|
Mục
Lục Khóa Thứ Tư
Duyên Giác và Bồ
Tát Thừa Phật Giáo
Lời Chỉ Dẫn Tổng Quát
01 Quán Sổ Tức
02 Quán Bất Tịnh
03 Quán Từ Bi
04 Quán Nhân Duyên
05 Quán Giới Phân
Biệt
06 Bố Thí Ba La
Mật
06B Trì Giới Ba La
Mật
07 Tinh Tấn Ba La
Mật
07B Nhẫn Nhục Ba
La Mật
08 Thiền Ðịnh Ba
La Mật
08B Trí Huệ Ba La
Mật
09 Tứ Vô Lượng
Tâm
10 Ngũ Minh
Lời Chỉ
Dẫn Tổng Quát
(Cho Trọn Khóa Thứ Tư)
Khóa này cũng như các
khóa trước, gồm cả thảy 10 bài giảng chia ra như sau:
Năm bài giảng về "Ngũ
đình tâm quán".
Ba bài giảng về
"Lục độ" hay "Sáu phép Ba La Mật".
Hai bài giảng về
"Tứ vô lượng tâm" và "Ngũ minh".
Trong 10 bài ấy, trừ
bài Ngũ minh là bài giảng có tánh cách khái quát về những sự
hiểu biết cần thiết mà một Phật tử chân chính cần phải trao
dồi và thực hành để làm lợi cho Ðạo và nhân quần xã hội; còn
9 bài giảng trước đều nói về các phép tu.
Các phép tu này sẽ được
giảng giải rõ ràng ở các bài sau. Nhưng ngay bây giờ để quí
vị có một ý niệm tổng quát về trọn khóa thứ tư, chúng tôi
xin trình bày sơ lược hai phần chính yếu của nó. Ðó những
bài nói về Ngũ đình tâm quán và Lục độ hay Sáu phép Ba la
mật.
1. Ngũ đình tâm quán
là năm phương pháp quán tưởng để dừng vong tâm. Vọng tâm là
căn bệnh chính làm cho con người phiền não khổ đau. Nó thúc
đẩy người ta chạy theo ngũ dục, nó che lương tri, làm cho
cái tâm vốn là sáng suốt trở nên tối tăm, không biết đâu là
thật, đâu là giả, đâu là chính, đâu là tà, đâu là hay, đâu
là dở.
Muốn sự nhận định được
sáng suốt, muốn cho lòng ta dừng đuổi theo ngũ dục mà phải
phiền não khổ đau, ta phải tìm phương pháp chận đứng vọng
tâm là quán tưởng. Quán là dùng trí huệ quán sát, phân tích
hay suy nghiệm để tìm ra sự thật. Có năm phép quán để chận
đứng vọng tâm, để đối trị năm chứng bệnh chính của tâm hồn
chúng ta, là:
a) Quán Sổ tức: để đối
trị bệnh tán loạn của tâm trí
b) Quán bất
tịnh: để đối trị lòng tham sắc dục.
c) Quán Từ bi:
để đối trị lòng sân hận.
d) Quán Nhân
duyên: để đói trị lòng si mê.
đ) Quán Giới
phân biệt: để đối trị chấp ngã.
Năm phép quán ấy gọi là
"Ngũ đình tâm quán". Mỗi phép quán sẽ được trình bày rõ ràng
cặn kẽ trong một bài giảng, theo thứ tự như đã trình bày ở
trên. Sở dĩ chúng tôi để bài Quán Sổ tức đứng đầu trong năm
phép quán, vì muốn đi sâu vào các phép quán, trước tiên,
phải biết quán là gì, quán như thế nào, và phải có một tâm
trí định tĩnh, không tán loạn. Muốn được thế, trước tiên
phải tập quán Sổ tức. Khi quán Sổ tức đã thuần phục rồi, thì
các thứ quán sau mới dễ có kết quả, nghĩa là mới có thể trừ
diệt dần các tâm bệnh: tham, sân, si, mạn.
2. Lục độ hay
Sáu phép Ba la mật: Sáu phép tu này để đối trị sáu món "tệ"
thông thường, nhưng rất nguy hiểm, vì chúng đã làm cho chúng
sinh nhiều kiếp sanh tử luân hồi, chịu không biết bao nhiêu
điều thống khổ. Ðó là:
a) Tham lam bỏn sen; b)
Sân hận; c) Si mê; d) Biếng nhác, trễ nãi; đ) Hủy phạm giới
luật; e) Tán loạn.
Ðể chúng sanh thoát
khỏi nanh vuốt ác độc của sáu món tệ này, đức Phật dạy sáu
phép đối trị gọi là "Lục độ". Chữ "Ðộ" có nghĩa là cứu độ
hay vượt qua. Lục độ gồm có:
a) Bố thí: để khỏi cái
tệ tham lam bỏn sen
b) Nhẫn nhục: để
khỏi cái tệ nóng nảy, sân hận
c) Trí huệ: để
khỏi cái tội si mê
d) Tinh tấn: để
khỏi cái tệ biếng nhác, giải đãi.
đ) Trì giới: để
khỏi cái tội hủy phạm giới luật.
e) Thiền định:
để khỏi cái tệ tán loạn.
Vì dùng sáu phương pháp
này để trừ sáu món tệ, nên kinh nói: "Dĩ lục độ, độ lục tệ".
Bồ Tát theo sáu phương pháp này tu hành để vừa độ cho mình,
vừa độ cho người, độ cho đến chỗ hoàn toán cứu cánh, nên
cũng gọi là "sáu phép Ba la mật".
Lục độ, hay sáu phép ba
la mật được trình bày trong tập sách này:
Bài thứ sáu, Bố thí và
Trì giới
Bài thứ bảy,
Tinh tấn và Nhẫn nhục
Bài thứ tám,
Thiền định và trí huệ.
Xét một cách tổng quát,
thì dù là Ngũ đình tâm quán hay Lục độ, cái phần chính yếu
của tập "Phật học Phổ thông", khóa thứ tư này, vẫn nhắm đối
tượng là diệt trừ bốn món phiền não căn bản của con người là
tham, sân, si, mạn. trừ được bốn món phiền não ấy, từ phần
thô thiển cho đến phần sâu kín, từ nhành ngọn cho đến cội
gốc, trừ bao giờ cho đến khi không thấy bóng dáng của chúng
trong tâm ta nữa, thì khi ấy, con đường giải thoát tự nhiên
lộ bày ra trước mắt chúng ta.
Với hoài bão thiết tha
ấy, chúng tôi biên soạn tập Phật học Phổ thông này, để trình
bày với quý vị Phật tử và độc giảt quý mến những phép tu mầu
nhiệm để diệt trừ phiền não và tiến lên dường giải thoát.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 1
Quán Sổ
Tức
A. Mở Ðề
Bất luận trong công
việc gì, sự định tĩnh của tâm trí là một yếu tố chính yếu để
thành công. Nhất là công việc tu hành sự định tĩnh tâm thần
lại càng quan trọng hơn nữa. Người tu hành mà tâm trí luôn
luôn tán loạn học trước quên sau, học sau quên trước, tư
tưởng thiếu tập trung, thì dù có khổ công tu tập, cũng khó
được kết quả khả quan, vì thế trong phần nhiều các tôn giáo,
người ta thường có những phút "lắng lòng", tập trung tư
tưởng vào bên trong để khám phá nội tâm và soi sáng lẽ đạo.
Riêng về Ðạo Phật thì có những phép quán và thiện định. Về
thiền đinh., chúng ta sẽ tìm hiểu trong các bài nói về Lục
độ ở phần sau tập sách này. Trong bài này và bốn bài nối
tiếp sau đây chúng tôi sẽ đề cập đến phép quán.
Phép quán đầu tiên mà
chúng tôi muốn nói đến là Sổ tức quán. Sở dĩ chúng tôi để
bài quán Sổ tức này đứng đầu trong năm phép quán, trước
tiên, phải biết quán là gì, quán như thế nào, và phải có một
tâm trí định tỉnh không tán loạn. Muốn được thế, trước tiên
phải tập quán Sổ tức. Khi quán Sổ tức đã thuần phục rồi, thì
các thứ quán sau mới dễ có kết quả, nghĩa là mới có thể trừ
diệt dần các tâm bệnh: tham, sân, si mạn.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Quán Sổ tức là đếm hơi
thở. Quán là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích hay
suy nghiệm đến một vấn đề. Sổ tức quán là tập trung tâm trí
để hơi thở ra vào của mình, mà mục đích là để đình chỉ tâm
tán loạn.
II. Vì Sao Phải Ðình
Chỉ tâm Tán Loạn
Tâm trí chúng ta bị
muôn việc ở đời chi phối, khi vui khi buồn, khi lo việc này,
khi suy nghĩ chuyện khác, khi mừng khi giận, khi thương khi
ghét, không bao giờ được định tĩnh. Dù cho ta có ngồi yên
một chỗ, khoanh tay lại, tâm trí chúng ta cũng không dừng
nghỉ, mà vẫn sống với đời sống lăng xăng rộn ràng của nó.
Bao nhiêu hình ảnh phức tạp như một cuốn phim hiện lên trên
màn ảnh của trí óc; và mỗi hình ảnh như thế lại mang theo nó
một cảm tưởng vui buồn thương ghét, cho nên khi ta ngồi yên,
chỉ là để cho thân xác được yên nghỉ, chứ còn tinh thần thì
vẫn hoạt động, có nhiềụ khi lại hoạt động nhiều hơn cả lúc
làm việc. Hầu hết chúng ta đều khổ tâm, bực tức về sự hoạt
động lỗi thời ấy của tâm trí chúng ta: Không muốn nhớ nữa mà
vẫn cứ nhớ, không muốn thương nữa mà vẫn cứ thương, không
muốn giận nữa mà vẫn cứ giận. Làm chủ thể xác đã là khó, mà
làm chủ tinh thần lại càng khó hơn. Nhất là trong thế giới
máy móc, phức tạp ngày nay, một thế giới đầy màu sắc rộn
ràng, âm thanh chát chúa, hình ảnh kỳ dị một thế giới cuồng
loạn trong ấy, trí óc không mạnh mẽ vững vàng thì rất dễ bị
rối loạn. Vì thế, theo các bản thống kê của các nhà bác học,
số người mắc bệnh điên mỗi ngày mỗi nhiều trong thế giới
ngày nay.
Riêng trong phạm vi nhỏ
hẹp, chúng ta cũng nhận thấy có nhiều người học hành chẳng
nhớ, gặp việc hay quên, niệm Phật không thành công, tham
thiền quán tưởng chẳng kết quả, đều do sự tán loạn của tâm
trí mà ra.
Vậy, muốn học hành mau
nhớ, gặp việc không quên, niệm Phật được nhất tâm bất loạn,
tham thiền quán tưởng được thành tựu, điều cốt yếu là phải
làm sao cho tâm trí được yên định.
Vì sao tâm trí được yên
định, thì dễ đạt được những kết quả như trên? Ta hãy lấy một
thí dụ thông thường mà nhiều người đã kinh nghiệm: Khi ta
học một bài thuộc lòng hay làm một bài toán vào lúc hoàng
hôn hay giữa cảnh náo nhiệt, thì ta thấy vất vả khó khăn vô
cùng, vì suốt ngày tâm ta đã mệt mỏi tính toán lăng xăng,
phân tán theo trần cảnh. Trái lại, cũng một bài học đó, hay
bài toán đó, mà trong buổi khuya thanh vắng, một mình một
bóng với ngọn đèn, thì ta lại học bài rất mau thuộc, làm bài
rất mau xong, tâm tánh ta hình như thông minh sáng suốt phi
thường. Vì sao vậy? Vì buổi khuya mới thức dậy, tâm trí ta
yên tịnh, chưa bị trần cảnh chi phối.
Ta có thể làm một thí
dụ thứ hai nữa để vấn đề càng thêm sáng tỏ: Một cây đèn dầu,
mặc dù rất lớn ngọn, nhưng khi thắp lên bị gió tứ phía đàn
áp phải lung lay, leo lét khi mờ khi tỏ, có nhiều khi gần
muốn tắt. Một ngọn đèn như thế chỉ làm hao dầu rất nhiều,
chứ không thể soi sáng được gì hết. Nhưng khi chúng ta lấy
ống khói chụp lại, gió không đánh bạt được nữa, ngọn đèn
đứng thẳng và tỏa ánh sáng khắp gần xa, chiếu phá được một
vùng bóng tối trong đêm trường.
Cũng như ngọn đèn bị
gió bạt kia, tâm hành giả bị bát phong xuy động, thất tình
lục dục chi phối, lục trần bủa vây làm cho tán loạn, không
soi sáng được gì cả. Vậy hành giả, muốn cho tâm được minh
mẫn thì phải đừng cho nó tán loạn, nghĩa là phải định tâm,
định càng thâm thì tâm càng tỏ, như ngọn đèn càng đứng lặng,
thì ánh sáng càng tỏa. Phật dạy: "Tâm có định mới phát sinh
trí huệ, có trí huệ mới phá trừ được vô minh để minh tâm
kiến tánh". Sở dĩ, các vị Thánh hiền được biết nhiều quá khứ
vị lai và có nhiều điều thần diệu, đều do tâm đã định mà
phát minh trí huệ sáng suốt, nên mới được như thế. Nên kinh
chép: "Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biến", nghĩa là ngăn vọng
tâm lại được một chỗ, thì không việc gì chẳng thành tựu.
Hành giả muốn cho tâm mình hết tán loạn, được yên định, thì
phải tu phép quán Sổ tức, một phép quán rất dễ thật hành và
rất kiến hiệu, ai cũng có thể làm được.
III. Những Ðiều Cần
Biết Trước Khi Quán Sổ Tức
Trước khi quán Sổ tức
cần phải theo đúng những điều sau đây:
1. Thức ăn: Phải
ăn những thức ăn hợp với cơ thể của mình. Nếu ăn đồ nóng nẩy
quá, thì than thể sẽ bị bức rức, tâm sanh loạn động. Trái
lại, nếu ăn những vật sanh lãnh, không tiêu hóa được , thì
thân thể sẽ nặng nề, lừ đừ dễ sanh buồn ngủ.
2. Ðồ mặc: Phải
ăn mặc cho hợp thời tiết. Khi trời nực, mặc đồ mỏng, khi
trời lạnh, mặc đồ ấm. Nếu trái lại thân thể mất sự điều hòa,
quán lâu có hiệu quả.
3. Chỗ ở: Phải ở
chỗ thanh vắng, thì sự tu quán mới mau được thành công. Nếu
ở chỗ ồn ào, đối với người mới tu, không khỏi bị loạn động.
4. Thời giờ tu:
Nên lựa những giờ thanh vắng, như 10 giờ đêm, hay 4 giờ
khuya. Nếu ở thành thị thì lựa giờ nào gia đình ngủ hết,
chung quanh bớt tiếng động.
5. Tắm rửa: Thân
thể phải thường tắm rửa sạch sẽ, để khỏi ngứa ngáy bức rức
trong người.
6. Cách thức ngồi:
Phải ngồi kiết gìa (hai chân tréo xếp lại gọn, thúc vào bắp
vế cho sát), hoặc ngồi bán già (chân mặt tréo lên chân trái
hay chân trái tréo lên chân mặt, thúc sát vào vế cho gọn
gàng). Cách ngồi nầy đầu tiên chưa quen, không sao khỏi bị
tê chân (chỉ tê chân khi đang ngồi thôi); qua thời gian hết
tê rồi thì đau mỏi cả hai chân. Khi hết đau mỏi, về sau ngồi
bao lâu cũng được.
7. Lưng: Lưng
phải ngồi thẳng như vách tường, để cho các khớp xương sống
ăn chịu đều nhau, như thế ngồi mới lâu được. Hành giả nên
xem tấm vách tường kia, như nó đứng thẳng, các viên gạch ăn
chịu đồng đều, nên mới đứng lâu được , nếu hơi nghiêng, cố
nhiên nó phải ngã.
8. Hai tay: Hai
cánh tay vòng xuôi xuống, hai Bàn tay để trên hai chân, tay
mặc gác lên tay trái, cách thức như Phật ngồi (xem hình đức
Trung Tôn ngồi trong mỗi chùa).
9. Cổ và đầu: Cổ
phải thẳng, đầu hơi ngã tới, hai mắt chỉ mở một phần tư (nếu
mở mắt lớn thì tâm dễ bị loạn động, còn nhắm lại thì sanh
hôn trầm).
IV. Phương Pháp Sổ
Tức
Khi đã ngồi yên ổn đúng
với như cách thức đã nói trên, hành giả bắt đầu đếm hơi thở.
Trước khi đếm, phải thở ra hít vào chín mười hơi thật dài,
để cho hơi thở điều hòa và những trược khí, uất kiết, nặng
nề trong người đều tuông ra cả, và thay thế vào bằng những
thanh khí mát mẻ, trong sạch của thiên nhiên.
