TẬP
NHỨT
LUẬN ĐẠI THỪA
TRĂM PHÁP VÀ
BÁT THỨC QUI CỦ TỤNG
Ngài THIÊN
THÂN Bồ Tát tạo luận
Ngài HUYỀN TRANG
Pháp sư dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Sa môn
THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lượt giải.
BÀI
THỨ NHỨT
LUẬN ĐẠI THỪA TRĂM PHÁP (Trích yếu
Bài này nên học thuộc lòng)
PHẦN THỨ NHỨT
CHÁNH VĂN
Hỏi: Như lời Phật
dạy: "Tất cả các pháp đều vô ngã". Vậy cái gì là "Tất cả
pháp" và sao gọi là "vô ngã"?
Đáp: Tất cả các pháp
tuy nhiều, nhưng tóm lại có 100 pháp, chia làm 5 loại:
I. Tâm pháp (Có 8
món)
II. Tâm sở hữu pháp
(Có 51 món)
III. Sắc pháp (Có 11
món)
IV. Tâm bát tương
ưng hành pháp (Có 24 món)
V. Vô vi pháp (Có 6
món)
LƯỢC GIẢI
I. TÂM PHÁP HOẶC GỌI
LÀ TÂM VƯƠNG CÓ 8 MÓN
1. Nhãn thức (cái
biết của mắt)
2. Nhĩ thức (cái
biết của tai)
3. Tỹ thức (cái
biết của mũi)
4. Thiệt thức
(cái biết của lưỡi)
5. Thân thức
(cái biết của thân)
6. Ý thức (cái
biết của ý)
7. Mạt na thức
(Thức thứ 7)
8.A lại da thức
(Thức thứ 8)
II. TÂM SỞ HỮU PHÁP,
GỌI TẮT LÀ TÂM SỞ, CÓ 51 MÓN, PHÂN LÀM 6 LOẠI:
1. Biến thành, có
năm: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư.
2. Biệt cảnh, có
năm: Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ.
3. Thiện, có
mười một: Tín, Tàm, Quí, Vô tham, Vô sân, Vô si, Tinh tấn,
Khinh an, Bất phóng dật, Hành xả, Bất hại.
4. Căn bản phiền
não, có sáu: Tham, Sân, Si, Mạn, nghi, Ác kiến.
Ác kiến lại chia
làm năm: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ, Giới cấm
thủ.
5. Tuỳ phiền
não, có 20 món, chia làm ba loại:
a) Tiểu tuỳ, có
10: Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuồng, Siễm, Hại, Kiêu.
b) Trung tuỳ, có
2: Vô tàm, Vô quí.
c) Đại tuỳ, có
8: Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín, Giải đãi, Phóng dật, Thất
niệm, Tán loạn, Bất chánh tri.
6. Bất định, có
bốn món: Hối, Miên, Tầm, Tư.
III. SẮC PHÁP, CÓ 11
MÓN:
Năm căn: Nhãn
căn, Nhĩ căn, Tỹ căn, Thiệt căn và Thân căn.
Sáu trần:
Sắc trần, Thinh trần, Hương trần, Vị trần, Xúc trần và Pháp
trần.
IV. TÂM BẤT TƯƠNG
ƯNG HÀNH PHÁP, GỌI TẮT LÀ "BẤT TƯƠNG ƯNG HÀNH", CÓ 24 MÓN:
Đắc, Mạng căn,
Chúng đồng phận, Di sanh tánh, Vô tưởng định, Diệt tận định,
Vô tưởng báo, Danh thần, Cú thân, Văn thân, Sanh, Trụ, Lão,
Vô thường, Lưu chuyển, Định dị Tương ưng. Thế tốc, Thứ đệ,
Thời, Phương, Số, Hòa hiệp tánh, Bất hòa hiệp tánh.
V. VÔ VI PHÁP, CÓ 6
MÓN:
Hư không vô vi,
Trạch diệt vô vi, Phi trạch diệt vô vi, Bất động diệt vô vi,
Tưởng thọ diệt vô vi, Chơn như vô vi.
Nguyên văn chữ Hán
Nhứt thế tối
thắng cố
Dữ thử tương ưng cố
Nhị sở hiện ảnh cố
Tam vị sai biệt cố
Tứ sở hiển thị cố Như thị
tứ đệ.
Dịch nghĩa:
Thứ lớp như vầy: Tâm
vương hơn tất cả. Tâm vương cùng Tâm sở hợp nhau. Do hai
món: Tâm vương và Tâm sở, mà hiện ra ảnh tượng là "sắc
pháp". Do ba món: Tâm vương, Tâm sở và Sắc pháp, mà thành ra
24 món sai khác là "Bất tương ưng hành". Do bốn món: Tâm
vương, Tâm sở, Bất tương ưng hành, đều thuộc về Pháp Hữu vi,
nên hiện ra 6 Pháp Vô vi.
LƯỢC GIẢI
Tóm lại, ngoại nhơn
hỏi: "Cái gì là tất cả pháp ? Đại ý, Luận chủ trả lời: Các
pháp tuy nhiều, nhưng ước lược chỉ có một trăm pháp, phân
làm 5 loại:1. Tâm vương có 8; 2. Tâm sở có 5;
3. Sắc pháp có 11; 4. Bất tương ưng hành có
24; 5. Vô vi pháp có 6. Trong 5 loại, lại chia làm
hai: Bốn loại trên thuộc về Pháp Hữu vi, loại thứ 5 thuộc về
pháp Vô vi.
Trên nguyên văn nói
"tất cả pháp" tức là pháp Hữu vi và vô vi vậy. Từ trước đến
đây Luận chủ đã trả lời xong câu hỏi thứ nhứt: "Cái gì là
tất cả pháp".
Vì muốn cho học giả
dễ nhớ, nên Cổ nhơn có làm bài kệ bốn câu, tóm lại 100 pháp
như vầy:
Sắc pháp thập nhứt,
tâm pháp bát,
Ngũ thập nhứt cá
tâm sở pháp
Nhị thập tứ
chủng bất tương ưng,
Lục cá Vô vi
thành bá pháp.
Dịch nghĩa:
Sắc pháp mười một,
Tâm pháp tám,
Năm mươi mốt món
Tâm sở pháp,
Hai mươi mốt món
Bất tương ưng,
Sáu món Vô vi
thành trăm pháp.
***
PHẦN THỨ HAI
Luận chủ trả lời câu
hỏi thứ hai: "Sao gọi là vô ngã?"
CHÁNH VĂN
Nói "vô ngã", lược
có 2 món:
1. Nhơn vô ngã, 2.
Pháp vô ngã.
LƯỢC GIẢI
Chúng sinh chấp
thân, tâm này thật là mình (ta), như thế là "Nhơn ngã" ;
chấp núi, sông, đất, nước, tất cả sự vật bên ngoài là thật
có, như thế là "Pháp ngã".
Vì "nhơn" không thật
có và "Pháp" cũng không thật có, nên Phật gọi rằng: "Tất cả
Pháp vô ngã"; tức là "Nhơn không thật" và "Pháp không thật"
vậy.
Như thế là Luận chủ
đã trả lời xong câu hỏi thứ hai: "Thế nào là vô ngã".
Như Thế Tôn ngôn:
"Nhứt thế pháp
vô ngã".
Hà đẳng nhứt thế
pháp ?
Vân hà vi vô ngã
?
Dịch nghĩa:
Như lời đức Thế Tôn
nói:
"Tất cả Pháp
không thật".
Vậy, cái gì là
"tất cả Pháp"?
Và sao gọi là
"không thật"?
LƯỢC GIẢI
Chữ "PHÁP" tức là
tất cả sự vật từ tinh thần lẫn vật chất, nào Thánh Phàm chơn
vọng, hữu tình vô tình, hữu hình vô hình, hữu vi vô vi,
v.v...đều gọi là Pháp.
Dịch đúng theo văn
Tàu: "Phàm cái gì, tự nó có thể giữ được hình dáng hay khuôn
khổ của nó, làm cho người, khi trông đến nó, biết đó là vật
gì, thì gọi là "Pháp" (Nhậm trì tự tánh, quỷ sanh vật
giải).
Chữ "NGÃ" là Ta hay
Tôi. Phàm nói "Ta" thì phải đủ hai điều kiện: 1. Tự tại hay
tự chủ, 2. Có thể sắp đặt sai khiến mọi việc. Như thế mới
được gọi "Ta". Nhưng chữ "vô ngã" ở đây, nên hiểu nghĩa là
"không thật" thì rõ hơn.
***
PHẦN THỨ NHẤT,
NÓI 100 PHÁP
Nguyên văn chữ Hán
Nhứt thế pháp giả,
lược hữu ngũ chủng:
Nhứt giả Tâm
pháp,
Nhị giả Tâm sở
hữu pháp,
Tam giả Sắc
pháp,
Tứ giả Tâm bất
tương ưng hành pháp,
Ngũ giả Vô vi
pháp.
Dịch nghĩa
Nói tất cả Pháp có
năm món:
1. Tâm pháp
2. Tâm sở hữu
pháp
3. Sắc pháp
4. Tâm bất tương
ưng hành pháp
5. Vô vi pháp
LƯỢC GIẢI
Chữ "TÂM" có nhiều
nghĩa, nhưng tóm lại có 6 nghĩa:
1. Tập khởi: Chứa
nhóm và phát khởi. Nghĩa này thuộc về thức thứ Tám (Tàng
thức). Vì thức này có công năng "chứa nhóm" chủng tử của các
pháp, rồi "phát khởi" ra hiện hành.
2. Tích tập: Chứa
nhóm. Nghĩa này thuộc về bảy thức trước. Vì bảy thức trước
có công năng "chứa nhóm" các pháp hiện hành để huân vào Tàng
thức.
Trái lại, Bảy thức
trước cũng có nghĩa "tập khởi" (chứa nhóm và phát khởi), vì
bảy thức trước có công năng "chứa nhóm" các pháp hiện hành,
để huân vào Tàng thức, "khởi thành" chủng tử.
Thức thứ Tám cũng có
nghĩa "tích tập" (chứa nhóm), vì thức thứ Tám có công năng
"chứa nhóm" chủng tử của các pháp vậy.
3. Duyên lự: Duyên
cảnh, khởi phân biệt. Tám thức đều tự duyên cái cảnh tướng
phần của mình, rồi khởi ra phân biệt (lự).
4. Thức: Hiểu biết
phân biệt. Cả tám thức đều có công dụng hiểu biết phân
biệt.
5. Ý: Sanh diệt
tương tục không gián đoạn. Cả tám thức đều niệm niệm sanh
diệt tương tục không gián đoạn.
6. Tâm,Ý và Thức: Vì
y theo đặc tánh của mỗi thức, thì thức thứ Tám về nghĩa
"Tích tập" thù thắng, nên gọi là "Tâm"; thức thứ Bảy về
nghĩa "sanh diệt tương tục" thù thắng, nên gọi là "Ý" và sáu
thức trước về nghĩa phân biệt thù thắng nên goi là:Thức".
