|
TẬP BA
DUY
THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI
Ngài THIÊN THÂN
Bồ Tát tạo luận
Ngài HUYỀN TRANG Pháp sư dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Ông ĐƯỜNG ĐẠI VIÊN giải dễ gọn
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lượt giải.
TÂP
DUY THỨC TAM THẬP TỤNG NÀY CHIA LÀM 3 PHẦN:
1. DUY THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI
2. DUY THỨC TAM THẬP TỤNG CHÁNH VĂN
3.
PHỤ HAI CÁI BIỂU
LỜI CỦA DỊCH GIẢ
Phật
ra đời độ sanh gần nửa thế kỷ, thuyết pháp trên 300 hội, nói
ra 84.000 pháp môn, nào quyền, thiệt, đốn, tiệm, các phương
tiện đều dạy bày; chung qui lại chỉ có hai phần: pháp tướng
và pháp tánh. Duy thức tôn là một trong Pháp tướng.
Lý
Duy thức, trong các kinh điển, Phật đã nói nhiều. Về sau các
vị Bồ Tát trích lục lại, sắp xếp theo hệ thống, có thứ lớp,
biên thành sách, lập thành tôn, gọi là pháp tướng tôn hay
Duy thức tôn.
Như
vào khoảng 900 năm, sau khi Phật diệt độ, có Ngài Bồ Tát
Thiên Thân, y theo các kinh, viết qua quyển "Duy thức tam
thập tụng" v.v...Đến sau có 10 vị Đại luận sư (1) ra đời,
tuần tự giải thích quyển "Duy thức tam thập tụng" lập thành
mười bộ đại luận. Trong số ấy, bộ sớ giải của Ngài Hộ pháp
là có phần hoàn bị hơn hết.
Đến
đời Đường, ở Trung Hoa có Ngài Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang,
trí tuệ vô song, thông minh xuất chúng, phát tâm qua Ấn độ,
nghiên cứu Phật pháp 18 năm trường (xem bộ Huyền Trang của
Võ Đình Cường), Ngài rất thông về Duy thức tôn. Sau khi trở
về nước, Ngài phiên dịch rất nhiều kinh sách, mà quyển "Duy
thứ tam thập tụng" của Bô tát Thiên Thân là một. Ngài lại
còn lượm lặt những tinh hoa sớ giải trong 10 bộ luận của 10
vị Đại luận sư, rồi phiên dịch ra chữ Trung Hoa, làm thành
một bộ mười quyển, mệnh danh là "Thành Duy thức luận".
Đệ tử
lớn của Ngài Huyền Trang là Khuy Cơ, trải qua thời gian mấy
mươi năm hầu Thầy, được đắc truyền về môn Duy thức học này,
nên sớ giải lại bộ "Thành Duy thức luận" đến 60 quyển, đặt
tên là "Thành Duy thức luận thuật ký".
Đến
sau, Ngài Huyền Trang muốn cho người học dễ nhớ, nên làm 12
bài tụng (mỗi bài bốn câu) tóm tắt nghĩa lý rộng rãi u huyền
của Duy thức, đặt tên là "bát thức qui củ tụng".
Đành
rằng sách vở Duy thức rất nhiều, vì các vị Bồ Tát nhắm nhiều
khía cạnh của Duy thức mà phân tích giảng giải, song có ba
bổn, từ xưa đến nay được xem là chánh tông, là căn bản của
Duy thức học:
1.
Đại thừa bá pháp minh môn luận: Nói về pháp số (danh từ
chuyên môn) của Duy thức.
2.
Duy thức tam thập tụng: Nói về nghĩa chánh của Duy
thức.
3.
Bát thức qui củ tụng: Tóm tắt nghĩa lý bao la của Duy
thức.
Về
sau các học giả hoặc sang tác hoặc giải thích sách vở Duy
thức, đều căn cứ vào ba bổn luận ấy, khai thác nhiều khía
cạnh, rồi tán rộng ra hoặc làm cho nổi bật những điểm quan
trọng.
Bổn
"Đại thừa bá pháp minh môn luận" và bổn "Bát thức qui củ
tụng" Tôi đã dịch và giải rồi, hiệp chung lại dưới nhan đề
là "Duy thức nhập môn".
Còn
bổn "Duy thức tam thập tụng" này, nay mới dịch xong. Nội
dung của luận này, do Ngài Bồ Tát Thiên Thân dùng 24 bài
tụng đầu, nói về Duy thức tướng, bài tụng thứ 25 nói về Duy
thức tánh, 5 bài tụng sau là nói về Duy thức vị; hay nói một
cách khác là: Duy thức cảnh, Duy thức hành và Duy thức quả
(xem 2 cái biểu ở cuối quyển này).
Quí
vị muốn nghiên cứu về Duy thức học, trước nhứt nên đọc kỹ 3
bổn luận này. Cũng như người học nghề võ, trước phải học
đường thảo, rồi sau mới phân miếng.
Huyền
diệu thay ! Cũng ba bổn luận này, mà từ xưa đến nay, không
biết bao nhiêu vị Đại luận sư và các nhà học giả, sớ giải
mãi cũng không cùng.
Chúng
ta chớ nên có ý nghĩ nông cạn: học sơ lược chánh văn hay đọc
lời sớ giải thô sơ của ba bổn luận này, rồi cho là đầy đủ.
Phải học mãi, coi nhiều, chúng ta sẽ thấy rừng hoa Duy thức,
thật không biết bao nhiêu màu sắc tốt tươi xinh đẹp.
Kính
đề
Sa môn THÍCH
THIỆN HOA
LỜI TỰA
Trong
Duy thức nói "Thức A lại da", tức là nói về pháp chúng sanh,
đáng lẽ phải dễ hiểu, tại sao lại rất khó hiểu ?
Tuy
nói về pháp chúng sanh, song chúng sanh có vô lượng vô biên,
nên lời nói cũng phải vô lượng vô biên; đây là điều khó thứ
nhứt.
Lại
nữa, bên Thiền tôn thì chỉ thẳng về "Tâm pháp" nên không cần
văn tự ngữ ngôn; còn Duy thức tôn lại khai phương tiện, dùng
văn tự, ngữ ngôn. Đã dùng văn tự biên chép và lời nói luận
bàn, những sự lý vô lượng vô biên, cho nên lời nói phải
nhiều, văn tự phải thâm; đây là điều khó thứ hai.
Bởi
hai điều khó trên, nên môn học Duy thức này ngày xưa bị bặt
tăm, cho đến ngày nay người học Phật, phần nhiều cũng tránh
chỗ khó mà tìm nơi dễ: nghe nói đến Duy thức thì thối lui.
Đôi khi cũng có người cố gắng tìm học, song lại không gặp
cửa để vào !
Đại
Viên này đã ôm ấp chí lợi tha từ lâu, nên đối với việc khó
khăn này đã nhiều lần lưu ý.
Nền
tảng đầu tiên của Duy thức học là quyển:
"Đại
thừa bá pháp minh môn luận" và quyển "Duy thức tam thập
tụng".
Song,
nếu theo những bản chú giải về đời Đường thì rất khó khăn;
người sơ học không dễ gì nhập được. Còn những bản Duy thức
thuộc về đời Minh chú giải, lại sợ ngụy truyền. Bởi thế nên
tôi căn cừ theo bản chú giải xưa (đời Đường), rồi cải tạo
văn thể những chỗ nghĩa lý thâm thuý khó hiểu, thì tôi làm
cho rõ ràng dễ hiểu; còn những chỗ phiền phức, thì tôi thanh
giản cho gọn gàng. Vì thế nên tôi đặt tên quyển sách này là
"Duy thức dị giản" (Duy thức dễ gọn).
Bởi
"dễ", nên người đọc dễ hiểu và có thể đọc lâu, vì "gọn" nên
người học dễ theo và có thể đọc nhiều.
Nay
tôi giảng 30 bài tụng Duy thức này, là muốn cho người học dễ
hiểu và dễ theo, dễ tiến đến việc đọc nhiều, đọc lâu về môn
Duy thức học vậy.
ĐƯỜNG
ĐẠI VIÊN
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ NHỨT
DUY
THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI
GIẢI ĐỀ MỤC
"Duy thức" _ Thức là phân biệt; có hai phần: 1. Sở phân
biệt (bị biết) gọi là cảnh, hoặc gọi là sự vật, tức là núi,
sông, ruộng, vườn ...2. Năng phân biệt (cái biết) gọi là
thức, tức là cái tác dụng phân biệt hay nhận biết các cảnh
vật.
Cảnh
vật có hình tướng, thức không hình tướng. Người đời đều nói
hai vật này (vật chất, tinh thần) riêng khác; thật ra năng
phân biệt (biết) và sở phân biệt (bị biết) cũng đều là thức;
ngoài thức ra không có vật gì khác. Bởi thế nên gọi là Duy
thức.
Người
đời vì chấp tất cả sự vật là thật có, nên không tin lý duy
thức. Nay môn học này, giải thích cho người biết: tất cả sự
vật, chỉ có thức biến hiện, không phải thật có, nên gọi là
"Duy thức học".
"Tam thập tụng" _ Theo lệ thường, trong kinh Phật, mỗi
một bài là bốn câu; nay dùng 30 bài tụng, để giải thích
nghĩa mầu nhiệm của Duy thức, cho nên quyển luận này gọi là
"Duy thức tam thập tụng".
"Dị giải" _ Nguyên văn bổn luận này có 30 bài tụng, do
ngài Bồ Tát Thiên Thân tạo ra. Văn tự đã khó mà nghĩa lý lại
thâm, người học rất khó hiểu. Nay tôi giải thích bổn luận
này, dùng những lời lẽ gọn gàng dễ hiểu, nên gọi là "Dị
giải".
CHÁNH VĂN
Hỏi: _ Nếu chỉ có thức, tại sao người thế gian và trong
Phật giáo, đều nói có Ngã và Pháp ?
LƯỢC GIẢI
Người
đời chấp tất cả sự vật, như núi, sông, cỏ, cây ...đều thật
có. Nay lại nghe nói: "Các cảnh vật ấy đều do thức biến
hiện, chỉ là giả tướng, chớ không phải thật có", thì họ
quyết định không tin. Bởi thế nên Luận chủ đề xướng Duy thức
học, đặt ra những lời vấn đáp, để giải thích các điều nghi
ngờ đó.
Có
người hỏi: _ Nếu chỉ có thức mà thôi, thì tại làm sao,
người thế gian và trong Phật giáo đều nói có Ngã, Pháp? Nếu
lý Duy thức đúng, thì lời người thế gian và Phật giáo nói
sai, còn nếu thế gian và Phật giáo nói đúng, thì lý Duy thức
phải sai. Hai thuyết rất mâu thuẫn nhau, vậy bên nào nói
đúng lý?
Câu
hỏi này rất khó, nếu không phải bực Bồ Tát trí huệ vô biên,
thì không dễ gì trả lời được.
"Ngã pháp" nghĩa là gì?_ "Ngã" là chủ tế (tự chủ, có
quyền sắp đặt). Như người đời chấp thân này là "ta"; có
quyền tự chủ, tự tại và sai khiến sắp đặt các việc, như thế
gọi là "Ngã".
"Pháp" là khuôn phép và giữ gìn; nghĩa là tự nó giữ gìn
bản chất của nó, làm cho người xem đến, thì biết là vật gì.
(Nhậm trì tự tánh, quỹ sanh vật giải).
Như
cái bàn ở trước mặt đây, tự nó giữ gìn bản chất cứng nhắc,
hình dáng dài rộng hoặc cao thấp và có công năng chứa vật.
Một khi người xem đến thì biết là cái bàn. Như thế gọi là
"pháp".
Người
thế gian chấp ngã, như chấp thân mạng loài hữu tình, đều có
quyền tự chủ, tự tại và sai khiến sắp xếp mọi việc.
