', nên gọi là ''Thường tịch quang Tịnh độ''. Chư Phật
khi đã chứng được cảnh giới này rồi thì thanh và độ không
hai, song vì căn cứ theo ba loại Tịnh độ sau đây mà gọi là
có Thân, có Ðộ. Chứng đến chỗ này, nếu đứng về Thân thì gọi
là ''Pháp Thân'', còn về độ, thì gọi là ''Thường tịch quang
Tịnh độ''.
Kinh Tinh danh, về
lời sớ có chép: Tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn viên quả
mãn, thành bực Diệu giác (Phật) sẽ ở cõi ''Thường tịch quang
Tịnh độ''.
2.- Thật-báo
trang nghiêm Tịnh độ: hành giả trải qua ba số kiếp tích
công lũy đức do phước báu tu hành nhiều đời dồn chứa lại,
làm trang nghiêm cảnh giới chơn-thật nên gọi là ''Thật-báo
trang nghiêm Tịnh độ''. Cảnh giới Tịnh độ này là chỗ ở của
Báo thân Phật. Kinh Quán-Vô-Lượng Thọ về lời sớ có chép:
''Tu-tập chơn-thật'', cảm đặng quả báo tốt đẹp, cho nên gọi
là ''Thật báo trang nghiêm''. Bên Ðại-thừa Viên giáo thì cõi
này là của các bậc Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng); còn bên
ngoài Ðại-thừa Biệt-giáo, thì đây là cõi các bậc từ Thập địa
cho đến Ðẳng giác Bồ Tát.
3.-Phương tiện
hữu dư Tịnh độ: Cảnh Tịnh độ này không phải là cứu cánh
rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Ðây là cõi Tịnh độ của hàng
Nhị thừa. Các vị này tuy đã dứt được kiến-hoặc và tư-hoặc
trong ba cõi (Dục-giới, Sắc giới và Vô-sắc-giới), nhưng còn
dư lại hai hoặc là: vô-minh hoặc và trần-sa hoặc chưa trừ
được, nên gọi là ''hữu-dư ''. Ðã là ''hữu-dư '' tức là chưa
phải hoàn toàn cứu-cánh, nên gọi là cõi Tịnh độ này là ''
Phương-tiện hữu-dư Tịnh độ ''.
4.- Phàm thánh
đồng cư Tịnh độ: Ðây tức là cõi Tịnh độ của Ðưc Phật
A-Di-Đà ở Tây-phương. Ðã gọi là Tịnh độ, hay Cực-lạc, tuy
nhiên có đủ các đức thanh tịnh trang-nghiêm, không có bốn ác
thú. Nhưng đây vì Phật, Bồ Tát và các vị thượng thiện nhơn
(thánh) cùng sống chung với chúng sanh mới vãng-sanh, chưa
chứng được quả thánh (phàm) nên gọi là ''Phàm thánh đồng cư
Tịnh độ ''.
Vì phần đông tín-đồ
Phật Giáo Việt-Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp môn
Tịnh độ, đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ này, tức là cõi
Cực-lạc của Phật A-Di-Ðà, nên ở đây, chúng tôi xin căn cứ
theo kinh ''Tiểu bổn A-Di-Ðà'' thuật lại lời Ðức-Phật Thích
Ca đã tả về cảnh giới của cõi Tịnh độ này: ''...Từ cõi Ta-bà
này, cứ về hướng Tây, cách đây hơn mười muôn cõi Phật, có
thế giới tên là Cực-lạc. Vị Giáo-chủ ở Thế-giới ấy là Phật
A-di-đà, thường hay nói pháp. Cõi ấy có 7 lớp câu-lơn
(tường-hoa) bảy lớp lưới giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có hồ
thất bảo đầy nước tám công đức. Ðáy hồ toàn là cát vàng. Bốn
phía bờ hồ đều cẩn vàng ngọc, châu báu. Trong hồ có hoa sen
bốn màu lớn bằng bánh xe, hương thơm ngào ngạt, màu nào cũng
có hào quang chiếu sáng. Quanh hồ, vươn lên những tòa lâu
đài nguy nga, xinh đẹp làm toàn bằng thất bảo.
Trên không trung hòa
lẫn những bản nhạc thiêng, có những tiếng chim báu, do Phật
hóa hiện ra, để thuyết pháp luôn trong sáu thời cho dân
chúng nghe. Người nghe rồi liền phát tâm niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng. Không những chỉ có tiếng chim, mà cho đến
tiếng nước chảy, gió thổi, cây reo, cũng đều phát ra tiếng
pháp nhiệm mầu.
Cảnh giới Cực-lạc
tốt đẹp, trang nghiêm như thế là do công đức của Phật
A-Di-Dà (1) là vị giáo chủ của cõi ấy và các vị Bồ tát,
Thánh chúng chung nhau tạo thành.
(1) Chữ A-Di-Ðà,
người Trung Hoa dịch là "vô lượng thọ" hay "vô lượng quang",
nghĩa là Ðức Phật này sống lâu không lường và hào quang chói
sáng cũng không lường
III.- Ba Yếu Tố
Ðể Cầu Sanh Tịnh Ðộ
Muốn được vãng-sanh,
về cõi Tịnh độ nói trên, hành giã phải chuẩn bị ba yếu tố
sau đây là: Tín, Nguyện và Hành. Ba yếu tố này thường được
gọi là ba món tư-luơng (Lương phạn đi đường). Nếu thiếu một
món ăn nào, hành-giả củng không thể tu hành có kết quả
được.
1.-Thế nào là
''Tín''? -Tín là đức tin vững chắc, không gì lay
chuyển được. Ðức tin rất quan trọng và cần thiết cho người
tu hành. Kinh Hoa-Nghiêm có dạy: '' Tin là mẹ sanh ra các
công đức ''. Nhờ đức tin mà quả Bồ-đề có thể thành tựu
được.
Tin có ba
phần:
a). Tin Phật:
Tin rằng Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, biết các việc
sáng suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại và vị lai, thấy
hết thảy hằng sa thế giới, hiểu biết các pháp một cách rõ
ràng. Tin rằng do lòng từ-bi muốn cứu khổ sanh-tử luân hồi
cho chúng sanh, mà Phật Thích Ca nói pháp môn niệm Phật, để
chúng sanh thực hành theo người mà được vãng-sanh về Tịnh
độ. Tin rằng lời dạy của Ðức-Phật Thích- ca không hư dối.
Ðức-Phật A-Di-Ðà và cảnh Tịnh độ đều có thật.
b). Tin Pháp:
Tin rằng pháp-môn niệm Phật là pháp-môn dễ tu, dễ chứng, có
bảo đảm chắc chắn. Tin rằng 48 lời thệ nguyền của Phật
A-Di-Ðà có đầy đủ hiệu lực để cứu độ chúng sanh, và nếu ta
thực hành đúng theo pháp môn này, chắc chắn sẽ được
vãng-sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Ðà.
c). Tin mình:
Tin rằng mình có đầy đủ khả năng và nghị lực để tu theo
pháp-môn này. Tin rằng nếu mình thực-hành đúng như lời Phật
Thích-Ca đã chỉ dạy trong kinh A-Di-Ðà, chuyên trì danh hiệu
Phật A-Di-Ðà cho đến ''nhất tâm bất loạn'' thì khi lâm-chung
chắc chắn thế nào mình cũng sẽ được sanh về cõi Tịnh độ.
2.-Thế nào là
''nguyện''? Nguyện là lời hứa-hẹn, sự ước ao, là chí
nguyện, mong muốn thực hiện những điều chân chính. Nguyện là
sức hút của đá nam châm, là cánh buồm căng gió của chiếc
thuyền, là cái chong chóng của máy bay. Nguyện là động cơ
thúc đẩy cho con người tu hành mau đến mục đích.
Nguyện quan trọng
như thế, nên hành-giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn
luôn kiên tâm, trì chí tu theo pháp-môn niệm Phật này, ngày
đêm chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong cầu được
sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Ðà.
Ðể có một ý-niệm về
chữ ''nguyện '', chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời
nguyện, trong 48 lời nguyện của Phật A-Di-Ðà, khi còn làm
Pháp-tạng Tỳ-Kheo:
-''Sau khi ta
thành Phật, chúng sanh ở mười phương một lòng tin ưa, muốn
về cõi ta, từ một niệm cho đến mười niệm, nếu chúng sanh ấy
không đặng vãng-sanh, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác,
chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai
Chánh-pháp ''.
-'' Nếu ta đặng
thành Phật, chúng sanh ở mười phương pháp-giới phát tâm
Bồ-Ðề, tu các công đức, một lòng phát-nguyện, muốn sanh về
cõi nước ta, giá như ta không cùng với đại chúng vây quanh
hiện ra ở trước mắt chúng sanh ấy, thời ta thề không thành
bậc Chánh-giác".
''Nếu ta đặng
thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta,
chuyên niệm cõi nước ta, mà nếu không được thỏa nguyện, thì
ta thề không thành bậc Chánh-Giác ''.
3.-Thế nào là
''Hành''?- Hành là thực-hành, làm theo. Nếu tin
(tín) mà không ước ao, mong muốn (nguyện) thì chỉ là tin
suông, vô bổ. Nhưng nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không
làm (hành) thì chỉ ước ao, mong muốn ảo-huyền, không đi đến
kết quả gì. Bởi thế, Tín, Nguyện,Hành ba yếu tố căn bản này
bao giờ cũng phải có đủ, mới đủ điều kiện vãng-sanh Tịnh độ.
Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba chân mới đúng vững được,
thiếu một chân, tất phải ngã.
IV.-Phương
Pháp Tu Về Tịnh Ðộ
Sau khi đã chuẩn bị
đủ ba yếu tố hay ba món tư lương Tịnh độ nói trên, chúng ta
phải hạ thủ công phu ngay. Nhưng muốn cho có hiệu quả, chúng
ta cần hiểu rỏ phương pháp tu hành. Vẫn biết rằng pháp-môn
niệm Phật là một pháp-môn rất giản dị, chỉ cần niệm Phật là
đủ. Nhưng niệm Phật củng có nhiều cách, nhiều loại, mà chúng
tôi xin dẫn một ìt phương pháp sau đây:
1.-Trì-danh
niệm Phật: -Trong lối niệm Phật này, hành-giả chỉ
chuyên tâm trì-niệm danh hiệu của Phật A-Di-Ðà. Mỗi ngày từ
khi mới thức dậy cho đến lúc đi ngũ, hành-giả phải chớ niệm
luôn, không cho xen hở. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi,
khi ăn, trước khi ngũ, hành-giả đừng bao giờ quên niệm Phật.
Ngoài ra muốn có hiệu quả hơn, hành-giả cần phải xem phương
pháp ''Kinh hành niệm Phật'' (xem nghi thức kinh hành niệm
Phật). Mỗi khi niệm xong, hành-giả đều hồi hương cầu sanh
Tịnh độ.
2.- Tham-cứu
niệm Phật: -Trong lối tu này, hành-giả phải tham
khảo cứu-xét suy nghiệm câu niệm Phật. Như khi niệm ''Nam-mô
A-Di-Ðà Ðà Phật'', hành-giả phải quán-sát câu niệm Phật này,
từ đâu mà đến, đến rồi sẽ đi về đâu? Niệm đây là niệm ai
v.v..? Nhờ sự chuyên tâm chú ý tham khảo một câu niệm Phật
như thế, nên sóng vọng-tưởng dần dần chìm lặng, tâm hiện
bày, hành-giả được ''nhất tâm bất loạn'', đến khi lâm chung,
sẽ được sanh về cảnh-giới của Phật. Pháp niệm Phật này giống
như pháp tham cứu câu ''thoại đầu'' bên Thiền-tôn, nên gọi
là ''tham-cứu niệm Phật ''.
3.- Quán-tương
niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả chăm chú quan
sát hình tượng của Phật.
Hành-giả ngồi trước
tượng Phật, chú tâm chiêm ngưỡng, quan sát các tướng tốt mà
liên tưởng các đức-tánh của Phật. Như khi chiêm ngưỡng đôi
mắt Phật, thì liên tưởng tới trí huệ của Phật; khi chiêm
ngưỡng nụ cười hiền hòa của Phật, thì liên tưởng đến đức
tánh từ bi, hỷ-xã của Phật. Nhờ quán trí huệ của Phật mà
tánh Si của hành-giả phai dần; nhờ quán từ-bi của Phật mà
tánh Sân của hành-giả bớt dần ...Hễ quán thêm một đức-tánh
tốt của Phật, thì một tánh xấu của hành-giả được bớt đi.
Tánh của Ðức-Phật như tia sáng mặt trời, tánh xấu của
hành-giả như vết mực; tia sáng mặt trời càng sáng nhiều và
càng chiếu rọi lâu ngày, thì vết mực càng phai nhanh. Tóm
lại, nhờ sự chú tâm quán các tướng tốt trên hình tượng của
Phật, mà các đức tánh như từ-bi, hỷ-xả, bình-dẳng, lợi tha
được huân-tập, thấm nhuần vào tâm hành giả; lâu ngày, tâm
hành-giả sẽ thanh-tịch, lọc sạch những niệm ác độc và sẽ
giống tâm Phật, được vãng-sanh về cõi Phật.
4.-Quán-tưởng
niệm Phật:- Trong lối tu này, hành-giả ngồi yên một
chỗ, mặc dù không có hình tượng Phật trước mặt, mà hành-giả
quán tưởng như có Ðức-Phật A-Di-Ðà, cao lớn đứng trên hoa
sen, phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng, bao phủ cả thân
hình mình. Hành-giả ngồi ngay thẳng, hai tay chắp lại, cũng
tưởng mình ngồi trên tòa-sen, được Phật tiếp dẫn. Hành-giả
chuyên chú quán tưởng mãi mãi như thế; đi, đứng, nằm, ngồi
cũng không dừng nghĩ, cho đến khi nào, mở mắt hay nhắm mắt
cũng đều thấy Phật, tức là pháp quán đã thuần-thục. Khi lâm
chung, hành-giả chắc chắn sẽ được vãng-sanh về Tịnh độ.
Trong kinh Quán Phật
tam-muội chép rằng: "Phật vì Phụ-vương, nói pháp quán-tưởng
bạch hào ...''. Quán-tưởng bạch-hào nghĩa là quán-tưởng lông
trắng có hào quang sáng chiếu, giữa hai chân mày của Phật,
như trăng thu tròn đầy, trong suốt như ngọc lưu ly. Ðây là
một phương pháp quán tưởng niệm Phật.
5.-Thật tướng
niệm Phật:- Thật tướng niệm Phật là niệm Phật đã đạt
đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ
lai, không hư không giả, cho nên gọi là"thật tướng".
Trong năm pháp niệm
Phật trên này, thì bốn pháp trước đều thuộc về sự, có niệm
có tu; còn pháp thứ năm (thật tướng niệm Phật) là thuộc về
lý: không còn niệm, không còn tu, không còn năng sở, cao
siêu hơn cả. Niệm Phật đến chỗ này mới hoàn toàn rốt ráo.
Nhưng, hành giả phải
luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự , Lý mới hiển. Trước hết phải
tu bốn pháp niệm trên, cho đến khi thuần thục, không còn
thấy có mình là người niệm, Phật là vị bị niệm, chỉ có một
tâm yên lặng chiếu soi, không năng sở, bi thử, không hữu,
không vô. Ðến chỗ này, kinh Di-Ðà gọi là "được nhất tâm bất
loạn". Kinh Tứ thập nhi chương chép; "niệm đến chỗ vô niệm,
mới là chơn niệm".
Trong năm pháp niệm
Phật trên đây, từ xưa đến nay, người tu Tịnh độ, thường lựa
pháp môn danh trì, là một pháp môn dễ hạ thủ công phu, hành
giả ở trình độ nào, chỗ nơi nào hay lúc nào, củng đều có thể
tu được. Thật là một pháp môn rất thù thắng.
V.-Lợi Ích Của
Pháp Niệm Phật
Lợi ích của pháp
niệm Phật thật vô lượng vô biên, tựu trung có thể chia làm
hai phần: lợi ích về Sự và lợi ích về Lý.
1.-Lợi ích về
Sự:
a) Niệm Phật sẽ
trừ được các phiền não.
Những người gặp các
cảnh khổ, như tử biệt sanh ly, nhà tan cửa mất, tai nạn bất
thường v.v ..sanh các phiền não, nếu biết chí tâm niệm Phật,
thì các phiền não khỗ đau dần dần tiêu tan. Vì sao lại có
kết quả tốt đẹp như thế? Vì tâm ta cũng như dòng nước luôn
luôn tuôn chảy. Nếu chúng ta pha vào những chất cáu bẩn, thì
nước trở thành đục bẩn; nếu chúng ta pha vào những chất thơm
tho, thì nước sẽ trở thành thơm mát. Nếu tâm ta chỉ nhớ nghĩ
đến những tai nạn khổ đau, thì luôn luôn sẽ bị phiền não
khuấy đục. Khi ta niệm Phật thì sẽ cố nhiên nhớ Phật, quên
đau khổ. Ðem sự nhớ Phật này thế cho cái nhớ sự đau khổ; một
giờ niệm Phật thì sẽ đổi được một giờ sầu khổ, một ngày niệm
Phật thì đổi được một ngày khổ đau. Cứ như thế, nếu niệm
Phật được tăng chừng nào, thì sự buồn phiền đau khổ sẽ giảm
đi chừng âý. Cho nên cổ nhân có câu "Một câu niệm Phật giải
oan khiên".