Chữ "TÂM PHÁp": Pháp
thuộc về Tâm. Vì 8 món Tâm này có công năng thù thắng hơn
hết; cũng như ông Vua có oai quyền thế lực, thống trị thiên
hạ, cho nên cũng gọi là "Tâm vương".
***
NGƯỜI HỌC NÊN HỌC
THUỘC LÒNG NHỮNG DANH TỪ SAU ĐÂY:
I. Ba cảnh: a) Tánh
cảnh, b) Độc ảnh cảnh, c) Đới chất cảnh.
II. Ba lượng: a)
Hiện lượng, b) Tỷ lượng, c) Phi lượng.
III. Ba tánh: a)
Thiện tánh, b) Ác tánh, c) Vô ký tánh.
IV. Ba thọ: a)
Khổ thọ, b) Lạc thọ, c) Xả thọ.
V.Năm thọ: a)
Khổ thọ, b) Lạc thọ, c) Ưu thọ, d) Hỷ thọ, đ) Xả thọ.
VI. Tâm có bốn
phần: a) Tướng phần, b) Kiến phần, c) Tự chứng phần, d)
Chứng tự chứng phần.
VII. 51 món Tâm sở,
phân làm 6 vị:
a) Biến hành, có 5
b) Biệt cảnh, có
5
c) Thiện, có 11
d) Căn bổn phiền
não, có 6
e)Tuỳ phiền não,
có 20
g) Bất định, có
4
VIII. Ba giới:
a) Dục giới: 1. Ngũ thú tạp cư địa.
2. Ly, sanh hỷ lạc
địa.
3. Định, sanh hỷ
lạc địa.
b) Sắc giới:
4. Ly hỷ, diệu lạc địa.
và chín địa 5.
Xả niệm thanh tịnh địa
6. Không vô biên xứ
địa
7. Thúc vô biên
xứ địa c) Vô sắc
giới: 8.Vô sở hữu xứ địa
9. Phi tưởng phi
phi tưởng xứ địa.
Tư lượng vi:
1. Thập trụ, 2. Thập
hạnh,
3. Thập hồi
hướng.
a) Hiền: Tứ gia hạnh
vị:
1. Noãn, 2. Đảnh, 3.
Nhẫn,
4. Thế đệ nhứt.
IX. Bồ tát 1. Hoan
hỷ địa, 2. Ly cấu địa,
có hai 3. Phát quang
địa, 4. Diệm huệ
địa, 5. Nan thắng
địa,
b) Thánh: 6.
Hiện tiền địa, 7. Viễn hành địa, 8. Bất
động địa, 9. Thiện
huệ địa, 10. Pháp vân địa.
X. Tám thức và các
duyên:
Nhãn thức: có
9 duyên: 1. Hư không, 2. Ánh sáng, 3. Căn, 4. Cảnh, 5. Tác
ý, 6. Phân biệt y, 7. Nhiễm tịnh y, 8. Căn bản y, 9. Chủng
tử.
Nhĩ thức: có
8 duyên: Các duyên cũng đồng như Nhãn thức trên, chỉ trừ "
ánh sáng".
Ba thức: Tỹ, Thiệt
và Thân, lại còn có 7 duyên: Các duyên đồng như Nhãn thức
trên, chỉ bớt 2 duyên là Hư không và Ánh sáng.
Ý thức: có 5
duyên: 1. Căn, 2. Cảnh, 3. Tác ý, 4. Căn bản y, 5. Chủng
tử.
Mạt na thức, có 3
duyên: 1. Căn cảnh, 2. Tác ý, 3. Chủng tử.
A lại da thức:
có 3 duyên: 1. Căn (Mạt na), 2. Cảnh (thân căn, khí giới và
chủng tử), 3. Tác ý, 4. Chủng tử.
Vì muốn dễ nhớ, nên
Cổ nhơn có bài tụng như sau:
Nhãn thức cửu duyên
sanh
Nhĩ thức duy tùng
bát
Tỹ, Thiệt, Thân
tam,thất
Hậu tam; ngũ, tam,
tứ
Dịch nghĩa
Nhãn thức đủ chín
duyên
Nhĩ thức chỉ còn
tám
Tỹ, Thiệt, Thân có
bảy
Sau ba; năm, ba bốn
LƯỢC GIẢI
Nhãn thức có đủ chín
duyên; Nhĩ thức chỉ có 8 duyên; Tỹ, Thiệt và Thân ba thức
này lại có 7 duyên; còn ba thức sau thì thức thứ 6 có 5
duyên, thức thứ 7 có 3 duyên và thức thứ 8 có 4 duyên. (Thức
thứ 7 lấy kiến phần của A lại da thức làm cảnh; Thức thứ 8
lấy căn thân, khí giới và chủng tử làm cảnh).
Tám món tâm này rất
thù thắng, tự tại và tự chủ; cũng như vị Quốc vương, nên gọi
là Tâm vương (nhứt thế tối thắng cố)
NĂM THỨC TRƯỚC
(TIỀN NGŨ THỨC)
1. Nhãn thức:
Cái biết của con mắt. Vì thức này nương Nhãn căn, khởi ra
tác dụng phân biệt về sắc trần, nên gọi là "Nhãn thức".
2. Nhĩ thức:
Cái biết của lỗ tai. Vì thức này nương Nhĩ căn, khởi ra tác
dụng phân biệt về thinh trần, nên gọi là "Nhĩ thức".
3. Tỹ thức:
Cái biết của mũi. Vì thức này nương Tỹ căn, khởi ra tác dụng
phân biệt về hương trần, nên gọi là "Tỹ thức".
4. Thiệt thức:
Cái biết của lưỡi. Vì thức này nương Thiệt căn, khởi ra tác
dụng phân biệt về vị trần, nên gọi là "Thiệt thức".
5. Thân thức:
Cái biết của thân. Vì thức này nương thân căn, khởi ra tác
dụng phân biệt về xúc trần, nên gọi là "Thân thức".
Trong 8 thức Tâm
vương. Vì 5 thức này ở bên ngoài và trước, nên cũng gọi là
"Tiền ngũ thức" (năm thức trước).
KHI Ở ĐỊA VỊ PHÀM
PHU NĂM THỨC NÀY ĐỐI VỚI:
1. Ba cảnh:
Năm thức này chỉ có "Tánh cảnh"
2. Ba lượng:
Năm thức này chỉ có "Hiện lượng"
3. Ba tánh:
Năm thức này có đủ 3 tánh: Thiện, Ác và Vô ký.
4. Năm thọ:
Năm thức này chỉ có 3 thọ: Khổ, Lạc và Xả thọ.
5. Ba cõi: Ở
cõi Dục thì năm thức này đủ cả, đến cõi Sắc chỉ cỏn thức:
Nhãn, Nhĩ và Thân; vì hai thức Tỹ và Thiệt không hiện hành
(Nhãn, Nhĩ, Thân tam Nhị địa cư).
6. Chín địa:
Năm thức này chỉ ở trong hai địa: 1. Ngũ thú tạp cư địa, tức
là cõi Dục thuộc về Sơ địa. 2. Ly sanh hỷ lạc địa, ở cõi
Sắc, thuộc Sơ thiền gọi là Nhị địa.
7. Năm mươi mốt
Tâm sở: Năm thức này chỉ tương ưng 34 tâm sở: 5 món biến
hành, 5 món biệt cảnh, 11 món Thiện, 3 món Căn bản phiền
não, 2 món Trung tuỳ và 8 món đại tuỳ.
8. Chín duyên:
Nhãn thức đủ 9 duyên, Nhĩ thức chỉ còn 8 duyên (thiếu
Minh), 3 thức Tỹ, Thiệt và Thân chỉ có 7 duyên ( thiếu Minh
và Không ).
9. Thể: Thể
của 5 thức này, chỉ có Tự tánh phân biệt, không có Tuỳ niệm
phân biệt và Kế đạt phân biệt.
10. Tướng:
Thức với căn khó phân (ngu giả nan phân thức dữ căn).
11. Nghiệp dụng:
Duyên trần cảnh. Song 2 thức: Nhãn và Nhĩ phải cách trần
cảnh mới phân biệt được. Còn 3 thức: Tỹ, Thiệt và Thân phải
hiệp với trần cảnh mới phân biệt được.
KHI LÊN THÁNH VỊ
NĂM THỨC NÀY ĐỐI VỚI:
1. Quán hạnh
(tu): Khi lên Thánh vị, thì 5 thức này chuyển thành "Hậu
đắc trí", và biến ra cái Tướng phần của 2 món chơn như (Sanh
không chơn như và pháp không chơn như) mà quán (duyên).
2. Đoạn hoặc và
chuyển thành trí: Khi thức thứ 8 đã chuyển thành "Đại
viên cảnh trí", thì các căn được vô lậu; lúc bấy giờ 5 thức
này cũng được vô lậu và chuyển làm "Thành sở tác trí".
3. Chứng quả và
diệu dụng: Khi chứng quả vị Phật thì 5 thức này chuyển
làm "Thành sở tác trí". Lúc bấy giờ nó có công dụng hoá hiện
ra 3 loại thân để giáo hoá và dứt trừ các khổ sanh tử luân
hồi cho chúng sanh.
BA LOẠI THÂN:
1. Thân Đại hoá tức
là Thắng ứng thân. Thân này cao 1.000 trượng, để giáo hoá
hàng Đại thừa Bồ Tát.
2. Thân Tiểu hoá tức
là Liệt ứng thân. Thân này cao một trượng sáu thước, để giáo
hoá hàng Tam hiền Bồ Tát cùng Nhị thừa và phàm phu.
3. Thân Tuỳ loại
hoá. Thân này tuỳ theo loại chúng sanh mà hoá hiện.
*
Vì muốn cho người
học dễ nhớ, nên trong Bát thức Qui củ, Ngài Huyền Trang Pháp
sư có làm ba bài tụng tóm tắt lại 5 thức như sau. Hai bài
tụng đầu là nói 5 thức này khi còn ở địa vị phàm phu, bài
tụng thứ 3 là nói khi lên Thánh vị.
Bài tụng thứ nhứt
Tánh cảnh, Hiện
lượng, thông tam Tánh
Nhãn, Nhĩ, Thân tam
Nhị địa cư
Biến hành, Biệt
cảnh, Thiện thập nhứt
Trung nhị, Đại bát,
Tham, Sân, Si
Dịch nghĩa
Tánh cảnh, Hiện
lượng, thông ba Tánh
Nhãn, Nhĩ, Thân ba ở
Nhị địa
Biến hành, Biệt
cảnh, Thiện mười một
Trung hai, Đại tám,
Tham, Sân, Si
LƯỢC GIẢI
Trong 3 Cảnh thì 5
thức này chỉ có "Tánh cảnh"; trong 3 lượng nó chỉ có "Hiện
lượng"; còn 3 Tánh thì nó đủ cả Thiện, Ác và Vô ký.