Người
thế gian chấp pháp, không ngoài ba điểm: Thật (bản chất),
Đức (hình dáng), Năng (công dụng). Như họ chấp nhà cửa cỏ
cây, v.v ...là thật có (thật) hình dáng tốt hay xấu (đức) và
công dụng của nó (nghiệp); mỗi món đều gọi là một pháp.
Trong
Phật giáo nói ngã, như nói "Tu Đà hoàn, Tu Đà hàm, A Na Hàm,
A la Hán, v.v ...". mỗi tên đều hàm ẩn ý nghĩa: ta đã chứng,
ta được tự chủ và tự tại.
Trong
Phật giáo nói Pháp, như nói "5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, v.v...".
mỗi pháp đều tự giữ gìn bản chất (tự tánh) và hình dáng của
nó; khi người xem đến, có thể biết đó là vật gì.
Nhưng
chúng ta phải chú ý ở điểm này: Trong Phật giáo nói "ngã" ,
không đồng với người thế gian "chấp ngã". Như kinh Kim Cang
nói: "Gọi là Tu Đà Hoàn (Nhập lưu) mà không có Tu Đà Hoàn
(vô sở nhập) thế mới gọi là Tu Đà Hoàn, v.v ..."
Đem
đoạn kinh này để chứng minh, thì chúng ta thầy trong kinh
tuy nói "Ngã", song chỉ có giả danh mà thôi, không phải như
thế gian chấp có thật Ngã.
Đáp:_Nguyên văn chữ Hán
Tụng viết:
Do
giả thuyết Ngã Pháp
Hữu chủng chủng
tướng chuyển
Bỉ y thức sở
biến.
Dịch nghĩa
Luận
chủ nói ba câu tụng để trả lời rằng: Thế gian và Thánh giáo
đều giả nói có Ngã, Pháp; bởi vì các tướng Ngã, Pháp kia đều
do thức sanh ra vậy.
LƯỢC GIẢI
Đại ý
ba câu tụng này nói: Do thế gian và Thánh giáo đều giả nói
có Ngã, Pháp, rồi từ trên thức của người nghe tự biến ra
hình tướng của Ngã, Pháp.
NÓI VỀ TƯỚNG NGÃ, PHÁP CỦA THẾ GIAN
Như
có người đang ngồi yên trong nhà tối, bổng nghe người nói:
"Ở góc nhà kia có con quỉ". Lúc bấy giờ trên thức của họ
liền biến ra con quỉ, tóc tai xù xụ, hình tướng rất ghê sợ,
muốn chụp bắt người. Thật ra không có quỉ, nhưng trên thức
người nghe lại biến ra quỉ. Đây là tướng Ngã của thế gian,
do thức biến vậy.
Có
người ngồi trong nhà, nghe nói: "Tuyết rơi ngoài sân". Lúc
bấy giờ trên thức họ tự biến ra hình tướng tuyết bay trắng
xoá. Thật ra không có tuyết, nhưng trên thức của người nghe
lại biến ra có hình tướng của tuyết. Đây là tướng Pháp của
thế gian, di thức biến ra vậy.
NÓI VỀ TƯỚNG NGÃ, PHÁP TRONG THÁNH GIÁO
Như
có người nghe trong kinh nói: "Phật có 32 tướng". Rồi từ
trên thức của họ tự biến ra tướng Phật tốt đẹp lạ thường.
Đây là tướng "Ngã" trong Thánh giáo, do thức biến ra.
Hoặc
nghe nói: "Cõi Phật có 7 món báu trang nghiêm"; rồi từ trên
thức của họ biến ra cảnh Tịnh độ. Đây là tướng "Pháp" trong
Thánh giáo, do thức biến hiện.
***
Ngoại
nhơn đã nghe Luận Chủ nói: "Các tướng Ngã, Pháp đều do thức
biến hiện", thế tất nhiên họ phải nghi rằng:
Hình
tướng của thức thế nào?
Và có
bao nhiêu chủng loại?
Vì
đoán tâm lý của ngoại nhân, nên Luận chủ nói tiếp ba câu
tụng, để trả lời rằng:
Nguyên văn chữ Hán
Thử
năng biến duy tam
Vị:
Dị thục, Tư lương
Cập
Liễu biệt cảnh thức
Dịch nghĩa
Thức
Năng biến này có 3 loại:
1. Dị
thục thức (thức thứ Tám)
2. Tư
lương thức (thức thứ Bảy)
3.
Liễu Biệt cảnh thức (6 thức trước).
LƯỢC GIẢI
Đoạn
trên nói: "Do thức biến ra các tướng Ngã, Pháp". Đã có cảnh
sở biến (bị biến) tất nhiên phải có thức năng biến.
Đoạn
này nói về thức năng biến. Thức năng biến có ba loại:
1. Dị
thục thức, tức là thức thứ Tám
2. Tư
lương thức, tức là thức thứ Bảy
3.
Liễu biệt cảnh thức, tức là 6 thức trước (từ nhãn thức cho
đến ý thức).
Ba
loại thức Năng biến này, nếu phân tích ra thì có tám thức
(Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý
thức, Mạt na thức và A lại da thức)
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ
HAI
CHÁNH
VĂN
Hỏi:_ Trên đã
lược nói cái "tên", nhưng chua nói rõ cái "tướng" của thức
Năng biến; vậy cai "tướng" của thức Năng biến thứ nhứt thế
nào?
Đáp:_ Nguyên
văn chữ Hán
Tụng viết:
Sơ A lại da thức
Dị thục, Nhứt thế
chủng.
Dịch nghĩa
Luận chủ nói tụng
(10 câu) đễ trả lời rằng: Thức Năng biến thứ nhứt tên là A
lại da, cũng gọi là Dị thục thức hay Nhứt thế chủng thức.
LƯỢC GIẢI
Thức Năng biến thứ
nhá?t có ba tướng:
I. Tự tướng
(thể); tiếng Phạn gọi là "A lại da", Tàu dịch là
"Tàng". Chữ Tàng có ba nghĩa:
1. Năng tàng:
Thức này có công năng chứa tất cả chủng tử (hạt giống) của
các Pháp thiện ác; cũng như cái kho có công năng chứa lúa.
2. Sở tàng:
Thức này có chổ để chứa chủng tử của các Pháp; cũng như cái
kho là chổ để chứa lúa.
3. Ngã ái chấp
tàng: Thức này thường bị thức thứ Bảy ái luyến chấp làm
ngã. Nó như người giữ kho, giữ gìn chẳng cho lúa mất (chấp
tàng).
II. Quả tướng
(quả); gọi là "Dị thục thức". Chữ Dị thục có ba
nghĩa:
1. Dị thời nhi
thục: Khác thời mà chín. Dụ như trái xoài, từ khi sanh
cho đến khi chín, thời gian khác nhau.
2. Dị loại nhi
thục: Khác loài mà chín. Dụ như trái xoài, khi nhỏ tánh
chua, đến chín lại ngọt.
3. Biến dị nhi
thục: Biến đổ khác chất mà chín. Dụ như trái xoài, khi
nhỏ thì xanh, đến khi già chín biến đổi lại vàng.
Vì thức Dị thục này
lãnh thọ thân quả báo, nên gọi là Dị thục quả. Tánh chất của
Dị thục quả là vô ký (không nhứt định thiện hay ác); song về
nghiệp nhơn đời trước của nó, lại có thiện và ác.
Bởi lấy nghiệp nhơn
(thiện ác) đối với quả (vô ký) mà nói, nên có ba nghĩa: Khác
thời gian chín (Dị thời nhi thục), khác loại mà chín (Dị
loại nhi thục) và biến đổi chín (Biến dị nhi thục).
1. Dị thời ... Dị
thục
2. Dị loại ... nhị
thục
3. Biến dị ... Quả
(vô ký)
Nhơn (thiện, ác)
III. Nhơn
tướng (nhơn); gọi là Nhứt thế chủng tức. Tất cà các
pháp hiện tượng (hiện hành) trong thế gian và xuất thế gian,
đều có chủng tử (công năng tiềm tàng) của nó. Các chủng tử
này đều chứa trong thức thứ Tám (tàng thức). Các chủng tử là
"nhơn" khởi hiện ra các Pháp là "quả". Vì theo "nhơn tướng"
(chủng tử), nên gọi thức này là "Nhứt thế chủng".
Nguyên văn chữ
Hán
Bất khả tri chấp
thọ
Xứ liễu thường dữ
xúc
Tác ý thọ tưởng tư
Tương ưng duy xả
thọ
Dịch nghĩa
Không thể biết hành
tướng năng duyên và công năng giữ gìn chủng tử, lãnh thọ
thân thể và thế giới của thức này được. Thức này thường
tương ưng với năm món biến hành là: xúc, tác ý, thọ, tưởng
và tư. Song trong các thọ, nó chỉ tương ưng với xả thọ.
LƯỢC GIẢI
Hành tướng thức Năng
biến thứ nhứt rất là tế nhị ! Bởi người đời tâm thô không
thể biết được, nên nói "Bất khả tri".
Những việc của thức
này mà người đời không thể biết được, có hai phần:
1. Thức này giữ gìn
chủng tử, thế giới, thân thể và làm cho thân thể sanh ra cảm
giác, lãnh thọ; nghĩa là thức thứ Tám này biến hiện ra thế
giới và chúng sanh rồi giữ gìn không cho mất; đây là điều
khó biết thứ nhứt.
2. Hành tướng năng
duyên (liễu) của thức này, rất sâu xa và tế nhị, đây là điều
khó biết thứ hai.
Không 1. Kiến phần
năng duyên của thức này (liễu)
Thể biết 2. Tướng
phần bị 1. Chủng tử
Duyên của thức 2.
Thân thể (chấp thọ)
Này 3. Thế giới
(xứ)
Tám thức, phân làm
ba món năng biến, đều có quyền tự chủ, tự tại; cũng như vị
Quốc Vương, nên gọi là Tâm vương. Song như vị Quốc vương
phải có quần thần phụ tá, thì mới có thể giữ nước trị dân.
Tâm vương cũng phải có bộ hạ tuỳ tùng để giúp đỡ mới hay tạo
ra các nghiệp. Những bộ hạ tuỳ tùng ấy lệ thuộc Tâm vương,
không được tự tại, nên gọi "Tâm sở", hoặc gọi là "Tâm sở
hữu"; nghĩa là cái sở hữu của Tâm vương.
Lại nữa, Tâm sở đã
giúp Tâm vương tạo nghiệp, thì Tâm vương với Tâm sở phải ưng
thuận với nhau nên gọi là tương ưng.
Hỏi:_
Có mấy Tâm sở tương ưng với thức này?
Đáp:_ Chỉ có
năm món biến hành thường tương ưng với thức này là: Xúc, Tác
ý, Thọ, Tưởng và Tư.
Xúc: Tiếp
xúc. Như con mắt xen hoa, khi mới vừa tiếp xúc với hoa; đó
là tác dụng của Xúc Tâm sở. Thí như hai người đồng đi một
con đường; một người đi từ phương Đông đến phương Tây, một
người đi từ phương Tây đến phương Đông; hai người gặp nhau
một chỗ, gọi đó là xúc.
Một thí dụ nữa, như
môn Kỷ hà học: trên cái hình tròn gạch qua một đường, chỗ
đụng nhau một chỗ trên đường gạch, đó là xúc.
Tác ý: Móng
khởi cái ý. Như khi muốn xem hoa, trước nhứt móng khởi cái
ý; đó là "Tác ý Tâm sở". Rồi nó dẫn dắt nhãn thức xem hoa.
Nếu không có tác dụng của Tâm sở này, thì dù có gặp hoa cũng
không thấy.
Người đời có khi đi
ngang qua vườn đầy hoa, mà không thấy hoa. Như thế là vì
trong lúc đó, Tâm sở tác ý không có tương ưng với nhãn
thức.
Thọ: Lãnh
thọ. Như khi thấy hoa, có sự cảm thọ vui buồn ...