Trong thời kỳ chiến
tranh Việt-Pháp vừa qua, chúng tôi đã đem phương pháp niệm
Phật này chi cho một số người sầu khổ gần như điên cuồng, vì
sự nghiệp bị tiêu tan, con cháu mất lạc, họ thu lượm kết quả
rất là tốt đẹp.
b) Niệm Phật sẽ
trừ được niệm chung sanh.
-Chúng sanh hằng
ngày nhớ nghĩ đến những điều tội lỗi như tham, sân, si v.v
..miệng thốt ra những điều tội ác, thân làm những việc xấu
xa. Ðó là những ác nghiệp của chúng sanh. Nay nếu chúng ta
niệm Phật, thì chúng ta không còn thì giờ để nhớ nghĩ việc
tội lỗi nữa và thực hành những ác nghiệp trên nữa. Như thế
là niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh. Niệm Phật càng
nhiều thì niệm chúng sanh càng ít. Niệm Phật hoàn toàn thì
niệm chúng sanh dứt sạch.
c) Niệm Phật sẽ
làm cho thân thể được nhẹ nhàng an ổn.
-Bệnh tật của chúng
ta, một phần do thể xác, nhưng một phần củng do ảnh hưởng
của tinh thần. Nhiều người mất ăn bỏ ngủ vì uất hận, nhục
nhã v.v.. Do đó, uất khí tích tụ lâu ngày trong người, mà
sinh bệnh mất ăn bỏ ngủ. Gặp những trường hợp như vậy, nếu
chúng ta niệm Phật cho ra tiếng, thì những nỗi uất hận đè
nặng lên tâm can chúng ta, sẽ như được trút ra cùng hơi thở,
cùng tiếng niệm, và thân tâm ta được nhẹ nhàng dễ chịu.
Những người yếu tim, nếu biết niệm Phật sẽ mau bình phục. Vì
bệnh yếu tim thường làm cho người bệnh hồi hộp, lo sợ; nay
nhờ niệm Phật nên tâm định, tâm định thì những sự hồi hộp lo
nghĩ giảm đi. Do đó mà ăn được,ngủ yên và bệnh mau bình
phục.
d.-Niệm Phật tâm
trí sẽ sáng suốt, học hành mau nhớ.
-Những người tâm trí
loạn động thì tối tăm, như ngọn đèn bị gió, không sáng được
nhờ niệm Phật, tâm trí sẽ định tĩnh, như ngọn đèn có ống
khói, không lay động. Do đó tâm trí sẽ phát chiếu, như ngọn
đèn tỏa ánh sáng vậy.
đ) Niệm Phật, khi
lâm chúngẽ được sanh về Tịnh độ.
-Như chúng ta đã
thấy ở trên, niệm Phật đem lại cho chúng ta nhiều ích lợi
thiết thực trong đời sống hiện tại, về phương diện thể chất
lẫn tinh thần, về tính tình lẫn trí huệ. Nhưng cái lợi ích
lớn nhất là ở đời sau. Nếu chúng ta thực hành pháp niệm Phật
này, đúng như lời Phật dạy, cho đến "nhất tâm bất loạn" thì
sau khi lâm chung, sẽ sanh về Tịnh độ,được luôn luôn thấy
Phật nghe pháp, làm bạn với thánh hiền, và có đủ nhiều thiện
duyên để tiếp tục tu hành cho đến quả Phật.
2.-Lợi ích về Lý:
Khi hành giả niệm
Phật được "nhất tâm bất loạn", thì các vọng tưởng hết, chơn
tâm thanh tịnh hiện ra. Chơn tâm không sanh diệt hư hoại là
"Thường", chơn tâm thanh tịnh vắng lặng là "Tịch", chơn tâm
sáng suốt vô cùng là " Quang". Cảnh "Thường-Tịch-Quang
Tịnh-độ" chỉ ở nơi chơn tâm ta, chứ không nơi đâu khác.
Lại nữa, chơn tâm
không hoại diệt là "Phật Vô-lượng-thọ"; chơn tâm chiếu soi
vô tận là "Phật Vô-lượng-quang" và đó củng tức là "Thanh
-tịnh diệu pháp thân của Phật A-Di-Ðà".
Tóm lại, người niệm
Phật đến khi hết vọng, ngộ nhập được chơn tâm rồi, thì Phật
A-Di-Ðà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở nơi tâm mình hiện ra,
chứ không phải đâu xa. Vì thế nên kinh chép: "Tự tánh Di-Ðà,
duy tâm Tịnh độ" là vậy.
Xuyên qua các đoạn
trên, chúng ta thấy pháp niệm Phật được sự lợi ích vô cùng.
Nếu những người không tin có Phật A-Di-Ðà, có cảnh Tịnh độ
mà chí tâm niệm Phật, thì cũng được nhiều lợi ích như trên.
VI.-
Sự Quy Ngưỡng Và Cầu Sanh Tịnh Ðộ
Của Các Vị Bồ Tát Và Tổ Sư
Chúng ta đừng tưởng
rằng Pháp môn Tịnh độ là một Pháp môn tầm thường, giản dị
chỉ dành riêng cho những người căn trí thấp-thỏi, hẹp hòi tu
hành. Thật ra, mặc dù Pháp môn này không đòi hỏi hành-giả có
một sức hiểu biết thâm sâu, một trí óc thông minh xuất
chúng, nhưng vì nó dễ tu dễ chứng, hiệu quả chắc chắn nên từ
xưa đến nay, rất nhiều vị Bồ tát và Tố sư đã được thực hành
pháp-môn này để cầu sanh về Tịnh độ. Ngài Văn Thù là vị Bồ
tát có một trí tuệ tối-thắng, không ai sánh kịp, thế mà Ngài
cũng phát nguyện sanh về nước Cực-lạc của Phật A-Di-Ðà như
sau:
Nguyện ngã lâm
dục mạng chung thời
Tận trừ nhất thế
chư chướng- ngại
Diện kiến bị Phật
A-Di-Ðà
Tức đắc vãng-sanh
An-lạc sát.
(Tôi nguyện đến khi
lâm- chung, diệt trừ hết cả chướng ngại, trước mặt thấy được
Phật A-Di-Ðà, liền được vãng -sanh về cõi Cực-lạc).
Các vị Bồ tát như
Ngài Phổ Hiền, Quán-Âm, Ðại-Thế-Chí cũng đều nguyện sanh về
cõi Tịnh độ.
Các vị Tổ ở các tôn
khác, mặc dù hoằng truyền tôn mình, nhưng cũng vẫn tu về
Tịnh độ. Như Ngài Thiên-Thân, tổ của Duy-Thức tôn; Ngài
Trí-Giả đại-sư, tổ của Thiên-Thai tôn; Ngài Hiền-Thủ, tổ của
Hoa-nghiêm tôn; Ngài Nguyên-Chiếu luật sư, tổ của Luật tôn;
Ngài Mã-Minh, Long-Thọ, tổ của Thiền-tônv.v.. .cũng đều thực
hành pháp môn Tịnh độ.
Sau nữa, các vị Ðại
sư danh tiếng ở Trung Hoa, như Ngài Ðàm Loan, Ngài Ðạo Xước,
Ngài Thiện Đạo, Ngài Thừa Viễn, Ngài Pháp-Chiếu, Ngài
Thiếu-Khương, Ngài Tĩnh-Am v.v..đều dùng pháp-môn này để tự
độ và độ tha, và mãi mãi lưu truyền cho đến ngày nay.
VII.- Kết Luận.
Chúng ta đã biết qua
tôn-chỉ, đặc điểm phương pháp tu hành và giá trị của Tịnh-độ
tôn. Ðến đây chúng ta cần phải lắng tâm suy xét kỹ lưỡng,
xem phương pháp tu về Tịnh độ tôn này, có thiết thực lợi ích
và có thích hợp với chúng ta không. Trong phút giây quan
trọng này, chúng ta hãy hết sức thành thực: nếu chúng ta
nhận thấy phương pháp tu này rõ ràng không thích hợp với
chúng ta, thì chúng ta có quyền chờ đợi lựa chọn một phương
pháp khác. Nhưng chúng ta nhận thấy nó có một giá trị thiết
thực, lợi ích chắc chắn cho đời chúng ta trong hiện tại và
mai sau, thì chúng ta đừng chần chừ gì nữa, hãy hạ thủ
công-phu ngay. Thời gian vùn vụt trôi qua, chẳng chờ ai cả.
Hãy chuẩn bị ngay ba món tư-lương là Tín, Nguyện, Hành và
tinh-tấn thực-hành các phương pháp niệm Phật.
Với thái độ thiết
tha chân thành, một quyết tâm không thối chuyển, chúng ta
chắc chắn sẽ niệm Phật đến chỗ ''Nhất tâm bất loạn''.
3.- Thiền Tông
A.-Mở Ðầu
Thiền tôn thuộc cả
Ðại Thưà và Tiểu Thừa.củng như bao nhiêu tôn phái khác trong
Phật Giáo, vị khai sáng đầu tiên của Thiền tôn vẫn là đức
Phật. Trước Ngài , sự tham thiền nhập định của các ngoại đạo
không phải là không có. Nhưng đến Ngài, phương pháp thiền
định mới đạt đến chỗ rốt ráo. Như chúng ta đều biết qua lịch
sử cúa Ngài , sau khi xuất gia, đức Phật đã trãi qua nhiều
năm đi tìm đạo và tu khổ hạnh, nhưng vẫn chưa đạt được đạo
quả như ý muốn. Ngài tự bảo cái đạo ấy không phải đi tìm đâu
xa mà chính phải tìm trong trí huệ sáng suốt của Ngài . và
từ đó, luôn trong 49 ngày đêm dưới cội Bồ Ðề, Ngài đã ngồi
tham thiền nhập định cho đến khuya mồng 8 tháng chạp âm
lịch, lúc sao mai vừa mọc thì Ngài "Minh tâm kiến tánh",
chứng được đaọ quả Bồ-đề,. Ðó là một cuộc nhập định vô tiền
khoáng hậu, mở đầu cho một pháp môn vô cùng hiệu nghiệm của
đạo Bồ đề. Và từ đấy về sau, một tôn giáo riêng đã được
thành lập. Ðó là Thiền tôn.
Sao gọi là Thiền
tôn?-Thiền tôn là một tôn phái của Phật Giáo lấy pháp môn
tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.
Chữ "Thiền" là do
chữ "Thiền-na", một tiếng Phạn, phiên âm theo tiếng Trung
Hoa và dịch nghĩa là định lự (định các tự lự). Hiệp chung cả
tiếng Phạn và tiếng Trung Hoa, thành ra chữ Thiền định.
Có chỗ giải: Chữ
"Thiền", xưa dịch tư là " tư duy", nay dịch là "Tịnh lự". Tư
duy có nghĩa là suy nghiệm, nghiên cứu, suy tầm đối tượng
của tâm thức (tức là chỉ) để cho tâm thể được sáng tỏ.
Chữ "Ðịnh" nguyên
tiếng Phạn là Samadhi, người Trung Hoa phiên âm là Tam muội,
nghĩa là tập trung tư tưởng vào một cảnh duy nhất không cho
tán loạn.
Hợp hai chữ Thiền và
Ðịnh, chúng ta có một nghĩa chung như sau:Tập trung tư tưởng
vào một đối tượng duy nhất, không cho tán lọan, để cho tâm
thể được vắng lặng, tâm dụng được sáng tỏ, mạnh mẽ, đặng
quan sát và suy nghiệm chơn lý.
Phương pháp thiền
định có hai cách:
1.-Tham cứu về lý
thiền, để cầu minh tâm kiến tánh, tỏ ngộ đạo quả, nên gọi là
" Tham thiền", như tham cứu câu thoại đầu (câu nói thiền)
v.v..
2.-Tập trung tư
tưởng để quan sát cho sáng tỏ chân lý về một vấn đề gì như
quán bất tịnh, quán từ bi v.v..nên củng gọi là " Quán
tưởng".
Có chỗ gọi là tu
"Chỉ quán" hay tu "Ðịnh huệ". Chỉ là đình chỉ các vọng
tưởng, không cho khởi động, tưc là định. Quán là quan sát
cho sáng tỏ một vấn đề gì tức là Huệ.
"Chỉ" là nhơn, mà
"Ðịnh là quả.
" Quán là nhơn", mà
"Huê " là quả.
Chủ Trương Của
Thiền Tông
Tất cả chúng sinh,
trãi qua bao đời kiếp, phải trôi lăn trong biển khổ sanh-tử
luân hồi vì bị vô minh mê hoặc.
Tại sao lại có vô
minh mê hoặc? Chúng ta hằng ngày bị thất-tình (1), lục-dục
(2), bát phong (3), xuy động, làm cho tâm tánh chúng ta phải
bị mờ ám; cũng như ngọn đèn bị thổi leo lét, không sáng tỏ
được, để phá tan cái hắc ám ở chung quanh và soi sáng cảnh
vật. Ðèn tâm của chúng ta không giờ phút nào chẳng bị gió
lục-trần (4) làm chao động. Vì đèn tâm chao động (không
định) nên ánh áng trí huệ không thể tỏa ra; và ánh sáng trí
huệ không tỏ sáng, nên khỗng xé tan được mây vô-minh hắc ám
ở chung quanh và không chiếu soi chơn lý của vũ-trụ.
(1) Thất-tình: Mứng,
giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn.
(2) Lục-dục: Những
sự tình dục do lục-căn sanh ra.
(3) Bát-phong: Lợi,
suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.
(4) Lục-trần: Sáu
trần-cảnh là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Vậy hành-giả muốn rỏ
chơn lý của vũ trụ, muốn được minh tâm kiến tánh thành Phật,
thì phải phá trừ mây vô minh hắc ám. Muốn phá trừ vô minh
hắc ám, hành-giả phải làm sao cho đèn trí huệ của mình được
sáng tỏ. Muốn thế hành-giả phải tu thiền-định. Tâm có định,
mới phát sinh trí-huệ. Trí-huệ có phát sinh mới phá trừ được
vô minh hắc ám, và mới minh tâm kiến tánh thành Phật.
Mới nghe qua chủ
trương của Thiền-tôn, chúng ta thấy không có gì mới lạ, và
tưởng là dễ dàng quá; nhưng khi thực hành thì lại không phải
dễ dàng như thế. Trái lại, phép tu thiền-định rất khó, phải
thường có thiện-hữu tri-thức dắt-dẫn, phải tốn rất nhiều
công phu và kiên-nhẫn, phải trải qua một thời gian lâu dài,
mới thu được kết quả.
B.-Các Loại Thiền Ðịnh
Thiền-định có nhiều
loại, nhiều thứ. Có thứ chánh, thứ tà, có thứ sâu, thứ cạn,
có thứ thiền của ngoại-đạo, có thứ thiền của phàm-phu, có
thứ thiền của Tiểu-thừa, có thứ thiền của Ðại-thừa.
Hãy nghe Ngài
Tôn-Mật Thiền-sư dạy: '' ...Người muốn cầu Thánh-đạo, tất
phải tu thiền ''. Chơn-tánh không có dơ và sạch, thánh và
phàm. Song thiền-định có cạn và sâu, từng bực không đồng:
- Người tà-kiến,
chấp trước sao lạc, ưa cõi trên, chán cõi dưới mà tu Thiền
là ngoại đạo thiền;
- Người chánh tín
nhơn quả, nhưng cũng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu
thiền, là phàm phu thiền;
- Người biết rõ lý
''ngã không'' mà tu thiền là Tiểu-thừa thiền;
-Người ngộ được
lý''ngã, pháp dều không'' mà tu thiền, là Ðại-thừa thiền;
-Người đốn ngộ tự
tâm, xưa nay vốn thanh-tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí
huệ vô-lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác; y theo
tâm ấy mà tu thiền là Tối Thượng thừa thiền, củng gọi là
''chơn như tam muội''
Vì thiền có nhiều
loại khác nhau như thế, nên trước khi muốn thực hành cho
đúng đắn chúng ta cần biết sơ lược các lối tu thiền, để khỏi
lạc vào đường nguy hiểm.
I.- Ngọai Ðạo
Thiền
Trong phần ngoại đạo
thiền này, chúng tôi muốn nói đến các loại thiền của ngoại
đạo như đạo Tiên, đạo Bà la môn, các lối thôi miên, và những
tà thiền định với mục đích không chơn chánh.
Sao gọi là không
chơn chánh? -Theo quan niệm của đạo Phật thì những hành động
gì không nhằm mục đích trau dồi tâm tánh, dẹp trừ phiền não
hữu lậu, để cầu giải thoát sanh tử luân hồi, đều không là
chơn chánh. Dựa vào quan niệm trên mà phê phán thì những tà
thiền định hay những loại thiền định của ngoại đạo đều không
chơn chánh; vì những người tu theo lối thiền định nầy chỉ
nhắm mục đích cầu được sống lâu, cầu được khỏe mạnh, được
thần thông biến hóa để dạo chơi thế giới,được những phép lạ,
huyền bí để cám dỗ, mê hoặc người, hay được thần tiên để
hưởng lạc thú tiêu diêu nơi tiên cảnh...
Bởi họ dụng tâm
không chơn chánh, tu phương pháp không chơn tánh, nhắm mục
đích thiển cận, bề ngoài và bị các phiền não tham, sân, si,
làm động cơ thúc đẩy, nên các loại thiền của họ không rốt
ráo và toàn thiện được. Trước tiên chúng ta hãy nói đến các
tà thiền định.
