Bài Thứ 7
Mười Tông
Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa (tiếp theo)
4.- Duy Thức Tông Hay
Là Pháp tướng Tông
I.- Duyên Khởi Lập
Tông
Tất cả chúng sanh đều vô
thỉ đến nay, vì chấp có thật ngã, thật-pháp mà tạo ra các
nghiệp, rồi bị các nghiệp dắt dẫn nên xoay vần mãi theo bánh xe
sanh tử luân-hồi.
Nếu con người hiểu rỏ
một cách chắc chắn rằng: tất cả các pháp trong vũ-trụ, nhân và
ngã đều không thật có, chỉ do thức biến hiện, như cảnh trong
chiêm bao, mà không còn gây phiền não, tạo nghiệp-chướng nữa,
thì tất không còn bị ràng buộc, trong bánh xe sanh tử luân hồi.
Ðể phá trừ hai món chấp
thật-ngã và thật-pháp, Ðức-Phật có rất nhiều phương-pháp, có rất
nhiều pháp thiền, mà Duy-Thức-Tôn hay Pháp-tướng-tôn là một pháp
tu rất cần thiết, rất hiệu-nghiệm để đi đến giải-thoát.
II.- Ðịnh Nghĩa
Tôn này thuộc về
Ðại-thừa, phân-tách vũ-trụ, vạn hữu đều do thức biến hiện.
Duy-thức tôn, hay
Pháp-tướng tôn, như danh từ đã chỉ-định, không nói về tâm tánh
chơn như, mà chỉ nói về tướng của thức, tức cũng là tướng của
pháp. Biết rằng từ chơn vọng hòa hiệp biến thành hình tướng thức
A-Lại-Da, rồi tư thức A-Lại-Da sanh ra các tướng tâm-pháp
.v.v...tôn này quán-sát hành tướng của các pháp ấy, nên gọi là
'' Pháp-tướng tôn '' .
Ðứng về phương diện
nguyên-nhân mà nghiên-cứu, tôn này chủ-trương rằng vũ-trụ
vạn-hữu, hay là tất cả các pháp đều do duy-thức biến-hiện, ngoài
thức không còn một yếu tố nào khác nữa nên gọi là ''Duy thức tôn
'' .
Vậy ''Pháp-tướng tôn''
hay ''Duy thức tôn'' cũng đều để gọi pháp-môn mà tôn-chỉ chỉ là
nghiên cứu, quan-sát hành-tướng và nguyên nhân sanh-khởi của vạn
pháp. Nguyên nhân sanh-khởi ấy là ''Thức ''.
III.- Căn Cứ các kinh
sách Sau Ðây Lập Ra Duy Thức Tông
Như tất cả các tôn phái
khác, Duy-thức tôn cũng căn-cứ vào căn luận của Phật mà được
thành lập ra. Ðó là 6 bộ kinh và 11 bộ luận sau đây:
Sáu bộ kinh là:
1.- Kinh Giãi-thâm-mật
2.- Kinh Hoa-nghiêm
3.- Kinh Như-lai xuất
hiện công-đức trang-nghiêm
4.- Kinh A-tỳ-đạt-ma
5.- Kinh Lăng-nghiêm
6.- Kinh Hậu-nghiêm
(hay Mật-nghiêm).
Vị sáng lập ra Duy-thức
chính là Bồ Tát Di-lặc. Ðức-Di-Lặc sau khi tu chứng được
Duy-thức, đã ứng theo lời thỉnh-cầu của Ngài Vô-trước, nói Luận
Du-già Sư-địa.
Hai vị có công lớn trong
việc phát-triển tôn này ở Ấn Ðộ là hai anh em nhà Vô-trước và
Ngài Thế-thân. Ngài Vô-trước dựa theo bộ ''Du-già Sư-địa '' làm
ra bộ luận ''Hiển-dương Thánh-giáo'', và ''Nhiếp Ðại-thừa ''.
Ngài Thế-thân lại có công đức lớn lao hơn nữa, tóm tắt lại nghĩa
lý Duy-thức, là bộ luận '' Duy-thức tam thập tụng ''. Về sau, có
mười vị Ðại Luận-sư, sớ giải bộ Duy-thức tam-thập tụng, làm
thành mười bộ luận chính về Duy-thức .
Ðến đời Ðường, Ngài
Huyền-trang từ Trung Hoa sang Ấn Ðộ thỉnh kinh và tham-cứu về
Phật Giáo. Môn học sở trường của Ngài là Duy-thức. Sau khi trở
về Trung Hoa, Ngài lượm-lặt tinh-hoa của 10 bộ đai luận nói
trên, dịch thành Hán-văn, dưới nhan đề là: ''Thành Duy-thức Luận
'', gồm cả thảy 10 quyển. Ngài Khuy-cơ là đệ-tử lớn của Ngài
Huyền-trang sớ-giải thêm rỏ nghĩa-lý bộ'' Thành Duy-thức Luận''
làm ra thành 60 quyển, dưới nhan đề là ''Thành Duy-thức
thuật-ký''.
Tóm lại, ở Ấn Ðộ, vị có
công lớn nhất trong sự phát huy Duy-thức tôn là Ngài Thế-thân.
Còn ở Trung Hoa, vị có công lớn nhất trong việc truyền bá
Duy-thức tôn là Ngài Huyền-trang.
Về phương diện sách vở
dạy về Duy-thức, từ xưa đến nay được các học giả xem là
chánh-tôn Duy-thức, thì có ba bộ sau đây:
1.- Ðại-thừa Bách pháp
minh môn luận (tác giả là Ngài Thế-thân). Nội dung bộ luận này
giải-thích các danh từ chuyên-môn của Duy-thức, nói rỏ 100 pháp
và hai món vô-ngã. Người học Duy-thức nếu không học bộ luận này
trước, thì không dễ gì hiếu được Duy-thức (bộ luận này đã được
dịch ra tiếng Việt và chúng tôi lấy nhan đề là: Duy-thức nhập
môn).
2.- Duy-thức tam thập
tụng (cũng do Ngài Thế-Thân tạo ra). Trong bộ luận này Ngài
Thế-Thân dùng 30 bài tụng để giải thích về nghĩa lý chánh của
Duy-thức, luận này chia làm bốn phần:
a). Phần thứ nhất nói
về ba thức năng-biến:
-Thức năng-biến thứ nhất
là thức A-lai-da (thức tứ tám).
-Thức năng-biến thứ hai
là thức Mạt-na (thức thứ bảy).
-Thức năng-biến thứ ba
là sáu thức năng trước.
b). Phần thứ hai nói
về các tâm-sở:
-Biến-hành (5 món)
-Biệt-cảnh (5 món)
-Thiện (11 món)
-Căn-bổn phiền-não (6
món)
-Tùy phiền-não (20 món)
-Bất-định (4 món).
c). Phần thứ ba
giải-đáp các nghi vấn:
-Làm sao biết được
phận-vi sanh-khởi của các thức?
-Nếu không có ngoại
cảnh, thì sao có sanh tử và các sự phân biệt?
-Nếu không có ngoại
cảnh, thì sao có chúng hữu-tình sanh-tử?
-Nếu chỉ thức, tạo sao
Phật lại nói có ba tánh?
-Nếu có ba tánh, tại sao
Phật nói ba món vô-tánh?
d).Phần thứ tư nói về
đệ tu Duy-thức:
Từ khi phát tâm tu
Duy-thức cho đến khi chứng được Duy-thức tánh thành Phật,
hành-giả phải trải qua năm địa vị, thứ lớp như sau đây:
-Vị Tư-lương (như lương
thực cửa người đi đường).
-Vị gia hạnh (gia công
tấn hàng).
-Vị thông-đạt (thấu suốt
đường lối).
-Vị tu-tập (tu-hành
tập-luyện).
-Vị cứu cánh (đến cùng
tột địa vị tu chứng).
3.- Bát-thức qui-cũ tụng
(tác giả là Ngài Huyền-trang).Nội dung của quyển này, Ngài
Huyền-trang dùng 12 bài tụng để toát yếu lại nghĩa-lý Duy-thức,
gồm có bốn phần:
a). Phần thứ nhất nói về
năm thức đầu
b). Phần thứ hai nói về
thức thứ sáu .
c). Phần thứ ba nói về
thức thứ bảy
d). Phần thứ tư nói về
thức thứ tám.
Mỗi một phần có ba bài
tụng, hai bài tụng đầu nói hành-tướng các thức, khi hành-giả còn
ở địa vị phàm-phu; bài tụng thứ ba nói hành-tướng các thức, khi
lên quả-vị Thánh.
Tóm lại, ba bộ luận trên
này, người muốn học Duy-thức, không thể bỏ qua được.
IV.- Chủ Trương Của Duy Thức Tông
Chủ-trương của Duy-thức
tôn là phá trừ vọng chấp ngã, pháp (biến kế sở chấp), bằng cách
chỉ cho chúng sanh thấy tất cả các pháp đều nương nơi thức hiện
ra (y-tha khởi), và mục đích cuối cùng là đưa chúng sanh trở về
với tánh chân thật (viên-thành thật). Thế-giới hiện-tượng này,
vì mê-mờ, chúng ta tưởng là chắc thật, nhưng hteo chủ trương của
Duy-thức học, thì vũ-trụ vạn-hữu đều là Duy-thức biến-hiện. Cũng
như sơn hà, đại địa trong cảnh chiêm bao, không có cảnh vật ấy.
Vậy, nếu chỉ cho chúng
sanh thấy được một cách rỏ ràng, vũ-trụ vạn-hữu do thức
biến-hiện ra như thế nào, thì chắc chắn chúng sanh sẽ không còn
chấp thật ngã, thật pháp nữa. Cũng như khi biết cảnh vật trong
chiêm bao là do tâm chiêm-bao ánh ra thì không còn mê muội nơi
cảnh chiêm-bao nữa. Mà không còn chiêm-bao tức đã thức-tỉnh.
Cũng thế, khi không còn chấp thật ngã, thật pháp nữa, tất sẽ
thấy được cảnh chân-thật của vũ-trụ vạn-hữu, (tánh viên
thành-thật). Đó là chủ trương của Duy-thức tôn.
Nói một cách vắn tắt,
chủ trương của Duy-thức tôn là quy vũ-trụ vạn-hữu trở về
Duy-thức tướng, rồi từ Duy-thức tướng trở về Duy-thức tánh (tâm
chơn-như hay tánh viên-giác).
V.- Thành Phần Của
Hiện Tượng Giới
(vũ-trụ vạn-hữu gồm cả
tâm và pháp ).
Phân Loại Theo Duy Thức
Tông
Hiện tượng giới, tức là
vạn sự vạn vật trong vũ-trụ (gồm cả tâm lẫn vật), tuy nhiên
không thể kể xiết được, nhưng dưới nhãn-quan của nhà Duy-thức
học, có thể phân ra thành năm loại; năm loại này lại chia thành
100 thành phần hay 100 pháp.
Năm loại lớn ấy là:
1.- Tâm-vương tức là ''
tướng '' của thức, thuộc về tâm-giới.
2.- Tâm-sở tức là ''
dụng '' của thức, cũng thuộc về tâm-giới.
3,- Sắc-pháp tức là
''ảnh-tượng'' của thức, thuộc về sắc-giới.
4.- Bất-tương-ứng-hành
tức là ''phận-vị sai khác'' của thức, không phải thuộc hẳn về
tâm mà cũng không thuộc về sắc-giới, nhưng gồm cả hai phần mà
thành.
5.-Vô-vi tức là ''tánh''
của thức, cũng gọi là ''chơn như ''
Bốn loại trên:
tâm-vương, tâm-sở, sắc-pháp, bất tương ưng hành đều thuộc về "
hữu vi",tức là " tướng ,có sanh diệt.
Loại thứ năm, là pháp
"vô vi", không sanh diệt, không tạo tác, tức là "tánh" của các
pháp, hay chơn như.
Năm loại lớn trên đây,
mỗi loại lại chia làm nhiều thành phần, có những tác dụng hành
tướng riêng biệt, mà chúng ta cần nghiên cứu kỷ sau đây:
1.-Tâm vương:Tâm
vương gồm có tám món, mỗi món có những đặc tánh, khả năng và
nhiệm vụ riêng biệt, như mỗi ông vua làm chủ mỗi nước, nên gọ là
tâm vương. Tám phần của tâm vương là:
a) Nhãn thức
b) Nhĩ thức
c) Tỹ thức
d) Thiệt
thức
đ)Thân thức
e)
Ý thức
ê)
Mạt-na-thức
h)A-lại da thức
Chúng ta có năm giác
quan, mỗi giác quan có một sỡ năng, một cái biết riêng: khi ta
nhìn một cái hoa, biết cái hoa ấy màu vàng hay đỏ v.v...cái biết
ấy thuộc về con mắt, nên gọi là nhãn thức. Khi chúng ta nhge
đàn, biết tiếng đàn ấy cao hay thấp, to hay nhỏv.v...cái biết ấy
thuộc về tai, nên gọ là nhĩ thức. Khi ta ngữi một mùi gì, biết
được mùi ấy thơm hay hôi, cái biết ấy thuộc về mũi, nên gội là
tỷ thức. Khi chúng ta nếm một món ăn gì, biết được món ăn ấy mặn
hạy lạt, chua hay ngọt, cái biết ấy thuộc về lưỡi, nên gọi là
thiệt thức. Khi chúng ta đụng vào một vật gì, biết vật ấy cứng
hay mềm, nóng hay lạnh, cái biết ấy thuộc về thân thể, nên gọi
là thân thức.
Năm cái biết trên này:
Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt và Thân thức, thuộc về năm giác quan bên
ngoài nên chúng ta dễ nhận.
Ba cái biết sau này: Ý
thức, Mạt-na-thức, A-lại-da-thức, thuộc về nội tâm, và theo thứ
lớp, ẩn sâu vào trong, tế nhị hơn, nên khó nhận khó biết. Tuy
thế, đối với nhà duy thức học, người ta cũng có thể nhận biết
được rành rẽ hành tướng
phân biệt được phạm vi
hoạt động, sở trường , sở đoản và công năng của mỗi thứ.
Trước tiên, chúng ta nói
đến thức thứ sáu hay "Ý thức".
Ý thức có hai phạm vi
hoạt động:
-Khi nào ý thức hiệp với
năm thức trước, tiếp xúc với cảnh, thì gọi là "Ngủ của ý thức",
hay là "Minh liễu ý thức". Trong lúc mắt thấy sắc, tai nghe
tiếng v.v...mà không có ý thức phụ vào (để ý) thì mặc dù mắt vẫn
thấy, tai vãn nghe, nhưng thấy nghe không được rõ ràng. Sách nho
chép:"Tâm bất tại diện, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn"
(nếu không chú ý, thì dù xem cũng chẵng thấy, lắng cũng chẵng
nghe). Trái lại, khi có ý thức phụ vào, thấy nghe v.v...đều minh
bạch.
-Khi nào ý thức làm việc
một mình, không cùng hợp tác với năm thức trước, thì gọi là "Ðơn
độc ý thứ" hay "Ðộc đầu ý thức".như trong lúc năm thức trước
không tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị và xúc, mà trong tâm
trí vẫn lưu lại bóng dáng (pháp trần) của năm trần. Khi chúng ta
nhớ tưởng lại, thì cảnh ngủ trần in như hiện rõ ràng ở trước, đó
là công dụng của " Ðộc đầu ý thức". Thức thứ sáu này, khi tính
tóan, suy nghĩ việc gì, thiện hay ác, hay hay dở, cũng đều lanh
lợi đảm đang hơn các thức khác, nên trong duy thức nói: "Công vi
thủ, tội vi khôi"(Có công nó đứng đầu, mà có tội nó cũng đứng
đầu).
Thức thứ sáu, tuy sở
trường là khôn ngoan lanh lợi, nhưng lại có sở đoản là bất
thường, không phải lúc nào cũng hiện diện, mà lại có khi gián
đoạn, ẩn phục, như trong lúc bị chụp thuốc mê, chết giả, ngủ
say, hay nhập vô tưởng định v.v...Qua những giai đọan ấy, ý thức
lại hiện trở lại.
Vậy trong lúc ý thức
không hiện, nó núp ở đâu?
Theo duy thức, khi đó,
thức thứ sáu trở về gốc của nó là ý căn, tức là thức thứ bảy hay
thức Mạt-na. Theo tâm lý học thì cũng có thể gọi là tiềm thức.
Thức thứ bảy này có hai
công năng:
-Chấp ngã:
-Làm căn bản cho Ý thức
thứ sáu.
Nó có công là đem các
pháp hiện hành bên ngoài ''truyền'' vào tạng thức và đem các
pháp chủng tử bên trong ''tống'' ra ngoài nên nó có tên là
''truyền tống thức''. Sự chấp ngã của thức này và của thức thứ
Sáu, có thô và tế khác nhau. Khi nào để ý bảo thủ bản ngã, như
khi ra trận bắn nhau với địch quân, khi đánh lộn, hay tìm một kế
gì để sanh nhai, thì sự chấp ngã ấy thuộc về thức thứ Sáu. Thực
ra không có lúc nào chúng ta không chấp ngã, sự chấp ngã vẫn
thường trực trong chúng ta. Nhưng nó âm thầm, sâu kín, tiềm
trực, nên chúng ta không nhận thấy được. Ðến lúc bất ngơ, đột
nhiên xãy ra một sự việc gì đó có nguy hại đến tánh mạng ta, như
bất thần có người rình rập, hay đi ra đường bị nhành cây gãy sắp
rơi xuống đầu...trong những lúc ấy, tuy thức thứ Sáu không kịp
để ý can thiệp, đối phó mà ta vẫn tự tránh né, bảo thủ cái ngã.
Ðó là sự chấp ngã của thức tứ bảy.
Ngoài bảy thức nói trên,
còn có một thức thứ tám tế nhị, sâu kín mênh mông hơn nữa, đó là
thức A lại da, Tàu dịch là tàng thức, nghĩa là thức ''Tích
chứa''.
Từ nhỏ đến lớn chúng ta
đọc rất nhiều sách, tiếp xúc với nhiều sự vật, rồi thời gian cứ
tuần tự trôi qua, chúng ta tưởng đã quên mất rồi. Thế mà không !
Mỗi khi nghĩ dến thì danh từ, hình ảnh của những vật xưa củ hiện
ra rỏ ràng như một cuốn phim quay lại ở trước mắt. Những danh từ
hình ảnh ấy, vì sao mấy chục năm qua mà vẫn còn lại? Tất nhiên
phải có một cái kho vô tận chứa lại, nên mới không mất vậy! Kho
vô tận này trong duy thức tôn gọi là tàng thức (thức chứa).
Ðể cho dễ nhớ hành tướng
và công năng của tám thức nói trên, cổ nhân có làm bài kệ rằng:
Nguyên văn:
Bát cá đệ huynh, nhứt cá si
Ðộc hữu nhứt cá, tối linh tinh
Ngủ cá môn tiền tô mãi mại
Nhất cá gia trung tác chủ y.
Dịch nghĩa:
Anh em tám chú một
người si (thức thứ bảy)
Một mình ý thức rất
tinh ranh (thức thứ sáu)
Năm chàng ngoài cửa
lo buôn bán (năm thức trước)
Làm chủ trong nhà,
thức lại da (thức thứ tám).
2.- Tâm sở:Tâm sở là tánh
sở hữu, phụ thuộc của Tâm vương, cũng như ông quan trong triều,
phụ thuộc dưới quyền sai sử của ông vua, hay những nhân viên phụ
thuộc dưới quyền sử dụng của vị Bộ trưởng. Tâm sở có tất cả 51
pháp, chia làm sáu loại như sau:
1.- Biến hành Tâm sở:
Biến là phổ biến, hành là lưu hành; Biến hành Tâm sở nghĩa là
những tâm sở có công năng phổ cập lưu chuyển khắp cả tám thức
(tâm vương), với thức nào nó củng tương ưng được cả. Biến hành
Tâm sở gồm có 5 pháp là: Xúc, Tác ý, Thọ,Tưởng và Tư.
2.-Biệt cảnh Tâm sở:
Biệy là riêng biệt, Biệt cảnh Tâm sở là những tâm sở riêng mỗi
cảnh khác nhau, như Dục tâm sở duyên riêng với cảnh mà mình ưa
muốn; Huệ tâm sở riêng với cánh mà mình quan sát...chứ không
phải như Biến hành tâm sở. Biệt cảnh Tâm sở gồm có 5 pháp là :
Dục, Thắng giải, Niệm, Ðịnh và Huệ.
3.- Thiện Tâm sở:
Thiện Tâm sở là tâm sở lành và có công năng phát sanh những điều
lành mà thôi. Thiện tâm sở gồm có 11 pháp là: Tín, Tàm, Quý, Vô
tham, Vô sanh, Vô si, Tinh tấn, Khinh an, Bất phóng dật, Hành xã
và Bất hại.
4.-Căn-bản phiền-não
tâm sở: những tâm-sở này gây phiền não, rối loạn cho chúng
sanh. Ðây là những phiền-não làm cội gốc cho các phiền-não phát
sinh, nên gọi là căn bản phiền-não. Căn bản phiền-não bao gồm có
sáu pháp là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác-kiến.
5.- Tùy phiền-não tâm-sở:
Những tâm-sở này nương tựa, phát sanh từ các phiền-não căn bản
tâm sở nói trên, nên gọi là tùy phiền-não. Những tâm sở căn bản
phiền-não trên là gốc mà những tâm sở phiền-não này là ngọn. Tùy
phiền-não tâm sở gồm có 50 pháp là: Phẫn, Hậu, Phú, Não, Tật,
Xan, Cuốn, Siển, Hại, Kiêu, Vô-tàm, Vô-quí, Trạo-cử, Hôn-trầm,
Bất-tín, Giải-đãi, Phóng-dật, Thất-niệm, Tán-loại,
Bất-chánh-triều.
6.- Bất định tâm sở:
Bất-định nghĩa là không nhất định; bất định tâm sở là những tâm
sở không nhất định thiện hay ác; không đứng hẳn về một phía
thiện hay ác; như các pháp nói trên. Bất định tâm sởn gồm có bốn
pháp là: Hối, Miên,Trầm, Tư.
3.-Sắc pháp:
Sắc-pháp tức
là những pháp có thể hư nát và có tánh cách chướng ngại.
Sắc-pháp là sự phối hợp của năm căn và sáu trần, cộng tất cả là
11 pháp:
Năm căn là: Nhãn, nhĩ,
tĩ, thiệt, thân.
Sáu trần là: Sắc, thinh,
hương, vị, xúc, và pháp trần.
4.- Bất tương-ưng
hành pháp:
Các pháp này không thuộc về sắc mà cũng không thuộc về tâm;
nhưng chúng nó không thể rời sắc và tâm mà có được. Thí dụ như
''đắc'' (được) là một ''bất tương-ưng pháp''. ''Được'' không thể
là sắc mà cũng không thể nào là tâm. Nhưng khi nói ''được'', tức
là hàm cái nghĩa ''được'' một cái gì, nhưng ''được'' một đồng
bạc chẳng hạn, và phải có một yếu tố thứ hai là ''ai'' được.
Ðồng bạc thuộc về sắc, ''ai'' thuộc về tâm. Còn ''được'' không
phải là sắc và tâm mới có. Ðó là một thí-dụ để chúng ta suy-gẫm
về những pháp Bất-tương-ưng khác, như mạn-căn, sanh, trụ, dị,
diệt, phương, thế tốc .v.v.. gồm tất cả là 14 pháp.
5.- Vô-vi pháp:
Như đọan
trên đã có nói, pháp vi-vô là pháp không sanh, không diệt, không
tạo-tác, không thay đổi, xa lìa tướng hư vọng., tức là thể-tánh
của các pháp. Các pháp vô-vi, đối với phàm-phu thì khó có thể
nói-năng, nghĩ bàn, so sánh được. Tuy thế, để có một ý-niệm về
thể-tánh chơn-như, nhà chủ trương Duy-thức dựa vào sắc tướng,
danh tự để hình dung các pháp vô-vi. Do đó, mà đặt sáu pháp
vô-vi sau đây:
a). Hư không vô-vi:
Muốn nói thể-tánh chơn-như, xa lìa các đều chướng ngại, giống
như hư-không.
b).Trạch-diệt vô-vi:
Trạch là lựa chọn, Diệt là diệt trừ, nghĩa là nhờ các sự lựa
chọn đứng-đắn của Trí-huệ vô lậu mà diệt trừ được sự phiền não
nhiễm trước , chứng ngộ cứu cánh.
c). Phi-trạch diệt
vô-vi: trên thì nói nhờ sự lựa chọn, đứng đắn của trí-huệ mà
diệt trừ được sự phiền não nhiếm trước. Nhưng nói thế không có
nghĩa rằng pháp-tánh nhờ có sự diệt trừ phiền-não mới có được.
Pháp-tánh vốn đã có sẳn, xưa nay là vốn là thanh-tịnh, không có
nhiễm ô, không có sanh diệt, cho nên gọi là phi-trạch diệt
vô-vi. Lại có nghĩa thứ hai là vì thiếu duyên, nên các phiền-não
nhiễm-ô không hiện; vì thế mà pháp vô-vi thanh-tịnh tự hiện ra,
không cần có sự trạch diệt.
d).Bất động diệt
vô-vi: Khi đã xa lìa các phiền-não, về cõi tịnh lự thứ ba,
thuộc về sắc-giới, dứt bỏ những sự vui buồn, thường tương ưng
cùng xả thọ, không còn bị lay động bỡi một sắc tướng gì nữa, nên
gọi là bất động diệt vô-vi: Khi đã xa lìa các phiền não , về cỏi
tịnh lự thứ ba, thuộc về sắc giới, dứt bỏ những sự vui buồn,
thường tương ưng cùng xả, thọ, không còn bị lay động, bởi một
sắc tướng gì nữa, nên gọi là ''Bất động diệt vô-vi ''.
e). Tưởng thọ diệt
vô-vi: Khi đã xa lìa được phiền não ở cõi thứ ba thuộc về vô
sắc giới, các tâm sở '' tưởng, thọ'' đều tịch diệt, chơn như
hiện ra, nên gọi là '' Tưởng thọ diệt vô-vi''.
f) Chơn như vô-vi:
Năm pháp vô-vi trên này là hình dung các đức tánh của chơn như;
pháp thứ sáu này là "Chơn như vô-vi", mới chỉ đích danh bản thể
chơn như.
Ðể người đọc dễ nhớ 100
pháp vừa kể trên này, cổ nhân có làm một bài kệ, tóm tắt như
sau.
Nguyên văn:
Sắc pháp thập nhất, tâm
pháp bát
Ngũ thập nhất cá tâm sở
pháp
Nhị thập tứ chủng bất
tương ưng
Sáu món vô vị, thành
trăm pháp
Dịch nghĩa:
Sắc pháp mười một, tâm
pháp tám
Năm mươi mốt món tâm sở
pháp
Hai mươi bốn món bất
tương ưng
Sáu món vô-vi , thành
trăm pháp .
VI.- Phương Pháp tu hành
Như chúng ta đã biết vũ
trụ vạn hữu tuy vô cùng phức tạp, nhưng nhà duy thức học có thể
sắp xếp thành 100 loại (bách pháp). Một trăm loại này, tuy hình
tướng công năng có khác nhau, chung cục lại cũng đều Thức cả.
Vậy phương pháp tu hành
của nhà duy thức học là làm thế nào để chứng ngộ cái lý nói
trên, thế nhập với cái chơn lý ấy. Ðể đạt được mục đích này nhà
duy thức học dạy phải thực hành 5 pháp quán sau đây, gọi là
''Ngũ trùng duy thức quán''. với năm pháp quán này,hành giả đi
từ thô đến tế, từ phức tạp đến tinh thuần, để cuối cùng chỉ còn
thấy có thức tánh, tức là tâm chơn như.