Khi thở ra, hành giả
phải tưởng: "những điều phiền não: tham, sân, si, các chất
bẩn trược trong người đều bị hơi thở tống ra sạch hết, không
còn một mảy may nào". Khi hít vào, hành giả nên tưởng:
"Những chất nhẹ nhàng trong sạch sáng suốt của vũ trụ đều
theo hời thở thấm vào bủa khắp thân tâm".
Khi đủ mười hơi rồi,
hành giả bắt đầu thở đều đều , không dài không ngắn, không
mau không chậm, phải thở nhẹ nhàng như hơi rùa thở. Nếu thở
mau và dài thì tâm sanh loạn động, còn thở chậm và ngắn, thì
tâm sanh hôn trầm, hoặc bị uất kiết, có khi lại sanh ra giải
đãi, rồi tâm dong ruổi duyên theo ngoại cảnh. Nên phải thở
cho nhẹ nhàng và đều đặn, không mau không chậm, thì trong
người mới được thư thới khỏe khoắn.
Từ đây mới bắt đầu đếm
hơi thở. Phương pháp đếm hơi thở có bốn cách như sau:
1. Ðếm hơi lẻ.
Nghiã là thở hơi ra đếm một, thở hơi vô đếm hai, thở hơi ra
đếm ba, thở hơi vô đếm bốn, đếm cho đến mười, không thêm
không bớt, rồi bắt đầu đếm từ một cho đến mười lại. Cứ đếm
đi đếm lại từ một đến mười, trong khoảng nửa giờ, một giờ
hay hai giờ tùy ý.
2. Ðếm hơi chẵn.
Nghĩa là thở vào rồi thở ra đếm một, thở vào rồi thở ra lần
nữa đếm hai, cứ tuần tự như thế cho đến mười lại, mãi cho
đến khi đi ngủ.
Phương pháp đếm hơi
chẳn này rất thông dụng,, xưa nay người ta vẫn thường dùng,
và đếm hơi thở ra dễ hơn, khỏi bịnh tồn khí (chứa hơi lại
trong phổi).
3. Ðếm thuận.
Nghĩa là đếm theo hai cách trên, cách nào cũng được , những
tuần tự từ một đến mười.
4. Ðếm nghịch.
Nghĩa là cũng dùng hai cách đếm trên, nhưng đếm ngược từ
mười đến một.
Bốn phương pháp này,
tùy ý hành giả muốn dùng một phương pháp hay cả bốn phương
pháp thay đổi cho nhau cũng được. Miễn sao thuận tiện cho
mình và khỏi lộn, là thành công; nghĩa là đối trị được tâm
tán loạn.
V. Những Ðiều Lầm
Lộn Thưiờng Xảy Ra Trong Khi Ðếm Hơi Thở
Những điều lầm lộn mà
hành giả thường mắc phải trong khi mới bắt đầu tu phép Sổ
tức là:
1. Tăng. Nghiã
là thở ít mà đếm nhiều, đếm nhảy vọt, như ba liền đếm đến
năm, hoặc mới năm liền nhảy lên đếm tám v.v..
2. Giảm. Nghiã
là thở nhiều mà đếm ít, đếm thụt lùi, như đến bốn rồi lại
đếm ba, hay bảy rồi lại đếm sáu v.v..
3. Vô ký. Nghĩa
là không nhớ rõ mình đã đếm đến số mấy rồi.
Mỗi khi lầm lộn như
thế, phải bắt đầu đếm lại. Phải tập cho đến khi nào không
còn mắc phải những lầm lộn nói trên, thì tâm trí mới được
yên tịnh.
C. Kết Luận:
Quán Sổ tức là một
phương pháp đối trị tâm tán loạn rất hiệu nghiệm và rất
thông dụng trong các môn phái của Phật giáo, từ Tiểu Thừa
cho đến Ðại Thừa, từ các nước Á Châu đến Tây phương. Nhất là
trong các giới Phật tử Nhật bản và Âu châu, pháp quán này
rất được thịnh hành. Người tu hành áp dụng pháp quán này thì
tâm hết tán loạn niệm Phật mau được "nhất tâm bất loạn" tham
thiền quán tưởng mau được thành công.
Không những kẻ tu hành,
người thế gian cũng nên theo pháp quán này, thì thân thể sẽ
được khỏe mạnh, tinh thần sẽ được yên tịnh thư thới, trí tuệ
lại sáng suốt,, học hành mau nhớ, suy tính, phán đoán công
việc làm ăn được mau lẹ và phân minh.
Nhưng trong mọi công
việc gì cũng vậy, muốn thành công, tất phải kiên nhẫn bền
chí. Phương pháp dù hay đẹp bao nhiêu mà thiếu chuyên tâm
trì chí, thì cũng không đưa đến kết quả khả quan nào cả.
Chúng ta hãy xem người lái đò chèo ngược nước kia, nếu chèo
được năm bảy mái chèo lại buông tay ngồi nghỉ, thì không
những chẳng đi tới được bến bờ đã định, mà còn thụt lùi còn
rất xa nữa. Cổ nhân cũng dạy: "Giả sử có một thứ giống gì dễ
trồng, mà một ngày nắng, mười ngày lạnh, thì giống đó cũng
khó sinh". Vậy hành giả đừng nên thấy phép quán này dễ mà
khinh lờn, giãi đãi, tu một ngày nghỉ mười ngày, làm như thế
tất nhiên không bao giờ được thành công.
Ngoài sự chuyên cần,
hành giả còn phải theo đúng lời chỉ dẫn trên này, áp dụng
đúng phương pháp thì mới được kết quả mỹ mãn.
Là Phật tử , phải thực
hành pháp môn Sổ tức này để cho tâm trí hết tán loạn, trí
huệ dễ phát sinh, vô minh chấm dứt và trở lại với bản tâm
thanh tịnh của mình.
Nói một cách thiết thực
hơn nữa, nếu muốn tu các pháp quán trong "Ngũ đình tâm quán
", mà chúng tôi sẽ đề cập đến trong những bài sau, trước
tiên phải tập quán cho thuần thục phép Sổ tức này. Nếu quán
này chưa thành công, nghĩa là tâm đang còn tán loạn, mà đã
vội quán những pháp khác, như "Bất tịnh quán , Từ bi quán"
v.v...thì chẳng khác chi xây lầu trên cát, thế nào cũng sẽ
bị sụp đổ.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 2
Quán
Bất Tịnh
A. Mở Ðề
Trong thế gian này,
không có ai là không tham sống. Sự tham sống này vô cùng
mãnh liệt, vì nó được di truyền, tiếp nối từ muôn vạn thế kỷ
cho đến nay. Vì tham sống nên chúng sinh tìm hết mọi cách để
được sống, để trau dồi thân mạng, và để di truyền sự sống.
Vì tham sống nên người bất chấp cả sự bất công, phi lý và
tàn nhẫn, xấu xa mà mình có thể phạm đến đối với những người
và vật khác ở chung quanh. Vì tham sống, người ta đã không
từ chối hiếp đáp, giành giựt, cướp bóc, chém giết đồng loại,
và có khi cả đến đồng bào thân thích nữa. Tóm lại, sự tham
sống là một nguyên nhân chính của khổ đau, tán phá và chết
chóc.
Vả lại, càng tham sống
bao nhiêu lại càng sợ chết bấy nhiêu. Mà đã sợ thì không bao
giờ có thể vui được.
Hơn nữa, có ai sợ chết
mà thoát được chết đâu? Ðã có sống thì tất phải có cái trái
lại là chết. Chúng ta thấy đó, lòng tham sống đem lại cho ta
biết bao hậu quả tai hại, buồn thảm, xấu xa.
Nhưng cuộc đời, thân
mạng, thật có quý báu, thật có xứng đáng cho chúng ta tham
lam, mến chuộng đến thế không.
Ðể xét đoán đúng đắn
giá trị của thân mạng, đức Phật dạy chúng ta thực hành một
pháp quán. Pháp quán đó mệnh danh là "quán Bất tịnh".
B. Chánh Ðề
"Bất tịnh" nghĩa là
không sạch sẽ, trong lành. Quán Bất tịnh tức là quán sát một
cách tỷ mỉ, cùng tột thân con người để nhận thấy rõ rằng nó
là không trong sạch, như hầu hết con người đời đều lầm
tưởng.
II. Quán Bất Tịnh
Như Thế Nào
Trong bài thứ bảy của
tập Phật học Phổ thông khóa III, chúng ta đã được biết sơ
qua về pháp quán Bất tịnh như thế nào rồi. Nhưng trong bài
đó, chúng ta chỉ mới biết một phần của pháp quán Bất tịnh mà
thôi, nghĩa là hành giả, muốn thấy thân xác là Bất tịnh như
thế nào, thì vào "thi lâm" (rừng bỏ xác người chết) để quán
sát. Nhưng cái quán sát như thế, cũng chỉ mới biết một phần
của cái thân Bất tịnh này mà thôi. Hơn nữa, cái phần ấy cũng
không phải là phần quan trọng, vì nó thuộc về giai đoạn sau
khi chết. Nhất là đối với hạng người có quan niệm: "chết là
hết", thì "quán thây ma" như thế chưa phải là phương thuốc
mầu nhiệm để họ nhàm chán cái thể xác của mình và của người
khác. Muốn cho họ nhàm chán, ghê tởm cái thể xác thì phải
chỉ cho họ thấy tận mắt cái "Bất tịnh" của nó, từ khi nó bắt
đầu thành hình cho đến khi nó bị hủy hoại, từ trong cho đến
ngoài, từ thể cho đến tướng. Ðể sự quán sát được rốt ráo,
hành giả phải ra làm năm phần, tuận tự như sau:
Quán chủng tử bất tịnh
Quán trụ xứ bất
tịnh
Quán tự tướng
bất tịnh
Quán tự thể bất
tịnh
Quán chung cánh
bất tịnh
Dưới đây chúng tôi sẽ
lần lượt giải rõ năm phần quán trên
1. Quán chủng tử bất
tịnh. Chủng tử là một hột giống, là yếu tố hay nguyên
nhân để phát sinh. Sự vật nào cũng có nguyên nhân của nó.
Thân ta vật hữu vi dĩ nhiên cũng phải có chủng tử của nó.
Chủng tử của thân mạng
gồm có hai phần: Phần tinh thần và phần vật chất. Phần tinh
thần này cũng gọi là phần thức. Thức này là nơi dung chứa
tất cả nghiệp nhân lành, dữ của thân, khẩu, ý trong quá khứ;
vì thế nên cũng gọi là tạng thức (tạng hay tàng nghĩa là nơi
chứa nhóm). Khi con người chết cái tạng thức ấy vẫn còn, và
theo nghiệp lực thiện, ác của nó mà dẫn sanh ở các loài,
hoặc trầm luân, hoặc giải thoát. Nó là chủ nhân ông của kiếp
sống, là sanh lực của loài hữu tình
Cái tạng thức hay thần
thức này lẽ dĩ nhiên là không bào giờ trong sạch cả, vì nó
là kết tinh của những nghiệp nhân phiền não: tham, sân, si.
Hễ tham, sân, si..là nhiễm ô, là Bất tịnh.
Ðã Bất tịnh thì tất
phải tìm bạn Bất tịnh mà kết giao (đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu). Thần thức nầy, để thể hiện một đời sống
khác, đã gá vào, hòa mình vào một chất Bất tịnh. Chất ấy tức
là cái điểm hòa hiệp của tinh cha, huyết mẹ. Nói cách khác
rõ ràng hơn, tức là cái thai mới kết tụ vậy. Mà tinh huyết
là gì? Chính là hai chất hôi tanh ở trong con người. Sự Bất
tịnh của nó, tưởng không cần nói, ai ai cũng đã rõ.
Xem thế thì đủ biết cái
chủng tử, cái điểm khởi đầu của một thân mạng con người, từ
tinh thần cho đến vật chất, đều là nhiễm ô Bất tịnh cả,
không có gì đáng để tự hào và quí chuộng.
Trong khi quán , hành
giả phải vận dụng, tập trung ý lực để tưởng tượng một cách
rỏ ràng, như thấy trước tất cả sự Bất tịnh của chủng tử, để
mà nhàm chán thân người, dẹp lòng tham luyến.
2. Quán trụ xứ bất
tịnh. Trụ xứ là chỗ ở. Như chúng ta đã thấy ở đoạn trên,
chủng tử, cái thai hay con người mới cấu thành là một khối
hôi tanh, thì nơi ở của nó cũng không sạch. Kẻ xấu xa, dơ
bẩn thì tìm hoàn cảnh xấu xa, dơ bẩn mà sống, đó là một lẽ
thường, không có gì là khó hiểu. Nói một cách rõ ràng hơn,
chỗ ở của cái thai mà chúng tôi muốn nói đây, tức là cái bào
thai. Cái bào thai, không nói, ai cũng biết là một cái bọc
chứa đầy máu nhớt hôi tanh, dơ bẩn. Cái bào thai nằm lẫn lộn
và lớn dần trong cái bọc bé nhỏ dơ bẩn ấy, như trong một cái
ngục tối. Nhưng trong ngục, dù sao cũng còn có khoảng trống
để xê dịch, còn có cửa thông hơi để ánh sáng và không khí
lọt vào. Chứ trong bào thai thì cái thai phải nằm co rút
lại, đẫm mình trong những chất nước, máu và nhớt vô cùng
tanh hôi, và không có được một chút không khí hay ánh sáng
mặt trời lọt vào. Cái thai phải sống trong hoàn cảnh ấy
không phải chỉ một ngày, một tuần hay một tháng mà phải đến
chín tháng mười ngày mới thoát ra được. Không trách gì, khi
mới ra chào đời, nó đã khóc thét lên...Cụ Ôn Như Hầu Nguyễn
gia Thiều thì bảo nó...
"Khóc vì nỗi thiết tha
sự thế",
"Ai bày trò bãi bể
nương dâu".
Nhưng theo chỗ chúng
tôi nghĩ, nó khóc vì thiết tha cho sự thế vô thường thì chỉ
một phần, mà khóc vì tủi cực, khóc để phản đối sự giam cầm
quá lâu lắc quá tàn nhẫn, quá thiếu vệ sinh, quá mất "nhân
phẩm" thì đến mười !
Vậy quán trụ xứ Bất
tịnh có nghĩa là vận dụng toàn lực ý niệm để nhận chân một
cách rõ ràng như thấy trước mắt cái dơ bẩn, cái bất tịnh của
bào thai là chỗ ở chủng tử, hầu dẹp lòng rạo rực ham muốn
tham đắm sắc thân người.
3. Quán tự tướng bất
tịnh. Sau khi đã thoát bào thai mà ra chào đời bằng
những tiếng khóc, đứa bé bắt đầu sống một đời sống riêng
biệt, có đầy đủ giác quan để tiếp xúc với ngoại cảnh, có đủ
bộ phận cần thiết để điều hòa cuộc sống thể xác của mình.
Những giác quan bên ngoài và bộ phận bên trong ấy, thường
bài tiết những chất dơ bẩn, hôi hám; do đó, ta biết rằng cái
thân này không trong sạch. Vậy quán tự tướng không sạch sẽ,
mà mỗi người đều có thể nhận thấy được , khi nhìn qua cái
hình tướng bên ngoài của xác thân...
Trong mỗi thân xác,
ngoài những lỗ chân lông thường bài tiết những mồ hôi là
những thứ nước gần giống như nước tiểu, còn có chín lỗ nữa,
mỗi ngày cũng tiết ra nhiều chất nhơ nhớp, hôi hám, gớm
ghiếc. Chín lỗ ấy là: đường đại, đường tiểu, miệng, hai lỗ
tai, hai lỗ mũi và hai con mắt. Chín lỗ này chẳng khác gì
chín "cái cống", lớn có, nhỏ có để tải những thứ nhơ nhớp
trong ngoài ra. Nói một cách không quá đáng, thì chín lỗ
cống này còn dơ hơn cả những lỗ cống ta thường thấy ở các đô
thị nữa. Thật thế, một lỗ cống dơ nhất cũng chỉ chứa đựng
những thứ như nước tiểu, phần đờm, mũi, dãi, ghèn, nhưng ít
ra những thứ ấy cũng còn pha trộn và chảy theo với nước lã;
chứ chín lỗ trong người chúng ta, chỉ bài tiết rặt những thứ
nguyên chất nói trên, mà không pha trộn với nước lã như ở
các lỗ cống.
Ðấy là mới nói khi thân
xác đang còn mạnh khỏe, cường tráng; chứ khi đau ốm, già nua
thân xác không tự làm chủ được nữa, thì những lỗ ấy tự động
xuất phát, hay tự do để cho các thứ dơ bẩn trong người chảy
ra, thì lại càng ghê ghớm hơn nữa. Những lúc ấy thì những
"nguyên chất" nói trên lại càng hôi hám, ung độc không khí
một cách gay gắt, khó thở hơn nữa.