1.- Tà thiền
định: Ðọc các loại sách xưa, chúng ta thường nghe nói
đến các loại cầm thú như: bạch xà, chồn cáo, qui, khỉ,
vượn...tu luyện lâu năm trong rừng sâu núi thẳm, cuối cùng
củng có những phép thần thông, biến hóa. Nhưng mục đích của
chúng là cầu cho được nhiều phép tắc để được gần phụ nữ,
nhiễu hại nhơn dân, hớp hồn hớp via người lương thiện, để
thỏa mãn thú tánh. Ðó là những loài yêu tinh quỷ quái, mà
ngày nay theo con mắt nhà khoa học thì khó có thể tin được
là có. Nhưng có lẽ những người xưa muốn đặt ra câu chuyện
yêu tinh quỹ quái như thế, để ngụ ý các loài thú, nếu tu
luyện lâu năm củng có thể có phép thuật hơn người. Nhưng bởi
chúng thiếu lòng nhân, thiếu thiện tâm cho nên phép thuật
càng cao cường bao nhiêu càng gây tai họa bấy nhiêu.
Chúng ta củng thường
nghe thầy phù thủy luyện thiên linh cái (đầu lâu). Họ củng
tập trung tư tưởng, luyện phép tịnh tâm, và khi thành công
củng sai được âm binh bộ hạ, được ma quỷ mách bảo cho các
việc quá khứ, vị lai ...mà củng tác oai, tác oái không ít.
Ðó cũng là do tu
định cả, nhưng bởi dụng tâm tà, nên gọi là tà thiền định, và
kết quả là có hại cho mình và nhân quần xã hội.
Chúng ta hãy nghe
lời Phật dạy.Ngài A-Nan trong kinh Lăng nghiêm về các lồi tà
thiền định:
" ..A-Nan! Nếu ông
tu thiền định mà không đoạn lòng dâm, thì quyết đọa vào ma
đạo, bực thượng thành ma chúa, bực trung thành ma dân, bực
hạ làm ma nữ. Vì gốc của nó là dâm, thì làm sao khỏi sanh tử
luân hồi được?. "
''...A-Nan ! Nếu ông
tu thiền định mà không đoạn tâm sát hại, thì chỉ đọa vào
thần đạo; bực thượng thành đại lực quỉ, bực trung làm phi
hành dạ xoa và các quỉ tướng soái, bực hạ làm địa hành La
sát và các quỉ thần...''
''...A-Nan ! Nếu ông
tu thiền định mà không đoạn trừ tâm trộm cướp thì quyết đọa
vào tà đạo; bực thượng thành loài yêu tinh, bực trung làm ma
quỉ, bực hạ làm người tà bị các tà ma nhập (đồng
bóng)...''.
2.-Thiền định của
đạo Tiên: Theo các kinh sách của đạo tiên để lại, như
kinh Huỳnh-đình, hay bộ Tánh mạng khuê chỉ v.v..thì con
người sở dĩ sống được và minh mẫn là nhờ có đủ ba món: tinh,
khí và thần. Tinh , khí là chủ cúa xác thân; Thần là chủ của
mạng sống. Hể tinh thần lục dục quá mạnh thì tinh khí hao
mòn: tinh khí hao mòn thì thân bị che lấp tối tăm, con người
mất sáng suốt. Vì thế cho nên phải trừ dục tình để dưởng
tinh, luyện khí cho thân được cởi mở và phát hiện.
" Tiên đạo cho rằng
khắp giáp thân thể con người đều có những cái huyệt, tức là
những lỗ thông khí âm dương; huyệt ở chót bàn chân gọi là
chi âm; huyệt ở đỉnh đầu là thiên thông. Khí đi trở lên là
dương khí, khí di xuống là âm khí.
Người tu tiên cốt
luyện cho âm khí mất đi, chỉ còn cái khí thuần dương đi lên
đỉnh đầu, tức là có thần thông và đắc đạo. Vì sao phải trừ
bỏ khí âm? Bởi vì âm khí là trược khí, làm cho nặng nề, tối
tăm, ưa thích điều dâm dục , làm hao tổn tinh thần. Hể tinh
thần hoằng dương tổn thì cái thần là cái linh động sáng suốt
nhất, cũng là cái thông hiệp với trời đất, bị bế tắc". Vậy
nên, kẻ phàm là kẻ còn nặng khí âm, còn bậc tiên chỉ còn là
khí thuần dương mà thôi (1).
''Ðể luyện khí,
người tu tiên có nhiều phép tu gần giống như phép tọa thiền,
nghĩa là ngồi ở một nơi thanh tịnh, rồi tập luyện các phép
như: ''Tọa công'', ''Giao thiên trụ'', ''Thiệt giải thấu
yết''.v.v..
Tóm lại những người
tu theo đạo này, nếu chuyên tâm trì chí tập trung tư tưởng,
luyện ''Tinh'' hóa ''Khí'', luyện ''Khí'' hóa ''Thần'', sau
khi đã thuần thục, cũng được năm phép thần thông biến hóa.
Họ trở thành tiên, có thể xuất thần bay đi dạo chơi các Thế
giới. Hoặc họ hứng nước mặt trăng, luyện linh đơn để trị
bệnh hay để uống cho được trường sinh bất tử thành địa
tiên.
Những vị tiên này,
rất tiếc là ngày nay, chúng ta không được thấy nên không dám
chắc là có hay không. Nhưng dù có có đi nữa, thì trên lý
thuyết, các vị này vì chưa được lậu tận thông, ''phiền não
hữu lậu chưa hết'' nên khi phiền não rối lên họ cũng bị đọa
trở xuống, như trường hợp ông Uất-Ðầu-Lâm-Phách, hay ông Ðộc
-Giác-Tiên-Nhân.v.v...Hơn nữa dù họ có luyện cái thân mình
cho được trường sanh bất tử cũng không thể toại nguyện được,
vì cái thân này là tứ đại giả hiệp, tất phải bị luật vô
thường chi phối, không thể sống vĩnh viễn được. Nó lại là
cái đãy da chứa các vật bất tịnh thì dù có cưng dưỡng cho
mấy rốt cuộc rồi cũng bị tan rã. Bởi lẽ đó người tu hành
phải xem nó như cái bè đưa qua sông, khi qua sông rồi, chẳng
nên mến tiếc cái bè mà chẳng chịu lên bờ.
Trong bộ Qui-nguyên
Trực chỉ, có kể chuyện ông tiên Lữ Ðồng Tân, học trò của
Tiên Hớn Chung Ly, sau khi đấu phép với Ngài Huỳnh Long hòa
thượng bị thua, ông đã bỏ đạo Tiên theo đạo Phật. Lý do sự
đầu Phật là vì ông Lữ Ðồng Tân tự nhận thấy mình đã dụng tâm
sai và đã đi lầm đường tu hành. Do đó, ông đã làm bài thơ
sau đây để nói lên sự sai lầm của ông:
Nguyên văn:
Khí khước biều nan,
kích tý cầm
Như kim bất luyến
hống trung câm
Từ tùng nhất kiến
Huỳnh long hậu
Thị giác tùng tiên
thố dụng tâm
Dịch nghĩa:
Bỏ lầu Linh dược ném
đờn cầm.
Tôi nay chẳng tiếc
nước miếng vàng (2)
Từ khi gặp Huỳnh
Long hòa thượng
Mới biết từ trước
dụng tâm sai.
(xem quyển Lữ Ðồng
Tân đầu Phật)
(1) "Yoga và tọa
thuyền" trong Đại chúng tuần san, số 219
3.-Luyện Du già
(Yoga). Yoga là một danh từ Ấn, gốc là chữ Yuj; Tàu dịch
là Du già, nghĩa đen là ''tự đặt mình dưới một cái ách'';
nghĩa bóng là ''tự trói buộc cả tinh thần, thể xác vào một
quy luật khắc khe'' tự kiềm chế mình theo một kỷ luật đặc
biệt, mà mục đích là tập trung toàn thể thân tâm làm một với
bản thể của trời đất.
Du già cũng gọi là
thuật luyện khí của Ấn độ, gần giống thuật luyện khí của đạo
Tiên. Theo thuyết Du già trong thân thể con người có rất
nhiều huyệt; trong số ấy có bảy huyệt từ hậu môn lên tới
đỉnh đầu là quan trọng nhất. Bảy huyệt ấy nằm dài theo xương
sống, và có một đường lên một đường xuống thông nhau. Vì sự
si mê và các thứ dục vọng che lấp cho nên bảy huyệt ấy bị
chướng ngại, khiến cho cái ''chơn quả'' từ dưới ''hỏa hậu''
(chổ hậu môn) không thể lên được. Nhất là vì thân thể không
luyện tập, xương sống bị cong đi, các huyệt do đó bị bế tắc.
Vậy muốn cho hoả hậu (tức là cái thần lực trong con người)
được thông qua các huyệt, lên tới đỉnh đầu thì phải chú tâm
luyện cho xương sống giản ra, các khớp xương được thông và
thẳng.
Ðể đạt được mục đích
nói trên, người luyện Du già phải tập nhiều tư thế, như tư
thế ''giản lưng '' tư thế ''lưỡi cày'', tư thế ''trồng
chuối'' (trút đầu xuống dưới, trở chân lên trên trời), để
cho hỏa hậu dể lưu thông tới đỉnh đầu.
Ngày nay Du già được
phổ biến qua các nước Âu -Mỹ, gần như một phong trào. Phần
đông cho đó là một phương pháp thể dục, để luyện cho thân
thể được khỏe mạnh, trí huệ được sáng suốt, để tính toán và
làm việc được nhiều và hiệu quả. Một số người đi xa hơn,
muốn luyện Du già để được sống lâu, trẻ mãi, vượt ra khỏi
những sự đòi hỏi của xác thân đầy dục vọng, thoát ra ngoài
những nỗi lo âu, sợ sệt hằng ngày và sống một cuộc đời an
vui, tự tại. Lại có một hạng người khác mong rằng Du già sẽ
làm cho họ khám phá những năng lực tiềm tàng ẩn núp trong
con người và làm cho họ trở thành những nhân vật phi thường,
có những thần thông biến hóa, phép mầu chước lạ, họ cũng tập
trung tư tưởng, định tâm chú ý như các lối tu thiền định;
ngoài ra họ còn có tu tập một cách rất khổ sở, hành hạ thân
xác, bắt nó chịu đựng những thử thách cực độ, như phơi nắng
dầm sương, ngồi trên chông gai, đứng bằng hai tay, treo chân
lên cổ, nhịn đói, nhịn khát,v.v...đó là những đạo sĩ người
Ấn Ðộ thường gọi là ''pha-kia'' (fakir).
Những người này khi
tu đến mức độ cao, cũng có được những phép lạ, như dao chém
không đứt, đâm không thủng, nhai ve chai, uống axit không
sao, nằm ngũ một giấc luôn trong 3 tháng không ăn, không
uống .v.v...
Nhưng dù họ thành
công bao nhiêu đi nữa, thì cũng không thể thoát ngoài vòng
trần tục liễu sanh thoát tử và minh tâm kiến tánh được
(2) Nước miếng vàng:
Ðối với người tu tiên, thì nước miếng rất qúy, họ không bao
giờ nhổ vì sợ tổn khí, và dùng nước miếng của mình để luyện
thành linh dược
4.- Luyện thôi
miên. đây cũng là một lối tu thiền của ngoại đạo, hiện
nay rất thịnh hành trên thế giới. Nguyên tắc của phương pháp
tu luyện này cũng là vận dụng tập trung tư tưởng vào một chỗ
để cho tinh thần có sức mạnh sai khiến được sự vật. Người
tập thôi miên, lúc mới đầu ngồi yên một chỗ, nhìn chăm chú
vào một chấm đen vẽ ở trên tường, để cả tâm trí tập trung
vào đó, ngoài ra không còn để ý vào một sự vật gì ở chung
quanh nữa. Họ ngồi tập hàng giờ như thế, bao giờ tinh thần
không còn tán lọan nữa, và có đủ sức mạnh để sai sử kẻ khác
là họ thành công. Những người thôi miên giỏi, có thể dùng
thôi miên để trị lành bệnh hay sai sử những người khác làm
những chuyện phi thường, như xuất thân đi đến một xứ khác để
thăm bà con, kể lại việc quá khứ hay tiền thân của một người
khác.v.v...
Tóm lại, nhờ luồng
điện tinh thần đã được tập trung thành sức mạnh, người thôi
miên có thể bắt người khác làm những việc kỳ lạ theo ý muốn
của mình. Nhưng vì lợi dụng, tâm không chơn chánh, chỉ tham
cầu những điều huyền bí, mầu nhiệm bên ngoài, không lo dẹp
trừ phiền não, hữu lậu, trau dồi tâm tánh bên trong, để được
minh tâm kiến tánh nên không phải là chánh đạo. Ðến khi
phiền não hữu lậu nỗi lên hoặc nhiễm sắc tham tài.v.v...thì
các thần thông, diệu dụng đều mất hết. Bởi thế nên Phật dạy
các đệ tử: ''ngộ được đạo thì tự nhiên sẽ có các thần thông.
Nếu được thần thông mà chưa ngộ được đạo thì thần thông ấy
có khi bị mất''.
II.- Phàm Phu
Thiền.
Phàm phu thiền cũng
gọi là thế gian thiền. Sở dĩ gọi là phàm phu hay thế gian
thiền là vì các pháp thiền này chưa có thể đưa hành-giả ra
ngoài tam giới, chưa chứng được thánh quả, mà vẫn còn quanh
quẩn trong vòng phàm phu hay thế gian. Các pháp như Tứ
thiền, Tứ không.v.v...đều thuộc phàm phu thiền.
1.- Tứ thiền.
Tức là 4 giai đoạn tham thiền của phàm phu, đi dần từ chổ
nhàm chán cái vui thô thiển đến cái vui vi tế thanh tịnh.
Bốn giai đoạn tham thiền này tuần tự diễn tiến như sau:
a.-Sơ thiền,
ly sanh hỷ lạc.-Hành giả khởi đầu bằngg tâm lý nhàm
chán cái ô trược của cỏi Dục, và mong cầu được xa lìa (ly)
được cái ô trược của Dục giới, hành giả sanh vui mừng (sanh
hỷ lạc). Ðó là kết quả của giai đoạn tham thiền đầu tiên (sơ
thiền).
b.- Nhị thiền,
định sanh hỷ lạc.-Nhưng cái vui nói trên, lại làm cho
tâm chao động, cần phải dứt trừ; vì thế hành giả phải vào
định. Khi định có kết quả, cái vui mừng thô phù của sơ thiền
chấm dứt và cái vui mừng vi tế trong định lại nãy sanh; vì
thế cho nên gọi là " Ðịnh sanh hỷ lạc".
c.-Tam thiền, ly
hỷ diệu lạc.-Cái vui mừng ở cõi nhị thiền mặc dù vi tế,
nhưng vẫn còn làm cho tâm rung động, vì thế hành giả lại cần
bỏ cái vui mừng ở cõi nhị thiền. Khi bõ được cái vui mừng
này, thì một nỗi vui mầu nhiệm khác lại phát sinh; vì thế
cho nên gọi "Ly hỷ diệu lạc".
Trong các kinh
thường chép: Cõi tam thiền là vui hơn hết (diệu lạc), vì ở
các cõi dưới thì chỉ có vui thô động, còn ở các cõi trên thì
chủ là tịch tịnh, không còn vui nữa.
d.-Tứ thiền, xả
niệm thanh tịnh.-Ở cõi tam thiền, tuy đã hết cái vui thô
đọng của Sơ thiền và Nhị thiền; nhưng vẫn còn cái vui mầu
nhiệm. Nhưng hễ còn niệm vui, thì tâm chưa hoàn toàn thanh
tịnh. Hành giả lại phải còn tiến lên một bậc nữa, đi vào cái
thiền thứ tư, xã luôn cả cái niệm vui, để tâm được hoàn toà
thanh tịnh, vì thế nên gọi là "Xã niệm thanh tịnh".
2.-Tứ không
định.-Sau khi đã trãi qua Tứ thiền và đã thành tựu
viên mãn, hành giả tiếp tục tu thiền định và sẽ trãi qua bốn
giai đoạn gọi là tứ không định sau đây. Sở dĩ gọi là tứ
không, vì khi vào bốn định này, thiên giả sẽ không còn thấy
có cảnh thức tâm nữa.
a) Không vô biên
xứ định.-Thiền giả khi đã đạt được tứ thiền, tâm đã được
hoàn toàn thanh tịnh, nhung vẫn còn thấy có sắc giới, còn
thân còn cảnh và bị hình săc trói buộc, nên sanh tâm nhàm
chán. Ðể rời bỏ các hình sắc về thân và cảnh, thiền giả vào
định thứ nhất của tứ không, thể nhập với "Hư không vô
biên",tức là không thấy có ngăn cách, có biên giới của
cảnh.
b) Thức vô biên
xứ định.-Thiền giả khi đã định thứ nhất của tứ không,
rời bỏ được sắc tướng của thân và cảnh, thấy được cái vô
biên của hư không, nhưng vẫn còn giữ cái bản ngã hẹp hòi,
vẫn còn thấy biên giới của tâm thức; khi thành tựu, tức thể
nhập được vào cõi "Thức vô biên".
c) Vô sở hữu xứ
định:-Thiền giả ,mặc dù không còn thấy biên giới, ngăn
cách của thức nhưng vẫn còn thấy có ngã, có tâm thức, có
năng sở; mà hễ còn thấy năng sở, tức còn thấy mình và người
, còn thấy có sở hữu. Vậy thiền giả phải vượt lên một tầng
nữa, xa lìa sự chao động, năng sở, tức nhập định "Vô sở hữu
xứ" (cõi không sở hữu).
d) Phi tưởng, phi
phi tưởng xứ định.-Thiền giả khi đã nhập định"Vô sở
hữu", không còn thấy nhân ngã, năng sở, nhưng vẫn còn
"tưởng". Mà còn tưởng thì còn vọng động. Vậy thiền giả phải
tiến lên một tầng nữa, vào cõi "Ðịnh không tưởng". Nhưng
không tưởng đây, không có nghĩa là vô triều vô giác như đất
đá; không tưởng, nhưng không phải không tưởng của đất đá,.