1.- Bỏ cái hư giả,
lưu lại cái hư thật.(Khiển hư, tồn thật): Bỏ cái hư
giả tức là các vọng chấp thật có ngã, có pháp do cái tánh ''biến
kế chấp'' tạo ra. Lưu lại cái chân thật, tức là cái tánh
''y-tha-khởi'' và ''viên-thành''. Nói một cách khác cho dễ hiểu,
trong pháp quán này, hành giả phải quán ngã và pháp là không
thật (hư) để phá trừ cái chấp thật có. Hành giả lại quán tánh y
tha, viên thành là thật có (thật) để phá trừ chấp không. Trong
lối quán duy thức từng thứ nhất này, ''có'' và ''không'' đối đãi
nhau, để bỏ ''biến kế chấp'' lưu lại ''y tha'' và ''viên
thành''.
2.- bỏ cái lộn lạo,
lưu lại cái thuần túy (xả lạm lưu thuần): Cái lộn lạo nói ở
đây là tướng phần (nội cảnh); có thuần túy ở đây là kiến phần.
Bỏ cái lộn lạo, lưu cái thuần túy, tức là bỏ phần ''tướng'' bị
duyên (sở duyên) mà lưu lại cái phần ''kiến'' là phần năng
duyên. Ðây là quán thứ hai về lối duy thức, lấy tâm (năng) và
cảnh (sở) đối đãi với nhau, và mục đích là bỏ cảnh (xả lạm) mà
chỉ giử lại tâm (lưu thuẩn). Lối quán thứ nhất là bỏ vọng cảnh
ngoài tâm; lối quán thứ hai này là bỏ cảnh nội tâm là tướng phần
của thức.
3.- Ðem cái ngọn trở
về gốc (nhiếp mạt quy bổn): Cái ngọn ở đây tức là muốn nói
tướng phần và kiến phần, còn gốc ở đây tức là tự chứng phần.
Kiến phần và tướng phần là ''dụng'' đều y theo tuệ chứng phần mà
khởi ra, nên gọi là ngọn; còn tự chứng phần là ''thể tánh'' cho
nên gọi là gốc. Lối quán duy thức thứ ba này là đem ''dụng'' và
''thể'' đối đãi với nhau, mà mục đích là bỏ cái phần thuộc tương
đối ít quan trọng là dụng (kiến phần), chỉ giử lại cái phần căn
bản là thể (tự chứng phần).
4.- Giấu cái liệt làm
hiển lộ cái thắng (ẩn liệt hiển thắng): Cái Liệt muốn nói ở
đây tức là các tâm sở, cái Thắng tức là các tâm vương. Tâm sở
phụ thuộc vào cái tâm vương nên gọi là liệt, hay kém ; tâm vương
là phần sai sử chủ động, nên gọi là thắng, hay hơn. Lối quán duy
thức thứ tư này là đem 51 món tâm sở so sánh với 8 món tâm
vương, và mục đích là dẹp bỏ các món tâm sở và làm hiển lộ 8 món
tâm vương.
5.- Bỏ thưc tướng về
thức tánh (khiển tướng chứng tánh): Bốn tầng quán Duy thức
trên, tuy rốt ráo chỉ còn giử lại các món tâm vương, nhưng tâm
vương cũng có sự tướng và lý tánh. Lối quán thứ năm này là đem
sự tướng đối đãi với lý tánh, mà mục đích cuối cùng là bỏ sự
tướng của thức (thức tướng) để trở về với lý tánh của thức (thức
tánh), tức cũng là chứng nhập Pháp tánh hay tâm Chơn như (quý
độc giả muốn hiểu rỏ thêm, xin xem bài duy thức quán đạị cương
của Ngài Thái Hư Pháp sư).
Ngoài năm lớp quán Duy
thức của cổ nhơn mà chúng tôi vừa kể trên, còn có một lối tu nữa
rất dễ dàng và thiết thực, hợp với đại chúng là chúng ta thường
quan sát và kiểm điểm nội tâm của mình.
Chúng ta hãy độc kỹ về
hai lọai Phiền não tâm sở và Thiện tâm sở trong Duy thức, để
nhìn rỏ mặt mày tướng trạng, công dụng, tánh tình và danh tự của
chúng. Rồi hằng ngày chúng ta kiểm điểm ở nội tâm: Mỗi khi hiện
lên một tâm niệm gì, chúng ta kiểm điểm và quan sát thật kỹ tâm
niệm này thiện hay ác (phiền não). Nếu tâm niệm thiện thì chúng
ta nuôi dưỡng cho nó phát-triển thêm, còn nếu tâm niệm ác thì
chúng ta mau mau lo diệt trừ đi. Chúng ta biết sữa đổi tâm niệm
xấu (tu tâm) và nuôi dưỡng tánh tốt (dưỡng tánh) như thế thì
chúng ta sẽ thành được Thánh hiền (xem quyển tu tâm và dưỡng
tánh).
VII.- Hành Giả Phải
Trải Qua Năm Ðịa Vị Trong Khi Tu Duy Thức
Người tu học pháp môn
Duy thức, cũng như kẻ bộ hành, từ khi nãy sinh ra cái ý định
muốn đi cho đến tới đích, phải trải qua năm giai đoạn hay năm
địa vị như sau:
1.- Vị tư lương:
Tức là thời gian chuẩn bị như người sắp đi xa, phải chuẩn bị
lương thực trước lúc lên đường.
Trong Duy thức Tam thập
tụng:
Nguyên văn:
Nãi chí vị khởi thức
Cầu trụ Duy thức
tánh
Ư nhị thủ tùy miên
Do vị năng phục diệt
Nghĩa là: Từ khi chưa
phát tâm cho đến khi phát tâm cầu an trụ Duy thức tánh, trong
thời gian đó, hai món thủ (ngã chấp, pháp chấp) hãy còn miên
phục, hành giả chưa có thể chinh phục diệt trừ được.
2.- Vị gia hạnh:
Hành giã gia công tấn hạnh, cũng như người định đi xa, sau khi
đã chuẩn bị đủ hành lý, cách bước lên đường.
Trong Duy thức tam thập
tụng có chép.
Nguyên văn:
Hiện tiền lập thiểu
vật
Vị thị duy thức
tánh
Dĩ hữu sở đắc cố
Phi thật trụ duy thức
Nghĩa là: Nếu hiện tiền
còn thấy mình an trụ duy thức tánh, dù nhỏ nhiệm bao nhiêu thì
cũng chưa phải thật an trụ Duy thứ tánh, vì còn có chổ sở đắc
vậy.
3.- Vị Thông đạt:
Hành giả thông suốt đường lối tu hành, cũng như người bộ hành
nghiên cứu kỹ lưỡng con đường mình sắp đi, biết rỏ đoạn nào tốt,
đoạn nào xấu, đoạn nào nguy hiểm, đoạn nào không ...
Trong Duy thức tam thập
tụng có chép:
Nhược thời ư sở duyên
Trí đô vô sở đắc
Nhĩ thời trụ Duy
Thức
Ly nhị thủ tướng cố.
Dịch là:
Nếu khi đối sở duyên
Trí đều không sở đắc
Mới thật trụ Duy
Thức
Vì đã lìa hai thủ.
4.- Địa vị tu tập.Trí
thế gian bị phiền não chướng và sở tri chướng làm trở ngại. Hai
cái chướng này làm cho sự chứng quả Giải Thoát Bồ Đề trở nên khó
khăn và nặng nề mệt nhọc nên còn được gọi là hai trọng chướng.
Nguyên văn;
Vô đắc bất tư nghì
Thị xuất thế gian
trí
Xả nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc chuyển
y.
Nghĩa là: cảnh giới "vô
dắc" này không thể nghĩ bàn; đây là trí xuất thế gian vô lậu. Do
đã xa lìa được hai món thô trọng (phiền não chường và sở triều
chướng), hành-giả chứng được hai món chuyển y (Bồ-Ðề và Niết
bàn).
5.-Vị cứu cánh:
Quả vị rốt ráo của sự tu chướng, tức là quả Phật , cũng như
người đi đường đã hòan toàn tới chỗ.
Trong Duy-thức tam thaạp
tụng có chép:
Nguyên văn:
Thử tức vô lậu giới
Bất tư nghị thiện
thường
An lạc, giải thoát
thân
Ðại Mâu-ni danh pháp
.
Nghĩa là: đây là cảnh
giới vô lậu, cũng gọi là: a) Bất tư nghị, b)Thiện, c) Thường, d)
An lạc, đ) Giải thoát thân, e) Ðại Mâu ni, cũng gọi là pháp thân
(quý vị muốn rõ thêm, xem cuốn Duy-thức học, tập Và tức là
Duy-thức tam thập tụng).
VII.-Kết Quả Tu Chứng
1.- Bốn trí :
a) Thành-sở-tác trí:
Hành-giả: sau khi đã dày công tu luyện pháp mê vọng, năm thức
trước của chúng tánh là nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt và thân thức, duyên
với cảnh giới năm trần là sắc, thanh, hương, vị và xúc trần; nhờ
thế mà chúng ta mới thấy được sắc, nghe được tiếng , ngữi được
mùi, nếm được vị và cảm giác được cảnh giới chung quanh. Nhưng
cái giá trị và tầm hoạt động cũng như công dụng của năm thức ấy
thât nhỏ hẹp và thường hay sai lạc, nhận giả làm thật. Do đó,
chúng ta tạo ra các nghiệp sanh tử luân hồi, quay cuồng trong
lục đạo. Ðối với người tu Duy-thức khi đã thành tựu rồi, thì năm
thức này chuyển ra thành cái trí "thành sở tác", nghĩa là cái
trí này có những công năng vô cùng rộng lớn như thị hiện thần
thông biến hóa, hiện ra ba món hóa thân, để tùy theo căn cơ của
chúng sanh mà hóa độ.
b) Diệu quán sát trí:
Khi đang còn ở trong mê thức thứ sáu chỉ biết so đo, tính toán
trong phạm vi nhỏ hẹp, tầm hoạt động không thể bao quát cùng
khắp được, do đó nên nó thường hay sai kạc, lầm lẫn, và lôi kéo
thân và miệng làm nhiều điều tội lỗi, tạo ra các nghiệp sanh tử
luân hồi. Ðến khi đã chứng được Duy-thức quả rồi, thì cái thức
thứ sáu này chuyển thành cái trí diệu quan sát, nghĩa là cái trí
quan sát rất là mầu nhiệm, có thể thấy được hằng sa thế giới;
trong mỗi thế giới thấy được toàn thể chúng sanh, trong mỗi
chúng sanh thấy được bao nhiêu tâm niệm v.v...Và nhờ sự quan sát
huyền diệu rốt ráo như thế mà tùy theo nguyện vọng, tâm lý, làm
lợi lạc cho chúng sanh.
c)Bình đẳng tánh trí:
Trong khi mê, thức thứ bảy chấp kiến phần của thức thứ tám là
ngã. Khi đã chấp "ngã" tất nhiên chỉ biết có ngã là quan trọng
nhất, và mọi ý nghĩ, mọi hành động, mọi lời nói gì cũng đều quy
tụ chung quanh cái ngã. Điều gì thích hợp với cái ngã thì yêu
thương, chiều chuộng, cưng dưỡng, điều gì trái với cái ngã thì
khinh ghét, hất hủi, chà đạp. Do đó, gây ra không biết bao nhiêu
là bất công, bất bình đẵng làm xáo trộn, điêu đứng phá hũy cõi
trần gian này. Ðến khi chứng được Duy-thức quả, thức thứ bảy này
không còn chấp ngã nữa, mà chỉ thấy mình và người , cho đến loài
vật đều như nhau. Khi đã có được trí bình đẵng rồi thi sẽ dùng
tâm từ bi hiện đủ phương tiện, để tùy theo căn cơ mỗi loài mà
hóa độ, làm cho chúng sanh đều được giải thoát.
d). Ðại viên cảnh
trí: Khi còn mê-mờ bị thức thứ Bảy chấp ngã và bị các
chủng-từ phiền-não hữu-lậu, nhiễm-ô chi-phối, nên thức thứ Tám
không được sáng suốt thanh-tịnh. Ðến khi nhờ tu-hành, chứng được
Duy-thức tánh, thì thức thứ Tám này trở thành như một cái gương
lớn được lau chùi sạch bụi-bặm, có thể phản chiếu khắp cả mười
phương thế-giới, nên gọi là ''Ðại viên cảnh trí''.
2.- Hai trí:
Bốn trí trên này, tuy có
phân chia khác nhau, tùy theo công năng của mổi thứ, nhưng rốt
lại, có thể gồm hai trí sau đây là Căn-bản trí và Hậu-đắc trí.
a). Căn-bản trí:
Tức là trí thể, chư Phật có chúng sanh đều sẳn có. Trí này cũng
gọi là Vô phân-biệt trí.
b). Hậu đắc trí:
Tức là trí dụng. Sau khi chứng quả Thánh, được Căn-bản trí rồi
mới được Hậu-đắc trí. Trí này cũng gọi là Sai-biệt trí; nghĩa là
trí phân biệt các pháp do tánh y-tha-khởi mà có sai khác.
Tóm lại, thành quả
rốt-ráo của người tu học Duy-thức là chuyển đỗi được tám thức
thành bốn trí là: Thành-sở-tác trí, Diệu-quán-sát trí,
Bình-đẳng-tánh trí vá Ðại-viên-cảnh trí. Ðứng về mặt thể và dụng
mà xét thì bốn trí này chỉ gồm lại làm hai là: Căn-bản trí và
Hậu-đắc trí. Khi đã được hai trí này hành-giả đã chứng được
Duy-thức tánh, ngộ nhập chơn-tâm, hoàn thành quả Phật.
VIII.-
Lợi Ích Thiết Thực Trong Khi Học Và Tu Duy Thức
Kết quả thu hoạcgh được
như trên, hành-giả tất phải trải qua nhiều kiếp tu-hành. Nhưng
chúng ta đừng thấy con đường đi quá xa-xôi, diệu vợi mà nản chí.
Vã lại không phải đợi đến khi thu hoạch được kết-quả cuối cùng
mới nhận chân được sự lợi ích của pháp môn này. Ngay trong khi
đang tu học, môn Duy-thức này cũng đã đem lại cho chúng ta nhiều
lợi ích thiết thực cho đời sống hiện tại rồi.
1.- Chúng ta tự biết
được mình một cách rỏ-ràng: Từ hồi nào đến giờ, chúng ta cho
thân tâm này là của tánh, tưởng rằng chúng ta đã hiểu rõ bản
thân tánh nhiều lắm. Nhưng nghĩ cho kỹ, chúng ta chỉ biết sơ sài
về ta mà thôi. Về thân xác này, chúng ta chỉ thấy được những bộ
phận ở bên ngoài như mặt, mũi, tay, chân v.v...Muốn biết các
bộ-phận bên trong, chúng ta tất phải học khoa phẩu thuật.
Về tâm-tánh chúng ta lại
càng dốt hơn nữa. Nhiều khi chúng ta tưởng hiểu rõ nội tâm của
mình, kỳ thật đã lầm nhiều lắm. Vậy muốn rõ biết tâm-tánh một
cách rõ ràng, chúng ta hãy tu học Duy-thức. Như phần trên đã
nói. Duy-thức học đã phân tích, chia-chẻ một cách tường tận,
tỉ-mỉ, tâm-lý của chúng ta , liệt kê ra thành nhiều loại; mỗi
loại có tên riêng, hành-tướng, công-năng, phạm-vi hoạt-động khác
nhau như thế nào. Học Duy-thức, chúng ta thấy được phần nội tâm
một cách rỏ ràng như người cầm gương soi, thấy tất cả những gì ở
trên mặt. Chúng ta sẽ biết rõ những tâm-niệm xấu-xa để diệt-trừ
(tu tâm), những tánh-tình tốt đẹp để bồi dưỡng (dưỡng tánh). Do
đó, chúng ta sẽ trở thành người hiền lương, đạo-đức.
2.- Chúng ta thấy
được cái chánh-phủ nội tâm của chúng ta: Tâm-lý của mỗi
người mới xem qua thật vô cùng phức-tạp; nhưng nếu suy nghiệm
cho kỹ, chúng ta thấy vẫn có một tố chức gần giống như một liên
bang; Tâm-vương như một vị Tổng-thống của liên bang; các
Tâm-vương khác như các vị đứng đầu của tiểu-bang; các tâm-sở
Biến-hành như một vị Bộ-trưỏng; các Tâm-sở Biệt-cảnh như các vị
Tỉnh-trưởng, Quận-trưởng; các Tâm-sở Bất-định như các vị
dân-biểu không đảng phái; các Tâm-sở Thiện như các vị công-thần
liêm-khiết hay các vị công-chức tân tâm vì dân vì nước; các
Tâm-sở phiền nảo như những tham quan ô lại, hay cướp giựt lưu
manh v.v... còn các chủng-tử (thiện, ác, vô ký) thì như toàn thể
dân chúng trong liên bang.
Với một liên-bang nội
tâm như thế, nếu chúng ta biết sắp đặt điều hòa bộ máy
chính-quyền nội tâm cho vững vàng, thì tất nhiên liên-bang ấy sẽ
vững mạnh, hùng-cường, và văn minh tiến bộ. Trái lại, nếu chúng
ta không nắm vững được bộ máy hành-chính nội-tâm, thì liên-bang
ấy sẽ loạn lạc, đói khổ và không sớm thì muộn, sẽ rơi vào vực
thẳm tối tăm.
Duy-thức học giúp cho
chúng ta thấy rõ chánh-phủ nội-tâm của mình, để tự điều hòa cho
được thạnh trị, thái-bình.
3.- Chúng ta trau
giồi được một đức tánh tốt đẹp là tánh ''kiên nhẫn'': Học
Duy-thức, trước tiên chính là chúng ta học đức tính kiên nhẫn.
Thật vậy, người không kiên nhẫn không thể học Duy thức đến nơi
đến chốn được, vì môn học này chia chẻ tâm lý một cách tỷ mỷ,
phiền toái; mỗi tâm niệm đều cũng nhiều danh từ chuyên môn,và
được nghiên cứu kỹ lưỡng về tánh chất, hành vi, tướng
trạng...những người không chịu khó, tánh tình hời hợt, nóng nảy,
không thể nào thành công được trên đường tu học Duy-thức. Cho
nên chỉ những người kiên nhẫn mới thành công, hay ngược lại,muốn
thành công thì phải luyện tập đức tính kiên nhẫn. Từ xưa đến
nay, trong đạo hay ngoài đời, những người được thành công vĩ đại
đều nhờ đức tánh kiên nhẫn.
4.- Chúng ta giữ thái
độ bình tĩnh tự tại: Như các đọan trước đã nêu rõ, mọi sự
vật trong vũ trụ này đều do thức biến, chớ không chắc thật. Do
đó, khi gặp điều may mắn, chúng ta không kiêu hãnh, ngạo mạn,
cống cao; khi gặp cảnh đau buồn như tử biệt sanh ly...chúng ta
bớt khổ não, kêu than, giữ được thái độ bình tĩnh và cũng cho
biết được cõi đời là giã tạm, như mây bay, như gió thoảng,nên
chúng ta không say đắm, tham lam, luyến tiếc, và nhờ thế, chúng
ta bớt dần những nghiệp giữ, chóng được giải thóat.
5.- Chúng ta nắm vững
lòng tin: Học Duy-thức, chúng ta thấy được giá trị cao siêu
của nó, nên lại càng tin tưởng mạnh mẽ vào tôn giáo của chúng
ta, một tôn-giáo không phải dựa trên giáo điều độc đoán, mà dựa
trên thực nghiệm, và lấy ngay nội tâm của con người làm nền tảng
cho sự tu học của mình.
IX. Kết Luận.
Chúng tôi đã trình bày
xong những điểm chính yếu của Duy-thức tôn giáo hay Pháp tướng
tôn. tất nhiên, với phạm vi những bài giảng này, chúng tôi không
thể đi sâu vào chi tiết, trình bày một cách rộng rải, đầy đủ
hơn. Quý vị nào muốn nghiên cứu sâu xa về môn học này, xin hãy
tim trước tiên ba bộ sách chính tông của Duy-thức là: Ðại-thừa
Bá Phát minh môn luận (Duy-thức nhập môn), Duy-thức Tam Thập
Tụng và Bát Thức Quy Củ tụng; sau đó sẽ nghiên cứu thêm những
tập sách khác hiện đã xuất bản rất nhiều ở Việt-Nam .
Tuy thế, sau khi xem qua
nội dung bài này, quý vị có thể quyết định được con đường tu
hành của quý vị rồi. Nếu quý vị thấy đây là một con đường tu
hành thích hợp và thiết thực lợi ích đối với mình thì xin hãy hạ
thủ công phu ngay, nghĩa là ngày đêm quan sát kiểm thảo tâm thức
của mình. Như quý vị đã biết, trong mỗi chúng ta đều có sáu đầu
đảng giải quyết là sáu món Căn bản phiền não. Sáu đầu đảng này
lại có hai mươi tên bộ hạ nguy hiểm là 20 Tùy phiền não. Chính
bọn giặc cướp này, từ vô thỉ đến nay phá hoại chúng ta vô cùng
vô tận, làm cho chúng ta điêu đứng và trầm luân trong biển khổ
sanh tử luân hồi. Nếu ngày nay biết được sự tàn phá của chúng,
quyết tâm diệt trừ, không cho chúng hoành hành, chắc chắn cuộc
đời chúng ta an cư lạc nghiệp (xong cuốn tu tâm).
Hơn nữa, bên cạnh những
bọn giặc cướp ấy, chúng ta còn có những anh hùng nghĩa sĩ,
chuyên làm các việc thiện là 11 món tâm sở thiện. Với những vị
hảo hán này, chúng ta phải luôn luôn ân cần trọng đãi, khuyến
khích cổ võ để cho họ càng thêm hăng hái và mạnh mẽ làm các việc
lành (xem quyển Dưỡng Tánh).
Một khi các tâm niệm xấu
xa hoàn toàn tiêu diệt, các đức hạnh tốt hoàn toàn đầy đủ, chúng
ta sẽ thành Phật quả.
Bài Thứ 8
Mười Tông Phái Phật
Giáo Ở Trung Hoa
(tiếp theo)
7.-Hoa
Nghiêm Tông hay là Hiền Thủ Tông
I. Duyên Khởi Lập
Tông
Tôn này thuộc về
Ðại-thừa, căn cứ theo giáo-nghĩa trong kimh Hoa-nghiêm là một bộ
kinh cao nhất mà Ðức-Phật đã nói ra, nên gọi là Hoa-nghiêm tôn.
Người sáng lập ra tôn
này là Ngài Ðỗ-thuận một vị Hòa-thượng đời Ðường. Ngài đã thâu
góp ý-nghĩa mầu-nhiệm của kinh Hoa-nghiêm, làm ra ba bộ
"Pháp-giới quán".
Người kế vị Ngài
Ðỗ-thuận là Ngài Trí-nghiễm, ở chùa Trí-tướng. Ngài Trí-nghiễm
đã làm ra nhiều bộ luận có giá trị để giải bày nghĩa lý của tôn
này như các bộ: ''Sưu huyền ký'', ''thập huyền môn'', ''Ngũ thập
yếu vấn đáp''.
Vị thừa kế Ngài Trí-
nghiễm và đã có nhiều công nghiệp lớn đối với Tôn này là Ngài
Pháp tạng, cũng gọi là Hiền-Thủ quốc sư. Ngài đã làm ra bộ
''Thám huyền ký'' và nhiều chương số khác, khiến cho Hoa nghiêm
tôn rất được thạnh-hành và phát triển trong đời Ngài. Do đó, Tôn
này cũng thường gọi là Hiền thủ tôn. Sau khi Ngài Hiền thủ qua
đời được ít lâu, kinh Hoa nghiêm được dịch lại bằng tiếng Hán
văn bộ mới, Ngài Trừng quán, tức là Thanh lương quốc sư, dựa
theo ý nghĩa bộ Hoa nghiêm mới dịch này mà làm ra bộ ''Hoa
nghiêm số sao'', bày giải nghĩa lý rộng rãi, sâu xa mầu nhiệm
của kinh Hoa nghiêm. Vì thế, Hoa nghiêm tôn lại càng được người
đời sùng mộ, nhất là trong giới thượng lưu trí thức nước Tàu.
II.-Tôn Chỉ Và Giáo Lý Căn Bản
Trong các bộ kinh của
Ðức Phật, kinh Hoa-Nghiêm là bộ kinh có ý nghĩa cao siêu, mầu
nhiệm nhất. Chỉ những vị đại đệ tử, căn cơ minh mẫn, lanh lẹ mới
có thể hiểu thấu được. Do đó, Hoa-Nghiêm tôn chỉ thích hợp với
những ai đã có một căn bản Phật pháp vững chắc và đã quen với
lối suy luận trừu tượng của giáo lý nhà Phật. Ðem một giáo lý
uyên thâm của Phật pháp ra trình bày trong một tập sách phổ
thông như thế này, thật khó mà nói cho rõ ràng, đầy đủ nghĩa lý
của Hoa-Nghiêm tôn. Tuy thế, để có một bộ sách gồm đầy đủ mười
tôn phái của Phật giáo Trung Hoa, và để quý độc giả có đủ tài
liệu để so sánh sự sai khác của mỗi tôn, chúng tôi không thể
không nói đến Hoa-Nghiêm tôn, trong khi điểm qua tôn chỉ và giáo
lý căn bản của mười tôn. Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày một cách
giản dị, gọn gàng về giáo lý đặc sắc của tôn này, và cũng mong
mõi quý độc giả theo dõi một cách chăm chú sự trình bày này, ngõ
hầu vấn đề được sáng tỏ.
Tôn này được gọi là
''Viên giáo'', nghĩa là giáo lý Viên dung hoàn toàn đầy đủ.
Tôn của chủ trương
''pháp giới duyên khởi'' , nghĩa là vũ trụ vạn hữu trùng trùng
do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nói một cách khác, mọi sự vật
trong vũ trụ bao la, là một vật nhỏ như hạt bụi, cho đến một vật
lớn như trăng sao, đều nương vào nhau, làm nhân làm quả, lớp lớp
không cùng tột, dung thông nhau, ảnh hưởng lẫn nhau mà có. Mỗi
pháp, trong vũ trụ không thể tồn tại riêng rẽ, biệt lập mà tự có
được. Cái này có là nhờ cái kia, cái kia có là nhờ cái này. Cái
này và cái kia tương quan, tương duyên, lớp lớp không cùng tột,
cho nên gọi là ''vô tận duyên khởi'' hay ''trùng trùng duyên
khởi''.
Vì là trùng trùng duyên
nhau, nên một là hết thảy, hết thảy là một, mọi sự vật trong vũ
trụ đều dung thông nhau. Và do đó, trong kinh Hoa-Nghiêm đã nêu
lên pháp môn ''sự sự vô ngại pháp giới''.
Ðể hiểu rõ nghĩa lý của
pháp môn này, chúng tạ hãy đi theo pháp quy nạp gồm có 4 giai
đoạn sau đây, cũng gọi là 4 pháp giới:
1.- Sự pháp giới:
Sự là nói về các hình tướng sai biệt các pháp trong vũ trụ, các
pháp đều có giới hạn rõ ràng như nước lạnh, nước đá, nước sôi,
hơi nước, đều có tướng trạng khác nhau. Ðó là đứng về sự mà quan
sát vũ trụ vạn hữu hay nói theo danh từ đạo Phật là "Sự
pháp-giới ".
2.- Lý pháp-giới:
Lý là nói về các phần bên trong, vô hình của sự vật. Ðây tức là
lý tánh bình đẳng, chổ nương tựa cho tất cả sự tướng; lý dung
thông cho khắp tất cả, nước lạnh, nước đá, hơi nước, tuy tướng
trạng khác nhau, nhưng thể tánh vẩn là một (nghĩa là gồm H2+O).
