|
BÀI THỨ MƯỜI
MỘT
CHƯƠNG THỨ BA
PHẦN GIẢI THÍCH
NÓI VỀ NGHĨA "BẤT GIÁC" (tiếp theo)
MỤC LỤC
Nói về nghĩa "Bất giác"
(tiếp theo và hết)
Ba đại nghĩa của Tâm (tiếp theo và hết)
Nói về Dụng rộng lớn của Tâm:
Báo thân
Ứng thân
Thế giới trang nghiêm
III. Trở về Tâm Chơn như
Không khởi vọng niệm thì trở về Chơn như
CHÁNH VĂN
Nói về Dụng rộng lớn
của tâm chơn như:
Các đức Phật từ khi tu
nhơn (Bồ Tát đạo) đã phát tâm đại từ bi, tu các pháp Ba la
mật, giáo hóa chúng sanh. Các Ngài lập lời thệ nguyện rộng
lớn, độ thoát tất cả chúng sanh cho đến cùng tận đời vị lai,
không hạn định bao nhiêu số kiếp.
Các Ngài xem tất cả
chúng sanh như thân mình, và cũng không thấy (chấp) có tướng
chúng sanh để độ. Tại sao vậy? _ Vì các Ngài đã chơn thật
hiểu biết: tất cả chúng sanh và mình không có sai khác, đồng
một tâm chơn như bình đẳng.
Các Ngài đã dùng Đại
trí huệ diệt hết vô minh, nên chơn như (Pháp thân) được hiện
ra. Do chơn như đã hiện, nên tự nhiên có các món diệu dụng
không thể nghĩ bàn. Bởi diệu dụng từ thể chơn như hiện ra,
nên Dụng đồng với Thể chơn như, đều biến khắp tất cả, và
cũng đều không có hình tướng gì để thấy được.
Tại sao vậy? _ Vì các
đức Phật chỉ có Pháp thân thanh tịnh, tức là Trí thân (tâm),
không có hình sắc (cảnh giới) và cũng không có tạo tác.
Song, tuỳ theo trình độ của chúng sanh, hoặc thấy hoặc nghe,
đều được lợi ích, nên gọi là "Dụng lớn".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói về Dụng
lớn của tâm chơn như.
Các vị Bồ Tát, dùng đại
trí huệ, diệt trừ hết vô minh, chứng được Thể chơn như (Pháp
thân). Do các vị Bồ Tát đã chứng được chỗ đồng thể, nên tự
xem mình cùng tất cả chúng sanh đồng một bản thể, không có
riêng khác; nếu chúng sanh đau khổ, tức là mình đau khổ,
chúng sanh còn trầm luân thì mình chưa được giải thoát.
Bởi thế nên Bồ Tát, tức
nơi thể chơn như bình đẳng, khởi ra "Đại dụng": Phát tâm đại
từ bi, lập lời thệ nguyện rộng lớn, tu các pháp Ba la mật
(lục độ), hoá độ chúng sanh, cùng tận đời vị lai, không hạn
định bao nhiêu số kiếp, và cũng không chấp có tướng chúng
sanh để độ.
"Thể" và "Tướng" của
chơn như đều rộng lớn như thế, nên "Diệu dụng" của chơn như
cũng không thể nghĩ bàn: Không có hình tướng, không có công
dụng và cũng không có tâm tạo tác; song tuỳ theo căn cơ của
mỗi chúng sanh, cảm muốn như thế nào, thì ứng hiện ra như
thế ấy (như đức Quan Âm Bồ Tát ứng hiện 32 thân v.v...) làm
cho chúng sanh đều được lợi ích, nên được gọi là "Đại dụng".
Như hư không, tuỳ các đồ vật mà hiện đủ hình. Và cũng như
trăng rằm, không cố ý (vô tâm) không dụng công (vô công
dụng) mà tự nhiên chiếu khắp tất cả; tuỳ theo các ao hồ,
nước trong hay đục mà trăng tỏ hay mờ.
CHÁNH VĂN
Diệu dụng của chơn như
tuỳ theo trình độ của chúng sanh mà thấy có hai phần:
1. Ứng thân 2. Báo
thân
_ Chúng phàm phu và Nhị
thừa, do Phân biệt sự thức (ý thức) nên thấy ứng thân Phật.
Họ chỉ thấy phần nào về sắc thân Phật, chớ không thể biết
cùng tận, và chỉ chấp thân ấy từ ở ngoài đến, chớ không biết
do tâm (chuyển thức) hiện ra.
_ Các vị Bồ Tát từ khi
mới phát tâm, cho đến khi rốt ráo địa vị Bồ Tát, đều do
nghiệp thức (A đà na) mà thấy báo thân Phật. Thân này có vô
lượng sắc tướng, mỗi sắc tướng có vô lượng sự tốt đẹp.
Về quốc độ của thân
này, cũng đủ vô lượng vật quý báu trang nghiêm; tuỳ sự thị
hiện nơi nào đều không cùng tận, không có biên giới và cũng
không hư hoại.
Tóm lại, thân thể
(chánh báo) và quốc độ (y báo), sở dĩ đều được thành tựu các
công đức như thế, là do sự huân tập của các hạnh vô lậu, như
các pháp Ba la mật v.v...và sự huân tập bất tư nghị (chơn
như huân tập bên trong). Vì được đầy đủ vô lượng tướng diệu
lạc như thế nên gọi là Báo thân.
Chúng phàm phu thì chỉ
thấy sắc thân thô sơ của Phật. Còn lục đạo chúng sanh do tuỳ
theo cái nghiệp của mỗi loài khác nhau, nên thấy thân Phật
không đồng. Do tuỳ theo mỗi loài ứng hiện, không phải chính
thân tướng tốt đẹp (báo thân), nên gọi là "ứng thân".
LƯỢC GIẢI
Tuỳ theo trình độ của
chúng sanh, mà diệu dụng chơn như thành ra hai phần:
1. Ứng thân:
Thân này chỉ tuỳ theo muôn ngàn hoàn cảnh sai biệt của lục
đạo chúng sanh, mà hiện ra muôn ngàn hình thức không đồng:
Loài nào thấy Phật loài nấy. Như hư không tuỳ theo các đồ
vật vuông tròn v.v...mà ứng hiện ra đủ các hình tướng.
Chúng phàm phu và hàng
Nhị thừa, vì còn ý thức phân biệt, và chấp theo trần cảnh
bên ngoài, không ngộ lý Duy thức, nên thấy Phật ngoài tâm
mình. Bởi thế nên chỉ thấy ứng thân Phật, như thân Phật có
32 tướng tốt v.v...
2. Báo thân:
Thân này là kết quả hai món huân tập:
a) Chơn như huân tập,
cũng gọi là Bất khả tư nghị huân.
b) Các pháp vô lậu
thanh tịnh huân tập, tức là tu các pháp như Lục độ v.v...Vì
thế nên Chánh báo (thân thể) được vô số tướng tốt đẹp, mà Y
báo (hoàn cảnh) cũng được vô cùng vật quý báo trang nghiêm.
Các vị Bồ Tát từ khi
mới phát tâm cho đến lúc rốt ráo địa vị Bồ Tát, đều ngộ lý
Duy tâm, nên thấy Báo thân Phật Duy tâm hiện ra, không phải
ở ngoài đến. Nhưng cũng tuỳ theo trình độ của từng địa vị,
mà sự thấy có Thô, tế khác nhau. Bồ Tát từ địa vị Thập tín,
Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng và Tứ gia hạnh, chỉ thấy
về phần Thô của Báo thân Phật. Các vị Bồ Tát từ Sơ địa lên
đến Đẳng giác thì thấy Báo thân Phật lần lần thù thắng và vi
diệu.
CHÁNH VĂN
Lại nữa, các vị Bồ Tát
mới phát tâm (tam hiền) do thâm tín chơn như, nên chỉ thấy
được một phần nhỏ báo thân Phật. Các vị Bồ Tát này, tuy biết
sắc thân Phật có nhiều tướng tốt trang nghiêm, duy tâm biến
hiện, không rời chơn như, không khứ không lai, xa lìa ranh
giới, song các vị Bồ Tát này còn dùng tâm phân biệt (ý thức)
nên chưa nhập được Pháp thân.
Nếu Bồ Tát đặng tâm
thanh tịnh (lên Thánh địa) thì thấy báo thân Phật càng tốt
đẹp và càng mầu nhiệm. Đến vị Bồ Tát tột bực (Đẳng giác) thì
thấy báo thân Phật mới hoàn toàn rốt ráo.
Nếu Bồ Tát lìa được
nghiệp thức (A đà na) thì ngộ được pháp thân Phật, không có
sắc tướng gì có thể thấy được; vì pháp thân của chư Phật,
không có sắc tướng thế này thế nọ, không có tướng phần (bị
phân biệt) và kiến phần (năng phân biệt) nên không thể thấy
được.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy tiếp theo đoạn
trước, nói tuỳ theo trình độ của Bồ Tát, thấy thân Phật khác
nhau.
Các vị Bồ Tát ở địa vị
Tam hiền, tuy đã ngộ được lý Duy thức và thâm tín chơn như,
nhưng vì còn dùng ý thức phân biệt, nên chỉ thấy báo thân
Phật được một ít thôi.
Các vị Bồ Tát đã ngộ
nhập chơn như, chứng được pháp thân thanh tịnh, bước lên
Thánh vị (Thập địa); càng lên bực trên chừng nào, thì lại
càng thấy báo thân Phật tốt đẹp và mầu nhiệm chừng ấy. Đến
địa vị cùng tận của Bồ Tát là vị Đẳng giác, mới thấy được
rốt ráo Báo thân Phật.
Đến khi Bồ Tát phá trừ
được Nghiệp thức (Vọng thức: A lại da chơn vọng hoà hiệp)
tức là phá trừ được vô minh rất vi tế (món Tế thứ nhứt trong
ba Tế); lúc bấy giờ mới hoàn toàn nhập Chơn như, chứng Pháp
thân thanh tịnh.
Pháp thân là bản thể
của các pháp; vì không có sắc tướng, không có bỉ thử và
không tâm cảnh v.v...nên không thể thấy được. Tất cả chư
Phật và chúng sanh cũng đồng một bản thể này.
CHÁNH VĂN
Hỏi: _ Pháp thân
của chư Phật đã không có các sắc tượng, tại sao lại hiện ra
có các sắc tướng? (ứng thân và báo thân)
Đáp: _ Vì pháp
thân là bản thể của sắc tướng, cho nên có thể hiện ra các
sắc tướng (hoá thân báo thân). Do từ hồi nào đến giờ, Sắc
(hiện tượng) Tâm (bản thể) không hai, nên bản thể của Sắc
(sắc tánh) tức là Tâm (tức trí).
Vì bản thể của Sắc vô
hình (thuộc về tâm) nên gọi là "Trí thân". Vì tướng của tâm
(trí tánh) tức là Sắc, nên gọi là "Pháp thân".
Vì bản thể (tâm) đã
biến khắp tất cả chỗ, nên hiện tượng là Sắc, cũng không có
chừng ngằn. Tuỳ nơi tâm mà hiện ra mười phương thế giới, vô
lượng Bồ Tát, vô lượng Báo thân, vô lượng món trang nghiêm,
mỗi mỗi sai khác, đều không có hạn lượng và đều không ngại
nhau. Vì đây là diệu dụng đại tự tại của chơn như, nên hkông
thể dùng thức tâm phân biệt mà biết được.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Luận chủ đặt
ra lời vấn đáp để giải thích sự nghi ngờ.
Hỏi: _ Pháp thân của
chư Phật thanh tịnh, không có các hình tướng, tại sao lại
hiện ra có các sắc tướng là Hoá thân và Báo thân?
Đại ý lời đáp: Do từ
hồi nào đến giờ, trong Chơn như Pháp thân, Sắc và Tâm không
hai: Bản thể của Sắc tức là Tâm, Hiện tượng của Tâm tức là
Sắc. Bởi thế nên Chơn như Pháp thân tuy không có hình sắc,
mà có thể hiện ra các hình tướng: Y báo và Chánh báo đầy đủ.
Cũng như bản thể của điện, biến khắp tất cả không gian, tuy
không có hình tướng, nhưng có thể hiện ra các sắc tướng,
(hiện tượng) như sấm sét, chớp, nổ v.v...Trong Tâm kinh
chép: "Sắc chẳng khác với Không, Không chẳng khác với Sắc"
(Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không,
Không tức thị Sắc).
Vì Sắc tức là Tâm, nên
các pháp tức là Chơn như Pháp thân. Vì Tâm tức là Sắc, nên
chơn như pháp thân tuỳ duyên thành các pháp. Do bản thể đã
biến khắp tất cả, nên hiện tượng các Sắc tướng, như mười
phương thế giới, vô lượng Bồ Tát, vô lượng món trang nghiêm
v.v....cũng biến khắp tất cả, không có hạn lượng; mặc dù các
hình sắc đều khác nhau, nhưng không trở ngại nhau. Việc này
là diệu dụng của Chơn như Pháp thân, nên chúng phàm phu và
hàng Nhị thừa, không thể dùng thức tâm của mình mà phân biệt
được.
Do Chơn như là bản thể
của các Pháp, nên gọi là Pháp thân; và nó đủ tất cả trí, nên
cũng gọi là Trí thân.
III. Trở về Tâm
Chơn như
CHÁNH VĂN
Lại nữa, các pháp từ
sanh diệt mà trở về Tâm chơn như; nghĩa là suy xét kỹ càng:
bên trong thì thân ngũ ấm (Sắc: Sắc ấm: Tâm: bốn ấm sau) bên
ngoài thì cảnh giới (6 trần) rốt ráo vô niệm (tức là chơn
tâm). Song, vì chúng sanh bị vô minh làm mê, nên chơn tâm
(vô niệm) biến thành hữu niệm (có thân và cảnh v.v..), nhưng
bản thể chơn tâm không động (vô niệm)
Cũng như người lầm
phương hướng, vì sự mê lầm nên chấp phương Đông làm phương
Tây; thật ra phương hướng không thay đổi.
Bởi thế nên, người quán
sát biết được Tâm vô niệm (không khởi vọng niệm) thì đặng
tuỳ thuận vào Tâm chơn như.
LƯỢC GIẢI
Luận này có 5 chương,
trong chương thứ ba là Phần Giải thích, lại chia làm 3
phần:
1. Nói về nghĩa chánh
2. Đối trị các chấp sai
lầm.
3. Phân biệt hành tướng
phát tâm đến Đạo.
Trong phần "Nói về
nghĩa chánh", lại chia làm 3:
I. Nói về Tâm Chơn như
II. Nói về Tâm Sanh
diệt
III. Trở về Tâm Chơn
như (tức là quán sát các pháp, sanh tức vô sanh).
Đoạn văn trên đây nói
về phần thứ ba là "Trở về Tâm Chơn như".
Hành giả hãy quán sát
tất cả các pháp: Bên trong là thân ngũ ấm (Sắc và Tâm), bên
ngoài là cảnh giới 6 trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp)
rốt ráo đều vô niệm (không vọng niệm, tức là chơn như). Vì
các pháp không rời Thể Chơn tâm (Tâm Chơn như), nên Chơn tâm
đã vô niệm (không vọng), thì các pháp cũng vô niệm (không
vọng).
Chơn tâm vì không có
hình tướng nên tìm khắp mười phương không thể thấy được nó.