Ở cõi Dục là Sơ địa,
thì đủ cả 5 thức. Lên cõi Sắc về Nhị địa, thì chỉ còn 3 thức
là: Nhãn, Nhĩ và Thân.
Nói về Tâm sở, thì 5
thức này tương ưng với 34 món: 5 món Biến hành, 5 món Biệt
cảnh, 11 món Thiện, 2 món Trung tùy, 8 món Đại tùy và 3 món
Căn bản phiền não là: Tham, Sân, Si.
Bài tụng thứ hai
Ngũ thức đồng y Tịnh
sắc căn
Cửu duyên, bát, thất
hảo tương lân
Hiệp tam, ly nhị,
quán trần thế
Ngu giả nan phân
thức dữ căn
Dịch nghĩa
Năm thức đồng nương
Tịnh sắc căn
Chín, tám, bảy duyên
ưa gần nhau
Ba hiệp, hai rời,
duyên trần cảnh
Ngu giả khó phân
Thức và Căn .
LƯỢC GIẢI
Căn, có 2 loại: 1.
Phù trần căn: Căn thô phù bên ngoài. 2. Tịnh sắc căn: căn
thanh tịnh tinh tế ở bên trong; cũng gọi là "Thắng nghĩa
căn", vì căn này rất thù thắng.
Năm thức đều nương 5
căn Tịnh sắc và nhờ có các duyên mới sanh ra được. Như Nhãn
thức nhờ 9 duyên, Nhĩ thức chỉ còn 8 duyên, Tỹ, Thiệt và
Thân mỗi thức chỉ có 7 duyên.
Ba thức: Tỹ, Thiệt
và Thân phải hiệp với trần cảnh mới duyên được; còn 2 thức
là Nhãn và Nhĩ phải cách hở trần cảnh mới duyên được.
Chúng phàm phu và
hàng Nhị thừa vì chấp pháp nặng nề, nên khó phân biệt cái
nào là Thức và cái nào là Căn. Vì thế, mà cả hai đều bị gọi
là "Ngu giả".
Bài tụng thứ ba
Biến tướng quán
không duy hậu đắc
Quả trung du tự bất
thuyên chơn
Viên minh sơ phát
thành Vô lậu
Tam loại phân thân
tức khổ luân.
Dịch nghĩa
Trí Hậu đắc biến
tướng không, quán (duyên)
Khi chứng quả còn
chẳng nói chơn
Viên minh vừa phát
thành Vô lậu
Phân thân ba loại,
dứt khổ luân.
LƯỢC GIẢI
Năm thức này không
có "Căn bản trí" mà chỉ có "Hậu đắc trí". Khi duyên chơn như
thì nó chỉ biến lại tướng phần của hai món chơn như (Sanh
không chơn như và Pháp không chơn như) mà duyên, chớ không
thể trực tiếp thân duyên được; vì nó không có "Căn bản trí"
nên không thể thân duyên.
Khi chứng được Thánh
quả, cũng không thể nói "Năm thức này thân duyên được chơn
như", huống chi là trong lúc tu nhơn.
Đến khi thức thứ Tám
vừa chuyển thành Đại viên cảnh trí (viên minh sơ phát) thì 5
thức này thành Vô lậu. Lúc bấy giờ, 5 thức này có công dụng
hiện ra ba loại thân để hoá độ và dứt trừ các khổ sanh tử
luân hồi cho chúng sanh.
Câu "Biến tướng
không quán": Biến lại tướng chơn như mà duyên. Chữ "Tướng
không" là tướng Ngã không và Pháp không tức là Chơn như (nhị
không chơn như). Chữ "Quán" là duyên. Nghĩa là: Trí Hậu đắc
này chỉ biến lại tướng chơn như mà duyên.
Thức này nương Ý căn
(thức thứ 7) khởi tác dụng phân biệt Pháp trần, nên gọi là
"Ý thức".
Trong tám thức duy
có thức thứ Sáu này rất lanh lẹ và khôn ngoan hơn hết, nên
trong bài thơ Bát thức có câu rằng:"Độc hữu nhứt cá tối linh
ly" (riêng có một cái thức rất lanh lẹ). Suy nghĩ làm việc
phải, thức này đứng đầu; còn tính toán tạo tác việc ác, thì
nó cũng hơn cả. Bởi thế nên trong Duy thức nói:"Công vi thủ,
tội vi khôi" (Nói về "Công" thì thức này hơn hết, còn luận
về "Tội" thì nó cũng đứng đầu). Thức này cũng có công năng
chấp Ngã và chấp Pháp.
Một điều mà người
học thường thắc mắc: Tại sao thức thứ Sáu gọi là "Ý thức",
mà thức thứ Bảy cũng gọi là "Ý thức"? trong Đại thừa bá pháp
minh môn luận chuế ngôn, có giải thích như vầy: Thức thứ Sáu
mà gọi là "Ý thức" vì thức này nương "Ý căn" mà khởi ra phân
biệt, nên gọi "Ý thức". Nghĩa là thức của Ý căn. "Thức" là
năng y, còn "Ý" là bị y, hai phần khác nhau cũng như nói
"Nhãn thức", tức là thức của Nhãn căn. Thế là căn với thức
khác nhau.
Còn thức thứ Bảy mà
gọi là "Ý thức"; chữ "Ý" là sanh diệt tương tục không gián
đoạn. Vì thức này sanh diệt tương tục không gián đoạn nên
gọi là "Ý thức". Thế là "Thức" tức là "Ý" không khác. Cũng
như "Tàng thức", chữ "Tàng" là chứa đựng. Vì thức này chứa
đựng các pháp, nên gọi là "Tàng thức". Thế là "Thức" tức là
"Tàng (chứa) không khác.
e).
Nan thắng địa, f). Hiện tiền địa, g). Viễn hành địa, h).
Bất
động địa, I). Thiện
huệ địa, j). Pháp vân địa.
6. Tâm sở:
Thức này có đủ 51 món Tâm sở: 5 món Biến hành, 5 món Biệt
cảnh, 11 món Thiện, 6 món căn bản phiền não, 20 món Tùy
phiền não, 4 món Bất định.
7. Chín duyên:
Trong chín duyên, thức này chỉ có 5 duyên: a) Căn duyên, b)
Cảnh duyên, c)Tác ý duyên, d)Căn bản duyên, e) Chủng tử
duyên.
8. Thể (tánh):
Thể của thức này có ba món phân biệt: a)Tự tánh phân biệt,
b)Tùy niệm phân biệt, c) Kế đạt phân biệt.
9. Tướng:
Tướng của thức này là luân chuyển trong ba cõi (tam giới
luân thời dị khả tri).
10. Nghiệp dụng:
Nghiệp dụng của thức này làm cho thân và miệng tạo ra dẫn
nghiệp và mãn nghiệp để cảm thọ quả báo trong ba cõi. Và ba
tánh cùng năm Thọ, thức này thường thay đổi luôn.
KHI LÊN THÁNH VỊ,
THỨC NÀY ĐỐI VỚI
1. Quán hạnh
(tu): Thức thứ sáu này quán sanh không, phá trừ ngã chấp
và quán pháp không, phá trừ pháp chấp.
2. Đoạn hoặc và
thành trí: Thức này có năm giai đoạn trừ hoặc chuyển
thành trí:
a) Đến vị Tư lương,
thì thức này mới chinh phục được hai món hiện hành của ngã
chấp.
b) Đến vị Kiến đạo,
thì thức này mới đoạn được hai món chủng tử về phần phân
biệt của ngã chấp và pháp chấp.
c) Đến vị Tu tập,
thức này đoạn được hai món hiện hành và chinh phục được hai
chủng tử cu sanh của ngã chấp và pháp chấp.
d) Đến vị Viễn hành
trở lên thì thức này mới đoạn hết cu sanh ngã chấp và hoàn
toàn vô lậu.
e) Đến vị Đẳng giác,
thức này đoạn hết cu sanh pháp chấp, chuyển thành Diệu quan
sát trí. 3. Chứng quả
và diệu dụng: Khi chứng quả vị Phật, thì thức này chuyển
thành Diệu quan sát trí và có công năng chiếu soi căn cơ của
chúng sanh trong Đại thiên thế giới, rồi tùy cơ thuyết pháp
hoá độ hàm linh.
Muốn cho người học
dễ nhớ, nên trong Bát thức quy củ, ngài Huyền Trang Pháp sư
có làm ba bài tụng như sau. Hai bài tụng đầu, nói thức này
khi ở điạ vị Phàm phu, bài tụng thứ ba nói thức này khi đặng
Thánh quả.
Bài tụng thứ nhứt
Tam Tánh, tam Lượng
thông tam Cảnh
Tam giới luân thời
dị khả tri
Tương ưng Tâm sở ngũ
thật nhứt
Thiện ác lâm thời
biệt phối chi.
Dịch nghiã
Ba Tánh, ba Lượng và
ba Cảnh
Luân chuyển ba cõi
rất dễ biết
Tâm sở tương ưng năm
mươi mốt
Thiện ác đến thời
riêng phối hiệp.
LƯỢC GIẢI
Thức thứ Sáu này đủ
cả ba Tánh, ba Lượng và ba Cảnh. Nó luân hồi trong ba cõi
rất dễ biết. Những Tâm sở tương ưng với thức này có 51 món.
Khi thức này nghĩ việc lành thì có Thiện tâm sở riêng phối
hiệp, còn khi nghĩ việc ác thì có Ác tâm sở riêng phối
hiệp.
***
Bài tụng thứ hai
Tánh, Giới, Thọ tam
hằng chuyển dịch
Căn, Tùy, Tín đẳng
đồng tương liên
Động thân phát ngữ
độc vi tối
Dẫn, Mãn năng chiêu
nghiệp lực khiên.
Dịch nghiã
Tánh, Giới, Thọ ba
thường biến đổi
Căn, Tuỳ, Tín chung
nhau liên tiếp
Thân động, miệng
thốt nó hơn hết
Dẫn nghiệp, Mãn
nghiệp thọ quả báo
LƯỢC GIẢI
Thức này đối với ba
Tánh, ba Giới và năm Thọ thì nó thường thay đổi; khi thì vui
lúc lại buồn, ...51 món Tâm sở, như căn bổn phiền não, Tuỳ
phiền não và Thiện tâm sở, ...cùng nhau liên tiếp không lúc
nào rời thức này. Làm cho thân động và miệng nói, duy có
thức này là hơn hết. Nó tạo ra dẫn nghiệp và mãn nghiệp để
chiêu cảm quả báo đời sau.
Baì tụng thứ ba
Phát khởi sơ tâm
Hoan hỷ địa
Cu sanh du tự hiện
triền miên
Viễn hành địa hậu
thuần vô lậu
Quán sát viên minh
chiếu Đại thiên.