Vũ trụ vạn hữu không chỉ có phần sự tướng mà còn phần lý tánh
nữa. Ðó tức là "Lý pháp-giới".
3.- Lý sự vô ngại
pháp-giới: Như trên chúng tạ đã thấy, mỗi pháp đều có Sự và
Lý, do nơi Sự mà rõ, sự nương vào Lý mà thành. Lý và Sự dung
thông, như nước tức là sóng, sóng tức là nước. Lý, Sự trong
pháp-giới cũng dung thông, vô ngại. Ðó là lý nghĩa của "Lý, Sự
vô ngại pháp-giới ".
4.- Sự vô ngại
pháp-giới: Trong pháp-giới, có hằng hà sa số sự vật, hình
tướng tuy khác nhau, giới hạn tuy bất đồng nhưng lý tánh dung
thông bình đẳng, không có phân chia ngăn cách. Nhờ lý, mà sự sự
được dung thông vô ngại. Như các vật dụng bằng điện, nào quạt
điện, đèn điện, máy lạnh, ủi điện, lò xo .v.v...tuy mỗi vật đều
có hình dáng, công dụng sai khác, nhưng đều thông nhau qua luồng
điện chi phối lẩn nhau, ảnh hưởng qua lại. Một thí dụ khác:
nhiều hồ chứa nước, hình dáng, rộng hẹp khác nhau, nhưng ăn
thông với nhau bằng những ống nước, do đó sự đầy vơi, nhớp sạch
của một hồ này đều liên quan mật thiết đến tất cả các hồ khác.
Trên đây là những thí dụ
vô cùng thô hiển, cốt để gợi lên một ý niệm về "Sự sự vô ngại
Pháp-giới " thôi, chứ không đúng hẳn. Trong hai thí dụ trên,
chúng ta thấy những vật dụng điện khí hay những hồ nước để hình
dung cho Sự Sự trong pháp giới; và lấy những luồng điện hay
luồng nước để hình dung cho Lý của pháp-giới; thí dụ như thế,
người ta sẽ tưởng rằng Sự và Lý là hai loại khác nhau, có thể
phân tách ra được. Nhưng thật ra Lý và Sự không thể phân tách ra
được: trong Sự có Lý, trong Lý có Sự. Sự ,Lý chẳng qua là hai
phương diên của một vấn đề vô cùng tế nhị, mà lý trí của chúng
ta đã phân tách ra để tạm nghiên cứu đó thôi.
Ðể tóm tắt ý nghĩa của 4 pháp-giới này,
chúng tôi xin nói một cách giản dị như sau:
Pháp-giới gồm có triệu sự vật khác nhau,
như A, B, C ...(Sự pháp-giới ).
Trong mỗi sự vật đều có lý tánh bình
đẳng, mà chúng tôi hình dung là L (lý pháp-giới).
Lý tánh bình đẳng ấy dung thông với tất
cả mọi sự vật, như A=L; B=L; C =L. (Lý, Sự vô ngại pháp-giới).
Nhờ lý tánh dung thông
với mọi sự vật, mà mọi sự vật trong vũ trụ trở thành dung thông
nhau, vô ngại đối với nhau, như A =C ...(Sự sự vô ngại
pháp-giới).
Sáu Tướng Và 10 Lý
Huyền diệu Của các Pháp
Trong pháp-giới, sở dỉ
Sự sự được vô ngại, dung thông là đều do các pháp có đủ ''sáu
tướng'' và "mười lý huyền diệu" sau đây:
Sáu Tướng Viên
Dung
Dựa theo bộ kinh
Hoa-Nghiêm, Ngài Bồ Tát Thế Thân đã làm ra bộ "Thập địa luận" để
giải thích nghĩa lý của sáu tướng (Lục tướng). Sáu tướng này
được gọi là Viên-dung, vì nó có những đức tính viên mản,
dung-thông vô-ngại. Sáu tướng của sự vật trong vũ trụ ấy là:
1.- Tổng tướng:
tổng tướng là cái tướng bao trùm tất cả, tổng cộng tất cả các
tướng sai biệt. Như khi ta nói đến cái nhà, là gồm tất cả
cột-kèo, tường mái, đá, gạch ...vậy cái nhà tức là tổng tướng.
2.- Biệt tướng:
biệt tướng là nói các tướng riêng biệt; nhiều biệt tướng cộng
lại thành tổng tướng. Như các biệt tướng trong cái nhà là: cột,
kèo, mái, tường, gạch ...Ðã có Tổng tức là phải có Biệt; nếu
không có biệt thì cũng không thể lấy cái gì mà gọi là tổng.
3.- Ðồng tướng:
Ðồng tướng là cái tướng chung cùng, dung hòa với nhau, không
ngăn ngại nhau, không trái chống nhau. Như kèo, cột, tường, mái,
tuy khác nhau, nhưng không ngăn ngại nhau mà vẩn đồng hướng
chung về một cái nhà.
4.- Dị-tướng:
Dị-tướng là các tướng riêng biệt, cái này, cái kia, hình tướng
không giống nhau, mặc dù vẫn cùng nhau dung hòa để gánh vác một
nhiệm vụ chung; như cột, kèo, tường , mái trong một cái nhà,
không cái nào giống cái nào, dị tướng không phải là biệt tướng,
cũng như đồng tướng không phải là tổng tướng.
Như một trăm đồng bạc là
tổng tướng. Tổng tướng này là tổng cộng của các tờ bạc: một tờ
50 đồng, hai tờ 20 đồng, một tờ 10 đồng (50+40+10=100). Những tờ
giấy bạc 50, 20,10 là biệt tướng. Những tờ giáy bạc này to, nhỏ,
hình ảnh, màu sắc khác nhau, là dị tướng. Mặc dù hình tướng khác
nhau, nhưng cũng là những tờ bạc cả, tánh chất "bạc" là đồng
tướng.
5.- Thành tướng:
Thành-tướng là tướng thành tựu. Sự chung cùng đễ thành ra một
cái gì, đó là thành-tướng. Như cái nhà là sự thành tựu của các
cái cột, kèo, tường, mái ...vậy cái nhà, đứng về phương diện
công dụng đễ ở, là thành tướng của các cột, kèo, tường,
mái...nếu lấy thí dụ 100 đồng, thì số tiền này là thành tướng
của những tờ 50 đồng, 20 đồng và 10 đồng. Nhờ sự kết họp của
những số tiền này mà có được số bạc 100 đễ mua được một vật gì
đó, như thế là thành tướng.
6.- Hoại tướng:
Hoại tướng là cái tướng độc lập của các pháp. Như cột, kèo,
tường, mái trong khi hợp tác với nhau, đễ thành cái nhà, thì vẫn
giữ cái địa vị riêng của nó là cột, kèo, tường, mái chứ không
phải vì thành cái nhà mà chúng nó không còn là cột, kèo, tường,
mái nữa. Cũng như trong khi hợp thành số bạc 100 đồng, các tờ
giấy bạc 50, 20, 10 đồng vẫn là những tờ giấy bạc 50, 20, 10
đồng vẫn giữ cái giá trị riêng của mổi thứ.
Sáu tướng này phân ra
làm ba đối, gọi là "Tam đối lục tướng ".
-Tổng, Biệt cùng đối
nhau thuộc về Thể.
- Ðồng, Dị cùng đối
nhau thuộc về Tướng.
- Thành, Hoại cùng
đối nhau thuộc về Dụng.
Nếu chúng ta lấy con sư
tử bằng vàng làm ví dụ thì toàn thể thành hình của nó là tổng
tướng; mỗi bộ phận riêng lẽ như tai, mắt, mũi lưỡi là biệt
tướng; chất vàng của nó là đồng tướng; mỗi bộ phận có hình dáng
riêng khác là dị tướng; mỗi bộ phận cộng tác hòa hiệp với nhau
để hìmh thành một con sư tử là Thành tướng; nhưng mỗi bộ phận
đều có phạm vi riêng biệt, tự lập của nó là Hoại Tướng.
Khi chúng tạnh nói đến
Tổng, Ðồng, Thành là nói về phương diện toàn thể, Viên-dung bình
đẳng của bản thể vũ trụ; khi chúng ta nói đến Biệt, Dị, Hoại là
nói về phương diện hiện tượng giới, trong ấy mỗi mỗi sự vật đều
phơi bày riêng lẽ khác nhau. Theo trong kinh Hoa-Nghiêm thì
Tổng, Ðồng, Thành, Tướng thuộc về môn viên dung; còn Biệt, Dị,
Hoại, Tướng thuộc về môn hàng bố (nghĩa là hiễn lộ, phơi bày la
liệt). Một bên là bình đẳng, một bên là sai biệt. Nhưng bình
đẳng và sai biệt là tương tức tương nhập, viên dung không. Tương
tức nghĩa là cái này tức cái kia, như nước tức là sóng; tương
nhập nghĩa là ăn nhập với nhau, dung thông nhau, như mặt gương
này và mặt gương kia phản chiếu vào nhau không cùng mà không cản
trở gì nhau. Vì tương tức, tương nhập, nên lìa tổng tướng thời
không biệt tướng, lìa đồng tướng thì không dị tướng, lìa thành
tướng thì không hoại tướng. Tóm lại, viên dung không lìa hàng
bố, hàng bố không lìa viên dung, viên dung tức hàng bố hàng bố
tức là viên dung. Hết tháy các pháp đều đủ 6 tướng ấy, không một
pháp nào là không viên dung tự tại, tức, nhập không ngại. Vì thế
cho nên gọi là 6 tướng viên dung. Ðấy là ý-nghĩa huyền diệu cúa
Hoa-Nghiêm nhất thừa viên giáo.
Mười Lý Huyền Diệu Của
các Pháp Hay Mười Huyền Môn
Ngoài sáu tướng nói
trên, các pháp còn có mười lý huyền diệu, hay mười đức tính
huyền diệu, mà bộ kinh Hoa-Nghiêm sớ sao và bộ Tham Huyền Ký của
Ngài Hiền Thủ có giải thích như sau:
1.- Môn ''đồng thời
đầy đủ các pháp tương ứng'' (đồng thời cụ túc tương ưng): Nghĩa
là trong mỗi một pháp nào đồng thời cũng có đủ, hàm chứa tất cả
các pháp khác trong vũ trụ. Như một giọt nước có đủ khí vị của
muôn ngàn sông, biển.
2.- Môn ''rộng và hẹp tự tại không
ngại '' (quảng hiệp tự tại vô ngại):
Nghĩa là một vật gọi là lớn, chưa hẳn là lớn, vật gọi là nhỏ
chưa hẳn là nhỏ. Nhờ cái lý dung thông, một vật nhỏ như đầu mải
lông, có thể chứa được thái hư mà còn rộng một vật như thái hư ,
có thể nằm gọn trong đầu mải lông, mà không chật. Ðây muốn nói
rằng, trong pháp giới, sự sự đã vô ngại, dung thông, thì quan
niệm về sự rộng hẹp, lớn nhỏ đều là những danh từ suông, không
có biên giới nhất định giữa một vật này với một vật khác: Một
vật nhỏ như vi trần có liên quan đến vũ trụ; một vật lớn như vũ
trụ có liên quan đến một vi trần. Cho nên kinh Hoa-Nghiêm có
chép: ''trong một mảy trần, hết thảy cỏi nước rộng rải an
tụ''.để giải thích ý nghĩa này, kinh thường dạy: "Sự Lý mà được
dung thông, tự tại không ngăn ngại".
3.- Môn "một và nhiều dung nhau không
đồng" (nhất, đa tương dung bất đồng):
Nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau,
mà vẫn không phá hoại cái tướng riêng biệt (an lập) của mỗi vật.
Như muôn ngàn ngọn đèn thắp sáng trong một gian nhà, ngọn này
ngọn kia lẫn hiệp với nhau, nhưng ngọn nào vẫn có ánh sáng riêng
của nó
4.- Môn "các pháp
tương tức tự tại" (chư pháp tương tức tự tại): Nghĩa là các
pháp cùng dung, cùng tức, không ngăn ngại nhau. Như một pháp khi
bỏ mình đồng với các pháp khác, thì toàn thể đều nơi pháp kia;
nếu một pháp nhiếp thâu các pháp đồng về mình, thì hết thảy các
pháp kia lại về một nơi pháp thâu nhiếp ấy. Cũng ví như chất
vàng với sắc vàng, hai pháp ấy không rời nhau.
5.- Môn "ẩn mật tỏ rõ
đều thành" (bí mật ẩn hiện câu thành): Nghĩa là một pháp có
nhiều phương diện, khi phương diện này hiển thì phương diện kia
ẩn; khi phương diện kia ẩn , thì phương diện này hiển; trong ẩn
có hiển; hiển ẩn đắp đổi nhau mà thành tựu. Sự ẩn hiển cũng
không nhất định cái nào sau cái nào trước, cũng không ngăn ngại,
chống đối nhau. Như một pho tượng bằng vàng, khi chú ý đến vàng
thì không thấy cái đẹp của pho tượng, khi chú ý đến pho tượng
thì không thấy vàng. Tóm lại, khi cái đẹp hiển thì vàng ẩn, khi
vàng hiển thì cái đẹp ẩn.
6.- Môn "vi tế dung
nhau, an lập" (vi tế tương dung an lập): Vi tế nghĩa là nhỏ
nhiệm mà rõ ràng. Môt vật nhỏ nhiệm này mà bao trùm một vật nhỏ
nhiệm khác, mà không cản trở nhau, không phá hoại cá tướng của
nhau. Như một hạt nước bao gồm nhiều hạt nước, mỗi hạt nước gồn
nhiều hóa chất, mỗi hóa chất gồm nhiều nguyên tử, mỗi nguyên tử
gồm nhiều điện tử, giữa những điện tử có cái nhân: Mỗi thứ đều
dung nhau và an lập trong nhau.
7.- Môn "cảnh giới tướng
võng nhơn-đà-la" (Nhơn đà la võng cãnh giới): Nhơn đà la tức là
phiên âm chử Indra là cỏi trời Ðế Thích. Theo Bà la môn , thì
trên cỏi trời Nhơn đà la , có cái màn lưới bằng bửu châu chói
hiện đến muôn trượng, hạt này hạy khác phản chiếu nhau, chói
sáng nhau, lớp lớp không cùng tận. Môn này cũng như vậy: trong
mỗi pháp có nhiều pháp khác, trong nhiều pháp khác lại có nhiều
pháp nữa. Cứ thế nhân mãi lên cho đến vô cùng tận. Kinh
Hoa-Nghiêm có chép; "Hết thảy thế giới đều như màn lưới Nhơn đà
la".
8.- Môn ""nhơn sự rõ
pháp, sanh trí hiểu biết" ( pháp sự hiểu pháp sanh giải):
Nghĩa là nhờ sự mà hiểu được lý; nhưng khi lý đã rõ, thì lý lại
lan rộng làm cho chúng ta hiểu rộng sâu xa qua nhiều sự khác.
Ðây muốn nói trí hiểu biết lan rộng dung thông qua sự vật, như
vết dầu lan trên mặt nước, chỉ một tia lửa bừng cháy rất xa.
9.- Môn "mười đời
cách pháp dị thành" (thập thế cách pháp dị thành): Ðây muốn
nói thời gian mặc dù cách biệt nhau từ quá khứ đến hiện tại qua
tương lai, nhưng chính nhờ thế mà các pháp được thành tựu một
cách dễ dàng. Tại sao chia thời gian thành mười đời mà không
chia làm ba đời? Ðáng lẽ chỉ nói quá khứ, hiện tại và tướng lai
là đủ. Nhưng muốn chia một cách rốt ráo, tinh vi, trong kinh
chia mười đời như sau; trong quá khứ cũng gồm có quá khứ, hiện
tại và tướng lai; trong hiện tại cũng gồm như thế và trong tướng
lai cũng vậy: ba đời mỗi đời chia nhỏ thành chín. Nhưng nếu chia
nhỏ như thế mà không có ý niệm tổng quát so sánh liên hệ với
nhau thì cũng không có được ý niệm về thời gian. Vì thế cho nên
về chín niệm ấy, còn cộng thêm một niệm tổng (tổng quát) nữa,
thành ra mười.
10.- Môn "chủ và bạn
nương nhau làm đầy đủ công đức sáng suốt hoàn toàn" (chủ, bạn,
viên minh cụ đức): Như chúng ta đã thấy ở các phần trên: các
pháp nương nhau mà thành. Nếu ta lấy một pháp làm chủ, thì các
pháp khác là bạn. Chủ và bạn nương nhau làm đầy đủ công đức, lớp
lớp không cùng tận, như mặt trăng sáng trên không, chung quanh
đó vây những vì sao nhấp nháy, rồi trên mặt đất bao nhiêu sông
ngòi, ao hồ lại phản chiếu ánh sáng trăng sao ở trên không, làm
cho cảnh vật ở khắp nơi rạng rỡ.
Tóm lại, mười lý huyền
diệu này cộng với sáu tướng nói trên của các pháp là nguyên nhân
giải thích vì sao "sự sự được vô ngại" trong pháp giới, và cắt
nghĩa một cách đầy đủ giáo lý "trùng trùng duyên khởi" mà
Hoa-Nghiêm tôn chủ trương.
III.-
PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH
Giáo lý căn bản của
Hoa-Nghiêm tôn đã sâu xa mầu nhiệm, thì phương pháp tu hành tất
nhiên củng phải cao siêu, mầu nhiệm mới đưa hành-giả đến chổ cứu
cánh tu hành. Tựu trung, trong các phương pháp tu hành ấy, ba
pháp quán về pháp giới sau đây được xem là các pháp môn trọng
yếu và có hiệu quả rốt ráo nhất:
1.-Chơn không quán:"Chơn"
có nghĩa là chơn thật, không hư vọng; "không" nghĩa là không bị
sắc tướng chi phối, ngăn ngại.
Pháp quá này dựa trên
"lý pháp giới" mà lập ra. Mục đích của pháp quán này là dứt vọng
tình, rõ chơn tánh , khiến cho hành-giả thấy sắc mà không bị sắc
ngăn ngại và nhận được rằng toàn thể là chơn không; thấy không,
mà nhận được rằng đó không pphải là không hẳn (đoạn không) mà
toàn là chơn tánh. Tóm lại, pháp quán này nhìn thấu qua được sự
đối đãi giả dối của cái không và cái có, để nhận rõ được cái "lý
của vũ trụ (lý pháp giới) là chơn không " (đã giãi ở trên)
2.-Lý sự vô ngại
quán: Pháp quán này y theo "lý sự vô ngại pháp giới" mà lập
ra." Lý" là thể tánh thanh tịnh sáng suốt; "Sự" là hình tướng
phận hạn của các pháp. Lý, Sự vô ngại, như trong phần giáo lý
căn bản đã có nói ở trước, nghĩa là Lý và Sự không phải hai loại
chống nhau, ngăn cách nhau, mà trái lại, dung thông nhau. Lý, Sự
thấu suốt, viên dung không ngại nên gọi là "Lý, Sự vô ngại
quán".
Theo pháp quán này, hành
giả quan sát cái sắc tướng của một mảy trần mà khám phá ra được
cái lý của vũ trụ. Tức là qua cái tướng hư giả của sự vật mà
thấy được cái tánh sáng suốt của nhứt chơn.
3. Châu biến hàm dung
quán: Pháp quán này dựa trên cái lý "Sự sự vô ngại pháp
giới" mà lập ra. " Châu biến" mà lan ra, biến hóa cùng khắp tất
cả; "Hàm dung" là bao gồm, thâu nhiếp hết, dung thông tất cả.
"Châu biến hàm dung quán" là pháp quán nhằm mục đích nhận chân
được rằng: cái pháp một và nhiều không ngại nhau, lớn và nhỏ
trùng nhau, dung nhiếp lẫn nhau, lớp lớp không cùng tột, ẩn hiện
tự tại, đồng thời tương tức tương nhập, thâu nhiếp, dung thông
nhau cho đến vô cùng vô tận, trùm chứa cả vũ trụ bao la.
Theo pháp quán này, hành
giả quan sát cái Lý nơi một Sự, rồi do một Sự ấy mà mỗi mỗi Sự
khác cũng đều thấy rõ. Hành giả lại quán mọi Sự tức nơi Lý, rồi
theo Lý ấy mà mỗi mỗi Sự đều dung thông.
IV. QUẢ VỊ TU CHỨNG
Theo Hoa Nghiêm tôn,
giải-thoát vẫn không phá hoại thế-gian tướng; nói một cách khác,
không phải phủ nhận thế gian tướng mà có thể tìm thấy giải thoát
ở một nơi nào khác. Ngay trong thế gian này, nếu hành giả phân
biệt được chân vọng, khử trừ điên đảo, khiến cho tâm thanh tịnh
để cùng thật tại nhất trí: Ðó là giải thoát.
Quan niệm về giải thoát
của Hoa-Nghiêm tôn này không khác với Thiên Thai tôn, nghĩa là
đều chủ trương một cách lạc quan rằng chúng sanh và Phật không
sai cách: không nhận chân được lý trùng trùng duyên khởi, sự sự
vô ngại pháp giới, là chúng sanh; giác ngộ được chân lý trên là
Phật.
V.- Kết Luận
Hoa-Nghiêm tôn vì y theo
bộ kinh cao nhất của Phật mà thành lập, nên được liệt vào hạng
viên giáo, nghĩa là giáo lý hoàn toàn viên mãn. Và cũng vì là
viên giáo cho nên phải cần một căn trí thông lợi mới tu theo
được.
Vậy hành giả, trước khi
muốn lựa con đường này để tiến bước cần phải cân nhắc cho kỹ
lưỡng, nhất là cần phải tìm nghiên cứu thêm cho thấu đáo. Nếu
thấy nó khó hiểu quá cao đối với căn cơ của mình, thì tốt hơn,
nên tìm một con đường khác, bởi vì con đường nào, cuối cùng cũng
đưa đến giải thoát cả.
Nhưng nếu quý vị nào
nhận thấy căn cơ của mình có thể theo kịp giáo lý huyền diệu của
tôn này,thì đó cũng là một diễm phúc lớn. Trí tuệ quý vị sẽ nếm
được hương vị thanh cao nhất của đạo nhiệm mầu, và sự tu hành
của quý vị cũng mau đến đích, vì quý vị đã trèo theo con đường
thẳng đứng để lên đỉnh núi "giải thoát". Bao giờ con đường thẳng
đứng cũng khó trèo, nhưng mau đến đích hơn những con đường vòng
quanh cọ. Trong vấn đề tu hành cũng vậy.
8.- Tam Luận Tông hay là Tánh Không Tông
I.- Duyên Khởi Lập
Tông
Tôn này căn cứ vào ba bộ
luận sau đây mà thành lập, nên gọi là Tam Luận tôn.
1.- Bộ Trung luận,
gồm có bốn quyển, do Ngài Bồ tát Long Thọ làm ra, mục đích chính
phá chấp của Tiểu Thừa và kèm một phần phụ đã phá sai lầm của
ngoại đạo.
2.- Bộ Bách luận,
gồm có hai quyển do Ngài Bồ tát Ðề Bà làm ra, mục đích chính là
phá chấp của ngoại đạo và kèm một phần phụ phá chấp của Tiểu
Thừa.
3.- Bộ Thập Nhị Môn
luận, gồm có một quyển, cũng do ngài Long Thọ làm ra, mục
đích phá cả Tiểu Thừa và ngoại đạo.
Tóm lại, ba bộ luận trên
đây, đều phá sự thiên chấp sai lầm của Tiểu Thừa và ngoại đạo và
mục đích cuối cùng là làm sáng tỏ nghĩa lý sâu xa, mầu nhiệm của
Ðại Thừa.
Tôn này được thạnh hành
ở Trung Hoa trong đời Dao Tần do công đức hoằng dương của ngài
Cưu Ma La Thập, và trong đời Ðường do công đức của ngài Ðại sư
Gia Tường.
II.- Tôn Chỉ Và Giáo Lý căn bản
Như chúng ta đã thấy
trong nội dung của ba Bộ luận căn bản nói trên, chủ trương của
tôn này là phá các điệu tà chấp, nêu bày chánh lý.
Theo Tam luận tôn, là
chấp có bốn loại:
1. Tà chấp của ngoại
đạo: ngoại đạo tức là những học phái hay tôn giáo khác với
Ðạo Phật. Ngoại đạo vì không thấu rõ lý ngã không và pháp không,
nên theo chấp chặt tà kiến, như tà nhơn, tà quả, không nhơn mà
có quả, có nhơn mà không quả...những cái chấp nầy cần phải đả
phá.
2. Chấp trước của
Tiểu Thừa Tỳ đàm tôn: Tiểu Thừa Tỳ đàm tôn tức là Câu xá
tôn. Tôn này chủ trương lý ngã không, pháp hữu, nghĩa là cho
rằng cái ngã nơi thân người là không có, nhưng các pháp là có.
Quan niệm sai lầm về pháp hữu ấy cần phải phá trừ.
3. Chấp trước của
Thành thật tôn: Tôn này, tuy chủ trương ngả pháp đều không,
nhưng lại chấp cái "không" ấy là thật "có" (thật có một cái
không), chứ không biết rằng cái "không " ấy cũng không hoàn toàn
là không, cho nên cần phải phá trừ.
4. Chấp trước của
người tu về Ðài thừa: Người tu về Ðại Thừa không còn những
chấp trước mê lầm về ngã, pháp của ngoại đạo và Tiểu Thừa,đã
đoạn trừ những thành kiến chấp có, chấp không, chấp đoạn, chấp
thường, nhưng còn có một số người ôm chặt cái sở đắc của mình,
nghe nói "có" thì sa vào có, nghe nói "không" thì trệ vào không,
nghe nói "trung đạo" thì chấp trước về trung đạo. Cho nên cần
phải phá trừ những chấp trước ấy.
Có người hỏi: Tam luận
tôn chủ trương phá tà như trên, có thể gọi là đầy đủ lắm, nhưng
còn phần hiển chánh thì như thế nào?
- Xin thưa: Phá hết tà,
tức là hiển chánh. Phá cũng tức là lập. Trừ mê tức là ngộ. Như
vậy tà chấp đã bị phá, thời chánh lý tự bày, ngoài sự phá tà,
không có chánh lý nào riêng nữa.
Trong bộ "tam luận huyền
nghĩa" có nói: Sự phá tà hiển chánh phân làm bốn loại:
1. Phá mà không thâu,
nghĩa là trước một đối thủ nói không hợp đạo, thì chỉ phá mà
không thâu.
2. Thâu mà không phá,
nghĩa là đối với người chủ trương hợp với chân lý thì chỉ cần
thâu mà không phá.
3. Cũng phá mà cũng
thâu, nghĩa là đối vơi người học đạo mà còn đầy lòng mê chấp,
thì phải phá trừ chỗ mê chấp và thâu lại giáo nghĩa mà họ đã
hiểu lầm.
4. Không thâu mà cũng
không phá, đây là trường hợp khi đã tiêu trừ ba loại nói trên,
quy về một chơn thật tướng: đến đây thì đã xa lìa nói phô, bặt
dứt niệm lự, không thể nói rằng phá, không thể nói rằng thâu.
Chủ trương phá phá tà
hiển chánh trên này có thể cô đọng trong bốn chử sau đây:"Trung
đạo bát bất".
Trung đạo tức là đao lý
viên dung cũng gọi là đệ nhứt nghĩa đế, nghĩa là cái chơn lý
cùng tột, không gì hơn.
Bát bất tức là tám cái
"Bất" ( chẳng phải):
Bất sanh, bất diệt, bất
thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất xuất. Hiểu rõ
tám cái "Bất" ấy, tức là nhận chân được nghĩa lý của Trung đạo.