Tưởng: Tưởng
tượng. Như sau khi thấy hoa, rồi tưởng tượng hình tướng của
hoa đỏ hay vàng, tốt hay xấu ...
Tư: Lo nghĩ,
tạo tác. Như nhơn thấy hoa, rồi lo nghĩ trồng hoa hay bẻ hoa
...
Lại nữa, "Thọ Tâm
sở" có 3 loại:
1. Lạc thọ:
Thọ vui. Khi gặp cảnh thuận, như được người khen ngợi, thì
cảm thọ vui mừng.
2. Khổ thọ:
Thọ khổ. Khi gặp cảnh nghịch, như bị người hủy báng hạ nhục,
thì cảm thọ buồn khổ.
3. Xả thọ:
Thọ cảnh không vui buồn. Khi gặp cảnh bình thường không
thuận nghịch, như trong lúc không được khen hay bị chê, thì
cảm thọ không vui buồn.
Tóm lại, thức thứ
Tám này, tương ưng với 5 món Tâm sở Biến hành và hành tướng
của nó rất là tế nhị, không có hiện ra khổ và vui, nên chỉ
tương ưng với xả thọ.
Nguyên văn chữ
Hán
Thị vô phú vô ký
Xúc đẳng diệc như
thị
Dịch nghĩa
Tánh của thức này là
vô phú vô ký, nên những Tâm sở tương ưng với nó, như Xúc,
Tác ý ...cũng vô phú vô ký.
LƯỢC GIẢI
Tánh của các pháp,
tóm lại có 3 loại: 1. Tánh thiện, 2. Tánh ác, 3. Tánh vô ký
(không thiện không ác).
Tánh vô ký lại chia
làm 2 loại:1. Vô phú vô ký, 2. Hữu phú vô ký _ Thí như mặt
gương, không phải thiện ác, dụ cho "tánh vô ký"; khi bị bụi
che lấp ánh sáng, dụ cho "tánh hữu phú vô ký". Đến lúc lau
chùi sạch bụi; dụ cho "tánh vô phú vô ký".
Tóm lại, thức thứ
Tám này không bị các phiền não ngăn che, nên thuộc về tánh
vô phú vô ký. Và những Tâm sở tương ưng với thức này, như
Xúc, Tác ý ...cũng thuộc về tánh vô phú vô ký.
Nguyên văn chữ
Hán
Hằng chuyển như bộc
lưu
Dịch nghĩa
Hằng chuyển biến như
dòng nước chảy mạnh.
LƯỢC GIẢI
Ngoại đạo chấp các
pháp thường còn không mất, như thế gọi là chấp "thường";
hoặc chấp chết rồi mất hẳn, như thế gọi là chấp "đoạn".
Nhà duy thức nói: từ
vô thỉ đến nay, thức này hằng chuyển biến luôn, mỗi niệm
sanh diệt tương tục không gián đoạn. Cũng như nước thác, từ
trên núi cao đổ xuống, một dãy trắng xoá; ở xa trông như tấm
vải trắng. Vì nó hằng chảy luôn, nên chẳng phải "đoạn diệt".
Song nó liên kết tiếp tục nhiều giọt, biến chuyển sanh diệt
luôn, nên không phải "thường nhứt".
Nguyên văn chữ
Hán
A la hán vị xả ?
Dịch nghĩa
Đến vị A la hán mới
xả bỏ thức này (tàng thức).
LƯỢC GIẢI
Hỏi: Thức
này, đã sanh diệt tương tục, là gốc của sanh tử luân hồi,
vậy phải tu đến địa vị nào mới xả bỏ nó được ?
Đáp: Người tu
hành đoạn hết phiền não chướng, đến quả vị A la hán, mới xả
bỏ được thức "A lại da". Song chỉ xả bỏ cái "danh", chớ
không phải xả bỏ cái "thể" của thức này.
Hỏi: Tại sao
không xả bỏ cái "thể", của thức này?
Đáp: Cái
"thể" của thức này có hai phần: nhiễm và tịnh. Phần tịnh tức
là "Trí". Trong bài tụng nói "xả bỏ thức này", tức là chuyển
thức thành trí, chớ không phải xả bỏ. Nếu xả bỏ cái "thể"
của thức này, thì thành ra đoạn diệt, thuộc về ngoại đạo.
Trong Đạo Phật không có chủ trương đoạn diệt (mất hẳn).
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ BA
CHÁNH
VĂN
Hỏi:
_ Trên đã nói thức năng biến thứ nhứt, còn thức năng biến
thứ hai thế nào?
Đáp: _ Nguyên văn chữ Hán
Tụng viết:
Thứ
đệ nhị năng biến
Thị thức danh
Mạt na
Y bỉ chuyển,
duyên bỉ
Tư lương vi tánh
tướng.
Dịch nghĩa
Luận
chủ này tụng (12 câu) để trả lời rằng: Thức năng biến thứ
hai tên là Mạt na. Thức này do thức A lại da sanh ra, rồi
trở lại duyên thức A lại da chấp làm ngã. Tánh và tướng của
nó thường lo nghĩ.
LƯỢC GIẢI
Trước
đã nói thức Năng biến thứ nhứt, tiếp theo đây nói thức Năng
biến thứ hai, tức là thức thứ Bảy. Tiếng Phạn gọi là Mạt na,
Tàu dịch là Ý. Thức này là "Căn" của ý thức, chứ không phải
ý thức (thứ 6).
Thức
này nương thức A lại da sanh khởi, rồi trở lại duyên thức A
lại da chấp làm ngã. Cũng như cái tay từ nơi thân sanh ra,
rồi trở lại hộ vệ cái thân. Vì thức này tánh hay lo nghĩ,
nên hiện ra tướng trạng bên ngoài cũng lo nghĩ.
Nguyên văn chữ Hán
Tứ
phiền não thường câu
Vị: ngã si, ngã
kiến
Tinh ngã mạn,
ngã ái
Cập dư xúc đẳng
câu.
Dịch nghĩa
Bốn
món phiền não thường chung cùng với thức này là: Ngã si, Ngã
kiến, Ngã mạn, Ngã ái. Ngoài ra thức này còn tương ưng với
các Tâm sở, như Xúc, Tác ý ...
LƯỢC GIẢI
Những
Tâm sở thường tương ưng với thức này, là bốn món phiền não:
1. Ngã si (si mê cái Ngã), 2. Ngã kiến (Chấp cái Ngã), 3.
Ngã mạn (đề cao cái Ngã của mình, để khinh mạn người), 4.
Ngã ái (tham ái cái Ngã).
Bởi
thức Mạt ma thường chấp thức A lại da làm Ngã, nên bốn món
phiền não tương ưng với thức này, cũng đều do cái Ngã mà
sanh. Vì thế nên trên mỗi món phiền não lại thêm chữ Ngã
(Ngã si, Ngã kiến, Ngã mạn, Ngã ái).
Ngoài
bốn món phiền não trên, lại còn có các Tâm sở, như năm món
Biến hành và tuỳ phiền não v.v...cũng tương ưng với thức
này; nhưng không phải thường có như bốn món phiền não trên.
Si,
Kiến,
Các
Tâm sở 1. Thường chung khởi. Tương ưng với Mạn, Ái.
Thức
này 2. Không thường Năm món Biến hành. Tuỳ phiền não v.v
...
Nguyên văn chữ Hán
Hữu
phú vô ký nhiếp
Tuỳ sở sanh sở
hệ
A la hán, Diệt
định
Xuất thế đạo vô
hữu
Dịch nghĩa
Tánh
của thức này là "hữu phú vô ký". Tuỳ thức A lại da sanh về
cảnh giới nào, thì thức này theo đó mà chấp Ngã. Khi chứng A
la hán, nhập Diệt tận định và được vào Đạo xuất thế, thì
không còn thức này.
LƯỢC GIẢI
Vì
bốn món phiền não ngăn che, nên tánh của thức Mạt ma thuộc
về hữu phú vô ký. Lại nữa, vì thức này do thức A lại da sanh
ra, nên tuỳ theo thức A lại da sanh về cõi nào, thì nó theo
chấp ngã ở cõi đó.
Hỏi:_ Người tu hành phải đến địa vị nào mới đoạn được
Ngã chấp và không còn thức Mạt ma?
Đáp:_ Có ba địa vị:
1.
Đến địa vị A la hán: Vì vị này đã xả tàng thức, nên thức
Mạt ma không còn chấp Ngã.
2.
Nhập diệt tận định: Vì định này diệt hết các Tâm vương
và Tâm sở của bảy thức trước.
3.
Đạo xuất thế: Hành giả khi đặng cái trí hiểu biết chơn
vô ngã và đặng trí vô lậu hậu đắc, thì không còn thức Mạt
ma.
Xả
Tàng thức
1. A
la hán không còn Mạt ma
Diệt
hết Tâm vương Tâm
Ba
địa vị sở của 6 thức trước.
Không có
2.
Diệt tận định Diệt các Tâm sở về phần
Mạt ma tạp nhiễm
của thức Mạt ma.
Được
trí hiểu biết chơn
3.
Đạo xuất thế vô ngã
Đặng
trí vô lậu hậu đắc
CHÁNH VĂN
Hỏi:_ Như vậy đã nói thức năng biến thứ hai, còn thức
năng biến thứ ba thế nào?
Đáp:_ Nguyên văn chữ Hán
Thứ
đệ tam năng biến
Sai biệt hữu lục
chủng
Liễu cảnh vi
tánh tướng
Thiện, bất
thiện, câu phi.
Dịch nghĩa
Luận
chủ nói tụng (2 bài) để trả lời rằng:
Thức
năng biến thứ ba, có sáu món sai khác. Tánh và tướng của
thức này đều phân biệt cảnh (liễu cảnh). Thức này đủ cả ba
tánh: thiện, ác và vô ký (câu phi).
LƯỢC GIẢI
Thức
năng biến thứ ba có sáu món: 1. Nhãn thức, 2. Nhĩ thức, 3.
Tỹ thức, 4. Thiệt thứic, 5. Thân thức, 6. Ý thức. Trong 8
thức, thức nào cũng đều phân biệt cảnh; song thức thứ Bảy và
thức thứ Tám chỉ phân biệt cảnh tế, còn 6 thức trước lại
phân biệt cảnh thô; nên trong bài tụng nói "Tánh tướng nó
đều phân biệt cảnh". Cũng như mặt trời mặt trăng sáng suốt
chiếu soi khắp thiên hạ. Mặt trời mặt trăng sáng suốt là dụ
cho bản tánh của thức này; còn chiếu soi là dụ cho tướng
dụng của thức này.
Sáu
thức này đủ cả 3 tánh: thiện, ác, và vô ký (không thiện
ác).
Nguyên văn chữ Hán
Thử
Tâm sở biến hành
Biệt cảnh,
thiện, phiền não
Tuỳ phiền não
bất định
Giai tam tho
tương ưng
Dịch nghĩa
Những
Tâm sở tương ưng với thức này, như: biến hành, biệt cảnh,
căn bản phiền não, tuỳ phiền não, bất định và ba thọ.
LƯỢC GIẢI
Tâm
sở do tâm vương đặt để, cũng như các quan do Vua sắp đặt,
như một vị quan lớn có bao nhiêu nhơn viên. Tâm sở cũng thế,
tất cả 51 món, phân làm 6 loại, mỗi loại có bao nhiêu món.
Nay
xin liệt kê sau đây:
1.
Biến hành, có 5 món
2.
Biệt cảnh, có 5 món
3.
Thiện, có 11 món
4.
Căn bản phiền não, có 6 món
5.
Tuỳ phiền não, có 20 món
6.
Bất định, có 4 món.
Ba
thọ là: khổ thọ, lạc thọ, và xả thọ.
Tóm
lại, thức này tương ưng với 51 món tâm sở và 3 thọ
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ TƯ
CHÁNH
VĂN
Hỏi:_ Trên đã lược nêu 6 loại Tâm sở tương ưng nay xin
nói rõ hành tướng (hành vi và tướng trạng) sai khác của các
loại Tâm sở này; vậy 2 loại Tâm sở đầu tiên thế nào?