Song vì vô minh vọng động, nên Tâm biến ra các pháp hữu hình
(hữu niệm) như thân và cảnh v.v...nhưng bản thể Chơn tâm vẫn
thanh tịnh không động (vô niệm). Cũng như người bộ hành, vì
lầm phương hướng nên chấp phương Đông làm phương tây, thật
ra phương hướng không thay đổi.
Do vọng niệm sanh ra
các pháp sanh diệt, nên dứt trừ vọng niệm (quán vô niệm) thì
các pháp sanh diệt kia tự trở về Tâm Chơn như (vô niệm).
Cũng như vì gió nên có sóng động, nếu gió hết thì sóng kia
tự trở lại với tánh nước yên lặng.
Nếu vô niệm (không vọng
niệm) thì toàn vọng là chơn; nên quán vô niệm là con đường
tu chứng duy nhứt của các Phật Tổ.
Trong kinh Lăng nghiêm
Phật dạy:" ...Bất tuỳ phân biệt ..." (Không theo trần cảnh
khởi vọng niệm phân biệt, tức là quán vô niệm)******
Tổ Đạt Ma khi từ Ấn độ
mới đến Trung hoa, đức Nhị tổ thỉnh cầu Ngài dạy phương pháp
an tâm.
Tổ Đạt Ma trả lời: _
"Ông hãy đem tâm đến đây, ta sẽ an cho".
Đức Nhị tổ thưa rằng: _
"Con tìm tâm không thể được".
Tổ Đạt Ma dạy tiếp: _
"Ta đã an tâm cho ông rồi". Đức Nhị tổ liền tỏ ngộ.
Đức Lục Tổ Huệ Năng
dạy: _" ....Bổn lai vô nhứt vật ...." (từ xưa đến nay, không
có một vật)******
Đây là những bằng chứng
Phật và Tổ đều dạy cái bí quyết tu hành mau được thành Phật
là "Vô niệm" (không vọng niệm).
Bởi thế nên, cũng ở nơi
Luận này, về đoạn trước đã nói:" ...Nếu lìa các vọng niệm
thì đặng nhập chơn như ..." (nhược ly ư niệm, danh vi đắc
nhập).
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ MƯỜI HAI
CHƯƠNG THỨ BA
PHẦN GIẢI THÍCH
B. ĐỐI TRỊ CÁC CHẤP SAI LẦM
MỤC LỤC
B. Đối trị các chấp sai
lầm
Chấp sai lầm có 2 thứ:
I. Chấp ngã, có 5 thứ:
1. Chấp Hư không là Chơn tánh của Như Lai
2. Chấp Chơn như hay Niết bàn, chỉ là không không, chẳng có
chi hết.
3. Chấp Như Lai tạng có các hình tướng sai khác như Sắc và
Tâm
4. Chấp trong Như Lai tạng có đủ các sanh tử nhiễm ô
5. Chấp chúng sanh có thỉ, chư Phật có chung tận.
II. Chấp pháp:
Chấp thật có vũ trụ, vạn hữu
CHÁNH VĂN
Tất cả các chấp sai lầm
(tà chấp), đều do chấp ngã và chấp pháp mà sanh; nếu rời
chấp ngã và chấp pháp thì không còn các chấp sai lầm.
I. CHẤP NGÃ (chấp bản
ngã thật có).
Chúng phàm phu chấp ngã
có 5 thứ:
1. Chấp "Hư không là
chơn tánh của Như Lai". _ Vì phá chấp của chúng sanh nên
trong kinh Phật nói:" Pháp thân của Như Lai rốt ráo vắng
lặng cũng như hư không". Chúng phàm phu nghe nói như thế,
không hiểu, lại lầm chấp: "Hư không là chơn tánh của Như
Lai".
Vì đối trị cái chấp sai
lầm này, nên phải giải thích rằng: "Hư không là pháp hư đối,
không có thật thể, do đối với sắc tướng mà thấy có hư không;
nếu không có sắc tướng thì cũng không có tướng hư không.
Nghĩa là từ hồi nào đến giờ, tất cả cảnh giới (sắc pháp) đều
do vọng tâm biến hiện, không có pháp nào ngoài tâm; chúng
sanh không biết, vọng chấp (biến kế chấp) là thật có. Nếu
vọng tâm hết, thì các cảnh giới cũng không còn. Lúc bấy giờ
chỉ còn chơn tâm hiện khắp tất cả. Đó là pháp thân quảng đại
thuộc về tâm trí (tánh trí) của Như Lai không phải như hư
không, không có tri giác.
LƯỢC GIẢI
Đối trị chấp tà là phá
trừ các sự chấp nhứt sai lầm. Các sự chấp nhứt sai lầm đều
do chấp ngã, chấp pháp mà sanh. Nếu phá trừ được chấp ngã,
chấp pháp thì các chấp sai lầm không còn.
Vì quan niệm thân tâm
là thật, nên gọi là chấp ngã quan niệm vũ trụ vạn vật là
thật, thì gọi là chấp pháp.
Chúng sanh chấp pháp
thân của Phật có hình tướng như thế này, hoặc như thế kia
v.v....Vì muốn phá các chấp sai lầm ấy, nên Phật nói: "Pháp
thân của Phật rốt ráo vắng lặng, cũng như hư không".
Nghe trong kinh nói như
vậy, chúng sanh trở lại chấp: "Hư không là pháp thân của Như
Lai" vì phá cái chấp sai lầm này, nên Ngài Mã Minh giải
thích rằng: "Hư không là cái không thật thể, do các sắc
tướng mà thấy có hư không. Nếu không có sắc tướng thì cũng
không có hư không. Cả sắc tướng và hư không đều do vọng tâm
biến hiện; rồi chúng sanh lầm chấp là thật có. Nếu vọng tâm
hết thì sắc tướng và hư không cũng không còn. Lúc bấy giờ
bản thể chơn tâm hiện ra, rộng lớn bao la và trùm khắp tất
cả. Đó là pháp thân thanh tịnh của Như Lai. Đây thuộc về
phần tâm trí, không phải như hư không, không có tri giác.
CHÁNH VĂN
2. Chấp "Chơn như
hay Niết bàn, chỉ là không không, chẳng có chi hết". _
Vì phá vọng chấp của chúng sanh, nên trong kinh Phật nói:
"các pháp thế gian rốt ráo không có thật thể; cho đến các
pháp xuất thế gian, như Chơn như hay Niết bàn rốt ráo, cũng
không có thật thể; từ hồi nào đến giờ, nó không có các
tướng". Chúng phàm phu nghe nói như vậy không hiểu, trở lại
chấp: "Chơn như hay Niết bàn là không có chi hết".
Vì đối trị sự chấp sai
lầm này, nên phải giải thích rằng: "Chơn như hay Pháp thân
của Phật, chẳng phải không có tự thể; nó sẳn có và đầy đủ vô
lượng công đức".
LƯỢC GIẢI
Đoạn trên phá quan niệm
sai lầm, chấp "hư không là chơn tánh của Như Lai"; đoạn này
phá quan niệm sai lầm, cho rằng "Chơn như hay Niết bàn là
cảnh giới hư không ảo tưởng không có chi hết".
Chúng sanh thường lầm
tưởng:"Các pháp thật có". Vì phá trừ quan niệm sai lầm ấy,
nên trong kinh Phật nói: "các pháp thế gian hư giả không
thật, cho đến các pháp xuất thế gian như Chơn như, Bồ Đề,
Niết bàn v.v...rốt ráo cũng không có thật thể, vì không có
các hình tướng". Chúng phàm phu nghe nói như vậy không hiểu,
trở lại chấp: "Chơn như hay Niết bàn v.v...là cảnh giới hư
vô ảo tưởng, chẳng có chi hết".
Để đối trị sự chấp sai
lầm này, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát giải thích rằng: "Chơn như,
Pháp thân hay Bồ Đề, Niết bàn không phải là cảnh giới ảo
tưởng hư vô, không có gì cả, mà nó sẳn có đầy đủ vô lượng
đức tánh, nhiều hơn số cát sông Hằng, như: thiện, thường,
lạc, ngã, tịnh, giải thoát v.v....
CHÁNH VĂN
3. Chấp "Như Lai
tạng" có các hình tướng sai khác như Sắc và Tâm v.v... _
Nghe trong kinh Phật nói:"Như Lai tạng không tăng không
giảm, sẳn đủ tất cả các công đức"; chúng phàm phu vì không
hiểu nghiã này, nên trở lại chấp:" Như Lai tạng có đủ các
hình tướng sai khác, như sắc và tâm v.v....".
Để đối trị sự chấp sai
lầm này, nên phải giải thích rằng: "Căn cứ về thể Chơn như
thì không có các tướng sai khác; còn theo tướng nhiễm ô sanh
diệt, thì có các hình tướng sai khác".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này phá quan niệm
sai lầm cho rằng: "Chơn" đồng với "Vọng".
Nghe trong kinh Phật
nói: "Như Lai tạng không tăng không giảm, sẳn có đủ tất cả
đức tánh, chúng phàm phu không hiểu trở lại chấp: "Như Lai
tạng cũng có các hình sắc sai khác".
Để đối trị quan niệm
sai lầm này, Ngài Mã Minh giải thích rằng: "Thể Chơn như"
(Chơn như môn) thì thanh tịnh không có các hình tướng sai
khác, còn về ":tướng sanh diệt" (Sanh diệt môn) thì đủ các
hình tướng sai khác".
CHÁNH VĂN
4. Chấp "Trong Như
Lai tạng thật có đủ các pháp sanh tử nhiễm ô"._ Nghe
trong kinh Phật nói: "Các pháp sanh tử nhiễm ô của thế gian,
đều do Như Lai tạng mà có, tất cả các pháp đều không rời
Chơn như", chúng phàm phu không hiểu nghĩa này, lại chấp:
"Chính trong bản thể Như Lai tạng, sẳn có tất cả các pháp
sanh tử nhiễm ô của thế gian".
Để đối trị cái chấp sai
lầm này, nên giải thích rằng: "Từ vô thỉ tới giờ, trong Như
Lai tạng, chỉ có các công đức thanh tịnh, nhiều hơn số cát
sông Hằng. Các công đức này không lìa, không đoạn và cũng
không khác với Chơn như; còn hằng hà sa số các pháp phiền
não nhiễm ô kia, chỉ là hư vọng, vốn không có thật tánh. Bởi
thế nên từ hồi nào đến giờ, trong Như Lai tạng chưa từng
thật có các pháp nhiễm ô. Nếu trong bản thể Như Lai tạng
(chơn) thật có các phiền não nhiễm ô, rồi hành giả phải diệt
trừ các phiền não nhiễm ô, mới chứng được chơn như thanh
tịnh, thì rất vô lý.
LƯỢC GIẢI
Chúng phàm phu nghe
trong kinh Phật nói: "Các pháp sanh tử nhiễm ô đều do Như
Lai tạng mà có, các pháp không rời chơn như ": rồi họ chấp
"Trong Như Lai tạng hay chơn như, thật có sẳn các pháp sanh
tử nhiễm ô".
Để phá quan niệm sai
lầm này, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát giải thích rằng: "Từ hồi
nào đến giờ, trong Như Lai tạng (chơn) chỉ có hằng hà sa số
đức tánh thanh tịnh, các đức tánh này không rời chơn như;
còn pháp sanh tử nhiễm ô, vì là hư vọng, không có thật thể,
nên từ hồi nào đến giờ, không có ở trong Như Lai tạng".
Như Lai tạng hay chơn
như, dụ như "tâm người đương thức tỉnh": sanh tử nhiễm ô, dụ
như "giấc ngủ mà có chiêm bao". Đành rằng "cái ngủ chiêm
bao" là nương nơi "tâm người thức tỉnh" mà có; song từ hồi
nào đến giờ, trong "tâm người thức tỉnh" không bao giờ thật
có chứa sẳn "cái ngủ chiêm bao". Bởi "cái ngủ chiêm bao" hư
vọng không thật, nên khi thức giấc rồi thì nó tự mất. Cũng
thế, các pháp sanh tử nhiễm ô, vì hư vọng không thật, nên
khi giác ngộ rồi, nó không còn.
Nếu quan niệm rằng:
"trong Như Lai tạng thật sẳn có các phiền não nhiễm ô; hành
giả phải diệt trừ hết các phiền não nhiễm ô, mới chứng được
chơn như thanh tịnh", thì không phải. Cũng như nói " trong
tâm người thức tỉnh, thật sẳn có "cái ngủ chiêm bao" phải
diệt trừ hết "cái ngủ chiêm bao" rồi, mới được thức tỉnh":
nói như thế rất là phi lý.
Phải biết, các phiền
não sanh tử, chỉ là cái mê vọng, không có thật thể. Phật đã
dạy rằng: "Biết mình mê thì cái "mê" hết, cái "biết" đó
không sanh mê trở lại" (Giác mê mê diệt, giác bất sanh mê).
Cũng như người khi biết mình dại, thì không còn dại nữa. Lúc
bấy giờ họ trở thành khôn; khi khôn rồi, thì cái "khôn" đó
không sanh cái dại trở lại nữa.
Nếu cái "dại" (mê) này
thật có, thì khi biết khôn (giác) rồi, cái "dại" đó trốn núp
ở đâu? Cũng như "cái ngủ chiêm bao" nếu thật có, thì khi
tỉnh thức rồi nó phải còn. Nhưng vì nó không còn, nên biết
"cái ngủ chiêm bao" (mê dại) này không thật có.
Nếu nói "phải diệt trừ
hết các pháp sanh tử nhiễm ô mới chứng được chơn như thanh
tịnh" thì cũng như nói "phải phá trừ cho hết "cái ngủ chiêm
bao" rồi, mới được sự thức tỉnh"; nói như thế, đều phi lý.
Bởi thế nên từ hồi nào
đến giờ, trong Như Lai tạng hay Chơn như, không bao giờ thật
có sanh tử nhiễm ô; cũng như trong "tâm người thức tỉnh",
không bao giờ thật có "cái mê ngủ chiêm bao" vậy.
CHÁNH VĂN
5. Chấp:
"Chúng sanh
có thỉ, chư Phật có chung tận"._ Chúng phàm phu nghe trong
kinh Phật nói: "Do Như Lai tạng mà có sanh tử, do Như Lai
tạng mà đặng Niết bàn". Vì họ không hiểu nên chấp: "Chúng
sanh hữu thỉ (có đầu tiên) và chư Phật chứng Niết bàn, sẽ có
ngày chung tận, rồi trở lại làm chúng sanh".
Để đối trị cái chấp sai
lầm này, nên giải thích rằng: Như Lai tạng (Chơn như tại
triền) và vô minh đều có từ vô thỉ (không có đầu tiên). Nếu
nói chúng sanh (có sanh khởi đầu tiên) là kinh của ngoại đạo
nói (kinh Đại hữu), không phải kinh Phật.
Lại nữa, Như Lai tạng
không có chung tận: chư Phật chứng Niết bàn là thể nhập
(tương ưng) Như Lai tạng, nên cũng không có chung tận.
LƯỢC GIẢI
Chúng sanh nghe trong
kinh Phật nói: "Do Như Lai tạng mà có sanh tử, do Như Lai
tạng mà chứng Niết bàn"; rồi họ suy luận và chấp rằng: vì do
Như Lai tạng mà có sanh tử (Vô minh, chúng sanh); như thế
thì chúng sanh (sanh tử, vô minh) tất phải có sự bắt đầu
sanh khởi; (hữu thỉ) và do Như Lai tạng mà chứng Niết bàn,
vậy thì Niết bàn cũng có sự bắt đầu sanh khởi (hữu thỉ). Do
đó người ta kết luận: Chúng sanh đã hữu thỉ nên cũng hữu
chung, Niết bàn hữu thỉ nên cũng hữu chung. Bởi thế nên họ
chấp chư Phật chứng Niết bàn rồi, có ngày cũng cùng tận,
phải trở lại làm chúng sanh.