Không tưởng mà vẫn sáng suốt như một tấm gương, nhưng không
phải là một tấm ván hay mặt đá. Ðó là ý nghĩa của cõi định
"Phi tưởng , phi phi tưởng".
Có chỗ nói định "Tứ
không" thuộc về ngoại đạo , nhưng người tu thiền, bắt đầu từ
Sơ thiền đến Tam thiền, lúc bấy giờ có hai con đường tẻ: Một
con đường đi về ngũ A-na-hàm (1) ở cõi tứ thiên (2) thuộc về
cảnh giới của thánh thứ ba (3); một con đường đi về tứ không
của cõi Vô sắc, thuộc về ngoại đạo.
(1) Ngũ A-Na-Hàm là
năm cõi A-Na-Hàm: a) Vô phiền, b).vô nhiệt, c). thiện kiến,
d).thiện hiện, đ)sắc cứu cánh.
(2) Tứ thiền có chín
cõi ngoài năm cõi A-na hàm, còn có bốn cõi: Vô vân, phước
sanh, quảng quả, vô tưởng.
(3)Tiểu Thừa thanh
văn có bốn quả thánh A-na hàm thuộc quả thánh thứ ba
III.-Nhị Thừa
Thiền
Nhị Thừa hay
Tiểu-thừa thiền, thuộc về xuất thế gian thiền , nghĩa là các
người tu theo các loại thiền nầy có thể vượt ra ngoài thế
gian, thoát được sanh tử luân hồi. Tuy thế, pháp tu thiền
nầy không đem lại một kết quả mau lẹ, lớn lao toàn diên như
các lối Ðại-thừa thiền, mà chỉ có tánh cách chậm chạp, tuần
tự, cuộc bó, tu một pháp chỉ trừ được phiền não; nghĩa là
chứng quả thấp nhỏ, có hạn lượng, nên thuộc về Nhị thừa
thiền (Nhị thừa thiền là Thinh văn thừa và Duyên giác
thừa).
Nhị thừa thiền có
rất nhiều những phương pháp tu, như Ngũ đình tâm quán, Thập
thứt thế xứ quán, Bát hồi quả, Bát thắng xứ quán, Cửu tưởng
quán, Thập lục đặng thắng, Lục diệu pháp môn, Tứ vô lượng
tâm, Thông minh thiền, Bát niệm, Thập tưởng, Tứ đệ định, Sư
tử phấn tấn, siêu việt tam muội, Ba mươi bảy phẩm trợ
đạo..tóm lại, hành quả của Nhị thừa thiền có thể đem giáo-lý
của một hay những pháp môn của Nhị thừa để tham sát tham
thiền.
Trong phạm vi hẹp
hòi của bài phổ thông nầy, chúng tôi không thể nói hết tất
cả pháp môn tu thiền của Nhị thừa được, xin nói sơ lược một
ít phương pháp . Nếu hành giả muốn đi sâu vào con đường tu
này, phải chuyên môn học tập, phải nhờ minh sư dạy bảo, phải
trải qua nhiều thời gian và nhiều công phu tu tập mới thành
công.
1.- Ngũ đình
tâm quán:
Quán sổ tức, trừ tâm
toán loạn
Quán bất tịnh, trừ
tâm tham sắc dục
Quán từ bi, trừ tâm
sân hận
Quán nhân duyên, trừ
tâm si mê
Quán giới phân biệt,
trừ tâm chấp ngã.
(xem Phật học phổ
thông, khóa thứ IV)
2.- Cửu tưởng
quán:
a.-Tưởng thây sình
tướng
b.-Tưởng thây hoại
diệt
c.-Tưởng máu mủ
chảy
d.- Tưởng thây rục
rã
đ.- Tưởng thây xanh
chàm
e.- Tưởng thây bị
giòi rúc rỉa
ê.-Tưởng thây tan
rã
g.- Tưởng còn lại
đống xương
h.-Tưởng xương bị
đốt tiêu.
3.- Tứ vô
lượng tâm:
a.-Tâm vô từ vô
lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng vô từ vô lượng, bao bọc
chúng sanh trong tình thương rộng lớn vô biên.
b.-Tâm bi vô lượng:
Thiền giã vờ mỡ rộng lòng bi vô lượng, cứu khổ cho chúng
sanh trong năm đường.
c.-Tâm hỷ vô lượng:
Thiền giã vờ mỡ rộng tâm Hỷ (hoan hỷ) vô lượng, làm cho
chúng sanh đều được Hỷ.
d.-Tâm xã vô lượng:
Thiền giã vờ mỡ rộng lòng Xã vô lượng, không lưu luyến cố
chấp một việc gì.
Tứ vô lượng tâm là
một pháp môn rất linh nghiệm: Phàm phu tu tứ vô tâm lượng,
thì sau khi mạng chung sẽ sanh làm vua ở cỏi Tứ thiền; Nhị
thừa tu Tứ vô lượng tâm, thì phước đức được tăng trưởng, mau
dặng Niết bàn, bồ tát tu Tứ vô lượng tâm thì lòng từ bi mở
rộng vô biên và làm lợi ích cho chúng sanh không xiết kể .
(xem Phật học phổ
thông, khóa thứ IV)
4.- Thập lục
đặc thắng:
Thập
lục đặc thắng tức là mười sáu phép rất đặc biệt thù thắng,
có thiền có quán, có đủ các thiền và có thể phát sanh ra quả
vô lậu, không phải như Tứ thiền, tứ không, không ra khỏi
sanh tử. Mười sáu phép đặc biệt thù thắng này là:
a.- Biết hơi thở
vào
b.- Biết hơi thở ra
c.- Biết hơi thở dài
ngắn
d.- Biết hơi thở
khắp thân
đ.- Trừ các thân
hạnh
e.- Thọ hỷ
ê.- Thọ lạc
f.- Thọ các tâm
hạnh
g.- Tâm tác hỷ
h.- Tâm tác nhiếp
i.- Tâm tác giải
thoát
k.- Quán vô thường
l.- Quán xuất tán
m.- Quán ly dục
n.- Quán diệt
o.- Quán phí xả.
5.- Thông
minh thiền:
Thông minh thiền tức
là tham thiền để được lục thông và tam minh.
a.-Lục thông tức là
sáu phép thần thông như:thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông,
tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng thông, lậu tận
thông.
b.-Tam minh tức là
thiên nhãn minh, thiên nhĩ minh, lậu tận minh.
6.- Thập nhứt
thế xứ quán:
Thập
nhứt thế xứ quán tức là phép quán mười món biến khắp các xứ
sở, sau đây:
a.- Quán sắc xanh,
khắp giáp tất cả chổ
b.- Quán sắc vàng,
khắp giáp tất cả chổ
c.- Quán sắc đỏ,
khắp giáp tất cả chổ
d.- Quán sắc trắng,
khắp giáp tất cả chổ
đ.- Quán đất, khắp
giáp tất cả chổ
e.- Quán nước, khắp
giáp tất cả chổ
ê.- Quán gió, khắp
giáp tất cả chổ
g.- Quán lửa, khắp
giáp tất cả chô
h.- Quán hư không
khắp giáp tất cả chổ
i.- Quán thức tâm,
khắp giáp tất cả chổ
7.- Bát bối xã
quán:
Bát bối xã quán tức
là tám phép quán có thể trái bỏ (bối xả) cảnh giới Tứ thiền,
tứ định của thế gian, dể thành tựu pháp xuất thế gian. Tám
phép bối xả quán là:
a.- Trong có sắc
tướng, ngoài quán sắc để trái bỏ cảnh giới Sơ thiền.
b.-Trong không sắc
tướng, ngoài quán sắc, để bỏ cảnh giới Nhị thiền .
c.- Quán thanh tịnh
để trái bỏ cảnh Tam thiền và Tứ thiền .
d.- Quán trái bỏ Hư
không vô biên xứ.
Ð.- Quán trái bỏ
Thức vô biên xứ
e.- Quán trái bỏ Vô
sớ hữu xứ
ê.- Quán trái bỏ Phi
tưởng, phi phi tưởng xứ.
f.- Quán trái bỏ
diệt thọ tưởng.
8.- Bát thắng
xứ quán:
Thắng
có nghĩa là thù thắng, là hơn. Tám phép quán nầy về cảnh sở
quán, cũng như công đức thu thập được trong khi thu hành,
đều thù thắng hơn tám món Bối xã trên, nên gọi là ''Bát
thắng xứ quán'''.
a.- Trong có sắc
tướng, ngoài quán có ít sắc, thắng xứ.
b.- Trong có sắc
tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ
c.- Trong không sắc
tướng, ngoài quán ít sắc ,thắng xứ
d.- Trong không sắc
tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ
đ.- Quán sắc xanh,
thắng xứ
e.- Quán sắc vàng,
thắng xứ
ê.- Quán sắc đỏ,
thắng xứ
f.- Quán sắc trắng,
thắng xứ
9.- Lục diệu
pháp môn:
Lục diệu pháp môn là
sáu phép môn mầu nhiệm sau đây:
a) Số. b) Tùy. c)
Chỉ. d) Quán. e) Hoàn. f) Tịnh.
(Xem quyển Lục Diệp
pháp môn)
10.- Bát niệm
xứ:
Với phép quán tám
niệm sau nầy, thiền giả sẽ trừ được sự sợ hãi khi tu cửu
tưởng và sẽ được đạo quả
a)Niệm Phật. b) Niệm
pháp . c) Niệm tăng. d) Niệm giới. f) Niệm xả. g) Niệm hơi
thở ra vào. h) Niệm chết(nhớ chết).
11.- Thập quán
tưởng:
Thập quán tương gồm
có: a). Tưởng vô thường, b). Tưởng khổ, c), Tưởng vô ngã ,
d). Tưởng ăn vật bất tịnh, đ). Tưởng thế gian không vui, e).
Tưởng chết, f). Tưởng bất tịnh, g). Tưởng đoạn, h). Tưởng
lìa, i). Tưởng hết.
12.- Cửu thế
đệ định:
Cửu thế đệ định là 9
món thiền-định mà thiền-giả sẽ tuần tự theo thứ lớp
tu-luyện: từ Sơ-thiền đến Tứ-thiền, rồi đến Tứ-định, và cuối
cùng, cộng thêm định Diệt-thọ-tưởng là chín món tất cả.
13.- Sư-tử
phấn tấn Tam-muội:
Với pháp thiền này,
hành-giả bắt đầu tham-thiền như pháp Cửu-thứ-đệ định nói ở
trên, nghĩa là bắt đầu từ Sơ-thiền đến thiền-định thứ chín
là Diệt-thọ-tưởng định, rồi đi ngược trở lại, từ thiền thứ
chín đến Sơ-thiền. Thiền-giả tới lui trong thiền-định một
cách thông suốt, tự-tại, đường hoàng, oai nghi như dáng đi
đứng, tiến thoái của con sư-tử, nên gọi là ''Sư-tử phấn tấn
tam-muội ''. Kết quả của lối thiền này, nếu được hòan toàn
siêu-việt thì thiền-gỉa sẻ là Bồ Tát. Nếu không hoàn-toàn
tự-tại và chưa siêu-việt thì thành Thanh Văn.
14.-Ba mươi
bảy pháp trợ đạo:
Thiền-giả cũng có
thể lấy một pháp-môn hay nhiều pháp-môn trong số 37 pháp
trợ-đạo để tham-thiền, tu-luyện. Ba mươi bảy pháp trợ-đạo đã
có nói rỏ trong Phật-học Phổ-thông khóa ba. Ở đây, chúng tôi
chỉ xin nhắc qua để quý độc-giả nhớ lại thôi:
a). Ngũ căn b). Ngũ
lực
c). Tứ chânh cần d).
Tứ như ý túc
đ). Tứ niệm xứ e).
Thất Bồ-đề phần
ê). Bát chánh đạo
phần.
Kết Luận Về Nhị
Thừa Thiền
Các pháp tu thiền
của Nhị-thừa hay Tiểu-thừa nói trên, như quý độc-giả đã
thấy, nhiều không thể kể xiết. Tuy thế, hành-giả muốn cho có
kết quả, phải chọn lựa phương pháp nào thích-hợp với
trình-độ của mình, chứ không phải gặp pháp môn nào tu theo
pháp-môn nấy được. Sự lựa-chọn nầy cũng cần được các bậc
thầy hướng-dẫn. Vì-thế, chúng ta thường nghe ngày xưa các vị
chân tu đi ''cầu pháp '', hết xứ nầy đến xứ nọ, không quản
công lao khó-nhọc, có nhiều khi hy-sinh cả tính mạng nữa.
Cầu pháp nghĩa là tìm cầu minh sư chỉ dạy phương-pháp tu
hành, như Ngài Thiện-Tài đi tham-cầu 53 vị Thiện-triều-thức,
Ngài Huyền-Trang đi khắp nước Trung Hoa rồi sang Ấn Ðộ để
cầu Pháp. Hành-giả sau khi được vị minh-sư nhận lời, còn
phải theo hầu hạ một thời-gian rất lâu để vị minh-sư ấy quan
sát, thăm dò căn cơ, trình độ một cách chu đáo, như Ngài
Xá-lợi-phất đem pháp Sổ-tức dạy người giữ nghĩa-địa, hay
pháp quán Bất-tịnh dạy người thợ rèn tu, thì chỉ hoài công
vô ích, chứ không kết-quả gì hết.
Hành-giả cũng nên
nhớ một điều nữa, là trên bước đường tu hành chớ nên
bôn-chôn, nóng-nảy vô ích. Sự tu hành củng như trồng cây,
không thể nóng nảy được. Người trồng cây, lo vô phân tưới
nước, làm đây đủ bổn phận của mình, rồi kiên-nhẫn chờ đợi;
đến khi đủ sức đúng thời tiết, cây sẽ tự đơm bông trổ trái
một cách tự nhiên.
Người tu hành củng
vậy, cứ hằng ngày lo tu tập, tích-trữ nhiều năm, đến khi
công tròn quả mãn, thì được minh tâm kiến tánh.
Hãy nhớ rằng tu-hành
phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp, chứ không thể mới một
hai đời mà thành Phật được.
IV.- Ðại Thừa
Thiền
Ðại-thừa Thiền là
pháp tu thiền bực của Ðại-thừa, củng gọi là xuất-thế-gian
thượng thượng thiền. Pháp thiền này chỉ dành riêng cho những
người thượng căn rất thông-minh và lanh-lợi tu. Những bực
Ðại-thừa Bồ Tát đã nhiều đời nhiều kiếp tu hành, phá hết các
phiền nảo thô-trược, chỉ còn vi-tế vô-minh, nếu kiếp này gặp
được minh-sư chỉ giáo cho phép tu Ðại-thừa thiền nầy, thì sẽ
được tỏ ngộ. Cũng như cành hoa sắp nở, chỉ thêm chút ít công
phu vun tưới, thì hoa sẽ trổ ngay. Yếu-tố căn bản của
Ðại-thừa thiền là trí-huệ. Thiền-giả phải lấy trí-huệ để tự
quan sát tâm-tánh. Nếu thiếu trí-huệ, thiền-giả khó được
kết-quả khi tu theo Ðại-thừa thiền.
Các Pháp Thiền
Ðịnh Của Ðại Thừa
Các pháp thiền-định
của Ðại-thừa rất nhiều như: Pháp-hoa tam-muội, niệm Phật
tam-muội, Ban châu tam-muội, Giác ý tam-muội,
Thủ-Lăng-Nghiêm tam-muội, Tứ-tánh-thiền, Nhứt-thế-thiền,
Nhứt thế môn thiền, Thiện nhơn thiền,, Nhứt tế hạnh thiền,
Trừ phiền-não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh-tịnh
thiền, Tự-tánh thanh-tịnh thiền, Như lai tối thượng thừa
thiền, Ðat-ma sư-tổ thiền .v.v.
Dưới đây chúng ta
hãy nghiên cứu qua một số pháp thiền-định thông thường của
Ðại-thừa.
1.- Sao gọi là '' Pháp hoa
tam-muội ''?
Phương pháp này dựa
theo kinh Ðại phẩm Bát-nhã. Hành-giả tu pháp này, tâm ý
giác-ngộ tất cả các pháp và được vô-sanh-nhẫn (độc giả nào
muốn rỏ thêm, hảy xem lời bình luận của Ngài
Trí-Giả-Ðại-Sư).
4.- Sao gọi là
''Thủ nghiêm tam muội''?