Đáp:_ Nguyên văn chữ Hán
Tụng
viết:
Sơ
biến hành: Xúc đẳng
Thứ Biệt cảnh
vị: Dục
Thắng giải,
Niệm, Định, Huệ
Sở duyên sự bất
đồng.
Dịch nghĩa
Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Hai loại Tâm sở, đầu tiên
là Biến hành, có năm món: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư; loại
Tâm sở thứ hai là Biệt cảnh, cũng có năm món: Dục, Thắng
giải, Niệm, Địng, Huệ. Công việc duyên cảnh của năm món Biệt
cảnh không đồng nhau.
LƯỢC GIẢI
Biến
hành Tâm sở: Tâm sở này đi khắp tất cả:
1. Đi
khắp tất cả thời gian (quá khứ, hiện tại, vị lai).
2. Đi khắp tất
cả không gian (ba cõi, chín địa)
3. Đi khắp tất
cả tánh (thiện,ác và vô ký).
4. Đi khắp tất
cả thức (tám thức tâm vương).
Năm
món Biến hành là: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư. Trong bài
nói về thức Sơ năng biến ở trước, đã có nói về hành tướng
của năm món Biến hành Tâm sở rồi, nên bài này chỉ nói về năm
món Biệt cảnh.
Biệt
cảnh Tâm sở: Tâm sở này có năm món, mỗi món duyên mỗi cảnh
giới khác nhau, không thể đi khắp tất cả như năm món Biến
hành.
Năm
món Biệt cảnh là: Dục, Thắng giải, Niệm, Định và Huệ. 1.
Dục: Muốn; như phát tâm muốn lìa trần tục, hoặc muốn học
Phật v.v ..., 2. Thắng giải: Hiểu biết rõ ràng; như học Duy
thức, hiểu biết được rõ ràng, 3. Niệm: Nhớ nghĩ; như ngày
trước học giáo lý, hôm nay nhớ lại, 4. Định: Chăm chú; như
chăm chú nghe hoặc học Duy thức, tâm không loạn động, 5.
Huệ: Trí huệ; nhơn định nên sanh trí huệ.
Vì
năm Tâm sở này, mỗi món duyên mỗi cảnh và hành tướng khác
nhau; cũng như năm người, mỗi người ở mỗi chỗ và làm mỗi
việc không đồng, nên bài tụng trên nói "Sở duyên sự bất
đồng": Công việc duyên cảnh của năm món Tâm sở này không
đồng.
Biệt cảnh:
1.
Dục Tâm sở duyên cảnh bị mong muốn
2. Thắng giải đã
rõ ràng
3. Niệm nhớ lại
4. Định chăm
chú
5. Huệ quán sát
CHÁNH VĂN
Hỏi:_ Trên đã nói hai loại Tâm sở biến hành và biệt
cảnh; còn hành tướng của Thiện Tâm sở thế nào?
Đáp:_ Nguyên văn chữ Hán
Tụng
viết:
Thiện, vị: Tín, Tàm, Quí
Vô tham đẳng tam
căn
Cần, An, Bất
phóng dật
Hành xả cập Bất
hại.
Dịch nghĩa
Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Thiện Tâm sở có 11 món:
Tín, Tàm, Quí và ba thiện căn là vô tham, vô sân, vô si với
cần, an, bất phóng dật, hành xả và bất bai.
LƯỢC GIẢI
11
món Thiện Tâm sở này, cũng như các vị Trung thần trong nước,
hay người tớ trung thành trong nhà.
1.Tín: Tin; như tin Tam bảo, 2. Tàm: Xấu hổ; như mình lỡ làm
việc có tội lỗi, sanh ra xấu hổ, 3. Quí: Thẹn thùa; như mình
làm việc sái quấy, đối với người sanh lòng thẹn thùa. Nói
lại cho dễ hiểu: Tàm là tự hổ lấy mình; Quí là thẹn với
người, 4. Vô tham: không tham; gặp cảnh tốt đẹp, không sanh
tâm tham lam, 5. Vô sân: Không nóng giận, 6. Vô si: Không si
mê; đối với tất cả sự vật, tâm không si mê. Ba món tâm sở
này (vô tham, vô sân, vô si) là gốc rễ của các pháp lành,
nên được gọi là "Tam thiện căn" (ba căn lành), 7. Cần: Siêng
năng; gặp việc lành, tâm tinh tấn không thối lui, 8. Khinh
an: Nhẹ nhàng sảng khoái; thâm tâm vui vẻ nhe nhàng, 9. Bất
phóng dật: Khônh phóng túng; bỏ dữ làm lành, không buông
lung theo dục lạc, 10. Hành xả: Làm mà không cố chấp; làm
tất cả việc tốt, mà không tham luyến cố chấp, làm với bản
tánh tự nhiên, chớ không có dụng công, tâm thường an trụ nơi
bình đẳng. Hành tướng của Hành xả, như người đi đường: Phải
bỏ bước sau mới tiến tới bước trước. Nếu không bỏ bước sau
thì không bao giờ tiến tới bước trước được. Lại nữa, hành xả
với Xả thọ khác nhau: "hành xả" là món Xả trong Hành uẩn,
thuộc về pháp lành; còn "Xả thọ" là một trong Thọ uẩn,
thuuộc về tánh vô ký, 11. Bất hại: Không làm tổn hại tất cả
chúng sanh.
CHÁNH VĂN
Hỏi:_ Trên đã nói 11 món Thiện Tâm sở, còn hành tướng,
(hành vi, tướng trạng) của căn bổn phiền não thế nào?
Đáp:_ Nguyên văn chữ Hán
Tụng
viết:
Phiền
não vị: tham, sân, Si, mạn, nghi, ác kiến.
Dịch nghĩa
Luận
chủ nói hai câu tụng để trả lời rằng: Căn bản phiền não có
sáu món: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến.
LƯỢC GIẢI
Phiền
não nghĩa là buồn phiền não loạn. Vì 6 món phiền não này làm
căn bản để sinh ra các phiền não chi mạt, nên gọi là Căn bản
phiền não.
1.
Tham, 2. Sân, 3. Si; ba món Tâm sở này trái ngược với ba món
Thiện căn (vô tham, vô sân, vô si) trong 11 món Thiện Tâm
sở. Trong Khế kinh gọi ba món phiền não này là "tam độc" (3
món độc). 4. Mạn, tức là Ngã mạn; đã giải trong bài thức
năng biến thứ hai, 5. Nghi: Nghi ngờ; như người nghi ngờ
Phật pháp, không tin thuyết nhơn quả luân hồi v.v ...6. Ác
kiến: Hiểu biết có tội ác; nghĩa là hiểu biết không chơn
chánh tà vạy.
Ác
kiến này, chia ra làm năm món: Thân kiến, Biên kiến, Tà
kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ, sẽ giải ở sau.
CHÁNH VĂN
Hỏi:_ Trên đã nói 6 món Căn bản phiền não, còn hành
tướng (hành vi, tướng trạng) của 20 món Tuỳ phiền não thế
nào?
Đáp:_ Nguyên Văn chữ Hán
Tụng
viết:
Tuỳ
phiền não vị: Phẫn
Hận, Phú, Não,
Tật, Xan
Cuống, Siểm, dữ
hại, Kiêu
Vô tàm cập vô
quí
Trạo cử dữ Hôn
trầm
Bất tín tinh
Giải đãi
Phóng dật cập
Thất niệm
Tán loạn, Bất
chánh tri.
Dịch nghĩa
Luận
chủ nói hai bài tụng để trả lời rằng: Tuỳ phiền não có hai
mươi món: Phẫn, Hận, Phú, Não,Tật, Xan, Cuống, Siểm, Hại,
Kiêu, Vô tàm, Vô quí, Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín, Giải đãi,
Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn và Bất chánh tri.
LƯỢC GIẢI
Vì
hai mươi món phiền não này tuỳ thuộc vào các căn bản phiền
não, nên gọi là "Tuỳ phiền não".
1.
Phẫn: Giận, khi gặp nghịch cảnh sanh tâm giận giỗi.
2.
Hận: Hờn, sau khi giận rồi lưu lại trong tâm không bỏ.
3.
Phú: Che giấu, Che giấu tội lỗi của mình không cho ai
biết.
4.
Não: Phiền, sau khi giận rồi buồn phiền nơi lòng.
5.
Tật: Ganh ghét, thấy người hơn mình sanh tâm đố kî.
6.
Xan: Bỏn xẻn, có tiền của mà rít rắm không bố thí.
7.
Cuống: Dối gạt, vì muốn đặng danh lợi nên dối gạt
người.
8.
Siểm: Nịnh, bợ đỡ nịnh hót với người để xin danh vọng
quyền lợi.
9.
Hại: Tổn hại, trái với "bất hại" trong Thiện Tâm sở.
10.
Kiêu: Kiêu cách, giống như mạn tâm sở, song "Mạn tâm
sở" là khinh dễ lấn lướt người, còn "Kiêu tâm sở" là ỷ tài
năng của mình mà khinh ngạo xem thường người.
11. Vô tàm và 12 là Vô quí, trái với Tàm và Quí trong
Thiện tâm sở.
13. Trạo cử: Chao động, làm chướng ngại tu Chỉ; trái với
Định tâm sở trong vị Biệt cảnh.
14. Hôn trầm: Tối mờ, làm chướng ngại tu quán; trái với
huệ tâm sở.
15. Bất tín: Không tin, trái với Tín tâm sở trong 11 món
thiện.
16. Giải đãi: Trễ nải, trái với Cần tâm sở trong 11 món
thiện.
17. Phóng dật: Buông lung; trái với "Bất phóng dật"
trong Thiện tâm sở.
18. Thất niệm: không nhớ; trái với "Niệm tâm sở" trong
vi Biệt cảnh.
19. Tán loạn: Rối loạn, tâm lăng xăng rối loạn; trái với
"Định tâm sở" trong vị Biệt cảnh.
20. Bất chánh tri: Biết không chơn chánh, khi đối
vớicảnh hiểu biết sai lầm, làm chướng ngại hiểu biết chơn
chánh.
CHÁNH VĂN
Hỏi:_ Trên đã nói 20 món Tuỳ phiền não, còn hành tướng
của 4 món Bất định thế nào?
Đáp:_ Nguyên văn chữ Hán
Tụng
viết:
Bất
định, vị: Hối Miên
Tầm Tư nhị các
nhị
Dịch nghĩa
Luận
chủ nói hai câu tụng trên để trả lời rằng: Bất định là Hối
Miên và Tầm Tư, mỗi món lại chia làm hai (là bốn).
LƯỢC GIẢI
Bất
định là không nhứt định thiện hay ác.
1.
Hối: Ăn năn, nghĩa là ăn năn những việc nên làm mà không
làm, hoặc ăn năn những việc không nên làm mà lại làm.
2.
Miên: Ngủ nghỉ, làm cho thân tâm không tự tại.
3.
Tầm: Tìm kiếm, đối với cảnh danh ngôn của ý thức, nó làm
cho tâm thô động gấp gáp.
4.
Tư: Rình xét, đối với cảnh danh ngôn của ý thức, nó
khiến cho tâm tế nhị mà gấp gáp.
Lại
nữa, bốn món tâm sở này, mỗi món đều có hai tánh: hoặc thiện
hoặc ác không nhứt định, nên gọi là "Bất định".
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ NĂM
CHÁNH
VĂN
Hỏi:_ Trên đã nói sáu loại tâm sở tương ưng rồi, bây giờ
làm sao biết được phần vị hiện khởi của các thức?
Đáp:_ Nguyên văn chũ Hán
Tụng
viết:
Y chỉ
căn bản thức
Ngũ thức tuỳ
duyên hiện
Hoặc câu hoặc
bất câu
Như đào ba y
thủy
Ý thức thường
hiện khởi
Trừ sanh Vô
tưởng thiên
Cập vô tâm nhị
định
Thuỷ miên dữ
muộn tuyệt.