Những điều chúng tôi
nói trên đây không phải là quá đáng. Nếu bình tâm mà xét,
chúng ta sẽ thấy thân của mỗi chúng ta thật đáng ghê tởm.
Nhưng ít khi chúng ta thừa nhận như thế, vì từ lâu đời lâu
kiếp, với tánh mê chấp, với tâm tham đắm, nhãn quang của
chúng ta như có một bức màn nhung lụa phủ ngang, nên chúng
ta trông cái gì cũng thấy đẹp. Và cho đến khi bức màn ấy đã
bị xé toang rồi, sự thật xấu xa, dù có bày ra lộ liễu trước
mắt, chúng ta cũng bàng hoàng, không cho là thật. Vì thế cho
nên hành giả muốn thành công và nhàm chán cái thân này, phải
quán tưởng nhiều lần, từ ngày này sang ngày khác, cho đến
khi nào nhận thấy một cách rõ ràng thân này quả thật là bất
tịnh mới thôi.
4. Quán tự thể bất
tịnh. Như chúng ta đã thấy chín lỗ cống trong người, mỗi
ngày bài tiết không biết bao là thứ nhơ nhớp. Vậy chắc chắn
bên trong thân xác, những chất liệu cấu kết nên thể xác
chúng ta, cũng không trong sạch được. Vậy quán tự thể bất
tịnh là quán sát cái thể chất của thân người, để nhận thấy
nó bất tịnh như thế nào.
Thể chất của con người
đại khái gồm có ba chất:
Chất cứng: như xương,
tóc, lông, móng tay v.v...
Chất lỏng: như máu,
nước miếng, nước mắt v.v...
Chất sệt: (không cứng
mà cũng không lỏng) như mỡ, óc, tủy v.v...
Trong các chất ấy, dù
cứng, hay lỏng cũng chẳng có thứ nào là trong sạch.
Về chất cứng, như tóc
chẳng hạn, là một vật mỹ quan để chưng diện trên đầu. Thế
thường ai cũng quý nó. Nhưng nếu không săn sóc nó một cách
chu đáo, không sửa soạn nó một cách công phu, nghĩa là không
trâm cài, lượt giắt, không chải chuốt, gội rửa, xức ướp nước
hoa, mà để bê tha cho nó tự do quét bụi, tự do dầm sương dãi
nắng, tự do rối nùi lại để làm ổ chứng cho trứng chí simh
nở, thì dù cho không xua đuổi, người ta cũng chạy dài, không
dám lại gần. Ðó là chưa nói khi nó bị đốt cháy hay rời da
đầu, rơi vào thức ăn hay vào trong miệng, thì thật là nguy
hiểm vô cùng. Tóc là thứ ở nơi cao quý của người mà còn bất
tịnh như vậy, thì những thứ khác như ruột, gan v.v...lại còn
bất tịnh biết chừng nào?
Về chất lỏng, thì nước
miếng là sạch nhất, vì nó được ở trong miệng là nơi hằng
ngày được lau chùi súc rửa nhiều nhất. Thế mà lúc ra khỏi
miệng, dù là của kẻ khác hay của chính mình, rủi bị dính vào
mặt, vào áo, thì ta liền có những cử chỉ tỏ rõ sự nhờm gớm
ngay.
Về chất sệt, thì não là
phần quan trọng và được ở trong đầu óc là nơi cao quý nhất.
Nhưng thử tưởng tượng, khi chúng ta đi xe hơi chẳng hạn, rủi
bị tai nạn, người ngồi bên cạnh ta bị bể đầu, não trắng như
đậu hủ tung tóe vào mặt mày chúng ta, thì chắc chắn những
người thiếu bình tĩnh sẽ chết giấc vì ghê tởm.
Chỉ đơn cử một vài ví
dụ trên, cũng đủ thấy rõ được cái bất tịnh nhiều nữa, và
chắc chắn một số quý vị độc giả sẽ nhờm gớm mà không đọc
tiếp nữa.
5. Quán chung cánh
bất tịnh. Chung cánh ở đây là muốn nói cái giai đoạn hư
hoại của thân người sau khi trút hơi thở cuối cùng. Vậy quán
chung cánh bất tịnh nghĩa là cái bất tịnh của thân người sau
khi chết.
Ðây là thời kỳ chung
kết của mấy mươi năm sinh trưởng của thân thể. Trong kinh
đức Phật đã bảo: Thân người do tứ đại giả hiệp mà thành, như
thế dĩ nhiên khi chết, xác con người phải trả về cho tứ đại.
Trước hết, là hơi thở về với phong đại. Kế là hơi ấm trở về
với hỏa đại. Tiếp theo là chất lỏng trong người trở về với
thủy đại, và cuối cùng chất cứng và sệt như thịt xương...hóa
dẫn theo địa đại. Nhất là hai thứ sau này, trong thời kỳ mềm
hư, tan rã thì thế gian này không còn thứ gì nhơ nhớp, hôi
hám, ghê tởm hơn nữa. Dù cho xác chết trước kia là người
thân mến nhất đời, nhưng để năm bảy ngày chưa kịp tẩn liệm,
chôn cất thì ta vẫn ghê tởm, không thể đến gần bên cạnh mà
không bịt mũi. Sự thật tàn nhẫn này được phơi bày nhan nhản
khắp nơi trong những giai đoạn chiến tranh. Nói một cách
tổng quát từ kẻ sang đến người hèn, từ kẻ giàu đến người
nghèo, từ kẻ già đến người trẻ, từ kẻ đẹp đến người xấu, ai
ai đến giai đoạn chung cánh này, cũng chỉ có một mùi giống
nhau: mùi hôi; một chất như nhau: chất thúi. Cái bất tịnh
của con người trong giai đoạn kết thúc này đã rõ rành rành,
tưởng không cần giải bày thêm nữa. Vả lại, trong bài thứ bảy
của tập Phật học Phổ thông khóa thứ ba, cũng đã nói một cách
tường tận đến cái bất tịnh của thân người trong giai đoạn
này rồi. Nếu quý độc giả nào không nhớ, xin hãy đọc lại đoạn
ấy.
Tóm lại, qua năm giai
đoạn quán bất tịnh này: chủng tử, trụ xứ, tự thể và chung
cánh, chúng ta đã có một quan niệm rõ ràng, chân xác về cái
bất tịnh của thân người. Cả một thời gian đằng đẵng, từ lúc
đầu thai đến khi bị vùi xuống đất, quả thật thân người không
tìm thấy một tí gì thơm sạch. Dầu có tài hùng biện đến đâu,
cũng không ai có thể ngụy biện cho cái thân bất tịnh trở
thành thanh tịnh được.
III. Mục Ðích Và Lợi
Ích Của Quán Bất Tịnh
Có người hỏi: Tại sao
trong khi cuộc đời đã xấu xa, đau khổ, đức Phật lại còn vạch
thêm cho người ta thấy cái dơ bẩn nhớp nhúa của thân người
làm gì? Tại sao không cho người đời có cái ảo ảnh rằng thân
người là đẹp đẽ, trong sạch để họ có thể được an ủi và quên
lãng một phần nào cái xấu xa của kiếp người, mà lại làm cho
đời thêm chán chường, tuyệt vọng khi nhận rõ cái thân bất
tịnh của mình?
Trước tiên, chúng ta
phải nhận định dứt khoát rằng: Ðạo Phật là "Ðạo như thật",
đạo của chân lý. Ðức Phật không muốn lừa phĩnh chúng sinh,
lấy xấu xa làm tốt, lấy dở làm hay, hoặc trái lại.
Thứ đến, chúng ta đừng
bao giờ quên rằng: chính cái vọng tưởng rằng thân người là
thơm sạch, đẹp đẽ đã gây tai họa lớn cho người đời. Vì lầm
tưởng thân người có giá trị quý báu, nên đối với chính thân
mình thì người ta nâng niu, cưng dưỡng, tìm hiểu mọi cách,
không từ một hành vi xấu xa nào để nuôi dưỡng phụng sự nó;
đối với thân người khác giống thì say mê, đắm đuối, tìm mọi
cách để chinh phục, làm của riêng của mình. Vì sự đánh lầm
giá trị, tham đắm sắc thân giả dối ấy mà cuộc đời chung cũng
như cuộc đời riêng, đã xấu xa lại càng thêm xấu xa, đã đen
tối lại càng thêm đen tối.
Lại nữa, khi đã đánh
lầm giá trị lấy xấu làm đẹp, lấy dở làm hay, lấy thúi làm
thơm, thì tất nhiên cái đẹp cái hay, cái thơm chân thật sẽ
bị bỏ rơi, không còn được biết và dùng đến. Loài người đã vì
tham đắm cai xác thân nhỏ hẹp, xấu xa, ngắn ngủi, mà bỏ mất
cái tâm rộng lớn đẹp đẽ trường tồn.
Vậy đức Phật khi đã xé
tan cái màn ảo ảnh bao bọc xác thân và làm lộ nguyên hình
cái xác thân bất tịnh là nhắm mục đích hướng tầm mắt và sự
hoạt động của kẻ tu hành vào cái giá trị chân thật đẹp đẽ,
rộng lớn và trường tồn hơn.
Nhưng chúng ta cũng
đừng nên kết luận một cách sai lầm rằng: cái thân này đã là
bất tịnh, thối tha, thì hãy diệt ngay nó đi, như năm chục vị
Tỳ kheo đã làm, sau khi nghe Phật thuyết pháp về cái thân
bất tịnh. Làm như vậy là đã xét đoán một cách nông nổi, máy
móc ! Ðừng khinh trong túi đất dơ không có ngọc, chớ cho
trong bể nước mặn không có vàng. Chớ nên tưởng rằng trong
thân bất tịnh này không có Phật tánh ở đâu xa. Ðức Phật
thường dạy: Mỗi chúng sinh đều có Phật tánh. Trong kinh Lăng
nghiêm, Ngài lại phát minh Phật tánh "bất sinh diệt" trong
cái sinh diệt. Phật tánh hay tánh bất sinh diệt là căn bản
tinh thần của ta đó. Nó thì vô hình những không mất, lẫn lộn
trong "bất tịnh" mà thường vẫn thanh tịnh.
Biết lợi dụng cái thân
bất tịnh, vô thường này, mà tìm ra cái "tịnh" cái "thường",
ấy chính là bổn ý của đức Phật khi dạy pháp quán tưởng này.
C. Kết Luận
Chơn tâm con người vẫn
là tâm thanh tịnh; nó nằm sẵn trong xác thân bất tịnh của
mỗi chúng sinh. Nhưng vì con người đời bị phiền não tham,
sân, si lôi cuốn, phỉnh gạt nên say mê quay cuồng đeo đuổi
theo ngũ trần, lục dục, mà không thấy được bản tâm thanh
tịnh.
Muốn chận đứng sự tham
đắm quay cuồng ấy, đức Phật dạy phải quán bất tịnh.
Vậy quán bất tịnh có
mục đích:
Ðối trị lòng tham sắc
dục, chứ không phải để chán đời, tự hủy diệt mình.
Dứt trừ vọng niệm và
giác ngộ Phật tánh, để tiến mạnh trên đường giải thoát cho
mình và cho người.
Nhưng, vàng không tự
nhiên nằm sẵn trong tủ, ngọc chẳng phải nằm khơi trên đất.
Phật tánh cũng vậy: Nó không tự hiến cho ta khi ta an nhiên
ngồi đợi. Vậy kẻ tu hành muốn thành tựu phép quán này để
giác ngộ Phật tánh, cần phải gia công tu luyện, và nhất là
phải trau giồi ba đức tánh sau đây:
Sáng suốt (trí huệ):
Ðừng để cho dục vọng làm mờ mắt, lấy giả làn chơn, lấy
xấu là đẹp. Ðừng hời hợt nhìn bên ngoài, mà phải sâu sắc
nhìn hẳn vào bên trong.
Thành thật: Thấy
thơm thì nói thơm, thấy thối thì nói thối, đừng tự ái, đừng
thiên vị, chỉ một mực tôn thờ sự thật, dù sự ấy làm cho ta
đau lòng, buồn tủi.
Kiên nhẫn: Phải
bền tâm, trì chí, đừng thấy khó mà ngả lòng; đừng thấy đường
dài mà lùi bước. Ở đời không có công việc gì tốt đẹp mà
chẳng gặp khó khăn. Một nửa sự thành công là do ở kiên nhẫn.
Nếu chúng ta có đủ ba đức tánh nói trên, nhất định ta sẽ
thành tựu tốt đẹp, trong pháp quán bất tịnh này.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 3
Quán Từ Bi
A. Mở Ðề
Trong các nguyên nhân
gây ra đau khổ cho mình và cho người, tánh nóng giận là một
nguyên nhân lớn, chẳng kém gì lòng tham lam và tánh ngu si.
Từ vô thỉ đến nay sự xây dựng của loài Người lớn lao vô kể;
những sự phá hoại vì lòng giận dữ của họ, cũng lớn lao vô
cùng. Loài người xây rồi phá, phá rồi xây không ngừng, chẳng
khác gì những đứa trẻ xây nhà trên cát, xây xong rồi đạp đi,
để rồi xây lại. Và nguyên nhân của sự phá hoại ấy là lòng
nóng giận. Có những sự nóng giận nho nhỏ trong nhà giữa vợ
chồng làm đổ vỡ chén bát; có những sự nóng giận giữa anh em
làm u đầu sưng trán; có những sự nòng giận giữa bạn bè làm
đoạn tuyệt đường đi lối về; có những sự nóng giận giữa tình
địch, hay đồng nghiệp kinh doanh cần phải thanh toán bằng
lưỡi dao, mũi súng hay lọ át xít; có những sự nóng giận lớn
lao hơn, giữa nước này với nước khác, màu da này với màu da
nọ, chủ nghĩa này với chủ nghĩa kia, mà kết liễu là những
thấy ma nằm ngổn ngang trên bãi chiến trường, những kẻ tật
nguyền trong các bệnh viện, và những chiếc khăn tang trên
đầu các cô nhi quả phụ...
Tất cả những tai họa
trên đều do sân hận mà ra. Sân hận nằm sẵn trong lòng mỗi
người, như những ngọn lửa âm ỉ cháy, như những ngòi thuốc
súng sẵn sàng bùng nổ bất luận lúc nào. Lửa gặp lửa, thuốc
súng gặp thuốc súng, không nói, hẳng ai cũng biết tai hại do
chúng gây ra lớn lao như thế nào !
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Thông thường, người ta
có quan niệm sai lầm rằng: Từ bi là bi lụy, mềm yếu, than
khóc, tiêu cực...Người ta tưởng rằng hễ đã từ bi , thì ai
muốn làm thế nào mình cũng chịu, sống trong hoàn cảnh thế
nào mình cũng theo, thiếu tinh thần tiến thủ...Tóm lại, từ
bi theo nghĩa thông thường là than khóc và nhu nhược.
Những thật ra, từ bi
theo Ðạo Phật có nghĩa khác xa. Phật dạy: "Từ năng dữ nhứt
thiết chúng sinh chi lạc; Bi năng bạt nhứt thiết chúng sinh
chi khổ". Nghĩa là Từ cho vui tất cả chúng sinh; Bi là diệt
trừ cái khổ cho tất cả mọi loài. Diệt khổ và cho vui đó là
tất cả nguyện vọng và hành động lợi tha, cứu đời của người
có lòng từ bi. Thế nên, từ bi không phải là thụ động, là
trốn đời hay nhu nhược. Cái khổ và cái vui nói ở đây không
chỉ là khổ và vui vật chất mà còn cả khổ và vui tinh thần.
Hết khổ và được vui tức
là khía cạnh của cuộc đời, nhưng không thể rời bỏ nhau được.
Khi được vui một phần nào, tức là đã bớt khổ một phần nào,
ấy là trong Từ có Bi; và trái lại, khi bớt khổ một phần nào,
tức là đã được vui một phần ấy như thế là trong Bi có Từ.
Cũng như một đứa bé đang khổ sở vì đi lạc đường, bỗng có ai
chỉ đường cho nó, nó liền vui mừng và hết khổ.
Vậy từ bi là một lòng
thương rông lớn vô biên, nó xui khiến người ta vận dụng tất
cả khả năng, tâm tư, phương tiện để làm cho mọi người, mọi
vật thoát khổ được vui.