Chúng ta hãy nghe bài kệ sau đây trong "Trung đạo" thì rõ:
Bất sinh, diêc bất
diệt
Bất thường, diệc bất
đoạn
Bất nhất, diệc bất
dị
Bất lai, diệc bất
xuất
Năng thuyết thị nhân
duyên
Thiện diệt chư hý
luận
Ngã khể thủ lễ Phật
Chư thuyết trung đệ
nhất
Giảng rộng đoạn văn trên
này, ông Phan Văn Hùm, trong quyển Phật Giáo triết học đã viết
như sau:
"Nhất thiết vạn hửu
trong hiện giới đều sinh diệt vô thường". Sinh diệt vô thường
như thế, nguyên là vì không có tự tánh, mà bởi nhân duyên mê
vọng nên sinh ra giả hữu.
Thế tục vì vọng kiến,
nên chấp lấy cái giả hữu đó. Chân trí thời phủ định giả hữu mà
nhận thấy là không ...siêu việt được tất cả hữu và vô là cái
quan niệm tuyệt đối ấy, phải biết rằng chư pháp đều do nhân
duyên sinh ra.
Chư pháp tuy là hữu
nhưng mà là phi thường hữu. Hữu, mà phi thường hữu là giả hữu.
Giả hữu tuy là hữu mà phi hữu. Hữu mà phi hữu, thời cùng với vô
có khác gì? Cho nên chư pháp tuy là vạn hữu, nhưng uyển nhiên là
không .
Lý thể của chân như, tuy
là không tịch, bất sinh diệt, mà bởi nó sanh ra chư pháp, cho
nên nó là căn của giả hữu. Ðã là căn của gỉa hữu, thời mặc dù lý
thể của chân như là không, thật ra nó là phi không. Như thế,
chân như là không mà không thật là không cho nên cùng với hữu có
khác gì? Vì thế, rốt lại, chân như tuy là không tịch, mà nó uyển
nhiên là hữu.
Hữu, không, hai cái toàn
nhiên cùng nhau hỗn hiệp.
Trung đạo ra ngoài chổ
chấp hữu cùng chấp không.
III.- Ba Thời Giáo Lý
Trong phần tôn chỉ và
giáo lý căn bản nói trên, chúng ta thấy Tam-luận tôn bác tất cả
các tôn phái của Tiểu Thừa và một phần của Ðại -thừa. Nhưng dù
Tiểu Thừa hay Ðại -thừa, cũng là dựa trên Giáo lý của Ðức Phật
cả. Vậy, bác các tôn phái trong các đạo Phật, tức là gián tiếp,
bác giáo lý của Phật chăng?
Thật ra, không phải thế.
Tất cả lời dạy của Ðức Phật chỉ có một chất chung là sự giải
thoát, như tất cả nước đại dương chỉ có một mùi vị là mặn. Phật
nói ra các pháp môn, đều để đối trị những phiền nảo của chúng
sanh. Người lương y giỏi tùy theo chứng bịnh mà cho thuốc, thuốc
không cao cấp, lành bịnh là hay. Cũng thế, căn cơ chúng sanh
không đồng nhau, cho nên pháp môn cũng tùy theo đó mà có sai
biệt.
Theo Tam-Luận tôn, thì
giáo lý của Ðức Phật chia làm ba thời kỳ:
-Thời kỳ thứ nhứt,
tại vườn Lộc-Giả vì các bậc căn trí hẹp hòi, Phật nói pháp Tiểu
Thừa, tâm cảnh đều có. Trong thời kỳ này vì cần phải phá cái
chấp về tự tách, thần ngã của ngộ đạo, nên Phật nói "pháp duyên
sanh", xác định là thật có.
-Thời kỳ thứ hai,
Phật vị các bậc căn trí bậc trung, nói "pháp tướng Ðại-thừa",
chỉ rõ đạo lý Duy-thức "cảnh không tâm có" (thế giới hiện tượng
không thật có nhưng tâm thức thật có). Cũng trong thời kỳ này,
Phật lần hồi phá trừ chổ chấp của Nhị-thừa về lý duyên sanh thật
có, mà nói lý duyên sanh ấy chỉ là giả dối tuồng như có mà thôi,
vì họ sợ về chổ chơn không , nên phải để "giã hữu" lại đễ dìu
dắt họ.
-Thời kỳ thứ ba,
Phật vị các bậc thượng căn thượng trí nói ra giáo lý "vô tướng
Ðại-thừa ", biện bạch tâm cảnh đều không, một mực bình đẳng là
chơn liểu nghĩa. Ðến thời kỳ này mới thật là chổ rốt ráo của Ðại
-thừa, chủ trương duyên sanh ấy tức là tánh không, một mực bình
đẳng, viên dung cả hai đế (chơn đế, tục đế) không ngại.
Tóm lại, thời ký thứ
nhất, phá trừ ngoại đạo, chỉ dạy Tiểu-thừa với giáo lý tâm cảnh
đều có. Thời kỳ thứ hai, thông cả Tiểu-thừa và một phần của Ðại
-thừa, (Tam thừa) với giáo lý cảnh không, tâm có. Thời kỳ thứ
ba, chỉ có Nhất thừa, với giáo lý tâm cảnh đều không, nhưng cái
không đây tức là chơn "chơn không, diệu hữu".
IV.- Phương Pháp Tu
hành
Chúng ta đã thấy ở các
phần ở trên, chủ trương của Tam-luận tôn là phá tà, và do chổ
phá tà ấy là hiển chánh. Vậy thì phương pháp tu hành của tôn này
là làm sao nhận rõ được những chổ sai lầm chấp trước của ngoại
đạo là các tôn phái khác, tức là chứng ngộ. Muốn vậy, tức phải
thực hành pháp quán "bát bất trung đạo".
Bát bất tức là: Bất
sinh, bất diệt; Bất đoạn, bất thường; bất nhứt, bất dị; bất khứ,
bất lai. Không ngộ được tám món ấy tức là không rõ chơn đế và
tục đế; mà không rõ được chơn đế và tục đế thì cũng không thể
nào nhận thấy được ý nghĩa của trung đạo.
Pháp quán này có nhiều
giai đoạn, mỗi giai đoạn quán về một phần của "bát bất "; chẳng
hạn giai đoạn thứ nhứt quán về "bất sinh, bất diệt"; giai đoạn
thứ hai quán về "bất đoạn, bất thường..." .
Trong mỗi giai đoạn như
thế phải quán năm câu:
1.- Câu thứ nhứt:
"thật có sinh, thật có diệt". Ấy là giả thiết thật có sanh diệt
như thế gian thường chấp, để mà bát. Chấp như thế gọi là đơn tục
(đứng riêng về mặt thế tục), tức nhiên là thiên chấp (chấp một
bên), chưa hiệp với trung đạo.
2.- Câu thứ hai:
"không sanh không diệt". Ấy là chấp không sanh không diệt làm
thật, để mà bát. Chấp như thế gọi là đơn chơn, cũng là thiên
chấp, không hiệp với trung đạo.
3.- Câu thứ ba:
"giả sanh giả diệt". Ấy là giả lập có sự sanh diệt phát xuất từ
nơi bất sanh bất diệt. Ðây tức là trung đạo về thế tục.
4.- Câu thứ tư:
"giả bất sanh giả bất diệt". Nếu sanh diệt đã giả, thời sự bất
sanh bất diệt cũng là giả. Ấy là trung đạo về chơn đế.
5.- Câu thứ năm:
"không phải sanh diệt, mà cũng không phải là không sanh diệt".
Ðây là dung hiệp cả tục đế và chơn đế mà tìm ra lý trung đạo.
Thật vậy, thật tướng của pháp giới không sanh diệt , mà cũng
không phải không sanh diệt. Ðến đây là cắt dứt lời nói phô, tâm
niệm lự, mà chỉ nhờ trực quan mới đạt tới.
Trong năm câu này, thì
ba câu cuối (từ câu thứ ba đến câu thứ năm) thường gọi là tam
trung (ba lý trung đạo). Vì thế cho nên trong pháp quán này,
người ta thường nói: dùng năm câu và ba lý trung đạo để quan
sát.
Trên đây là chỉ đưa ra
một số thí dụ về một giai đoạn trong pháp "pháp trung đạo bát
bất". Sau khi quán hết giai đoạn thứ nhất "bất sinh, bất diệt",
hành giả tiếp tục giai đoạn thứ hai là "bất đoạn, bất thường".
Và cứ như thế mà quán cho đến hết tám cái "bất".
Ðây là pháp quán riêng
biệt của tam luận tôn. Ngoài ra trên đường tu hành, hành giả còn
tùy theo căn cơ mà tu các pháp môn khác như Lục độ vạn hạnh.
V. Quả Vị Tu Chứng
Giáo lý đã có phân chia
thành chơn đế và tục đế, thì quả vị tu chứng cũng đứng về hai
phương diện mà xét.
1. Chơn đế: Nếu
đứng về phương diện chơn đế mà xét thì không có vấn đề chứng hay
không chứng, thành Phật hay không thành Phật, vì mê ngộ vốn
không, nhiễm tịnh đều bình đẳng, hết thảy chúng sanh xưa nay là
Phật rồi.
2. Tục đế: Nếu
đứng về phương diện tục đế, thì căn cơ chúng sanh không giống
nhau, nên sự tu chứng cũng có chậm có mau. Với những căn cơ rất
lanh lợi, thì trong một niệm có thể thành tựu "chánh quán bát
bất", chứng được quả Phật. Trái lại, với những căn cơ chậm lụt,
thì trải qua ba đại kiếp tu hạnh lục độ vạn hạnh, mới được thành
Phật. Nếu tuần tự mà tiến thì phải trải qua 52 quả vị. Trong các
tôn khác quý độc giả cũng thường nghe nói đến 52 quả vị, nhưng
chúng tôi chỉ nêu danh mà không nói rõ nội dung, đến Tam luận
trong này, nên chúng tôi tưởng nên trình bày rõ một lần về các
quả vị ấy, và để sau nầy, khi qua các tôn khác, nếu quý độc giả
có gặp lại 52 quả vị này, cũng sẽ không còn bỡ ngỡ. 52 quả vị ấy
là:
Thập tín
(mười bậc lấy đức tin làm gốc):
1. Tín tâm 2. Tinh tấn
tâm
3. Niệm tâm 4. Ðịnh tâm
5. Huệ tâm 6. Thí tâm
7. Giới tâm 8. Hộ
tâm
9. Nguyện tâm 10. Hồi
hướng tâm
Thập trụ:
Trụ là an trụ. Các vị Bồ tát khi mới phát tâm, an trụ nơi mười
bực này mà tu hành, trên cầu chứng được quả Phật, dưới hóa độ
chúng sanh. Thập trụ là:
1. Pháp tâm trụ 2. Trị
địa trụ
3. Tu hành trụ 4. Sanh quý
trụ
5. Phương tiện trụ 6.
Chánh tâm trụ
7.- Bất thối trụ 8. Ðồng
chơn trụ
9. Pháp vương tử trụ 10.
Quán đảnh trụ
Thập hạnh:
Mười bực này chú trọng tu hạnhl ục độ nhiều hơn các hạnh khác,.
Nên gọi là hạnh. Mười hạnh là:
5. Ly si loạn hạnh 6.
Thiện hiện hạnh
7. Vô trước hạnh 8. Tôn
trọng hạnh
9. Thiện pháp hạnh 10.
Chơn thiện hạnh
Thập hồi hướng:
Hồi nghĩa là xoay về, Hướng tức là xu hướng. Hành giả đem mười
hạnh này mà quy hướng về ba nơi sau đây:
a/ Xoay sự về lý, lấy
chơn như thật tế mà làm chỗ chứng.
b/ Xoay nhơn về quả, lấy
đạo vô thượng Bồ đề làm chỗ sở cầu.
c/ Xoay mình về nơi
người, một lòng bình đẳng, phổ độ chúng sanh.
Mười hồi hướng là:
1- Cứu độ chúng sanh;
ly chúng sanh tướng hồi hướng; nghĩa là cứu giúp chúng sanh mà
không chấp trước về sự cứu giúp.
2- Bất hoại hồi
hướng; nghĩa là không bao giờ thối tâm cứu giúp chúng sanh.
3- Đẳng chư Phật hồi
hướng; nghĩa là lòng từ bi cứu giúp chúng sanh cúng bằng chư
Phật.
4- Chí nhứt thế xứ
hồi hướng; nghĩa là lòng cứu giúp chúng sanh mỗi việc đều
chu đáo.
5- Vô tận công đức
tạng hồi hướng; nghĩa là chất chứa công đức vô tận.
6- Tùy thuận nhứt
thiết kiên cố thiện căn hồi hướng; nghĩa là thuận theo hết
thảy căn lành bền chặt.
7- Ðẳng tâm tùy thuận
nhứt thế chúng sanh hồi hướng; nghĩa là đem tâm bình đẳng
tùy thuận hết thảy chúng sanh.
8- Như tướng hồi
hướng; nghĩa là các công đức hồi hướng về tự tánh chơn như.
9-
Vô trước vô phược giải thoát tâm hồi hướng; nghĩa là không
chấp trước không ràng buộc, một lòng giải thoát.
10-
Pháp giới vô lượng hồi hướng; nghĩa là hướng về pháp giới
không cùng tận.
Bốn mươi quả vị trên này
(Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng) nói về thời gian
tu tập tùy thuộc vào Kiếp A-tăng kỳ thứ nhứt.
Thập địa:
Mười bực này, vì tóm thâu các công đức hữu vi và vô vi, dùng làm
tự tánh, cùng làm chỗ nương dựa chắc chắn hơn cả cho sự tu hạnh,
nên gọi là Ðịa. Mười địa là:
1. Hoan hỷ địa 2. Ly khổ
địa
3. Pháp quan địa 4. Diệm
huệ địa
5. Nan thắng địa 6. Hiện
tiền địa
7. Viễn hành địa 8. Bất
động địa
9. Thiện huệ địa 10.
Pháp vân địa
Trong thập địa, mỗi địa
còn có ba tâm: Nhập, Trụ, Xuất. Khi vừa bước vào một bực nào,
gọi là Nhập tâm. Trong lúc ở yên trong bực ấy mà tu, gọi là Trụ
tâm. Sau khi tu tập lâu rồi, cần bước qua bực khác gọi là Xuất
tâm. Ba tâm ấy đều phải trải qua trăm ngàn số kiếp. Từ khi nhập
tâm về sơ địa (tức Hoan hỷ địa) đến Thất địa (tức Viễn hành địa)
phải trải qua suốt một kiếp A-tăng kỳ thứ hai. Từ Bát địa (tức
Bất động địa) đến Thập địa (tức Pháp vân địa) thuộc về kiếp
A-tăng kỳ thứ ba.
Ðẳng giác:
Khi đã mãn quả Thập địa thì gọi là Ðẳng giác, là địa vị đã gần
đến quả Phật.
Diệu giác:
Tức là Phật quả, tự mình đã giác ngộ, lại giác ngộ cho người,
trí giác ngộ và công phu tu hành đều được đầy đủ, không thể nghĩ
bàn nên gọi là Diệu gíác. Bực này vì các lậu nghiệp đã hết sạch
và không còn pháp gì phải học nữa, nên gọi là Vô-học đạo.
VI.- Kết Luận
Như chúng ta đã thấy ở
các phần trên, Tam-luận tôn chủ trương "lấy phá làm tập", phá
tất cả những sự chấp trước của đạo ngoại, của Tiểu-thừa Tỳ-đàm,
của thành Phật tôn và của cả một số người tu theo Ðại -thừa.
Nhận chân được những sự sai lầm ấy tức là ngộ rồi đấy. Con đường
đi đến chân lý không đâu khác hơn con đường mình đi. Nhưng muốn
khỏi lạc đường và chậm bước, thì phải dẹp tất cả những hình bóng
phỉnh-phờ và những chướng ngại vật trên đường đi ấy. Một khi sự
phá dẹp hoàn thành thì chân lý tự nhiên hiện bày.
Theo thiển kiến chúng
tôi. Tam luận tôn không phải là một con đường Tu như các tôn
khác, mà đúng hơn là một cữa Ải: Những hành-giả muốn đi từ
Tiểu-thừa hay Ðại -thừa Ðốn giáo, hay Viên giáo thì phải đi
ngang cữa Ải Tam luận tôn. Ðến cửa Ải này, hành-giả bị lục soát
một cách kỹ lưỡng, nếu ai còn mang theo một món hành lý "chấp
trước" gì, thì không thể qua cửa Ải này được. Hành-giả khi đi
qua cửa Ải này là phải thông suốt các vấn đề: có, không, sanh,
diệt, thường, đọan, nhất, dị v.v...
Vậy chúng tôi mong mỏi
quý vị Phật-tử muốn đi xa vào thế giới Trung-đạo hay Viên giáo
thì hãy nghiên cứu cho kỹ Tam luận tôn.
Chúc quý độc giả thánh
công.
9.- Câu Xá Tông Hay
Là Hữu Tông
I.- Duyên Khởi Lập
Tông
Tôn này thuộc về
Tiểu-thừa, phát xuất từ bộ luận Câu xá của Ngài Thế-Thân. bộ
luận Câu xá lại dựa theo ý-nghĩa của bộ kinh Ðại Tỳ-Bà-Sang
(Mahavibhasacastra) mà thành lập. Bộ luận Câu xá được Ngài
Trần-Chân-Ðế dịch và truyền sang Tàu rất sớm, nhưng về sau bị
thất truyền. Trong giai đoạn đầu nầy, Câu-xá tôn chưa thành một
tôn phái riêng biệt ở Trung Hoa. Chỉ đến khi Ngài Huyền-Trang đi
thỉnh kinh ở Ấn Ðộ trở về, đem dịch lại bộ luận. Câu xá và đệ tử
của Ngài là Ðại sư Phổ Quang dựa theo bộ luận nói trên mà ra bộ
"Câu xá thuật ký", và Ngài Pháp bảo làm bộ "câu xá luận sớ" thì
Câu xá tôn mới thành một tôn và được thạnh hành ở Trung Hoa.
Nhưng hết đời Ðường (từ đầu thế kỷ thứ VII đến cuối thế kỷ thứ
IX) thì tôn này lại dần dần suy tàn và nhường địa vị quan trọng
cho phái Ðại -thừa khác, thích hợp với triết học và tâm lý của
nhưng Trung Hoa hơn.
II.- Tôn Chỉ Và Giáo Lý Căn Bản
1.- Tôn chỉ: Tôn
này chủ trương "ngã không pháp hữu", nghĩa là không có thật ngã
nhưng có thật pháp.
Ðối với các tôn giáo
khác thì chủ trương có một cái thật ngã, chủ tế thường nhất, một
cái linh hồn trường tồn bất biến, mặc dù mọi sự vật đổi thay,
sống hay chết. Theo Câu xá tôn thì một cái ngã như thế không thể
có được, vì mọi sự vật trong vũ trụ, kể cả con người đều giả hợp
mà thành, chứ không có một vật gì đồng nhất và bất biến. Ðây
cũng là chủ trương chung của các giáo phái khác trong Phật giáo.
Ðiểm sai khác giữa Câu xá tôn với các tôn phái khác là: Câu xá
tôn thì chủ trương Pháp hữu, trong khi các giáo phái khác thì
bảo rằng pháp không. Pháp hữu, nghĩa là bản thể thật tại của các
pháp, hay nói một cách dễ hiểu hơn, nguyên liệu sanh ra các sự
vật trong vũ trụ, là thường có, là có thật. Thí dụ: con người
không có thật ngã, nhưng những nguyên liệu làm ra con người, như
ngũ uẩn, tứ đại là thật có.
2.- Vũ trụ quang:
Câu xá tôn phân biệt vũ trụ vạn hữu ra làm hữu vi pháp và vô vi
pháp. Hữu vi pháp chỉ về hiện tượng trong hiện tượng giới, có
sanh diệt, chuyển biến. Vô vi pháp chỉ về cảnh giới thường trụ,
không sanh diệt, chuyển biến, cũng tức là chỉ về lý thể.
Hữu vi pháp gồm có 72
món, và vô vi pháp gồm có 3 món, cộng tất cả là 75 món, hay 75
pháp.
ÐỒ BIỂU VỀ 75 PHÁP
11 sắc pháp -Năm căn:
Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân.
Năm cảnh: sắc, thanh,
hương, vị, xúc
và một vô-biểu sắc
75 PHÁP 72 pháp 1 tâm
pháp Nhãn-thức, nhĩ-thức, hay tĩ-thức, thiệt-thức,
hữu vi tâm-vương
thân-thức, ý-thức.
46 tâm-sở 10 Ðại-địa
pháp.
pháp 10 Ðại-thiện-địa
pháp.
6 Ðại-phiền-não-địa
pháp
2 Ðại-bất-thiện -địa
pháp
10 Tiểu-phiền-não-địa
pháp
8 Bất-tịnh-địa pháp
14.bất tương ưng hành
pháp
3 pháp vô-vi Trạch-diệt
vô vi
phi-trạch-diệt vô-vi
Hư-không vô-vi
Trong phạm vi nhỏ hẹp
của tập sách, chúng tôi không thể đi sâu đễ giải thích từng pháp
một được. Tuy thế đễ có một ý-niệm về các loại pháp ấy, chúng
tôi xin sơ lược đại khái sau đây:
Sắc pháp: phàm
cái có thể hư nát và có tánh cách chướng ngại đều thuộc về sắc
pháp. Trong 11 nhóm thuộc về sắc pháp, gồm có năm căn và năm
cảnh, thì độc giả cũng biết rồi, không cần phải giải nữa; còn
món thứ 11 là vô biểu sắc cần phải giải thích. Vô biểu sắc là
cái sắc pháp không biểu hiện ra ngoài (pháp trần), đó là đối
tượng của ý căn.
Tâm pháp: Cũng
gọi là Tâm Vương, vì nó có năng lực chủ động như ông vua có
quyền chủ trương trong một nước. Tâm vương có ba tên: Tâm, ý và
thức. Theo câu xá luận thì: "nhóm góp các tập quán mà khởi ra
gọi là tâm; nghĩ ngợi gọi là ý; phân biệt gọi là thức".
Tâm sở pháp:là
cái pháp sở hữu phụ thuộc của tâm vương, như các ông quan phụ
thuộc vào quyền sai sử của ông vua, hay các nhân viên phụ thuộc
dưới sư điều khiển của ông chủ.
Bất tương ưng hành
pháp: Có thể gọi tắt là cái pháp bất tương ưng, nghĩa là các
pháp không thuộc về sắc, mà cũng không hẵn thuộc về tâm, nhưng
là kết quả của sự tiếp xúc giữa tâm và sắc.thí dụ như sự "sự
được "
Là một pháp bất tương
ưng. Khi ta được một cái gì, "sự được " ấy không thuộc về sắc
pháp , cũng không thuộc về tâm pháp . "Cái mà ta được " là sắc
pháp , "cái nỗi vui mừng"
khi được là tâm pháp
, còn "sự được" không thể liệt vào sắc pháp hay tâm pháp được ,
vì thế cho nên gọi là bất tương ưng hành pháp .
Vô-vi-pháp: nghĩa
là những pháp không sanh diệt, chuyển biến, vượt ra ngoài sự đối
đãi. Vô vi gồm có ba pháp là: trạch diệt vô vi, phi trạch diệt
vô vi và hư không vô vi.
Bảy mươi lăm pháp này
bao gồm tất cả sự vật trong vũ trụ.
Sự vật trong vũ trụ chia
ra làm hai loại lớn là: hữu tình thế gian và khí thế gian.
-Hữu tình thế gián tức
là toàn thể chúng sanh , có sự sống.
-Khí thế gián tức là
hoàn cảnh mà chúng sanh nương vào để sống như đất cát, núi,
sông, nhà, cửa v.v ..
Xét về phương diện thời
gian, thì vũ trụ là vô thỉ vô chung, nghĩa là không có lúc bắt
đầu và củng là không có lúc chung cục, mà chỉ có sự thay đổi,
biến chuyển thôi. Trong vũ trụ có hằng hà sa thế giới, thế giới
này thành, thì thế giới kia hoại, đắp đỗi cho nhau. Tuy thế,
riêng mỗi thé giới, từ khi danh thành cho đến khi tiêu diệt,
phải qua bốn giai đoạn (thành, trụ, hoại, không) gồm một đại
kiếp, tức là một ngàn hai trăm tám chục triệu năm
(1.280.000).
Xét về phương diện không
gian, thì vũ trụ rộng lớn không thể tưởng tượng được .Trước tiên
đơn vị nhỏ nhất của vũ trụ là thế giới (như thế giới nhỏ mà ta
đang ở đây).
Họp một ngàn thế giới
mới thành một tiểu thiên thế giới; họp một ngàn tiểu thiên thế
giới mới thành một trung thiên thế giới; họp một ngàn trung
thiên thế giới mới thành một đại thiên thế giới. Như thế một đại
thiên thế giới gồm (1.000.000.000) một ngàn triệu thế giới nhỏ
(như thế giới chúng ta đang ở dây) . nhưng trong vũ trụ không
phải có một đại thiên thế giới mà có vô lượng vô số đại thiên
thé giới; cho nên trong kinh thường nói là: thập phương vi trần
thế giới (mười phương thế giới nhiều như cát bụi) hay thập
phương hằng hà sa thế giới (mười phương thế giới nhiều như cát
sông hằng ).
Xét về phương diện phẩm
chất thì vũ trụ chia làm ba tầng bấc cao thấp khác nhau, củng
gọi là tam giới, hay ba cõi là: dục giới, sắc giới, vô sắc
giới.
Dục giới là cõi của loài
hữu tình chư Ấn Ðộ xa lìa được dâm dục và thực dục. Trong dục
giới có sáu loại chúng sanh là thiên, nhơn, a-tu-la, súc sinh,
ngạ quỷ,địa ngục.
Sắc giới là cõi của loài
hữu tình có hình sắc tốt đẹp, đã rời bỏ được dâm dục và thực
dục. Cõi này có bốn bậc là: Ly sanh hỹ lạc địa, Ðịnh sanh hỷ dục
địa, Ly hỷ diệu lạc địa và Xã niệm thanh tịnh địa.
Vô sắc giới là cõi không
có hình sắc . Các loài hữu tình sanh trong cõi này chỉ có tâm
thức mà thôi. Cõi này củng chia làm bốn từng bậc cao thấp, thông
thường gọi là tứ không thiên: không vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và
phi tưởng phi phi tưởng xứ.
3.- Nhân sanh quan:
chúng sanh nói chung, và con người nói riêng, do đâu mà có? Và
đời sống chúng sanh có giá trị như thế nào?
a)Theo câu xá tôn, thì
chúng sanh sở dĩ bị xoay chuyển trong vòng sanh tử luân hồi, là
do "nghiệp cảm duyên khởi", nghĩa là do mê hoặc mà tạo nghiệp,
do tạo nghiệp mà cảm thọ các quả báo.
Thế nào gọi là hoặc?
Họăc nghĩa là mê mờ, không sáng suốt, không biết đâu là phải,
đâu là trái tức là vô minh, mê vọng. Hoặc có hai loại: bổn hoặc
và tùy hoặc. Bổn hoặc là sự mê lầm cội gốc, củng gọi là căn bản
phiền não, như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Tùy hoặc là
những mê lầm dựa theo bổn hoặc mà phát sinh, cũng gọi là tùy
phiền não.
Trong sáu bổn-hoặc nói
trên, thì năm hoặc đầu: tham, sân, si, mạn, nghi, vì tánh chất
chậm-lụt, ăn sâu gốc rễ trong thâm tâm chúng ta, rất khó dứt
trừ, nên gọi là ngũ-độn-sử (sử là sai sử, xúi sử; những hoặc này
sai khiến một cách tiềm tàng, sâu kín loài hữu tình làm cho
chúng sanh cứ luẩn quẩn trong chổ mê lầm nên gọi là độn-sử).
Còn hoặc thứ sáu là ác
kiến, vì tánh chất nó lanh lẹ, không ăn sâu gốc rễ trong thâm
tâm và dễ dứt trừ, nên gọi là lợi sử. Ác-kiến hay lợi sử gồm có
năm thứ là: Thâm kiến, Biên kiến, Tà kiến, kiến thủ, và giới cấm
thủ.