Dịch nghĩa
Luận
chủ nói hai câu tụng trên để trả lời rằng: Sáu thức trước
đều nương nơi thức căn bản (A lại da) mà hiện khởi; cũng như
sóng nương nơi nước mà sanh.
Năm
thức trước tuỳ duyên mà khởi; hoặc chung sanh hoặc chẳng
chung sanh. Duy có ý thức thường hiện khởi, trừ ra năm chỗ
nó không sanh khởi: 1. Sanh ở cõi trời Vô tưởng, 2. Nhập
định Vô tưởng, 3. Nhập định Diệt tận, 4. Ngủ mê, 5. Chết
giả.
LƯỢC GIẢI
Sáu
thức trước, bên trong đều nương nơi thức Căn bản (A lại da)
bên ngoài nhờ các duyên (căn, cảnh, tác ý, v.v...) và tuỳ
theo phận vị của nó mà sanh khởi không đồng. Nếu đủ duyên
thì sanh khởi, còn thiếu duyên thì nó không sanh. Cũng như
sóng nương nơi nước và nhờ gió, nên có khi sanh, khi diệt.
Duy có ý thức vì ít duyên nên dễ đủ; vì thế mà được thường
sanh khởi, chỉ trừ năm chỗ không sanh:
1.
Trời Vô tưởng; do hành giả khi tu định, nhàm ghét diệt
trừ cái "tưởng", mà được sanh về cõi trời này, nên cõi trời
này không có ý thức.
2.
Nhập định Vô tưởng; do hành giả diệt trừ 6 thức trước,
mới được định này.
3.
Nhập định Diệt tận; do hành giả diệt trừ phần hiện hành
của bảy thức trước, mới được định này. Hai định trên đây đều
không có "ý thức".
4.
Khi ngủ mê không chiêm bao, cũng không có ý thức.
5.
Khi bịnh nặng gần chết, hoặc khi bất tỉnh nhơn sự (chết
giả) cũng không có ý thức.
Xem
biểu đồ
Nước:
Dụ thức A lại da
Sóng: Không gián
đoạn: Dụ ý thức thường hiện khởi (trừ 5 chỗ)
Năm chỗ ý thức
Không sanh
1.
Trời Vô tưởng
2. Định Vô
tưởng
3. Định Diệt
tận
4. Ngủ mê (không
chiêm bao)
5. Chết giả
CHÁNH VĂN
Hỏi:_ Trên đã phân biệt rành rõ hành tướng của ba thức
năng biến, đều nương nơi hai phần, rồi tự nó biến ra; bây
giờ lám sao biết được các pháp chỉ do thức biến hiện, rồi
giả gọi Ngã, Pháp chớ không phải thật có, nên nói "tất cả
Pháp Duy thức"?
Đáp:_ Nguyên văn chữ Hán
Tụng
viết
Thị
chư thức chuyển biến
Phân biệt, sở
phân biệt
Do thử, bỉ giai
vô
Cố nhứt thế Duy
thức.
Dịch nghĩa
Luận
chủ nói một bài tụng để trả lời rằng: Chỉ do các thức biến
ra Năng phân biệt thức (kiến phần) và Sở phân biệt (tướng
phần). Song Năng phân biệt (thử) và Sở phân biệt (bỉ) đều
không thật có, nên nói: "tất cả pháp Duy thức".
LƯỢC GIẢI
Mỗi
thức và mỗi Tâm sở đều có 4 phần: 1. Kiến phần (phần Năng
phân biệt), 2. Tướng phần (phần bị phân biệt, tức là cảnh
vật), 3. Tự chứng phần: phần này tự chứng minh cho Kiến
phần, 4. Chứng tự chứng phần: Phần này chứng minh cho phần
tự chứng.
Trong
bốn phần này, về phần thứ ba là Tự chứng, không những có
công năng chứng minh cho phần thứ hai là Kiến phần, mà cũng
có công năng đặc biệt là trở lại chứing minh phần thứ tư là
Chứng tự chứng phần. Bởi thế nên không cần phải có phần thứ
năm.
(hình)
Xin
nói một thí dụ để giải rõ bốn phần: Thí như anh A và anh B
hùn nhau buôn bán. Anh A ra tiền (vật có hình tướng) là dụ
cho "Tướng phần". Anh B ra công (không hình tướng) là dụ cho
"Kiến phần". Hai người lập một tờ hợp đồng (giao kèo) để
chứng minh một bên ra công và một bên xuất của. Tờ hợp đồng
là dụ cho "Tự chứng phần". Vì hai anh tranh giành nhau, nên
đem đến quan kiện. Ông quan chiếu theo tờ hợp đồng mà phân
xử. Ông quan là dụ cho "Chứng tự chứng phần".
Trên
đã nói rõ hành tướng của ba thức năng biến: Từ nơi hai phần
bên trong là Tự Chứng Phần và Chứng Tự Chứng Phần, biến sanh
ra hai phần bên ngoài là Kiến phần và Tướng phần. Vậy thì
hai phần bên trong là "thể" làm chỗ bị y chỉ (nương tựa),
còn hai phần bên ngoài là "dụng" là "năng y chỉ".
Thí
dụ như con ốc hương, đầu và mình con ốc là dụ cho "Tự chứng
phần" và "Chứng tự chứng phần"; còn hai cái vòi là dụ cho
Kiến phần và Tướng phần. Hai vòi có khi lòi ra, có lúc lại
thụt vào, là dụ cho cai dụng Kiến phần và Tướng phần, sanh
diệt không thường; còn cái đầu và mình của con ốc thì thường
còn, để dụ cho cái thể Tự chứng phần và Chứng tự chứng phần,
không sanh không diệt.
Luận
chủ và ngoại nhơn hai bên rất mâu thuẫn nhau. Nếu lý Duy
thức của Luận chủ được thành thì sự chấp thật có Ngã, Pháp
của ngoại nhơn không thành; trái lại, nếu sự chấp Ngã, Pháp
của ngoại nhơn được thành, thì lý Duy thức của Luận chủ bất
thành.
Ý
của ngoại nhơn hỏi: Làm sao biết Ngã, Pháp đều nương nơi
thức biến ra, chẳng phải thật có, nên nói "Tất cả Pháp đều
Duy thức"?
Ý
của Luận chủ đáp: Trên đã nói ba thức Năng biến, mỗi
thức đều từ nơi tự thể mà biến sanh ra Kiến phần và Tướng
phần; Kiến phần là phần năng phân biệt, mà Tướng phần là
phần bị phân biệt. Phần bị phân biệt là các cảnh vật như
núi, sông, đại địa, v.v ...Phần năng phân biệt tức là tác
dụng thấy, nghe, hay biết các cảnh vật.
Bởi
phần năng phân biệt (thấy) và phần bị phân biệt (cảnh) đều
do thức thể biến ra, toàn không thật có, nên nói "Tất cả
pháp Duy thức".
Thức
thể (tự chứng phần sanh ra Dụng) ---> Phần biết (Kiến) Phần
bị biết (Tướng) đều là thức
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ
SÁU
GIẢI THÍCH CÁC
ĐIỀU NGHI
CHÁNH VĂN
Hỏi:_
Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh làm duyên, thì nội
thức làm sao sanh ra các món phân biệt?
Đáp:_
Nguyên văn chữ Hán
Tụng viết
Do nhứt thế chủng
thức
Như thị như thị
biến
Dĩ triển chuyển
lực cố
Bỉ bỉ phân biệt
sanh
Dịch nghĩa
Luận chủ nói bài
tụng để trả lời rằng: Do các chủng tử trong Tạng thức, trùng
trùng biến ra các pháp. Vì sức phát triển sanh khởi của các
pháp, nên sanh ra các món phân biệt.
LƯỢC GIẢI
Hỏi:_ Nếu
không có ngoại cảnh làm duyên, chỉ có nội thức thì nội thức
làm sao sanh ra các món phân biệt?
Đáp:_ Luận
chủ trả lời: Do thức A lại da chứa đựng chủng tử của các
pháp, các chủng tử ấy lại sanh ra các pháp hiện hành rồi mỗi
pháp hiện hành lại sanh Kiến phần (năng phân biệt) và Tướng
phần (bị phân biệt).
Câu "như thị như thị
biến"; nghĩa là từ khi sanh cho đến khi chín sự biến đổi
phát triển rất nhiều.
Câu "triển chuyển
lực cố"; nghĩa là tám thức hiện hành và các Tâm sở tương
ưng, nào Tướng phần, nào Kiến phần v.v...đều có cái năng lực
hổ trợ cho nhau, nên sanh ra các cảnh giới thế gian (bị phân
biệt) và các món phân biệt (năng phân biệt)
CHÁNH
VĂN
Hỏi:_
Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh để làm trợ duyên,
thì tại sao lại có chúng hữu tình sanh tử tương tục?
Đáp:_
Nguyên văn chữ Hán
Tụng viết
Do chư nghiệp tập
khí
Nhị thủ tập khí
câu
Tiền Dị thục ký
tận
Phục sanh dư Dị
thục
Dịch nghĩa
Luận chủ nói bài
tụng để trả lời rằng: Do tập khí (chủng tử) của các nghiệp
và tập khí (chủng tử) của hai thủ (năng thủ, sở thủ) chung
nhau làm duyên nên thân dị thục (báo thân) đời này vừa hết,
thì lại tiếp tục sanh ra các thân dị thục đời sau và đời sau
nữa.
LƯỢC GIẢI
Hỏi:_ Nếu chỉ
có nội thức, không có ngoại cảnh làm duyên, thì tại sao hiện
nay thấy có các chúng hữu tình sanh tử tiếp nối luôn luôn?
Đáp:_ Do có
các nghiệp làm duyên, nên chúng hữu tình sanh tử tương tục.
Chữ "Chư nghiệp":
Nghĩa là nghiệp lành, nghiệp dữ và nghiệp bất động (tu thiền
định).
Chữ "Nhị thủ": Kiến
phần (năng thủ), Tướng phần (sở thủ) hoặc Danh (tâm) và Sắc
(vật) hay Tâm vương và Tâm sở.
Chữ "tập khí": Tức
là biệt danh của chủng tử. Như người viết chữ: khi chưa viết
thì cái công năng tập quen (tập khí) đó, nó tiềm tàng núp ẩn
trong tay, người không thấy được. Đến khi viết chữ, là do
cái công năng tập luyện (khí phần) ngày trước đó, nên nay
mới viết được. Bởi thế nên "chủng tử" (công năng tiềm tàng)
cũng gọi là "tập khí".
Báo thân của loài
hữu tình, gọi là thân Dị thục. Khi thân Dị thục hiện tiền
sắp diệt, thì chủng tử của các nghiệp làm sơ duyên và chủng
tử của hai món thủ làm thân duyên, tương tục không dứt, nên
làm cho sanh ra thân Dị thục đời sau. Bởi thế nên các chúng
hữu tình, khi sắc thân này chết đi, thì lại sanh ra sắc thân
khác. Do đó mà sanh tử nối luôn, không biết chừng nào cùng
tận.
[Biểu Đồ, trang 162]
CHÁNH
VĂN
Hỏi:_ Nếu chỉ
có thức mà thôi, tại sao rất nhiều chỗ trong kinh Phật nói
có ba tánh?
Đáp: _ Phải
biết ba tánh đó cũng chẳng ngoài thức.
Hỏi: _ Tại
sao vậy ?
Đáp: _
Nguyên văn chữ Hán
Tụng viết
Do bỉ bỉ biến kế
Biến kế chủng
chủng vật
Thử Biến kế sở
chấp
Tự tánh vô sở
hữu
Y tha khởi tự
tánh
Phân biệt duyên
sở sanh
Viên thành thật
ư bỉ
Thường viễn ly
tiền tánh
Cố thử dữ y tha
Phi dị phi bất
dị
Như vô thường
đẳng tánh
Phi bất kiến thử
bỉ
Dịch nghĩa
Luận chủ nói ba bài
tụng để trả lời rằng: Do tánh Biến kế sở chấp, vọng chấp tất
cả các vật. Tánh Biến kế sở chấp này, không thật có tự thể.