II. So Sánh Từ bi
Với Bác Ái
Bác ái là tình thương
yêu rộng lớn. Như thế thì bác ái và từ bi đều có một tánh
chất giống nhau ở chỗ rộng hẹp, sâu cạn mà thôi. Có người
cho rằng bác ái rộng hơn từ bi.Cho như thế là vì chưa hiểu
rõ hai chữ Từ bi. Như trên đã định nghĩa: Từ là cho vui tất
cả chúng sinh; Bi là diệt trừ mọi nỗi khổ cho tất cả mọi
loài. Chúng ta đã biết Phật dùng hai chữ chúng sinh là để
chỉ cho tất cả mọi sinh vật. Vậy Từ là cho vui tất cả mọi
sinh vật, chứ không phải riêng cho loài người. Tất cả mọi
vật có sự sống đều được chung hưởng tình thương ấy. Còn Bi
là diệt trừ mọi nỗi khổ cho chúng sinh. Chúng ta nên để ý là
trong câu định nghĩa chữ Hán, các kinh dùng chữ "bạt" nghĩa
là nhổ tận gốc rễ. Vâng, nhổ tận gốc rễ của cái khổ chứ
không phải chỉ thoa dịu cái quả khổ trong hiện tại, mà để
mặc cho cái nhân gây ra khổ mãi về sau. Người có lòng Bi là
vừa thoa dịu vết thương đau khổ trong hiện tại và vừa chữa
cho khỏi nguyên nhân hay gây ra đau khổ, như người làm vườn,
không phải chỉ phác cho sạch cỏ trên mặt đất, mà còn đào sâu
xuống dưới, nhổ cho hết gốc rễ của cỏ nữa.
Như thế thì Từ bi, về
phương diện không gian, bao gồm tất cả mọi loài, còn về
phương diện thời gian, bao gồm tất cả quá khứ, hiện tại và
tương lai. Còn bác ái thì chỉ chú trọng nhiều về loài người
mà ít để ý đến sinh vật; và chỉ lo cứu khổ, cho vui trong
hiện tại mà ít nghĩ đến cái quả trong tương lai.
Nói một cách khác, Từ
bi là gồm hết nghĩa bác ái ở trong ,còn bác ái thì chẳng
trùm được lý Từ bi.
III. Từ Bi Cứu khổ
Và Cho Vui Như Thế Nào
Trong khi so sánh Từ bi
với Bác ái, chúng tôi đã nói, về phương diện không gian, Từ
bi bao gồm tất cả mọi loài. Thật thế, tình thường của Ðạo
Phật vô cùng rộng lớn. Phật dạy không được sát sinh người mà
cả muôn loài vật nữa. Người Phật tử chân chính, triệt để
tuân theo lời Phật dạy, không những không giết hại sinh vật
để ăn, mà cũng không giết hại sinh vật trong các cuộc săn
bắn hay câu cá để mua vui. Ngày xưa, các vị Tỳ kheo trước
khi uống nước ao hồ, phải dùng một cái lọc để lọc nước, như
thế vừa hợp vệ sinh, vừa tránh khỏi sát sinh những sanh vật
nhỏ ở trong nước. Mỗi khi vào cầu, những người tu hành phải
gõ xuống đất ba tiếng, để cho những sinh vật dưới cầu biết
mà tránh trước. Những cử chỉ ấy mặc dù nhỏ nhặt, những đã
thể hiện được một cách chân thành lòng từ bi của người Phật
tử chân chính. Chính nhờ lòng từ bi ấy mà cuộc đời bớt tàn
khốc, chiến trường được thu hẹp, người và vật không còn sát
hại nhau, mà trái lại còn xem nhau như anh em.
Nhưng nếu chỉ cho vui
và diệt khổ trong hiện tiền mà không nghĩ đến cho vui và
diệt khổ trong tương lai thì cũng chưa gọi là Từ bi. Bởi
thế, cần phải gây nhân vui và diệt nhân khổ. Nhân vui và
nhân khổ ở đâu mà có? Trong kinh thường dạy: Khổ do nghiệp,
nghiệp do hoặc. Hoặc tức là phiền não. Phiền não đều ở trong
tâm mỗi chúng ta. Tâm là nguồn gốc của mọi hành động, của
mọi kết quả. Vậy thì quả khổ hay vui chỉ do tâm cả. Tâm
chúng sinh đầy dẫy phiền não tật xấu, dung chứa vô số hạt
giống cay chua, đắng độc. Dĩ nhiên, những mầm mống ấy sẽ trổ
ra những quả khổ gian lao. Bởi thế, Ðạo Phật rất chú trọng
vấn đề tu tâm, dưỡng tánh cho chính mình và người.
Muốn cứu khổ cho thật
tình, chẳng những lo cứu khổ quả, mà còn phải trừ nhơn khổ
cho sớm. Thế mới đúng như định nghĩa đã nói ở trên về chữ BI
(Bạt nhứt thiết chúng sinh chi khổ). Chẳng hạn, muốn một
người nào khỏi bị cái khổ tù đày, lao lý, bắt bớ, hành hạ,
ta phải dạy họ đừng tham lam, trộm cướp và cần thiết phải
biết bố thí, quý trọng của cải của người. Muốn cho người nào
khỏi khổ vì sự chia rẻ, sát hại, thù hằn, ta phải dạy cho họ
đừng sân mà cần phải biết nhu hòa, nhẫn nhục. Muốn cho người
nào khỏi khổ vì sự ngu si cám dỗ, bóc lột, khinh hèn, ta
phải dạy cho họ được sáng suốt, giác ngộ cảnh đời. Khi họ
hiểu rồi, tất nhiên không bảo họ tránh khỏi, họ vẫn tránh.
Muốn cho sự nghiệp lợi
tha này được hoàn toàn, người tu hạnh Từ bi,còn có bổn phận
phải chỉ bảo cho người chung quanh những phương pháp tu hành
cho có hiệu quả, như niệm Phật, tham thiền chẳng hạn, để cho
tâm địa của họ được tăng trưởng công đức lành.
IV. Phương Pháp Quán
Từ Bi
Trong các đoạn trên,
chúng ta đã phân tách ý nghĩa và tác dụng của từ bi.Chúng ta
đã thấy được giá trị tốt đẹp và lớn lao của từ bi. Ðến đây
chúng ta hãy đề cập đến vấn đề: "làm thế nào để huân tập
được lòng từ bi".
Một trong những phương
pháp hiệu nghiệm để huân tập được lòng từ bi là "quán từ
bi". Quán Từ bi có ba từng bậc thấp cao, tùy theo căn cơ của
ba hạng tu hành:
1. Chúng sinh duyên
từ. Pháp quán này thường dành cho hạng tu Tiểu Thừa thực
hành.
Chúng sinh duyên từ,
nghĩa là lòng từ bi do quán sát cảnh khổ của chúng sinh mà
phát khởi.
Chúng sinh tức là muốn
nói đến những hạn còn đang say mê, chìm đắm trong bể khổ
sanh tử, còn đang trói mình trong vòng phiền não nhiễm ô.
Chẳng hạn như loài địa ngục bị hành phạt đủ điều, ngạ quỷ bị
đói rách bứt bách, súc sanh bị cảnh dao thớt hành hình, A tu
la đấu tranh, chém giết. Ðến như chúng sinh ở cõi trời tuy
vui thú, nhưng vẫn còn bị ngũ suy tướng hiện, luân hồi, đọa
lạc như thường. Mà vẫn hơn hết là loài người, cũng chịu
không biết bao nhiêu là cảnh khổ, từ vật chất đến tinh thần,
từ cá nhân đến đoàn thể. Nhất là đối luật vô thường: sanh,
già, bịnh, chết, chưa ai thoát khỏi được. Ðã không thoát
được mà lại còn vô tình đi gây chuốc thêm lấy khổ, lắm khi
cứ quên mất cái tuổi già, mối ngày mỗi chồng chất, thật đáng
thương hại !
Vậy, đứng trước những
cảnh khổ của chúng sinh, người Phật tử phải làm như thế nào?
Phải phát lòng từ bi !Nhưng làm sao cho lòng từ bi ấy được
phát?
Ðức Phật có dạy chúng
ta phải quán sát tất cả chúng sinh trong lục đạo, mười
phương đều như bà con thân thuộc.
Ðây là phương pháp đầu
tiên để hòa hợp với mọi chúng sinh. Dùng cảm tình mà tập
quán Từ bi. Trước kia, chúng ta có thói quen là cái gì ngoài
"ta" thì ít khi quan tâm đến. Giờ đây, quán từ bi tức là
chúng ta đã phá bỏ cái vỏ ích kỷ hẹp hòi ấy mà giác ngộ và
nhận định rằng:
Thế giới của loài người
chúng ta đang ở đây, tỷ như một cái nhà lớn, nơi sum họp và
đoàn kết của đại gìa đình. Vẫn biết rằng nhân loại khác nhau
về màu da, chủng tộc; những cái khác đó chẳng qua là khác về
bề ngoài, chứ đã là người thì ai ai cũng có một thân hình
xương thịt như nhau cũng đồng sợ khổ ưa vui, biết xấu biết
tốt v.v...Vì thế đối với người lớn tuổi, ta phải kính trọng
như ông bà cha mẹ; người ngang hàng hay tuổi xấp xỉ, xem như
anh chị em ruột thịt; người nhỏ tuổi hơn nữa xem như con cái
cháu chắt...
Rộng ra một tầng nữa,
đối với chúng sinh trong năm loại, chúng ta hãy xem như
những thành phần của đại gia đình là chú, bác, cô, dì...Vẫn
biết rằng về hình thức, loài người khác với loài khác, và
nhiều khi ta không gặp mặt nữa, nhưng xét cho cùng, đã là
chúng sinh, thì tất nhiên đồng chung một nguồn sống, và đã
có sống thì tất nhiên đều ham sống sợ chết, đều biết cảm nỗi
vui sướng và khổ đau. Gần với chúng ta nhất mà chúng ta có
thể thấy, gặp và nhờ cậy được là loài súc sinh. Tuy chúng
không biết nói như chúng ta, nhưng nếu chúng ta đối đãi tử
tế, chúng cũng biết thương mến và trung thành với ta. Tuy
không có học thức, chúng vẫn biết nghe lời ta và giúp đỡ ta
trong nhièu công việc nặng nề. Chẳng qua vì nghiệp nặng, nên
đời này chúng làm súc vật, nhưng biết đâu đời trước, chúng
không phải là anh em của ta? Và sau này, biết đâu chúng lại
không sẽ là bà con quyến thuộc của ta?
Phương pháp tu tập của
Tiểu Thừa này tuy chưa phá được ngã chấp, những cũng đã mở
rộng được phạm vi hẹp hòi của cái ngã nhỏ và thể nhập vào
cái ngã to hơn là đại gia đình; rồi từ cái ngã to tình cảm
ấy, sẽ chuyển dần sang giai đoạn lý trí cao siêu hơn, bằng
phép quán "Pháp duyên từ" sau đây.
2. Pháp duyên từ.
Pháp duyên từ là lòng từ bi do duyên "Pháp tánh" mà phát
khởi. Ðây là pháp quán dành cho các bậc Trung thừa.
Hành giả trong khi tu
pháp môn này, quán sát thấy tất cả chúng sinh, cùng mình đều
đồng một "pháp giới tánh", nên chúng sinh đau khổ là mình
đau khổ; vì vậy hành giả khởi lòng từ bi cứu khổ ban vui cho
tất cả chúng sinh. Ðến địa vị này, các Ngài không còn phân
biệt là nam hay nữ, không còn quan niệm mình khác với người,
không nghĩ rằng đó là bà con quyến thuộc, chỉ thấy mình cùng
người đồng một "pháp giới tánh" mà thôi. Bồ Tát đã nhận
chúng sinh và mình đồng một bản thể, nên khi cứu khổ, không
cần biết đó là ai, và khi làm, không chấp mình đã làm. Chúng
sinh có khổ thì Bồ Tát có Bi. Sự thông cảm tự nhiên ấy như
tình thiêng liêng giữa mẹ và con, hễ có cảm là có ứng, như
tánh sốt sắng của vị y sĩ có lương tâm nhà nghề, hễ thấy
bịnh thì liền trị. Với ý nghĩa này, trong kinh Trung A Hàm
có tỷ dụ: Trước một nạn nhân bị trúng tên độc, lấy ra lập
tức. Ông không cần phải hỏi người ấy tên gì, ở đâu, con ai,
cũng không cần coi cây tên ấy làm bằng gì, ai bắn v.v...
Sự cứu khổ cho chúng
sinh, đối với các vị Bồ Tát đã chứng được "pháp duyên từ"
này cũng như thế, chỉ nhằm mục đích làm sao cho kẻ khác hết
khổ được vui mà thôi.
3. Vô duyên từ.
Trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ nên học qua hai hạng từ
bi trên mà thôi, là: Lòng từ bi do duyên mình với chúng sinh
khổ sở mà phát ra, hay do duyên mình và chúng sinh đống một
thể tánh mà phát khởi. Còn loại từ bi thứ ba tức là "Vô
duyên từ" là một loại cao siêu đặc biệt của Ðại Thừa, chúng
ta chưa đủ căn cơ, trình độ tu tập. Tuy nhiên, để có một ý
niệm đầy đủ về lòng từ bi , chúng ta cũng nên biết qua về
loại này.
Vô duyên từ, là lòng từ
bi không có tâm năng duyên và cảnh bị duyên, không còn dụng
công, không còn quan sát, đối đãi giữa mình với người, mình
và vật như hai thứ từ bi trước. Lòng từ bi này xứng theo thể
tánh chơn tâm mà tự khởi ra bao la, trùm khắp, không thiên
lệch một nơi nào. Cũng như ánh sáng mặt trời chiếu khắp cả
gần xa, không phân biệt thấp cao, không chú ý một nơi nào,
chiếu soi tất cả một cách vô tư và không dụng công.
V. Lợi Ích Của Pháp
Quán Từ Bi
Có người lo rằng nếu ai
cũng từ bi thì sẽ trở thành nhu nhược, dân tộc sẽ yếu hèn,
và sự tham tàn bóc lột sẽ lừng lẫy v.v...
Lo như thế là quá lo xa
mà thành ra không thực tế. Từ xưa đến nay, loài người không
phải khổ sở vì quá từ bi, xã hội không phải yếu hèn, đảo
điên vì tình thương quá rộng lớn. Trái lại, sự đau khổ của
cá nhân cũng như của đoàn thể, một phần rất lớn là do lòng
người còn độc ác. Một nhận xét không ai có thể chối cãi được
là một xã hội càng văn minh thì lòng ác độc càng bớt, tình
thương càng tăng thêm, hay ngược lại, tình thương càng tăng,
hay ác độc càng giảm, thì xã hội càng văn minh, hạnh phúc.
Hãy khoan lo sợ từ bi làm cho con người mềm yếu, mà chỉ nên
lo sợ, nếu sự thù hằn, độc ác không giảm, thì loài người
chắc chắn sẽ bị tiêu diệt.
Khái lược theo kinh
Tăng Nhất A Hàm thì quán Từ bi sẽ được những lợi ích như
sau:
a) Khi thức hay ngủ đều
được an vui
b) Hiện tại được nhiều
người thương
c) Sống trong đời
không bị tai nạn trộm cướp
Nhưng thực hành pháp
quán từ bi , không phải chỉ để cho chúng ta cầu những quả
báo lợi ích riêng cho mình, và có bấy nhiêu đó. Mục đích
chúng ta tu là cốt làm sao chúng ta và mọi chúng sinh trong
lục đạo đều khỏi khổ được vui. Lẽ tất nhiên, trong khi tu
chúng ta sẽ:
Trừ được lòng sân hận
độc ác
Dẹp được ngã chấp hẹp
hòi
Ðoàn kết được với mọi
người
Ðời sống cá nhân và
đoàn thể nhờ thế được vui vẻ, có ý nghĩa.
C. Kết Luận
Từ bi là một phương
thuốc trị tâm sân hận. Sân hận là đầu mối sát hại ghê gớm,
là cái chìa khóa của tất cả kho tội lỗi. trừ được nó tức là
trừ được chết chóc, và dập tắt được cái ngòi biến loạn. Bao
nhiêu súng đạn và nhất là bom nguyên tử sẽ trở thành vô
dụng. Trong nhân loại, không còn ai là cừu địch không còn có
giai cấp bóc lột, đấu tranh. Ai cũng là người đáng thương,
đáng giúp đỡ. Giữa người và người, giữa người và vật sẽ có
một sự liên lạc, đoàn kết mật thiết. Con người sẽ vô cùng
sung sướng khi thấy xung quanh mình đều là bà con quyến
thuộc, bốn biển đều là anh em và cùng chan hòa trong Phật
tánh.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 4
Quán
Nhân Duyên
A. Mở Ðề
Người đời, vì không
hiểu sự vật trong vũ trụ này từ đâu mà có, cho nên sanh ra
nhiều quan niệm sai lầm. Có người nghĩ rằng vũ trụ do tự
nhiên sanh. Có người lại nghĩ vũ trụ do một vị thần toàn
trí, toàn năng tạo ra v.v...