Dịch nghĩa
Khi đặng sơ tâm Hoan
hỷ địa
Cu sanh ngã, pháp
hiện còn ẩn
Viễn hành về sau
thuần vô lậu
Quán sát viên mãn
khắp Đại thiên
LƯỢC GIẢI
Hành giả trong lúc
trãi qua Thập thánh thì thức này có ba thời kỳ đoạn phiền
não và thuần vô lậu.
1. Khi lên Sơ địa,
tức là Hoan hỷ địa, thì phân biệt ngã chấp và pháp chấp đều
đã đoạn. Nhưng cu sanh ngã chấp và pháp chấp hãy còn hiện
hành và miên phục trong Tàng thức, chưa có thể chinh phục và
đoạn trừ được.
2. Khi đến Viễn hành
địa (tức là Thất địa) trở lên thì mới đoạn được chủng tử cu
sanh của ngã chấp và chinh phục được hiện hành của pháp
chấp. Lúc bấy giờ thức này mới thuần Vô lậu.
3. Khi sắp lên quả
Phật thì đoạn được chủng tử cu sanh của pháp chấp. Lúc bấy
giờ thức này chuyển thành Diệu quan sát trí, quán sát chiếu
soi cả Đaị thiên thế giới và tùy theo căn cơ của mỗi loài mà
thuyết pháp giáo hoá.
Thức này có nhiều
tên: 1. Mạt na (goị theo nguyên âm tiếng Phạn), 2. Ý căn:
Thức này là căn của ý thức (Thức thứ Sáu); Vì thức thứ Sáu
nương thức này phát sanh. 3. Thức thứ Bảy: Theo thứ đệ thì
thức này đứng nhằm thứ Bảy. 4. Truyền thống thức: Vì thức
này có công năng truyền các pháp hiện hành. 5. Ý thức, vì
thức này sanh diệt tương tục không gián đoạn nên gọi là "Ý".
Song, sợ người lầm lộn với ý thức thứ Sáu, nên thức thứ Bảy
này chỉ gọi là "Ý", mà không thêm chữ "Thức". Thức này chỉ
duyên kiến phần cuả thức A lại da chấp làm thật ngã và thật
pháp.
KHI Ở ĐIẠ VỊ PHÀM PHU, THỨC NÀY
ĐỐI VỚI:
1. Ba cảnh:
Thức này chỉ có Đới chất cảnh
2. Ba lượng:
Thức này chỉ có Phi lượng
3. Ba tánh:
Thức này chỉ có Hữu phú Vô ký tánh.
4. Ba giới:
Trong ba Giới, thức này đều có đủ.
5. Chín địa:
Trong chín Địa, thức này có đủ.
6.Tâm sở:
Thức này có 18 tâm sở: 5 món Biến hành, 1 món Huệ trong Biệt
cảnh, 4 món căn bổn phiền não: Si, Kiến, Mạn, Ái và 8 món
Đại tùy.
7.Chín duyên:
Thức này chỉ có ba duyên: 1. Căn cảnh duyên. 2. Tác ý duyên.
3. Chủng tử duyên.
8.Tánh: Hằng
thẩm xét và lo nghĩ (Hằng thẩm tư lương).
9. Tướng: Lo
nghĩ (Tư lương vi tánh tướng)
10. Nghiệp dụng:
Làm chỗ cho 6 thức trước nương, hoặc nhiểm hay tịnh.
KHI LÊN THÁNH VỊ
THỨC NÀY ĐỐI VỚI:
1. Quán hạnh:
Thật ra thức này không có năng lực đoạn hoặc, chỉ nhờ thức
thứ Sáu tu quán, đoạn hoặc, mà thức này cũng được đoạn.
2. Đoạn hoặc và
chuyển thành trí: Có ba giai đoạn: a) Đến sơ địa, thì
thức này mới vừa chinh phục được hai món chấp về phần cu
sanh và chuyển thành Bình đẳng tánh trí. b) Khi lên Bát địa
(Vô công dụng đạo) thức này đoạn được cu sanh ngã chấp. c)
Đến Kim Cang đạo thì thức này mới đoạn được cu sanh pháp
chấp
3. Chứng quả và
diệu dụng: Khi chứng quả vị Phật, thì thức này hiện ra
thân "Tha thọ dụng", để giáo hoá thập địa Bồ Tát.
***
Muốn cho người học
dễ nhớ, nên trong Bát thức quy củ, ngài Huyền Trang Pháp sư
có làm ba bài tụng như sau. Hai bài tụng đầu, nói thức này
khi ở điạ vị Phàm phu, bài tụng thứ ba nói thức này khi lên
Thánh quả.
Bài tụng thứ nhất
Đới chất hữu phú
thông tình bổn
Tùy duyên chấp ngã,
lượng vi phi
Bát đại Biến hành,
Biệt cảnh Huệ
Tham, Si, Ngã kiến,
Mạn tương tuỳ.
Dịch nghiã
Đới chất hữu phú
thông Bảy, Tám
Tùy duyên chấp ngã
thuộc Phi lượng
Tám đại, Biến hành,
Huệ Biệt cảnh
Tham, Si, Ngã, Mạn
thường theo nhau
LƯỢC GIẢI
Trong ba cảnh, thức
này chỉ duyên về "Đới chất cảnh". Ba tánh, thức này chỉ
thuộc về "Hữu phú Vô ký tánh". Cảnh đới chất của thức này là
thông cả thức thứ Bảy và thức thứ Tám. Nghĩa là thức thứ Bảy
dùng kiến phần năng duyên của mình (Tức là Tâm, trên nguyên
văn bài tụng chữ Hán gọi là Tình) duyên qua kiến phần của
thức thứ Tám (kiến phần thức thứ Tám cũng là Tâm; song vì bị
thức thứ Bảy lấy nó làm "bản chất" để duyên, nên trên bài
tụng theo nguyên văn chữ Hán goị là "Bổn", tức là "Bản chất"
vậy), rồi biến lại "Cảnh đới chất". Vì thế nên trong Duy
thức có câu:
"Dĩ tâm duyên tâm
chơn đới chất
Trung gian tướng
phần lưỡng đầu sanh"
Nghiã là thức thứ
Bảy dùng kiến phần của tâm mình, duyên qua kiến phần tâm của
thức thứ Tám, nên chính giữa hai thức này sanh ra một tướng
phần là cảnh "Chơn đới chất".
Chúng sanh tùy vọng
nghiệp sanh trong Tam giới, thì thức này cũng theo đó mà
chấp ngã. Trong ba lượng, thức này thuộc về phi lượng.
Về tâm sở thì thức
này có 18 món: 8 Đại tùy, 5 món Biến hành và một món Huệ
trong 5 món Biệt cảnh với 4 món căn bổn phiền não là Tham,
Si, Mạn và Ngã kiến.
Bài tụng thứ hai
Hằng thẩm tư lương
ngã tương tùy
Hữu tình nhựt dạ
trấn hôn mê
Tứ hoặc bát đại
tương ưng khởi
Lục chuyển hô vi
"Nhiễm tịnh y"
Dịch nghĩa
Hằng xét lo lường
theo chấp ngã
Hữu tình ngày đêm bị
mê muội
Bốn hoặc, tám đại
chung nhau khởi
Sáu thức gọi là
"Nhiễm tịnh y"
LƯỢC GIẢI
Thức thứ Bảy thường
suy xét so đo chấp kiến phần của thức thứ Tám làm ngã. Trong
Bát thức quy củ tụng Trang chủ có nói:
Thức thứ Tám, có
hằng mà không thẩm xét.
Thức thứ Bảy, vừa
hằng lại vừa thẩm xét.
Thức thứ Sáu, có
thẩm xét mà không hằng.
Năm thức trước,
không hằng và không thẩm.
Cũng vì thức này
chấp ngã, nên chúng hữu tình mê muội trong sanh tử đêm dài
mà chẳng tự biết. Thức này tương ưng với bốn món căn bản
phiền não là: Si, Kiến, Mạn, Ái và 8 món Đại tùy. Sáu thức
trước gọi thức này là "Nhiễm tịnh y" (Lục thức hô vi nhiễm
tịnh y)
Bài tụng thứ ba
Cực hỷ sơ tâm, bình
đẳng tánh
Vô công dụng hạnh
ngã hằng thôi
Như Lai hiện khởi
tha thọ dụng
Thập địa Bồ Tát sở
bị côi (cơ)
Dịch nghĩa
Đến Sơ địa, thành
"bình đẳng trí"
Đến Vô công dụng,
hằng phá Ngã
Như Lai hiện thân
"Tha thọ dụng"
Giáo hoá hàng Thập
địa Bồ Tát.
LƯỢC GIẢI
Hành giả khi chứng
được Hoan hỷ địa, tức là Sơ địa, thì thức này chuyển lại
thành "Bình đẳng tánh trí". Đến bất động địa, tức là địa thứ
Tám, cũng gọi là "Vô công dụng hạnh"; lúc bấy giờ hành giả
mới dẹp trừ chủng tử của ngã chấp. Đến khi chứng quả Phật,
thức này đã chuyển thành trí, hiện ra thân "Tha thọ dụng" để
giáo hoá hàng Thập địa Bồ Tát.
Thức này có rất
nhiều tên, khi đọc đến luận "A đà na thức" quý vị sẽ hiểu
rõ. Nay chúng tôi chỉ kể sơ lược một vài tên.
1. Đệ bát thức:
Thức thứ tám. Vì theo thứ đệ: một là nhãn thức, hai là nhĩ
thức, cho đến thức thứ Tám là thức này, nên gọi là Đệ bát
thức.
2. A lại da thức:
Tàu dịch là "Tàng thức": Thức này có công năng chứa đựng
chủng tử của các pháp. "Thức" là thể, mà "chứa" là dụng.
Hiệp cả thể và dụng, nên gọi là "thức chứa" (Tàng thức). Có
3 nghĩa:
a. Năng tàng:
Năng chứa. Thức này co công năng chứa đựng và gìn giữ chủng
tử (hạt giống) của các pháp.
b. Sở tàng:
Bị chứa. Thức này là chổ để chứa các pháp.
c. Ngã ái chấp
tàng, gọi tắt là "chấp tàng": Thức thứ Bảy chấp kiến
phần của thức này làm Ta và thường ái luyến.
KHI Ở ĐỊA VỊ PHÀM
PHU, THỨC NÀY ĐỐI VỚI:
1. Ba cảnh:
Thức này chỉ duyên về "Vô bản chất tánh cảnh".
2. Ba lượng:
Thức này chỉ có "hiện lượng"
3. Ba tánh:
Thức này thuộc về "Vô phú vô ký tánh".
4. Ba thọ:
Thức này chỉ có "Xả thọ".
5. Ba cõi:
Thức này tuỳ nghiệp lực dẫn sanh trong ba cõi.