Để đối trị với chấp sai
lầm này, nên Ngài Mã Minh giải thích, đại ý nói "Chơn như và
vô minh đồng thời có từ vô thỉ". Cũng như chất ngọt và chất
chát đồng thời có trong trái hồng. Song hành giả khi chuyển
phiền não trở lại Bồ Đề, chuyển sanh tử trở lại Niết bàn,
thì lúc bấy giờ chúng sanh không còn (chung tận), mà chỉ còn
Chơn như hay Phật. Cũng như khi trái hồng lớn chín, đổi hết
chất chát chỉ còn chất ngọt. Khi trái hồng đã chín ngọt rồi,
thì không bao giờ trở lại chát nữa. Cũng như khi đã thành
Phật rồi, không bao giờ trở lại làm chúng sanh nữa.
Vậy nên biết, vô minh
(chúng sanh) vô thỉ mà hữu chung; Chơn như (Phật) vô thỉ và
vô chung.
Kinh Phật thì chép
"Chúng sanh vô thỉ"; còn kinh Đại hữu của ngoại đạo lại chép
"Chúng sanh hữu thỉ".
CHÁNH VĂN
II. CHẤP PHÁP (chấp
thật có vũ trụ vạn hữu).
Đối với hàng Nhị thừa,
vì độn căn chấp ngã, nên trong kinh Phật nói: "Chỉ có năm ấm
sanh diệt, không có thật ngã". Nghe như thế, hạng này trở
lại chấp: "Thật có năm ấm sanh diệt" (chấp thật pháp), nên
họ rất sợ khổ sanh tử và cầu vui Niết bàn.
Để đối trị cái chấp sai
lầm này, nên phải giải thích rằng: "Tánh của năm ấm, từ hồi
nào đến giờ, vốn là Niết bàn, không sanh và cũng không
diệt".
LƯỢC GIẢI
Năm ấm thật sắc, thọ,
tưởng, hành và thức. Vì năm đám mây này che khuất vừng trăng
chơn như, nên gọi là "Ấm" (che).
Để phá trừ chấp ngã của
hàng Nhị thừa độn căn, nên Phật nói: "chỉ có năm ấm sanh
diệt, không có thậ ngã". Lúc bấy giờ hạng này không còn chấp
ngã, mà trở lại chấp pháp; nghĩa là chấp thật có năm ấm,
thật có khổ sanh tử và vui Niết bàn. Do đó, họ rất sợ sanh
tử và thích thú vui ở mãi mơi cảnh Niết bàn.
Để phá trừ cái chấp
thật Pháp của Nhị thừa, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát giải thích,
đại ý nói: "Tướng của các pháp không thật, tánh nó là chơn
như, là Niết bàn, xưa nay không sanh, nên cũng không diệt".
Vì các pháp không thật có, nên Bồ Tát không sợ sanh tử và
không yên vui ở mãi nơi Niết bàn".
Nếu nói một cách đầy
đủ, thì phải nói "vô ngã và vô pháp". Nhưng đây vì đối với
hàng Nhị thừa, nên Phật chỉ mới nói "năm ấm vô thường", chớ
chưa nói đến "sanh tử tức chơn thường".
CHÁNH VĂN
Lại nữa, nếu người rốt
ráo xa lìa các vọng chấp, thì mới biết rõ các pháp Nhiễm
tịnh đều do đối đãi nhau mà thôi, thật ra không có cái tướng
gì có thể kêu gọi được. Bởi thế nên, từ hồi nào đến giờ, tất
cả các pháp, không phải sắc, không phải tâm, không phải trí,
không phải thức, không phải hữu, không phải vô, rốt ráo
không có tướng gì có thể gọi được. Song, sở dĩ Phật có nói
năng kêu gọi như thế này hoặc như thế kia, là vì đức Như Lai
khôn khéo, phương tiện tạm dùng lời nói để dẫn dắt chúng
sanh, mục đích là làm cho chúng sanh xa lìa các vọng niệm
(ly niệm) trở vể chơn như; nếu còn vọng niệm thì tâm phải
sanh diệt, nên chẳng nhập được trí Phật (thật trí: chơn
như)
LƯỢC GIẢI
Từ hồi nào đến giờ, tất
cả các pháp, không phải sắc, không phải tâm, không phải trí,
không phải thức v.v...chỉ vì chúng sanh vọng chấp phân biệt,
so sánh (biến kế chấp) đối đãi với nhau mà thành thế này
hoặc thế kia, như đối với hữu gọi là vô, đối với sắc gọi là
tâm, đối với thức gọi là trí, đối với cao gọi là thấp, đối
với lớn gọi là nhỏ, đối với tốt gọi là xấu v.v...Nếu chúng
sanh rốt ráo xa lìa các vọng chấp thì thật không có một pháp
gì có thể kêu gọi được. Lúc bấy giờ hành giả mới thấy rõ các
pháp không thể kêu gọi (ly danh tự tướng), không thể nói
năng luận bàn (ly ngôn thuyết tướng), hay suy nghĩ được (ly
tâm duyên tướng).
Chư Phật đã hoàn toàn
xa lìa các vọng chấp, song còn gọi pháp khổ, pháp vui, nhiễm
tịnh, sanh tử, Niết bàn v.v...là vì Phật phương tiện tạm đặt
ra những danh từ kêu gọi như thế, mục đích là để dẫn dắt
chúng sanh lìa các vọng niệm chấp trước, đặng nhập vào chơn
như hay trí Phật. Khi chúng sanh đã nhập vào chơn như hay
trí Phật rồi, lúc bấy giờ cũng không còn danh từ gì để kêu
gọi được.
Bài này nói về phần đối
trị các chấp sai lầm rồi, đến bài thứ 13, sẽ nói về hành
tướng phát tâm đến đạo.
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ MƯỜI
BA
CHƯƠNG THỨ BA
PHẦN GIẢI THÍCH
C. PHÂN BIỆT HÀNH TƯỚNG PHÁT TÂM ĐẾN ĐẠO
BA MÓN PHÁT TÂM
MỤC LỤC
C. Phân biệt hành tướng
phát tâm đến đạo (bài thứ nhứt)
BA MÓN PHÁT TÂM
I. Tín hoàn toàn mà phát tâm
II. Hiểu biết và làm mà phát tâm
III. Chứng nhập chơn như mà phát tâm.
1. Nói về Tín hoàn toàn mà phát tâm
a. Ba món tâm trong vị Thập tín:
1. Trực tâm, 2. Thâm tâm, 3.Đại bi tâm
b. Bốn món phương tiện:
1. Phương tiện căn bản
2. Phương tiện ngăn ngừa các tội ác.
3. Phương tiện làm phát sanh các việc lành
4. Phương tiện Đại nguyện và Bình đẳng.
c. Tám tướng thành đạo:
1. Giáng sanh 2. Nhập thai
3. Ở trong thai 4. Sanh ra
5. Xuất gia 6. Thành đạo
7. Thuyết pháp 8. Nhập Niết bàn
CHÁNH VĂN
Chữ "Đạo" nói ở đây là
chỉ cho đạo quả của chư Phật đã chứng ngộ và cũng là cái chỗ
của tất cả các vị Bồ Tát phát tâm tu hành để hướng về.
Sự phát tâm, lược có 3
món: 1. Tín hoàn toàn (Tín thành tựu) mà phát tâm, 2. Hiểu
và tu (giải, hạnh) mà phát tâm, 3. Chứng nhập chơn như mà
phát tâm.
LƯỢC GIẢI
Luận này có năm chương,
trong chương thứ ba, có ba phần: phần đầu giải thích về pháp
Đại thừa; phần thứ hai, Ngài Mã Minh đả thông những chấp sai
lầm. Sau khi được rữa sạch các chấp sai lầm rồi, hành giả
mới phát tâm tu về pháp Đại thừa. Vì thế nên tiếp đến phần
thứ ba, Ngài Mã Minh phân biệt hành tướng phát tâm tu về đạo
quả Đại thừa.
Đạo quả Đại thừa là nơi
chư Phật đã chứng, mà cũng là chỗ các vị Bồ Tát đang hướng
về đó.
Sự phát tâm tu về đạo
quả Đại thừa, lược chia có ba hạng, từ cạn đến sâu:
1. Mãn địa vị Thập tín
(Tín hoàn toàn) phát tâm;
2. Địa vị Tam hiền
(Giải: Hiểu, Hành: tu) phát tâm;
3. Địa vị Thập thánh đã
chứng nhập chơn như phát tâm.
Chữ "Phát tâm" có hai
nghĩa: 1. Lập chí cao rộng, 2. Phát triển tâm tánh, hay phát
minh tâm tánh.
CHÁNH VĂN
I. Tín hoàn toàn (thành
tựu) mà phát tâm
Hỏi:_ Phải là
người thế nào và nhờ tu hạnh gì để thành tựu vị Thập tín,
mới phát tâm được?
Đáp:_ Những
chúng sanh bất định (không nhất định chánh hay tà), nhờ sức
căn lành huân tập đời trước, làm cho họ tin nhơn quả, nên
nhàm khổ sanh tử, phát tâm tu thập thiện, để cầu đạo vô
thượng Bồ Tát. Nhờ được đích thân hầu hạ, cúng dường chư
Phật và tu hành trải qua muôn kiếp, nên họ mới đặng thành
tựu tím tâm. Do nhơn duyên đó nên được gặp Phật, Bồ Tát dạy
mà họ phát tâm; hoặc vì lòng Đại bi, mà họ tự phát tâm; hoặc
vì thấy chánh pháp sắp diệt mà muốn duy trì nên họ tự phát
tâm.
Những người như thế,
được vào hàng chánh định, trọn không thối chuyển. Vì họ đã
hiệp với "Chánh nhơn Phật tánh", nên họ được gọi là "giòng
giống của Như Lai".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói về Tín
thành tựu phát tâm._Từ Sơ tín cho đến Thập tín thì tín tâm
mới hoàn toàn viên mãn nên gọi là "Tín thành tựu". Do tín
tâm vững chắc, lập chí nguyện cầu quả Phật vô thượng và phát
minh tâm tánh, nên gọi là "Tín thành tựu phát tâm".
Hỏi:_ Hạng người nào,
tu hạnh gì, mới đặng hoàn toàn viên mãn vị Thập tín, và làm
sao phát tâm?
Đáp:_ Những người bất
định chánh tà, hay căn trí chưa nghiêng ngã bên nào (Đại
thừa hay Tiểu thừa) nếu gặp Tiểu thừa giáo hoá thì họ thành
thinh văn, Duyên giác, nếu gặp Đại thừa giáo hoá thì họ
thành Bồ Tát hay Phật. Những người ấy, do nhiều đời có trồng
căn lành và bên trong nhờ tánh Phật của họ thúc dục, bên
ngoài nhờ chánh pháp huân vào, làm cho họ tin đạo lý nhơn
quả, rồi nhàm cảnh trần gian là bể khổ sanh tử, nên phát tâm
tu hành cầu đạo giải thoát Niết bàn.
Phát tâm tu hành, phụng
sự chánh pháp, hầu hạ Thiện hữu tri thức và cúng dường chư
Phật, làm những việc như thế, trải qua một vạn kiếp, hành
giả mới viên mãn địa vị Thập tín.
Khi tín tâm đã viên mãn
thành tựu rồi, hoặc găp Phật hay Bồ Tát dạy họ phát tâm hoặc
do lòng Đại bi thúc dục làm cho họ phát tâm, hoặc thấy chánh
pháp suy đồi, muốn duy trì chánh pháp nên họ phát tâm.
Những người được viên
mãn vị Thập tín và phát tâm như thế, là đã hiệp với "Chánh
nhơn Phật tánh" vào hàng "Chánh định", không còn bất định
hay thối chuyển nữa, nên họ cũng được gọi là "giòng giống
của Như Lai".
CHÁNH VĂN
Có những chúng sanh, từ
hồi nào đến giờ, căn lành mỏng ít, phiền não sâu dày, tuy
cũng gặp Phật cúng dường, song chỉ cầu phước báo cõi nhơn
thiên, hoặc tu theo Nhị thừa, hoặc họ có cầu pháp Đại thừa,
nhưng căn tánh chẳng quyết định, tấn thối không chừng; hoặc
họ cúng dường chư Phật, mà chưa đầy một vạn kiếp. Những hạng
người này cũng gặp nhơn duyên lành để phát tâm (như thấy sắc
tướng của chư Phật mà phát tâm, hoặc nhơn cúng dường chư
tăng mà phát tâm, hoặc nhơn gặp hàng Nhị thừa dạy bảo mà họ
phát tâm, hoặc học với thầy bạn mà họ phát tâm). Nhưng các
loại phát tâm này, đều chẳng nhứt định, nếu gặp hoàn cảnh
xấu ngược, thì họ thối tâm, hoặc đoạ vào Nhị thừa.
LƯỢC GIẢI
Đoạn trên nói những
người tín tâm đã thành tựu, và phát tâm như vậy, thì được
vào hàng chánh định, quyết không thối chuyển, vì họ tu đã
được một vạn kiếp.
Đoạn này nói, những
người phát tâm sau đây, vì tu chưa đầy một vạn kiếp, tín tâm
chưa thành tựu, hoặc còn thối chuyển, nên chưa được vào hàng
Chánh định. Họ cũng gặp duyên lành để phát tâm, hoặc thấy
tướng hảo của Phật mà phát tâm, hoặc nhơn cúng dường chư
Tăng mà phát tâm, hoặc gặp Nhị thừa giáo hoá phát tâm
v.v...Nhưng vì căn lành mỏng ít, phiền não sâu dày, tuy gặp
phật phát tu hành, song chỉ cầu phước báo thiên nhơn, hoặc
tu theo Nhị thừa, và nếu gặp Đại thừa thì tâm họ cũng không
quyết định, nên khi bị nghịch cảnh, họ thối tâm hoặc tu theo
Tiểu thừa tiêu cực.
a. BA MÓN TÂM TRONG VỊ
THẬP TÍN
CHÁNH VĂN
Tóm lại, khi tín tâm đã
thành tựu thì phát ba món tâm như sau:
1. Trực tâm, nghĩa là
tâm trực niệm chơn như
2. Thâm tâm, nghĩa là
tâm ưa làm các việc lành
3. Đại bi tâm, nghĩa là
tâm muốn cứu khổ các chúng sanh.
LƯỢC GIẢI
Hành giả tu hành phải
trải qua một vạn kiếp mới được thành tựu tín tâm. Lúc bấy
giờ hành giả phát ra vô số tâm, nhưng tóm lại có ba thứ:
1. Trực tâm, quán thẳng
Chơn như pháp tánh
2. Thâm tâm, nguyện làm
các việc lành
3. Đại bi tâm, thệ độ
tất cả chúng sanh.
Quán chơn như là căn
bản của hai hạnh: Tự lợi và lợi tha. Vì quán trong bản thể
chơn như có đủ vô lượng công đức, cho nên hành giả ưa tu các
pháp lành, để hiệp với tánh chơn như của mình. Hành giả tu
hành, khi nào thâm nhập đến chỗ không còn thấy tướng tu nữa,
gọi đó là "Thâm tâm".