Phương-pháp này căn
cứ theo kinh Thủ-lăng-nghiêm. Hành-giả phải nhận chân rằng
các pháp đều từ thưc-thể như là Như-Lai-Tạng tâm mà tùy
duyên biến-hiện, như huyễn, như hóa. Hiểu rỏ các pháp đều
như huyễn như hóa, rồi dựa theo lý ấy mà tham-thiền
nhập-định, nên cũng gọi là như hiển tam-muội.
5.- Sao gọi là ''
Tự-tánh thiền, Nhứt thế thiền, nan thiền .v.v..''?
Các
món thiền như ''Tự tánh thiền, Nhứt thế thiền, Nan thiền,
Nhứt thế môn thiền. Thiện nhơn thiền, Nhứt thế hạnh thiền,
Trừ phiền não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh- tịnh tịnh
thiền '', gồm cả thảy chín món và được gọi là Ðại-thừa
thiền.
Sở dĩ, gọi các món
thiền này là Ðại-thừa thiền, vì các vị Bồ Tát nhờ y theo các
món thiền này mà tấn tu làm nên được công-hạnh rộng lớn,
thắm sâu không thể lường được (độc giả nào muốn hiểu rỏ
thêm, hảy đọc quyễn ''Pháp giới thứ đệ sa môn'' do Ngài
Trí-Giả Ðại-Sư soạn).
6.- Sao gọi là
''Trực-chỉ thiền''?
Trực-chỉ thiền là
pháp thiền chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, không
dùng phương-tiện tu quán và cũng không cần kinh giáo.
7.- Sao gọi là ''
Như-lai thanh-tịnh thiền''?
Như-lai thanh-tịnh
thiền là pháp thiền thanh-tịnh của Như-lai. Như chúng ta đã
biết, Ðức-Phật Thích-Ca trước khi chưa thành đạo, đã ngồi
tham-thiền 6 năm dưới gốc cây Bồ- đề. Sau khi phá trừ hết vô
minh phiền-não, tâm được thanh tịnh, Ngài chứng được đạo
Bồ-đề. Do đó, phép thiền này được gọi là '' Như-lai
thanh-tịnh thiền''.
8.- Sao gọi là ''
Như-lai Tối-thượng-thừa thiền ''?
Ðây là phép thiền
cao-siêu hơn tất cả các phép thiền mà đức Như-lai đã
ứng-dụng.
9.- Sao gọi là
Ðạt-Ma Tổ-Sư thiền ''?
Như chúng ta nghe,
Ngài Ðạt-Ma sau khi từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa truyền đạo, đã
ngồi xây mặt vào tường chín nằm, tại chùa Thiếu-Lâm để
tham-thiền. Ðat-Ma Tổ-sư thiền tức là phép thiền mà Ngài đã
tu luyện ở chùa Thiếu-Lâm vậy.
Các phép thiền của
Ðại-thừa, như quý độc-giả đã thấy ở phần trên, tuy nhiều
không kể xiết, tựu-trung có thể chia làm hai loại lớn:
1.- Một loại
thường gọi là tam-muội, căn cứ theo kinh sách của Phật
Tổ truyền dạy mà tu tập, có tu có quán, có phương-pháp nhất
định, như Pháp-hoa tam-muội, Niệm Phật tam-muội, Ban-châu
tam-muội, Giác-ý tam-muội, Thủ-tăng-nghiêm tam-muội
v.v...Các loại tam-muội này vì có quy củ, có phương pháp
nhất định và được phổ biến bằng văn tự, tương đối ít khó
khăn và bí hiểm hơn loại thứ hai mà chúng tôi sắp nói dưới
đây, nên được nhiều người tu luyện và số người thành tựu
cũng nhiều.
2.- Một loại thứ
hai, được truyền dạy không căn-cứ theo kinh-giáo, không
có văn tự, tức là loại thiền ''giáo ngoại biệt truyền, bất
lập văn-tự '', như các pháp '' Trực-chỉ thiền, Như-lai
thanh-tịnh thiền, Tự-tánh thanh-tịnh thiền, Như-lai
tối-thượng thừa thiền, Ðạt-Ma Tổ-sư thiền v.v...Với loại
thiền này là người ngộ trước dùng tâm giác-ngộ của mình để
ấn-chứng cho người sau giác ngộ. Ðó tức là loại thiền ''Dĩ
tâm ấn tâm, trực chỉ nhơn tâm kiến tánh thành Phật '': Vị
minh-sư dùng tâm mình đễ tiếp xúc với tâm đệ tử, truyền
thẳng sự giác ngộ của mình qua tâm của đệ-tử; như dùng ngộn
đèn sáng chói mà tâm mình mã bừng phát ra để chiếu vào tâm
đệ-tử; và tâm này cũng lại nhờ ảnh hưởng trực-tiếp của sự
giác-ngộ của thầy mà bừng sáng lên và truyền nối từ thầy đến
trò, từ đời này sang đời khác. Loại thiền náy tức là loại
thiền đã xây dựng truyền nối từ Ðức-Phật Thích-Ca xuống cho
đến Ngài Lục-tổ. Ðây là một lối ''truyền đạo'' hay ''truyền
đăng'' trực tiếp linh động chính thống, nhưng không phổ biến
như lối trên, vì mỗi đời chỉ truyền cho mỗi người, chứ không
thể truyền cho nhiều người trong một lúc được. Và người được
ấn chứng phải là một vị có trí-huệ xuất chúng, siêu phàm
không ai sánh kịp.
Cách truyền dạy pháp
thiền này có hai lối:
a). Tham cứu một
câu thoại đầu. Thoại đầu là một câu nói thiền hay
''công-án'', nghĩa là một đề án hay luận án gồm một câu rất
ngắn, nhưng ý-nghĩa sâu-xa, đối với người thường không hiểu
được.
Khi một vị Tổ của
phái Thiền-Tôn này nhận thấy trong hàng đệ-tử của mình có
một vị xuất chúng, có thể giữ giềng mối đạo tiếp nối sự
nghiệp của Thiền-tôn và tỏ ngộ đạo mầu được, thì vị Tổ trao
cho vị đệ-tử ấy một câu thoại-đầu (một luận-án, như bây giờ,
các vị bác sĩ hay tiến sĩ, trước khi ra trường, phải nạp cho
ban giám khảo). Vị đệ-tử này, đêm ngày tham cứu câu
thoại-đầu ấy, có nhiều khi trải qua một thời gian mười năm
hoặc mười lăm năm mới tỏ ngộ được. Sau khi xét thấy đệ-tử
của mình đã tỏ ngộ đạo mầu rồi, vị Tổ-sư mới ấn chứng cho.
b). Nhưng nhiều
khi vị Tổ-sư lại không trao cho đệ-tử của mình một câu
thoại-đầu để tham cứu, mà lại dùng những hình thức rất
lạ-lùng, người thường khó có thể hiểu được như : đánh, hét,
ra dấu, mời ăn cơm, uống nước trà v.v...chẳng hạn; như có
một vị đệ-tử đến cấu đạo với một vị Tổ-sư, vị này không nói
gì cả, chỉ dùng Thiền-tượng (roi thiền) đánh đập vị đệ-tử
kia, để xem sự phản ứng ấy như thế nào. Do sự phản ứng mà vị
Tổ-sư biết được vị đệ-tử kia đã giác ngộ hay chưa.
( Xem Pháp Bảo Ðàn
Kinh).
Tóm lại, pháp thiền
này rất là màu nhiệm, không thể nghĩ bàn được, cho nên người
xưa có nói: ''Thiền cơ huyền diệu'' (máy thiền mầu-nhiệm).
Các vị Tổ-sư trong khi truyền đạo, không dựa theo một nguyên
tắc, một phương pháp gì nhất định cả. Các Ngài tùy theo thời
cơ mà ứng-biến, nghĩa là quan sát căn cơ của người cầu đạo,
xét đã đúng thời chưa, và phải dùng phương pháp gì cho vị
đệ-tử kia được ngộ đạo, rồi các Ngài tùy cơ lập pháp. Tất
nhiên phương-pháp này các Ngài dùng chỉ trong nhất thời
thôi. Do đó, mà không thể biết trước được các Ngài sẽ dùng
phương-pháp gì để truyền thọ.
Về sau cũng có người
bắt chước những phương-pháp như đánh, hét v.v...nhưng vì
không biết quán thời cơ, nên chỉ làm cho người đau và sợ mà
thôi, chứ không có hiệu quả gì.
Hệ Thống Truyền Thừa
Của các Tổ Trong Phái Thiền Tông Tại Ấn Ðộ
1.-Ngài Ma Ha
Ca Diếp, Sơ-tổ của Thiền-tôn ở Ấn Ðộ:
Trong
kinh Phạm thiên vấn Phật quyết nghi và trong bộ "Thích nghi
kê cổ "quyển nhất,chùa chép đại khái như sau: khi Phật ở hội
Linh Sơn, có ông Ðại Phạm Thiên Vương, đem hoa sen dâng cúng
Phật. Phật cầm cành hoa sen lên để khai thị cho đại chúng
(thiền cơ). Tòan thể chúng hội đều yên lặng, không ai hiểu
thâm ý của Phật như thế nào. Duy có Ngài Ma Ha Ca Diếp là tỏ
ngộ được thiền cơ của Phật, nên đổi sắc mặt vui vẻ, chúm
chím mỉm cười (phá nhan vi tiếu). Ðức Phật nhận thấy, liền
ấn chứng (chứng nhận) cho Ngài Ca-Diếp được đắc truyền và
làm tổ thứ nhất (Sơ tổ ở Ấn Ðộ) Phật tuyen bố như sau:
Nguyên văn:
Ngô hữu chánh
pháp nhãn tạng
Niết bàn diệu
tâm, thật tướng vô tướng,
Vi diệu pháp môn,
kim phú Ma Ha Ca Diếp
Dịch nghĩa:
Ta ương "chánh pháp
nhãn tạng",cũng gọi là Niết bàn diệu tâm", cũng tên là thật
tướng vô tướng" cũng gọi là "Vi diệu pháp môn", nay ta
truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp.
Sau đó, Phật truyền
y bát và nói bài kệ truyền pháp như sau:
Nguyên văn:
Pháp pháp bổn vô
pháp
Vô pháp pháp,
diệc pháp
Kim phú vô pháp
thời
Pháp pháp hà tằng
pháp.
Dịch nghĩa:
Các pháp vốn
không pháp
Không pháp cũng
là pháp
Nay truyền cái vô
pháp (vô tướng)
Vô pháp nào có
pháp.
Ðây là nguồn gôc
phát khởi Thiền tôn, lấy tâm truyền tâm (dĩ tâm ấn tâm)
không dùng kinh giáo và phương tiện.
2.- Ngài A-Nan, Tổ thứ hai của
Thiền tôn ở Ấn Ðộ:
Một
hôm Ngài A-Nan hỏi Ca-Diếp:
- Ngoài việc truyền
y bát, đức Thích tôn còn truyền pháp gì riêng cho Ngài nữa
không?
Tổ Ca-Diếp gọi to:
- A-Nan !
Ngài A-Nan: Dạ !
Tôí dạy tiếp:
- Cây sào phướn
trước của chùa ngã !
Ngài A-Nan liền tỏ
ngộ Thiền cơ, nên được tổ Ca-Diếp truyền y bát và ấn chứng
cho làm vị tổ thứ hai. (xem Phật học từ điển, trang 1638 về
mục "Ca-Diếp can sát").
Từ Ngài A-Nan trở về
sau, có thêm 26 vị Tổ về Thiền tôn nữa. Cộng cả Ngài Ca-Diếp
và Ngài A-Nan, ở Ấn Ðộ có cả thảy là 28 vị Tổ, thứ lớp tuần
tự như sau:
1 .- Tổ Ma Ha Ca
Diếp
2. Tổ A-Nan
3. Tổ Thương-Na
Hòa-Thứ
4. Tổ Ưu-Ba Cúc Ða
5. Tổ Ðề-Ða-Ca
6. Tổ Di Giá Ca
7. Tổ Bà Tu Mật
8 Tổ Phật Ðà Nan
Ðề
9 Tổ Phục Ðà Mật Ða
10 Tổ Hiếp Tôn
Giả
11 Tổ Phú Na Giạ Xa
12 Tổ Mã Minh
13 Tổ Ca Tỳ Ma La
14 Tổ Long Thọ
15 Tổ Ca Na Ðề Bà
16 Tổ La Hầu Na
Ða
17 Tổ Tăng Già Nan
Ðề
18 Tổ Già Ða Xá Ða
19 Tổ Cưu Ma La Ða
20 Tổ Xà Giạ Ða
21 Tổ Bà Tu Bàn Ðầu
22 Tổ Ma Noa La
23 Tổ Hạc Lặc Na
24 Tổ Sư Tử
25 Tổ Bà Xá Tư Ða
26 Tổ Bát Như
Mật Ða
27 Tổ Bát Nhã Ða La
28 Tổ Bồ Ðề Ðạt
Ma.
(Theo truyện Phú
Pháp Tạng Nhơn duyên)
Hai mươi tám vị tổ
này được làm rực rỡ cho Phật Giáo ở Ấn Ðộ, chứ không cho
riêng gì Thiền Tôn Phật Giáo sau này được lan rộng trên toàn
cầu, một phần lớn do công đức của 28 vị Tổ này. Ngày nay khi
nhắc đến những tên như Ma Ha Ca Diếp, A Nan, Hiếp Tôn Giả,
Mã Minh, Long Thọ, không một Phật tử nào là không biết đến.
Và sự kiện này chứng tỏ rằng phần lớn các vị Tổ có tiếng tăm
đều ở trong Phật Thiền Tôn. Sự nhận xét này không những được
chứng minh ở Ấn Ðộ, mà cả đến Trung Hoa, Nhật-Bản và đến
Việt-Nam nữa.
2.-Sự Truyền
Thừa Thiền Tông Ở Trung Hoa
1.- Ngài Bồ Ðề
Ðạt Ma, sơ Tổ của Thiền Tôn ở Trung Hoa.
Sau khi Ngài Bát Nhã
Ða La, vị Tổ 27 của Thiền Tôn ở Ấn-Ðộ, ấn chứng cho làm tổ
thứ 28, Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma ở lại Ấn Ðộ ít lâu, rồi vâng lời
phú chúc của sư phụ, Ngài sang Trung Hoa truyền đạo.
Ngài sang Trung Hoa
nhằm vào đời vua Lương Võ Ðế (528 dl.) trị vì, Ngài đến yết
kiến vua và hy vọng rằng vua sẽ giúp một tay đắc lực trong
việc truyền bá Phật Giáo ở Trung Hoa. Nhưng nhận thấy căn cơ
của vua còn thấp thỏi và tín ngưỡng của vua chỉ có tánh cách
hình thức bề ngoài, nên tổ Ðạt Ma được giả từ vua đến tu tại
chùa Thiếu Lâm, ở Trung Sơn (đất Ngụy). Ngài ngồi xây mặt
vào tường, tham thiên nhập định trong chín năm, đợi thời cơ
thuận tiện để truyền đạo (xem quyển tổ Ðạt Ma, do Hương Ðạo
xuất bản). Chính lối tham thiền này mà đời sau có tên là
''Ðạt Ma tổ sư thiền ''. trong thời gian chín năm, Ngài tham
thiền ở Thiếu Lâm, có nhiều vị tu sĩ nghe danh Ngài , đến
cầu đạo, nhưng Ngài không tiếp một ai. Ðó cũng là một phương
pháp dò xét căn cơ, tâm tánh của những người đến cầu đạo có
thiết tha với đạo hay không. Trong số những người đến cầu
đạo này, chỉ có một vị tỏ ra vô cùng kiên nhẫn nhiệt thành,
dám hy sinh tất cả vì đạo. Ðó là Ngài Thần Quang mà sau này
được tổ Ðạt Ma ấn chứng cho làm tổ thứ hai của Thiền Tôn ở
Trung Hoa, và đổi pháp hiệu là Huệ Khả.
Để làm kim chỉ nam
cho người tu thiền đời sau, tổ Bồ Ðề Ðạt Ma còn truyền lạ bộ
kinh Lăng Già gồm 4 quyển, rất có giá trị.
2.- Ngài Huệ Khả
(Thần Quang) vị tổ Thiền Tôn thứ hai ở Trung Hoa.
Ngài Thần Quang,
nghe danh tổ Ðạt Ma đến cầu đạo. Nhưng tổ không tiếp. Ngài
Thần Quang quỳ đợi luôn mấy năm, suốt mấy năm ở ngoài hiên
chùa; nhưng tổ cũng không đoái hoài đến. Cuối cùng, để tỏ
lòng chí thành tột mức của mình. Lúc bấy giờ tổ Ðạt Ma mới
xoay lại hỏi:
Ông đến đây cầu gì?
Ngài đáp:
Con cầu pháp an
tâm.
Tổ bảo:
Ông đem tâm đến đây
để ta an cho.
Ngài thưa:
Con tìm tâm không
được.
Tổ dạy:
Ta đã an tâm cho ông
rồi đó !
Ngài liền ngộ đạo.
Tổ Ðạt Ma nói bài kệ sau đây, trong khi truyền pháp cho Ngài
Huệ Khả:
Nguyên văn:
Ngô bổn lai tư
độ
Truyền pháp độ mê
tình
Nhất hoa khai ngũ
diệp
Kết quả tự nhiên
thành.