6. Chín Địa:
Trong chín địa đều có thức này.
7. Tâm sở:
Thức này chỉ tương ưng với 5 món biến hành; song trong 5 thọ
thì nó chỉ có "Xả thọ".
8. Chín duyên:
thức này chỉ có 4 duyên: a. Căn (Mạt ma), b. Cảnh (Căn thân,
thế giới và chủng tử), c. Tác ý, d. Chủng tử.
9. Thể (tánh):
Vơi vơi không cùng (hạo hạo tam tàng bất khả cùng)
10. Tướng:
Thức này như vực sâu (uyên thâm thất lãnh cảnh vi phong).
11. Nghiệp dụng:
Thức này duy trì chủng tử căn thân, thế giới và làm chỗ để
thọ các pháp huân vào.
KHI LÊN THÁNH VỊ,
THỨC NÀY ĐỐI VỚI:
1. Quán hạnh:
(Không có quán hạnh).
2. Đoạn hoặc và
chuyển thành trí: Khi lên "Bất động địa" (Bát địa) thì
hành giả đoạn được cu sanh Ngã chấp; lúc bấy giờ thức này bỏ
cái tên "Tàng thức". Đến Kim Cang đạo rồi, thì hành giả đoạn
hết cu sanh pháp chấp, không còn cảm thọ sanh tử, cho nên
cũng không còn tên là "Dị thục thức"; vì đến địa vị này thì
các chủng tử hữu lậu đã hết. Lúc bấy giờ thức này được gọi
là "Vô cấu thức", và chuyển thành Đại viên cảnh trí.
3. Chứng quả và
diệu dụng: Vì thức này đã thành Đại viên cảnh trí, nên
chiếu khắp mười phương các cõi nước nhiều như vi trần.
Muốn cho người
học dễ nhớ, nên trong Bát thức quy củ, ngài Huyền Trang Pháp
sư có làm ba bài tụng để tóm lại các nghĩa trên như sau. Hai
bài tụng đầu nói thức này khi còn ở địa vị phàm phu, bài
tụng thứ ba, nói khi đã lên thánh quả.
Bài tụng thứ nhứt
Tánh duy vô phú ngũ
Biến thành
Giới, Địa tùy tha
nghiệp lực sanh
Nhị thừa bất liễu
nhơn mê chấp
Do thử năng hưng
Luận chủ tranh
Dịch nghĩa
Vô phú tánh và năm
Biến thành
Ba cõi, chín địa tuỳ
nghiệp sanh
Nhị thừa không rõ
sanh mê chấp
Bởi thế nên chi Luận
chủ tranh (cãi)
LƯỢC GIẢI
Trong ba tánh, thức
này thuộc về "Vô phú vô ký tánh". Trong 51 món tâm sở thức
này chỉ tương ưng với 5 món Biến hành, song trong 5 thọ thì
nó chỉ có Xả thọ. Tuỳ theo nghiệp lực kéo dẫn, mà thức này
sanh trong ba cõi và chín địa. Hàng Nhị thừa không hiểu,
chấp thức này không có. Bởi thế nên Luận chủ dẫn rất nhiều
bằng chứng trong các Kinh Luận để tranh luận, chỉ rõ và
quyết định phải có thức thứ Tám này.
***
Bài tụng thứ hai
Hạo hạo tam tàng bất
khả cùng
Uyên thâm thất lãng
cảnh vi phong
Thọ huân trì chủng
căn thân khí
Khứ hậu lai tiên tác
chủng ông
Dịch nghĩa
Chơi vơi ba tàng
không cùng tột
Vực sâu, bảy sóng,
cảnh làm gió
Chịu huân, trì chủng
và thân cảnh
Đến trước đi sau làm
chủ ông
LƯỢC GIẢI
Ba tàng là Năng
tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng. Bởi thức này có công năng
duy trì các chủng tử, nên gọi là "Năng tàng". Vì thức này là
chỗ để chịu cho các pháp hiện hành huân vào, nên gọi là "Sở
tàng". Thức thứ Bảy chấp kiến phần của thức này làm Ngã, nên
gọi là "Ngã ái chấp tàng".
Thể và dụng của thức
này sâu rộng vô cùng; hàng phàm phu và Nhị thừa không thể
thấu tột. Chúng hữu tình từ vô thỉ đến nay, cũng do thức này
mà sanh tử tương tục không cùng tột, nên trong bài tụng
nói:
"Vơi vơi ba tàng
không cùng tột".
Biển tàng thức rất
là sâu rộng, gió bốn duyên (căn, cảnh, chủng tử và tác ý)
một phen thổi vào, thì sóng bảy thức nhấp nhô nổi dậy.
Thức này có công
năng duy trì chủng tử, căn thân, thế giới và chịu cho các
phép hiện hành huân vào.
Thức này làm ông
Chủ; vì khi chúng hữu tình chết thì nó đi sau, còn khi đầu
sanh thời nó lại đến trước.
Cổ nhơn có làm bài
kệ, để tả trạng thái người chết, trong lúc thần thức sắp rời
thân xác, có thể kinh nghiệm biết người chết rồi được thăng
lên hay đọa xuống.
Chánh văn
Đảnh Thánh, nhãn
sanh Thiên
Nhơn tâm, Ngạ quỉ
phúc
Bàn sanh tất cái ly
Địa ngục khước tâm
xuất
Dịch nghĩa
Thánh đầu, Trời tại
mắt
Người tim, Ngạ quỉ
bụng
Súc sanh hai chân
xuống
Địa ngục bàn chân
ra
Bài tụng thứ ba
Bất động địa tiền
tài xả tạng
Kim Cang đạo hậu Dị
thục không
Đại viên vô cấu đồng
thời phát
Phổ chiếu thập
phương trần sát trung
Dịch nghĩa
Đến Đệ bát địa bỏ
tên "Tàng"
Chứng Kim Cang đạo,
không "Dị thục"
Gương trí không nhơ
đồng thời phát
Khắp chiếu mười
phương vô số cõi.
LƯỢC GIẢI
Hành giả khi tới Bất
động địa, tức là Bát địa trở lên, thì thức này mới xả cái
tên "Tàng thức" mà chỉ còn gọi là "Dị thục thức". Khi đến vị
Đẳng giác, được Kim Cang đạo, thì thức này không còn gọi tên
là "Dị thục" nữa. Vì lúc bấy giờ, các chủng tử hữu lậu cấu
nhiễm đã hết, nên thức này được đổi tên là "Vô cấu thức";
chỉ còn thuần chủng tử vô lậu thanh tịnh, nên cũng được gọi
là "Bạch tịnh thức".
Đến Kim Cang đạo,
thì thức này được gọi là "Vô cấu" và chuyển thành Đại viên
cảnh trí, nên trong bài tụng nói:
"Đại viên (trí) vô
cấu (thức) đồng thời phát"
trí Đại viên này
chiếu khắp cả mưởi phương thế giới nhiều như số cát sông
Hằng; và hiện ra Báo thân Phật và Hóa thân Phật để độ thoát
chúng sanh tột đến đời vị lai.
Tóm lại, thức thứ
Tám này vì trải qua 3 giai đoạn, nên có 3 tên khác nhau:
1. Từ phàm phu cho
đến mãn Thất địa, thì gọi thức này là Tàng thức (A lại da)
hay "Dị thục thức".
2. Từ Bát địa đến
Đẳng giác, thì không còn gọi là "Tàng thức" nữa mà chỉ gọi
là "Dị thục thức".
3. Đến quả vị Phật,
thì tên "Dị thục" cũng không còn, mà chỉ gọi là "Vô cấu
thức" hay "Bạch tịnh thức".
***
Muốn cho người học
dễ nhớ hành tướng và công năng của 8 thức tâm vương nên cổ
nhân có làm bài thơ rằng:
Bát cá đệ huynh,
nhứt cá si
Độc hữu nhứt cá
tối sinh ly
Ngũ cá môn tiền
tố mãi mại
Nhứt cá gia
trung tác chủ y.
Dịch nghĩa
Anh em tám chú một
chàng si (thức thứ Bảy)
Duy có ý thức
rất linh ly (khôn ngoan)
Năm người ngoài
cửa lo buôn bán (năm thức trước)
Làm chủ trong
nhà Đệ bát y (thức thứ Tám)
"Tâm sở hữu pháp"
gọi tắt là "Tâm sở", nghĩa là pháp sở hữu của Tâm vương. Tâm
sở tùy theo Tâm vương mà khởi và giúp đỡ Tâm Vương để tạo
nghiệp (Dữ thử tương ưng cố)
tâm sở có 51 món,
chia lảm 6 loại:
A. TÂM SỞ BIẾN
THÀNH (Có 5 món)
Chữ "Biến thành"
nghĩa là đi khắp. Năm món Tâm sở này đi khắp 4 chỗ: 1. Tất
cả thời gian (quá khứ, hiện tại và vị lai), 2. Tất cả chỗ
(không gian: Ba cõi, chín địa), 3. Tất cả các thức (Tám thức
Tâm Vương), 4. Tất cả tánh (tánh lành, dữ và tánh không lành
dữ).
1. Xúc: Tiếp
xúc, gặp gỡ. Tánh của Tâm sở này, hay làm cho Tâm Vương hoặc
Tâm sở tiếp xúc với cảnh. Nghiệp dụng của nó làm chổ nương
cho Thọ, Tưởng, Tư, ...để phát sanh.
2. Tác ý:
Mong khởi trái ý. Tánh của Tâm sở này hay đánh thức chủng tử
của Tâm vương, Tâm sở khiến cho sanh khởi. Nghiệp dụng của
nó dẫn tâm đến duyên tự cảnh.
3. Thọ: Lãnh
thọ. Tánh của Tâm sở này hay lãnh thọ những cảnh thuận,
nghịch và cảnh không thuận nghịch. Nghiệp dụng của nó là
mong muốn. Như gặp cảnh thuận thì muốn hiệp, gặp cảnh nghịch
thì muốn lìa và muốn cảnh không thuận nghịch. Nói lại cho dễ
hiểu là thọ cảnh vui, buồn và cảnh bình thường.
4. Tưởng: Nhớ
tưởng. Tánh của Tâm sở này hay tưởng hình tượng của cảnh
vật. Nghiệp dụng của nó là bịa đặt ra những danh từ để kêu
gọi. Như tưởng hình tướng trắng, mõng và vuông, rồi tùy theo
đó mà đặt ra cái tên là "tờ giấy".
5. Tư: lo
nghĩ. Tánh của Tâm sở này, khiến cho tâm lo nghĩ tạo tác.
Nghiệp dụng của nó là sai tâm làn những việc lành, dữ hoặc
không phải lành dữ.
B. TÂM SỞ BIỆT
CẢNH (Có 5 món)
Chữ "Biệt cảnh" là
mỗi cảnh riêng khác. Năm món Tâm sở này, mỗi món duyên mỗi
cảnh riêng khác.