Thân kiến: là chấp một
cách sai lầm rằng cái thân do ngũ uẩn giả hiệp này là có thật
ngã.
Biên kiến: là chấp sai
lầm rằng cái thân này chết rồi thì tiêu diệt hẳn, không còn gì
cả (đoạn kiến) hay trái lại, chấp cái thân này chết rồi, linh
hồn vẫn còn mãi mãi (thường kiến). Những sự chấp ấy làm mất hẳn
lý trung đạo, nên gọi là biên-kiến.
Tà-kiến: là chấp những
đạo lý mơ hồ tà bậy và bài bác những lý nhơn quả chơn chánh.
Kiến-thủ: là chấp chặt
kiến giải sai lầm của mình, mà không chịu theo lời các bậc hiển
thánh.
Giới cấm-thủ: là giữ
giới sai-lầm như những giới khổ hạnh của ngoại đạo v.v...
Do những bổn-hoặc và ác
kiến nói trên sai sử, chúng sanh tạo ra các nghiệp, làm nhân quả
cho nhau và khiến cho chúng sanh phải xoay vần mãi trong sanh tử
luân hồi. Nghiệp có ba thứ: ý-nghiệp, tức là tự suy nghĩ, hành
động của ý niệm; ngữ-nghiệp, tức là sự nói năng; thân nghiệp,
tức là những hành động về thể xác.
Nghiệp có ba tánh là:
lành, dữ và vô ký (nghĩa là trung bình, không lành, không dữ).
Nghiệp lành thì có quả báo lành, nghiệp dữ thì có quả báo dữ.
Còn nghiệp vô-ký thì có quả báo không lành không dữ.
Mười nghiệp lành là:
không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối gạt,
không nói thiêu dệt, không nói chia rẽ, không nói độc ác, không
tham lam, không giận giữ, không si mê.
Quả-báo của mười nghiệp
lành và mười nghiệp dữ có mau và chậm, nghĩa là có khi xảy ra
trong một đời, có khi hai ba đời sau mới thọ quả-báo.
Khi thời kỳ cảm quả chịu
báo đã xác định, thì gọi là định nghiệp. Trái lại, thì gọi là
bất định nghiệp. Bất định nghiệp có hai thứ: một là quả báo đã
định mà thời kỳ chịu quả báo chưa định; hai là cả quả báo và
thời kỳ chịu quả báo đều chưa định.
b). Trên đây là nói lý
do vì sao có sự hiện diện của chúng sanh trong thế giới này.
Dưới đây, chúng tôi sẽ nói đến giá trị của sự hiện diện ấy theo
quan niệm của Câu xá tôn, tức cũng là quan niệm của Tiểu-thừa
Phật giáo.
Quan niệm ấy, không xa
lạ gì đối với chúng ta. Ðó là cõi đời là một bể khổ, trong ấy,
chúng sanh đang lặn hụp, trôi lăn, sống chết. Con người khổ vì
sanh, lão, bệnh, tử. Con người khổ vì yêu nhau mà phải xa lìa,
ghét nhau mà phải chung sống, muốn một đàng mà thực tế đưa đi
một nẻo. Con người khổ vì tai trời, nạn nước: bão, lụt,
chiến-tranh, trộm cướp v.v...Con người khổ vì sống trong một
hoàn cảnh mê mờ, tối tăm, không biết đâu là thật, đâu là giả,
đâu là hạnh phúc chân thật, đâu là ảo ảnh giả dối. Con người khổ
vì mong được trường tồn mà cõi đời lại vô thường, luôn luôn biến
đổi, có đó không đó, có đó mất đó, như một trò mộng huyễn. Con
người khổ vì tưởng rằng có một cái thật-ngã làm nồng cốt cho sự
sống, thuần nhất, tự tại, ngờ đâu cái Ngã ấy là giả dối, không
có thật vì bị hoàn cảnh chi phối làm cho điêu đứng, đảo điên.
Tóm lại, cõi đời là một
bể khổ làm bằng nước mắt của tất cả chúng sanh.
III.- Phương Pháp Tu Hành
1.- Tứ-diệu-đế.
Muốn giải thoát ra ngoài
bể khổ mênh mông của cõi đời, Câu xá tôn chủ trương phải tu theo
pháp "Tứ-diệu-đế". Tứ diệu đế tức là bốn lẽ chân thật đưa người
tu hành từ cảnh mê đến cảnh ngộ, từ cõi Ta bà đau khổ, đến cảnh
giới Niết bàn tịch tịnh.
- Diệu đế thứ nhất chỉ
rõ cho người tu hành thấy cõi đời là đau khổ.
- Diệu đế thứ hai chỉ rõ
cho người tu hành thấy được nguyên nhân của sự đau khổ trong cõi
Ta-bà.
- Diệu đế thứ ba chỉ rõ
cảnh giới an lạc sau khi ra khỏi cõi đời đau khổ.
- Diệu đế thứ tư chỉ rõ
con đường tu hành để đi đến cảnh giới an lạc Niết bàn.
Bốn Diệu đé ấy tức là:
khổ, tập, diệt, đạo vậy.
2.- Thập nhị
nhân-duyên.
Với những căn cơ lanh
lợi, thì có thể tu theo pháp Thập-nhị-nhân-duyên.
Thập-nhị-nhân-duyên là 12 nhân duyên kế tiếp theo nhau, làm
nhân, làm quả, khiến cho chúng sanh phải mãi mãi xoay vần trong
bể khổ sanh tử luân hồi. Mười hai nhân duyên ấy là: vô minh,
hành, thức, danh sắc, lục thập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử. Mười hai nhân duyên này như mười hai vòng xích nối liền
với nhau làm thành một chuổi xích, không biết đâu là đầu, đâu là
cuối. Nếu cắt đứt được một vòng xích thì chuổi xích ấy tất phải
phải đứt đọan. Ðối với kẻ tu hành, muốn chấm dứt sanh tử luân
hồi, thì cái mắc xích cần phải bị cắt đứt là ''ái''. Ái ở đây
tức là luyến ái. Vì luyến ái nên mới có thủ cho mình, rồi
''thủ'' sanh ra ''hữu''. Và từ đó, cái vòng sanh tử lại tái
diễn. Vậy không có ''ái'', thì không có ''hữu'', không có
''hữu'' thì không có ''sanh'', không có ''sanh'' thì không có
''lão tử'', nghĩa là không có khổ đau.
IVQuả Vị Tu Chứng
1.- Người tu theo pháp
Tứ-diệu đế, nếu mau lắm thì cũng phải trải qua qua ba đời, còn
nếu chậm, thì phải tải qua 60 kiếp, mới chứng được A-la-hán, là
cõi cao nhất của hàng Thanh Văn.
Trước khi chứng được quả
vị A-la-hán, hành-giả tuần tự chứng các quả dưới đây:
Tu-đà-hoàn, Tàu dịch là
Nhập lưu, hay Dự lưu, nghĩa là bắt đầu nhập vào dòng Thánh.
Tư-đà-hàm, Tàu dịch là
Nhất lai, nghĩa là còn phải đầu thai vào cõi Dục-giới một lần
cuối cùng nữa, để tu hành cho rốt ráo, trước khi vĩnh viễn xa
rời cõi này.
A-na-hàm, Tàu dịch là
Bât-lai, nghã là không còn phải đầu thai vào cõi Dục-giới nữa.
Hết bực này là đến quả vị A-la-hán.
A-la-hán, Tàu dịch là
Ứng-cúng hay Vô-sanh, nghĩa là dứt bỏ được cái điều mê lầm trong
cõi Sắc giới và Vô- sắc giới, không còn phiền não, không còn
chịu sanh tử luân hồi, vượt ra khỏi ba cõi, hưởng sự cúng dường
của thiên và nhân. Bậc này gọi là bậc Vô-học, nghĩa là không
phải tu học pháp gì nữa.
2.- Ðối với lối tu
Duyên-giác, nghĩa là tu theo lối quán 12 nhân duyên, thì quả vị
không có chia ra nhiều tầng bậc, chẳng qua khi đang tu hành thì
gọi là Duyên-giác hướng, nghĩa là đi lần tới mục đích của sự tu
hành là quả Duyên-giác. Còn khi tu được đầy đủ, dứt mối mê lầm,
chứng được chân lý, thường hưởng được cái vui giải thoát trong
cảnh Niết-bàn, thì gọi là Duyên-giác quả. Vị chứng được quả này
thì gọi là Bích-chi-Phật, tức là vị Phật tự giải thoát cho mình,
nhưng chưa có thể giác tha. Từ khi bắt đầu tu hành cho đến khi
chứng quả Duyên-giác, thời gian dài ngắn khác nhau tùy theo căn
cơ của kẻ tu hành: với căn cơ lanh lợi thì ít ra cũng phải trải
qua bốn đời tu luyện; với căn cơ chậm lụt thì phải trải qua 100
kiếp tu hành.
V.- Kết Luận
Câu xá tôn, mặc dù chỉ
là một tôn phái trong nhiều tôn phái của Tiểu-thừa, nhưng có thể
đại diện một cách gần đấy đủ cho phái Tiểu-thừa Phật giáo. Bởi
thế , Câu xá tôn, chúng ta có thể hiểu một cách khá tường tận
giáo lý căn bản và phương pháp tu hành của hàng Tiểu-thừa trong
quá khứ xa xưa.
Nhưng từ khi tôn này
được thành lập ở Trung Hoa đến bây giờ, thời gian đã trôi qua
hơn một ngàn năm. Trong thời gian ấy, chắc cũng có nhiều sự biến
đổi trong chi tiết. Chúng tôi rất tiếc không có nhiều tài liệu
để nghiên cứu một cách đầy đủ những biến chuyển của tôn này qua
thời gian và sự tồn tại của nó trong hiện tại như thế nào. Do
đó, chúng tôi thành thật đề nghị với quý độc giả hãy xem bài này
như một bài nghiên cứu về một trong mười tôn phái ở Trung Hoa,
chứ chưa phải một ''con đường'' hoàn bị, hướng dẩn trực tiếp quý
vị vào sự tu luyện. Chúng tôi muốn nói, nếu quý vị thấy căn cơ
mình thích hợp với giáo lý Tiểu-thừa, mà muốn bắt tay vào sự tu
luyện, thì cũng cần tìm đọc thêm nhiều nữa và nghiên cứu cho đến
nơi đến chốn, để khỏi lạc hướng sai đường.
10.-
Thành Thật Tông
I.- Duyên Khởi Lập
Tông
Tôn này thuộc về Tiểu
Thừa, y cứ vào ý nghĩa của bộ thành thật luận, do đó gọi là
Thành thật tôn.
Bộ Thành thật luận do
ngài Ha-lê-bạt-ma (Harivarman, Tàu dịch là Cưu-ma-la-đà
(Kumaraladha) thuộc phái Tiểu Thừa Tát-bà-đa làm ra, vào khoảng
900 năm, sau khi đức Phật Thích Ca nhập niết bàn. Như chúng ta
đã biết qua trong phần lịch sử truyền giáo ở Ấn độ, sau khi đức
Phật nhập niết bàn, phái Tiểu Thừa chia ra thàngh nhiều nhóm,
giải thích kinh điển của Phật không giống nhau. Nhận thấy nguy
cơ có thể làm cho Phật giáo suy đồi vì sư không đồng quan
điểm`về giáo lý của các tôn phái ấy, ngài Ha-lê-bạt-ma đã đem
hết tâm lực và trí tuệ uyên bác của mình, rút ra lý tinh tủy
trong các bộ kinh luận của Tiểu Thừa, làm ra bộ thành thật luận.
Sở dĩ ngài dùng hai chữ "Thành thật" để đặt tên cho bộ luận của
mình là hàm ý muốn nói rằng: những lý nghĩa trong bộ luận của
mình là chân thật, đúng đắn hoàn toàn với giáo lý căn bản trong
ba tạng kinh điển của Phật . mà thật như thế, bộ Thành thật luận
là bộ luận có thể tiêu biểu một cách trung thực giáo lý của Tiểu
Thừa. Và củng vì giá trị chân chính ầy mà bộ Thành thật luận
được truyền sang Trung Hoa và được Ngài Cưu-ma-laThập trong đời
Giao Tần dịch ra văn Tàu, gồm có tất cả 16 cuốn, chia ra làm 202
phẩm. Nhưng mặc dù được người đời hâm mộ, bộ luận này phải đợi
đến đời Nam Bắc triều mới thành lập một tôn riêng tức là "Thành
thật tôn".
II.-Tôn Chỉ Và Giáo
Lý Căn Bản
Tôn này chủ trương "nhân
không , Pháp không ".
Như chúng ta đã biết,
theo Câu-xá-tôn thì nhơn không nhưng pháp lại có. Thành thật
tôn, đi xa hơn, cho rằng nhơn không thật, mà pháp củng không
thật.
Ðể giải thích chủ trương
"hai không" này, Thành thật lập ra hai môn là: Thế giới môn và
Ðệ nhất nghĩa môn.
1.- Thế giới môn:
Môn nghĩa đen là cửa; Thế giới môn tức là cửa của Thế giới; nói
một cách thông thường như ngày nay thường nói, "thế giới môn"
tức là đứng về "phương diện thế tục, phương diện tương đối" mà
quan sát suy luận.
Xét về phương diện tương
đối, thì nhơn cũng có mà pháp cũng có. Thật vây, theo sự nhận
xét thông thường, thì ta có một cái thân; ta đi, đứng, nằm,
ngồi; ta có một cái tâm để suy xét, phân biệt, nhớ chuyện quá
khứ, tính chuyện tương lai? Thế mà bảo mà không có ngã thì thật
là vô lý. Lại trong kinh cũng thường nói: ta thường tự ngăn ngừa
và tụ giữ lấy ta, làm lành tự mình được hưởng điều lành, làm dữ,
tự mình chịu hưởng quả dữ. Vậy nếu bảo rằng không có người,
không có ta, thì thật là trái với nhận xét và lý luận thông
thường.
Xét về các pháp cũng
vậy, bảo rằng không thì cũng là vô lý. Nếu không có sắc pháp thì
làm sao có thân ta, có cảnh giới chung quanh ta? Ừ, thì thân ta,
do ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, giả hợp mà thành.
Những thứ này cũng là pháp cả. Thí dụ nếu ta chia chẻ cái sắc
pháp ra thành nhỏ mãi, thì cuối cùng, dù nhỏ đến không thể chia
chẻ được nữa, cũng vẫn là sắc, chứ sắc không thể chia ra mà
thành "không" được . Ngược lại, nếu đã là không , thì không thể
đem cái "không" ấy nhân lên mãi mà thành "có" được. Cũng như
trong toán học, dù có nhân bao nhiêu lần với con số không
(zero), thì không cũng vẫn là không .
2.- Ðệ nhất nghĩa
môn: Ðệ nhất nghĩa môn, hay chơn đế, là nói về phương diện
tuyệt đối. Ðứng về phương diện này mà xét, thì Ngã và Pháp điều
là giả có, chứ không thật có. Khi năm uẩn hòa hợp thì tạm gọi là
ta; khi năm uẩn tan ra thì cái thấy không còn nữa. Vã lại cái ta
thấy, trong lúc còn sanh tiền, thì mỗi phút, mỗi giây cũng đều
có thay đổi, biến chuyển chứ không thuần nhất là bất biến.
Các pháp cũng vậy, tương
đối mà nói thì có, nhưng tuyệt đối mà xét thì cũng không thật
có. Các pháp cũng do nhân duyên hòa hiệp mà tạm gọi là có, chứ
không thể có một cách tuyệt đối, nghĩa là không thuần nhất và
bất biến. Vì thế cho nên Phật dạy: "các pháp đều là như huyễn
như hóa". Kinh Bát nhã cũng nói: "sắc chẵng khác gì không ,
không chẵng khác gì săc, sắc tức không , không tức sắc"...Tóm
lại, đứng về đệ nhất nghĩa môn mà xét, các pháp rốt ráo là
chơn-không . Chơn-không là thế nào? Chơn-không có nghĩa là: chơn
pháp của các pháp trong vũ trụ vốn là chơn thật, nhưng không
phải là có các hình tướng như các hình tướng giả dối mà người
đời thường thấy ở chung quanh. Cái "có" và cái "không " ở trong
đời, đối với chân đế, hay đệ nhất nghĩa đế, đều giả dối, không
thật.
Nên biết cái "không "
hiểu theo nghĩa chơn đế, khác với "không" hiểu theo nghĩa tục
đế. Cái "không" của Chơn đế thì gọi là Chơn không; còn cái không
của Tục đế là cái "không" đối đãi với cái "có" mà thành, đó là
không giới. Chơn không thường vắng lặng tịch diệt ra ngoài cái
đối đãi của "có" và "không" phàm tục. Còn không giới chẳng qua
là cái sắc đối với nhãn căn đó thôi. Chơn không không phải là
sắc; không giới mới là sắc. Chơn không, không thấy được. Chơn
không không đối tượng; không giới thuộc về đối tượng. Chơn không
là vô lậu. Không giới là hữu lậu. Chơn không là vô vi, Không
giới là hữu vi.
3.- Tương quan giữa
Thế giới môn (Tục đế) và Ðệ nhất nghĩa môn(Chơn đế): Theo đệ
nhất nghĩa môn thì chơn lý của vũ trụ vốn Chơn không tịch
diệt,vắng lặng; theo thế giới môn thì có ta và người, có sắc và
không, nghĩa là có ngã và pháp. Vậy thì giữa Thế giới môn và Ðệ
nhất môn có tương quan gì với nhau không? Làm sao mà Chơn không
tịch tịnh lại phát sanh ra ngã và pháp, nghĩa là từ chổ Chơn
không lại phát sanh ra chúng sanh và sơn hà đại địa?
Thành thật tôn cắt
nghĩa: đó là vô minh. Các pháp trong vũ trụ, thể tánh vốn vắng
lặng, tịch diệt, nhưng vì do tâm vọng tưởng phân biệt mà có rối
loạn, lăng xăng. Nói một cách rõ ràng hơn, bản tánh của vũ trụ
vốn là không có ngã, không có pháp nhưng vì "hai món chướng" mà
thấy có ngã và pháp. Hai món chướng ầy là:
a) Phiền não chướng:
tức là các nghiệp chướng về Kiến hoặc, Tư hoặc. Chướng này vì
chấp cái ta mà thiệt có, nên mới sanh các phiền não, rối loạn
thâm tâm, chướng ngại đạo Niết bàn tịch tịnh. Chướng này, trong
Câu xá luận, thì gọi là "tánh nhiễm ô vô tri".
b) Sở tri chướng:
cũng gọi là trí chướng. Căn bản của chướng này, là chấp các pháp
thật có, làm che lấp cái tánh vô điên đảo đối với các cảnh mình
hay biết, làm chướng ngại đạo Bồ đề. Chướng này trong câu xá
luận gọi là "bất nhiễm ô vô tri" (không nhiễm ô nhưng vẫn thuộc
về si mê không biết, vì làm cho mình không chứng rõ được chơn
lý).
4.- 84 pháp: Như
chúng ta đã thấy trong Câu xá tôn, những hiện tượng của nhơn
sanh và vũ trụ, được phân thành 75 pháp. Theo Thành thật tôn,
thì nhân sanh, vũ trụ lại được chia thành 84 pháp. Còn Pháp
tướng tôn lại chia thành 100 pháp. Như thế, chúng ta nên hiểu
rằng sự phân chia ra ít hay nhiều pháp chỉ là một vấn đề tương
đối, chứ không có nghĩa nhất định. Sự phân loại các pháp này,
chỉ có một mục đích là để nghiên cứu cho rõ ràng nhân sanh, vũ
trụ mà thôi. 84 pháp mà Thành tật tôn đã phân loại là:
14 Sắc pháp: 5 Căn, 5
Trần, 4 Ðại. 50 Tâm pháp: 1 Tâm vương, 49 Tâm sở (so với Câu xá
tôn, thì có ba Tâm sở là Hân (tánh hớn hở), Yểm (tánh nhàm chán)
và Thùy miên và Câu xá tôn ghép thành một Tâm sở, còn Thành thật
tôn thì chia làm hai là Thùy và Niêm).
17 Phi sắc phi- tâm pháp
(tức là Bất tương ưng hành pháp). Về loại này, Thành thật tôn
hơn bên Câu xá tôn ba pháp: Thành thật tôn hợp ""Mạng căn " và
"Ðồng phận" lại là một, nhưng lại thêm: Lão, Tử, Phàm phu và Vô
tác (tức là Vô biểu sắc bên Câu xá tôn).
3 Vô-vi pháp (như bên
Câu xá tôn) Trạch diệt vô-vi, Phi trạch diệt vô-vi và Hư không
vô-vi.
III.- Phương Pháp Tu
Hành
Phương pháp tu hành của
Thành thật tôn cũng gần giống như của Câu xá tôn; nhưng vì Câu
xá tôn chủ trương "nhơn không pháp hữu"; còn Thành thật tôn thì
chủ trương "nhơn không pháp không ", nên về phương pháp tu hành
của Thành thật tôn, đặc biệt có hai pháp quán là: Ngã không quán
và Pháp không quán.
1.- Ngã không quán
và Pháp không quán:
a) Ngã không quán:
như quán trong cái bình không có nước, thì gọi là Không. Quán
thân ta do năm uẩn hòa hợp giả tạm mà có, chứ không có một cái
ta chân thật. Pháp quán này mục đích là nhận rõ lý ngã (nhơn)
không, nên gọi là " Ngã không quán".
b) Pháp không quán:
như sau khi quán cái bình không có nước, lại quán thêm một tầng
nữa để thấy rằng, thể chất của bình cũng không chân thật. Áp
dụng pháp quán này trong thân người, hành giả đi đến kết luận
rằng: không những cái ta là không thật, do ngũ uẩn tạo thành; mà
chính các pháp tạo ra ngũ uẩn cũng không chơn thật. Ấy là pháp
quán về pháp không.
2.- Ba tâm và diệt
đế: Phương pháp này cũng gần giống như hai pháp quán
trên, nhưng đi xa hơn một tầng, nghĩa là không chấp có, nhưng
cũng không chấp không. Ba tâm là:
a) Giả danh tâm:
tức là cái tâm chấp những giả danh, như chấp người ta là có
thật. Ðối với sự chấp trước này, hành giả dùng trí huệ mà quan
sát, biết nó đều là nhơn duyên hòa hợp mà sanh, tức chứng được
lý nhơn không.
b) Pháp tâm: là
cái tâm chấp pháp thể năm uẩn là thực có. Ðối với sự chấp trước
này, hành giả dùng trí Chơn không mà trừ bỏ, thấy được pháp
không.
c) Không tâm: là
cái tâm chấp cái "không " là thật có, nghĩa là đã quán biết được
nhơn ngã, Pháp ngã đều không, mà lại chấp cái "không" là thật.
Như thế, chấp "có" đã là sai, mà chấp "không" lại càng sai hơn.
Vậy phải quán Ngã, Pháp đều không, mà cái không ấy cũng không có
tướng nắm bắt, nhận thấy được, như không giới. Rốt lại chỉ còn
cái "Chơn không " là chơn lý tuyệt đối, ngoài cái "có" và
"không" của phàm tục. Ðến đây tức là Diệt đế.
IV.- Quả Vị Tu Chứng
Về quả vị tu chứng, tôn
này cũng giống như Câu xá tôn, có 27 từng bực, tức là 27 vị Hiền
Thánh.
a) Dự lưu hướng:
Dự lưu hướng, nghĩa hướng tới dòng thánh; nói một cách nôm na,
hành giả đang đi dần đến để nhập vào dòng thánh, như chiếc
thuyền dang đi trên dòng sông con, để vào con sông cái. Dự lưu
hướng gồm có 3 bực sau đây:
1.- Tùy tín hành:
Tùy tính nghĩa là nghe theo lời dạy của các bậc đã chứng quả,
rồi tin và tu tập theo.
2.- Tùy pháp hành:
Vị này không còn đợi có những lời dạy bảo của các bực thánh
hiền, nhưng chỉ thuận theo chánh pháp mà tự tu hành.
3.- Vô tướng hành:
Là bậc kiến đạo, thấy được chơn lý của lý diệu đế, trí vô lậu đã
phát sanh.
b) Dự lưu quả:
Tức là quả tu đà hoàn. Bực này đã dứt hết những kiến hoặc trong
ba cõi, dự vào dòng thánh đạo.
c.) Nhứt lai
hướng: Bực này đã dứt được năm phẩm tư hoặc ở cõi Dục
giới, đang hướng đến quả Nhứt lai.
d.) Nhứt lai quả:
Bực này đã dứt được phẩm tư hoặc thứ sáu ở cõi Dục giới, nhưng
còn phải trở lại một lần cuối cùng (nhứt lai) ở cõi Dục giới.
đ) Bất hoàn hướng:
Bực này đã dứt được hai phẩm tư hoặc thứ bảy và thứ tám ở cõi
Dục giới, và đang tu hành để hướng đến quả Bất hoàn, là quả
thoát ra vòng Dục giới và không còn trở về Dục giới nữa.
e) Bất hoàn quả:
Bực này đã hoàn toàn dứt được 9 phẩm tư ở cõi Dục giới, cho nên
không trở về cõi Dục giới nữa. Quả này gồm có 11 bực như sau:
1.- Trung ban:
Bực này, sau khi ở cõi Dục giới vừa chết, sắp sanh lên cõi Sắc
giới, cái thân trung ấm tuy còn ở vào khoảng trung gian mà đã
dứt trừ các mê lầm phiền não của cõi Sắc giới, nên vào ngay Niết
bàn.
2.- Sanh ban: Bực
này sau khi lên cõi Sắc giới, chẳng bao lâu thì vào Niết bàn; ấy
là do sự siêng năng về đường tu đạo mà mau tới vậy.
3.- Hứu hành ban:
Bực này sau khi sanh về cõi Sắc giới, tu hành tinh tánh mãi
không nghỉ, mà vào được Niết bàn.
4.- Vô hành ban:
Bực này trái lại, sau khi sanh vào cõi Sắc giới, vì trễ nãi
đường tu hành, nên thành quả dù chậm đến, nhưng cuối cùng cũng
vào Niết bàn.
5.- Lạc huệ ban:
Bực này sau khi sanh vào cõi Sắc giới, lại lần được sanh vào Sắc
cứu kính là cõi cao nhất ở cõi Sắc giới mới vào Niết bàn. Cõi
trời Sắc giới có định, có huệ, bực này lấy huệ làm vui nên gọi
là "Lạc huệ".
6.- Lạc định bàn:
Bực này không chịu vào Niết bàn nơi cõi Sắc giới, mà còn muốn
chuyển sanh lên cõi Hữu đảnh là cõi cao của Vô sắc giới, mà vào
Niết bàn. Trong cõi Vô sắc giới này, chỉ có định mà không có
huệ, hành giả lấy định làm vui, cho nên gọi là Lạc định.
7.- Chuyển thể:
Bực này sau khi ở cõi Dục giới, chứng được quả Dự lựu và Nhất
lai, đáng lẽ sanh về cõi Sắc giới hay Vô sắc giới, nhưng hành
giả lại chuyển sanh vào cõi Dục giới mà tu hành, chứng được quả
Bất hoàn rồi vào thẳng ngay Niết bàn.
8.- Hiện ban: Bực
này không sanh vào cõi Sắc giới, Vô sắc giới, cũng không cần
chuyển sanh, chỉ tu tập trong một thời kỳ, chứng luôn ba quả,
rồi đi thẳng từ cõi Dục giới vào Niết bàn.
9.- Tín giới: Bực
này, vì căn cơ hơi chậm lụt, nên chỉ tin theo lời dạy bảo của kẻ
khác mà tu hành, chứng được quả Bất hoàn.