Vì quán mình và tất cả
chúng sanh đồng bản thể chơn như, nên chúng sanh đau khổ tức
là mình đau khổ, chúng sanh còn trần luân thì mình chưa được
giải thoát an vui nơi cảnh Niết bàn. Vì thế mà hành giả phát
tâm Đại bi cứu khổ tất cả chúng sanh.
CHÁNH VĂN
Hỏi:_ Chơn như
đã là một thể, tại sao không bảo hành giả trực niệm chơn
như, mà lại còn tạm dùng các phương tiện, tu các pháp lành?
Đáp:_ Thí như
ngọc ma ni thể chất tuy sáng suốt trong sạch, nhưng còn bị
lẫn lộn trong khoáng nhơ bẩn. Nếu người chỉ nghĩ đến tánh
chất trong suốt của ngọc, mà không dùng các phương tiện giũa
mài v.v...thì quyết định không thể đặng chất ngọc ma ni
thuần tịnh.
Cũng thế, chúng sanh
tuy sẳn có chất chơn như thanh tịnh, song còn bị vô lượng
phiền não làm nhiễm ô. Nếu hành giả chỉ niệm chơn như, mà
không dùng phương tiện tu các pháp lành, thì cũng không thể
đặng chất chơn như thuần tịnh.
Vì các phiền não nhiễm
ô vô lượng, nên hành giả phải tu vô lượng hạnh lành để đối
trị. Nếu hành giả tu các pháp lành, thì tự nhiên thuận về
với tánh chơn như của mình.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này giải đáp sự
thắc mắc của độc giả.
Hỏi:_ Chúng sanh đã sẳn
có chất chơn như thanh tịnh, tại sao người tu hành không
niệm thẳng chơn như, mà lại còn dùng vô số phương tiện để
dẹp trừ phiền não nhiễm ô và tu các pháp lành làm gì?
Đáp:_ Chúng sanh tuy
sẳn các chất chơn như thanh tịnh, song còn bị vô lượng phiền
não làm nhiễm ô; cũng như ngọc ma ni, tuy chất nó sáng suốt
trong sạch, nhưng còn bị lẫn lộn trong khoán nhơ bẩn. Nếu
hành giả trực chỉ quán chơn như, mà không dùng các phương
tiện để trừ phiền não và tu các pháp lành, thì chất chơn như
thuần tịnh không bao giờ thật hiện được. Cũng như người chỉ
nghĩ đến chất ngọc trong suốt, mà không dùng đến các phương
tiện như lọc khoáng, giũa mài v.v...thì quyết định cũng
không bao giờ thành ngọc mỹ quan được (ngọc bất trác, bất
thành khí).
Chúng sanh có vô lượng
bịnh phiền não, nên Phật cũng có vô lượng thuốc phương tiện
để trị. Nếu muốn hết các bịnh phiền não, trở thành người
lành mạnh (Bồ Đề, Niết bàn), tất nhiên hành giả phải uống
thuốc phương tiện của Phật. Người diệt trừ phiền não tu các
pháp lành là đi ngược dòng trần lao, thuận theo tánh chơn
như. Bởi thế nên hành giả phải phát minh ba tâm (Trực tâm,
Thâm tâm và Đại bi tâm) và thật hành bốn phương tiện sau
này.
b. BỐN MÓN PHƯƠNG TIỆN
CHÁNH VĂN
Các phương tiện lược có
bốn món:
1. Phương tiện căn
bản: Quán tất cả các pháp, tánh vốn vô sanh (không) để
lìa các vọng chấp, và nhờ thế mà không mắc vòng sanh tử;
quán các pháp do nhơn duyên hoà hiệp, nên nghiệp quả chẳng
mất (có) để khởi tâm đại bi, tu các hạnh lành, cảm hoá chúng
sanh, và nhờ thế nên không trụ Niết bàn.
Tóm lại, vì tuỳ thuận
theo tánh vô trụ của chơn như, nên không dính mắc sanh tử và
không an trụ Niết bàn.
LƯỢC GIẢI
Trong bốn phương tiện
tu hành để nhập chơn như, thì món phương tiện này là căn
bản.
Chúng sanh, vọng chấp
các pháp thật có, nên tạo ra các nghiệp; rồi bị nghiệp lực
kéo dẫn, phải chịu sanh tử luân hồi. Nay hành giả quán "các
pháp hư giả, không thật", nên không vọng chấp và không tạo
nghiệp; vì nghiệp không tạo, nên không bị sanh tử luân hồi.
Song, nếu hành giả chỉ
một bề quán "Không" như thế, sợ e mắc vào bịnh "chấp không",
rồi chẳng cần tu hành và hoá độ chúng sanh; như hàng Thinh
văn chấp không, ưa vắng lặng (trầm không thú tịch) thích thú
cảnh vui Niết bàn của Tiểu thừa.
Bởi thế, hành giả phải
quán "do nhơn duyên hoà hiệp, nên các pháp chẳng phải không
và nghiệp quả chẳng mất", để khởi tâm Đại bi, tu các hạnh
lành giáo hoá chúng sanh. Nhờ quán như thế, nên hành giả
không còn "chấp không" và say mê cảnh Niết bàn của Tiểu thừa
nữa.
Vì không vướng mắc sanh
tử, nên về phần tư lợi hành giả được thành tựu. Và vì không
vướng mắc Niết bàn của Tiểu thừa, nên hành giả độ thoát tất
cả chúng sanh, hoàn thành hạnh lợi tha.
Không mắc sanh tử,
không trụ Niết bàn là thuận theo đức tánh vô trụ của chơn
tâm; như thế gọi là "Trực tâm". Trực tâm là phương tiện căn
bản của các hạnh, tự giác và giác tha. Khế kinh chép: "Tâm
thắng (không mắc hai bên) là Đạo tàng" (trực tâm thị Đạo
tàng).
CHÁNH VĂN
2. phương tiện ngăn
ngừa các việc ác: Biết xấu hổ, ăn năn, chừa lỗi, ngăn
ngừa tất cả điều ác không cho phát sanh và tăng trưởng. Hành
giả phải làm như thế để tuỳ thuận theo đức tánh thanh tịnh
của chơn như.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói về phương
tiện thứ hai là "không làm việc ác". Người biết xấu xa hổ
thẹn thì không làm các điều tội lỗi; biết ăn năn hối hận
những tôi đã làm, thì tội lỗi ấy không tăng trưởng nữa. Bởi
thế nên "hổ thẹn" là yếu tố ngăn chận việc ác phát sanh; còn
"ăn năn hối hận" là yếu tố làm cho tội lỗi đã sanh, không
tăng trưởng nữa.
Đoạn văn trước nói 3
tâm: 1. Trực tâm, 2. Thâm tâm, 3. Đại bi tâm. Đoạn này nói
phương tiện thứ hai, thuộc về Thâm tâm, tức là ưa làm các
việc lành. Lành có hai thứ: 1. Bỏ dữ (chỉ thiện) gọi là
lành; 2. Làm lành (tác thiện) cũng gọi là lành.
Món phương tiện thứ hai
này thuộc về loại "lành bỏ dữ"; món phương tiện thứ ba sau
này, thuộc về loại "lành làm lành". Hai loại lành này đều
thuộc về Thâm tâm cả.
Tóm lại, vì tuỳ thuận
theo đức tánh thanh tịnh của Tâm chơn như, nên hành giả phải
xa lìa các tội lỗi.
CHÁNH VĂN
3. Phương tiện làm
cho phát sanh hoặc nuôi lớn căn lành: Siêng năng lễ bái
và cúng dường Tam bảo, tuỳ hỉ việc lành, tán thán công đức
và thỉnh Phật trụ thế chuyển pháp luân. Do tâm kính mên Tam
bảo rất thuần hậu, làm cho đức tin được thêm lớn nên hành
giả mới dốc chí cầu đạo vô thượng. Lại nhờ sức gia hộ của
Tam bảo, nên các nghiệp chướng được tiêu trừ và căn lành
không thối chuyển. Vì tuỳ thuận theo đức tánh "vô chướng
ngại" của chơn như, nên hành giả phải xa lìa các si mê
chướng ngại.
LƯỢC GIẢI
Phương tiện thứ ba này
là "làm các việc lành", tức là loại "lành tác thiện" (làm
lành). Loại lành này cũng nương nơi thâm tâm mà khởi. Hành
giả làm cho phát sanh những việc lành chưa sanh, và nuôi lớn
những việc lành đang có. Siêng năng tu hành và cúng dường
Tam bảo v.v...là trồng căn lành; còn kính mến Tam bảo
v.v...là nuôi lớn đức tin. Hành giả lại nhờ thần lực của Tam
bảo gia hộ, nên tiêu trừ được các nghiệp chướng và làm cho
đức tin được vững chắc.
Lễ bái thì xa lìa được
cái bịnh ngã mạn, tán thán thì xa lìa được cái bịnh huỷ
báng, tuỳ hỷ thì xa lìa được cái bịnh tật đố v.v...
Tóm lại, vì tuỳ thuận
theo đức tánh sáng suốt vô ngại của Tâm chơn như, nên hành
giả phải xa lìa các si mê chướng ngại.
CHÁNH VĂN
4. Phương tiện đại
nguyện và bình đẳng: Hành giả vì tuỳ thuận tánh không
đoạn tuyệt của chơn như và bình đẳng không hai, chẳng phân
bỉ thử, rốt ráo vắng lặng, rộng lớn phổ biến của chơn như.
Nên hành giả phát đại nguyện, cùng tận đời vị lai, hoá độ
tất cả chúng sanh, đều được rốt ráo chứng vô dư Niết bàn,
không còn sót một chúng sanh nào.
LƯỢC GIẢI
Phương tiện thứ tư là
"cứu khổ các chúng sanh". Món phương tiện này do tâm đại bi
phát sanh.
Hành giả tuỳ thuận theo
các đức tánh: bất tuyệt, rộng lớn, bình đẳng, cứu cánh tịch
diệt của Tâm chơn như, nên lập lời thệ nguyện rộng lớn, hoá
độ hết thảy chúng sanh, đều được cứu cánh Niết bàn, không
hạn định thời gian và không bao giờ dừng nghỉ.
Tóm lại, Bồ Tát tuỳ
thuận theo các đức tánh tốt của tâm chơn như mà tu các hạnh
lành, dẹp trừ các cấu nhiễm, để trở về Tâm chơn như.
c. TÁM TƯỚNG THÀNH ĐẠO
CHÁNH VĂN
Bồ Tát nhờ phát tâm
này, nên được thấy Pháp thân một phần nào. Do thấy được Pháp
thân nên Bồ Tát tuỳ theo nguyện lực của mình, mà hiện ra tám
tướng sau đây, để làm lợi ích cho chúng sanh:
1. Từ cung trời Đâu
suất giáng sanh
2. Nhập thai 3. Ở trong
thai
4. Sanh ra 5. Xuất gia
6. Thành Đạo 7. Thuyết
pháp
8. Nhập Niết bàn
Song các vị Bồ Tát này,
chưa chứng pháp thân, vì còn các nghiệp hữu lậu từ quá khứ
vô lượng kiếp đến nay, chưa có thể đoạn trừ được. Vị Bồ Tát
do sức đại nguyện tự tại mà thọ sanh; tuy không phải bị
nghiệp lực kéo dẫn, song vẫn còn khổ vi tế. Trong Khế kinh,
Phật nói: "Có vị Bồ Tát thối tâm bị đoạ vào ác thú". Nói như
vậy, là để cho những vị sơ tâm (chưa phải chính thức Bồ Tát)
còn giải đãi trên đường tu hành, lo sợ, mà phát tâm dõng
mãnh tiến tu, chứ không phải thật thối đoạ.
Lại nữa, các vị Bồ Tát
này, từ khi phát tâm về sau, mặc dù nghe nói phải trải qua
vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp (vô số kiếp), siêng năng tu
hành khổ hạnh, mới chứng được Niết bàn; nhưng cũng không nhu
nhược và lo sợ đoạ vào Nhị thừa, vì họ đã hiểu chắc vả tin
rằng: Tất cả các pháp từ hồi nào đến giờ, tánh nó vốn là
Niết bàn.
LƯỢC GIẢI
Bồ Tát khi đã viên mãn
Thập tín, phát ba món tâm trên rồi (Trực tâm, Thâm tâm và
Đại bi tâm) thì vào Thập trụ, thấy được Pháp thân thanh
tịnh, nên có thể thị hiện tám tướng cao cả, để làm lợi ích
cho các chúng sanh, mà tâm không nhu nhược và sợ thối đoạ;
bởi vì các vị Bồ Tát này đã biết các pháp từ xưa đến nay vốn
là Niết bàn.
Các vị Bồ Tát Thập trụ
này, vì các nghiệp hữu lậu chưa hết, nên sanh ở đâu, cũng
còn khổ vi tế về "phần đoạn sanh tử". Nhưng sự thọ sanh cùa
các Ngài là do đại nguyện để hoá độ chúng sanh, chứ không
phải bị nghiệp lực kéo dẫn mà thọ sanh.
Lại nữa, các vị Bồ Tát
này không bao giờ đoạ vào ác thú, thối thất Bồ Đề. Nhưng
trong kinh Bổn nghiệp Phật nói: "các vị Bồ Tát từ Thất trụ
về trước còn thối đoạ, nếu từ một kiếp đến mười kiếp không
gặp Thiện hữu tri thức". Phật nói như vậy là để khủng bố các
vị Sơ tâm Bồ Tát còn giãi đãi trong sự tu hành.
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ MƯỜI
BỐN
CHƯƠNG THỨ BA
PHẦN GIẢI THÍCH
C. PHÂN BIỆT HÀNH TƯỚNG PHÁT TÂM ĐẾN ĐẠO (tiếp theo và hết)
MỤC LỤC
C. Phân biệt hành tướng
phát tâm đến Đạo (bài thứ 2)
Ba món phát tâm (tiếp theo và hết)
II. Nói về hiểu biết và làm mà phát tâm
Bồ Tát biết tâm mình (Phật tánh) không có Lục tệ nên tu pháp
lục độ.
Lục độ Lục tệ
1. Bố thí để trừ tham lam bỏn xẻn
2. Trì giới nhiễm ô
3. Nhẫn nhục Sân hận
4. Tinh tấn Giãi đãi
5. Thiền định Tán loạn
6. Trí huệ Si mê
III. Nói về chứng nhập chơn như mà phát tâm
Bồ Tát sau khi nhập chơn như, rồi khởi diệu dụng độ sanh, và
có 3 tướng vi tế:
1. "Chơn tâm" tức là Thật trí
2. "Phương tiện tâm" tức là Quyền trí
3. "Nghiệp thức tâm" tức là Dị thục thức
II. NÓI VỀ HIỂU BIẾT VÀ
LÀM
(Hạnh, hướng) mà
phát tâm
CHÁNH VĂN
Phải biết, lối phát tâm
này (biết và làm) có phần thắng hơn lối phát tâm trước (Tín
phát tâm). Bồ Tát bắt đầu từ Chánh tín (Thập tín) đến đây
(Hạnh và Hướng), trải qua gầm mãn một vô số kiếp thứ nhứt,
nên đối với Chơn như, các vị này hiện đã hiểu ngộ rất thâm
thuý và sự tu hành không còn chấp tướng nữa.