Dịch nghĩa:
Ta đến nước Trung
Hoa
Truyền pháp độ kẻ
mê
Một bông trổ năm
cánh
Kết quả tự nhiên
thành.
3.- Ngài Tăng Xán,
vị tổ thứ ba của Thiền ở Trung Hoa.
Ngài Huệ Khả, sau
một thời gian hành đạo, lại ấn chứng cho Ngài Tăng Xán làm
vị Tổ thứ ba của thiền tôn ở Trung Hoa.
4.- Ngài Ðạo Tín,
vị tổ thứ tư của Thiền tổ ở Trung Hoa.
Tổ Tăng Xán truyền
pháp cho Ngài Ðạo Tín là vị tổ thứ tư. Sự truyền pháp ại
chia ra làm hai dòng, do hai ngài sau đây cầm đầu.
Ngài Hoằng Nhẫn ở
núi Ðông Sơn, huyện Hùynh Mai.
Ngài Pháp Dung ở non
Ngưu Ðầu, cũng gọi là "Ngưu Ðâu Thiền".
5.- Ngài Hoằng
Nhẫn,vị tổ thứ năm của Thiền tôn ở Trung Hoa.
Chữ Hoằng Nhẫn có
nghĩa là kiên nhẫn tột độ, chịu đựng lâu dài. Hai chữ này có
thể tóm tắt cho cả một câu chuyện truyền pháp, bao hàm nhiều
tính chất nhẫn nhục sau đây:
Một hôm Ngài Ðạo
Tín, vị tổ thứ tư Thiền tôn,thấy một ông già đến cầu đạo,
căn tánh thông lợi,có thể được truyền thọ đạo pháp. Nhưng vì
tuổi ông đã già, chẳng còn sống được lâu nên Tứ tổ dạy:
Ta đã già, ông đã
già ! Nếu truyền pháp cho ông ít ngày ta chết, rồi ông cũng
chết, thì ai ở lại mà truyền đạo? Vậy nếu ông có thể đi đổi
xác, ta sẽ truyền đạo cho ! Ông già thưa:
Nếu con đi đổi xác
chưa xong, mà lỡ Tổ được tịch trước, thì làm sao truyền đạo
cho con được?
Ðức Tứ tổ dạy:
Ta sẽ ở nán lại cỏi
đời để chờ ông.
Vâng lời tổ dạy, ông
giá đi vòng theo dòng suối, thấy một cô gái gồi giặt bên bờ.
Ông già hỏi:
Cô cho tôi ngủ nhờ
một đêm, có được không?
Cô gái thưa:
Ông hãy hỏi cha mẹ
cháu.
Ông già nói tiếp:
Nếu cô bằng lòng thì
tôi hỏi sau.
Cô gái trả lời:
Dạ bằng lòng
Ðược lời, ông già đi
khuất vào rừng rồi bỏ xác.
Còn cô giá kia,
không có chồng mà từ dó trở nên có mang. Bị cha mẹ đánh
đuổi, cô gái phải bỏ nhà đi ăn xin vất vã, nhẫn chịu không
biết bao nhiêu điều khổ nhục. Sau khi sanh được đứa bé được
vài tuổi, cô bồng nó vào chùa. Ðứa bé vừa trông thấy Tứ tổ,
mừng rỡ mỡ miệng cười. Tổ nói:
-Ta đang trông đợi
ngươi đây !
Tổ
xin đứa bé để nuôi và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Ngài đặt tên ấy
là có ý rằng: Tổ đã nhẫn đợi, chưa chết để chờ truyền đạo,
và bà mẹ đã chịu bao sự nhục nhã, oan ức, khổ sở để sanh đứa
bé.
Tổ Ðạo Tín nuôi đứa
bé cho đến khi khôn lớn rôi truyền pháp cho. Ngài Hoằng Nhẫn
tức là vị tổ thứ năm của Thiền Tôn. sau khi truyền đạo xong,
tứ tổ Ðạo Tín mới viên tịch (xem Quy Nguyên Trực Chỉ âm
nghĩa).
6.- Ngài Huệ Năng
vị tổ thứ sáu của Thiền Tôn ở Trung Hoa.
Ngài Huệ Năng lúc
nhỏ nhà nghèo, không biết chử, chuyên nghề đốn củi đem bán
lấy tiền về nuôi mẹ già. Một hôm, gánh củi đến bán cho một
nhà phú ông. Trong khi chờ đợi Ngài lắng nghe chủ nhà tụng
kinh Kim Cang. Ðến câu ''ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm '',
Ngài liền ngộ đạo.
Ðợi cho chủ nhà tụng
kinh xong, Ngài trầm trồ khên ngợi và hỏi rằng:
Chẳng hay ông tụng
kinh gì mà hay quá vậy?
Tôi cũng mốn thọ trì
tụng đọc như ông.
Phú ông mách cho
Ngài:
Tại núi Ðông Sơn,
huyện Huỳnh Mai có đức Ngủ tổ, thường truyền Phật độ người,
ông nên đến đó mà mà cầu đạo.
- Ngài trả lời:
Tôi cũng muốn như
thế lắm; ngặt còn mẹ già không ai nuôi dưỡng nên không biết
liệu làm sao !
- Phú ông bảo:
Nếu ông thật quyết
chí xuất gia cầu đạo, thì hãy về cố gắng đốn củi tật nhiều,
đem đến đây tôi sẽ đổi vàng cho. Ông lấy vàng ấy để lại nuôi
mẹ, rồi đi xuất gia.
- Ngài Huệ Năng mừng
rỡ trở về, ngày đêm cố gắng đốn thật nhiều củi, đem đến bán
cho Phú ông, và sau khi thu xếp việc nhà xong xuôi, Ngài đến
huyện Huỳnh Mai cầu bái yết đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
- Ngũ tổ thấy Ngài
hỏi:
Ông ở đâu đến và đến
đây để cầu việc gì?
- Ngài đáp:
Con từ phương Nam
đến đây, để cầu làm Phật.
Ngũ tổ thấy hình thù
Ngài kì dị, nhưng căn tánh lại thông lợi phi thường, có thể
nối Tổ vị sau này. Ngài không muốn trong chúng biết, nên giả
quở to rằng:
Ông là người mọi rợ
phương Nam mà cầu thành Phật làm gì?
- Ngài Huệ Năng trả
lời:
Bạch tổ sư ! Thân
người tuy có phân chia kẻ Nam người Bắc, chứ Phật tánh vẫn
bình đẳng, không phân biệt Nam, Bắc.
Ngũ tổ sợ trong công
chúng để ý, lộ bí mật nên chẳng hỏi han gì nữa, mà truyền
cho Ngài xuống nhà trù công giã gạo
Trải qua một thời
gian lâu, một hôm Ngũ tổ thấy mình đã già, muốn chọn người
truyền Tổ vị, nên tuyên bố rằng:
Nếu ai làm kệ dâng
lên, được tỏ ngộ thiền cơ, thì sẽ ấn chứng và truyền pháp
cho làm Tổ thứ sáu.
Tin này được truyền
ra rất mau chóng.
Trong chúng mọi
người đều nô nức, xôn xao bàn tán:
Trong chúng chỉ có
Thưởng tọa Thần Tú là thông minh, học nhiều và tài giỏi hơn
hết, chắc thế nào Thượng tọa củng được truyền tổ vị.
Nhưng Thượng tọa
Thần Tú lại không dám tin chắc mình sẽ được cái may mắn ấy,
nên không dám trực tiếp đem dâng bài kệ của mình cho Ngủ Tổ.
Thượng tọa đợi đêm khuya thanh vắng, trong chúng đều ngủ cả,
mới cầm đèn hồi hợp đến viết một bài kệ trên vách phía đông
lang và không dám ký tên. Thượng tọa Thần Tú nghĩ thầm: "Nếu
nhờ công phu tu hành bấy lâu mà bài kệ này được trúng ý Tổ,
thì đây là một diễm phúc lớn lao vô cùng cho ta. Lúc bấy giờ
ta sẽ ra bái nhận, bằng không thì ta sẽ làm thinh như không
ai biết".
Nguyên văn:
Thân thị Bồ-Ðề
thọ
Tâm như minh cảnh
đài
Thời thời thường
phất thức
Dật sử nhá trần
ai.
Dịch nghĩa:
Thân là cây
Bồ-Ðề
Tâm như đài gương
sáng
Thường ngày hằng
quét lau
Chớ cho dính bụi
trần.
Sáng nay, tăng chúng
qua lại thấy bài kệ xuất hiểntên vách đông lang, ai nấy đều
trầm trồ kính phục:
-Ðây rồi! Kế tổ vị
đây rồi! Nếu không phải Thượng tọa Thần Tú thì còn ai nữa!
Nghe tăng chúng trầm trồ khen ngợi, nô nức kéo nhau đến xem
bài kệ, Ngài Huệ Năng củng từ nhà trù theo chúng lên xem.
Sau khi xem xong bài kệ,Ngài Huệ Năng nói:- Còn đứng ngoài
cửa rào.
Kẻ qua người lại
nghe Ngài nói thế, bĩu môi khinh bỉ:
-Ðã dốt nát không
biết một chữ thế kia, mà dám chê là còn đứng ngoài cửa rào!
Ngài Huệ Năng ôn tồn
bảo:
-Tôi củng có một bài
kệ, xin các Ngài viết lên vách giùm tôi, vì tôi không biết
chữ.
Một người liền hoan
hỷ viết hộ. Huệ Năng đọc bài kệ sau đây:
Nguyên văn:
Bồ-Ðề bổn vô thọ
Tâm phi minh cảnh
đài
Bổn lai vô nhứt
vật
Hà xứ nhá trần
ai?
Dịch nghĩa:
Bồ-Ðề vốn không
cây
Tâm không phải
đài gương
Xưa nay không một
vật
Chỗ nào dính bụi
trần?
Nghe xong bài kệ,
mọi người dều kinh ngạc: Không ngờ một người dốt nát như thế
mà lại làm được bài kệ xuất sắc thâm diệu như thế?
Ngủ Tổ thấy trong
chúng xôn xao bàn tán, muốn đánh tan dư luấn có thể nguy hại
cho Ngài Huệ Năng, nên bảo trong chúng truyền đọc bài kệ của
Thượng tọa Thần Tú, mà bôi bỏ bài kệ của Ngài Huệ Năng.
Một buổi chiều, Ngủ
Tổ một mình đi xuống nhà trù, đến chỗ Ngài Huệ Năng giã gạo
và hỏi rằng:
- Gạo đã trắng chưa?
(mật ý hỏi: Ðạo đã ngộ chưa? )
Ngài Huệ Năng đáp:
-Bạch Tổ, gạo con
giả đã trắng rồi mà còn thiếu người sàng (mật ý Ngài muốn
nói: Ðạo con đã ngộ rồi mà còn thiếu người truyền).
Ngũ Tổ nghe xong,
lấy cây gậy gõ lên dầu chày ba cái rồi đi lên (Ngủ Tổ bảo
Huệ Năng canh ba vào phòng). Ngài Huệ Năng vào phòng Ngủ tổ.
Ngài được Ngủ Tổ ấn chứng và truyền y bát cho Ngài làm tỏ
thứ sáu, và dạy Ngài phải đi về phương nam ngay đêm hôm ấy,
để hoằng hóa đạo pháp (Xem quyển Lục Tổ Huệ Năng).
Từ đó, Ngài Lục Tổ
Huệ Năng truyền pháp ở phương Nam, còn Ngài Thần Tú thì
truyền pháp ở phương Bắc. Phương Bắc chủ trương về Tiệm tu,
nên gọ là "Nam đốn, Bắc tiệm" hay" Nam Năng Bắc Tú".
Sau đây là bản lược
đồ về sáu vị tỏ thiền tôn ở Trung Hoa:
Sơ tổ : Ngài
Bồ-Ðề Ðạt -Ma
Nhị tổ : Ngài Huệ
-Khả (Thần Quang)
Tam tổ :Ngài
Tăng- Xán
Tứ tổ :Ngài Ðạo
Tín
Ngũ tổ :Ngài
Hoằng Nhẫn
Ngài Ngưu Ðầu
thiền Sư
Lục tổ :Ngài Huệ
Năng
Ngài Thần Tú.
Từ Ngài lục tổ Huệ
Năng về sau, không còn cái lệ truyền y bát nữa, và các tổ
không còn ấn chứng riêng cho một vị nào. Do đó trong Thiền
thiền Tôn không còn truyền thống duy nhất nữa, mà lại chia
ra làm hai phái và năm dòng sau đây:
Hai Phái Và
Năm Dòng Thiền
Ngài Huệ Năng từ khi
lên làm lục tổ đã truyền pháp cho rất nhiều đệ tử. Trong số
các đệ tử, nỗi tiếng hơn hết là Ngài Hoài Nhượng ở Nam Nhạc
và Ngài Hành Tú ở Thanh Nguyên (xem Pháp Bảo Ðàn Kinh). Hai
Ngài này là mở đầu cho hai phái Thiền Tôn là phái Nam nhạc
và phái Thanh Nguyên.
Phái Nam nhạc về sau
lại chia làm hai dòng là: Lâm tế và Quy ngưởng.
Phái Thanh Nguyên
lại chia làm ba dòng là: Tào Ðộng, Vân Môn và Pháp Nhãn.
Sau đây là lược đồ
của hai phái và năm dòng Thiền Tôn ở Trung Hoa.
I.-Ngài Hoài Nhượng (Ở Nam nhạc)
1.-Lâm tế
2.-Quy Ngưởng
II.-Ngài Hành Tú
(Ở Thanh Nguyên) 3.-Tào Ðộng
4.-Vân Môn
5.-Pháp Môn
1.-Dòng Lâm
Tế:
a)Sự truyền thừa của
dòng Lâm Tế, tuần tự như sau:
-Hoài Nhượng Thiền
Sư
-Ðạo Nhứt Thiền
Sư(họ Mã, tục gọi là Mã Tổ)
-Bách Trượng Thiền
Sư(Hoài Hải)
-Huỳnh Nghiệt Thiền
Sư (Hỳ Vân)- Lâm Tế Nghĩa Huyền.
b.-Sự truyền pháp
(thiền cơ) của tôn Lâm Tế:
Như chúng tôi đã nói
ở phần đầu của tập sách này, sự truyền pháp của phái Thiền
Tôn khó mà hiểu được, đối với người thường. Chẳng hạn như
trong phái Lâm tế, sự truyền pháp chỉ dùng thiền trượng đánh
và hét to lên, mà làm cho thiền giả được ngộ đạo. Cái lối
khai ngộ này khởi đầu từ Ngài Huỳnh Nghiệt Thiền-sư: Để cầu
giác ngộ, một hôm Ngài Lâm tế hỏi Huỳnh Nghiệt:
-Sao gọi là đại ý
Phật pháp?
Ngài Huỳnh Nghiệt
liền lấy thiền trượng (gậy hoặc roi) đánh Ngài Lâm tế một
cái. Ba lần Ngài Lâm Tế hỏi, thì ba lần được dánh như thế.
Ngài Lâm Tế lấy làm
bối rối, không hiểu ý nghĩa làm sao, nên đến tham học với
Ngài Ðại Ngu Thiền sư, nhờ thế Ngài Lâm Tế mới ngô được tôn
chỉ của Ngài Huỳnh Nghiệt.
Từ đó về sau, dòng
Lâm Tế mỗi khi khai ngộ cho đệ tử, đều dùng phương pháp đánh
và hét ấy.
Ngài Lâm Tế nói: "Có
khi hét một tiếng như bữu kiếm kim cương vương , có khi hét
một tiếng như sư tử giậm chân , có khi hét một tiếng như quơ
cây nơi bóng cỏ, có khi hét một tiếng, không khởi cái dụng
của tiếng hét. "Bởi thế nên người đời gọi là "Lâm Tế tứ yết
"
(bốn tiếng hét của
Lâm Tế).
Dòng Lâm Tế sau lại
chia làm hai nhánh: Dương kỵ và Huỳnh long. Từ đời Tống về
sau, dòng Lâm Tế rất thạnh hành. Cho đến ngày nay về Thiền
tôn trong các Ðại tòng lâm, phần nhiều là dòng Lâm Tế.
2.-Dòng Quy
Ngưỡng: Tổ Bách Trượng Thiền sư truyền cho Ngài Linh
Hựu Thiền sư ở núi Quy sơn đất Ðàm châu. Ngài Linh Hựu
truyền cho Ngài Quy Ngưỡng Huệ Tịch.
Ngài Quy Ngưỡng là
một vị Thiền sư đắc đạo, sự mầu nhiệm của Ngài , không ai có
thể lường được, ảnh hưởng của Ngài rất lớn, vì thế cho nên
người ta lấy tên Ngài để đặt tên cho cả một dòng Thiền tôn.
Sự truyền đạo của Ngài củng rất kỳ lạ. Một khi có ai đến hỏi
đào thì Ngài Quy Ngưỡng chỉ vẽ tướng trâu, hoặc vẽ tướng
người , tướng Phật hay chữ Vạn, mà người được ngộ đạo.
3.-Dòng Tào
Ðộng: Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau:
Ngài Thanh Nguyên
Thiền Sư
Ngài Hy Thiên Thiền
sư, tức Ngài Thạch Ðầu Hòa Thượng
Ngài Dược Sơn Thiền
Sư
Ngài Vân Nham Thiền
Sư
Ngài Lương Giới
Thiền Sư ở núi Ðông Sơn
Ngài Bổn Tịch Thiền
Sư ở núi Tào Sơn
Ngài Vân Nham Thiền
Sư đã dùng pháp Bửu cảnh tam muội, truyền cho Ngài Lương
Giới (Ðông Sơn); Ngài Lương Giới cũng dùng pháp này để
truyền cho Ngài Bửu Tịch (Tào Sơn).