10.- Kiến đắc:
Bực này, trái lại với bực Tín giới ở trên, chứng được quả Bất
hoàn là nhờ có căn cơ lanh lợi, tự nương theo trí huệ của mình
mà thôi.
11.- Thân chứng:
Bực này là bực lợi căn tột độ, chứng được Diệt tận định. Mười
một bực Bất hoàn quả kể trên này, không phải có thứ bậc tuần tự
mà hành giả phải vượt qua. Ðây chỉ là 11 trường hợp khác nhau
trong quả Bất hoàn, do căn cơ lanh lẹ, hay chậm lụt, do sở
nguyện hay hoàn cảnh, tâm tính khác nhau mà ra. Nhưng dù sao,
thì cũng là ở trong quả Bất hoàn cả, không có cao và thấp hơn và
kém, và đều gọi là A la hán hướng, nghĩa là đang hướng đến quả A
la hán.
Nếu kể từ bậc đầu tiên
là: Dự lưu hướng cho đến bậc Bất hoàn quả, gồm cả thảy 18 bậc,
thì gọi là bậc Hữu học.
Còn chín bậc cuối cùng
sau đây là chín bậc A la hán quả, cũng gọi là bậc Vô học.
g) A la hán quả:
Quả vị này gồm có 9 bậc, cũng gọi là Vô học, nghĩa là không cần
phải học hỏi gì nữa.
1.- Thối pháp tướng:
Thối nghĩa là thối lui. Thối lui ở đây không có nghĩa là thối
lui về sanh tử, làm chúng sanh, mà thối lui về cảnh thiền định
đã đặng, như các bậc độn căn La hán.
2.- Thủ hộ tướng:
Thủ hộ là gìn giữ bảo hộ. Thủ hộ tướng tức là bậc La hán gìn giữ
bảo hộ cảnh thiền định đã được, không mất.
3.- Tử tướng: Là
bực La hán rất nhàm chán thế gian, lại sợ thối mất chỗ chứng ngộ
của mình, nên muốn vào liền cõi Niết bàn.
4.- Trú tướng: Là
bực La hán, căn cơ không thể tu tới mà cũng không đến nỗi thối
lui, chỉ giữ về bực trung mà thôi.
5.- Khả tấn tướng:
Khả tấn là có thể tiến thêm nữa. Ðây là bực La hán đã chứng được
bực thiền định, mà còn tu tới mãi.
6.- Hoại tướng:
Ðây là bực La hán,căn cơ chậm lụt, nhưng vẫn giữ được không thối
lui, mặc dù gặp phải duyên trở ngại.
7.- Huệ giải thoát:
Bực La hán này đã chứng được Diệt tận định, được chơn trí vô
lậu, đã giải thoát các phiền não, nhưng chưa ly được sự chướng
ngại về cảnh thiền định.
8.- Cầu giải thoát:
Ðây là bực La hán đã giải thoát được cả huệ chướng và định
chướng; nghĩa là không còn bị trí huệ hay thiền định làm chướng
ngại nữa.
9.- Bất thối tướng:
đây là bực La hán có căn cơ lanh lợi, bao nhiêu công đức trí huệ
đã tu tập đều không thối lui hay là tiêu mất được .
Tóm lại, mặc dù quả vị
tu chứng của yôn này có chia ra đến 27 bậc, nhưng đó là muốn
chia chẻ một cách rốt ráo của từng trường hợp, chứ đại khái cũng
giống như quả vị tu chứng trong Câu xá tôn. Thật vậy, nếu chúng
ta đem so sánh quả vị của hai tôn Câu xá và Thành thật, thì sẽ
thấy như sau:
Câu Xá Tông
1.- Tu-đà-hoàn (hay
Nhập-lưu)
2.- Tu-đà-hàm
3.- A-na-hàm (hay
Bất-lai).
4.- A-la-hán (hay
Vô-sanh Vô-học)
Thành Thật Tông:
1.- Dự-lưu-hướng và
Dự-lưu-quả.
2.- Nhứt-lai-hướng và
Nhứt-lai-quả
3.- Bất-hoàn-hướng Và
Bất-hoàn-quả
4.- A-la-hán (Vô-sanh,
Vô-học).
V.- Kết Luận
Thành-thật tôn, cũng như
Câu xá tôn, đều thuộc các tôn phái của Tiểu-thừa Phật giáo. Giáo
lý căn bản của hai tôn cũng gần giống nhau, chỉ có khác ở điểm:
Câu xá tôn thì chủ trương "nhơn không pháp hữu" , còn Thành-thật
tôn thì chủ trương "nhơn không pháp không ". Như thế, Thành thật
tôn đã bước thêm một bước lại gần Ðại-thừa Phật giáo hơn. Ðó là
một điểm chứng-minh rằng theo với thời gian, Tiểu-thừa và
Ðại-thừa càng xích lại gần nhau hơn. Với cái đà ấy, chúng ta hy
vọng rồi đây, giữa biên giới hai phái lớn của Phật giáo sẽ được
xóa hết, chỉ còn lại một danh từ, một cái đạo chung cho cả thế
giới là Ðạo Phật.
Hoài bảo ấy, hiện tổng
hội Phật giáo thê giới đang cố gắng thực hiện qua nhiều quyết
nghị trong các đại hội Phật giáo thê giới. Và ở Việt nam hoài
bảo ấy được thể hiện trong những ngày đầu năm 1964, dưới danh
hiệu Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất. Trong giáo hội này,
các giáo phái Ðại Thừa đều thề nguyện chung sức chung lòng để
phát huy nền Phật giáo Việt nam mỗi ngày thêm rạng rỡ.
Tổng Kết Về Mười
Tông
Chúng ta đã có một cái
nhìn tổng quát vê mười tôn. Chúng ta đã hiểu sơ qua sự thành lập
tôn chỉ và giáo lý căn bản, sự tu hành và chứng quả của mười
tôn. Vì đây là những bài học phổ thông, nên chúng ta không thể
đi sâu vào chi tiết,và phạm vi cũng như thời gian không cho phép
chúng tôi nói nhiều hơn nữa. Nếu quý vị đọc giả nào muốn hiểu rõ
ràng hơn, hãy tìm các kinh sách nói về mười tôn ấy.
Mặc dù vắn tắt, qua
những bài học này, chúng ta có thể nắm được những điểm chính căn
bản của mỗi tôn.
Mỗi tôn, tuy có một tôn
chỉ một chủ trương riêng, nhưng tôn nào cũng thờ đức Phật Thích
Ca làm giáo chủ, và dựa trên các kinh điển của ngài đã nói mà
lập tôn.
Sự sai khác chẵng qua là
cách giải thích vũ trụ hữu hạn và phương pháp tu hành. Chứ còn
những điểm chính căn bản, thì mọi tôn phái công nhận giống nhau,
là: có một chân như trong suốt, linh diệu bên trong vũ trụ hện
hữu, làm nền móng cho mọi hiện tượng ở thế gian này. Chúng sanh
không công nhận được cái chân như ấy, vì chúng sanh bị vô minh
che ám; nhưng với phương pháp tu hành mà đức Phật Thích ca đã
dạy bảo, chúng ta sẽ giác ngộ và thể nhập với các chân như ấy.
Nếu sự giải thích vũ trụ
vạn hữu có nhiều cách, và phương pháp tu hành có nhiều lối là vì
xu hướng và trình độ và căn cơ của chúng sanh không đều; cũng
như phương pháp chữa bệnh, phải tùy bệnh nặng nhẹ, phải tùy
người mà cho thuốc, làm sao cho bệnh nhân lành bệnh là lương y
giỏi.
Chúng ta rất không may,
ở vào thời kỳ mạt pháp, không có lương y giỏi. Nhưng sự giải
thích căn bệnh và phương pháp chữa bệnh của các bậc đại lương y
là giáo lý của các tôn phái, đang còn đó. Chúng ta hãy tự nghiên
cứu lấy căn bệnh của chúng-ta, và hãy lựa phương thuốc nào thích
hợp với bệnh của chúng ta mà uống thì chắc chắn chúng ta sẽ lành
bệnh.
Từ xưa đến nay câu hỏi
này đã làm cho bao nhiêu đầu óc phải vô cùng bối rối, thắc mắc,
và có khi đến cuồng loạn. Bao nhiêu mực đã chảy, bao nhiêu giấy
đã chất chồng, bao nhiêu bọt mép đã khô cạn để thuyết minh về
vấn đề trên. Nhưng cuối cùng nhân loại vẫn chưa thấy được thỏa
mãn.
Về phía các triết gia,
người thì cho vũ trụ do nước tạo thành, người thì cho do không
khí, người cho do hơi nóng, người cho do tứ đại ...tạo thành.
Về phía các tôn giáo,
thì hầu hết đều tin vũ trụ do một Tạo vật chủ dựng nên. Tạo vật
chủ ấy tùy theo các tôn giáo mà có tên khác nhau: hoặc Brahma,
hoặc Ngọc Hoàng thượng đế, hoặc Chúa trời, hoặc Jéhovah ...vậy
vấn đề này, do Phật trả lời như thế nào?
B.-Chánh Ðề:
I.- Ðặt Vấn đề Tiên
Quyết.
Phật giáo, khác với các
tôn giáo khác, không tin có Tạo vật chủ. Ðối với Phật giáo, thì
vũ trụ vạn hữu sanh ra, không nhờ một đấng nào, hay một phép nào
ở ngoài nó cả, mà chỉ do tự kỷ nhân quả tiếp nối mà thành. Cái
quả bây giờ là do cá nhân ở trước, các cái nhân ở trước là do
cái quả ở trước nữa; cứ như thế đi ngược trở lên mãi, nhân này
quả nọ, không bao giờ cùng. Như thế, đối với Phật giáo; vũ trụ
là vô thỉ (không có cái ban đầu). Mà đã vô thỉ thì làm sao có
cái duyên nhân đầu tiên?
Sở dĩ người đời tin phải
có một sự bắt đầu, là vì với sự nhận xét có giới hạn của mình,
thấy vật gì cũng có cái bắt đầu cả. Thí dụ: cái bàn, trước khi
chưa có thợ mộc đóng thì nó không có; hay con gà, sanh ra là do
mẹ nó...tương đối mà nói, thì cái bàn hay con gà có một sự sanh
thành; nhưng nếu chúng ta đừng cắt xén thời gian và không gian
ra từng khoảng một như thế, thì chúng ta thấy rằng trước cái bàn
không phải là không có gì hết mà phải có gỗ, trước gỗ là cây,
trước cây là hạt...Con gà cũng như thế, trước con gà, có con gà
mẹ; trước con gà mẹ, thì nó là con, do một con gà mẹ khác sinh
ra...
Nguyên nhân thứ hai làm
cho người đời tin có một sự bắt đầu của vũ trụ vạn hữu là ý niệm
sai lầm về quan niệm "có và không ".với con mắt trần nông cạn và
hẹp hòi, khi chúng ta thấy một khoảng trống thì gọi là không;
khi thấy một vật có màu sắc; hình dáng, trọng lượng...thì gọi là
có. Và cũng do sự quan sát hẹp hòi, nông cạn, chúng ta thường có
quan niệm rằng: "cái không" có trước "cái có". Thí dụ: một
khoảng đất kia, thường ngày chúng ta đi ngang qua nó, nhận thấy
trên ấy không có nhà cửa gì cả, ta gọi là đất trống. Bặt đi một
dạo độ 6 tháng, ta không đi ngang qua dó nữa. Bây giờ có việc đi
qua đó lại, ta thấy một tòa nhà đồ sộ cất lên, ta tự bảo khoảng
đất ấy hết trống rồi. Trước là không có bây giờ là có. Ta phóng
đại ý nghĩ ấy ra và cho rằng: "cái không" có trước "cái có", hay
"cái có" bao giờ cũng đến sau "cái không". Và chúng ta dẫn ra
suy luận ấy đi xa hơn để kết luận rằng "cái không": mà thành cái
có được, tất nhiên phải có một cái khác tạo ra.
Nhưng chúng ta đã suy
luận sai, và cái sai lầm ấy bắt đầu từ quan niệm về "có" và
"không".
Trước tiên, chúng ta
quên rằng: khoảng đất kia không phải là trống không, hoàn toàn
không có gì cả, mà trống ở đây có nghĩa là không có nhà. Và cái
"có" sau này là có nhà, chứ không phải là hoàn toàn có, vì một
ngày kia nó cũng sẽ tan rã, và trở thành không.
Cái "có" và "không" ở
đây là "có", "không" tương đối. "Có" là một cái gì, "không" cũng
là một cái gì. Còn nói một cách tuyệt đối, thì trong vũ trụ này
chưa bao giờ có một cái không hoàn toàn không cả. Cũng như cái
có mà ta thường thấy chung quanh ta cũng không phải hoàn toàn,
vĩnh viễn có. "Có, không" đều tương đối, nghĩa là dựa vào nhau
mà thành. Hoặc trong một chỗ này có thì chỗ khác không, hoặc đắp
đổi nhau trong thời gian có trước rồi không sau, hay không trước
rồi có sau. Khi ấy lấy riêng ra từng pháp mà xét, thì thấy tuần
tự có thành, trụ, hoại, không, nhưng xét toàn thể thì phút giây
này cũng đồng thời có thành, có trụ, có hoại, có không cả.
Như thế, để kết luận:
không phải cái không xuất hiện trước cái có."Không và có" đều có
một lần. Và vì thế, cho nên không thể có nguyên nhân đầu tiên
của cái có.
Trong hiện tượng giới ta
thấy có sanh diệt, có thể có, chúng ta cho là vô thường. Nhưng
nếu xét toàn thể vũ trụ, đứng về thật tại giới, thì chẳng có
sanh diệt mà vạn hữu là thường trụ.
Như trên đã nói, không
có nguyên nhân đầu tiên. Và do đó, ta sẽ đặt sai vấn đề, nếu ta
hỏi: "nguyên nhân đầu tiên là gì"? và ta lại càng đi xa hơn nữa
trong sự sai lầm, khi hỏi: "Ai sáng tạo ra vũ trụ vạn hữu"?.
Phải đặt câu hỏi này mới
đúng: "Thật thể của cái có và cái không tương đối (tức là vũ trụ
vạn hữu) là như thế nào? hay thật tại của vũ trụ như thế nào?".
Ðó là câu hỏi thứ nhất,
nhắm mục đích tìm hiểu thật thể, thật tánh, thật tướng, hay nói
theo danh từ triết học, nhắm mục đích tìm hiểu thật tại của vũ
trụ vạn hữu.
Câu hỏi thứ hai là:
"Phát nguyện từ thật tại, vũ trụ vạn hữu đã hình thành và biến
chuyển bởi nguyên nhân gì, và như thế nào?".
Ðây là hai câu hỏi
chính, sau đó, chúng ta có thể thêm vào những câu hỏi phụ như:
"Vũ trụ rộng hay hẹp, có cùng hay không cùng?"...
Trả lời câu hỏi thứ nhất
đạo Phật có Thật tướng luận; trả lời câu hỏi thứ hai; đạo Phật
có Duyên khởi luận; trả lời câu hỏi thứ ba: Phật dạy: Vũ trụ hay
thế giới là vô lượng vô biên vô cùng vô tận.
Dưới đây, chúng ta lần
lượt trình bày những vấn đề trên.
II.- Thật Tướng Luận
Thật tướng luận là lý
thuyết giải bày vê thật thể của vũ trụ. Thật thể hay thật tướng
của vũ trụ, đạo Phật thường gọi là chơn như. Chơn như nghĩa là
chơn thật, không giả dối. Như là luôn luôn như thế, không biến
đổi, không sanh diệt, không còn mất, vô thỉ vô chung. Vậy chơn
như là một thật thể không biến đổi, không sanh diệt, không còn
mất, vô thỉ vô chung, sáng suốt, có đủ tất cả những diệu dụng
đức tánh.
Ðể chỉ chơn như nhiều
khi Phật giáo, tùy theo mỗi trường hợp, cũng gọi bằng những danh
từ như: Chơn tâm, Viên giác, Thắng nghĩa, Phật tánh, Giác tánh,
Pháp tánh, Như như, Nhứt như...
Thật ra thì khó mà kể
cho hết những danh từ chỉ cho Chơn như. Nhưng dù có kể hết, thì
cũng chỉ là kể danh từ, chứ không thể nhận thấy được Chơn như,
chỉ có những vị giác ngộ mới trực nhận, mới thể nhập, hay thể
chứng mà thôi.
Ngôn ngữ, văn tự chỉ có
thể diễn tả được hiện tượng giới; còn khi muốn trình bày về thực
tại, thì trở thành bất lực. Và càng bám vào, càng y như cái nhất
thiết vào văn tự, ngôn ngữ lại càng đi xa thật thể, chân như.
Một triết gia Pháp, ông Bergson đã nói rất đúng rằng: ngôn ngữ,
danh tự đã cắt xén Sự Sống (thật tại) ra thành manh mún. Thật
thế, mỗi tên gọi, mỗi chữ đều có một phạm vi, một nội dung nhất
định của nó. Đồng một cái có hạn lượng để đo lường, dò xét một
cái không hạn lượng, vượt ra ngoài không gian và thời gian, thì
chắc chắn là phải sai lầm.
Cho nên thái độ đúng đắn
nhất, để trực nhận thật thể chân như là im lặng, lìa xa văn tự,
ngôn ngữ. Ðó là thái độ mà đức Phật đã áp dụng lần đầu tiên sau
khi chứng đạo dưới cây Bồ đề.
Nhưng nếu không nói gì
cả thì làm sau cứu độ được chúng sinh, làm sao đưa nhân loại đến
bờ giác. Cuối cùng đức Phật phải nói. Nhưng khi nói đến cái khó
nói nhất là "Thật tại" hay "Chơn như", thì đức Phật không thể
dùng một lối như thông thường được. Do đó, mà chúng ta thấy
trong kinh điển Phật giáo, có những cách nói mới nghe thì rất vô
lý, gàn dở như: cũng có, cũng không, không phải không, không
phải có, không phải đồng, không phải khác, cũng đồng cũng khác,
không phải một,không phải nhiều, không phải nhớp, không phải
sạch, vân vân và vân vân...
Nhưng, mặc dù đã nói như
thế rồi, đức Phật vẫn sợ người đời chấp vào những câu nói ấy mà
cho là thật, nên Ngài lại rào đón thêm nữa: "Chân lý như mặt
trăng, giáo lý ta dạy như ngón tay để chỉ mặt trăng cho các
người thấy. Ðừng nhận lầm ngón tay ta là mặt trăng". Hay: "Những
điều ta biết như lá trong rừng, và cái ta nói như nắm lá trong
tay này". Hay: "Y theo kinh điển giải nghĩa thì oan cho tam thế
chư Phật, nhưng lià kinh ra một chữ thì lại đồng với ma thuyết
". Hay: "Suốt đời, Như lai chưa nói một câu nào".
Tóm lại, mục đích của
Thật tướng luận là muốn cho chúng ta nhận chân rằng: Thật tại,
hay Chơn như không thể dùng ngôn ngữ văn tự mà thấy được; trái
lại, phải bỏ tất cả danh tướng mà trực nhận. Nhưng để có một ý
niệm thô thiển về Chân như, hãy tự bảo rằng: "Chân như là cái gì
trái hẳn với hiện tượng giới". Hay: "Hiện tượng giới là mặt trái
của Chơn như".
Nhưng, khi nói đến hai
chữ "mặt trái" đừng liên tưởng rằng có một "bề mặt" như bao
nhiêu bề mặt ta thường thấy trong hiện tượng giới.
III.- Duyên Khởi Luận
Duyên khởi luận tức là
những lý thuyết nói về nguyên nhân hay lý do sanh khởi của hiện
tượng giới.
Duyên khởi luận trong
Phật giáo có nhiều thuyết; những thuyết này không trái ngược
nhau, mà chỉ khác nhau về phương diện sâu cạn, rốt ráo hay chưa
mà thôi. Vậy chúng ta hãy tuần tự đi từ cạn đến sâu:
1.- Nghiệp cảm duyên
khởi: Nghiệp cảm duyên khới luận là chủ trương của Tiểu-thừa
nguyên thỉ Phật giáo. Lý thuyết này rút ra từ trong "Tứ diệu đế"
và "Thập nhị nhân duyên". Như chúng ta đã học về "Tứ diệu đế",
Phật dạy nguyên nhân của đau khổ, của sanh tử luân hồi là do
"hoặc nghiệp". Hoặc tức là mê vọng; có hành động sai lầm, vì
hành động sai lầm nên chịu quả đau khổ...và cái vòng nhân quả
luân hồi cứ tiếp tục mãi, tạo ra có chánh báo là thân ta và y
báo tức là sơn hà đại địa. Sơn hà đại địa sở dĩ có là có một
cách tương đối với thân ta mà thôi. Khi nghiệp nhân biến đổi thì
nghiệp quả cũng biến đổi và do đó chánh báo và y báo cũng biến
đỗi theo. Người khi tạo những nghiệp nhân làm người thì đời sau
đầu thai lại, chánh báo vẫn là người và y báo vẫn là sơn hà, đại
địa như người đã nhận thấy. Nhưng nếu tạo những nghiệp nhân dữ,
thì chánh báo ở đời sau sẽ là loài súc sinh hay ngạ quỷ, và y
báo, tức là cảnh giới ở chung quanh cũng không còn giống như
cảnh giới của người nữa, nghĩa là vũ trụ, vạn hữu sẽ biến đổi
theo tầm mắt và sự hiểu biết của các loài ấy. Do đó mà gọi là
"nghiệp cảm", nghĩa là do nghiệp như thế nào, thí cảm thọ cái
thân và cảnh như thế ấy. Nói một cách tổng quát, do nghiệp lực
mà có thân (chánh báo) và thế giới (y báo). Chánh báo và y báo
có thể thế này hay thế khác, tốt hay xấu, là do nghiệp lành hay
dữ. Nhưng dù sao, hễ còn nghiệp là còn có hiên tượng giới. Dứt
trừ được nghiệp là trở về với Chân như, là nhập Niết bàn.
2.- A lại da duyên
khởi: Thuyết này thuộc về Ðại Thừa Thỉ giáo, đi sâu hơn
thuyết trên một tầng. Trong thuyết nghiệp cảm duyên khởi, chỉ
nói có sáu thức là nhãn, nhỉ, tỹ, thiệt, thân, ý. Sau khi chết,
ngũ uẩn tan rã, nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai. Nhưng dẫn dắt
cái gì? Lục thức hay ý thức sanh diệt vô thường, biến chuyển
luôn luôn, thì nghiệp dù còn, mà lấy gì giữ gìn cái nghiệp quả,
khiến cho nó triển chuyển không dứt?
Ðại Thừa thỉ giáo, bổ
khuyết cho thuyết trên, tìm thấy trên hai thức nừa là Ðệ thất
thức hay Mạt na thức, và Ðệ bát thức hay A lại da thức.
Mạt na nghĩa là cầm bắt
lấy chỗ thấy biết, nghĩa là tự nhận có một cái ngã, và gìn giữ
cái ngã ấy. Nhưng làm sau giữ được cái giả ngã ấy, trong lúc ngũ
uẩn, lục thức đều sanh diệt vô thường hợp ly mãi mãi?
Vậy thì dưới Mạt
na thức, tất phải có một
thức khác thường tại, trùm chứa tất cả chủng tử của các pháp mới
được.
Ðó chính là thức thứ
Tám, hay A lại da thức, hay tạng thức (thức trùm chứa). Thức này
không phải vô thường như ngũ uẩn, mà là hằng khởi, thường tại.
Nó có hai công năng: một là thâu nhiếp tất cả các pháp, hai là
sinh khới tất cả các pháp. Khi chúng ta gây thiện nghiệp hay ác
nghiệp, thì những chủng tử được dồn chứa vào Tạng thức, đến khi
đủ nhân duyên thì những chủng tử ấy phát ra hiện hành.
Bởi A-lại-da thức bao
gồm hết thảy chủng tử của chư pháp, nên nó phát hiện được hết
năng lực vô hạn của vạn tường. Khi căn thân của ta vừa phát sanh
là nó bao gồm hàm khách quan giới (tức là vạn vật). Khách quan
giới thiên sai vạn biệt là do trong chủ quan giới có ý thức tác
động mà ra.
Tóm lại, A lại da thức
là cái căn bản của hiện tượng giới. Từ vô thỉ, A lại da thức đã
bao gồm chủng tử. Hiện tượng giới do chủng tử này mà phát hiện.
Hiện tượng đã phát hiện thì kích thích phát sinh duyên mới, dẫn
đến chỗ tác dụng. Như thế, chủng tử cùng hiện tượng, nhân quả
nhau mãi, mà làm cho hiển hiện vạn hữu, và làm nền móng qua bao
kiếp nhân quả luân hồi.
Nhưng, nếu A lại da thức
là nền móng của nhân quả luân hồi, thì A lại da thức cũng là căn
nguyên của giải thoát, vì trong A lại da thức có đủ cả chủng tử
hữu lậu và chủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu là những hạt giống
phát sanh ra thiên sai vạn biệt, tức là hiện tượng giới; còn
chủng tử vô lậu, đối với ngoại giới biết có hư vọng, cho nên
không để cho tâm vọng đọng, do đó có thể đưa đến sự giải thoát.
3.- Chân như duyên
khởi: Thuyết này là của Ðại Thừa Chung giáo. Theo Ðại Thừa
Chung giáo thì chân như tùy duyên sanh ra muôn pháp; hay nhất
thiết duy tâm tạo. Tâm bao gồm tất cả và có hai phương diện: về
phương diện động, thì tâm là cái cửa của Chân như.
Nhưng vì sao, cũng một
tâm mà có hai phương diện tương phản như thế? Ấy bởi vô minh.
Chân như vốn là thường trụ, bất động, nhưng bởi vô minh làm
duyên, khiến cho nó vọng động, làm ra thiên sai vạn biệt. Vô
minh không phải là vật có thật, nó dựa vào tâm thể mà có. Nó là
một vọng niệm, cho nên trong kinh thường nói: "hốt nhiên niệm
khởi, gọi là vô minh". Do cái vọng niệm ấy mà thấy có chủ quan,
có khách quan, có tự ngã, có phi ngã, có vũ trụ, vạn hữu.
Nhưng vạn hữu không phải
ngoài tâm mà tồn tại được. Chân như tuy bị vô minh kích thích mà
diêu động, nhưng trong động có tịnh, trong tịnh có động, cũng
như nước và sóng ở trong biển: Ðứng về phương diện nước mà nhìn
, thì tất cả sóng đều là nước: đứng về phương diện sóng mà nhìn,
thì tất cả nước đều là sóng. Tâm dụ cho biển, Chân như dụ cho
nước, và vạn tượng giới dụ cho sóng. Chúng sanh, vì vô minh che
lấp nên chỉ thấy có vạn tượng giới; Bồ tát và Phật vì đã trừ vô
minh nên thấy vạn tượng là chân như: Tịnh là chân như, Ðộng là
vạn tượng. Ðộng, Tịnh không rời nhau, không cùng là một, nhưng
cũng không phải là khác nhau. Ðó là hai phương diện của Tâm. Ðể
chỉ hai phương diện này, trong kinh thường có câu: "Tùy duyên
bất biến, bất biến tùy duyên". Tùy duyên tịnh, sanh ra tứ thánh,
tùy duyên nhiễm sanh ra lục phàm. Từ tịnh trở thành động là đi
vào cửa của sanh diệt, và đó cũng là nguyên nhân phát triển của
vũ trụ vạn hữu. Từ động trở về tịnh là đi ra cửa chân như, và đó
cũng là nguyên nhân của giải thoát.
4.- Lục đại duyên
khởi: Lục đại duyên khởi là chủ trương của Mật tôn hay Chơn
ngôn tôn. Lục đại là: địa, thủy, hoả, phong, không (tức là không
gian) và thức. Năm đại trước thuộc về sắc pháp (tức là vật), đại
thứ sáu thuộc về tâm pháp (tức là tâm). Sáu đại này mỗi mỗi đều
dung thông, ngăn ngại nhau, và tùy duyên sanh khới ra vũ trụ vạn
hữu.