Bồ Tát biết tánh Phật
của mình (tâm minh) không có tham lam bỏn xẻn, nên tuỳ thuận
theo tánh Phật tu hạnh Bố thí Ba la mật (Bố thí rốt ráo). Bồ
Tát biết tánh Phật của mình không nhiễm ô, xa lìa các tội
lỗi ngũ dục, nên tuỳ thuận theo tánh Phật, tu pháp trì giới
Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật của mình không khổ não, xa
lìa các sân hận, nên thuận theo tánh Phật, tu pháp Nhẫn nhục
Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật của mình không có tướng
thân tâm, xa lìa việc giải đãi, nên tuỳ thuận theo tánh
Phật, tu Tinh tấn Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật của mình
thường định, không có tan loạn, nên tuỳ thuận theo tánh
Phật, tu pháp Thiền định Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật
của mình sáng suốt, không có vô minh, nên tuỳ thuận theo
tánh Phật, tu Trí huệ Ba la mật.
LƯỢC GIẢI
Trong phần "Phân biệt
hành tướng phát tâm đến Đạo", có chia ra ba hạng:
1. Tín phát tâm, tức là
viên mãn địa vị Thập tín mà phát tâm.
2. Biết và làm phát
tâm, tức là ở địa vị Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng) mà phát
tâm.
3. Chứng nhập chơn như
phát tâm, tức là ở hàng Thập địa Bồ Tát mà phát tâm.
Đoạn này nói về hàng
Tam hiền phát tâm.
Hành giả từ khi phát
tâm tu hành, cho đến mãn địa vị Tam hiền, đây là đợt thứ
nhất, phải trải qua một "vô số kiếp". Sau khi mãn Tam hiền
lên đến Thất địa, hành giả phải trải qua một "vô số kiếp" về
đợt thứ hai. Từ Bát địa trở lên quả vị Phật, hành giả phải
trải qua một "vô số kiếp" nữa, về đợt thứ ba.
Hành giả phải trải qua
ba vô số kiếp như vậy, và trường kỳ kháng chiến với giặc
phiền não nội tâm, bao giờ hoàn toàn thắng trận mới được
thành Phật. Trong vô số kiếp thứ nhứt, hành giả bị bại trận
nhiều mà thắng ít. Đến vô số kiếp thứ hai, là giai đoạn
giằng co, hành giả năm ăn năm thua. Bước qua vô số kiếp thứ
ba thì hành giả thắng nhiều thua ít.
Vì hạng thứ hai là
"Hiểu vá Làm mà phát tâm" trước. Từ địa vị Thập tín đến địa
vị Tam hiền, vì hành giả tu hành trải qua gần mãn một vô số
kiếp, nên ngộ được chơn tâm; nhưng chưa chứng nhập. Tuy
nhiên, về việc tu hành, hành giả đã cởi mở rất nhiều những
sự nặng nề về phần tu hữu hướng (chấp danh, trước tướng) và
bắt đầu về vô tướng, để nhập chơn tâm thanh tịnh.
Bồ Tát biết chơn tâm
mình từ bi, hỳ xả, không có tham lam bỏn xẻn, nên tu pháp bố
thí Ba la mật, để trừ tâm bỏn xẻn (tu tâm) và nuôi dưỡng
tánh từ bi hỷ xả (dưỡng tánh) để trở lại hiệp với chơn tâm
của mình.
Bồ Tát biết chơn tâm
mình thanh tịnh, không có các nhiễm ô tội lỗi, nên tu pháp
trì giới Ba la mật, để trừ tâm nhiễm ô tội lỗi (tu tâm) và
nuôi dưỡng đức tánh thanh tịnh (dưỡng tánh) để hợp với chơn
tâm của mình.
Bồ Tát biết chơn tâm
mình không có sân hận, nên tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật, để
đối trị tâm sân hận (tu tâm) và nuôi lớn đức tánh vô sân
(dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm.
Bồ Tát biết chơn tâm
mình không phiền não giải đãi, nên tu pháp Tinh tấn Ba la
mật, để trừ tâm giải đãi (tu tâm) và nuôi dưỡng đức tánh
siêng năng (dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm.
Bồ Tát biết chơn tâm
mình thường định, không tán loạn, nên tu pháp Thiền định Ba
la mật, để trừ tâm tán loạn (tu tâm) và nuôi dưỡng tánh tịch
tịnh (dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm.
Bồ Tát biết chơn tâm
mình sáng suốt, không có si mê, nên tu pháp Trí huệ Ba la
mật, để trừ tâm si mê (tu tâm) và nuôi dưỡng trí huệ (dưỡng
tánh) để hợp với chơn tâm của mình.
Tóm lại, Bồ Tát biết
tâm mình không có các điều xấu tệ, như tham lam bỏn xẻn, phá
giới nhiễm ô, nóng nảy sân hận, biếng nhác trễ nãi, tán loạn
và si mê v.v...mà trái lại, có đủ các đức tánh tốt, như từ
bi, hỷ xả, thanh tịnh, không sân si, tinh tấn, thường định
và trí huệ v.v...nên tu pháp Lục độ, để diệt trừ Lục tệ,
nuôi lớn các đức tánh tốt ở nơi tâm mình. Khi các đức tánh
tốt (tánh Phật) được hoàn toàn viên mãn, thì Bồ Tát sẽ thành
Phật.
GIẢI DANH TỪ
Chữ "Ba la mật", Tàu
dịch là "Đáo bỉ ngạn" nghĩa là đến bờ bên kia, tức là bờ
Giác. Song chữ "ba la mật" này cũng có nghĩa là "rốt ráo
cùng tận". Như nói "Bố thí ba la mật", nghĩa là bố thí đến
cùng tận. Chúng phàm phu khi bố thí, còn chấp Ta là người
năng thí (làm ơn). Kia là kẻ thọ thí (chịu ơn); vì còn dính
mắc nơi tướng, chấp có nhơn có ngã, nên bố thí mà không được
ba la mật. Trái lại, Bồ Tát khi bố thí, hợp với chơn tâm
thanh tịnh, không thấy có nhơn có ngã: ta đây là người làm
ơn (năng thí). Kia là kẻ thọ ơn (được thí). Nọ là vật bị
thí...Vì không dính mắc nơi tướng nên gọi là "Bố thí ba la
mật". Năm món "ba la mật" sau, ý nghĩa cũng như thế.
III. Chứng nhập chơn
như mà phát tâm
CHÁNH VĂN
Bồ Tát từ Sơ địa cho
đến Đẳng giác, đã chứng được Chơn như, cũng gọi là Chứng
pháp thân.
Các vị Bồ Tát khi đã
chứng nhập Chơn như thì từ trên tâm Chơn như này, khởi ra
đại dụng: như trong nhứt niệm mà có thể đi hết cả mười
phương thế giới, cúng dường chư Phật, thỉnh Phật chuyển pháp
luân và mở đường dẫn dắt, làm lợi ích cho các chúng sanh, mà
không cần đến ngôn ngữ. Hoặc vì để độ những chúng sanh căn
tánh thấp kém, lo sợ phải trải qua nhiếu kiếp tu hành mới
thành đạo, nên Bồ Tát thị hiện mau thành quả Phật. Hoặc vì
để độ những chúng sanh biếng nhác trễ nãi, nên Bồ Tát nói:
"ta tu hành trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp mới được thành
Phật". Các vị Bồ Tát mặc dù thị hiện ra vô số phương tiện
như vậy, không thể nghĩ bàn được, song thật ra các vị này
trình độ như nhau, và đều trải qua vô số kiếp tu hành, không
có kẻ mau, người chậm, vị này hơn, vị kia kém. Các vị Bồ Tát
tuỳ theo mỗi quốc độ, và trình độ thấy nghe, căn tánh sai
khác, dục vọng không đồng của mỗi chúng sanh mà thị hiện ra
nhiều hạnh (Bồ Tát đa hạnh), phương tiện độ sanh không giống
nhau.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói "Chứng
nhập chơn như mà phát tâm", tức là Bồ Tát chứng được thể
chơn như, rồi phát ra đại dụng của chơn như.
Các vị Bồ Tát từ Sơ đại
đến Đẳng giác, đã chứng được chơn như, cũng gọi là chứng
pháp thân thanh tịnh của Như Lai. Rồi từ nơi thể chơn như
này phát khởi ra diệu dụng không thể nghĩ bàn, như trong
nhứt niệm Bồ Tát có thể đi hết cả mười phương thế giới, cúng
dường chư Phật, hoặc thỉnh Phật chuyển pháp luân. Và cũng từ
nơi diệu dụng của chơn như, mà Bồ Tát giáo hoá làm lợi ích
cho chúng sanh, hoặc không dùng đến văn tự ngữ ngôn.
Có vị Bồ Tát vì muốn
khuyến khích những chúng sanh thấp kém, lo sợ cho mình không
thể đeo đuổi trải qua nhiều kiếp trường kỳ tu tập, nên thị
hiện tu mau thành Phật, để cho chúng sanh ấy khỏi lo sợ; như
nàng Long nữ trong Pháp hoa, ngài Quảng ngạch trong kinh
Niết bàn, ông Thiện tài trong kinh Hoa nghiêm.
Và có vị Bồ Tát, vì
những chúng sanh giải đãi bê tha sự tu hành, nên thị hiện
trải qua ba vô số kiếp tu hành, mới được thành Phật, để cho
chúng sanh ấy, thấy con đường còn dài, phải siêng năng tu
hành; như đức Thích Ca, trải qua ba vô số kiếp mới thành
đạo.
Bồ Tát, tuỳ theo mỗi
quốc độ khác nhau, trình độ thấy nghe của chúng sanh không
đồng, mà thị hiện ra rất nhiều phương tiện, không thể nghĩ
bàn. Bởi thế nên gọi "Bồ Tát đa hạnh".
Nhưng sự thật, về trình
độ của các vị Bồ Tát thì đồng nhau, sự phát tâm, chỗ chứng
ngộ cũng đồng nhau, và đều trải qua ba vô số kiếp tu hành,
không có sự mau chậm hay hơn kém nhau.
CHÁNH VĂN
Lại nữa, Nhị thừa phát
tâm, có 3 tướng vi tế:
1. Chơn tâm, tức là tâm
vô phân biệt (thật trí).
2. Phương tiện tâm, tức
là tâm tự nhiên làm lợi ích cho các chúng sanh (quyền trí).
3. Nghiệp thức tâm, tức
là tâm sanh diệt rất vi tế.
Bồ Tát tu hành đến khi
công đức thành tựu viên nãn rồi thì hiện thân cao lớn (báo
thân) hơn các thế gian, ở trên cõi trời Sắc cứu cánh Bồ Tát
do nhứt niệm tương ưng (hiệp) với huệ, nên vô minh liền hết,
gọi là "được nhứt thế chủng trí". Lúc bấy giờ Bồ Tát tự
nhiên có diệu dụng không thể nghĩ bàn, hiện thân khắp mười
phương thế giới làm cho lơi ích cho tất cả chúng sanh.
LƯỢC GIẢI
Các vị Bồ Tát phát tâm
vừa nói trên, đều có 3 tướng vi tế như sau:
1. Được thật trí, tức
là chơn tâm vô phân biệt.
2. Được quyền trí, tức
là Trí phương tiện phân biệt, để làm lợi ích cho các chúng
sanh.
3. Dị thục thức, tức là
nghiệp thức, sanh diệt rất vi tế.
Bồ Tát tuy được quyền
trí và thật trí, nhưng chưa rốt ráo như Phật và vì còn Dị
thục thức (Kim Cang đạo hâu Dị thục không) nên còn bị biến
dịch sanh tử.
Bồ Tát tu hành, khi
công đức được thành tựu viên mãn, đến phút tối hậu, phá sach
vô minh vi tế, nhứt niệm hiệp với Bát Nhã huệ, thì được
"Nhứt thế chủng trí" gọi là "Chánh biến giác". Lúc bấy giờ
Bồ Tát hiện thân Tự thọ dụng (Báo thân) cao lớn ngàn trượng,
ở cõi Tự thọ dụng (tự thọ dụng độ), trên đảnh trời sắc giới,
chờ đến thời kỳ, sẽ đi bổ xứ làm Phật, như đức Di lặc hiện
nay ở cõi trời Đâu suất. Vị Bồ Tát này tự nhiên có diệu
dụng, thị hiện mười phương thế giới, làm lợi ích cho các
chúng sanh không thể nghĩ bàn.
Tóm lại, từ khi phát
tâm tu hành, cầu quả Phật, đến khi được Nhứt thế chủng trí,
thành Chánh biến giác là rốt ráo sự phát tâm vậy.
CHÁNH VĂN
Hỏi:_ Trong hư
không, vô biên, có vô tận thế giới, trong mỗi thế giới có vô
số chúng sanh; vì chúng sanh vô số, nên tâm niệm và hành vi
cũng khác nhau vô cùng; nếu Bồ Tát đoạn vô minh, không còn
tâm tưởng, thì lấy gì để biết tất cả pháp, mà gọi là "Nhứt
thế chủng trí"?
Đáp:_ Tất cả
cảnh giới vốn là chơn tâm thanh tịnh, không có gì khác. Song
vì chúng sanh không như chơn tâm thanh tịnh (xứng tánh) Lại
khởi ra các tưởng niệm phân biệt, vọng thấy có các cảnh giới
sai khác, nên không thể biết được cảnh giới vô tướng thanh
tịnh (chơn tâm) biến khắp tất cả, của chư Phật.
Chơn tâm này đã là bản
thể hiện ra tất cả pháp và Bồ Tát vì đã chứng được bản thể
của tất cả pháp, tất nhiên biết được tất cả pháp, nên gọi là
"Nhứt thế chủng trí". Nhờ "Nhứt thế chủng trí" này, mà Bồ
Tát tuỳ thuận thep trình độ của các chúng sanh, lập ra các
pháp phương tiện, giáo hoá vô số chúng sanh.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này ngài Bồ Tát Mã
Minh, lập lời vấn đáp, để giải thích những điều thắc mắc của
độc giả.
Thấy đoạn trên nói: Do
Bồ Tát trong nhứt niệm tương ưng với Huệ, nên vô minh liền
hết, gọi là được "Nhứt thế chủng trí", nên độc giả thắc mắc:
Do vô minh mà có tâm tưởng, nhờ tâm tưởng nên mới biết được
các sự vật. Nếu vô minh hết, tâm tưởng không còn, thì lấy
cái gì để biết tất cả sự vật, mà gọi là "được Nhứt thế chủng
trí"?
Bồ Tát giải đáp, đại ý:
Tất cả các pháp nguyên là chơn tâm (đó là định lý của Đại
thừa). Nếu còn vô minh và tâm tưởng phân biệt, thì cố nhiên
phải có năng sở bỉ thử, nên sự phân biệt bị cuộc hạn, tuy
biết mà biết không cùng khắp, cái biết ấy chỉ là tưởng niệm
mà thôi. Trái lại, nếu vô minh hết, tâm tưởng không còn, tức
là hiệp với chơn tâm, mà chơn tâm là bản thể của các pháp,
biến khắp tất cả các pháp; cũng như trời đất non sông, mà bể
cả đều bao hàm hết thảy. Bởi thế nên hành giả trừ vô minh,
diệt hết loạn tưởng chứng nhập chơn tâm, thì mới biết được
các pháp một cách rốt ráo, gọi là được "Nhứt thế trí".
Từ chơn tâm này phát ra
đại trí dụng, biết rõ tất cả pháp, tuỳ theo căn cơ của vô số
chúng sanh, dùng vô số phương tiện để dẫn dắt chúng sanh,
gọi đó là được "Nhứt thế chủng trí". Chứng được Nhứt thế trí
và Nhứt thế chủng trí, gọi là phát minh rốt ráo tâm đại
thừa, tức là thành Phật.