Theo Ðạo Phật thì vũ
trụ là vô thỉ, nghĩa là không có điểm khởi đầu, và mọi sự
mọi vật trong vũ trụ không thể đứng riêng một mình mà có
được; trái lại, phải nương nhờ nhau mà thành. Nói một cách
khác, từ vật lớn cho đến vật nhỏ, từ vât hữu hình cho đến vô
hình, đều không ngoài nhân duyên mà có. Vì thế, trong kinh
Phật thường nói: "Chư pháp tùng duyên".
Sự hiện hữu của loài
hữu hình, hay nói riêng của loài người, cũng không ngoài
công lệ ấy được. Muốn hiểu rõ một cách tường tận cái guồng
máy của sự sanh tử luân hồi của kiếp người trong bể khổ trần
gian, chúng ta cần phải học lý "Thập nhị nhân duyên". Sau
khi hiểu rõ lý thập nhị nhân duyên, chúng ta lại còn phải
tìm hiểu phương pháp để dứt trừ cái vòng lẩn quẩn sanh tử
luân hồi nữa.
Muốn hiểu và dứt trừ
cái vòng sanh tử luân hồi, chúng ta phải học và thực hành
pháp quán nhân duyên, mà chúng tôi xin trình bày trong bài
giảng này.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Sao gọi là "Nhân
duyên"? Nhân là nguyên nhân, chỉ cho những sự vật chính đó
là nhân, trực tiếp sanh ra một vật khác, như hạt lúa làm
nhân sanh ra cây lúa. Duyên là trợ duyên, chỉ cho những vật
gì có tánh cách trợ gíup trực tiếp hay gián tiếp cho vật
khác được thành. Như phân, nước, ánh sáng, nhân công...là
trợ duyên giúp cho hạt lúa được thành cây lúa. Vậy nhân
duyên là chỉ cho các vật làm nhân cho nó mà cũng vừa là trợ
duyên cho tất cả vật chung quanh nó.
Chữ "Nhân duyên" lại có
nghĩa thứ hai: Các vật đều là "nhân", các "nhân" đó "duyên"
với nhau mà thành ra các vật khác. Như vôi, gạch, ngói, gỗ
v.v...là nhân, các nhân này duyên nhau (nương giúp) mà thành
ra cái nhà. Vì các pháp trùng điệp nhiều lớp làm duyên cho
nhau, mà thành ra vật thế này hay thế khác, nên trong kinh
chép: "Chư pháp trùng trùng duyên khởi".
II. Thành Phần Của
Nhân Duyên
Ðoạn trên đã nói: "Các
pháp do nhân duyên hòa hợp sanh". Vậy những nhân duyên gì
sanh ra loài hữu tình", là những nhân duyên sau đây:
1. Vô minh, 2. Hành, 3.
Thức, 4. Danh sắc, 5. Lục nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9.
Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão tử.
1. Vô minh có nhiều
nghĩa và nhiều loại:
a) Theo Ðại Thừa giải
thích: "Không tỏ ngộ chân tâm gọi là vô minh" (Bất giác đệ
nhất nghĩa đế, vị chi vô minh).
b) Thông cả Ðại Thừa và
Tiểu Thừa giải thích: "Hiểu biết các pháp không đúng như
thật (hiểu sai lầm), nên gọi là vô minh" (Bất như thật tri
chư đế lý, vị chi vô minh); như vô ngã mà chấp thật ngã, vô
pháp mà chấp thật pháp v.v...
c) Ngoài ra, còn những
nghĩa thông thường như: vô minh là không sáng, tối tăm, mờ
ám, si mê v.v...
Vô minh, lại có khi để
chỉ các phiền não như tham, sân, si. Xưa có người đến chùa
hỏi:
Thế nào là vô minh?
Tổ sư trả lời:
Quê mùa dốt nát đến
thế, cũng đến chùa hỏi đạo lý !
Ông khách nổi giận, mặt
mày đỏ bừng...Tổ sư nói tiếp:
Vô minh là đó (chỉ cái
sân), đó là vô minh.
Vô minh có khi chỉ
riêng cho Si tâm sở. Như nói "độc hành vô minh" hay "tương
ưng vô minh" là đều chỉ riêng cho "si tâm sở": Khi nó khởi
riêng một mình, hoặc chung cùng với phiền não, tham, sân
v.v...
Vô minh lại phân ra hai
loại: căn bản vô minh và chi mạt vô minh. Như trong mười hai
nhân duyên, cái "vô minh" đầu là căn bản, vì nó là gốc sanh
ra các vô minh sau; còn "ái, thủ, hữu" là chi mạt vô minh.
Trong tứ hoặc, thì kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc là chi
mạt vô minh; còn vô minh hoặc là căn bản vô minh. Trong ngũ
trụ địa, thì kiến nhất xứ trụ địa, dục ái trụ địa , sắc ái
trụ địa và hữu ái trụ địa là chi mạt vô minh, còn vô minh
trụ địa là căn bản vô minh.
Nói chung lạu, tất cả
phiền não, hoặc thô, hoặc tế của Ðại Thừa hay Tiểu Thừa, có
tánh cách làm cho chân tâm bị ẩn, gương trí tuệ lu mờ thì
gọi là vô minh.
2. Hành là hành động
, tạo tác. Do vô minh phiền não nổi lên, làm cho thân,
khẩu, ý, tạo tác ra các nghiệp lành hay dữ nên gọi là
"hành".
3. Thức là thần
thức, chỉ cho phần tinh thần. Do thân, khẩu, ý, ba
nghiệp tạo tác những nghiệp lành hay dữ nên khi chết rồi,
các nghiệp dẫn dắt thần thức đi lãnh thọ quả báo (thân) khổ
hay vui ở đời sau.
4. Danh sắc là thân
thể. Trong thân thể người có hai phần:
a) Phần tinh thần (tâm)
chỉ có tên kêu gọi, chứ không có hình sắc nên gọi là
"danh".
b) Phần thể chất có
hình sắc, nên gọi là "sắc".
5. Lúc nhập, gọi nôm
na là sáu chỗ vào. Khi đã có thân thể rồi, cố nhiên phải
có sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) là chỗ của sáu
trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp) phản ảnh vào, nên
gọi là "lục nhập".
6. Xúc là tiếp xúc.
Trong sáu căn, ngoài sáu trần thường gặp gỡ tiếp xúc với
nhau, như mắt tiếp xúc với sắc, tai tiếp xúc với tiếng, mũi
tiếp xúc với mùi, lưỡi tiếp xúc với vị, thân tiếp xúc với ấm
lạnh, trơn nhám, ý tiếp xúc với pháp trần.
7. Thọ là lãnh thọ.
Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, rồi lãnh thọ những cảnh
vui hay buồn, sướng hay khổ, hay cảnh bình thường.
8. Ái là ưa muốn.
Khi lãnh thọ cảnh vui thì sinh lòng tham, muốn làm sao cho
được, khi gặp cảnh khổ thì sanh tâm sân hận, buồn rầu, muốn
xa lìa, gặp cảnh binh thường thời si mê. Ðây là cái động cơ
thúc đẩy thân, khẩu, ý, tạo tác các nghiệp.
9. Thủ là giữ lấy,
tìm cầu; nói rộng ra là các hành động tạo tác. Do gặp
cảnh thuận thì tham cầu, gặp cảnh nghịch lại sân, si muốn xa
lìa; mục đích là muốn tìm phương này kế nọ để bảo thủ cho
được bản ngã của mình. Do đó mà tạo ra các nghiệp sanh tử.
10. Hữu là có.
Vì đời này đã có nhân lành hay dữ do mình tạo ra, thì đời
sau quyết định phải "có" quả khổ hay vui mà mình phải thọ
nhận.
11. Sanh. Là sanh
ra. Do "ái, thủ, hữu" làm nhân hiện tại tạo ra các
nghiệp, cho nên qia đời sau, phải sanh ra đời để thọ quả
báo.
12. Lão, tử. Là
già, chết. Ðã có sanh ra, tất nhiên phải chịu các khổ già và
chết v.v...
Mười hai nhân duyên này
liên quan mật thiết với nhau, vừa làm quả cho nhân trước,
vừa làm nhân cho quả sau, nối tiếp không dứt trong thời gian
và làm cho chúng sinh phải mãi mãi xoay tròn trong vòng sanh
tử.
III. Phương Pháp
Quán
Phương pháp quán mười
hai nhân duyên có thể chia làm hai phần là: quán Lưu chuyển
và quán Hoàn diệt.
1. Quán lưu chuyển.
Là quán sát trạng thái sanh khởi và luân lưu của mười hai
nhân duyên. Sự quán sát này có ba loại:
a) Quán sát, trạng thái
sanh khởi của mười hai nhân duyên trong quá khứ xa xôi, từ
vô thỉ. Từ vô thỉ, vì vô minh vọng động, làm cho bản tâm
thanh tịnh phản uẩn khuất, như mây áng nên trăng mờ (vô
minh), do đó, các vọng động từ từ sanh khởi (hành), thành ra
có tâm (thức) và cảnh, đủ cả thế giới và chúng sinh (danh
sắc); trong thân chúng sinh có sáu căn là chỗ của sáu trần
thường pảhn ảnh vào (lục nhập), rồi căn, trần thường tiếp
xúc (xúc) nhau sanh ra cảm thọ (thọ), nhân thọ sanh ra ưa
(ái), vì ưa mới giữ (thủ); do đó mà có (hữu) sanh (sanh) và
già, chêt (lão, tử).
Ðây là nói về trạng
thái của mười hai nhân duyên từ vô thỉ, do vô minh vọng
động, tạo tác mà có thế giới và chúng sinh, rồi cứ như thế,
tiếp tục sanh khởi cho đến ngày nay, và mãi mãi về sau
v.v...
b) Quán sát trạng thái
lưu chuyển của mười hai nhân duyên trong ba đời: quá khứ,
hiện tại, vị lai. Ðây là quán sát sự xoay vần của mười hai
nhân duyên trong thời gian từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện
tại đến vị lai. Mười hai nhân duyên cũng như sợi dây chuyền
có mười hai vòng, vòng này móc vào vòng kia, vòng kia móc
vào vòng nọ, nối tiếp nhau không có mối manh, và liên quan
cả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Nhưng trong quá khứ vô
minh và hành (căn bản vô minh) làm nhân, sinh ra quả hiện
tại (thân đời này) là "thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ";
quả hiện tại (thân đời này) trở lại tạo nhân (trong hiện
tại) là "ái, thủ, hữu" (chi mạt vô minh); nhân hiện tại lại
sẽ thành quả vị lai (thân đời sau) là "sanh, lão, tử). Nói
tóm lại, do mê hoặc (vô minh) nên tạo nghiệp (hành), vì tạo
nghiệp nên chịu quả khổ, nhân chịu quả khổ, rồi lại mê hoặc
tạo nghiệp v.v...nhân sanh quả, quả lại sanh nhân, nối tiếp
trong ba đời, quanh quẩn trong sáu đường sanh tử luân hồi,
như cái bánh xe lăn tròn trên sợi dây. Chỉ có khác là bánh
xe thật thì chỉ có một cái và biến đổi rất chậm chạp; còn
bánh xe mười hai nhân duyên thì vừa chạy tới mà vừa biến
đổi, luôn luôn hoại và thành, thành và hoại...liên tiếp
trong ba đời; quá khứ, hiện tại và tương lai.
c) Quán sát sự sanh
khởi và lưu chuyển của mười hai nhân duyên trong một niệm
của hiện tại. Nếu lấy một khoảng thời gian ngắn trong hiện
tại để quán sát, hành giả cũng có thể thấy được sự sanh khởi
và lưu chuyển của mười hai nhân duyên, chứ không cần phải
quán sát ba đời. Nhưng khi đối cảnh, không rõ các pháp đều
là lưu chuyển (vô minh) mà khởi vọng niệm (hành) phân biệt
(thức) các cảnh vật (sắc); rồi trần cảnh lại phản ảnh vào
căn (lục nhập), căn lại tiếp xúc (xúc) với trần, sanh ra
lãnh thọ (thọ), nhân thọ sanh ra ưa muốn (ái), tím cầu
(thủ), do đó tạo ra các nghiệp (hữu) rồi theo nghiệp thọ quả
báo (sanh, lão, tử).
Phân tách ba pháp quán
trên, hành giả sẽ rút ra những nhận xét sau đây:
Trong mười hai nhân
duyên, có hai nhóm làm nhơn và hai nhóm làm quả: Một nhóm
nhân quá khứ (gồm có vô minh và hành) và một nhóm nhân hiện
tại (gồm có sanh, lão, hữu).
Về phía quả, thì có một
nhóm quả hiện tại (gồm có thức, danh sắc, lục nhập, xúc,
thọ) và một nhóm quả vị lai (gồm có sanh, lão tử).
"Vô minh, hành" là căn
bản vô minh, "ái, thủ, hữu" là chi mạt vô minh. Có thể nói
"vô minh, hành" là cái biệt hiệu của "ái, thủ, hữu", còn
"thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ" là cái dị danh của
"sanh, lão, tử". Nói như thế là vì, nếu ta đổi qua tráo lại,
sẽ thấy rõ: trong "ái, thủ, hữu", có "vô minh và hành", còn
trong "sanh, lão, tử" có "thức, danh sắc, lục nhập, xúc,
thọ".
Vô minh thuộc về
"hoặc";
hành thuộc về
"nghiệp"; thức,
danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, thuộc về
"khổ";
ái thuộc về
"hoặc"; thủ, hữu
thuộc về
"nghiệp"; sanh,
lão, tử thuộc về
"khổ".
HOẶC
Khổ Nghiệp
Xem bản đồ:
12 nhơn duyên liên quan
3 đời nhơn quả
1. NHƠN (quá khứ)
1. Vô minh
(hoặc)
2. Hành (nghiệp
Căn bản vô minh (có ái
thủ, hữu)
2. QUẢ (hiện tại)
1. Thức
2. Danh sắc
3. Lục nhập
4. Xúc
5. Thọ
(khổ) Thân hiện tại
3. NHƠN (quá khứ)
1. Ái (hoặc)
2. Thủ (nghiệp)
3. Hữu
Chi mạt vô minh (có vô
minh, hành)
2. QUẢ (vị lai)
1. Sanh
2. Lão, tử
(khổ)
Thân vị lai
2. Quán hoàn diệt.
Là quán sát sự tiêu diệt của mười hai nhân duyên. Có hai
cách quán:
a) Diệt vô minh gốc rễ
(căn bản vô minh). Trong phần quán sát trên, hành giả đã
thấy rõ: do vô minh mà có hành, do hành mà có thức v.v...Vậy
thì bây giờ, nếu ta diệt vô minh, thì hành sẽ bị diệt, hành
bị diệt thì thức cũng không có v.v...Hay nói một cách khác:
do "mê hoặc" nên tạo "nghiệp", do tạo nghiệp nên mới chịu
quả "khổ". Vậy muốn hết khổ, lẽ tất nhiên là phải diệt
nghiệp, muốn dứt nghiệp trước phải trừ vô minh.
Trừ căn bản vô minh có
hai cách:
Ðối với các bậc Ðại
Thừa Bồ Tát, vì thấy rõ thể tánh chân tâm do vô minh vọng
động mà có thế giới chúng sinh, ngã và pháp, nên các Ngài
dùng trí Bát nhã phá trừ "sinh tướng vô minh", để trở lại
với bản thể chân tâm. Khi đã ngộ được chân tâm rồi, thì tất
cả sanh tử luân hồi đều hết. Như trong Bát nhã Tâm kinh có
chép: "Ngài Quán tự tại Bồ Tát khi đi sâu vào trí Bát nhã Ba
la mật đa rồi, thì thấy tất cả năm uẩn đều không, nên khỏi
các điều khổ ách...". Hay như trong kinh Lăng Nghiêm có
chép: "Ðối với người tỏ ngộ được chơn tâm, thì mười phương
thế giới đều tiêu hết".
Ðối với người không thể
phá trừ ngay được căn bản vô minh để trực ngộ chân tâm, thì
phải lần hồi trải qua vô số kiếp tu hành, khi đến địa vị
Ðẳng giác, dùng trí Kim cang phá trừ được "sanh tướng vô
minh", mới chứng quả Diệu giác (Phật ).
b) Diệt vô minh ngành
ngọn (chi mạt vô minh). Ðối với hàng phàm phu và Tiểu Thừa,
căn cơ thấp hẹp, thì không thể trực tiếp phá trừ vô minh gốc
rễ như hai bậc trên, mà chỉ có thể phá trừ vô minh ngành
ngọn là "ái, thủ, hữu". Khi ngành ngọn đã bị chặt rồi, thì
gốc rễ dần dần bị tiêu diệt, như bụi tre mà bị xắn hết cả
măng, thì sẽ phải tàn rụi.
Diệt trừ vô minh ngành
ngọn cũng gồm hai phương diện.