Chia ra vật và tâm là
trí thức của ta phân biệt ra như thế, chứ bản thể của thật tại
vẫn là một, vẫn không thể phân chia được. Vật là hình tướng, tâm
là lực hoạt động. Lực không lìa được hình. Lìa hình thì lực
chẳng tồn tại được. Còn hình nếu không nhờ lực thì không phát
hiện được. Vật và tâm là hai phương diện ủa bản thể nhứt như.
Ta có dây là do Lục đại
kết hợp mà ra. Lục đại ly tán thì ta không còn. Còn mất chẳng
qua là một cuộc đổi thay của Lục đại mà thôi. Lục đại kết hợp và
ly tán làm thành vũ trụ hoạt động. Ðứng về phương diện tổng quát
mà nhìn, thì vũ trụ là một sự hoạt động không ngừng của Lục
đại.
Chân như là thực thể của
lục đại, mà lý tánh của ta trừu tượng được. Lìa hiện tượng không
có thật thể được, lìa vật không có lý được.
Thánh, phàm khác nhau,
thiện, ác khác nhau ở chỗ biết hay không biết phân biệt chân như
với hiện tượng.
5.- Pháp-giới duyên
khởi: Pháp giới duyên khởi là chủ trương của Ðại -thừa
viên-giáo (Hoa-nghiêm tôn). Thuyết này cho rằng pháp-giới (tức
là vũ trụ vạn-hữu) là một duyên khởi rất lớn nghĩa là các pháp
làm nhân, làm duyên cho nhau, nương tựa, tương phản, dung thông
nhau mà thành lập.
Cái năng lực chủ động
của pháp-giới duyên khởi không phải thuộc về "nghiệp lực" của
chúng sanh, không phải ''tạng thức'' sai biệt sanh diệt của
A-lại-da, cũng không phải cái "lý tánh bình đẳng " bất sanh bất
diệt của chân như, mà chính là do vạn pháp, pháp này dung thông
với pháp kia, pháp kia dung thông với pháp này, cùng nhau làm
duyên khởi, mỗi lớp mỗi lớp không cùng tột, cho nên gọi là "vô
tận duyên khởi" hay "trùng trùng duyên khởi".
Như thế, vũ trụ vạn hữu
là một cuộc đại hoạt động của hiện tượng, từ vô thỉ đến vô
chung, nối tiếp và lan tràn vô cùng tận, như những đợt sóng. Vì
có hoạt động nên mới có sanh diệt chuyển biến, tức là không có
vạn tượng, không có vũ trụ.
Sở dĩ các pháp làm nhân,
làm duyên hòa hợp, dung thông nhau được là do mười đặc tánh kỳ
diệu mà Ðại -thừa viên giáo gọi là "mười món huyền môn ". lại do
mười môn "huyền môn " này, mà trong pháp-giới, Sự, (chỉ cho sự
tướng sai biệt), Lý (chỉ cho lý tánh bình đẳng) Lý-sự và Sự-Sự
được dung thông vô ngại (xem lại bốn "pháp-giới " và mười "huyền
môn" trong bài nói về Hoa Nghiên tôn).
Trong duyên khởi luận
của Phật giáo, chúng ta thấy có năm thuyết. Ðó là: Nghiệp-cảm
duyên khởi, A-lại-da duyên khởi, chân như duyên khởi, Lục-đại
duyên khởi và pháp giới duyên khởi. Có người ngạc nhiên tự hỏi:
tại sao cũng là Phật dạy cả, mà lại bất nhất như thế? Khi thì
Phật dạy chúng sanh và thế giới do Nghiệp-cảm mà phát sanh, khi
thì dạy do A-lại-da thức, khi thì do chơn-như, khi thì do
Lục-đại, khi thì Trùng Trùng duyên khởi, vậy thì viết theo lý
thuyết nào đúng?
-Sự sai khác đó là vì
căn cơ của chúng sanh không đồng, phải dắt dẫn dần dần từ thấp
đến cao, chúng sanh mới hiểu được.
Ðối với hàng Tiểu-thừa
thì Phật nói: "nghiệp", vì hàng Tiểu-thừa chưa nhận được tạng
thức, chúng tử....lần lên đến Ðại -thừa Thỉ-giáo, các bậc này vì
mới hướng về Ðại -thừa, chưa rõ chơn như tùy duyên sanh ra các
pháp, nên Phật chỉ nói về "A-lại-da thức". Ðến Ðại-thừa Ðốn giáo
vì hạnh này chưa nhận được lý "Trùng Trùng duyên khởi", nên Phật
nói "Chơn như tùy duyên sanh ra các pháp ". Ðến Ðại-thừa Viên
giáo, thì các bậc Bồ Tát căn cơ đã thuần thục, nên Phật mới nói
đến "Lục đại " và "Trùng Trùng duyên khởi".
Sự sai khác ở đây, chỉ
là sai khác về tầng bậc, chứ không phải sai khác về nội dung;
sai khác về khía cạnh đứng nhìn và tầm mắt rộng hẹp, chứ không
phải sai khác về bản chất.
Nhìn một cách nông cạn
và nhỏ hẹp thì chỉ thấy có nghiệp lực; nhưng nhìn sâu hơn và
rộng hơn tí nữa thì thấy: dưới cái nghiệp lực, là A-lại-da thức.
Nhìn sâu và rộng hơn nữa thì thấy dưới A-lại-da thức là
Chân-như.
Vì Chân-như tùy duyên mà
sanh ra hiện tượng. Trước thì bảo rằng có A-lại-da thức mới phát
khởi ra hiện tượng. Ðây thì tự Chơn-như tùy duyên mà hiện tượng
phát khởi. Khi đã khám phá ra Chân-như rồi, nếu nghiên cứu kỹ
lưỡng tường tận hơn nữa, thì nhận thấy Chân như không phải là
một cái gì xa lạ, mà chính là chân-như nằm ngay nơi vạn tượng.
Chân-như là khía cạnh Tịnh, mà vạn tượng là khía cạnh Ðộng của
một cái gọi là "Nhất như" hay "Tâm". Nhưng nếu đi sâu hơn nữa,
thì Tịnh và Ðộng không phải là hai khía cạnh riêng rẽ, mà chính
ngay trong Ðộng có Tịnh, trong Tịnh có Ðộng. Ðộng là "sự" (vạn
tượng), Tịnh là "lý" mà ta trực nhận được qua "Sự" qua cái
"Trùng Trùng duyên khởi" của vạn hữu.
Ðến "Chân như duyên
khởi" luận là ta đã tìm đến cái căn nguyên của vũ trụ vạn hữu.
Nhưng nếu còn phải nói đến "Lục đại duyên khởi" và "Pháp-giới
duyên khởi" là muốn tìm hiểu cái hành tướng, cái then máy của
vạn tượng để trực nhận chơn như. "Lục đại duyên khởi'' luận là
dựa trên kinh nghiệm mà suy diễn chân như . Hai luận này không
khác nhau về nội dung hay từng bực, mà chỉ khác nhau về luận
pháp mà thôi. Một bên đi từ Sự đến Lý, một bên đi
từ lý đến sự.
Nếu có thể dùng một ví
dụ để chứng minh một cách cụ thể những lý lẽ vừa nói đến trên
đây, chúng tôi xin mạn phép dùng một thí dụ thô sơ sau đây,
nhưng xin thưa trước rằng thí dụ không phải là lý lẽ, mà chỉ nói
lên một khía cạnh nào của lý lẽ mà thôi. Chúng ta đi vào xem một
rạp hát kỳ lạ, khi đèn đã tắt và không biết trên sân khấu người
ta đã bắt đầu trình diễn từ lúc nào. Rạp hát tối mò, trên sân
khấu cũng không sáng mấy, mà chúng ta đứng ở đàng sau xa. Trước
sân khấu, nhiều lớp màn mỏng buông xuống (dụ cho vô minh). Khi
chúng ta vào thì một tấm màn từ từ kéo lên. Chúng ta thấy lờ mờ
những cánh tay, những cái chân và cái miệng của một con nộm nhân
đang múa máy, ca hát trên sân khấu. Chúng ta đoán chắc ở phái
trong, ở đàng sau con nộm nhân ấy có một động lực (dụ cho nghiệp
cảm duyên khởi) làm cho con nộm nhân kia múa máy, ca hát.
Một cái màn nữa vén lên
và ta tiến tới thêm một mức nữa để nhìn. Chúng ta thấy bóng dáng
một người đang đứng sau con nộm nhân kia (dụ cho A-lại-da duyên
khởi). Một cái màn nữa vén lên và ta tiến tới gần sân khấu hơn
nữa. Ta thấy rõ ràng hơn. Thì ra con người và nộm nhân là một:
con người mang lớp nộm nhân và đã múa máy ca hát (dụ cho Chơn
như duyên khởi). Một bức màn nữa được kéo lên, và ta đi sát đến
sân khấu, ta nhìn thấu suốt đến hậu trường. Ta thấy rõ mỗi vật,
mỗi người, từng chi tiết một trên sân khấu, sự liên lạc giữa vật
này với vật kia, giữa người làm trò, người kéo màn, người đạo
diễn v.v....(dụ cho Lục đại duyên khởi).
Sau khi đã quan sát kỹ
lưỡng sân khấu, ta xây mặt lại nhìn khán giả, và ta đã khám phá
một bí mật vô cùng quan trọng: sự liên lạc mật thiết giữa người
đóng trò và khán giả. Người đóng trò vui thì khán giả vui, người
đóng trò than thở thì khán giả buồn. Ngược lại, khán giả cũng
ảnh hưởng rất nhiều đến người đóng trò: người đóng trò tuân theo
ý muốn của khán giả, khi đóng hay thì khán giả vổ tay hoan hô và
bắt buộc diễn viên phải đóng lại; khi diễn dở, thì khán giả la
ó, phản đối ...Diễn viên và khán giả, hậu trường và tiền trường,
tất cả một rạp hát đều liên lạc mật thiết với nhau, làm nhân
duyên cho nhau, ảnh hưởng mật thiết lẫn nhau (dụ cho Pháp-giới
duyên khởi).
Ðể kết luận về chương
Duyên Khởi luận này, chúng ta có thể tóm tắt như sau:
-Nghiệp cảm Duyên Khởi,
muốn nói nghiệp lực và nguyên nhân của hiện tượng giới. Nghiệp
bỡi mê hoặc mà có.
-A-lại-da Duyên Khởi,
muốn nói: căn nguyên của hiện tượng giới là a-lại-da thức.
A-lại-da bao trùm tất cả chủng tử hữu lậu mà phát sanh vũ trụ
vạn hữu. Muốn giải thoát khỏi hiện tượng giới thì phải hành, tập
và làm phát hiện chủng tử vô lậu.
-Chân như Duyên Khởi, là
muốn nói: chân như vì duyên với vô minh mà diêu động và làm phát
sanh ra vũ trụ vạn hữu.
- Lục đại Duyên Khởi và
Pháp-giới Duyên Khởi là hai thuyết mường tượng giống nhau, đều
thuyết minh hai phương diện hiện tượng và thật thể của nhất-như.
Bất tri bất giác là cái nguyên nhân của hiện tượng. Tri giác
được thì giải thoát được.
Những thuyết trên này
đều có những điễm giống nhau: mỗi thuyết đều công nhận có chơn
như là bản thể của vũ trụ vạn hữu. Cái nguyên nhân làm sanh khởi
vũ trụ vạn hữu là mê vọng hay vô minh. Muốn giải thoát thì phải
trừ cho được mê vọng.
IV.- Không Gian Và
Thời Gian Của Pháp Giới
Chúng ta đã nói về
nguyên nhân sanh khởi của vũ trụ, vạn hữu. Ðến đây chúng ta hãy
nghe Phật dạy về sự rộng lớn vô biên và sự tồn tại vô cùng của
vũ trụ, hay pháp giới.
1.- Không gian:
Theo lời dạy của các kinh, thì vũ trụ hay nói theo danh từ của
Phật giáo: pháp-giới rộng lớn vô cùng vô tận. Thế-giới mà chúng
ta ở đây không phải là một, mà nhiều như cát sông Hằng. Cứ một
ngàn thế giới nhỏ hiệp thành một Tiểu-thiên thế giới; hiệp một
ngàn Tiểu-thiên thế giới thành một Trung thiên thế giới; hiệp
một ngàn Trung thiên thế giới thành một Ðại -thiên thế giới, hay
"tam thiên đại thiên thế giới". Mỗi tam thiên đại thiên thế giới
gồm có một ngàn triệu thế giới của chúng nhỏ như thế giới ta.
Hơn nữa, vũ trụ không phải chỉ có một Ðại-thiên tam thiên đại
thiên thế giới, mà gồm có vô số Ðại-thiên tam thiên đại thiên
thế giới.
2.- Thế gian:
Phật đã dạy: "các pháp hữu vi, bất cứ một pháp nào cũng đều bị
bốn thời kỳ chi phối, tức là thành, trụ, hoại, không". Thế giới
cũng vậy, không thể thoát ra ngoài cái luật: thành, trụ, hoại,
không ấy được. Nhưng biết vì trong pháp giới có không biết bao
nhiêu thế giới, nên sự thành, trụ của một thế giới này là sự
hoại không của một thế giới khác, cứ như thế mà xoay vòng không
dứt.
Nếu lấy riêng ra một thế
giới để đo lường thời gian, thì chúng ta sẽ có một con số như
sau: Mỗi một thế giới đều có bốn thời kỳ hay bốn trung kiếp; mỗi
trung kiếp có hai mươi tiểu-kiếp, mỗi tiểu kiếp có mười sáu
triệu (16.000.000) năm. Như thế một thế giới từ khi thành lập,
đến khi tiêu diệt, phải trải qua: 4x20x16.000.000 =
1.280.000.000. Nhưng chúng ta đã biết thế giới nhiều như cát
sông Hằng, thì sự tồn tại của Pháp-giới lâu dài không thể suy
tính, nghĩ bàn được.
Ỏ đây, chúng ta không có
ý nêu lên một con số như trên đễ đo lường đích xác sự rộng lớn
và sự dài lâu của Pháp-giới là bao nhiêu. Chúng ta chỉ có mục
đích là nêu lên những con số để có ý niệm về "sự vô cùng cô tận,
vô thỉ, vô chung" của Pháp-giới mà thôi. Ý-niệm ấy, ngày nay
cũng được khoa học tán đồng.
C.- Kết Luận:
Pháp-giới tuy rộng lớn
vô cùng vô tận, nhưng như chúng ta đã thấy trong đoạn nói về
"Duyên khởi luận", pháp-giới và nhân sanh ảnh hưởng trực tiếp
lẫn nhau. Hơn nữa, như trong nghiệp cảm duyên khởi đã nói: vũ
trụ do nghiệp lực của chúng sanh chiêu cảm kết thành; nghiệp
lành chiêu cảm thì thân căn được viên mãn, mà vũ trụ cũng tốt
đẹp; còn nghiệp dữ chiêu cảm thì thân căn xấu xa mà vũ trụ ô uế,
lắm tai họa.
Còn theo như A-lại-da
duyên khởi đã nói: do chủng tử trong A-lại-da thức huân tập và
hiện hành mà chúng ta có căn thân về thế giới như thế này hay
thế khác. Nếu chúng ta huân tập chủng tử hữu lậu thì chúng ta
quay cuồng mãi trong cảnh giới đau khổ, ô trược; nếu chúng ta
huân tập chủng tử vô lậu, thì chúng ta sẽ thoát ra khỏi cảnh
giới khổ đau này.
Theo trình độ, căn cơ
của chúng ta hiện tại thì hai thuyết trên này thích hợp với
chúng ta hơn; còn ba thuyết dưới thì vì cao quá, khó mà thực
hành cho được.
Vậy chúng ta hãy nghe
lời của Phật dạy trong hai thuyết "Nghiệp cảm duyên khởi" và
"A-lại-da duyên khởi" mà cải tạo vũ trụ và nhân sinh.
Trong hai pháp này, về
nghiệp thì chúng ta nên dứt trừ "sự hoặc" và "lý hoặc" cải tạo
các nghiệp dử đổi lại các việc lành, tức là ta chiêu cảm lấy quả
báo đời sau được thân thể và vũ trụ rất trang nghiêm tốt đẹp,
không còn bị khổ quả như hiện nay nữa.
Về chủng tử, thì hằng
ngày chúng ta nên cẩn thận trong sự huân tập. Bởi vì công việc
hằng ngày đều ghi vào tạng thức chúng ta, không khi nào mất
được. Ta phải huân tập những điều chân lẽ chính của thánh hiền.
Còn về phần tu tập, chúng ta phải quán tất cả các pháp đều do
Duy thức tạo, và phải phá trừ ngã chấp và pháp chấp.
Làm được như thế, chắc
chắn chúng ta sẽ cải tạo thân thể và vũ trụ xấu xa này trở thành
trang nghiêm tôt đẹp
Ðã là người không ai
không băn khoăn tự hỏi mình do đâu mà có? Sự hiện diện của mình
trên cõi đời này như thế nào? Hoàn cảnh của mình sống như thế
nào? v.v...Thật là bao nhiêu vấn đề, bao nhiêu câu hỏi làm người
ta băn khoăn, thắc mắc, ăn không yên, ngũ không yên.
Ðể giải quyết các vấn đề
trên, các triết học và tôn giáo đều có đưa ra những lời giải đáp
hay biện minh về "vấn đề sống" ấy, gọi là nhân sinh quan.
Là một tôn giáo, có một
triết học rất cao, đạo Phật tất nhiên cũng có dành một phần lớn
để nói về nhân sinh quan.
Nhân sinh quan ấy như
thế nào? Ðó là một vấn đề mà mỗi Phật tử chúng ta không thể
không biết đến được. Sự hiểu biết này có thể giúp chúng ta nhận
chân được những ưu điểm và khuyết điểm của con người và giúp
chúng ta sắp đặt cuộc đời và sống một cuộc sống có ý nghĩa và
lợi lạc cho mình và cho xã hội.
B.- Chánh Ðề:
I.- Nhân Sinh Quan Do
Ðâu Mà Có?
Trước tiên, vấn đề làm
chúng ta thắc mắc nhiều nhất là:
Con người do đâu mà có?
Ðể giải đáp vấn đề này,
đạo Phật có thuyết "mười hai nhân duyên".Trong mười hai nhân
duyên ấy, vô minh là căn bản. Vô minh là gì? Tức là đối với sự
lý, không rỏ biết được đúng như thật. Do đó mà sanh ra mê lầm,
thật cho là giả, giả cho là thật, điên đảo hư vọng chấp ngã,
chấp pháp, phân biệt mình, người; rồi theo cảnh thuận nghịch mà
theo cảnh phiền não, nên củng gọi là "hoặc". Từ mê hoặc mà tạo
tác ra các nghiệp, hoặc thiện hoặc ác. Sự tạo tác ấy gọi là
"Hành", chi thứ hai trong mười hai nhân duyên.
Do nghiệp lành dữ huân
tập chứa nhóm thành ra "nghiệp thức". Nghiệp thức này theo chổ
huân tập thuần thục rồi thác sanh vào thai mẹ, đó là món "Thức",
chi thứ ba trong mười hai nhân duyên.
Trong thai mẹ, gom tinh
huyết làm nhục thể, tâm thức cùng nhục thể hòa hiệp gọi là "Danh
sắc" đó là chi thứ tư rong mười hai nhân duyên, (Danh: Tâm thức;
Sắc: Nhục thể).
Từ Danh sắc lần lần
tượng đủ sáu căn, gọi là "Lục nhập". Ðó là chi thứ năm trong
mười hai nhân duyên.
Sau khi ra khỏi thai,
sáu căn xúc đối với sáu trần, biết nóng, lạnh, đau, êm...nên gọi
là "Xúc", chi thứ sáu trong mười hai nhân duyên.
Do sự cảm xúc ấy, mà tâm
dần dần sanh niệm phân biệt, rồi có những giác thọ vui, khổ
...Ðó là "Thọ", chi thứ bảy trong mười hai nhân duyên.
Do sự cảm thọ vui ,khổ,
khởi niệm ưa ghét, chấp đắm ấy mà sanh ra có "Ái", chi thứ tám
trong mưởi hai nhân duyên
Vì tham ái nên tìm cầu
nắm lấy cái hay cái tốt, cái ưa thích. Ðó là "Thủ" chi thứ chín
trong mười hai nhân duyên.
Muốn cho thỏa mãn những
chổ nhiễm trước, ưa thích của "Ái" và "Thủ", nên phải tạo
nghiệp. Nghiệp này có thể chiêu cảm quả báo vị lai, nên gọi là
"Hữu" , chi thứ mười trong mươi hai nhân duyên.
Ðã có "Hữu" là cái mầm
giống, thì thế nào cũng có "Sanh" là chi thứ mười một trong mười
hai nhân duyên.
Ðã có "Sanh" thì phải có
"Lão và Tử" là chi thứ mười hai trong mười hai nhân duyên.
Trong mười hai nhân
duyên. "Vô minh" thuộc về "hoặc" và "Hành" thuộc "nghiệp". Ðó là
nhơn quá khứ mà có năm quả "Khổ" hiện tại là: Thức, Danh sắc,
Lục nhập, Xúc và Thọ.
Do quả "Khổ" hiện tại
nói trên mà khởi ra "Hoặc" là ái thủ và tạo "Nhgiệp" là hữu, để
làm nhơn cho quả "Khổ" sau là sanh và lão tử ở vị lai.
Như thế , từ nhơn quá
khứ, sang quả hiện tại, làm lại nhơn cho quả tương lai, ba đời
cứ nối tiếp xoay vần mãi mãi không dứt, như một bánh xe lăn
tròn, lên xuống, xuống lên không nghỉ.
Cứ đó mà suy ra thì biết
rằng, người chẳng những sống một đời trong hiệi tại này, mà
trước kia, về quá khứ đã trải qua không biết bao nhiêu đời sống
rồi. Và sau này, trong vị lai, cũng sẽ còn vô lượng đời sống
nữa. Người hiện sống đây để rồi chết, mà cái chết lại là cái
nhơn làm thành đời sống vị lai.
Như thế, sống, chết nối
tiếp theo nhau không bao giờ dứt, như những làn sóng, cái này
tan đi để hiệp lại cái khác, không bao giờ hết, nếu còn gió. Con
người, nếu gió vô minh còn thổi thì dòng sanh mạng còn lưu
chuyển, lăn trôi, chìm nổi mãi.
II.- Thân Người Như
Thế Nào?
Sau khi chúng ta đã biết
nguyên nhân gây tạo ra sự hiện diện của người trên cõi thế này
rồi, một câu hỏi khác hiện đến trong đầu chúng ta là: Thân con
người như thế nào? đẹp đẽ hay xấu xa, có thật hay giả, đáng quý
hay đáng khinh?
Ðể giải đáp vấn đề này,
đạo Phật có nhiều thuyết, tuy theo Tiểu Thừa hay Ðại Thừa, tôn
phái này hay tôn phái khác. Những thuyết ấy, mặc dù khác nhưng
không trái chống nhau, mà chính là bổ khuyết cho nhau, làm cho
vấn đề này được trình bày trong nhiều khía cạnh, từ hẹp đến
rộng, từ cạn đến sâu, từ ngoài đến trong, từ tướng đến thể, từ
biệt tướng đến tổng tướng...
Dưới đây chúng tôi xin
tuần tự trình bày các quan niệm ấy từ Nhơn thừa đến Thiên thừa,
qua Nhị thừa rồi cuối cùng đến Ðại Thừa, để quý độc giả có một
quan niệm đầy đủ đến vấn đề này:
1.- Quan niệm Nhơn
thừa: Thân người hòa hợp, do tinh huyết cha mẹ cùng thần
thức, góp bốn chất: Cứng, ướt, nóng, động mà thành. Chủ động
trong ấy là thức (nghiệp thức). Bởi nghiệp thức người nhóm các
duyên hội họp làm thân người. Nghiệp thức ấy có ra do bởi sự gây
tạo vì đời trước huân tập nơi tự tâm kết thành công năng có tánh
cách người, có thể cảm đặng thân người. Như vậy là từ nơi tự tâm
tạo tác hạnh nghiệp, các hạnh nghiệp ấy trở lại huân tập thành
công năng nghiệp người nơi tự tâm, cho đến khi công năng nghiệp
thức ấy thuần thục, gặp đủ các trợ duyên, chiêu cản hiện ra có
thân người. Vậy thân thể không phải tự nhiên không nhân mà có,
cũng không phải ai khác làm ra, mà chính do tự tâm tạo, tự tâm
biến hiện, nên có câu: "Tâm tạo nhứt thế" và câu "Tam giới hữu
tình, giai tuần nghiệp hữu". Thân thể theo nghiệp nhơn mà có,
nghiệp nhơn hữu hạn, nên thân thể có lúc rã rời. Trong khi thân
thể còn, từ nơi tự tâm tạo tác các hạnh nghiệp để gây thành công
năng chiêu cảm thân sau, và thân sau này sẽ thành hiện tại; khi
thân trứơc đã theo nghiệp báo mà tiêu diệt. Cho nên Phật giáo
đối với sự chết, chỉ là sự xoay biến của nghiệp nơi tự tâm, để
thay thân cũ, lấy thân mới.
Trong khi mọi người, vì
sự hiểu biết cạn hẹp đã lầm tưởng thân thể thoạt nhiên sanh, và
sau khi chết hoàn toàn tiêu diệt.
Chết để thay đổi thân
mới, sanh để thế thân cũ, xoay vần nơi vòng chết và sanh, sanh
và chết, thay thân cũ lấy thân mới, lấy thân mới để thế thân cũ,
như người thay y phục.
Vậy thân thể của người
hiện nay, chỉ là một thân trong vô lượng thân. Người đã thay bỏ
không biết bao nhiêu thân về trước, sau này người cũng sẽ phải
đổi thay không biết bao nhiêu thân nữa, nếu không một niệm "hồi
quan phản chiếu".
Sự sanh hiện tại, chỉ là
một lần sanh trong vô lượng lần sanh; và sự chết ngày nay cũng
chỉ là một phen chết trong vô lượng lần chết.
Phật giáo đối với sự
sanh, không tham câu, vì nó là vô thường không lâu không bền;
đối với sự chết, không sợ hãi, vì nó không phải mất hẳn đi, mà
chỉ là sự thay củ đổi mới. Không tham cầu, không hãi sợ, nên
Phật giáo đối với thân thể khác hẳn với thường tình trong đời.
Người ta thấy nơi người
đã thật hiểu Phật giáo, khi chết như khi sống, lúc đau như lúc
mạnh vẫn an hòa bình tĩnh.
Thân hiện có đây, là cái
quả của nghiệp thân đã tạo ra từ trước và thân sẽ có sau này là
do sự tạo nghiệp bây giờ, nên người trong Phật giáo đương thọ
lãnh báo thân hiện tai, dầu khổ hay vui đều nhận chịu một cách
vui vẽ và nhẫn nai, vì có kêu cầu chán nản thế nào không thể làm
gì được một khi đã kết quả, mà nhứt là chỉ lo lắng trau dồi cá
nhân, là đều có thể đổi xấu ra tốt, để hưởng lấy quả báo tốt đẹp
ở tương lai, tức là tu tập các pháp lành, cùng dẹp trừ tâm niệm
hành vi bạo ác.
Cõi người thuộc về đường
lành, mặc dầu chưa khỏi khổ, nhưng có thể tu tạo nghiệp nhơn để
hưởng lấy nhiều hạnh phúc ở thân người. Người ta sẽ bảo, hoặc sẽ
cảm thấy sự vui thú, sự hạnh phúc ở nơi người xinh đẹp khỏe
mạnh, đầy đủ tất cả nhu dụng, và sự khổ não, sự tai hại ở người
xấu xí, đau yếu, thiếu thốn các vận dụng.