CHÁNH VĂN
Hỏi:_ Chư Phật
đã nghiệp dụng tự nhiên thị hiện khắp tất cả chỗ, làm lợi
ích cho các chúng sanh. Nếu chúng sanh nào thấy được thân
Phật, hoặc nghe thuyết pháp, hoặc thấy thần thông biến hoá
của Phật, thì đều được lợi ích; tại sao trong thế gian còn
có nhiều người không thấy được Phật?
Đáp:_ Pháp thân
của chư Phật bình đẳng và khắp tất cả chỗ, tự nhiên làm lợi
ích cho các chúng sanh, không dụng tâm hay cố ý. Song cũng
tuỳ theo tâm của chúng sanh mà tự thấy có hiện hay không.
Tâm chúng sanh như cái gương, nếu gương bị bụi đóng, thì
cảnh vật không hiện; còn tâm chúng sanh bị cấu nhiễm thì
Pháp thân không hiện.
LƯỢC GIẢI
Tiếp theo đoạn vấn đáp
trên, nghe nói:
"Phật có thần thông
diệu dụng không thể nghĩ bàn, bình đẳng làm lợi ích cho tất
cả chúng sanh, mà không dụng công hay cố ý": nên độc giả
nghi: Nếu như thế, tại sao có chúng sanh được tế độ, có
chúng sanh không được tế độ.
Bồ Tát giải thích, đại
ý: Phật tuy có Nhứt thế chủng trí và đủ các phương tiện,
thần thông diệu dụng, bình đẳng và tự nhiên làm lợi ích cho
tất cả chúng sanh, không dụng công hay cố ý, không phân biệt
chủng loại nào. Nhưng chúng sanh có tiếp nhận được hay không
là do tâm của họ có thanh tịnh hay không. Như cái gương tuy
sáng mà bị bụi bám vào, dù cảnh vật tuy sẳn có, cũng không
thể hiện gì ra được. Cũng thế, chúng sanh tâm tánh còn cấu
nhiễm, thì chư Phật tuy có diệu dụng không thể nghĩ bàn,
bình đẳng phổ độ, song họ cũng không thể thấy được Phật. Tuy
không thấy Phật tế độ, nhưng Phật vẫn âm thầm gia hộ. Ví như
kẻ mù sống dưới mặt trời, tuy họ không thấy được ánh sáng,
nhưng mặt trời vẫn chiếu đến, và họ vẫn nhờ ánh sáng mà
sống.
(HẾT PHẦN GIẢI THÍCH)
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ MƯỜI
LĂM
CHƯƠNG THỨ
TƯ
PHẦM TÍN TÂM,
TU HÀNH
MỤC LỤC
Chương thứ tư: TÍN TÂM
TU HÀNH
(2 bài, bài này thứ nhất)
A. Bốn món Tín tâm
1. Tín căn bản (tin tánh Phật của mình)
2. Tín Phật
3. Tín Pháp
4. Tín Tăng
B. Năm món Tu hành (Lục độ):
Bố thí
Trì giới
Nhẫn nhục
Tinh tấn
5. Chỉ, quán (Định, Huệ)
CHÁNH VĂN
Chương này là căn cứ
vào nhóm chúng sanh chưa vào chánh định mà nói về việc tín
tâm tu hành._ Về tín tâm thì ước lược có bốn món, còn tu
hành lại có năm món.
A. NÓI VỀ BỐN MÓN TÍN
TÂM
1. Tin căn bản, tức là
ưa nghĩ nhớ pháp chơn như.
2. Tin Phật có vô lượng
công đức; hành giả thường phải nghĩ tưởng, gần gũi, cung
kính và cúng dường chư Phật, để pháp khởi căn lành và nguyện
cầu đặng "Nhứt thế trí".
3. Tin Pháp của Phật có
lợi ích lớn; hành giả phải thường nhớ tu hành các pháp Ba la
mật.
4. Tin Tăng là người
chơn chánh tu hành, tự lợi lợi tha, và hành giả thường ưa
thân cận các vị Bồ Tát để cầu học cái hạnh chơn thật.
LƯỢC GIẢI
Luận này có năm chương,
ba chương đầu là phần lý thuyết, chương thứ tư nói về thật
hành, tức là việc khởi tín tâm tu hành, nên chương này rất
cần thiết cho hành giả.
Vậy người nào mới có
thể khởi tín tâm tu hành?_ Bồ Tát Mã Minh nói: "Phải chúng
sanh chưa vào chánh định, mới có thể khởi tín tâm tu hành".
Tại sao thế?_ Vì những người tà định (ngoại đạo) không thể
khởi tín tâm tu hành theo Đại thừa; còn những người đã vào
chánh định rồi, thì không cần phải nói nữa; duy có người bất
định (không nhứt định Đại thừa hay Tiểu thừa) chưa vào chánh
định, mới có thể khởi tín tâm tu hành theo Đại thừa được.
Vậy hành giả phải tin
cái gì?_ Có bốn món: Trước nhứt hành giả phải tự tin nơi bản
tánh chơn như của mình, tức là tin mình sẳn có tánh Phật
(khả năng thành phật), cũng gọi là tin tâm Đại thừa. Tin như
thế nào?_ Phải luôn luôn tin tưởng và nghĩ nhớ tâm chơn như
của mình, Thể nó lớn, Tín nó to, Dụng nó đại. Đó là điều tin
căn bản, còn ba điều tin sau này, cũng do tin căn bản mà ra,
tức là tin tam bảo_Tin Phật là người đã chứng được chơn như;
tin Pháp là phương pháp để thực hiện chơn như; tin Tăng là
người đang thật hành theo chơn như.
Hành giả tin Phật để
cầu được nhứt thế trí; tin Pháp để tu hành theo các pháp Ba
la mật; tin Tăng để học theo hạnh chơn thật.
CHÁNH VĂN
B. NÓI VỀ NĂM MÔN TU
HÀNH
1, Bố thí
2. Trì giới
3. Nhẫn nhục
4. Tinh tấn
5, Chỉ, quán (Định,
Huệ)
Thế nào là tu Bố thí?_
Nếu thấy có người đến xin, hành giả có những tài vật gì tuỳ
theo sức mình, đem bố thí cho người, thì sẽ được hai điều
lợi ích: tự mình bỏ được lòng tham lam bỏn xẻn, và người thọ
thí được vui mừng._ Nếu thấy người bị tai nạn, sợ hãi lo
buồn, hành giả tận khả năng của mình cứu giúp, làm cho họ
hết lo sợ; gọi là thí vô uý (bố thí cái không sợ)._ Nếu có
người đến cầu nghe Phật pháp, hành giả tuỳ theo sự hiểu biết
của mình, phương tiện thuyết pháp; thuyết pháp với tâm niệm
tốt đẹp là nghĩ vì tự lợi lợi tha và hồi hướng về đạo Bồ Đề,
không vì danh lợi hoặc cầu người cung kính.
LƯỢC GIẢI
Về việc tu hành, hành
giả chỉ tu pháp Lục độ thì những hạnh tự lợi và lợi tha đều
được đầy đủ.
Bố thí có ba thứ; thí
tài, thí pháp và thí không sợ.
1. Thí tài, tức là thí
của, có hai thứ của: a) Đem tiền bạc của cải của mình giúp
cho người, gọi là thí ngoại tài (của ngoài thân); b) Hy sinh
thân mạng để cứu người, như cho máu những người thiếu máu
v.v...gọi là thí nội tài (của trong thân). Thí ngoại tài thì
hành giả sẽ trừ được tâm bỏn xẻn về tiền của. Thí nội tài
thì hành giả sẽ bớt được tâm chấp ngã và tự ái.
2. Thí pháp, tức là thí
phương pháp, có hai phần: a) Chỉ dạy cho người những phương
pháp (nghề nghiệp) chơn chánh để tự nuôi sống, gọi là thí về
pháp thế gian; b) Dạy người những phương pháp tu hành để
giải thoát sanh tử luân hồi, gọi là thí về pháp xuất thế
gian. Thí pháp, hành giả sẽ trừ được tâm bỏn xẻn về pháp.
3. Thí không sợ, tức là
thí cái không lo sợ, cũng có hai phần: a) về phần tiêu cực,
mình không làm cho người lo sợ, gọi là thí không sợ, b) Về
phần tic cực, thấy người bị hoạn nạn, đang lo sợ, mình tận
lực cứu giúp, làm cho người hết lo sợ, cũng gọi là thí không
sợ. Bố thí không sợ, hành giả sẽ nuôi lớn được lòng từ bi.
CHÁNH VĂN
Thế nào là tu Trì
giới?_ Không sát sanh, trộm cắp, dâm dục, không nói lời dâm
thọc, nói lời độc ác, không nói dối, nói thêu dệt, không
tham sân si, tật đố, dua nịnh, dối trá và tà kiến. Nếu là
người xuất gia thì, vì còn dẹp trừ phiền não, nên phải xa
lánh chỗ ồn ào, thường ở chỗ thanh vắng, tu hạnh thiểu dục
tri túc, hoặc tu hạnh đầu đà v.v...Cho đến một lỗi nhỏ, hành
giả cũng phải sanh tâm hổ thẹn, ăn năn sám hối và kiêng sợ;
không dám khinh giới luật của Phật. Hành giả phải giữ gìn,
đừng để cho người chê bai khinh hiềm, tại mình mà họ tạo tội
lỗi.
LƯỢC GIẢI
Giới luật của Phật chế
ra, tổng quát có ba phần, gọi là "Tam tu tịnh giới" (ba phần
giới thanh tịnh):
1. Bỏ các điều tội lỗi,
gọi là "Nhiếp luật nghi giới";
2. Làm các việc lành,
gọi là "Nhiếp thiện pháp giới";
3. Làm lợi ích chúng
sanh, gọi là "Nhiêu ích hữu tình giới".
Hành giả tu theo Đại
thừa, một mặt là phải giữ ba phần giới này cho thanh tịnh;
một mặt nữa là đừng làm những điều sái quấy, để cho thế gian
đàm tiếu, mà họ mang lấy tội lỗi.
CHÁNH VĂN
Thế nào là tu Nhẫn
nhục?_ Nhẫn chịu những điều người ta làm cho mình khổ não
trong tâm hành giả cũng không nghĩ tưởng đến việc trả thù;
và nhẫn chịu tám hướng gió của trần gian thổi đến: 1. Thạnh
lợi, 2. Suy bại, 3. Huỷ báng, 4. Danh dự, 5. Khen, 6. Chê,
7. Khổ, 8. Vui.
LƯỢC GIẢI
Tất cả những hoàn cảnh,
làm cho hành giả tạo các tội lỗi, không ngoài tám điều, gọi
là "Bát phong" (tám ngọn gió); nhưng tóm lại thì có hai
cảnh: thuận và nghịch.
Tài lợi, danh vọng,
khen ngợi và vui là bốn ngọn gió thuận cảnh, nó thổi vào
biển tâm của hành giả, làm cho nổi lên vô lượng sóng tham
lam._ Suy bại, huỷ báng (công kích lỗi người) chê bai (nói
xấu) và khổ là bốn ngọn gió nghịch cảnh, nó thổi vào biển
tâm của hành giả, làm cho nổi lên không biết bao nhiêu sóng
sân hận.
Hành giả khi gặp các
thứ gió, dù thuận hay nghịch, cũng đều phải giữ gìn biển tâm
mình cho yên lặng, đừng để các sóng phiền não như tham lam
hay sân si v.v...nổi lên. Như thế gọi là tu pháp Nhẫn nhục
Ba la mật.
CHÁNH VĂN
Thế nào lá tu Tinh
tấn?_ Lập chí kiên nhẫn, tu các việc lành, tâm không trễ nãi
và không khiếp nhược. Hành giả phải thường nhớ rằng, từ quá
khứ nhiều kiếp lâu xa đến nay đã thọ không biết bao nhiêu
thân tâm hư giả và chịu không biết bao nỗi khổ lớn lao, đều
không có lợi ích gì cả. Bởi thế nên đời nay, ta siêng năng
tu các công đức, làm những việc tự lợi lợi tha, để mau xa
lìa các khổ.
Lại nữa, nếu người tín
tâm tu hành mà bị các nghiệp chướng đời trước làm chướng
ngại, hoặc bị các tà ma ác quỉ nhiễu hại, hay bị việc đời
ràng buộc, hoặc bị bịnh khổ làm não bức v.v...thì hành giả
phải tinh tấn dõng mãnh, ngày đêm sáu thời lễ Phật tụng
kinh, thành tâm sám hối, thường hành không bỏ phế; khuyên
thỉnh Phật trụ thế và tuỳ hỷ các việc công đức, để hồi hướng
về đạo quả Bồ Đề. Phải làn như thế, hành giả mới khỏi các
điều chướng ngại và căn lành tăng trưởng.
LƯỢC GIẢI
Tinh tấn là một yếu tố
để thành công trên đường đời cũng như trên đường Đạo. Người
tu hành nếu thiếu tinh tấn thì không bao giờ thành đạo chứng
quả được. Tinh là tinh chuyên một việc; Tấn là tiến tới
không dừng.
Hành giả lập chí dõng
mãnh, chuyên tu các pháp lành, tâm không khiếp nhược, phải
thường nhớ rằng: Từ vô lượng kiếp đến nay ta thọ biết bao
nhiêu thân, chịu biết bao nhiêu khổ, nhưng không làm được
điều lợi ích gì cả ! Vậy đời này ta phải tu các công đức, để
xa lìa các tội khổ. Nếu người bị nghiệp chướng đời trước
nặng nề, hoặc tà ma ác quỉ nhiễu loạn, hay việc đời ràng
buộc, bịnh hoạn làm khổ não, v.v...khó hành đạo được, hành
giả phải ngày đêm 6 thời, tụng kinh sám hối, không nên bê
trễ, thì các chướng ngại sẽ hết và căn lành tăng trưởng.
CHÁNH VĂN
Thế nào là tu Chỉ,
Quán?_ "Chỉ" nghĩa là đình chỉ tất cả các vọng tưởng (định),
để tuỳ thuận theo quán không (xa ma tha); "Quán" nghĩa là
quán sát các tướng nhơn duyên sanh diệt (huệ) để tuỳ thuận
theo quán giả (tỳ bác xa na).
Sao gọi là tuỳ thuận?_
Do hành giả từ từ tu tập, một lần cả Chỉ và Quán, đều không
rời nhau, nên gọi là tuỳ thuận.
LƯỢC GIẢI
Tu Chỉ, Quán tức là tu
Thiền định và trí huệ. "Chỉ" là đình chỉ các vọng tưởng, tức
là Định; "Quán" là quán sát để thấu rõ chơn lý của các pháp,
tức là Huệ. Tu Chỉ, Quán sẽ được Định, Huệ; vì Chỉ, Quán là
Nhơn, mà Định, Huệ là Quả.
Trong Lục độ, chia
riêng ra Thiền định và Trí huệ, là muốn cho hành giả thấy rõ
hành tướng, công dụng và kết quả của hai pháp môn khác nhau.
Trong Luận này về chương "Tín tâm tu hành", Bồ Tát Mã Minh
cũng dạy tu Lục độ, nhưng hai độ sau lại chung làm một và
không gọi tu Định, Huệ mà lại gọi là tu Chỉ, Quán?_ Vì Bồ
Tát muốn cho hành giả phải hiểu rằng: Về phần tu nhơn thì
hai pháp này rất liên quan với nhau; nghĩa là hành giả phải
đồng thời tu cả Chỉ và Quán. Trong Chỉ có Quán, trong Quán
có Chỉ.