Quán lý: Là dùng lý lẽ
để nhận thấy rằng các pháp chỉ do nhân duyên hòa hợp mà sanh
ra, chứ không có thật (không hữu); bởi không có thật, nên
không nên tìm cầu chấp thủ (không thủ). Ðã không chấp thủ,
thì cũng không tham muốn (không ái). Nghĩa là bắt đầu quán
"hữu", rồi đến "thủ", rồi cuối cùng là "ái". Nếu ba cái nhân
này không có, thì cái quả "sanh, lão, tử" cũng chẳng có.
Quán sự: Là y theo sự
tướng mà quán sát rồi thực hành. Hành giả bắt đầu quán "ái"
trước, rồi đến "thủ" và "hữu". Kinh chép: "Hữu ái sinh
ưu, hữu ái sinh úy, vô sở ái nhạo hà ưu hà úy?". nghãi
là: Bởi có tham muốn thì có lo sợ. Vì khi đối cảnh, sanh tâm
tham muốn (ái), nên mới tạo tác ra các nghiệp (thủ), do đó
phải chịu sanh tử luân hồi (hữu). Bấy giờ, nếu đối cảnh
không tham ưa (không ái), thì chẳng tìm cầu chấp thủ ( không
thủ), vì không chấp thủ nên chẳng có sanh tử luân hồi (không
hữu). Cũng như trong kinh Lăng nghiêm Phật dạy: "..Chỉ khi
các ông đối cảnh, không khởi vọng niệm phân biệt, thì tham,
sân, si chẳng khởi; tham, sân, si không khởi thì sát, đạo,
dâm, vọng không sanh...".
Tóm lại, mê hoặc hết
(ái) thì nghiệp chẳng có (thủ), nghiệp không thì khổ chẳng
còn (hữu).
Trong bốn cách trừ vô
minh, chỉ có pháp "quán sự" này dễ dàng và thiết thật nhất,
lại hợp với căn cơ của người tu hành hiện tại.
IV. Hiệu Quả Của
Pháp 12 Nhân Duyên
Hành giả sau khi thành
tựu pháp quán mười hai nhân duyên này, thì sẽ trừ được tâm
si mê là nguyên nhân chính của khổ đau và luân hồi của chúng
sinh. Ðức Phật thường bảo: "Sự khổ ở tam đồ chưa hẳn là khổ,
chỉ có người thiếu trí huệ mới là khổ thôi". Xem thế thì đủ
biết trừ được tâm si mê và làm cho trí huệ được phát chiếu
là một điều quan trọng bậc nhất của kẻ tu hành.
Hơn nữa, hành giả còn
nhờ pháp quán mười hai nhân duyên này mà sẽ chứng được quả
Duyên giác. Khi Phật chưa giáng sinh, cũng có nhiều vị tu
hành nhờ quán sát sự sanh hóa của vũ trụ mà được ngộ đạo.
Những vị ấy người ta thường gọi là Ðộc giả, nghĩa là tự
nghiên cứu một mình mà được giác ngộ. Ðến khi Phật giáng
sinh, chỉ dạy pháp quán nhân duyên nhiều người y theo pháp
quán này tu hành mà được giác ngộ, nên gọi là "Duyên giác"
(nghĩa là những vị giác ngộ nhờ quán mười hai nhân duyên).
Chỗ giải thoát của quả
vị Duyên gíac và A La Hán đều giống nhau, nhưng về trí huệ
và thần thông thì quả Duyên giác cao hơn quả A La Hán.
Sau đây là một thí dụ
về sự thành tựu pháp quán mười hai nhân duyên của hai vị đại
Ðệ tử của đức Phật Thích Ca , là Ngài Xá Lợi Phất và Ngài
Mục Kiền Liên, lượt thuật theo kinh Nhân quả:
Ở thành Vương xá, có
hai người Bà la môn rấy thông minh trí huệ, một người tên là
Xá Lợi Phất và một người tên là Mục Kiền Liên. Hai người đều
tu theo ngoại đạo, có trên một trăm Ðệ tử , và có hứa hẹn
với nhau rằng, nếu ai nghe được pháp mầu trước, thì phải chỉ
dạy lại cho người kia.
Một hôm, ông Xá Lợi
Phất đi đường, được nghe một vị Ðệ tử của Phật là Tỳ kheo A
Xá Bà Kỳ, giảng giải về đạo lý nhân duyên và tóm tắt lại
trong một bài kệ như sau: "Cội gốc của tất cả pháp là nhân
duyên sinh, không ai làm chủ, nếu ai hiểu được pháp này, thì
chứng được đạo chân thật" 1.
Khi nghe xong, ông Xá
Lợi Phất liền xa lià trần cấu, chứng được đạo quả thanh
tịnh.
Lức trở về, ông Xá Lợi
Phất giảng nói lại cho ông Mục Kiền Liên nghe. Ông này nghe
xong, cũng chứng được đạo quả. Hai ông này liền đem 200 Ðệ
tử của mình, đến xin Phật cho xuất gia làm Ðệ tử.
C. Kết Luận
Ðể độc giả có một ý
niệm chung về bài giảng này và dễ nhớ, chúng tôi xin tóm tắt
những yếu điểm sau đây:
A. Tất cả sự vật không
một vật nào riêng biệt mà tồn tại được. Chúng phải nương tựa
vào nhau mới thành vật này hay vật khác. Ðó là lý nhân duyên
sanh, hay trùng trùng duyên khởi. Riêng về loài hữu tình như
kiếp người chẳng hạn, thì do mười hai nhân duyên nương nhau
mà thành một chuỗi sanh tử dài vô hạn, nối tiếp từ quá khứ
đến hiện tại và vị lai. Tùy theo cái tác dụng của nó mà mười
hai nhân duyên ấy có thể chia làm ba nhóm là: hoặc (mê mờ),
nghiệp (tạo tác) và khổ (kết qủa).
B. Muốn dứt trừ chuỗi
sanh tử dài trong biển khổ đau của cõi tục, phải quán mười
hai nhân duyên. Pháp quán này có hai phần là quán lưu
chuyển và quán hoàn diệt:
1. Quán lưu chuyển.
là quán hiện tượng sanh khởi và tiến triển của mười hai nhân
duyên từ vô minh, hành, thức..đến lão, tử. trong khi quán
lưu chuyển hành giả có thể chỉ quán sát sự sanh khởi và tiến
triển của mười hai nhân duyên trong quá khứ, trong hiện tại
hay cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
2. Quán hoàn diệt.
Là quán theo phương pháp làm cho mười hai nhân duyên phải
tiêu diệt. Có hai pháp quán hoàn diệt:
a) Một pháp dành cho
những bậc đại căn trí, như hạng Ðại Thừa Bồ Tát, đó là pháp
"diệt căn bản vô minh".
b) Một pháp dành cho
những người căn cơ thấp thỏi như chúng ta, đó là pháp "diệt
chi mạt vô minh".
Pháp quán sau đây lại
chia ra làm hai là quán lý và quán sự:
Quán lý: là quán các
pháp không thật có (hữu) nên không chấp thủ (thủ); bởi không
chấp thủ nên không tham ái (ái).
Quán sự: là áp dụng cái
lý đã quán ở trên trong hoàn cảnh thực tại: Hành giả phải cố
gắng thực hiện sao cho khi đối cảnh không khởi tâm tham ái
(ái), nhờ không tham ái mới không tạo ác tìm cầu (thủ); do
không tìm cầu nên không có (hữu) thọ quả sanh tử về sau.
Hành giả thành tựu được
pháp quán mười hai nhân duyên này thì sẽ dứt trừ được vô
minh, thoát khỏi sanh tử và chứng được quả vị Duyên giác.
Cầu mong cho quí vị độc
gỉa thấu hiêu được chân giá trị của pháp quán này và tinh
tấn tu hành để đạt được quả vị qúy báu nói trên.
Ghi Chú: Có chỗ nói bài
kệ như vầy:
"Chư pháp tùng duyên
sanh, diệc tùng nhân-duyên diệt,
Ngã- Phật Ðại
Sa-Môn, thường tác như thị thuyết".
Dịch nghĩa:
Các pháp do nhân-duyên,
cũng do nhân-duyên diệt,
Ðức Phật của
chúng ta, thường dạy nói như vậy.
Theo Ðại Thừa thì bài
kệ về nhân-duyên như vậy
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 5
Quán
Giới Phân Biệt
A. Mở Ðề
Hầu hết người đời đều
tin rằng, mỗi người từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến chết và
cả sau khi chết nữa, đều có một linh hồn duy nhứt, bất biến
làm chủ tất cả ý nghĩa, hành động của mình. Nói theo thuật
ngữ Phật giáo thì tin như thế gọi là "ngã chấp", nghĩa là
tin có một ngã riêng biệt, tồn tại bất biến...Từ cái ngã
chấp ấy, mà sinh ra "ngã ái", nghĩa là thương yêu, chăm sóc,
gìn giữ cái ngã, bất chấp phải trái, hay dỡ; ngã mạn, nghĩa
là ngạo mạn, cho "cái ta" của mình là cao quý, tốt đẹp hơn
bao nhiêu "cái" khác, đối lập với tất cả những gì không phải
là ta hay trái ý với ta.
Do sự chấp ngã ấy mà
cuộc sống đáng lẽ phải rộng rãi vô biên, trường tồn bất
diệt, lại bị ngăn cách chia xẻ, giam hãm trong những cái vỏ
cứng là "cái ta" riêng biệt; và người đời, hay nói rộng hơn,
tất cả chúng sinh đều phải sống, chết, quay cuồng, điêu
cứng, khổ đau vì cái ta riêng biệt mà họ tưởng là thuần
nhất, bất biến ấy.
Nhưng thật ra, có một
cái "Ta" như thế không? Nếu có, thì cái Ta ấy ở đâu? Trong
sáu căn hay trong sáu trần, hay trong sáu thức? Muốn hiểu rõ
vấn đề này một cách tường tận, chúng ta phải quán Giới phân
biệt là một trong Ngũ đình tâm quán.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Quán Giới phân biệt:
Giới có ý nghĩa là giới hạn, là phạm vi phân chia phần này
với phần khác, bộ phận này với bộ phận khác. Chẳng hạn như
trong vật chất người ta phân chia ra nhiều loại: loại màu
sắc, loại âm thanh, loại mùi vị v.v...Hay trong con người,
các bộ phận tiếp xúc với ngoại cảnh, như mắt, tai, mũi,
lưỡi...là những Giới riêng biệt.
Trong thế giới Ta Bà
gồm những vật hữu hình và vô hình này, mặc dù có thiên hình
vạn trạng, nhưng theo triết lý của đạo Phật, thì có thể chia
ra làm mười tám giới (loại, phạm vi). Vận dụng trí tuệ để
quan sát, nhận định từng phạm vi, từng giới một trong mười
tám giới ấy, để xét xem thử có một cái ngã trường tồn bất
biến, duy nhất hay không, đó tức là quán Giới phân biệt.
II Phân Giải 18
Giới:
Mười tám giới có thể
phân ra ba loại lớn: Sáu căn, sáu trần và sáu thức.
1. Sáu căn: Căn
tức là chỗ nương tựa, làm gốc cho những cái khác nẩy nở,
phát sinh. Sáu căn ở đây tức là: nhãn căn, nhĩ căn, tỹ căn,
thiệt căn, thân căn và ý căn.
a) Nhãn căn: tức là hai
con mắt, bộ phận để làm chỗ nương tựa cho sự nhận thấy của
người được rõ ràng, khi tiếp xúc với cảnh vật chung quanh.
b) Nhĩ căn: tức là hai
lỗ tai, bộ phận làm chỗ phát sinh cho sự nghe biết của người
được rõ ràng, khi tiếp xúc với tiếng động ở chung quanh.
c) Tỹ căn: tức là lỗ
mũi, bộ phận làm chỗ nương tựa cho sự ngửi biết được xác
thực, khi tiếp xúc với các mùi như thơm, thúi...ở chung
quanh.
d) Thiệt căn: tức là
cái lưỡi, bộ phận làm chỗ nương tựa của sự nếm biết của
người được rõ ràng khi tiếp xúc với các chất như chua, mặn
v.v...ở ngoại cảnh.
đ) Thân căn: tức là da
bao bọc thân người, bộ phận làm cho nhận biết được cảm giác,
nóng, lạnh, cứng, mềm của các vật chung quanh.
Năm căn nay là năm bộ
phận thuộc về thể chất nằm ở bên ngoài, dễ tiếp xúc với
ngoại vật. Chúng có hình tướng do tứ đại hợp thành, có thể
thấy được, chỉ được, rờ mó được. Duy thức học liệt chúng về
nội căn sắc pháp. Nội căn sắc pháp này có thể phân tách ra
làm hai phần: phù trần căn và tịnh sắc căn. Phù trần
căn là chỉ cho hình tướng thô phù hiện ra bên ngòai, như
tròng mắt, vành tai, lưỡi đỏ v.v...Còn tịnh sắc căn là chỉ
cho phần ẩn phục của năm căn, tức là phần ứng dụng, phần
hoạt động, phần sống của năm căn. Nói một cách rõ ràng đơn
giản hơn, tức là những dây thần kinh hệ của con người vậy.
Phù trần thì thô thiển, tinh sắc lại tế ẩn. Nếu hai phần này
rời nhau, năm căn sẽ vô dụng.
e) Ý căn: tức là bộ
phận để cho sự phân biệt phát sinh, tức là thức thứ Bảy.
Phần này rất tinh tế thuộc về phần tinh thần. Cho nên không
có hình sắc như năm căn trước.
2. Sáu trần.
Trần, nghĩa đen là bụi. Bụi thì nhơ nhớp luôn luôn dời đổi
lăng xăng, tụ tán không chừng. Nghĩa bóng, trần tức là chỉ
cho phần vật chất, cảnh vật chung quanh con người. Sáu trần
là: sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và
pháp trần.
a) Sắc trần: là sáu
sắc, đường nét hình dáng, những gì mà mắt có thể thấy được.
b) Thanh trần: là tiếng
do vật hữu hình hay vô hình phát ra, nghĩa là những tiếng mà
tai nghe được.
c) Hương trần: là mùi
do vật hữu hình hay vô hình bốc lên, tỏa ra, vật mà mùi ngửi
được.
d) Vị trần: là chất
trong vật hữu tình hay vô tình, vậy mà lưỡi nếm được.
đ) Xúc trần: là những
thứ mềm, cứng, trơn, nhám...của vật hữu tình hay vô tình,
những vật mà thân tiếp xúc được.
e) Pháp trần: là những
hình ảnh, màu sắc, hương vị.. trừu tượng của năm trần lưu
lại sau khi đã năm căn duyên, chính là cảnh bị duyên của ý
căn. Màu sắc tiếng tăm, hương vị ở đây không phải là vật
thật của ngoại cảnh mà chỉ là những hình bóng, âm vang...của
ngoại cảnh sau khi đã lọt qua năm giác quan, và đang bị ý
căn duyên.
Chúng ta có thể làm một
thí dụ tho thiển sau đây cho dễ hiểu:
Sắc trần dụ như cảnh
vật bên ngoài.
Nhãn trần dụ như cái
máy quay phim.
Pháp trần dụ như những
hình ảnh đã giữ được trong cuốn phim.
Ý căn dụ như người xem
hình trong cuốn phim chiếu lên. Có thể làm một thí dụ thứ
hai sau đây:
Thanh trần dụ như các
tiếng hát của một ca sĩ.
Nhĩ căn dụ như cái máy
ghi âm.
Pháp trần dụ như cuốn
băng nhựa đã ghi âm.
Ý căn dụ như người nghe
tiếng do cái máy phát ra.
3. Sáu thức.
thức là sự phân biệt, hiểu biết, phán đoán do sáu căn tiếp
xúc với sáu trần mà phát sinh. Nó thuộc về tâm pháp (vô
hình). Sáu thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt
thức, thân thức và ý thức.
a) Nhãn thức: là sự
phân biệt, hiểu biết do nhãn căn tiếp xúc với sắc trần mà
phát sinh.
b) Nhĩ thức là sự phân
biệt hiểu biết do nhĩ căn tiếp xúc với thanh trần phát
sinh.
c) Tỹ thức là sự phân
biệt hiểu biết do tỹ căn tiếp xúc với hương trần mà phát
sinh.
d) Thiệt thức là sự
phân biệt do thiệt căn tiếp xúc với vị trần mà pháp sinh.
đ) Thân thức là sự phân
biệt, hiểu biết do thân căn tiếp xúc với xúc trần mà phát
sinh.
e) Ý thức là sự phân
biệt, hiểu biết, phê phán do ý căn tiếp xúc với pháp trần mà
phát sinh.