1. Dục: Mong
muốn. Tánh của Tâm sở này là hằng mong muốn duyên những cảnh
vui thích. Nghiệp dụng của nó làm chỗ nương cho "siêng
năng".
2. Thắng giải:
Hiểu biết rõ ràng. Tánh của Tâm sở này, hiểu biết rõ ràng
không có nghi ngờ. Nghiệp dụng của nó là quyết định không
chuyển đổi.
3. Niệm: (Nhớ).
Tánh của Tâm sở này, khiến cho tâm ghi nhớ rõ ràng những
cảnh đã qua. Nghiệp dụng của nó, làm chỗ nương cho Định.
4. Định:
Chuyên chú. Tánh của Tâm sở này, khiến cho tâm khi đối với
cảnh, chuyên chú không tán loạn. Nghiệp dụng của nó làm chỗ
nương cho Trí; vì khi đối với cảnh, tâm chuyên chú không tán
loạn, nên sanh ra Trí.
5. Huệ: Sáng
tỏ. Tánh của Tâm sở này, khi đối với cảnh sáng suốt lựa
chọn. Nghiệp dụng của nó, dứt nghi ngờ. Trong khi đối với
cảnh, vì có Huệ suy xét, nên quyết định không còn nghi ngờ.
C. TÂM SỞ THIỆN
(Có 11 món)
Chữ "Thiện" là hiền
lành. Bản tánh của 11 Tâm sở này, hiền lành và làm lợi ích
cho chúng sanh.
1. Tín: Tin.
Tánh của Tâm sở này, tin chịu những gì có thật (chơn thật),
Đức (hình dung), Năng (nghiệp dụng) và làm cho Tâm được
thanh tịnh. Nghiệp dụng của nó: đối trị Bất tín và ưa việc
lành.
2. Tinh tấn:
Tinh chuyên và tấn tới. Tánh của Tâm sở này, siêng năng đoạn
các việc dữ, làm các việc lành. Nghiệp dụng của nó đối trị
giải đãi và làm viên mãn việc lành.
3. Tàm: Tự
xấu hổ. Tánh của Tâm sở này, mỗi khi làm điều gì quấy, tự
mình xấu hổ; kính trọng người hiền và ưa việc phải. Ngiệp
dụng của nó: đối trị "tâm không biết xấu hổ" và ngăn ngừa
việc dữ.
4. Quý: Thẹn
với người. Tánh của Tâm sở này, khi mình làm điều gì quấy,
thấy người thẹn thùa; không chịu gần người ác, chẳng làm
việc dữ. Nghiệp dụng của nó: đối trị "tâm không biết thẹn"
và ngăn làm việc ác.
5. Vô tham:
Không tham lam. Tánh của Tâm sở này, không tham lam, cảnh
dục lạc trong tam giới. Nghiệp dụng của nó: đối trị lòng
"tham" và ưa làm việc lành.
6. Vô sân:
Không sân hận. Tánh của Tâm sở này, khi đối với cảnh trái
nghịch, không nóng giận. Nghiệp dụng của nó: đối trị "sân
hận" và ưa làm việc lành.
7. Vô si:
Không si mê. Tánh của Tâm sở này, khi đối với sự lý, hiểu
biết rành rõ không mờ ám. Nghiệp dụng của nó: đối trị "si
mê" và ưa làm việc lành.
8. Khinh an:
Nhẹ nhàng, thư thới. Tánh của Tâm sở này, làm cho thân tâm
nhẹ nhàng khoan khoái, xa lìa những gì nặng nề bực bội.
Nghiệp dụng của nó: đối trị "Hôn trầm".
9. Bất phóng dật:
Không buông lung, phóng túng. Tánh của Tâm sở này là
phòng ngừa việc ác, làm việc lành và không phóng túng.
Nghiệp dụng của nó: làm viên mãn việc lành ở thế gian, xuất
thế gian và đối trị "Buông lung".
10. Hành xả:
Làm rồi không chấp trước. Tánh của Tâm sở này, khi làm các
việc phước thiện, không chấp trước, khiến tâm an trụ nơi vô
công dụng. Nghiệp dụng của nó: đối trị "Trạo cử" và làm cho
tâm an trụ nơi yên tịnh.
11. Bất hại:
Không làm tổn hại. Tánh của Tâm sở này không làm tổn hại tất
cả chúng hữu tình. Nghiệp dụng của nó: Từ bi thương xót loài
vật và đối trị "Tổn hại".
D. CĂN BẢN PHIỀN
NÃO (Có 6 món)
Sáu món phiền não
này thuộc về ác. Nó làm cội gốc sanh ra các phiền não chi
mạc, nên gọi là "Căn bản".
1. Tham: Tham
lam. Tánh của Tâm sở này tham lam đắm nhiễm những gì nó ưa
thích; như tài sắc, danh vọng,...Nghiệp dụng của nó: làm
chướng ngại "Vô tham" và sanh tội khổ.
2. Sân: Nổi
nóng. Tánh của Tâm sở này, giận ghét những cảnh trái nghịch.
Nghiệp dụng của nó: làm cho thân tâm không yên ổn, chướng
ngại tánh "Vô sân" và sanh các tội lỗi.
3. Si: Ngu
si, hoặc gọi là "Vô minh" (không sáng suốt). Tánh của Tâm sở
này là mê muội, không biết hay dở, phải quấy. Nghiệp dụng
của nó sanh ra các pháp tạp nhiễm và chướng ngại tánh "Vô
si".
Ba món phiền não tâm
sở (Tham, Sân, Si) này, làm chướng ngại ba món Vô lậu là
Giới, Định và Huệ.
4. Mạn: Khinh
mạn. Tánh của Tâm sở này, ỷ tài năng hoặc thế lực của mình,
khinh dễ ngạo mạn người. Nghiệp dụng của nó làm nhơn sanh ra
tội lỗi và chướng ngại tánh "không khinh mạn".
5. Nghi: Nghi
ngờ, do dự. Tánh của Tâm sở này, nghi ngờ không tin những
việc phải, chơn chánh. Nghiệp dụng của nó làm trở ngại việc
lành và chướng ngại tánh "không nghi".
6.Ác kiến:
Thấy biết thuộc về tội ác, nhiễm ô. Tánh của Tâm sở này,
hiểu biết điên đảo, không đúng chánh lý. Nghiệp dụng của nó
gây tạo tội khổ và chướng ngại những hiểu biết chơn chánh.
Ác kiến này có 5
món:
1. Thân kiến:
Chấp Ta (Ngã).
2. Biên kiến:
Chấp một bên, hoặc chấp Ta chết rồi mất hẳn (chấp đoạn),
hoặc chấp Ta chết rồi còn hoài (chấp thường).
3. Tà kiến:
Chấp tà, mê tín, dị đoan.
4. Kiến thủ:
Chấp cứng chỗ hiểu biết của mình là đúng, mặc dù có người
biết sai, chỉ bảo lại cũng không nghe.
5. Giới cấm thủ:
Chấp giữ theo những giới cấm không chơn chánh của ngoại đạo.
Nói rộng ra là chấp theo những tục lệ không hay.
Hai mươi món phiền
não này, là tuỳ thuộc 6 món Căn bản phiền não trên mà sanh
khởi. Vì phạm vi tương ưng của nó có rộng và hẹp không đồng,
nên chia làm ba loại:
I. TIỂU TUỲ,
có 10 món, mỗi món tự lực sanh khởi, phạm vi tương ưng nhỏ
hẹp, nên gọi là "Tiểu".
1. Phẫn:
Giận. Tánh của tâm sở này, khi gặp cảnh trái nghịch, nóng
giận. Nghiệp dụng của nó là hay làm tổn hại người, vật và
chướng ngại tánh không nóng giận.
2. Hận: Hờn.
Khi gặp cảnh nghịch, trước nóng giận rồi sau mới hờn. Tánh
của Tâm sở này là ôm ấp sự oán ghét không bỏ. Nghiệp dụng
của nó là nóng nảy, buồn phiền và hay làm chướng ngại tánh
không hờn.
3. Phú: Che
giấu. Tánh của tâm sở này, vì sợ mất danh giá và tài lợi,
nên che giấu tội lỗi của mình. Nghiệp dụng của nó là hay ăn
năn, buồn và chướng ngại tánh không che giấu.
4. Não: Buồn
buồn. Khi gặp cảnh nghịch, trước giận hờn rồi sau mới buồn.
Tánh của Tâm sở này hay nhớ lại những cảnh trái nghịch đã
qua, rồi sanh buồn phiền. Nghiệp dụng của nó là chướng ngại
tánh không buồn.
5. Tật: tật
đố, ganh ghét. Tánh của tâm sở này hay ganh ghét đố kị những
gì mà người ta hơn mình. Nghiệp dụng của nó là làm chướng
ngại tánh không tật đố và sầu khổ lo buồn.
6. Xan: Bỏn
xẻn. Tánh của tâm sở này, bỏn xẻn, rích rắm, không chịu ban
bố tiền tài hay giáo pháp cho người. Nghiệp dụng của nó là
làm bộ quê mùa, ăn mặt nghèo cực, để tích trử tài sản và làm
chướng ngại không bỏn xẻn.
7. Cuống:
Dối. Tánh của tâm sở này, dối gạt người để lợi mình. Nghiệp
dụng của nó là làm việc không chơn chánh để nuôi sống và
chướng ngại tánh không dối gạt.
8. Siểm: Bợ
đở, nịnh hót. Tánh của tâm sở này, lựa thời thế nịnh hót, bợ
đỡ người. Nghiệp dụng của nó là không nghe lời chỉ giáo chơn
chánh của thầy, bạn và làm chướng ngại tánh không dua nịnh.
9. Hại: Tổn
hại. Tánh của tâm sở này làm tổn hại các loài hữu tình.
Nghiệp dụng của nó là làm bức não người, vật và chướng ngại
tánh không tổn hại.
10. Kiêu:
Kiêu căng. Tánh của tâm sở này, vì thấy mình giàu sang,
quyền tước hoặc tài năng, rồi sanh ra kiêu cách và ngạo
nghễ. Nghiệp dụng của nó là làm nhơn sanh ra nhiễm ô, tội
lỗi và chướng ngại tánh không kiêu căng.
II. TRUNG TÙY,
có hai món là Vô tàm và Vô quý; vì hai món Tâm sở này, duyên
các Tâm sở bất thiện, phạm vi tương ưng của nó trung bình,
nên gọi là "trung tùy".
11. Vô tàm:
Tự mình không biết, xấu hổ. Tánh của tâm sở này, khi làm
việc quấy không biết tự hổ, khinh dễ những người hiền thiện.
Nghiệp dụng của nó là làm tăng trưởng việc ác và chướng ngại
tánh biết xấu hổ.