Trong hội nói pháp ở Ta
Kiệt La Long Cung, đức Phật đã chỉ cho đại chúng biết sự sai
khác nơi thân thể của mọi loại, như thiên thân thể tốt đẹp uy
nghiêm, hàng Bát bộ sức hùng mạnh mẽ, loài rồng cả thân hình thô
bỏ xấu xa, bọn cua trạnh tanh hôi hèn yếu. Ðều là thân thể, tại
sao có tốt xấu khác nhau? Ðó là lúc bình sanh nơi thân, khẩu, ý
thi thố lành hay gây tạo dữ. Nghiệp lành cảm thân tốt đẹp; nhơn
dữ chiêu cảm quả xấu xa, do tự tâm tạo rồi tự thọ. Muốn chúng
sanh được thân thể tốt đẹp khỏe mạnh, để hưởng hạnh phúc trong
cõi người, trong kinh Thiện sanh đức Phật cặn kẽ chỉ dạy cách ăn
ở hợp pháp trong gia đình về nhơn đạo, lấy năm giới cấm làm căn
bản. Bất sát sinh để gây tạo thiện nhân, cảm thành quả thể xinh
đẹp khỏe mạnh sống lâu ở tương lai. Không trộm cắp gian tham để
làm thành nghiệp lành, hưởng quả no ấm đầy đủ cho thân thể tốt
đẹp. Trừ tà dâm để chiêu cảm thân hình đoan trang, cùng hưởng
phúc gia đình. Tránh vọng ngữ để được giọng nói điều hòa, trong
trẻo. Và kiêng rượu để khỏi phạm mấy điều trên, cùng gây dựng ở
hiện tại và vị lai, bộ trí óc sáng suốt.
2.- Quan niệm
Thiên thừa: Trọn vẹn năm giới cấm, nhân đạo đã hoàn
thành, đào tạo chắc chắn nghiệp chủng người tốt lành nơi tự tâm,
và sau này khi thuần thục sẽ cảm lấy thân thể làm người tốt đep
mạnh khỏe, trường thọ, giọng hay, óc sáng để hưởng hạnh phúc nơi
cõi người. Trên cõi người còn có các cõi Trời, về thân thể, mọi
phương diện đều hơn người; không như thân người phải thai sanh
nhớp nhúa, khổ sở vì các vị Trời được hóa sanh. Thân thể cực kỳ
xinh đẹp, cao lớn giống nhau, các căn đầy đủ, thấy suốt, nghe
xa, được thần thông tự tại theo ý muốn, đồ nhu dụng tự nhiên có,
cho đến khỏi tất cả bệnh tật. Thân thể thường khỏe mạnh luôn,
vẫn mãi trẻ trung không già; không như thân người đều không
tránh khỏi nỗi đau khổ vì bịnh hoạn, bức bách vì già yếu. Thân
thể các loài trong thế gian, chỉ có thân Trời là hơn hết, từ
những điều tốt đẹp của thân, nhẫn đến sự thọ dụng.
Từ đâu Chiêu cảm được sự
thù thắng ấy? Cũng như đã nói ở trước, tạo nghiệp nhơn gì thì tự
tâm sẽ gìn giữ nghiệp nhơn ấy, và sẽ chuyển hiện ra quả đúng như
vậy.
Như vậy ngay ở dưới ánh
sáng mặt trời, thì bóng của vật ấy thẳng; trái lại, vật ấy bóng
ác cong, muốn được bóng thẳng thì phải sửa sang cho vật ấy thật
ngay. Cũng như muốn được hưởng thân Trời, phải vun trồng nhiệp
nhơn Trời. Phật dạy 10 điều lành gọi là "thập thiện nghiệp" tức
là các đức tánh tốt, phát sanh từ thân, khẩu, ý tưởng, thật hành
hoàn toàn 10 nghiệp lành. Tự tâm trong sạch, thì nghiệp chủng có
công năng tốt đẹp, sẽ cảm thọ thân thù thắng, không bịnh tật,
khỏi già nua, trường thọ ở cõi Trời.
Ðức Phật dạy những
nguyên nhân và quả báo cùng sự tu hành, để khỏi bị những thân
xấu xa, khổ sở và được cảm hiện những thân cường tráng, vui vẽ
tốt tươi của người và Trời; chính là "Nhơn thừa Phật giáo" cùng
"Thên thừa Phật giáo" đối với thân thể.
Mặc dù vui vẻ ở thân
người, song thân người còn phải bị tám điều khổ lụy. Dầu thù
thắng ở thân Trời, song thân Trời chưa khỏi nạn vô thường, khi
nghiệp nhơn đã mãn (ngũ suy tướng hiện). Vì Trời và người đều
còn là phàm phu trong tam giới, vậy thân người và thân Trời chưa
phải là chổ đáng ham, nên trong Phật giáo còn có ba Thừa siêu
thoát ngoài vòng khổ lụy của ba cõi, tức là: Thanh văn thừa,
Duyên giác thừa và Bồ tát thừa.
3.- Quan niệm Nhị
thừa:
a).Thân bất tịnh:-
Lấy con mắt của hàng Nhị thừa xem nơi thân thể, chỉ là một giống
nhơ nhớp, do nhiều chất nhơ uế hòa hiệp. Các Ngài chỉ cảm thấy
nó là hiện tượng của muôn điều khổ sở, buộc ràng không có mảy
may chi đáng gọi là vui thú, nên có câu "thân vi khổ bổn". Và
thân thể là chổ nhơ, góp tất cả sự nhơ nhớp, cùng để rồi rã rời
tan át, nên có câu "thị thân bất tịnh, cách nang xú uế", và
""thị thân vô thường, tất quy tán diện". Thử nghiệm xem những sự
thống khổ ở trong thế gian từ đâu mà có? -Phải chăng do nơi thân
thể; các sự thống khổ như: lạnh,nóng,
đói, khát, mỏi, khổ, đau, nghịch trái...Ðều thuộc nơi về nơi
thọ, mà thọ có ra là
bởi lục căn tiếp xúc với lục trần, thân thể là chổ nương của lục
căn, nên sự khổ thọ lấy thân làm gốc. Vả lại, người đời không gì
khổ bằng: lúc sinh đau đớn kêu la, khi già lụm cụm run rẩy, lúc
ốm đau, yếu đuối bức rức, khi chết giãy giụa hãi hùng, bốn việc
đại khổ ấy, lại là cái khổ sanh, trụ, dị, diệt, của thân thể.
Xưa bốn thầy Tỳ kheo cho
ở đời sự sợ sệt, sự nóng giận, sự dâm dục cùng sự đói khát là
khổ nhứt. Ðã bị Phật quở trách vì chưa xét đến thân là gốc của
muôn điều khổ. Không thân thì các sự khổ: sợ, giân, dâm, đói từ
đâu mà có. Thấu đáo thay cho câu "thân vi khổ bổn" và câu "thân
như oan thù". Sự nhơ nhớp hôi hám của thân thể không thể tả
xiết. Người ta không nhớ quá khứ, không nghĩ đến vị lai, chỉ dòm
nơi hiện tại và dùng nào là quần áo phủ che, nào là xạ hương
xông ướp, để tự làm mê hồn mình, trước đồng hôi tanh bất tịnh.
Thử nhìn đến các chất
như cửu khiếu (9 lỗ cống) trong thân chảy ra, tự mình cũng đã
quá gớm của mình, chưa nói đến thân thể của người khác, nên
trong kinh có câu " chư khổ lưu bất tịnh".
Làn da mỏng là một cái
đãy mà trong đó chứa đầy những: máu, mủ, thịt, xương, đàm dải và
đại tiểu tiện v.v...Còn gì ghê tởm bằng khi một thân người bị
lột cả da và bị banh xé. Câu "Cách nạn xú uế" đã từ miệng Phật
thốt ra để cảnh tỉnh kẻ say đắm. Thân nhơ nhớp hiện tại từ đâu
mà có?- Từ ngày trước: điểm tinh, giọt huyết hòa lẫn trong khi
nghiệp thức vọng tưởng mê cuồng với sự giao hợp của cha mẹ mà
kết thành. Sự dơ dáy của tinh huyết, sự đáng nhờm của bào thai,
thật không bút mực nào tả hết, cho đến sau này nghiệp thức đã xa
lìa, thâh thể sẽ xanh cứng, sẽ sình chương, sẽ nứt nở ra lần để
làm ổ cho đám giòi tửa, làm chỗ cho ruồi kiến bu đậu, và để tiết
ra những chất nhơ nhớp nhứt và hôi tanh nhứt. Lúc mới kết hợp:
vọng tưởng tinh huyết bất tịnh; khi to lớn,: đàm đạnh, phân đái
máu mủ bất tịnh. Lúc chết tan rã hôi tanh bất tịnh. Như vậy thân
người là một vật bất tịnh nhứt trong các vật bất tịnh. Từ đầu
đến cuối, khi mới tượng sanh đến lúc hư mất, thảy đều toàn là
bất tịnh.
Trong thân nhơ nhớp bất
tịnh, đáng ghê tởm nhớp ấy, còn có một sự mà e nếu thấy hiểu,
người ta sẽ không còn ham muốn gì về thân thể. Từ lúc nào đến
lúc nào, bao giờ cũng ráp ranh đến chỗ tiêu diệt. Ðang trẻ
trung, thắm thoát đã già nua. Từ cái mạnh mẽ tươi tắn, không bao
lâu đổi thành yếu đuối, mệt nhọc, nhăn nheo. Trong khoảng thởi
gian ấy, không biết bao nhiêu sự đổi thay vô thường. Thân năm
trước không phải là thân năm nay, thân tháng trước không phải là
thân tháng tới, thân ngày nay không phải là thân hôm qua,cho đến
từng giờ từng phút, từng sát na cũng đã đổi khác. Ðã có đổi
thay, tất phải có lúc tiêu diệt, không ai có thể dừng được sự
thay đổi nhanh chóng của thân, và không có gì bảo đảm được cái
họa trạng hấp tấp mà mọi người đều sợ: "cái chết". Mạng sống
không khác chỉ mành treo chuông, chỉ chực đứt dây là rớt bể, nên
có câu: "nhơn mạng tại hô hấp gian". Một hơi thở ra mà không hít
vào, tức là đời sống của thân không còn, giờ tan rã sắp đến.
Than ôi! Thân là cội khổ, thân là bất tịnh, thân là vô thường,
có gì đáng sợ, có gì chán bằng thân. Ỏ nơi thân không có mảy mún
gi để chỉ có thể tạm gọi là đáng trìu mến, đáng thương tiếc!
Người tu hạnh Nhị thừa,
quán sát thấy thân như vậy, nên nhàm chán nơi thân, ghê sợ sanh
tử vô thường, gớm nhờm hôi tanh nhớp nhúa, do đó nên gấp lo tự
lợi, vội mong thoát ly thân, mà tu các pháp môn tu siêu diệt
thoát ly tam giới. Có người thấy rõ thân là khổ sở dơ dáy vô
thường như trên, rồi sợ quá, quá nhờm, bèn vội vàng tìm cách xa
lìa mau chóng: "tự tử". Mấy kẻ lầm to. Họ tự tử để chóng ra khỏi
thân, mà họ không biết rằng chính họ đang bồi đắp cho thân được
chắc chắn lâu dài. Vì thân có ra là do nghiệp nhơn, thân là quả
của nghiệp nhơn, muốn khỏi quả phải trừ nhơn, nay nhơn cứ tạo,
cứ gieo mà muốn đừng có quả, quyết hẵn không thể được. Không
khác nào người sợ bóng mình, muốn bóng mình không hiện, mà cứ
chạy trong ánh nắng. Khi Phật còn tại thế đã có một người có ý
tưởng sai lầm này, dó là ông Phước Tăng Tỳ kheo, ghét thân già
yếu đau khổ, toan thoát thân bằng cách treo cổ trên bờ suối, bèn
bị Ngài Mục Kiền Liên quở trách là khờ dại, cùng giải bày chánh
lý cho nghe. Sợ già, đau, sống, chết mà quyên sinh, thật là trở
lại gây tạo sự già đau sống chết. Người ta có thể dứt bỏ thân
hiện tại, song không thể rời bỏ muôn ngàn thân sẽ có ở vị lai,
khi nghiệp hoặc hãy còn. Nghiệp hoặc còn thì khi thân này hư,
tất lại tạo thành thân khác, có thân khác tất phải có già, đau,
sống, chết, khổ sở như vậy. Muốn thoát hẵn khổ lụy vì thân thể,
phải đoạn trừ cội gốc hiện ra thân, tức là phải dứt hoặc chướng
cùng nghiệp nhơn.
b).
Thân giả hợp: Cái gốc "hoặc nghiệp" đã trừ, thì cái ngọn là
"thân" tức nhiên phải khổ mục. Nhơn đã không còn thì quả cũng tự
mất. Thân sau không còn chiêu cảm thì các khổ lụy không nương
đâu mà có, tức là an vui giải thoát. Dứt được nghiệp hoặc thì vô
lậu huệ sanh, thành bựt Nhị thừa Thánh nhơn. Ðến đây thân thể
các bực này không còn thiệt thân thể, mà chỉ là sự kết cấu của
ngũ ấm, hay thập nhị xứ. Trong khi người thường nhận là thiệt có
thân thể, có đầu mặt tay chân, có hình dung động tác, mà với huệ
chứng của các Ngài thấy là sắc, là thọ, cho đến là thức; hay
thấy là: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; mỗi món có phần vị
riêng, không có cái gì có thể gọi là thân thể? khác nào như ở xa
có thấy một cụm rừng liền lạc um tùm, mà khi đến gần kề, thì chỉ
thấy cây cối rời rạc, thể của rừng không còn là thật. Cảnh giới
ấy đối với người chưa chứng đến, thật khó nhận hiểu, thán chỉ
không thiệt có, nó có chỉ là có đối với nghiệp thức của chúng ta
thôi. Nó đẹp, nó đáng ưa, cũng chỉ là phụ hợp với tình vọng ô
nhiễm, xinh đẹp đối với người này , chưa chắc hẵn đã xinh đẹp
với người khác. Nàng Tây Thi người đời ca tụng là đẹp , là đáng
yêu, mà chim gặp chim sợ bay xa, cá thấy cá sợ lẫn trốn. Nên
thân Nàng Tây Thi chắc thiệt là đẹp đáng yêu, thì sao chim cá
lại phải sợ hãi? Phải chăng sự đẹp ấy, chỉ là do đồng nghiệp của
loài người . Cho đến thân thể hình dáng tác dụng, chỉ có con mắt
thường của người . Một mỹ nhân cực kỳ lộng lẫy, nếu ta dùng
quang tuyến mà xem, thì mỹ nhân không còn, mà chỉ hiển hiện bộ
xương hồng trắng, và nếu ta dùng kính chiếu đại gấp trên ngàn
lần, thì ta chỉ thấy đó là một đống da thịt rời rạc, cách nhau
từng khoảng. Nếu mọi người đều mang con mắt quang tuyến, cùng
kính chiếu đại gấp ngàn lần, thì thử hỏi giữa đây, còn có cái gì
thiệt là thân như trước.
Huệ nhãn của các vị Nhị
thừa Thánh nhơn củng thế. Ðối với người thường là thân thế xinh
đẹp,với các ngài thì thân thể còn không có, huống nữ là xinh
đẹp. Chẳng phải là duyên cảnh khác, mà chổ thấy có sai khác.
Cũng đồng một cảnh, song vì thức trí khác nhau, nên chổ nhận
thấy thành kkhông đồng. Do không còn thấy là thật có thân thể,
nên các Ngài không còn sanh lòng luyến ái nơi thân không còn có
niệm: thân mình, thân người , vì tất cả đều là ngủ ấm, là lục
căn, lục trần; dưới huệ nhãn của các ngài, và hơn nữa đều đồng
là tứ đại giả hợp: da, thịt, gân, xương, tóc, móng toàn là địa
đại; tinh, huyết, đàm, nhớt, nước mắt, mồ hôi, toàn về thủy đại;
nhiệt độ thuộc về thủy đại; nhiệt độ thuộc về hỏa đại; cùng sự
chuyển động thuộc về phong đại. Tứ đại nếu trái nhau, thì thân
thể làm sao đặng có. Rõ biết thân thể là hư vọng, thì cả thảy
phiền não tự trừ, vì thân là căn bản của ái nhiễm khi bấy giờ vô
ngã trí phát sinh vĩnh viễn thoát ly sanh tử trong ba cõi, tức
là rốt ráo được Nhị thừa Phật giáo.
4.- Quan niệm Ðại
thưa:
a) Thân như huyễn hóa:
Mở rộng tầm quan niệm, thân thể đối với hàng tu quán Ðại Thừa,
là một giả pháp do sự kết cấu của sắc tâm và không rời ngoài
thức. Do danh ngôn, ngã chấp, hữu chi ba món huân tập nơi tự
thức, tọa thành danh và sắc công năng, khi đủ duyên bèn chuyển
hiện, thành thân thể, rồi bám lấy sắc thân, làm tự thể sanh giác
thọ, và cùng với thân đồng an đồng nguy; khi thức không còn cháp
trì, thì thân hoại diệt. Thân không tự có, do thức tự chuyển
biến mà có, thân không tự thể, lấy thức làm thể, toàn thân là
thức, ngoài thức không thân. Thân có là do thức công năng biến
hiên, công năng hiện thân, bởi các nghiệp duyên huân tập nơi
thức mà thành. Nghiệp duyên có ra, lại nương nơi thân mà phát
khởi nên thân thể là pháp hư giả, do thức biến hiện. Song từ nơi
thân thể tạo nghiệp nhiễm hay tịnh, làm duyên huân tập nơi tự
tâm, khiến tự tâm chuyển thành công năng nhiễm hay tịnh. Thân
thể cùng công năng xoay chuyển làm nhơn duyên cho nhau, có không
phải thiệt có, không không phải thiệt không, thật đồng huyễn
hóa. Vì đó nên với quán trí của Ðại Thừa thì thân thể như huyễn
hiện. Bởi như huyễn không thật có, nên không sa vào lỗi tăng ích
của phàm phu, cùng lỗi vọng chấp thường còn của ngoại đạo. Bởi
như huyễn, giả có chẳng phải không hẵn, nên khỏi bị lỗi tổn giảm
của Nhị thừa và chấp đoạn diệt của tà giáo.
Bồ tát nương nơi huyễn thân, tu như
huyễn pháp môn, nhứt huyễn ái kiến, độ huuyễn hữu
tình, chứng huyễn Thánh
quả. Do thấy thân như huyễn hóa, toàn hư vọng, không còn ái
trước nơi thân, nên phiền não không sanh. Không ái trước nơi
thân, thì khỏi vị thân mà phải thối thất đạo hạnh. Thọ vô lượng
thân, tu hành trải qua vô lượng kiếp, mà với Bồ tát, không có
một mảy may niệm tưởng là có thọ thân, cùng có sả thân.
Mảy niệm còn không,
huống gì có tiếp số, nên có câu: "thọ thị khổ...kiếp số phi kiếp
số". Vì thân tùy duyên như huyễn sanh, sanh tức vô sanh; thân
tùy duyên như huyễn diệt, diệt tức vô diệt, nên có câu: "chúng
duyên giả hiệp, hư vọng danh sanh, chúng duyên ly tán, hư vọng
danh diệt". Không sanh không diệt tức là "thật-tướng". Cổ đức có
câu: "huyễn thân bổn tự không tịt, sanh dụ như cảnh hình tượng.
Giác liễu nhứt thế không, huyễn thân tu dụ chứng thật tướng". Ðó
là từ nơi thân, quán "giả" nhập "không", chứng "trung đạo".
b) Thân mình và vũ
trụ là một: Thêm lên một từng nữa, Bồ tát quán thân mình tức
là toàn thể vũ trụ, là toàn thể chúng sanh. Vì sao? Tất cả các
pháp đều đắp đổi làm duyên, đối đãi với nhau. Một pháp này có
ra, là do đối đãi với các pháp kia, các pháp kia có ra, là do
đối đãi với pháp này. Thân thể hiện có, là nhờ vũ trụ đối đãi
làm duyên, vũ trụ trở lại là do sự đối đãi của thân thể mà có.
Duyên nơi vũ trụ mà có thân thể , thì thân thể là vũ trụ. Duyên
nơi thân thể mà có vũ trụ, thì vũ trụ là thân thể. Vũ trụ và
thân thể không hai không khác. Thân mình và toàn thể vũ trụ,
thân người cũng toàn thể vũ trụ. Cho đến thân của tất cả hữu
tình, cũng đều là thân thể vũ trụ. Toàn thể vũ trụ là thân mình,
mà toàn thể vũ trụ cũng là thân của tất cả hữu tình, và thân hữu
tình là toàn thể thân mình. Vũ trụ thể tánh viên mãn, thì thân
mình là thân tất cả hữu tình, thể tánh cũng đều viên mãn.
III.- Thân Phận Của
Con Người Ðáng Chán Hay Không Ðáng Chán
1.- Hoàn cảnh là địa vị
của con người trong vũ trụ như thế nào?
Như trong phần vũ trụ
quan đã có nói, thế giới có chia ra ba từng bậc là: Dục giới,
Sắc giới và vô Sắc giới. Sống trong Dục giới là những sanh vật
còn bị lòng dục sai tử, điều khiển, như thực dục, dâm dục. Những
loài sống trong Dục giới là: súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, a tu
la, người và chư thiên.
Như thế nào là người
cũng sống cùng một cảnh giới với các loài vừa kể trên. Vẫn biết
trong sáu loài ấy thì địa vị con người được xếp vào hạng nhì,
nhưng dù sao thì cũng không sống trong một hoàn cảnh không sáng
sủa gì, vì là hoàn cảnh là chủ tể là lòng Dục. Cho nên Phật
thường dạy: "Nước mắt chúng sanh nhiều hơn bốn biển" là thế!
Lòng dục đòi hỏi những sự ham muốn về vật chất như thèm ăn, thèm
ngủ, thèm ái ân...Nói tóm lại là muốn được thỏa mãn những khoái
lạc về ngũ quan. Nhưng đâu đã hết! Con người còn ham muốn được
thỏa mãn những nhu cầu về tinh thần: ham muốn chiếm đoạt, ham
muốn về chế ngự, ham muốn phô trương...nghĩa là tham danh tham
lợi.
Nhưng nếu tham mà được
thỏa mãn tất cả, thì cũng đở khổ. Ở đây, trái lại, lòng dục
không bao giời được thỏa mãn cả. May ra thì còn cỏ thể thỏa mãn
tạm thời trong chốc lát. Và như thế lại càng nguy hiểm, vì chẳng
khác gì người khát mà uống nước mặn, càng uồng càng khát.
Loài người bị trói buộc
vào lòng dục, như con ngựa bị buộc vào cổ xe, cứ phải kéo chạy
mãi, không bao giờ được yên nghỉ. Hơn nữa, lòng dục ấy chính là
cái mầm xung đột giữa loài này với loài khác: ai cũng mong được
thỏa mãn lòng dục của mình, cho nên sanh ra vị kỷ, làm khổ cho
người khác và loài khác để mình được vui. Do đó, mỗi chúng ta
sanh là một kẻ địch thù của mỗi chúng sanh khác, và cõi đời này
là một bãi chiến trường, mà trong mỗi phút mỗi giây, có không
biết bao nhiêu là chiến sĩ bị ngã gục. Do đó cõi chiến trường ấy
cũng là một bãi tha ma rộng lớn vô cùng. Theo Phật dạy thì đó là
một biển khổ mênh mông!
Biển khổ mênh mông sóng
lụt trời,
Khách trần chèo một
chiếc thuyền trôi,
Thuyền ai ngược gió, ai
xuôi gió?
Xét lại, cùng trong biển
thảm thôi
2.- Tánh chất vô thường
và vô ngã của con người: Con người khổ vì lòng dục, con người
còn khổ hơn nữa vì hai tánh chất căn bản sau đây:
a) Vô thường: Mọi
vật ở đời không đứng yên một chỗ, mà biến chuyển di động luôn
luôn trong từng phút, từng sát na. Thân phút trước, không phải
là thân phút sau. Cứ trong mỗi phút giây, bao nhiêu triệu tế bào
trong người đang chết và bị thay thế. Con người thì tham được
sống, mà con người cứ bị kéo dần về cõi chết. Càng muốn được
sống chừng nào, lại càng sợ chết chừng ấy. Sự chuyển biến mau
lẹ, từ tóc xanh đến bạc đầu, chẳng khác gì một giấc chiêm bao.
b)Vô ngã: Con
người cũng như mọi vật, sở dĩ có là do nhân duyên hòa hợp. Con
người chỉ là một cái tên, là một giả danh để gọi cái hợp của năm
uẩn là: sắc, thọ, yưởng, hành, thức. Khi đủ nhân duyên chúng nó
tập hợp lại thì gọi là sống, khi nó tan ra thì chết. Trong năm
uẩn ấy, có cái gì chủ tể, thuần nhất đâu? Vả lại, ngay trong năm
uẩn ấy cũng không có cái nào gọi là thuần nhất, mà cũng lại do
sự tập hợp của lục đại.
Không thường mà tưởng là
thường, không ngã mà tưởng là có ngã. Ðó cũng tức là cái mê mờ
lớn nhất của con người. Và cũng chính do cái mê mờ ấy mà con
người đau khổ lại càng đau khổ thêm.
3.- Khả năng của con
người: Xét như trên, thì thân phận con người thật là đáng chán.
Vậy thì chúng ta đành thất vọng, buông xuôi tay mà than khóc để
chờ chết hay sao? Ta còn niềm tin gì ở con người nữa chăng?
Tất nhiên là có! Phật
dạy: "Chúng sanh đều có khả năng thành Phật". Nói một cách khác,
con người, mặc dù sống trong đau khổ, nhưng đều có Phật tánh.
Với cái Phật tánh ấy, con người có thể thoát ra khỏi hoàn cảnh
tối tăm của mình. Ðể thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy, con người không
cần phải quỳ lụy, cầu xin một đấng nào khác, mà do tự lực và
hành động của mình. Chỉ có mình mới giải thoát cho chính mình
được mà thôi. Con người, chính là vị sáng tạo của đời mình. Khi
mê thì con người tự mình làm cho mình đau khổ, nhưng khi biết
mình mê mà tìm cách thoát ra khỏi cảnh mê, thì con người chính
là kẻ tự gầy dựng hạnh phúc cho mình.
Ðó là ưu điểm của con
người, đó cũng là niềm tin tưởng lớn của con người. Ðứng về một
phương diện, thì thân phận của con người thật là đáng chán.
Nhưng đứng về một phương diện khác, thì con người thật đáng phấn
khởi.
Cho nên bảo rằng nhân
sinh quan của đạo Phật là bi quan cũng không đúng hẳn. Lạc quan
hay bi quan còn tùy thuộc ở phương diện quan sát của mình.
C.- Kết Luận:
Rút những nhận xét trên,
chúng ta có thể nào kết luận rằng: Khi trong mê, thì thân phận
con người thật là bi đát. Nhưng khi bắt đầu nhận được mình mê,
thì con người có thể hoán cải được hoàn cảnh và cuộc sống của
mình.
Nhưng làm thế nào để
hoán cải? Làm thế nào để chuyển mê thành ngộ? Làm thế nào để
chuyển khổ thành vui? May thay! Giáo lý của dức Phật có đấy,
người chỉ dẫn phương pháp chuyển mê thành ngộ, chuyển khổ thành
vui còn đó.
Chúng ta chỉ còn gia
công tụ tập, thì thế nào cũng chuyển đổi được hoàn cảnh buồn
thảm của chúng ta. Cho nên đức Phật thường dạy: Cảnh Ta bà này
cũng tức là cảnh Phật. Người cũng là Phật.