Còn tánh Y tha khởi là do các duyên phân biệt mà sanh. Tánh
Viên thành thật, là do trên tánh Y tha khởi xa lìa tánh Biến
kế sở chấp mà hiện.
Bởi thế nên tánh
"Viên thành thật" đối với tánh "Y tha khởi" cũng khác mà
cũng không khác, vì không thể tách riêng được. Bởi thế nên,
nếu không thấy được tánh Viên thành thật, thì cũng không thể
thấy được tánh Y tha khởi. Cũng như tánh vô thường ...đối
với các pháp, cũng khác mà cũng không khác.
LƯỢC GIẢI
Hỏi:_ Nếu chỉ
có thức mà thôi, thì tại sao trong các kinh rất nhiều chỗ,
đức Thế Tôn nói có ba món tự tánh: 1. Biến kế sở chấp tự
tánh. 2. Y tha khởi tự tánh . 3. Viên thành thật tự tánh ?
Đáp: _ Luận
chủ trả lời rằng: "Ba món tự tánh Phật nói đó, cũng không
rời thức". Song còn e người không tin, nên Luận chủ nói tiếp
3 bài tụng để giải thích nguyên do.
Tánh Biến kế sở chấp
này là do chúng sanh vọng chấp ức đạc mà có. Như bên Âu châu
có nhà học giả thấy bộ xương khỉ giống bộ xương người, nhơn
đó họ nghi ngờ và ức đạc rằng: loài khỉ tiến hoá thành loài
người; rồi đề xướng lên cái thuyết "Động vật tiến hóa"
(Darwin). Từ đó về sau họ mới chủ trương rằng "Tất cả vật
trên thế gian, đều do tiến hoá thành". Bởi thế nên bài tụng
nói:"Vọng chấp tất cả vật".
Vì vọng tưởng ức
đạc, chớ chẳng phải thật có, dụ như lông rùa sừng thỏ, nên
bài tụng nói: "Tánh Biến kế Sở chấp không có thật thể" (thử
Biến kế sở chấp, tự tánh vô sở hữu).
Còn tánh "Y tha
khởi", là do phân biệt các duyên trong thế gian mà sanh. Thí
như người nhặm con mắt, xem hư không thấy có các hoa đốm,
rồi khởi vọng tưởng phân biệt: hoa này đỏ hay trắng, tốt hay
xấu, giống thật hoa hay không ...Họ không biết rằng: Trong
hư không chẳng có hoa, do nhặm mắt nên thấy có hoa (Y tha
khởi).
Trong tánh "Y tha
khởi" có nhiễm và tịnh; nếu lìa được phần nhiễm ô tức là
tánh Biến kế sở chấp, thì đặng phần thanh tịnh, gọi là tánh
"Viên thành thật". Cũng như nước và sóng, nếu sóng xao động
lặng, thì tánh nước yên tịnh hiện ra.
Bởi thế nên "tánh
Viên thành thật" với "tánh Y tha khởi", không thể nói khác
hay không khác, cũng như nước với sóng không hai mà cũng
không một.
(hình đồ)
Câu "phi bất kiến
thử bỉ "; nghĩa là nếu không thấy được tánh Viên thành thật
đây, thì cũng không thấy được tánh Y tha khởi kia.
Nghĩa này không
những trong đạo Phật, ngay đến người thế tục, nếu không tu
theo Phật pháp, để ngộ tánh Viên thành thật, thì cũng không
thể thấy được các pháp Y tha khởi của thế gian.
CHÁNH
VĂN
Hỏi:_Nếu đã
có 3 tánh, tại sao đức Thế Tôn lại nói: "Tất cả pháp đều
không có tự tánh?
Đáp:_
Nguyên văn chữ Hán
Tụng viết:
Tức y thử tam tánh
Lập bỉ tam vô
tánh
Cố Phật mật ý
thuyết
Nhứt thế pháp vô
tánh
Sơ tức tướng vô
tánh
Thứ vô tự nhiên
tánh
Hậu do viễn ly
tiền
Sở chấp ngã,
pháp tánh
Thử chư pháp
thắng nghĩa
Diệt tức thị
chơn như
Thường như kỳ
tánh cố
Tức Duy thức
thật tánh.
Dịch nghĩa
Luận chủ nói 3 bài
tụng để trả lời rằng: Phật y cứ trên ba món tự tánh này, mà
mật ý nói: "Tất cả pháp đều không có tự tánh".
1. Biến kế sở chấp không tự tánh, vì
tướng hy vọng vậy.
2. Y tha khởi không
có tự tánh, vì do các duyên phân biệt sanh, không phải tự
nhiên có.
3. Viên thành thật
không có tự tánh, do xa lìa tánh Biến kế hư vọng chấp ngã
chấp pháp mà hiện.
Đây là nghĩa thù
thắng của các pháp, cũng gọi là "chơn như", vì tánh nó
"thường như" vậy; cũng tức "thật tánh" của Duy thức.
LƯỢC GIẢI
Hỏi:_ Nếu có
ba món tự tánh, tại sao đức Thế Tôn lại nói: "Tất cả pháp
đều không có tự tánh"?
Đáp:_ Luận
chủ nói 3 bài tụng để giải thích: "Phật y cứ trên ba món tự
tánh, rồi giả lập ba món vô tánh"._ Đã nói "Phật giả lập ba
món vô tánh" thì biết rằng chẳng phải thật vô. Sở dĩ Phật
phương tiện mật ý nói như vậy, chẳng qua để đối trị cái chấp
"ba tánh" mà thôi, chớ không phải thật ý. Cũng như dùng ba
món thuốc để đối trị ba bịnh.
Ba món vô tánh là:
1. Tướng vô tánh; nghĩa là tướng Biến kế sở chấp, hư
vọng không thật có, 2. Tự nhiên vô tánh; nghĩa là do
các duyên sanh, không phải tự nhiên có; nên cũng gọi là
"sanh vô tánh", 3. Thắng nghĩa vô tánh; nghỉa là xa
lìa cac vọng chấp ngã chấp pháp rồi, mới hiện ra tánh này;
nên gọi là "Thắng nghỉa vô tánh".
Thắngh nghĩa vô
tánh, cũng tức là chơn như, vì tánh nó chơn thật không vọng,
thường như vậy; cũng gọi là "Thật tánh của Duy thức".
Vô tánh:
-Tướng vô tánh
để đối trị Biến, Kế sở chấp tánh
-Tự nhiên vô
tánh để đối trí Tự 3 tánh (thuốc) nhiên tánh (Y tha)
(bịnh)
-Thắng nghĩa vô
tánh để đối trị Viên thành thật tánh
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ
BẢY
CHÁNH
VĂN
Hỏi:_ Như
trên đã thành lập Duy thức tướng và Duy thức tánh rồi; Người
nào mới có thể nhập được? Và làm sao để ngộ nhập?
Đáp:_
Phải là người có đủ hai giống tánh Đại thừa và tu hành trải
qua năm địa vị sau này mới được ngộ nhập:
1. Vị Tư lương
2. Vị Gia hạnh
3. Vị thông
đạt
4. Vị Tu tập
5. Vị Cứu tánh.
Hỏi:_ Hành
tướng của vị Tư lương thế nào?
Đáp:_
Nguyên văn chữ Hán
Nãi chí vị khởi
thức
Cầu trụ Duy thức
tánh
Ư nhị thủ tuỳ
miên
Du vị năng phục
diệt
Dịch nghĩa
Luận chủ nói bài
tụng để trả lời rằng: Từ khi chưa phát tâm, cho đến khi đã
phát tâm cầu an trụ Duy thức tánh, trong thời gian đó hai
món thủ (ngã chấp, pháp chấp) hãy còn miên phục; hành giả
chưa có thể chinh phục hay diệt trừ được.
LƯỢC GIẢI
Từ trước đến đây đã
nói rõ về Duy thức cảnh rồi, tức là Duy thức tướng và Duy
thức tánh. Nay sẽ nói Duy thức hạnh và Duy thức quả, tức là
dạy người sau khi học hiểu, phải phát tâm tu hành rồi mới
chứng được Duy thức quả.
Vậy từ khi phát tâm
tu Duy thức, cho đến chứng Duy thức quả, phải trải qua năm
địa vị:
1. Vị Tư
lương: Lương phạn, đồ hành lý. Thí như người đi
đường. Trước phải sắm sửa lương phạn tiền bạc v.v...để lên
đường.
Địa vị này bắt đầu
từ khi chưa phát tâm tu Duy thức quán, cho đến khi phát Bồ
Đề tâm, cầu an trụ Duy thức tánh (chơn như tâm).
Thí như chúng ta
nghe trong kinh dạy: "vạn pháp Duy thức"; rồi chúng ta bắt
đầu ngày đêm tu Duy thức quán. Bất luận thời giờ nào, khi
thấy nghe hay biết, chúng ta đều quán "Tất cả pháp là giả
tướng, Duy thức biến hiện". Chúng ta luôn luôn ở trong Duy
thức quán. Cũng như người ở trong cảnh Tịnh độ bảy báu trang
nghiêm. Được như thế thì tất cả phiền não không thể xâm
nhập.
Song, khi mới cầu an
trụ Duy thức, công tu chưa thâm, năng lực còn kém, nên chưa
có thể an trụ Duy thức tánh được. Lúc bấy giờ hai món phiền
não (năng thủ, sở thủ) còn miên phục, chưa trổi dậy; cũng
như cỏ bị đá đè. Đến khi áp lực được nhẹ đi, thì hai món
chủng tử này sẽ sanh khởi trở lại.
Duy thức tánh như
ông chủ nhà, phiền não như kẻ trộm. Kẻ trộm không bao giờ ưa
chủ nhà; chủ nhà lúc nào cũng ghét kẻ trộm.
Duy thức tánh và
phiền não cũng thế. Nếu không diệt trừ phiền não thì không
thể an trụ Duy thức tánh được. Bởi thế nên muốn an trụ Duy
thức tánh thì quyết định phải diệt trừ hai món thủ (ngã,
pháp).
CHÁNH
VĂN
Hỏi:_ Hành
tướng của vị Gia hạnh thế nào?
Đáp:_
Nguyên văn chữ Hán
Tụng viết:
Hiện tiền lập tiểu
vật
Vị thị Duy thức
tánh
Dĩ hữu sở đắc
cố
Phi thật trụ Duy
thức
Dịch nghĩa
Luận chủ nói bài
tụng để trả lời rằng: Nếu hiện tiền còn một tí thấy mình an
trụ Duy thức tánh, thì chưa phải thật an trụ Duy thức tánh,
vì còn có chỗ sở đắc vậy.
LƯỢC GIẢI
2. Vị Gia
hạnh: Gia công tấn hạnh. Vị Gia hạnh này giống như
người đi đường, trước phải dự bị đồ hành lý, rồi sắp sửa
khởi hành.
Hành giả, khi tu Duy
thức quán, thấy cảnh giới Duy thức hiện tiền, nếu chấp mình
chứa được Duy thức tánh, như thế là còn có chỗ sở đắc, nên
chưa phải thật chứng Duy thức. Cũng như ông Nhan Hồi học Đạo
với đức Khổng tử, sau khi thể hội được Đạo, ông nói rằng:
"Như có một vật gì đứng đồ sộ vậy(1)". Đó cũng là cảnh giới
Duy thức biến, chẳng qua thức biến không đồng.
Vì chơn tánh của Duy
thức, chẳng phải có, chẳng phải không, tuy chứng mà không có
gì là chứng, thế mới thật là chứng Duy thức.
Người an trụ được
chơn tánh của Duy thức, cũng như cái tay nghười biết viết
chữ: Không thấy có gì khác cả. Bởi thế nên nói "đặng mà
không có gì là đặng".