12. Vô quý:
Không biết thẹn với người. Tánh và tâm sở này, khi làm việc
quấy, không biết thẹn với người, ưa làm việc tội ác. Nghiệ
dụng của nó là làm tăng trưởng việc ác và chướng ngại tánh
biết thẹn.
III. ĐẠI TÙY,
có 8 món sau đây. Tám món Tâm sở này biến khắp các Tâm sở
bất thiện, phạm vi của nó rộng hơn hai món Trung tuỳ trước,
nên gọi là "Đại tuỳ".
13. Trao cử:
Lao chao. Tánh của Tâm sở này làm cho thân tâm chao động
không yên tịnh. Nghiệp dụng của nó là làm chướng ngại Định
và Hành xả.
14. Hôn trầm:
Mờ tối trầm trọng. Tánh của Tâm sở này, khiến cho tâm khi
đối với quán cảnh mờ mịt không sáng suốt. Nghiệp dụng của nó
là làm hướng ngại Huệ và khinh an.
15. Bất tín:
Không tin. Tánh của Tâm sở này là không tin các pháp lành,
làm cho tâm tánh ô nhiễm. Nghiệp dụng của nó hay sanh giải
đãi và chướng ngại tâm thanh tịnh.
16. Giãi đãi:
Biếng nhác trễ nãi, Tánh của Tâm sở này là biếng nhác, không
lo đoạn ác và tu thiện. Nghiệp dụng của nó là làm chướng
ngại tinh tấn và tăng trưởng tánh nhiễm ô.
17. Phóng dật:
Buông lung. Tánh của Tâm sở này phóng túng, buông lung,
không thúc liễm thân tâm để đoạn ác tu thiện. Nghiệp dụng
của nó là làm tăng ác tổn thiện, và chướng ngại tánh không
buông lung.
18. Thất niệm:
Mất chánh niệm. Tánh của Tâm sở này không nhớ cảnh đã duyên.
Nghiệp dụng của nó là làm chướng ngại chánh niệm và sanh tán
loạn.
19. Tán loạn:
Rối loạn. Tánh của Tâm sở này làm cho tâm rối loạn. Nghiệp
dụng của nó là làm chướng ngại chánh định và sanh ra ác
huệ.
20. Bất chánh
tri: Biết không chơn chánh. Tánh của Tâm sở này, khi đối
với cảnh, hiểu biết sai lầm. Nghiệp dụng của nó là làm
chướng ngại cái hiểu biết chơn chánh và sanh ra phạm giới.
Hỏi:_ Ba món
Tâm sở: Trạo cử, Tán loạn và phóng dật khác nhau thế nào?
Đáp:_ Trạo cử
là lao chao; dụ như con ngựa đứng một chổ trong chuồng,
nhưng đầu và mình vẫn lắc qua lắc lại không yên._Tán loạn là
rối loạn; dụ như con ngựa chạy lăng xăng trong chuồng._Phóng
dật là buông lung; dụ như con ngựa đã thoát ra khỏi chuồng,
tuôn vào lúa mạ của người.
Hỏi:_ Bốn món
Tâm sở: Sân, Phẫn, Hận và Não, Hành tướng khác nhau thế
nào?
Đáp:_ Sân là
nổi nóng, dụ như lữa rơm. Phẫn là giận, dụ như lữa củi. Hận
là hờn; dụ như lữa than. Não là buồn, dụ như tro nóng.
Hỏi:_ Siêng
năng làm việc quấy, có phải là Tinh tấn Tâm sở không?
Đáp:_ Không
phải. Siêng năng làm việc quấy là phóng dật Tâm sở.
Bốn món Tâm sở này
không nhất định thiện hay ác, nên gọi là "Bất định".
1. Hối: ăn
năn. Chỗ khác gọi là "Ố tác": ghét việc làm đã qua; cũng là
dị danh của "Hối". Tánh của Tâm sở này, ăn năn việc làm đã
qua. Nghiệp dụng của nó làm chướng ngại Định.
Ăn năn có khi thiện
mà cũng có lúc lại ác. Như ăn năn: Vừa rồi mình sân si đánh
đập người thật bậy quá, như thế là thiện. Ăn năn: Vừa rồi
sao mình không trộm lấy đồ vật của người, như thế là ác.
2. Miên: Ngủ.
Tánh của Tâm sở này làm cho tâm mờ mịt, thân không tự tại.
Nghiệp dụng của nó làm chướng ngại quán tưởng. Ngủ cũng có
khi thiện mà cũng có khi ác: Ngủ phải thời là thiện, còn ngủ
trong khi nghe kinh hay niệm Phật là ác.
3. Tầm: Tìm
cầu. Tâm sở này thiện ác không nhứt định, chỉ tùy theo
trường hợp. Tánh của nó làm cho tâm đối với cảnh danh ngôn
của ý thức (ý ngôn cảnh) sanh khởi thô động. Nghiệp dụng của
nó là làm cho thân tâm chẳng yên.
4. Tư: Chính
chắn xét. Tâm sở này cũng có thiện và ác, tuỳ theo trường
hợp. Tánh của nó làm cho tâm đối với cảnh danh ngôn của ý
thức, sanh khởi tế nhị. Nghiệp dụng của nó làm cho thân tâm
được yên.
Tóm lại, tất cả
chúng sanh hằng ngày tạo nghiệp lành hay dữ, chịu quả báo
khổ hay vui, không vượt ra ngoài phạm vi của 8 món Tâm Vương
và 51 món Tâm sở này.
***
III. SẮC
PHÁP
(Có 11 món)
Sắc
pháp là thuộc về sắc (những cái thuộc về sắc). Sắc có hai
loại: 1. Hình sắc, như dài, ngắn, vuông, tròn, ...2. Màu
sắc, như xanh, đỏ, trắng, vàng, ...
Sắc
có 11 món là 5 căn: Nhãn căn, Nhỉ căn, Tỹ căn, Thiệt
căn, Thân căn và 6 trần: Sắc trần, Thinh trần, Hương
trần, Vị trần, Xúc trần, và pháp trần.
Sắc pháp là tướng
phần ảnh tượng của Tâm Vương và Tâm sở (nhị sở hiện ảnh
cố).
1. Nhãn căn:
Con mắt. Chữ "Căn" có nghĩa là làm chỗ nương cho thức và
phát sanh ra thức. Năm căn, căn nào cũng có hai thứ: 1. Tinh
tế và ở bên trong, gọi là "Thắng nghĩa căn", 2. Thô phù, ở
bên ngoài, gọi là "Phù trần căn".
Hình tướng của con
mắt như trái nho. Nghiệp dụng của nó chiếu soi các sắc.
2. Nhĩ căn:
Lỗ tai. Hình tướng của tai như lá sen non. Nghiệp dụng của
nó hay nghe các tiếng.
3. Ty căn: Lỗ
mũi. Hình tướng của lỗ mũi như hai ngón tay xuổi xuống.
Nghiệp dụng của nó hay ngửi các mùi thơm và hôi.
4. Thiệt căn:
Cái lưỡi. Hình tướng của lưỡi như trăng lưỡi liềm. Nghiệp
dụng của nó nếm các vị và nói năng kêu gọi.
5. Thân căn:
Thân thể. Chữ "thân" có hai nghĩa: Tích tụ các bộ phận và
làm chỗ nương cho các căn. Nghiệp dụng của nó là duyên xúc
trần. Như nặng, nhẹ, trơn, nhám, ...
6. Sắc trần:
Cảnh bị thấy của con mắt. Chữ "trần" có nghĩa nhiễm ô và bụi
bặm. Sắc trần có 25 món: 1. Xanh, 2. Vàng, 3. Đỏ, 4. Trắng,
5. Dài, 6. Ngắn, 7. Vuông, 8. Tròn, 9. To, 10. Nhỏ, 11. Cao,
12. Thấp, 13. Ngay, 14. Xiên, 15. Ánh sáng, 16. Bóng, 17.
Sáng, 18. Tối, 19. Khói, 20. Bụi, 21. Mây, 22. Mù, 23. Cực
lược sắc (sắc rất nhỏ) và cực hánh sắc (sắc rất xa), 24.
Biểu sắc (sắc, có nêu ra được), 25. Sắc hư không.
7. Thinh trần:
Tiếng, cảnh bị nghe của tai. Có 12 loại tiếng: 1. Tiếng: cái
tướng bị nghe của tai (nói chung các tiếng), 2. Tiếng vừa ý,
3. Tiếng không vừa ý, 4. Tiếng bình thường (không ưa ghét),
5. Tiếng loài hữu tình (tiếng nói), 6. Tiếng loài vô tình
(tiếng cây, ...), 7. Tiếng thuộc cả hữu tình và vô tình (như
tiếng trống do tay người ta đánh), 8. Tiếng thuộc về thế tục
nói, 9. Tiếng thuộc về của Thánh giả, 10. Tiếng của ngoại
đạo nói (do Biến kế sở chấp), 11. Tiếng nói chánh (Thánh
ngôn) (như thật có thấy, nghe, hay, biết thì nói có thấy
nghe, hay và biết; không thấy nghe, hay, biết thì nói không
thấy, nghe, hay, biết, như thế gọi là 8 lời nói chánh), 12.
Tiếng vang.
8. Hương trần:
Mùi, cảnh bị ngửi của mũi. Có 6 thứ mùi: 1. Mùi thơm, 2. Mùi
hôi, 3. Mùi không thơm hôi, 4. Mùi từ bản chất sanh (cu sanh
hương), 5. Mùi do chế tạo mà có (hoà hiệp hương), 6. Mùi do
sự biến đổi mà sanh.
9. Vị trần:
Vị, cảnh bị nếm của lưỡi. Có 12 thứ vị: 1. Vị đắng, 2. Vị
chua, 3. Vị ngọt, 4. Vị cay, 5. Vị mặn, 6. Vị lạt, 7. Vị vừa
ý, 8. Vị không vừa ý, 9. Vị bình thường, 10. Vị từ bản chất
sanh, 11. Vị do hoà hiệp chế tạo mà có, 12. Vị do biến đổi
ma sanh.
11. Pháp trần:
Cái bóng dáng của năm trần còn lưu lai trong ý thứic. Nghĩa
là khi mắt không còn thấy sắc, tai không còn nghe tiếng, cho
đến thân không còn biết xúc, mà trong ý thức vẫn nhớ lại
bóng dáng của 5 trần; cái bóng dáng đó là pháp trần. Trong
Duy thức gọi là "lạc tạ ảnh tử" (cái bóng rớt lại). Đây là
cảnh bị biết của ý thức. Pháp trần có 5 loại:
1. Cực lược sắc: Sắc
rất nhỏ như vi trần.
2. Cực hánh sắc: Sắc
rất xa, như thấy tăm tăm mù mù.
3. Định quả sắc:
Những sắc tướng do tu định hiện ra. Như các vị Bồ Tát, khi
nhập định hiện ra nước, lửa, thế giới, ...