Chúng ta có thể làm một
thí dụ cụ thể sau đây cho dễ nhận:
Sáu thức như một hội
đồng giám khảo của cuộc thi thì về văn nghệ, nữ công và gia
chánh. Hội đồng này gồm có sáu người: Một ông chủ tịch và
năm hội viên chuyên môn về năm ngành:
Một người chuyên về màu
sắc và hình ảnh
Một người chuyên về âm
thanh
Một người chuyên về mùi
hương
Một người chuyên về
chất vị
Một người chuyên về xúc
giác
Năm hội hiên này sau
khi lấy khả năng chuyên môn của mình ra phân tách, phê phán
rồi, liền trình sự nhận xét của mình lên ông chủ tịch, ông
này thu góp tất cả những nhận xét của năm hội viên, làm tông
kết và tuyên bố kết quả của cuộn thi ấy. Ông chủ tịch này
chính là ý thức hay là thức thứ sáu.
III. Phương Pháp
Quán
Sau khi chúng ta đã
biết được rõ ràng phạm vi và công năng của mỗi giới trong
mười tám giới rồi, đến đây, chúng ta có thể bắt đầu tập
phương pháp quán. Pháp quán này gồm có hai phần: Quán sát sự
liên hệ giữa căn, trần và thức; và quán sát sự giả dối của
căn, trần và thức.
1. Quán sát sự liên
hệ giữa căn, trần và thức. Vẫn biết căn là một nội sắc,
nhưng chúng ta rất quan hệ mật thiết. Căn là phần chủ động,
có khả năng duyên được với trần, còn trần là phần bị động
"được duyên" với căn. Nhờ có căn phù trần và tịnh sắc, nên
con người mới có thể nhận biết các cảnh vật chung quanh
trong sự sống hằng ngày.
Nếu không có căn, dĩ
nhiên không có thức, thì con người không phải là con người.
Họ không sáng tác, xây dựng, cải cách, tiến hóa, và thế giới
này phải là thế giới "chết", mờ mịt không có ý nghĩa.
Nếu không có trần, con
người cũng không sống nổi. Ngoại cảnh là trường hoạt động
của con người. Nó dạy khôn dạy khéo cho con người trong cuộc
sinh hoạt và làm cho con người có ý thức về cuộc sống của
mình.
Thức lại tác động vào
căn và trần làm cho cuộc sống càng thêm tiến bộ, sung túc
thịnh vượng.
Ba thứ này ảnh hưởng
lẫn nhau như cây quẹt, chất diệm và đốm lửa. Sự liên quan
này chứng minh một cách hùng hồn sự không độc lập của sắc
pháp và tâm pháp, cả về phương diện cá thể lần phương diện
tổng thể.
Mười tám giới này, như
đoạn đầu đã nói, gồm cả thế giới và nhân sinh, cả vật vô
tình và vật hưũ tình. Một khi chúng đã không tự lập, thì
trong vũ trụ này, không có một vật gì, kể cả con người, cả
cái ngã, do chúng cấu tạo ra lại có thể biệt lập, thuần nhất
được.
2. Quán sát sự giả
dối của căn, trần và thức. Phần trên, chúng ta thấy cái
ngã không thể do tổng hợp của căn, trần và thức mà có được
một cách thuần nhứt. Ðến đây, chúng ta sẽ đi sâu vào một
tầng nữa, quán sát xem cái ngã có thể có trong một phần nào
của căn, trần và thức chăng?
a) Sáu căn là ngã
chăng? Trước tiên, chúng ta hãy xét bản chất của sáu căn là
gì? Chính là một khối xương da máu thịt, hợp lại có trật tự,
có tổ chức, chứ không gì khác. Mà đã là thịt da, xương máu
thì không có gì là bền bỉ, thuần nhất. Từ "khi trắng răng
đến thuở bạc đầu", thử xem con người đã mấy lần thay đổi. Và
sau một trăm năm, thử hỏi thể xác ấy sẽ còn lại gì, ngoài
"nắm cỏ khâu xanh rì"?
Giả sử có một cái ngã ở
sáu căn, thì thử hỏi:
Nếu cái ngã ở nơi mắt,
thì năm căn kia không phải là ngã. Nếu cái ngã ở nơi tai,
thì năm căn kia không phải là ngã. Lần lượt xét cả sáu căn,
chúng ta không thể nói được cái ngã ở một phần nào trong sáu
căn.
Nếu cho rằng sáu căn
đều là ngã, thì thành ra con người có đến sáu cái ngã. Nói
thế chắc không ai công nhận được.
Còn nếu bảo rằng: Do
sáu căn hòa hợp mà có cái ngã, thì với trái với định nghĩa
về cái ngã, là thuận nhất, bất biến. vả lại khi đã cho rằng
cái ngã do nhiều thứ hợp lại, thì cũng phải công nhận luôn
là cái ngã ấy là không thật, là giả hợp.
Do đó, Duy thức học bảo
"nhân vô ngã".
b) Sáu trần là ngã
chăng? Trần với căn không khác gì mấy. Căn đã không tự tại
trong cuộc sinh tồn, thì trần làm sao đứng vững, còn hoài.
Giả sử, "ngã" nằm trong
sắc, thì trên thế giới này phải không có sự đổi trắng, thay
đen. Như hoa nở rồi tàn, hết ngày rồi đêm, bãi bể biến thành
vườn dâu, cuộc đổi thay đã bày rành rành ra trước mắt.
Vậy "ngã" nằm trong
thanh chăng? Cũng không có lý. Thanh không bao giờ tự nhiên
mà có. Nếu có không do vật hữu tình phát ra, thì cũng do sự
va chạm của những vật vô tình mà có. Như thế, thanh rõ ràng
là một pháp hữu vi, có tạo tác. Mà đã là hữu vi, thì thế nào
cũng vô thường. Vả lại, vật sinh ra nó là sắc kia đã là vô
ngã, vô thường, thì nó không thể nào thường, là ngã được.
Cho đến hương, vị, xúc,
pháp cũng đều là vô thường, vô ngã như sắc, thanh cả. Chúng
chỉ như làn gió thoảng qua, như màn sương phảng phất, đã vô
hình lại bất định, nên sự vô ngã của chúng lại càng rõ rệt
hơn sắc, thanh nhiều.
c) Sáu thức là ngã
chăng? Như đoạn trên đã nói, thức là sự nhận biết do căn và
trần đối nhau mà có. Ðiều ấy đã chứng minh rằng thức không
thật có. Nói một cách đơn giản thì thức là do căn và trần
đối nhau mà thành, nhưng nếu chia chẽ một cách rốt ráo theo
duy thức học, thì thức sỡ dĩ có được còn là nhờ nhiều nhân
duyên khác nữa. Chẳng hạn như nhãn thức, sanh khởi được là
nhờ chín duyên sau đây:
Không: là khoảng trống
không, cách biệt giữa căn và cảnh vật.
Minh: là ánh sáng soi
chiếu bởi mặt trời, trăng, sao, hay đèn đóm.
Căn: là chỗ nương tựa
của thức.
Cảnh: là các sự vật mà
căn duyên được.
Tác ý: là sự mong muốn
được thấy.
Phân biệt y: là chỗ
nương để phân biệt, tức là ý thức, hay thức thứ sáu.
Nhiễm tịnh y: là thức
thứ bảy hay là tiềm thức.
Căn bản y: là thức thứ
tám.
Chủng tử: bản năng sẽ
được phát sinh.
Ðể có một ý niệm rõ
ràng hơn về nhãn thức, chúng tôi xin giảng giải chín duyên
trên ra như sau:
Khi mắt ta thấy một vật
gì, nó phải ở cách vật ấy gần hay xa (không ), khi thấy là
ban ngày, hay ban đêm có trăng, sao, hoặc pha đèn (minh). Sự
thấy ây dĩ nhiên là phải từ con mắt mà có (căn) và đồng
thời, lúc đó phải có vật gì mới thành sự thấy (cảnh). trước
lúc thấy, ta đã có ý muốn ngó rồi (tác ý). Tác ý đây lại do
ý thức đã khởi động trước (phân biệt y). ý thức lại phải
nương thức thứ bảy, vì là căn của nó (nhiễm tịnh y). Thức
thứ bảy lại luôn luôn và chấp thức thứ tám là ngã (căn bản
y). Thức này lại là nơi dung chứa các thức chủng tử. Chủng
tử là cái nhơn chánh để có ra sự vật.
Xét từ trong đến ngoài,
từ duyên đầu đến duyên chót, nhãn thức đã không có mảy may
gì là chơn thật cả. Các thứ kia như nhĩ thức, tỹ thức, thiệt
thức cũng như vậy cả; nhưng ít duyên hơn, như nhĩ thức thì
chỉ có tám duyên (vì không có Minh: nghe không cần có ánh
sáng). Còn tỹ, thiệt và thân thức, thì chỉ bảy duyên (vì
không cần có Minh và Không). Ý thức thì chỉ có năm duyên,
là: căn, cảnh, tác ý, căn bản y, chủng tử.
Xem thế thì đủ rõ sáu
thức đều là không thật, nghĩa là cũng vô ngã như sáu căn và
sáu trần.
Tóm lại, từ căn thân
cho đến thế giới, gồm trong mười tám giới, đều không thật
có, không thật ngã. Hành tướng do nhân duyên hòa hợp thì có,
những thật thể thì hoàn toàn không.
IV. Hiệu Quả của
Pháp Quán Giới Phân Biệt
Pháp quán giới phân
biệt có công năng phá tan cái ngã không còn manh giáp. Cái
ngã đã bị tấn công đủ mọi mặt, từ ngoài vào cho đến tận sào
huyệt, và cuối cùng, bị phân tán, chia xẻ, phanh phui cho
đến mảy mún. Từ trước đến nay, cái ngã chấp sỡ dĩ hoành hành
được là nhờ núp vào bóng tối của si mê. Từ nay phán quán
giới phân biệt như là một ngọn đèn pha chiếu sáng cả vòm
trời u tối làm cho cái hình bóng giả dối là cái ngã cũng tan
biến như mây khói. Ngã chấp đã không còn, thì ngã ái, ngã
mạn cũng không biết nương tựa vào đâu để tồn tại. Nói một
cách khác, phiền não, ác nghiệp, khổ đau, do ngã chấp mà
sanh. Nay ngã chấp đã bị diệt, thì phiền não khổ đau cũng sẽ
hết. Phiền não, khổ hết thì an vui, tự tại tức thời hiện ra.
Ðó là cái kết quả chắc chắn thật đầu tiên của pháp quán giới
phân biệt.
Rồi từ sự an vui, tự
tại tương đối ấy, hành giả sẽ cố gắng tiến dần trên đường
đạo. Càng tiến, hành giả càng sáng suốt thêm, càng nhận rõ
thêm chân lý. Hành giả sẽ dần dần chứng được các quả vị Tu
đà hoàn, Tu đà hàm, A na hàm, A La Hán. Nhưng hành giả cũng
không dừng lại ở các quả vị ấy. Hành giả không cố chấp ở quả
vị đã chứng được của mình, do đó sẽ giải thoát được tam
giới, làm bực Thanh văn, Duyên giác.
Nếu hành giả cố gắng tu
thêm, đến khi không còn chấp trước các pháp mình tu, mà chỉ
coi đó như là ngón tay chỉ mặt trăng, như liều thuốc trị
bệnh, chỉ cần trong lúc đau, nếu cố gắng tu được như thế,
thì hành giả sẽ đến bực "Vô trí, vô đắc", tức là chứng được
đạo quả vô thượng Bồ đề.
C. Kết Luận
Chúng ta đã thấy rõ
công năng, diệu dụng và hiệu quả tốt đẹp của pháp giới phân
biệt. Những thấy được ,mặc dù dã là quý, mà làm được mới
thật là quý hơn. Trong trên, chúng tôi đã hai ba lần nhấn
mạnh ở những chữ "nếu cố gắng..."Thật thế, nếu không cố gắng
thì đâu sẽ hoàn đó, và cái ngã, mặc dù giả dối, vẫn còn tồn
tại mãnh liệt và tác oai, tác quái như thường. Cái chấp ngã
được tạo dựng và củng cố từ muôn ngàn kiếp, mối khi một ít,
những lâu ngày trở thành rắn chắc, như những vỏ nghêu, vỏ ốc
bám vào mõm đá. Ngày nay chúng ta được may mắn đức Bổn sư
chỉ bày pháp quán giới phân biệt, để cho chúng ta thấy được
cái giả tướng của nó. Những đâu phải chỉ quán năm bảy lần,
hay vài ba chục lần là thành tựu? Cái ngã được bồi đắp lâu
đời lâu kiếp, thì công phu tu luyện để phá trừ nó cũng cần
phải nhiều thời gian. Lý trí có thể chấp nhận dễ dàng không
có thật ngã, nhưng tình cảm đâu có chấp nhận dễ dàng như
thế? Từ trước đến nay ta đang tin tưởng quí chuộng, cưng
dưỡng cái ngã, bỗng hôm nay có người bảo rằng nó không có,
nó không thật, thì thế nào tình cảm cũng nổi dậy phản dối,
bịt tai không muốn nghe, bịt mắt không muốn thấy. Ta phải
cần nhiều kiên nhẫn lắm, may ra mới thuyết phục được tình
cảm. Những trận giặc chiến đấu với cái ngã, đến giai đoạn
này, đâu phải đã chấm dứt ! Cái ngã chưa đầu hàng mà lui vào
sào huyệt sâu kín nhất, vào "mật khu" nguy hiểm nhất là tiềm
thức hay nói theo danh từ Duy thức học là thức thứ bảy. Sự
chấp ngã ở đây có một hình thức toàn diện, vô cùng bén nhậy,
như trong mật khu của mỗi người dân, từ trẻ đến già, từ đàn
ông, đàn bà đến con nít, là một chiến sĩ; và khoảng đất, mỗi
lùm cây mỗi cành lá là một cạm bẫy làm trở ngại rất lớn cho
sự chiến đấu chống cái ngã. Sự chấp ngã của tiền thức hay vô
thức diễn ra trong mỗi cử chỉ mỗi hành động, trong thức cũng
như trong khi ngủ, trong khi lành mạnh cũng như trong khi mê
sảng, trong khi sống cũng như trong khi chết (theo thần thức
và đi đầu thai). Lực lượng của địch (chấp ngã) mạnh mẽ và
hùng hậu như thế đấy. Chúng ta cần phải hiểu rõ trước khi
chiến đấu. Biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng.
Chúng ta không bao giờ
được phép khinh địch. Phải chuẩn bị đầy đủ trước khi chiến
đấu. Và trong khi chiến đấu phải quyết tâm và kiên nhẫn. Với
hai điều kiện căn bản ấy, chắc chắn hành giả sẽ thành công
trong cuộc chiến đấu, dẹp tan cái ngã tên giặc nguy hiểm
nhất trong mỗi chúng ta, và cầm đầu các tên giặc khác là:
tham, sân, si. Trừ được tên đầu đảng này là hành giả đã hoàn
toàn thành công trong trận giặc chống phiền não, khổ đau và
bắt đầu bước lên đài giải thoát.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 6
Lục Ðộ
Ðộ thứ nhất: Bố Thí Ba La Mật
A. Mở Ðề
Ðạo Phật thường được
gọi là Ðạo Từ bi, vì tình thương trong Ðạo Phật rất bao la,
sâu rộng. Ðức Phật tổ vì từ bi mà xuất gia để tìm đạo cứu
khổ cho chúng sinh. Vậy người Phật tử, khi noi theo dấu chân
Phật, cũng phải lấy từ bi làm động tác chính cho sự tu hành
của mình.
Nhưng làm thế nào để
thể hiện được lòng từ bi và làm cho nó tăng trưởng? Phương
pháp mầu nhiệm nhất là thực hành pháp môn Bố thí Ba la mật,
một trong sáu pháp môn (lục độ) mà đức Phật đã chế ra cho kẻ
tu hành có tâm trí rộng lớn thực hành để độ mình và độ người
ra khỏi biển sanh tử luân hồi và đến bờ giác ngộ.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Bố thí là cùng khắp:
Thí là cho, là trao tặng. Bố thí là cho cùng khắp, cho tất
cả mọi người, mọi vật, mọi nơi.
Ba la mật nguyên âm
tiếng Phạn là Paramita. Người Trung hoa dịch nghĩa là "Bỉ
ngạn đáo", nói theo tiếng Việt là "đến bờ bên kia".
Bố thí Ba la mật, tức
là một môn tu hành bằng phương pháp bố thí, có công năng như
một chiếc thuyền, đưa mình và người từ bờ mê lầm của chúng
sinh sang bờ giác ngộ của chư Phật.