4.- Dòng
Vân-Môn: Sự
truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau:
a).Ngài Thạch-Ðầu
Thiền sư
b).Ngài
Thiên-Hoàng.
c).Ngài Long-Ðàm.
d).Ngài Ðức-sơn.
đ).Ngài
Tuyết-phong.
e).Ngài Vân-Uyển
Thiền-sư ở đất Thiền-châu, Vân-môn.
Cách truyền pháp của
Ngài Vân-Uyển (Vân-môn) cũng rất kỳ lạ, ít ai hiểu được
nghĩa lý: ai đến hỏi đạo, thì Ngài chỉ nói một chữ ''Dám''.
Nếu người cầu đạo ngần-ngại không hiểu, thì Ngài nói thêm
chữ ''Di''. Vì Ngài chỉ đáp có một chữ như thế cho người cầu
đạo, nên người đời gọi pháp quán của Ngài là '' Nhứt tự quán
'' (Quán sát cái lý trong một chữ Dám hay chữ Di ''.
5.- Dòng Pháp-nhãn : Sự
truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau:
a). Ngài Tuyết-phong
Thiền-sư.
b). Ngài Huyền-sang
Thiền-sư.
c). Ngài Xa-hán
Thiền-sư.
d). Ngài Vân-ích
Thiền-sư.
Phương pháp khai thị
cho người đến cầu đạo của Ngài Vân-ích Thiền-sư là đúng sáu
tướng trong kinh Hoa-Nghiêm sau đây:
- Tổng tướng: Tức là
muốn nói đến chơn-như nhứt tâm.
- Biệt tướng: Tức là
các duyên sanh khởi từ chơn-như nhứt tâm.
- Ðồng tướng: Các
pháp đều đồng như nhau.
- Dị tướng: Tùy theo
mỗi tướng không bình đẳng.
- Thành tướng: Dựng
lập ra cảnh-giới.
- Hoại tướng: Vị trí
không đồng tức là hoại tướng.
Thiền Tông Ở Việt
Nam
Như chúng ta đã
biết, Phật Giáo Việt-Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật
Giáo Trung Hoa. Cho nên, nếu ở Trung Hoa Thiền tôn được
thịnh hành truyền bá, thì ở Việt-Nam Thiền tôn củng được xem
như là một phái chính của đạo Phật. Đấy cũng là một lẽ dĩ
nhiên, không có gì là khó hiểu.
Phật giáo truyền vào
Việt-Nam từ thế kỷ thứ II tây lịch, do các vị danh Tăng
người Ấn Ðộ và Trung Hoa, như các Ngài Ma-Ha-Ha-Kỳ Vực, Ngài
Khương-Tăng-Hội (người Ấn Ðộ ), Ngài Mâu-Bác (người Trung
Hoa). Trong thời gian xa xưa này, chúng ta không thể biết
được các vị này thuộc tôn phái nào, và truyền vào Việt-Nam
giáo lý gì. Nhưng chúng ta có thể biết chắc là không phải
phái Thiền tôn, vì Thiền tôn ở Việt-Nam là do từ Trung Hoa
truyền sang. Mà Thiền tôn ở Trung Hoa thì phải đợi đến đầu
thế kỷ thứ VI, dưới đời Lương-Võ-Ðế (528), tổ Bồ-Ðề -Ðạt-Ma
mới đưa vào. vậy thì nhất định là Thiền tôn ở Việt-Nam chỉ
có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ VI Tây lịch. Sự phỏng
đoán này đã được lịch sử truyền giáo ở Việt-Nam chứng minh.
Vào năm 580 (cuối thế kỷ thứ VI), Ngài Tỳ-Nhiều-Ða-Lưu-Chi,
lần đầu tiên truyền thiền tôn vào Việt-Nam , và là vị sơ tổ
về Thiền tôn Việt-Nam . sau Ngài Tỳ-Nhiều-Lưu-chi củng có
nhiều vị danh tăng khác đem truyền Thiền tôn vào Việt-Nam ,
và nhờ đó, Việt-Nam cũng có nhiều môn phái Thiền tôn như ở
Trung Hoa. Một điều đặc biệt, đáng hãnh diện cho Phật tử
Việt-Nam là ngoài những phái Thiền tôn ở Trung Hoa truyền
sang, ngay ở nước ta, cũng có một phái Thiền tôn do một vị
vua sáng lập, đó là phái Trúc Lâm mà vị sơ tổ là vua Trần
Nhân Tôn.
Dưới đây, chúng ta
tuần tự nói về các môn phái Thiền tôn ấy:
1.-Phái
Tỳ-Nhiều-Ða-Lưu-Chi:
a) Vị Sơ tổ
Thiền tôn ở Việt-Nam .
Ngài
Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi, người Ấn Ðộ là đệ tử Ngài Tăng-Xán (Tam tổ
thiền tôn).
Lần đầu tiên gặp tổ
Tăng Xán ở núi Tư Không, thấy phong mạo của tổ khác thường,
Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi sanh lòng kính phục, chắp tay đảnh lễ.
Ngài đãnh lễ ba lần mà tổ vẫn ngồi lim dim đôi ắt chứ không
nói gì hết (thiền cơ) .Ngài đứng yên nghĩ ngợi một hồi, bỗng
thấy trong người đổi khác, như tỏ ngộ được điều gì. Ngài
liền sụp xuống lạy ba lạy.Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái mà thôi
(thiền cơ). Sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy, Ngài trở thành một
trong những đệ tử xuất sắc nhất của tổ Tăng Xán.
Về sau, Tổ dạy Ngài sang phương
nam để truyền đaọ, Ngài vâng lệnh sang Việt-Nam vào khoảng
cuối thế kỷ thứ VI, trụ trì tại chùa Pháp vân ở tỉnh Hà
Ðông.
Khi sắp thị tịch,
Ngài gọi đệ tử là Ngài Pháp Hiển vào phòng phú chúc rằng:
"Tâm ấn của Phật ,
không có thể mập mờ được, Tâm ấn viên mãn như thái hư không
thừa, không thiếu, không đến, không đi, không được, không
mất, không phải đông nhất, cũng không phải sai biệt, không
thường cũng không đoạn, không sanh cũng không diệt, không xa
cách cũng không phải không xa cách. Chỉ vì đối với vọng nên
giả đặt ra tên ấy (Tâm ấn) mà thôi".
Chư Phật trong ba
đời do đó (tâm-ấn) mà được đạo. Lịch đại Tổ-sư cũng do đó mà
chứng ngộ. Ta đây cũng vậy, mà ông cũng thế, cho đến các
loại hữu tình vô tình cũng đều như thế cả.
Khi đệ tam Tổ
Tăng-Xán ấn chứng ''tâm-ấn'' cho ta, đã bảo rằng: ''Ông nên
sang phương Nam hoằng đạo, chớ ở đây làm gì''.
Do đó, ta đi trải
qua bao nhiêu chỗ mới đến đây. Ta nay được gặp ông, thật
đúng như lời huyền-ký ấy. Vậy ông nên nhớ kỹ lời ta.
Giờ đây nhằm lúc ta
đi rồi !''
Dạy xong, Tổ Tỳ
Ni-Ðà-Lưu-Chi chắp tay ngồi yên lặng mà tịch diệt. Ðệ-tử
trà-tỳ (thiêu) rồi thu xá lợi, xây tháp để thờ.
Về sau, vua
Lý-Thái-Tôn có bài kệ truy-tán Ngài như sau:
Nguyên văn:
Sáng tự lai Nam
Quốc
Văn quân cữu tập
thiền
Ưng khai chi Phật
tín
Viễn hợp nhất tâm
nguyên
Hạo hạo Lăng-già
nguyệt
Phân phân Bát-nhã
liên
Hà thời hạnh
tương kiến
Tương dữ thoại
trùng thuyền.
Dịch nghĩa:
Mở lối qua người
Việt
Nghe Ngài thông
đạo thiền
Nguồn tâm thông
một mạch
Cõi Phật rộng
quanh miền
Lăng-già ngời
bóng nguyệt
Bát-nhã nứt mùi
sen
Biết bao giờ được
gặp
Ðàm-đạo lẽ
thâm-huyền.
b). Ngài
Pháp-hiển Thiền-sư, vị Tổ thừ hai của Thiền-tôn Việt-Nam:
Sau khi Tổ Tỳ
Ni-Ðà-Lưu-Chi tịch, Ngài Pháp-Hiển là vị Tổ thứ hai của phái
Thiền-tôn Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi. Ngài họ Ðỗ, quê ở Quận Chu-diên
(Sơn tây bây giờ). Khi tới chùa Pháp-Vân, Tổ Tỳ
Ni-Ðà-Lưu-Chi thấy Ngài, thì nhìn kỹ vào mặt và hỏi:
- Chú họ gì?
Ngài Pháp-hiển hỏi
lại:
-Hòa-thượng họ gì?
Tổ lại hỏi:
-Chú không có họ à?
Ngài trã lời:
-Sao lại không có!
Nhưng đố Hòa-thượng biết?
Tổ quát lên:
-Biết để làm gì?
Ngài Pháp-Hiển chợt
ngộ ý Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi (thiền cơ) liền sụp xuống lạy, xin
theo làm đệ-tử và sau được truyền tâm-ấn.
Ðược ít lâu, sau khi
Tổ tịch, Ngài vào núi Từ-sơn tu thiền-định, những loại cầm
thú thường quấn quýt chung-quanh. Người đời thấy thế càng
lấy làm lạ và kính mộ. Ðệ-tử tìm đến học đạo rất đông.
Thiền-tôn ở trong thời kỳ này có thể nói là thạnh nhất. Ðó
cũng nhờ công đức hoằng-hóa của Ngài Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi và
Ngài Pháp-hiển. Về sau trong pháp nẫy cũng có nhiều vị
thiền-sư xuất-sắc như Ngài Pháp-thuận, Vạn-hạnh .v.v...
2.- Phái
Vô-Ngôn-Thông:
a). Vị Sư-tổ của
Pháp Thiền-tôn thứ hai ở Việt-Nam:
Ngài họ Tịnh, quê ở
Quảng-châu, xuất gia ở chùa Song-Lâm (Triết-giang bây giờ).
Tính Ngài điềm đạm ít nói, nhưng sự lý gì cũng thông hiểu,
nên người đời đặt danh hiệu Ngài là Vô Ngôn Thông. Ngài là
đệ tử của Bách Trượng thiền sư (đệ tử của Mã Tổ).
Khi Ngài mới đến yết
kiến Bách Trượng Thiền sư gặp lúc thiền sư đang dạy chúng
tăng học. Một vị tăng hỏi Bách Trượng thiền sư rằng:
Thế nào là pháp môn
đốn ngộ của phái Ðại-thừa?
Bách Trượng thiền sư
dạy rằng:
-Tâm địa nhược
thông, huệ nhật tự chiếu (nêu tâm địa được thông thì mặt
trời huệ tự nhiên chiếu sáng).
Nghe được câu ấy, tự
nhiên Ngài Vô Ngôn Thông ngộ đạo. Năm 820, Ngài qua Việt-Nam
tu tại chùa Kiến Sơ, làng Phù Ðổng (Bắc Ninh), Ngài ngồi vây
mặt vào vách trọn ngày tham thiền nhập định. Ngài tu như thế
mấy năm không ai biết, chỉ trừ vị sư ở chùa ấy là Cảm Thành
thiền sư, biết Ngài là bậc cao tăng trong Phật Thiền tôn,
nên tôn thờ Ngài làm Thầy.
Trước khi tịchn gọi
Cảm Thành thiền sư mà bảo:
-Ngày xưa tổ sư Nam
Nhạc, khi sắp tịch có dặn lại bài kệ rằng:
Nhất thế chư pháp,
giai tùng tâm sanh
Tâm vô sở sanh, pháp
vô sở trú
Nhược đạt tâm địa,
sở trú vô ngại
Phi ngộ thượng căn,
thận vật kinh hứa.
Nghĩa là: Hết thải
các pháp, đều tự tâm sanh; tâm nếu không sanh, pháp không
chổ trú. Nếu hiểu được vấn đề ấy thì làm việc gì cũng không
trở ngại, cái tâm pháp ấy nếu không gặp được bậc tâm căn,
chớ nên truyền bậy.''
''Ðó là lời dặn của
người xưa nay ta cũng dặn lại câu ấy''.
Nói xong Ngài chắp
tay mà tịch.
b) Vị Nhị tổ của
phái Vô Ngôn Thông: Cảm
Thành thiền sư: Thiền sư quê ở huyện Tiên Du (Bắc Ninh) trụ
trì tại chùa Kiến Sơn (Bắc Ninh).
Khi Ngài Vô Ngôn
Thông vân du qua đấy, thấy Ngài có đủ tư cách để truyền mối
đạo, nên ở lại. Và Ngài Cảm Thành cũng nhận thấy ở Ngài Vô
Ngôn Thông một vị thiền sư đắc đạo, nên tôn làm thầy, sớm
tối hầu hạ không hề trễ nải. Hai thầy trò rất mến nhau, do
đó Ngài Vô Ngôn Thông mới đặt cho Ngài đạo hiệu là Ngài Cảm
Thành thật xứng đáng là người nối chí của Ngài Vô Ngôn
Thông. Một hôm có đệ tử hỏi Ngài :
-Thế nào là Phật?
Ngài trả lời:
-Chổ nào cũng là
Phật cả.
Vị đệ tử lại hỏi:
-Thế nào là tâm của
Phật?
Ngài trả lời:
-Không hề che đậy
chổ nào.
Ðây cũng là một câu
chuyện nhỏ, nhưng nói lên được cái truyền thọ tâm pháp đặc
biệt, tuy giản ước mà bao hàm nhiều ý nghĩa vô cùng.
Ngài Cảm Thành không
bệnh mà tịch, và truyền tâm pháp cho Thiện Hội thiền sư.
c) Vị tam tổ của
phái Vô Ngôn Thông: Ngài
Thiện Hội thiền sư: Ngài Thiện Hội quê ở Siêu Loại (Bắc
Ninh). Ngài là đệ tử của Cảm Thành thiền sư, hầu thầy đã hơn
10 năm, một hôm Ngài vào phòng hỏi thầy:
Trong kinh Phật có
dạy: ''Ðức Thích Ca Như Lai từng tu hành trải vô số kiếp mới
thành Phật, thế mà nay thầy cứ dạy rằng ''tâm tức là Phật,
Phật tức là tâm'' là nghĩa làm sao? Thật đệ tử không hiểu
xin thầy dạy rỏ cho.
Cảm Thành thiền sư
nói:
-Ngươi nói trong
kinh Phật nói thế là ai nói đó?
-Vậy lời ấy không
phải là Phật thuyết sao?
-Lời ấy phải đâu là
Phật thuyết. Kinh Văn Thù Phật có dạy: ''Ta trú ở thế gian
để dạy chúng sanh 49 năm, chưa đặt ra một câu bằng văn tự để
nói với ai bao giờ !'' Vì theo chánh đạo, nếu ta lấy văn tự
để làm bằng chứng để cầu đạo, ấy là nệ; lấy sự khổ hạnh để
cầu Phật, ấy là mê; lìa tâm ra mà cầu Phật, ấy là ngoại đạo;
mà cố chấp cái tâm ấy là Phật, củng lại là ma vậy.
-Nếu bảo tâm ấy tức
là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật, cái gì không phải
là Phật?
-Ngày xưa có người
hỏi Mã Tổ rằng: ''Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm
ấy cái gì là Phật?'' Mã Tổ trả lời: ''Thế ông ngờ trong tâm
ấy, cái gì không phải là Phật, hãy chỉ vào ấy cho ta xem
!''. người ấy không chỉ được . Mã Tổ lại tiếp: '' Ðạt được
thì khắp mọi nơi chổ nào cũng là Phật, mà không đạt được thì
cứ sai lầm đi mãi mãi''. Thế là chỉ một lời nói nó che đi,
mà thành ra sai lầm đó thôi. Người ta hiểu chưa?
Ngài Thiện Hội trả
lời:
-Nếu như vậy đệ tử
hiểu rồi.
-Người hiểu thế
nào?
-Ðệ tử hiểu rằng
khắp hết mọi nơi, chổ nào củng là tâm Phật cả.
Nói xong Thiện Hội
thiền sư sụp xuống lạy. Ngài Cảm Thành nói:
-Thế là người hiểu
tới nơi rồi đó.
Do sự lãnh hội mau
chóng đó ma Ngài Cảm Thành mới đặt cho đệ tử mình đạo hiệu
Thiện Hội, nghĩa là ''khéo hiểu''.
Trên đây là một vài
câu chuyện đến đốn ngộ mà chúng ta thường thấy trong các vị
thuộc phái Thiền tôn.
Sự truyền pháp từ
thầy đến trò trong phái Vô Ngôn Thông diễn ra như thế được
15 đời. Ðến đời cư sỉ Ứng Thuận(1221) là cuối cùng.