4. Vô biểu sắc: Sắc
không nêu bày ra được; như khi thọ giới, ý thức lãnh thọ mà
có, nên cũng gọi là "thọ sở dẫn sắc" (sắc do thọ giới dẫn
sanh).
5. Biến kế sở chấp
sắc: Sắc do ý thức vọng tưởng phân biệt sanh, chẳng thật.
BÀI THỨ
MƯỜI
IV. TÂM
BẤT TƯƠNG ƯNG HÀNH PHÁP (Có 24 món)
Tâm bất tương ưng
hành pháp, gọi tắt là "Bất tương ưng hành". Chữ "Hành pháp"
là những pháp thuộc về "Hành uẩn". Hành uẩn là một trong năm
uẩn.
Chữ "Hành" là sanh
diệt dời đổi; chữ "Uẩn" là chứa nhóm. Hành uẩn có 2 loại:
1. Tương ưng hành
uẩn, tức là các tâm sở (51 món). Chữ "Tương ưng" là ưng
thuận với Tâm Vương.
2. Bất Tương ưng
hành uẩn, tức là 24 món "Bất tương ưng hành" sau đây; 24 món
này không tương ưng với tâm, chúng chỉ y ba phần: Tâm Vương,
tâm sở và sắc pháp mà giả thành lập.(Tam, phần vị sai biệt
cố).
1. Đắc: Được,
trái với mất. Thí như "Tôi được đồng xu", cố nhiên phải có
đồng xu là "sắc pháp", và nhãn thức để thấy, ý thức để phân
biệt là tâm pháp, cùng với các tâm sở chung khởi là tâm sở
pháp; phải đủ cả ba phần như thế, mới thành nghĩa "được".
2. Mạng căn:
Thân mạng. Do nghiệp đời trước kéo dẫn, làm cho thần thức
thọ thân, sống trong một thời gian hoặc lâu hay mau, gọi là
"mạng căn".
3. Chúng đồng
phận: Cũng như chữ "đồng loại". Các loại chúng sanh hoặc
hữu tình hay vô tình, loài nào đồng với loài nấy. Như loài
người đồng với người; loài vật đồng với vật.
4. Di sanh tánh:
Những loài sanh ra khác với Thánh nhơn, tức là phàm phu; chỗ
khác gọi "Phi đắc": Chúng phàm phu không được Thánh quả. Bởi
thế nên gọi "Di sanh tánh" hay "phi đắc" đều được cả.
5. Vô tưởng định:
Định này diệt hết các tâm vương và tâm sở của 6 thức trước.
Song đây chỉ gọi "Vô tưởng" là vì "tưởng" làm chủ động vậy.
6. Diệt tận định:
Định này không những diệt hết các tâm vương và tâm sở của 6
thức trước, mà diệt luôn cả phần tạp nhiễm của tâm vương tâm
sở về thức thứ Bảy.
Vô tưởng định là
định của phàm phu; còn Diệt tận định là định của Thánh
nhơn.
7. Vô tưởng báo:
Người ở cõi Dục tu Vô tưởng định, sau khi mạng chung, đặng
báo thân ở cõi trời Vô tưởng.
8. Danh thân:
Tên hay danh từ. Có danh từ đơn và danh từ kép.
9. Cú thân:
Câu. Do ráp nhiều tiếng thành câu; câu có ngắn và dài.
10. Văn thân:
Chữ. Chữ là chỗ y chỉ của danh từ và câu.
11. Sanh:
Sanh ra. Nghĩa là từ hồi nào đến giờ không có, nay mới có.
12. Trụ: Ở.
Những vật đã sanh ra rồi, còn lưu lại trong một thời gian ,
chưa diệt.
13. Lão: Già,
suy yếu gần chết.
14. Vô thường:
Không thường, biệt danh của chết.
15. Lưu chuyển:
Xoay vần, nhơn quả trước sau nối nhau không dứt.
16. Định vị:
Nhơn quả lành, dữ kkhác nhau, không lộn lạo.
17. Tương ưng:
Ưng thuận với nhau. Như nhơn nào quả nấy, cân xứng với
nhau.
(Hỏi:
Cả 24 món, đều gọi là "Bất tương ưng hành" tại sao món thứ
17 này lại gọi là "Tương ưng"?_Đáp: Nói "Bất
tương ưng" là để phân biệt 24 món này, không phải là tương
ưng tâm sở. Còn về món thứ 17 này mà gọi là "Tương ưng", là
do Sắc, Tâm và Tâm sở hoà hợp mà nói, nên không đồng với
"Tương ưng tâm sở" trước).
18. Thế tốc:
Các pháp hữu vi xoay vần mau lẹ như chong chóng.
22. Số: Số
lượng. Như: một, hai, ba, bốn cho đến trăm, ngàn ..
23. Hoà hợp tánh:
Các duyên hoà hợp không có trái nhau.
24. Bất hoà hợp
tánh: Những pháp chống trái, không hoà hợp với nhau.
Nói tóm lại, từ
trước đến đây đã kể 94 pháp: 8 món Tâm vương, 51 món Tâm sở,
11 món Sắc pháp, 24 món Bất tương ưng hành, đều thuộc về
pháp hữu vi có sanh diệt biến đổi. Sáu pháp sau đây thuộc về
vô vi.
Chữ "hữu vi" là
những gì có tạo tác, có sanh diệt, không thường còn. "Vô vi"
là những gì không tạo tác, không sanh diệt, không tăng giảm,
vắng lặng thường còn.
***
V. VÔ VI PHÁP
(CÓ 6 MÓN)
Pháp Vô vi không
sanh diệt, không biến đổi, không phải như các pháp hữu vi là
Tâm vương, Tâm sở, Sắc pháp, Bất tương ưng hành có sanh diệt
biến đổi. Do các pháp hữu vi (94 món) diệt rồi, thì pháp vô
vi mới hiện bày (Tứ, sở hiển thị cố).
Thật ra, vô vi không
phải có 6 pháp, song vì theo từng khía cạnh của nó để giải
thích, nên đặt ra 6 tên.
1. Hư không vô
vi: Chơn như hay Pháp tánh, không thể dùng ý thức suy
nghĩ hay lời nói luận bàn được. Nó phi sắc, phi tâm, không
sanh diệt, không cấu tịnh, không tăng giảm nên gọi là "Vô
vi".
Bởi nó không ngã,
không pháp, rời các cấu nhiễm, rỗng rang như hư không, nên
gọi là "Hư không vô vi".Đây là theo thí dụ mà đặt tên.
2. Trạch diệt vô
vi: Do dùng trí huệ Vô lậu, lựa chọn diệt trừ hết các
nhiễm ô, nên chơn như vô vi mới hiện. Vì thế nên gọi là
"Trạch diệt vô vi".
3. Phi trạch diệt
vô vi: Vô vi không cần lựa chọn diệt trừ các phiền não.
Có hai nghĩa:
a) Tánh chơn như vốn
thanh tịnh, không phải do lựa chọn diệt trừ các phiền não
nhiễm ô mới có, nên gọi là "Phi trạch diệt".
b) Các pháp hữu vi
tạp nhiễm, vì thiếu duyên không sanh khởi, nên pháp vô vi
được hiện. Bởi thế nên gọi "Phi trạch diệt".
4. Bất động diệt
vô vi: Đệ tứ thiền đã lìa được ba định dưới, ra khỏi tam
tai (đao binh tai, hỏa tai, thuỷ tai) không còn bị mừng,
giận, thương, ghét ...làm chao động nơi tâm, nên gọi là "Bất
động diệt".
5. Thọ tưởng diệt
vô vi: Khi được Diệt tận định, diệt trừ hết "thọ" và
"tưởng" tâm sở nên gọi là "Thọ tưởng diệt vô vi".
6. Chơn như vô
vi: Không phải Vọng, gọi là Chơn (không biến kế sở
chấp); không phải điên đảo gọi là Như (không y tha khởi),
tức là thật tánh của các pháp (Viên thành thật).
Trong luận Đại thừa
trăm pháp này, ngoại nhơn hỏi hai câu:
Tất cả pháp là
gì?
Thế nào là không
thật (vô ngã)?
Từ trước đến đây,
Luận chủ lược nói 100 pháp, để trả lời câu hỏi thứ nhất rồi,
sau đây trả lời về câu hỏi thứ hai.
PHẦN THỨ HAI
NÓI "KHÔNG THẬT"
(VÔ NGÃ)
Chánh văn
Nói "không thật" (vô
ngã), tóm có 2 loại:
Nhơn (người ) không
thật.
Pháp (vật) không
thật.
Người đời chấp tất
cả các pháp thật có, tức là chấp Ngã (Thật). Chấp Thật (Ngã)
có hai:
1. Nhơn (người)
thật.
2. Pháp (vật) thật.
Chấp thân này thật
có, gọi là Nhơn thật. Chấp núi sông tất cả các cảnh vật bên
ngòai thật có, gọi là Pháp thật.
Do chấp thật có
(ngã) nên sanh ra tham, sân, si rồi tạo ra các nghiệp, sanh
tử luân hồi trong lục đạo. Bởi thế nên Phật nói:
"Tất cả Pháp không
thật".
Nói "Tất cả pháp"
tức là bao trùm cả loài hữu tình và vô tình. Loài hữu tình
không thật có là "Nhơn không thật". Loài vô tình như hoàn
cảnh, sự vật không thật có, là "Pháp không thật".
KẾT LUẬN
Từ trước đến đây,
lược nói 100 pháp thì đã bao trùm Nhơn và Pháp. Phàm phu
chấp cả Nhơn và Pháp đều thật có. Tiểu thừa chỉ chấp Pháp là
thật có.
Trong luận này nói:
8 món Tâm vương là tự thể của thức và hơn tất cả (nhứt thế
tối thắng cố). 51 món tâm sở là phần sở hữu và tương ưng của
thức (dữ thử tương ưng cố). 11 món sắc pháp là phần hình
bóng, do Tâm vương và Tâm sở hiện ra (nhị sở hiện ảnh cố).
24 món Bất tương ưng hành là do ba phần: tâm vương, tâm sở
và sắc pháp, phân chia ngôi thứ sai khác mà giả lập (tam,
phận vị sai biệt cố). 6 món vô vi là do 4 món hữu vi trên
(tâm vương, tâm sở, sắc pháp và bất tương ưng hành) diệt hết
mà hiện bày ra, tức là thật tánh của thức (tứ, sở hiển thị
cố).
Bởi thế nên biết:
Người đời chấp "Nhơn thật có" và "Pháp thật có" đều không
ngoài thức. Do đó mà đức Thế Tôn nói:
"Tất cả Pháp không
không thật" (Vô ngã).
Và "Muôn Pháp Duy
thức".
Viết xong lại
Phật Học Đường Nam Việt
Rằm tháng 6 năm
Kỷ Hợi (1959)