Nay người tu Duy
thức, do hiện tiền còn một tí thấy mình chứng Duy thức, nên
không phải thật an trụ nơi Duy thức tánh.
Hỏi:_ Hành
tướng của vị Thông đạt thế nào?
Đáp:_
Nguên văn chữ Hán
Tụng viết:
Nhược thời ư sở
duyên
Trí đô vô sở
đắc
Nhĩ thời trụ Duy
thức
Ly nhị thủ tướng
cố
Dịch nghĩa
Luận chủ nói bài
tụng để trả lời rằng: bao giờ cảnh sở quán và trí năng quán
đều không, khi đó mới an trụ nơi Duy thức tánh, vì đã xa lìa
được hai món thủ vậy.
LƯỢC GIẢI
3. Vị Thông
đạt: Rõ ràng thông suốt. Vị Thông đạt này cũng như
người đi đường, đã thông suốt con đường sẽ đi, bắt đầu khởi
hành, không còn lo ngại.
Hành tướng của vị
nầy, là khi hành giả đối với cảnh sở quán và trí năng quán,
đều xem như huyễn như hoá, không có sở đắc
Vị Gia hạnh trước,
chưa xa lìa hai món thủ (Ngã chấp, Pháp chấp), vì còn có sở
đắc, nên chưa có thể an trụ nơi Duy thức. Đến vị Thông đạt
này, thì đã xa lìa hai món thủ, không có sở đắc, nên mới
thật an trụ nơi Duy thức.
Đoạn văn này, đòng
một nghĩa với câu: "Vô trí diệc vô đắc" (không có trí năng
đắc và cảnh sở đắc) trong Bát Nhã Tâm kinh.
CHÁNH
VĂN
HỎI:_Hành
tướng của vị Tu tập thế nào?
Đáp: _Nguyên
văn chữ Hán
Tụng viết:
Vô đắc bất tư nghị
Thị xuất thế
gian trí
Xả nhị thô trọng
cố
Tiện chứng đắc
chuyển y.
Dịch nghĩa
Luận chữ nói bài
tụng để trả lời rằng: Cảnh giới: Vô đắc này không thể nghĩ
bàn; đây là "Trí xuất thế gian" (vô phân biệt trí). Do đã xa
lìa được hai món thô trọng (Phiền não chướng và Sở tri
chướng) và chứng được hai món chuyển y (Bồ Đề,Niết bàn).
LƯỢC GIẢI
4. Vị Tu tập:
Tu hành tập luyện. Địa vị Thông đạt trên, là chỉ
thông suốt giáo lý, song chưa tu tập. Đến địa vị này mới tu
tập Lục độ muôn hạnh, để chứng ngộ chơn lý.
Ở
địa vị Thông đạt mới vừa chứng cái "Thể" của trí vô đắc. Đến
địa vị Tu tập này mới đặng "Diệu dụng" của trí vô đắc. Diệu
dụng của trí này này không thể nghĩ bàn. Nhưng, nếu trí còn
có sở đắc là trí của thế gian; cái trí không có sở đắc, mới
phải là trí của xuất thế gian.
Trí Vô đắc
-Vị thông đạt mới
vừa chứng cái thể "trí vô đắc".
- Vị Tu tập mới
được "Diệu dụng" của trí vô đắc
Vị Tu tập này đã xả
bỏ được chủng tử của hai chướng là phiền não chướng và Sở
tri chướng và chứng được hai quả Bồ Đề và Niết bàn.
Bài tụng trên nói
chữ "thô trọng" là chỉ cho hai món chủng tử của hai món
chướng: Phiền não và Sở tri: còn nói chữ "chuyển y"
,nghĩa là y cứ trên y tha khởi tánh, mà chuyển nhiễm trở lại
tịnh: chuyểm phiền não chướng thành Đại giải thoát (Niết
bàn), chuyển sở tri chướng thành Đại Bồ Đề
Trên tánh Y tha
khởi
-Xả hai món
nhiễm (Phiền não chướng và Sở tri chướng)
-Đặng hai quả
Thanh tịnh (Đại Niết bàn và Đại Bồ Đề)
CHÁNH
VĂN
Hỏi:_ Hành
tướng của vị Cứu cánh thế nào?
Đáp:_ Nguyên
văn chữ Hán
Tụng viết:
Thử tức vô lậu giới
Bất tư nghị,
thiện, thường
An lạc, Giải
thoát thân
Đại Mâu ni danh
pháp
Dịch nghĩa
Luận chủ nói bài
tụng để trả lời rằng: Đây là cảnh giới vô lậu, cũng gọi là:
1. Bất tư nghi, 2. Thiện, 3. Thường, 4. An lạc, 5. Giải
thoát thân, 6. Đại Mâu ni, cũng gọi là Pháp thân.
LƯỢC GIẢI
5. Vị Cứu
cánh: Quả vị rốt ráo; trong các quả vị tu hành, đến
đây đã cùng tột rồi, không còn quả vị nào hơn nữa. Hành giả
chứng được quả vị Bồ Đề, Niết bàn là cảnh giới vô lậu rốt
ráo thanh tịnh.
Nói "Cảnh giới thanh
tịnh" tức là chỉ cái Tổng tướng của vị Cứu cánh; nếu chỉ
Biệt tướng của vị này thì có 6 món:
1. Bất tư nghi:
cảnh giới này không thể dùng trí suy nghĩ hay lời nói luận
bàn được.
2. Thiện:
Cảnh giới này đã xa lìa hết các pháp nhiễm ô, bất thiện.
3. Thường:
cảnh giới này thường còn, tột đến đời vị lai, không có cùng
tận vậy.
4. An lạc:
Cảnh giới này rất thanh tịnh vui vẻ, không có các điều khổ
não bức bách vậy.
5. Giải thoát
thân: Do xa lìa các phiền não triền phược, nên được thân
Giải thoát (Cảnh giới của Nhị thừa).
6. Đại Mâu Ni hay
gọi là Pháp thân: Do xa lìa được sở tri chướng, nên
chứng đặng quả vô thượng Bồ Đề: vì quả vị này bản tánh rất
thanh tịnh, nên gọi là Đại Mâu ni (tịnh mặc) cũng gọi là
Pháp thân vậy.
Dịch xong tại chùa
Phật quang (Trà Ôn)
Ngày trừ tịch năm Canh Tý (14 2 1961)
DUY THỨC
TAM THẬP TỤNG
CHÁNH VĂN
Ngài Bồ Tát
THIÊN THÂN tạo luận
Ngài HUYỀN TRANG dịch ra chữ Hán
Sa môn T.THIỆN HOA dịch ra chữ Việt
Nguyên văn chữ
Hán
Nhược Duy thức, vân
hà thế gian cập chư Thánh giáo thuyết hữu Ngã, Pháp?
Tụng viết:
Do giả thuyết Ngã
Pháp
Hữu chủng chủng
tướng chuyển
Bỉ y thức sở
biến
Thử năng biến
duy tam
Vị: Dị thục, Tư
lương
Cặp liễu biệt
cảnh thức.
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Nếu chỉ
có thức, tại sao người thế gian và trong Phật giáo đều nói
có Ngã và Pháp?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Do giả nói Ngã,
Pháp:
Các tướng Ngã,
Pháp kia,
Nương nơi thức
sanh ra.
Thức năng biến
có ba:
Dị thục và Tư
lương
Cùng thức Liễu
biệt cảnh.
Nguyên văn chữ
Hán
Tuy dĩ lược thuyết
tam năng biến danh, nhi vị quảng biện tam năng biến tướng;
thả sơ năng biến kỳ tướng vân hà?
Tụng viết:
Sơ A lai da thức
Dị thục, Nhứt
thế chủng
Bất khả tri chấp
thọ
Xứ liễu thường
dữ xúc
Tác ý, Thọ,
Tưởng, Tư
Tương ưng duy Xả
thọ
Thị vô phú vô
ký
Xúc đẳng diệc
như thị
Hằng chuyển như
bộc lưu
A lại hán vị
xả.
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Trên đã
được nói cái "tên" của ba thức Năng biến, song chưa nói rõ
cái "tướng"; vậy cái "tướng" của thức Năng biến thứ nhứt thế
nào?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Trước là A lại da,
Dị thục, Nhứt
thế chủng.
Không thể biết:
giữ, chịu (chấp thọ)
Thế giới (xứ) và
phân biệt (liễu).
Tương ưng năm
Biến hành,
Năm thọ chỉ Xả
thọ
Thức này và Tâm
sở
Hằng chuyển như
nước thác
A la hán mới xả.
Nguyên văn
chữ Hán
Như thị dĩ
thuyết sơ năng biến tướng, đệ nhị năng biến kỳ tướng vân
hà?
Tụng viết:
Thứ đệ nhị năng
biến
Thị thức danh
Mạt ma
Y bỉ chuyển
duyên bỉ
Tư lương vi tánh
tướng
Tứ phiền não
thường câu
Vị: Ngã si, Ngã
kiến
Tinh Ngã mạn,
Ngã ái
Cặp dư Xúc đẳng
câu
Hữu phú vô ký
nhiếp
Tuỳ sở sanh sở
hệ
A la hán, Diệt
định,
Xuất thế đạo vô
hữu.
Dịch nghiã
Hỏi:_Trên
đã nói thức Năng biến thứ nhứt; còn thức năng biến thứ hai
thế nào?
Đáp:_
Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Thức năng biến
thứ hai,
Tên là thức Mạt
ma.
Nương kia lại
duyên kia (A lại da)
Tánh tướng đều
lo nghĩ;
Thường cùng bốn
phiền não;
Ngã si và Ngã
kiến
Ngã mạn với Ngã
ái;
Cùng với Xúc vân
vân.
Hữu phú vô ký
tánh
Sanh đâu chấp
ngã đó.
La hán và Diệt
định
Đạo Xuất thế
không có.
Nguyên văn chữ
Hán
Như thị dĩ thuyết đệ
nhị Năng biến, đệ tam Năng biến kỳ tướng vân hà?
Tụng viết:
Thứ đệ tam Năng
biến
Sai biệt hữu lục
chủng
Liễu cảnh vi
tánh tướng
Thiện, bất
thiện, câu phi
Thử tâm sở Biến
hành
Biệt cảnh,
Thiện, Phiền não
Tuỳ phiền não,
Bất định
Giai tam thọ
tương ưng
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Như vậy
đã nói thức Năng biến thứ hai, còn thức Năng biến thứ ba thế
nào?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Thức Năng biến thứ
ba
Có sáu món sai
biệt
Tánh, tướng đều
biết (liễu) cảnh.
Thiện, Bất
thiện, Vô ký
Đây tâm sở: Biến
hành
Biệt cảnh,
Thiện, Phiền não
Tuỳ Phiền não,
Bất định,
Tương ưng với ba
thọ.
Nguyên văn chữ
Hán
Tiền dĩ lược phiêu
lục vị tâm sở tương ưng, kiêm ưng quảng biện bỉ sai biệt
tướng; thả sơ nhị vị kỳ tướng vân hà?
Tụng viết:
Sơ Biến hành: Xúc
đẳng
Thứ Biệt cảnh
vị: Dục,
Thắng giải,
Niệm, Định, Huệ.
Sở duyên sự bất
đồng
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Trên đã
lược nêu 6 vị tâm sở tương ưng; nay xin nói rõ hành tướng
sai khác của các loại tâm sở. Vậy hai vị tâm sở đầu thế
nào?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Trước Biến hành là
Xúc;
Sau biệt cảnh là
Dục,
Thắng giải,
Niệm, Định, Huệ
Cảnh bị duyên
không đồng.
Nguyên văn chữ
Hán
Dĩ thuyết Biến
hành, Biệt cảnh nhị vị,
Thiện vị tâm sở
kỳ tướng vân hà?
Tụng viết:
Thiện, vị: Tín, Tàm,
Quí
Vô tham đẳng tam
căn
Cần, An, Bất
phóng dật
Hành xả cập Bất
hại.