Thế nào là trong Chỉ có
quán?_ Nghĩa là muốn ngăn ngừa đình chỉ không cho các vọng
tưởng nổi lên, thì hành giả phải quán sát các pháp là không;
bởi các pháp là không, nên hành giả chẳng chấp có, và không
khởi tâm tham sân v.v...
Thế nào là trong Quán
có Chỉ?_ Nghĩa là hành giả quán sát các pháp đều do nhơn
duyên hoà hiệp, sanh không phải thật sanh, mà diệt cũng
không phải thật diệt. Vì các pháp do nhơn duyên hoà hiệp giả
có, nên hành giả chẳng chấp không, và chẳng sanh các phiền
não.
NÓI VỀ TU CHỉ (ĐỊNH)
CHÁNH VĂN
Nếu tu "Chỉ" (định)
hành giả phải ở chỗ thanh vắng, ngồi ngay thẳng, tâm chơn
chánh, chẳng nương hơi thở, chẳng nương hình sắc và hư
không, chẳng nương đất, nước, gió, lữa; chẳng nương thấy,
nghe, hay biết, cho đến các tưởng niệm đều diệt trừ, rồi
hành giả dẹp luôn cái "tâm niệm" trừ tưởng niệm nữa.
Do tất cả các pháp từ
hồi nào đến giờ, mỗi niệm không sanh, mỗi niệm không diệt,
nên hành giả phải không các tưởng niệm và cũng không tưởng
cảnh giới ngoài tâm, rốt sau rồi lấy tâm trừ tâm. Nếu tâm
vọng tưởng rong ruỗi, thì hành giả phải liền đem trở lại
chánh niệm._ Phải biết "Chánh niệm" đây, tức là "Duy tâm",
không có ngoại cảnh. Và cái tâm này cũng không hình tướng gì
có thể tưởng niệm được.
LƯỢC GIẢI
Hành giả tu Định (Chỉ),
phải ở chỗ thanh vắng, tránh xa nơi ồn ào náo nhiệt; thân
ngồi ngay thẳng, không ngước không cúi; tâm phải chơn chánh,
tỉnh táo sáng suốt và tịch tịnh, không phù không trầm; phải
thoát ly thân, nghĩa là không nương hơi thở (không sổ tức);
không nương hình sắc; phải thoát ly thế giới, không nương hư
không, tứ đại; và phải thoát ly tâm, không nương thấy nghe
hay biết.
Hành giả phải trừ hết
các tưởng niệm rồi cái tâm niệm trừ các tưởng đó cũng dứt
luôn; phải biết các pháp từ hồi nào đến giờ, chỉ là nhứt tâm
(Duy tâm), không sanh không diệt, không có cảnh giới ngoài
tâm. Bởi thế nên tâm vừa vọng động rong rủi theo trần cảnh,
thì hành giả phải thâu lại đem về chánh niệm tức là nhứt
tâm, gọi là "dùng nhứt tâm diệt các vọng tưởng"; rốt sau cái
"tâm" này (nhứt tâm) cũng không còn, gọi là "dùng tâm trừ
tâm".
Các vị Cổ đức dạy rằng:
"Người tham thiền, trong phải thoát ly thân tâm, ngoài xa
lìa cảnh giới; nghĩa là phải rời tâm, ý, thức mà tham cứu,
phải ra khỏi con đường thánh phàm mà tu học, phải viễn ly
các cảnh giới vọng tưởng mà cầu đạo". Tóm lại, là phải phóng
xả tất cả.
CHÁNH VĂN
Lại nữa, trong tất cả
thì giờ, khi đi đứng nằm ngồi, tới lui qua lại, làm tất cả
việc, hành giả phải thường nhớ phương tiện (phương tiện tuỳ
duyên chỉ), nghĩa là tuỳ thuận quán sát. Hành giả tu tập như
vậy lâu ngày thuần thục, thì tâm được an trụ; do tâm an trụ
lần lần mạnh mẽ, nên dẹp sâu phiền não, tín tâm tăng trưởng,
đặng tuỳ thuận vào chơn như tam muội, mau thành vị Bất thối.
Chỉ trừ những người nghiệp chướng sâu dày, nghi ngờ bài báng
không tin, hoặc ngã mạn biếng nhát, thì không thể nhập Chơn
như tam muội được.
Và hành giả nhờ nương
pháp Chơn như tam muội này mà biết được pháp giới duy nhứt;
nghĩa là nhận rõ Pháp thân của chư Phật và thân chúng sanh
bình đẳng không hai, nên cũng gọi là Nhứt hạnh tam muội.
Phải biết Chơn như là
căn bản của các pháp tam muội; nếu hành giả tu pháp tam muội
này, thì lần lần sẽ được vô lượng pháp tam muội.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói về "Phương
tiện tuỳ duyên Chỉ"; nghĩa là tu Thiền định không những
thường ngổi, mà còn phải phương tiện tuỳ duyên tu tập, không
cho gián đoạn. Khi đi đứng nằm ngồi làm các việc, hành giả
cũng phải luôn luôn quán sát tu tập; như thế lâu ngày tâm
được an trụ, nhơn đó định lực lần lần mạnh mẽ nên tín tâm
tăng tấn, dẹp sâu phiền não, được tuỳ thuận vào Chơn như tam
muội, thành bực Bất thối. Chỉ trừ những người huỷ báng không
tin, thì không được vào Chơn như tam muội.
Hành giả được Chơn như
tam muội rồi, thì biết pháp giới là một, chúng sanh và chư
Phật bình đẳng không hai, mê ngộ đồng một tánh, nên cũng gọi
là Nhứt hạnh tam muội (Tam muội đồng nhứt thể).
Chơn như tam muội là
căn bản của các pháp tam muội, nên người ngộ được Chơn như
tam muội rồi thì sẽ được các pháp tam muội khác.
Chữ "Tam muội", Tàu
dịch là Chánh định hay Chánh thọ; Nghĩa là tu Định đã đến
lúc thuần thục hay đúng mức.
(Đã nói tu thiền định
rồi, tiếp sau đây sẽ nói các việc ma)
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ MƯỜI
SÁU
CHƯƠNG THỨ TƯ
PHẦN TÍN TÂM TU HÀNH
(tiếp theo và hết)
MỤC LỤC
Chương thứ tư: TÍN TÂM
TU HÀNH (Tiếp theo và hết)
C. Các thứ ma chướng khi tu thiền:
1. Ma hiện Phật, Bồ Tát v.v...
2. Ma nói pháp Lục độ và ba môn giải thoát v.v...
3. Ma làm cho hành giả mất tánh thường hoặc điên v.v...
Đối trị các ma:
1. Quán duy tâm
2. Không móng tâm chấp trước.
D. Mười điều lợi ích tu thiền
E. Bảy pháp quán
G. Chỉ và quán đồng thời tu
H. Lợi ích chỉ quán
I. Pháp môn niệm Phật
Chương thứ năm: Nói về LỢI ÍCH và KHUYẾN TU
Học và tu theo Luận này sẽ được lơi ích vô cùng
Khuyên hành giả tu theo Luận Đại thừa này
Hồi hướng
HẾT
C. NÓI VỀ CÁC THỨ MA
CHƯỚNG TRONG KHI TU THIỀN
CHÁNH VĂN
Nếu chúng sanh nào căn
lành mỏng ít, bị các tà ma ngoại đạo, hoặc quỷ thần làm não
loạn, trong khi hành giả tham thiền, chúng hiện các hình
tướng ghê sợ, hoặc hiện kẻ trai người gái xinh đẹp v.v...thì
phải quán Duy tâm, lúc bấy giờ các ma này tiêu diệt, không
còn làm gì nữa được.
Hoặc chúng hiện hình
chư Thiên, Bồ Tát, Phật, cũng đủ các tướng tốt; hoặc nói
thần chú, nói pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, trí huệ; hoặc nói pháp bình đẳng, không, vô
tướng, vô nguyện, không oán, không thân, không nhơn, không
quả, rốt ráo trống không vắng lặng, gọi đó là Niết bàn. Hoặc
chúng làm cho hành giả biết được đời trước của mình (túc
mạng thông) hoặc biết những việc quá khứ vị lai, biết đặng
tâm người (tha tâm thông) biện tài vô ngại. Chúng làm cho
hành giả tham luyến danh lợi ở thế gian v.v...Hoặc ma làm
cho hành giả tánh không chừng đỗi, hay giận, hay cười, ưa
ngủ, nhiều bịnh, hoặc nhiều thương xót, tâm hay giải đãi;
hoặc có khi rất tinh tấn, có lúc lại bê tha hoặc sinh tâm
nghi ngờ không tin, và nhiều lo nghĩ; hoặc bỏ pháp tu căn
bản, trở lại tu các tạp hạnh; hoặc đắm nhiễm các việc triền
phược ở thế gian; hoặc làm cho hành giả đặng chút ít phần
tương tợ như các pháp tam muội, song đó là cảnh bị chứng của
ngoại đạo, không phải thật tam muội; hoặc làm cho hành giả ở
trong Định, từ một ngày hoặc đến bảy ngày, tự nhiện đặng món
ăn thơm ngon, thân tâm vui thích, không biết đói khát; khiến
cho hành giả rất ưa thích. Hoặc làm cho hành giả ăn không
chừng đỗi, khi nhiều khi ít, sắc mặt biến đổi luôn. Khi gặp
những cảnh như vậy, hành giả phải thường dùng trí huệ quán
sát, siêng năng giữ gìn Chánh niệm, không nên chấp thủ, chớ
để cho tâm mình đoạ vào lưới tà. Phải như thế hành giả mới
xa lìa được các ma chướng.
LƯỢC GIẢI
Người tu thiền định,
khi phá trừ ngũ ấm, sẽ bị trên năm chục món ma, biến hiện đủ
cách để thử thách và não hại người tu Thiền.
Khi gặp các cảnh ma ấy,
hành giả phải dụng tâm như thế nào, và dùng những phương
pháp gì để diệt trừ, thì trong kinh Lăng nghiêm Phật đã dạy
rất rõ ràng và kỹ lưỡng, (quí vị nên đọc đoạn Ngũ ấm ma
trong quyển Đại cương Lăng nghiêm).
Trong Luận này, Ngài Mã
Minh Bồ Tát chỉ nói sơ lược về ma; Hoặc chúng hiện thân
Phật, thân Bồ Tát ; hoặc nói kinh thuyết pháp thông suốt;
hoặc làm cho người tu thiền biết được việc quá khứ, vi lai;
hoặc đặng túc mạng thông, tha tâm thông, biện tài vô ngại;
hoặc làm cho người tu thiền tham lam danh lợi v.v...
Khi gặp các cảnh ma như
vậy, hành giả phải đừng quyến luyến, nhiễm trước và đừng
sanh tâm vui mừng hay lo buồn, mà phải luôn luôn quán Duy
tâm; nghĩa là quán do dụng công tu thiền, nên tâm hiện ra
các cảnh như vậy, chứ không có gì lạ và cũng không phải
chứng chi cả. Kinh Lăng nghiêm, Phật nói: " ...Nếu hành giả
không chấp mình được Thiền hay chứng Thánh thì tốt, còn chấp
mình Thiền hay chứng Thánh thì đoạ vào tà đạo" (Bất tác
Thánh tâm danh thiện cảnh giới, nhược tác thánh giải tức thọ
quần tà). Phải dụng tâm như thế thì các cảnh ma kia tự nhiên
tiêu diệt. Nếu hành giả vui mừng, cho mình được Thiền hay
chứng Đạo v.v...thì bị ma ám ảnh nhiễu hại; vì các việc ma
là hiện thân của sự tham luyến vui buồn chấp thủ.
CHÁNH VĂN
Phải biết, các pháp
thiền định (tam muội) của ngoại đạo tu tập, đều không rời
phiền não hữu lậu vì tâm còn ngã mạn, chấp ngã tham lam danh
lợi ở thế gian và cầu người cung kính.
Còn tu pháp Chơn như
tam muội (thiền định) này thì không có tướng gì để được, lại
có công năng làm cho các phiền não lần lần mỏng ít; cho đến
khi xuất định hành giả cũng không giãi đãi. Nếu người tu
hành mà không tu pháp Chơn như tam muội này, thì không thể
nhập được dòng giống của Như Lai.
Tu các pháp thiền định
tam muội của thế gian, cũng như thiền định của ngoại đạo,
đều thuộc trong Tam giới, vì còn các phiền não chấp ngã và
say đắm nhiễm trước nơi cảnh thiền. Bởi thế nên người tu
thiền định, nếu không có Thiện tri thức dẫn dắt, thì quyết
định sẽ lạc vào ngoại đạo.
LƯỢC GIẢI
Trong kinh Lăng nghiêm,
khi Phật sắp chỉ dạy phương pháp tu hành thì Phật đã khuyên
bảo dặn dò ông A Nam và đại chúng rằng "Phải phân biệt rành
rõ hai món căn bản: 1. Vọng tâm phiền não là căn bản của
sanh tử luân hồi và 2. Chơn tâm thanh tịnh là căn bản của Bồ
Đề Niết bàn. Nếu các ông nhận lầm là căn bản của sanh tử
luân hồi làm nhơn tu hành, thì không bao giờ thành Phật
được; và cũng như người nhận giặc làm con, chỉ bị nó phá hại
mà thôi". Bởi thế nên, đoạn này Bồ Tát Mã Minh phân tách
rành rõ tà định và chánh định, để cho hành giả khỏi lầm
lạc.
Thiền định của ngoại
đạo và thế giam là do phiền não hữu lậu làm động cơ thúc
đẩy, như vì lợi dưỡng, cầu người cung kính v.v...mà tu. Khi
tu thiền, thấy được một vài thắng cảnh thì họ ngã mạn cống
cao và tham ái nơi cảnh thiền v.v... Bởi thế nên tu chừng
nào, thì họ lại tăng trưởng bản ngã, thêm nhiều phiền não,
đào sâu hố tà, luân hồi mãi trong tam giới.
Còn thiền định của chư
Phật là do chơn như thanh tịnh (chơn như) làm động cơ, nên
không vì lợi dưỡng hay cầu người cung kính, khi thấy thắng
cảnh, chỉ quán là Duy tâm, không móng tâm tham luyến, không
ngã mạn cống cao, không nuôi lớn bản ngã. Bởi thế nên hành
giả tu chừng nào thì phiền não càng tiêu, được vào cảnh giới
của chư Phật.
Tóm lại, người tu thiền
định, nếu không có Thiện hữu tri thức (Minh sư chỉ giáo) để
dẫn dắt, thì dễ lạc vào tà kiến ngoại đạo.
D. MƯỜI ĐIỀU LỢI ÍCH
THIỀN ĐỊNH
CHÁNH VĂN
Người chuyên tâm tinh
tấn tu pháp tam muội này (Chơn như tam muội) thì hiện dời sẽ
được mười điều lợi ích:
1. Được mười phương chư
Phật và Bồ Tát thường hộ niệm.
2. Không bị các ma quỉ
khủng bố.
3. Không bị chín mươi
lăm thứ thiên ma ngoại đạo làm mê hoặc.
4. Xa lìa những việc
huỷ báng Chánh pháp và các tội chướng nặng nề dần dần mỏng
ít.
5. Diệt hết các nghi
ngờ và những sự thấy nghe tội lỗi.
6. Đối với các cảnh
giới của chư Phật, lòng tin tăng trưởng.
7. Xa lìa các điều ăn
năn lo lắng và đối với việc sanh tử, tâm không khiếp sợ.
8. Tâm được nhu hoà, bỏ
tánh kiêu mạn, chẳng bị người làm não hại.