3.- Phái Thảo
Ðường: Năm
kỷ dậu (1069) vua Lý Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành về, có
bắt được vua nước ấy là Chế Cũ và rất nhiều thường dân và
binh lính. Số binh lính và thường dân này được phân phát cho
các quan trong triều đình để làm quân hầu. Trong số quan
triều có một vị Tăng Lục. Một hôm vị này đi vắng về thấy bản
''Ngữ lục''của mình bị một tù binh sữa chưa lại cả. Hỏi ra
thì mới biết đó là một vị thiền sư người Trung Hoa, theo
thầy qua Chiêm Thành, chẳng may bị bắt làm tù binh. Vị thiền
sư ấy là Ngài Thảo Ðường, đệ tử của Ngài Tuyết Ðậu Minh Giác
ở Trung Hoa.
Khi biết tung tích
của Thảo Ðường thiền sư, vua Thánh Tôn liền sắc phong cho
Ngài làm Quốc sư. Ngài Thảo Ðường lập đàn khai giảng ở chùa
Khai Quốc trong thành Thăng Long. Ðệ tử đến học rất đông.
Ngài Thảo Ðường lập ra một phái Thiền Tôn thứ ba ở Việt-Nam
. Phái Thảo Ðường truyền xuống được năm đời, đắc đạo cả thầy
được mười chín vị.
4.- Phái Trúc
Lâm: Ðệ
nhất tổ của phái Trúc Lâm tức là vua Trần Nhân Tôn
(1278-1308). Ngài mộ đạo khi còn nhỏ. Năm 16 tuổi được lập
làm Hoàng Thái tử, Ngài cố nhường lại cho em nhưng không
được, nên trèo thành trốn đi, định vào tu ở núi Yên Tử.
Nhưng Ngài mới đi nữa đường thì bại lộ tung tích, bị vua cha
sai quan đi bắt về. Ngài phải miễn cưỡng trở về. Sau Ngài
lên làm vua, trở thành một vị anh quân và giử vững nền độc
lập nước nhà trước sự xâm lăng ồ ạt, nhưng vô hiệu quả của
quân Nguyên. Sau khi đuổi được giặc nguyên, Ngài truyền ngôi
lại cho con là Anh Tôn, và vào tu ở núi Yên Tử, thực hiện
chí nguyện thuở thiếu thời của mình. Ngài lấy hiệu là
''Hương Vân Ðại Ðầu Ðà '' lập trường giảng pháp, môn đồ tìm
đến tu học kể có hàng vạn người. Ngài thường đi khắp nơi để
giảng đạo và phát thuốc. Ngài tịch một cách rất bình tĩnh
vào lúc 51 tuổi.
Trong các phái Thiền
tôn ở Việt-Nam, chỉ có phái Trúc Lâm là phát tích tại đất
nước Việt. Trong phái này, cũng có nhiều vị thiền sư có
tiếng tăm như Ngài Pháp Loa tôn sư, Ngài Huyền Quang tôn sư
...
5.- Phái Lâm
Tế:
Phái Lâm Tế do Ngài
Nguyên Thiều khai sáng tại Trung Việt. Ngài họ Tạ, quê ở
Quảng Châu (Trung Hoa). Ngài đi theo tàu buôn qua An Nam,
trú ở phủ Qui Ninh (Bình Ðịnh) lập chùa Thập Tháp Di Ðà, Mở
trường dạy học. Sau Ngài ra thuận hóa lập chùa Hà Trung, rồi
lên Xuân Kinh (Huế) lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Ðồng.
Sau Ngài phụng mạng
đức Anh Tôn (Nguyễn Phúc Tráng 1687-1691) trở về Trung Quốc,
tìm mời các vị danh tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí.
Ngài về Quảng Ðông mời được Hòa Thượng Thạch Liêm và các
danh tăng khác, cùng thỉnh được nhiều kinh điển, tượng, pháp
khí trở về Nam. Chúa Nguyễn liền sắc mở đàn truyền giới rất
long trọng tại chùa Thiên Mụ. Sau đó, chúa Nguyễn sắc ban
Ngài chức trụ trì chùa Hà Trung.
Năm Bảo Thái thứ 10
nhà Lê, Ngài tịch tại chùa Hà Trung, sau khi dặn dò đệ tử và
truyền bài kệ sau đây:
Tịch tịch, kính
vô ảnh
Minh minh, châu
bát dụng
Đường đường,vật
phi vật
Liểu liểu, không
vật không
Ðại ý: Thể pháp thân
thanh tịnh sáng suốt như mãnh gương sạch không bụi, như ngọc
minh châu, trong sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền sự sự, vật
vật sai khác, nhưng đều là thể pháp thân biểu hiện. Thể pháp
thân thường vắng lặng mà không phải là không, tức là lý
''chân không diệu hữu''.
Xét trong ''Lịch
truyền tổ đồ'' thì Ngài đứng về đời 69, xét về chánh thống
phái Lâm Tế thì Ngài đứng về đời 33, còn xét riêng về phái
Lâm Tế ở Trung Việt, thì Ngài là sơ tổ.
6.- Phái Liễu
Quán:
Phái Liểu-quán xuất
phát từ Liểu-Quán Hòa-Thượng. Ngài Liểu-quán quê ở Phú-yên
(Song-cầu). Ngài ra Thuận Hóa thọ giới Sa-Di với Ngài
Thạch-Liêm Hòa-Thượng. Năm 1702, Ngài đến Long-Sơn cầu học
pháp tham-thiền với Ngài Tử-Dung Hòa-Thượng (Tổ khai sơn
chùa Từ Ðàm Huế, người Trung Hoa).
Tổ Tử-Dung dạy Ngài
tham-cứu câu: ''Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ '', (muôn
pháp về một, một pháp về đâu?) .Ngài tham cứu mấy năm, đến
khi xem bộ Truyền-Ðăng-Lục, thấy có câu: ''Chỉ vật truyền
tâm, nhơn bất hội xứ ''. Ngài liền tỏ ngộ. Năm 1742, cuối
mùa thu, Ngài thọ bịnh. Trước khi lâm chung, Ngài gọi môn đồ
đến dạy rằng: ''Nhơn duyên đã hết, ta sắp chết đây ''.
Thấy môn đệ khóc,
Ngài dạy rằng: ''Các người khóc làm gì? Các Ðức-Phật ra đời
còn nhập niết-bàn. Ta nay đi đến rỏ ràng, về có chổ. Các
người không nên khóc và đừng buồn thảm"
Rồi Ngài viết bài kệ
từ biệt sau đây :
Nguyên văn:
Thất thập dư niên
thế-giới trung
Không không, sắc
sắc diệu dung thông
Kim triêu nguyệt
mãn, hoàn gia lý
Hà tất bôn ba vấn
tổ tông.
Dịch nghĩa:
Ngoài bảy mươi
năm trong thế-giới
Không không, sắc
sắc thảy dung thông
Ngày nay nguyện
mãn về nơi củ
Hà phải ân cần
hỏi tổ tông.
Viết xong, Ngài bảo
môn đồ:
Sau khi ta đi, các
ngươi phải nghĩ cơn vô-thường nhanh chóng, cần phải siêng
năng tu học. Các người hãy cố gắng tới chớ bỏ qua lời ta.
Ngài tịch vào ngày
22 tháng 11 năm Nhâm-Tuất (1742) vào giờ Mùi, sau khi dùng
nước trà xong và vui vẻ từ biệt môn đồ.
Ðến đây chúng ta
cũng nên nhận định cho rõ ràng điễm này: Như tôi nói ở đoạn
trước, Thiên-Tôn do người Việt sáng lập chỉ có một Phái duy
nhất do vua Trần-Nhân-Tôn làm Sơ-tổ là phái Trúc-Lâm Yên-Tử.
Nhưng đến nay, chúng ta lại thấy xuất phát một phái nữa là
phái Liểu-quán, do Ngài Liểu-quán một danh tăng Việt-Nam chủ
xướng, như vậy có mâu thuẩn với sự nhận xét ở trên không?
Thật ra, so với các phái Thiền-Tôn khác ở Việt-Nam, thì phái
Liểu-quán chỉ một phái nhỏ, chỉ nằm trong phạm vi mấy tỉnh
miền Trung-Việt.
Vả lại, Ngài
Liểu-quán cũng là đệ-tử của Ngài Tử-Dung, một vị sư Trung
Hoa thuộc phái Lâm-Tế. Do đó, phái Liểu-quán, nếu chúng ta
đi tìm nguồn góc xa hơn một chút nữa, thì cũng chỉ là một
chi nhánh của phái Lâm-tế mà thôi.
Các Kinh Sách Nói
Về Thiền
Khi kinh sách nói về
Thiền không thể kể xiết được. Tuy thế, đễ quý độc-giả khỏi
bỡ-ngỡ trong khi nghiên cứu, học hỏi, chúng tôi xin dẫn một
số sách thiết yếu sau đây:
1.-Kinh Lăng-già
2.-Kinh
Lăng-Nghiêm
3.-Kinh Viên-Giác
4.-Kinh
Pháp-Bảo-Ðàn
5.-Ðại-thừa
Chỉ-quán
6.-Tiểu Chỉ-quán
7.-Ðồng
môn Chỉ-quán 8.-Kinh
Kim-cang
9.-Truyền-đăng-lục
10.-Thuyền-gia
ngữ-lục
11.-Tọa-thiền chỉ
nam
12.-Tông-cảnh-lục (của
Ngài Tống Diên Thọ Thiền-sư)
13.-Luận Ðại-thừa
khởi tín (của Bồ Tát Mã-Minh)
14.-Vô-môn-quán
(của Tổng Tôn-Thiện Thiền-sư)
15.-Bích-Nha-Lục
(của Phật quả Viên-ngộ)
16.-Thung-dung-lục (của
Vạn tùng Lão-nhơn)
17.-Thiền-lâm
Vĩnh-gia tập (của Huyền-giác)
18.-Thiền-tôn
chỉ nam (của vua Trần-Thái-Tôn) .v.v...
C.- Tổng Kết các
Loại Thiền định
Thiền-Ðịnh có nhiều
loại, nhưng tóm lại có thể chia làm hai loại lớn: Chánh-định
và tà-định, hay Phàm-phu thiền và Thánh-nhơn thiền và Phật
Giáo thiền.
Thiền Ngoại Ðạo: Những
người theo lối thiền-định này do tâm niệm không chơn-chánh
(phiền-nảo, tham, sân, si v.v....) làm động cơ thúc đẩy. Họ
không nhắm ngay mục đích dẹp trừ vô-minh phiền-não, cầu được
minh-tâm kiến-tánh, hay giác-ngộ, giải thoát, mà chỉ nhắm
mục đích nhỏ hẹp, thiển cận, như cầu được thấy những điều
huyền diệu, cầu được thần-thông biến-hóa để đi dạo chơi ở
các thé-giới khác, cầu thành tiên để lạc-thú tiêu-dao ở cảnh
tiên, cầu cho thân thể không bệnh hoạn, được trường sinh bất
tử, cầu cho được phép lạ để trị bệnh, để thiên hạ sùng-bái,
kính phục, hoặc để gần gũi nữ sắc, hay cầu tài lợi v.v..
Hảy lắng nghe lời Tổ
Tôn-Mật dạy: ''Người tà kiến chấp trước sai lầm , ưa cõi
trên, chán cõi dưới mà tu thiền, đó là ngoại đạo thiền ''.
Thiền Phàm Phu: Những
người tu theo loại thiền này không có tâm niệm cao thượng,
chỉ vì chán ngán cõi Dục làm ô-trược mà cấu sinh về cõi sắc
và Vô-sắc để hưởng thú vui thanh thoát.
Hãy lắng nghe Tổ
Tôn-Mật phê phán hạng người tu về loại thiền này: ''Người
chán tin nhơn quả, nhưng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới
mà tu thiền là phàm-phu thiền ''.
Thiền Phật Giáo: Thiền-định
của Phật Giáo có hai loại: Tiểu-thừa thiền và Ðại-thừa
thiền.
-Tiểu-thừa thiền:
là những pháp thiền dành cho người có căn tánh Tiểu-thừa.
Người tu phép Thiền-định này chỉ có công-dụng hạn cục, vì tu
pháp nào thì chỉ trừ được phiền-não cũa pháp ấy. Và sự tu
luyện ở đây cũng chỉ tuần tự mà tiến, chứ không thể đốn-ngộ
ngay được.
Hơn nữa, người tu
Tiểu-thừa thiền, tuy đã phá ngã-chấp, nhưng còn bị
pháp-chấp. Họ không ngộ được rằng: những phương-pháp tu hành
đều là phương tiện để giúp cho họ dẹp trừ vô-minh phiền não,
tiến lên chổ giác ngộ, chớ không nên cố chấp có nên tu, thật
chứng.
- Ðại-thừa thiền:
Ðây là phương-pháp tu thiền của các vị Bồ Tát, căn tánh mau
lẹ, vượt bưc. Với hạng này, các vị chỉ nghe một câu nói hay
chỉ tu một pháp, cũng có thể liền tỏ ngộ; như Ngài Huệ-Năng,
chỉ nghe câu ''Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm '', hay Ngài
Ca-Diếp, chỉ thấy Phật đưa cành hoa sen mà liền tỏ ngộ
Sở dĩ các vị này mau
tỏ ngộ như thế là vì họ đã trải qua nhiều kiếp tu hành rồi,
sắp được giác ngộ, nay gặp thời cơ, nhân duyên thì liền
phát-chiếu, như cành hoa đã được vun tưới đủ sức rồi, chỉ
chờ thời tiết là trổ bông.
Hãy nghe Tổ Tôn-Mật
nói về các vị này: ''Người ngộ được lý ngã, pháp đều không
mà tu thiền là Ðại-thừa thiền. Người đốn-ngộ tự tâm xưa nay
vốn thanh-tịnh, không có phiền-não, đầy đủ trí-huệ vô-lậu,
tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác. Y theo tâm này mà tu
thiền là Tối-thượng thừa thiền, cũng gọi là Chơn-như
tam-muội''.
Về phương-pháp tu
chứng và truyền thọ của Ðại-thừa thiền có ba cách:
- Cách thứ nhất:
Ðây là các loại tam-muội má hành-giả căn cứ theo các kinh
sách Ðại-thừa tu luyện, như Pháp-hoa tam-muội, Niệm-Phật
tam-muội, Gíác-ý tam-muội, Thủ-tăng-liêm tam-muội v.v....
- Cách thứ hai:
Lối thiền này không căn cứ theo kinh điển, văn tự, mà chỉ
dùng một câu nói ngắn ngủi để chỉ giáo. Trong Phật Giáo gọi
lối thiền này là: ''Bất luận văn tự, giáo ngoại biệt
truyền'' (không dùng văn tự, truyền ngoài kinh giáo).
Thiền-giả chỉ căn cứ theo một câu nói ấy mà nghiên cứu mãi
cho đến khi tỏ ngộ. Công việc tham-cứu này, Thiền-giả có
nhiều khi kéo dài hàng chục năm.
- Cách thứ ba:
Với cách này,chúng ta khó có thể suy nghĩ luận bàn gì được.
Trong cách này, khi có người đến cầu pháp, các Tổ sư không
dùng lời nói mà chỉ dùng một cử chỉ gì đó, hay một tiếng la
hét mà thôi.
Như dòng Lâm-Tê, khi
có người đến cầu đạo, Thiền-sư chỉ dùng gậy đánh và tiếng
hét.
Như dòng Quy-ngưỡng,
các vị Tổ-sư chỉ vẽ hình thú, hình người, hình chữ Vạn mà
khai ngộ cho đệ-tử .
Như dòng Vân-môn, có
vị Tổ chỉ nói một chữ, mà làm cho người cầu đạo tỏ ngộ.
Như có Ngài chỉ đãi
nước trà (Ngài Triệu-châu) hay mời ăn cơm, mà người đến cầu
đạo được tỏ ngộ.
Có Ngài lại ngắm
bóng mình dưới nước và cười, khi đi ngang qua cầu, liền ngộ
đạo (hổ khê tam chiếu chí kim truyền), hay nghe chim oanh
hót trên cành liễu, hay lấy gậy đập cục đất cho để tan mà
liền tỏ ngộ.
Thật là thiền-cơ
nhiệm-mầu, người ngoài không thê suy nghĩ, bàn luận được.
Muốn cho người cầu
đạo được kết-quả, các vị truyền pháp phải hội đủ ba diều
kiện sau đây:
-Biết căn-cơ người
cầu đạo.
-Biết thời-tiết đúng
lúc truyền đạo.
-Biết phương-pháp
nào thích hợp, trong ba phương-pháp nói trên, nếu truyền bá
không hợp cơ, hợp thời, hợp pháp thì người tu thiền không có
kết-quả.
Trước khi dừng bút,
chúng tôi có một nhận xét sau đây mà chác quý độc-giả cũng
đồng ý là: Nước ta ngày xưa là một nước chịu ảnh hưởng lớn
của Thiền-tôn, và Thiền-tôn là môn phái rất thịnh hành trong
nước. Thế mà ngày nay, vì bao cuộc biến thiên của lịch sử,
Thiền-tôn không còn được truyền thọ trong các chùa cũng như
trong dân chúng một cách sung-mậu như xưa nữa.
Vậy chúng tôi
hy-vọng rằng, từ đây về sau, nhờ sự giao-thông tiện lợi từ
nước này sang nước khác, nhờ sự trao đổi văn hóa, và nhờ gia
tâm tu học của các Phật-tử Việt-Nam, Thiền-tôn sẽ lấy lại
sắc thái sung-mậu ở Việt-Nam như các thời Lý, Trần.
▲ Trở Lên
|