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Trên đã
nói hai loại Biến hành và Biệt cảnh, còn hành tướng của
Thiện tâm sở thế nào?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Thiện là: Tín,
Tàm,Quí
Vô tham, Sân và
Si
Cần, An, Bất
phóng dật
Hành xả và Bất
hại
Nguyên văn chữ
Hán
Như thị dĩ thuyết
Thiện vị tâm sở,
Phiền não tâm sở
kỳ tướng vân hà?
Tụng viết:
Phiền não vị: Tham,
Sân
Si, Mạn, Nghi,
Ác kiến.
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Như
trên đã nói Thiện tâm sở rồi, còn hành tướng của căn bản
phiền não thế nào?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Phiền não là: Tham,
Sân
Si, Mạn, Nghi, Ác
kiến.
Nguyên văn chữ
Hán
Dĩ thuyết căn
bản lục phiền não tướng, chư Tuỳ phiền não kỳ tướng vân hà?
Tụng viết:
Tuỳ phiền não vị:
Phẫn
Hận, Phú, Não,
Tật, Xan
Cuống, Siễm dữ
Hại, Kiêu
Vô tàm cập Vô
quí
Trạo cử dữ Hôn
trầm
Bất tín tinh
Giải đãi
Phóng dật cập
Thất niệm
Tán loạn, Bất
chánh tri
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Trên đã
nói 6 món căn bản phiền não còn hành tướng của Tuỳ phiền não
thế nào?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Tuỳ phiền não là:
Phẫn,
Hận, Phú, Não,
Tật, Xan
Cuống, Siểm, và
Hại, Kiêu
Vô tàm với Vô
quí
Trạo cử cùng
Giải đãi
Phóng dật và
Thất niệm
Tán loạn, Bất
chánh tri.
Nguyên văn chữ
Hán
Dĩ thuyết nhị thập
Tuỳ phiền não tướng, Bất định hữu tứ kỳ tướng vân hà?
Tụng viết:
Bất định vị Hối,
Miên
Tầm, Tư nhị các
nhị.
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Trên đã
nói hai mươi món Tuỳ phiền não, còn hành tướng của bốn món
Bất định thế nào?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Bất định là Hối,
Miên
Tầm, Tư lại chia hai
Nguyên văn chữ
Hán
Dĩ thuyết lục vị tâm
sở tương ưng, Vân hà ưng tri hiện khởi phận vị?
Tụng viết:
Y chỉ căn bản thức
Ngũ thức tuỳ
duyên hiện
Hoặc câu hoặc
bất câu
Như đào ba y
thủy
Ý thức thường
hiện khởi
Trừ sanh vô
tưởng thiên
Cập vô tâm nhị
định
Thuỳ miên dữ
muộn tuyệt.
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Trên đã
nói 6 loại tâm sở tương ưng rồi, bây giờ làm sao biết được
phận vị hiện khởi của 6 thức?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Nương nới thức căn
bản (A lại da)
Năm thức tuỳ
duyên hiện,
Hoặc chung hoặc
chẳng chung,
Như sóng nương
với nước.
Ý thức thường
hiện khởi,
Trừ sanh trời vô
tưởng
Và hai định vô
tâm,
Ngủ mê hay chết
giả.
Nguyên văn chữ
Hán
Dĩ quảng phân biệt
tam Năng biến tướng, vi tự sở biến nhị phần sở y; vân hà ưng
tri y thức sở biến, giả thuyết ngã pháp, phi biệt thật hữu,
do thị nhứt thế duy hữu thức da?
Tụng viết:
Thị chư thức chuyển
biến
Phân biệt sở
Phân biệt
Do thử bỉ giai
vô
Cố nhứt thế Duy
thức.
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Trên đã
nói ba thức Năng biến, đều do hai phần (Tự chứng và Chứng tự
chứng) làm sở y, rồi tự nó biến ra hai phần (Kiến phần và
Tướng phần); bây giờ làm sao lại biết "Tất cả đều Duy thức
biến ra" rồi giả nói ngã pháp, chứ không phải thật có?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Các thức này chuyển
biến:
Phân biệt, bị
phân biệt.
Do bỉ, thử đều
không
Nên tất cả Duy
thức
Nguyên văn chữ
Hán
Nhược duy hữu thức,
đô vô ngoại duyên, do hà nhi sanh chủng phân biệt?
Tụng viết:
Do nhứt thế chủng
thức
Như thị như thị
biến
Dĩ triển chuyển
lực cố
Bỉ bỉ phân biệt
sanh
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Nếu chỉ
có nội thức không có ngoại cảnh để làm duyên, thì làm sao
sanh ra các món phân biệt.
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Do tất cả chủng
thức,
Biến như vậy như
vậy;
Vì sức biến
chuyển đó,
Sanh các món
phân biệt.
Nguyên văn chữ
Hán
Tuy hữu nội thức,
nhi vô ngoại duyên, do hà hữu tình sanh tử tương tục?
Tụng viết:
Do chư nghiệp tập
khí
Nhị thủ tập khí
câu
Tiền Dị thục ký
tận
Phục sanh dư Dị
thục
Dich nghĩa
Hỏi:_ Nếu chỉ
có nội thức, không có ngoại cảnh để làm trợ duyên, thì tại
làm sao chúng hữu tình lại sanh tử tương tục?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Do chủng tử các
nghiệp
Và chủng tử hai
thủ (năng thủ, sở thủ)
Nên Dị thục
trước chết
Lại sanh Dị thục
sau
Nguyên văn chữ
Hán
Nhược duy hữu thức,
hà cố Thế Tôn xứ xứ kinh trung, thuyết hữu tam tánh? Ưng tri
tam tánh, diệc bất ly thức. Sở dĩ giả hà?
Tụng viết
Do bỉ bỉ Biến kế
Biến kế chủng
chủng vật
Thử Biến kế sở
chấp
Tự tánh vô sở
hữu
Y tha khởi tự
tánh
Phân biệt duyên
sở sanh
Viên thành thật
ư bỉ
Thường viễn ly
tiền tánh
Cố thử dữ Y tha
Phi dị phi bất
dị
Như vô thường
đẳng tánh
Phi bất kiến thử
bỉ.
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Nếu chỉ
có thức, tại sao trong các kinh đức Thế Tôn nói có ba tánh?
Đáp:_ Phải
biết ba tánh đó cũng không rời thức.
Hỏi:_ Tại sao
thế?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Do các tánh biến
kế,
Chấp hết tất cả
vật.
Tánh Biến kế sở
chấp,
Tự nó không thật
có.
Còn tánh Y tha
khởi
Do các duyên mà
sanh.
Viên thành thật
với kia (Y tha)
Xa lìa Biến kế
trước.
Thành thật với Y
tha,
Cũng khác cũng
không khác;
Như vô thường
vân vân
Chẳng thấy đây
(Viên thành) và kia (Y tha)
Nguyên văn chữ
Hán
Nhược hữu tam
tánh, như hà Thế Tôn thuyết nhứt thế pháp, giai vô tự tánh?
Tụng viết
Tức y thử tam tánh,
Lập bỉ tam vô
tánh.
Cố Phật mật ý
thuyết:
Nhứt thế pháp vô
tánh.
Sơ tức tướng vô
tánh,
Thứ vô tự nhiên
tánh,
Hậu do viễn ly
tiền:
Sở chấp ngã pháp
tánh.
Thử chư pháp
thắng nghĩa,
Diệc tức thị
Chơn như:
Thường như kỳ
tánh cố;
Tức Duy thức
thật tánh.
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Nếu có
ba tánh, tại sao đức Thế Tôn nói: "tất cả pháp đều không có
tự tánh"?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Y theo ba tánh này,
Lập ra ba vô
tánh.
Nên Phật mật ý
nói:
Tất cả pháp vô
tánh.
Trước là "tướng"
vô tánh,
Kế, không tự
nhiện tánh,
Sau, do xa lìa
trước:
Tánh chấp Ngã và
Pháp.
Đây Thắng nghĩa
các Pháp,
Cũng tức là Chơn
như,
Vì tánh thường
như vậy,
Tức thật tánh
Duy thức.
Nguyên văn
chữ Hán
Như thị sở thành Duy
thức tướng tánh, thuỳ y kỷ vị, như hà ngộ nhập? Vị cụ Đại
thừa nhị chủng tánh giả, lược hữu ngũ vị, phương năng ngộ
nhập. Nhứt Tư lương vị, nhị Gia hành vị, tam Thông đạt vị,
tứ Tu tập vị, ngũ Cứu cánh vị.
1.
Sơ Tư lương vị, kỳ tướng vân hà?
Tụng viết
Nãi chí vị khởi
thức
Cầu trụ Duy thức
tánh
Ư nhị thủ tuỳ
miên
Du vi năng phục
diệt
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Như thế
là đã thành lập tướng và tánh của Duy thức. Vậy người nào,
có mấy vị, và làm sao ngộ nhập được Duy thức ?
Đáp:_ Phải
người có đủ hai món tánh Đại thừa và tu hành trải qua năm
địa vị sau này, mới ngộ nhập được Duy thức tánh.
1. Vị Tư lương, 2.
Vị Gia hạnh,
3. Vị Thông đạt, 4.
Vị Tu tập,
5. Vị Cứu cánh.
Hỏi:_ Hành
tướng của vị Tư lương thế nào?
Đáp:_
Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Cho đến chưa khởi
thức
Cầu trụ Duy thức
tánh
Hai thủ còn miên
phục
Chưa có thể diệt
trừ.
Nguyên văn chữ
Hán
2.
Thức Gia hạnh vị, kỳ tướng vân hà ?
Tụng viết:
Hiện tiền lập thiểu
vật
Vị thị Duy thức
tánh
Dĩ hữu sở đắc
cố
Phi thật trụ Duy
thức
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Hành
tướng của vị Gia hạnh thế nào?
Đáp: _ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Hiện tiền còn một
tí
Gọi là Duy thức
tánh;
Vì còn sở đắc
vậy,
Chẳng thật trụ
Duy thức.
Nguyên văn chữ
Hán
3.
Thứ Thông đạt vị, kỳ tướng vân hà ?
Tụng viết
Nhược thời ư sở
duyên
Trí đô vô sở
đắc
Nhĩ thời trụ Duy
thức
Ly nhị thủ tướng
cố.
Dịch nghĩa
Hỏi: _Hành
tướng của vị Thông đạt thế nào?
Đáp: _ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Khi nào "cảnh" bị
duyên
Và "trí" đều
không có
Khi đó trụ Duy
thức
Đã lìa hai món
thủ.
Nguyên văn chữ
Hán
4.
Thứ Tu tập vị, kỳ tướng vân hà?
Tụng viết:
Vô đắc bất tư nghị
Thị xuất thế
gian trí
Xả thị thô trọng
cố
Tiên chứng đắc
chuyển y.
Dịch nghiã
Hỏi:_ Hành
tướng của vị Tu tập thế nào?
Đáp: _ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
"Không đặng", chẳng
nghĩ bàn;
Đây là "Trí xuất
thế" (vô phân biệt trí)
Vì bỏ hai Thô
trọng
Nên chứng đặng
"chuyển y"
Nguyên văn chữ
Hán
5.
Hậu Cứu cánh vị, kỳ tướng vân hà ?
Tụng viết
Thử tức vô lậu giới
Bất tư nghị,
Thiện, Thường
An lạc, Giải
thoát thân
Đại Mâu ni danh
Pháp.
Dịch nghĩa
Hỏi:_ Hành
tướng của vị Cứu cánh thế nào?
Đáp:_ Luận
chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Đây là cõi Vô lậu
Bất tự nghị,
Thiện, Thường
An lạc, Giải
thoát thân
Đại Mâu ni Pháp
thân
***
BIỂU THỨ NHỨT
Hình đồ 1
BIỂU THỨ HAI
Hình đồ 1
▲ Trở Lên
|
|
|