9. Dù chưa chứng Định,
song trong tất cả thời gian, tất cả cảnh giới, hành giả có
thể làm cho các phiền não tổn giảm và không tham vui ở thế
gian.
10. Nếu được Tam muội
thì không bị các âm thinh của trần gian và các ngoại duyên
làm chao động.
LƯỢC GIẢI
Người tu hành là
một vị Tướng soái cùng với các ma quân trường kỳ kháng
chiến, không phải kháng chiến một năm một tháng, mà phải
nhiều đời nhiều kiếp, không phải một ngày một buổi, mà phải
đánh từng giờ từng phút với giặc nội tâm (phiền não). Cố
nhiên hành giả phải trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ
nhất là tự vệ, phải trải qua một a tăng kỳ kiếp (một vô số
kiếp), hành giả thua nhiều thắng ít; giai đoạn thứ hai là
cẩm cự, trải qua một a tăng kỳ kiếp thứ hai, hành giả năm ăn
năm thua; giai đoạn thứ ba là phản công, cũng trải qua một a
tăng kỳ kiếp nữa, hành giả thắng nhiều mà thua ít.
Tuy nhiên, nếu
hành giả thành tâm chuyên nhứt, tinh tấn tu học pháp "chơn
như tam muội" này, thì sẽ được mười điều lợi ích như trên;
mà điều lợi ích thứ nhứt là được chư Phật và Bồ Tát thường
hộ niệm; như vậy, lo chi chẳng được thành đạo chứng quả.
(Trên đã nói tu Chỉ,
tiếp theo đây sẽ nói tu Quán)
E. BẢY PHÁP QUÁN
CHÁNH VĂN
Nếu người tu Chỉ (Định)
mà tâm bị trầm một (chìm lặng) sanh ra giãi đãi, hoặc chẳng
ưa làm việc lành, xa lìa tâm Đại bi, thì phải tu Quán.
1. Quán vô thường:
Quán tất cả các pháp hữu vi trong thế gian, không có lâu
dài, giây phút biến hoại.
2. Quán khổ:
Quán tất cả tâm hạnh là khổ, vì mỗi niệm sanh diệt không
dừng.
3. Quán vô ngã:
Quán các pháp quá khứ như chiêm bao, các pháp hiện tại như
chớp nhoáng, các pháp vị lai như mây tụ tán.
4. Quán bất tịnh:
Quán tất cả thân hình nam, nữ trong trần gian đều bất tịnh,
đủ các thứ ô uế, không có một chút gì sạch sẽ đáng ưa.
5. Quán Đại bị:
Hành giả phải thường nhớ tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến
giờ, đều bởi vô minh huân tập, làm cho tâm sanh diệt, và đã
thọ không biết bao nhiêu thân hình khổ não; hiện tại đây vẫn
bị vô lượng sự khổ sở đang áp bức, cho đến vị lai cũng còn
chịu các điều khổ não, không biết chừng nào cùng tận. Chúng
sanh bị các khổ sở như thế, không thể lìa bỏ được, thế mà
không hay không biết, thật đáng thương xót.
6. Quán Đại nguyện:
Hành giả thường suy nghĩ chúng sanh khổ sở như thế, nên phát
tâm dõng mãnh, tu tất cả công đức lành, lập lời thệ nguyện
rộng lớn: "Nguyện cho tâm tôi không còn phân biệt thân sơ
(đồng thể) để dùng vô lượng phương tiện cứu độ tất cả chúng
sanh khổ não khắp cả mười phương, cùng tận vi lai, đều được
an vui Niết bàn".
7. Quán Tinh tấn:
Do hành giả đã phát nguyện rộng lớn như vậy, nên trong tất
cả thời gian và tất cả mọi nơi, phải siêng năng tu học, tuỳ
theo khả năng của mình mà làm các việc lành, tâm không giãi
đãi.
LƯỢC GIẢI
Hành giả nếu tu "Chỉ"
mà không tu "Quán" thì có thể sanh ra những tai hại là xa
lìa tâm Đại bi, không ưa làm các việc lành. Bởi thế nên muốn
tránh những tai hại ấy, hành giả phải tu "Quán".
Trước nhứt, hành
giả phải quán"Tứ niệm xứ" để thấy rõ thâm tâm và thế giới
đều là vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh". Tiếp đó hành giả
dùng quán Đại bi cứu độ. Rồi tiếp dùng quán Đại nguyện,
nghĩa là khi đã thấy chúng sanh khổ quá, nên hành giả tự
phát lời thệ nguyện rộng lớn và dũng mãnh độ sanh với tâm
bình đẳng, không phân biệt thời gian và không gian. Hành giả
đã lập Đại nguyện rồi thì phải dùng quán Tinh tấn, nghĩa là
phải tận lực của mình làm các điều lợi ích cho chúng sanh
trong mười phương, không khi nào rảnh việc.
G. CHỉ VÀ QUÁN ĐỔNG
THỜI TU
CHÁNH VĂN
Chỉ trừ những lúc ngồi
chuyên tu pháp "Chỉ" còn ngoài ra tất cả thì giờ khác, hành
giả đều phải quan sát những việc gì nên làm, việc gì không
nên làm.
Khi đi, đứng, nằm, ngồi
hành giả phải đồng thời tu cả Chỉ và Quán. Nghĩa là hành giả
tuy trong khi quán tự tánh của các pháp không sanh (Chỉ),
nhưng cũng quán do nhơn duyên hoà hiệp, nên nghiệp lành dữ
và quả báo khổ vui không mất (Quán)_ Tuy trong lúc quán do
nhơn duyên hoà hiệp nghiệp báo không mất (Quán), nhưng hành
giả cũng quán tự tánh của các pháp không sanh (Chỉ).
LƯỢC GIẢI
Bồ Tát Mã Minh dạy hành
giả trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi đều phải tu cả
Chỉ và Quán. Trong khi quán các pháp vô sanh, để trừ tâm
tham lam ái trước v.v...thì hành giả cũng quán nhơn duyên
hoà hiệp, nhơn quả lành dữ không mất, để rộng tu các việc
lành và giáo hoá chúng sanh. Tuy "quán không" mà chẳng bỏ
môn hạnh lành; "quán có" mà tâm tánh vẫn thanh tịnh, không
nhiễm trước, ái luyến một cảnh nào. Đó là lợi ích của Chỉ và
Quán đồng thời tu vậy.
H. LỢI ÍCH TU CHỉ QUÁN
CHÁNH VĂN
Phàm phu tu "Chỉ" thì
trừ được tâm nhiễm trước thế gian; Nhị thừa tu "Chỉ" thì bỏ
được tâm khiếp nhược. Phàm phu tu "Quán", xa lìa được cái
bịnh chẳng ưa tu pháp lành; Nhị thừa tu "Quán", đối trị được
tâm hẹp hòi ích kỹ, chẳng khởi Đại bi. Bởi thế nên phải tu
cả Chỉ và Quán, giúp nhau mới thành, không thể rời nhau
được. Nếu hành giả không tu cả Chỉ và Quán thì sẽ không thể
vào đạo Bồ Đề.
LƯỢC GIẢI
Nhờ tu "Chỉ" nên hành
giả ngăn được sự tham trước và khiếp nhược. Nhờ tu "Quán"
nên hành giả phát khởi tâm Đại bi và làm lợi ích cho chúng
hữu tình. Bởi thế nên pháp Chỉ, Quán, (Định, Huệ) là con
đường lớn của hành giả để về cõi Phật.
I. PHÁP MÔN NIỆM PHẬT
CHÁNH VĂN
Lại nữa, nếu có chúng
sanh mới tu pháp này, tâm còn khiếp sợ, muốn được Chánh tín,
nhưng lo sợ "ở cõi ta bà không thường găp Phật, nghe pháp và
cúng dường, e sợ lòng tin của mìnhkhông thành tựu", muốn
thối chí, thì những chúng sanh ấy biết rằng: Phật còn có
phương tiện thù thắng, bảo đảm tín tâm của hành giả được
thành tựu. Phương tiện ấy là "Nhơn duyên chuyên tâm niệm
Phật, cầu sanh về cõi Phật ở phương khác, để thường được
thấy Phật, nghe pháp", thì chắc chắn xa lìa được ác đạo.
Trong Khế kinh, Phật
dạy: "nếu người chuyên tâm niệm Phật A Di Đà ở thế giới Cực
lạc phương tây, và đem công đức tu hành hồi hướng phát
nguyện cầu sanh về đó, thì quyết định sẽ sanh về thế giới
Cực lạc, được thường thấy Phật và nghe pháp, không bao giờ
thối chuyển".
Nếu hành giả quán chơn
như Pháp thân của Phật A Di Đà và thường siêng năng tu tập,
thì rốt ráo sẽ được sanh vào hàng ngũ chánh định.
LƯỢC GIẢI
Hành giả muốn hái quả
Phật, tất nhiên phải leo lên cây Bồ Đề cao 6 thước, là Bố
thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ.
Quan trọng nhứt là hai thước sau; trong Luận này gọi là Chỉ
và Quán. Đó là điều duy nhứt của các vị Bồ Tát đã và sẽ
chứng quả Phật.
Nhưng, có người lo
ngại: "Chúng phàm phu đến quả Phật, phải tu nhiều kiếp và
trải qua thời gian lâu xa là ba vô số kiếp; hơn nữa, ở cõi
Ta bà này có rất nhiều chướng ngại, và không thường gặp
Phật, sự tu khó thành công". Muốn cho những người ấy hết lo
ngại, bảo đảm sự tu hành chắc chắn được kết quả, nên Bồ Tát
Mã Minh chỉ thêm một phương tiện thù thắng của Phật, là dạy
người "Nhứt tâm niệm Phật, hồi hướng cầu sanh về cõi nước
của Phật A Di Đà, để thường găp Phật và làm bạn với các vị
Bồ Tát, ngày đêm sáu thời thường nghe tiếng pháp; cho đến
gió thổi, cây rung, suối reo, chim hót, cũng đều diễn ra
những pháp: Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ Đề, Bát chánh đạo
v.v..."; như trong kinh Di Đà đã nói.
Hành giả găp hoàn cảnh
thuận tiện, tốt đẹp như thế, thì lo gì chẳng thành đạo chứng
quả. Bởi thế nên pháp "Nhứt tâm niệm Phật" là phương tiện
thù thắng nhứt của đức Đại bi Thế tôn
(Đã hết chương thứ tư
là Tín tâm, Tu hành)
***
CHƯƠNG THỨ NĂM
LỢI ÍCH VÀ KHUYẾN TU
CHÁNH VĂN
Pháp Đại thừa bí mật
của chư Phật, tôi đã nói một cách tổng quát rồi. Nếu có
người nào đối với pháp Đại thừa của Như Lai (thậm thâm cảnh
giới) đã không nghi ngờ hay bài báng, lại còn sanh tâm chánh
tín muốn vào Đại thừa, nên họ thọ trì (văn) suy nghĩ (tư) và
tu tập (tu) theo Luận này, thì người ấy sẽ được đạo vô
thượng Bồ Đề. Nếu người nào nghe đến Pháp Đại thừa này mà
tâm không nghi sợ thì người ấy sẽ được chư Phật thọ ký và
quyết định sẽ nối dòng Phật.
Giả sử có người giáo
hoá chúng sanh cả Đại thiên thế giới (một nghìn triệu thế
giới nhỏ) đều tu thập thiện, công đức của người này tuy
nhiều, nhưng không bằng có người chỉ ở thời gian ngắn như
trong bữa ăn, tu pháp Đại thừa này, thì công đức lại nhiều
hơn người trước không thể so sánh được.
Lại nữa, nếu có người,
hoặc trong một ngày đêm, thọ trì, quán sát và tu hành theo
Luận này, thì người ấy sẽ được công đức vô lượng vô biên,
không thể nói hết. Dầu cho mười phương chư Phật ở trong vô
lượng vô biên, a tăng kỳ kiếp (vô số kiếp) tán thán công đức
của người đó cũng không hết. Tại sao vậy?_ Bởi vì pháp Đại
thừa (Phật tánh) có công đức không cùng tận; Luận này nói về
pháp Đại thừa nên người thọ trì và tu tập, theo luận này,
cũng được công đức vô lượng vô biên như vậy.
Nếu chúng sanh nào đối
với Luận này mà huỷ báng, không tin, thì chúng sanh đó sẽ bị
tội báo lớn, trải qua vô lượng kiếp thọ khổ não. Vì thế nên
chúng sanh phải tin tưởng không nên huỷ báng Luận này, bởi
có hại cho mình và người, đoạn tuyệt giống Tam bảo.
Tất cả chư Phật đều do
pháp Đại thừa này mà được Niết bàn; các vị Bồ Tát cũng nhờ
tu pháp Đại thừa này mà đặng vào trí Phật. Các vị Bồ Tát quá
khứ, hiện tại và vi lai đều tu theo pháp Đại thừa này mà
được thành tựu đức tin thanh tịnh. Bởi thế nên chúng sanh
phải siêng năng tu học.
LƯỢC GIẢI
Chương thứ năm này nói
về sự lợi ích và khuyên người tu hành. Bộ Luận này nói về
pháp Đại thừa, tức là tâm chúng sanh hay Phật tánh, hoặc gọi
chơn như hay Pháp thân v.v...Chư Phật, Bồ Tát quá khứ, hiện
tại và vị lai đều tu theo pháp Đại thừa mà được thành đạo
chứng quả. Bởi thế nên người tu theo pháp Đại thừa chỉ trong
thời gian ngắn, như trong bữa ăn hay một ngày đêm, công đức
người này nhiều hơn người dạy chúng sanh trong Đại thiên thế
giới tu Thập thiện; vì tu Thập thiện chỉ hưởng phước hữu lậu
ở cõi trời; và mười phương chư Phật tán dương công đức của
người tu theo Đại thừa cũng không hết lời, vì công đức này
thuộc về chơn tâm thanh tịnh vô lậu, biến khắp tất cả.
Trái lại nếu chúng sanh
nào huỷ báng không tin Luận này, tức là huỷ báng không tin
pháp Đại thừa hay không tin tánh Phật, tâm chơn như
v.v...của mình thì chúng sanh đó tự đoạn pháp thân huệ mạng
của mình, làm mất giống Phật pháp của mình nên nhiều kiếp
phải chịu sanh tử luân hồi trầm luân trong biển khổ.
Vì thế nên chúng sanh
không nên nghi ngờ huỷ báng, mà phải tin tưởng và tu theo
Luận này.
BÀI KỆ HỔI HƯỚNG
CHÁNH VĂN
Nghĩa lý rộng sâu của
chư Phật
Tôi nay tổng quát nói
đã rồi
Nguyện đem công đức về
Pháp tánh
Tất cả chúng sanh đều
được lợi
LƯỢC GIẢI
Theo lệ thường, các vị
Bồ Tát khi tạo luận, trước nhứt nói bài kệ quy kính Tam bảo,
để cầu Tam bảo gia hộ cho việc làm của mình được khế lý và
hợp cơ; rốt sau nói bài kệ hồi hướng, để hồi hướng cho tất
cả chúng sanh đều nhờ công đức này mà được lợi lạc. Đây là
bài kệ hồi hướng.
Dịch chánh văn xong
ngày 27 tháng Giêng Tân Sữu
Lược giải và
tu chỉnh, xong ngày 28 tháng Chạp năm Tân Sữu (1961)
In xong giữa
mùa Sen nỡ, năm Nhâm Dần (1962)
▲ Trở Lên
|
|
|