II. Thành Phần Của
Bố Thí Ba La Mật
Bố thí Ba la mật gồm
các loại sau đây: Tài thí, Vô úy thí. Dưới đây chúng ta lần
lượt tìm hiểu ý nghĩa của các loại bố thí ấy:
1. Tài thí.
Tài thí tức là đem tiền bạc, của cải, vật thực của mình ra
cho. Tài thí có hai loại:
a) Nội tài. Là
những vật chí thân quí báu nhất của mình như thân mạng, đời
sống của mình. Thí nội tài ở đây tức là hy sinh thân mạng để
cứu vớt kẻ khác ra khỏi nguy nan. Trong các chuyện tiền thân
của đức Phật Thích Ca, chúng ta đã thấy nhiều gương thí nội
tài, như cấu chuyện Ngài lái buôn kia, trong khi đi biển bị
thuyền chìm đã tự hy sinh thân mạng bằng cách buông tay khỏi
cột buồm mà mình đang bám vào, để nhường chỗ cho những hành
khách xấu số khác khỏi chết đuối.
Thí nội tài là một cử
chỉ hy sinh cao đẹp nhất mà chỉ những người giàu lòng từ bi,
bác ái mới làm được. Nếu còn xem thân mạng mình là quý, là
trọng hơn thân mạng kẻ khác thì chắc chắn không bao giờ thực
hiện được loại bố thí này.
b) Ngoài tài.
Ngoại tài là những vật thường dùng của mình như thức ăn đồ
mặc, tiền bạc, xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa v.v...Ðem những
vật ấy ra cho những người túng thiếu, nghèo khổ thì gọi là
thí ngoại tài.
2. Pháp thí.
Ðem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy
quí báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác; hoặc
y theo giới luật của Phật tu hành thành thật để làm khuôn
mẫu cho người bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh
đều là pháp thí. Pháp thí có một giá trị rất lớn lao hơn cả
tài thí, và tài thí chỉ giúp người khác đở túng thiếu về
phương diện vật chất trong một thời gian, hay nhiều nhất là
cứu giúp một đời người. Nhưng pháp thí giúp đỡ người rất
nhiều về phương diện tinh thần, không riêng gì đối với người
nghèo khó, mà cả người giàu sang, chức tước; không phải chỉ
có ảnh hưởng tốt trong một giai đoạn, mà gieo nhân lành cho
nhiều đời kiếp về sau. Vì những lẽ đó, nên người Phật tử
chân chính, không bao giờ bỏ mất một dịp nào mà không làm
pháp thí, cả về phương diện khẩu giáo (dùng lời lẽ đúng Phật
pháp để chỉ dạy, lẫn phương diện thân giáo (dùng đời sống
chân chính hợp đạo để chỉ dạy).
3. Vô úy thí.
Vô úy nghĩa là không sợ. Vô úy thí là làm cho người khác
không sợ, hết sợ. Phép thí này mới nghe thì tưởng như là
không quan trọng gì cả. Nhữnh nếu suy nghĩ một cách chín
chắn, chúng ta sẽ thấy đức Phật thật vô cùng thâm thúy khi
chế ra pháp thí này.
Chúng ta hãy nghĩ lại
mà xem, có phải trong một đời người, cái sợ đã chiếm nữa
cuộc đời rồi không? Khi nhỏ chúng ta sợ la rầy, sợ đánh đập,
sợ ma quỉ...khi tráng niên sợ thiếu ăn, thiếu mặc, sợ giặc,
sợ thiếu công danh, sự nghiệp; khi già sợ đau, sợ ốm, sợ
già, sợ chết...Chỉ toàn sợ và sợ. Ðó là chưa nói đến gặp
thời buổi loạn lạc, còn phải sợ sưu cao, thuế nặng, sợ quan
tham, lại nhũng, sợ trộm cướp, lưu manh, sợ tù, sợ tội, sợ
chém, sợ giết...Bao nhiêu thứ sợ chồng chất lên đầu người,
làm cho họ không dám ngửng lên, lưng họ còm xuống, đầu gối
họ sắp quỵ. Muốn có một hình ảnh tượng trưng cho sự sợ hãi,
thì hãy lấy hình ảnh của người dân quê Việt nam trong thời
Pháp thuộc thì rõ: Hai tay họ sẵn sàng chắp lạy, mắt không
dám nhìn lên, lưng còng xuống và hai đầu gối sẵn sàng để quỳ
xuống mỗi khi nghe tiếng nạt của ông quan hay ông thực dân
hống hách.
Ðời sống đã khổ, lại
càng khổ thêm vì sợ. Cho nên làm cho người hết sợ, chính là
đã cứu cho họ bớt đi quá nửa khổ đau trong kiếp sống. Lòng
từ bi của đức Phật không nở thấy chúng sinh khổ sở vì sợ,
nên đã chế ra phép thí vô úy.
Muốn thực hành pháp môn
này, hành giả trước tiên phải luyện cho mình một đức tính
đừng sợ gì cả. Mà kẻ tu hành chân chính, hiểu rõ giáo lý của
Phật, thì còn sợ nỗi gì? Tiền của, họ không tham lam cho nên
không sợ mất; danh lợi, họ không màn, nên không sợ thiếu,
sanh mạng, họ xem như giả tạm, nên không sợ chết. Do cái tâm
lý đó mà cõi lòng họ luôn luôn không xao động, nét mặt họ
luôn luôn bình tĩnh trước mọi sự đổi thay, gian nan nguy
hiểm. Người tu hạnh thí vô úy sẵn sàng để nhảy xuống nước
vớt người sắp chết chìm, nhảy vào lửa để cứu người sắp chết
thiêu, xông vào đám cướp để cứu người lương thiện, đến gõ
cửa công, để minh oan cho người vô tội...
Tóm lại, người tu hạnh
thí vô úy, hễ đi đến đâu thì đem đến đó một nỗi binh tĩnh,
an vui cho mọi người và mọi vật.
III. Phải Bố Thí Như
Thế Nào Mới Ðúng Chánh Pháp
Chúng ta đã biết qua
các lối Bố thí Ba la mật. Ðến đây, chúng ta cũng cần biết rõ
thái độ của người tu hạnh bố thí phải như thế nào.
Sự bố thí như đã nói
trên, thật ra không khó và không hiếm. Rất nhiều người có
thể làm được. Trong đời, chúng ta thường thấy có nhiều kẻ
giàu có đem bạc ngàn bạc vạn ra bố thí, có nhiều người bỏ cả
tài sản ra lập nhà thương, ký nhi viện, trường học, có nhiều
người dám liều mạng xông vào lửa để cứu kẻ sắp chết thiêu,
nhảy xuống nước cứu người sắp chết đuối; có những kẻ anh
hùng đem tài năng ra bảo vệ kẻ yếu hèn, hay dám đương đầu
với bọn xâm lăng để giữ gìn đất nước.
Về phương diện thí
pháp, có nhiều người đi đâu cũng đem đạo lý ra giảng nói, đi
đâu cũng tỏ ra ta đây hiểu đạo, chứng quả.
Nếu nhìn bề ngoài, thì
những hành động ấy đều là bố thí cả. Nhưng nếu xét về tâm lý
và động lực thúc đẩy bên trong, thì có thể có hai trường hợp
khác xa nhau.
1. Bố thí chấp
tướng. Nghĩa là bố thí với một dụng tâm không trong
sạch. Chúng ta đã biết bố thí do từ tâm mà ra. Bố thí là một
pháp môn để tự độ và độ tha. Những nếu bố thí với một dụng
tâm khác như cầu danh, cầu tài lợi (cho ít mà cầu được trả
nhiều), hoặc vì ganh đua, hoặc vì muốn làm nhục người chịu
ơn, hoặc vì bị ép buộc, hoặc cho với một tâm lý khinh rẻ,
hối tiếc hoặc cho với một tâm lý lừa lọc, bất công, thiên
vị; nếu bố thí với một tâm lý, một thái độ như thế, thì tất
là bố thí chấp tướng.
Chẳng hạn đem tiền của
ra lập nhà thương, trường học để được nêu trên báo, để được
nhắc nhở đến luôn; hoặc nhảy xuống sông cứu người chết đuối
để được "người đẹp" tán thưởng; hoặc giết giặc để mong được
tấm huy chương, hoặc giảng đạo lý để tỏ ra mình học rộng
biết nhiều. Những hành vi bên ngoài đẹp đẽ ấy, bên trong
thật không có giá trị gì.
Bố thí với tâm lý, với
động lực như thế, không phải là Bố thí Ba la mật; và phước
đức của những hành động ấy thuộc về hữu lậu rất mỏng manh,
như mây nổi giữa hư không, gặp gió thổi liền tiêu tan.
2. Bố thí không
chấp tướng. Nghĩa là bố thí với một dụng ý trong
sạch, đúng với ý nghĩa của nó.
Trong khi bố thí, hành
giả vì tâm từ bi bình đẳng, xem chúng sinh như con, nên
không sinh tâm vị kỷ, không phân biệt bỉ thử, thân sơ. Hành
giả vì biết tài sản cũng như thân mạng mình đều là giả tạm,
vô thường, nên không tham lam, tiếc nuối. Hành giả vì biết
cái ngã không có thật, nên khi cho không thấy có kẻ cho và
người nhận, không tự cao, tự đại.
Bố thí với một tâm địa
trong sạch như trên sẽ được phước vô lậu thanh tịnh, mới
đúng là Bố thí Ba la mật.
IV. Công Ðức Bố Thí
Ba La Mật
Pháp bố thí là cái nhân
lành của quả phúc ở thế gian và xuất thế gian. Trong lục độ
vạn hạnh, pháp bố thí đứng đầu, vì nó tương đối dễ làm hơn
tất cả các pháp, mà công đức lại lợi lạc được cả đôi bên
người nhận và kẻ cho:
1. Ðối với người
nhận. Người đời không ai là đầy đủ. Kẻ được phần này thì
thiếu phần khác: kẻ được vật chất thì mất tinh thần, kẻ đầy
đủ tinh thần thì thiếu thốn vật chất.
Kẻ đang thiếu thức ăn
mà được ăn, kẻ đang thiếu mặc mà được mặc, kẻ đang đau xót
mà được vỗ về, an ủi, kẻ đang lo sợ mà được đùm bọc che chở
thì thật là may mắn sung sướng vô cùng. Trong một xã hội có
được nhiều người giàu lòng từ bi bác ái, luôn luôn tìm cách
giúp người, thì xã hội ấy chắc chắn sẽ được an vui thịnh
đạt.
2. Ðối với người
cho. Sự bố thí đã đành là lợi lạc cho người nhận, những
đối với người cho cũng không kém phần quý báu. Ngoài sự sung
sướng được thấy mình làm việc phải, được thấy quần sinh sung
sướng, vui mừng, hành giả còn nhờ bố thí mà tiến mau, tiến
xa trên đường đạo. Mỗi khi đem của cải ra cho, là hành giả
có một dịp để chiến thắng lòng tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ và
nới rộng lòng từ bi; mỗi khi hy sinh tánh mạng để cứu giúp
người, là hành giả có dịp để thử thách lòng tham sống, sợ
chết, và trau dồi đức tánh lợi tha, bình tĩnh. Mỗi khi cho
mà không kể kẻ thân người thù, là hành giả có dịp để chiến
đấu với ngã chấp ngã ái, ngã mạn. Nếu hành giả thí pháp, thì
đó là những cơ hội để mình tự nhắc nhở, ghi nhớ những lời
đức Phật dạy, những công đức mà Ngài đã làm để noi theo.
C. Kết Luận
Chúng ta đã thấy rõ giá
trị của pháp Bố thí Ba la mật. Công đức của nó không những
chỉ riêng cho người nhận, mà lẫn cả người cho nữa. Nó vừa độ
người mà vừa độ mình. Có công năng đưa mình và người từ bờ
mê lầm đến bờ giác ngộ, từ địa vị phàm phu đến quả vị Bồ
Tát.
Vậy xin khuyên các Phật
tử đều phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bố thí Ba la mật, để trên cầu
thành quả Phật, dưới hóa độ chúng sinh, đền ơn Tam Bảo.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 6 (tt)
Ðộ thứ
hai: Trì Giới Ba La Mật
A. Mở Ðề
Bất luận một đoàn thể,
một tổ chức nào trong xã hội, muốn có qui củ, có đường lối
để tiến triển, đều phải có kỷ luật hay giới điều. Kỷ luật
càng chặt chẽ thì đời sống chung của tổ chức, cũng như của
mỗi cá nhân trong tổ chức ấy lại càng mau tiến phát. Trái
lại, một đoàn thể không kỷ luật là một toán người ô hợp, dù
ban đầu có đông đảo, hùng mạnh bao nhiêu, rồi chẳng bao lâu
cũng sẽ tan.
Kỷ luật bao giờ cũng do
những người lãnh đạo đặt ra. Một người lãnh đạo càng sáng
suốt bao nhiêu, có kinh nghiệm bao nhiêu, thì qui luật, giới
điều mà họ chế ra, lại càng có giá trị thực tiễn, có công
dụng quí báu bấy nhiêu.
Ðạo Phật là một cái đạo
có mục đích đưa người đến chỗ giác ngộ, và sáng lập là đức
Thích Ca, một đấng giác ngộ hoàn toàn. Vậy những giới luật,
những giáo điều của đạo Phật tất nhiên là phải có một giá
trị, một công dụng quí báu, bổ ích vô cùng cho những ai muốn
theo dấu chân của đức Phật.
Chính vì sự quan trọng
và lợi ích lớn lao của giới luật như thế, nên đức Phật đã
nhiều lần nhắn nhủ với các hàng Ðệ tử của Ngài ,phải nghiêm
trì giới luật. Ngài thường dạy: "Gặp thời không có Phật ,hãy
lấy giới luật làm thầy". Kinh Phạm võng cũng có chép: "Giới
sáng như mặt nhật, quí báu như ngọc châu anh lạc, các vị Bồ
Tát đều do trì giới thanh tịnh mà thành Chánh giác".
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
"Trì" là giữ giới chặt
chẽ; "Giới" là những điều răn dạy, ngăn cấm, những qui luật
mà đức Phật đã chế ra để hướng dẫn các Ðệ tử của Ngài đi vào
con đường chánh, và tránh cho họ những hầm sâu hố hiểm mà họ
có thể rơi vào, trên con đường đi đến quả vị Phật.
Vậy trì giới ba la mật
là một môn tu để đi đến bờ giác ngộ bằng cách giữ gìn nghiêm
chỉnh, trọn vẹn giới luật mà đức Phật đã răn dạy.
II. Thành Phần Của
Giới Luật
Căn cơ của chúng sanh
không đồng nhau, và sự tu hành của Ðệ tử Phật cũng có nhiều
cách; vì thế, đức Phật phải chế ra rất nhiều giới luật và
phân ra nhiều loại để áp dụng cho sát vào căn cơ và lối tu
của mỗi hạng người. Tuy thế, chúng ta có thể phân chia giới
luật của Phật ra làm ba phần và hai cấp bậc:
Giới tại gia cho hàng
Tiểu Thừa.
Giới xuất gia
Giới Ðạo và Tục
thông hành (Bồ Tát giới) cho hàng Ðại Thừa.
1. Giới tại gia.
Giới tại gia là những giới dành cho những người chưa xuất
gia trong hàng Tiểu Thừa, tức là những cận sự nam và cận sự
nữ (cư sĩ tại gia). Những người này có thể thọ trì từ một
đến năm giới (Ngũ Giới) hay tám trai giới (bát quan trai).
2. Giới xuất gia.
Xuất gia gồm có năm chúng: Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na
ni, Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Các chúng này tùy theo sự tu hành
thấp hay cao, nam hay nữ mà giữ giới nhiều hay ít:
Sa di và Sa di ni phải
giữ 10 giới.
Thức xoa ma na ni phải
giữ 6 điều giới và tập 296 hạnh giới.
Tỳ kheo phải giữ 250
giới
Tỳ kheo ni phải giữ
348 giới.
3. Giới đạo tục
thông hành. Giới đạo tục thông hành chính là giới Bồ
Tát. Ấy là giới mà Phật tử tại gia và xuất gia trong hàng
Ðại Thừa phải thọ trì, sau khi đã phát tâm Bồ đề tu Bồ Tát
hạnh để mở rộng bề làm Phật sự và hóa độ thế chúng sinh.
Phạm vi bài này chỉ nói
về Ðại Thừa Bồ Tát giới và đây những giới mà người tu hạnh
trì giới ba la mật cần phải biết và giữ cho đúng.
Bồ Tát giới gồm có:
Nhiếp luật nghi
giới. Người thọ trì "Nhiếp luật nghi giới" là người
quyết giữ đúng mười hai giới trọng và bốn mươi tám giới
khinh, nghiã là quyết không làm một việc ác nào cả.
Nhiếp thiện pháp
giới. Người thọ trì "nhiếp thiện pháp giới" là người
quyết tâm làm tất cả các việc lành.
Nhiêu ích hữu tình
giới. Người thọ trì giới này là người quyết tâm tu hạnh
từ bi ,hỷ xả, làm tất cả những điều lợi ích cho tất cả chúng
sinh, không một loài nào mà chẳng hóa độ.
III. Phải Trì Giới
Như Thế Nào Mới Ðúng Chánh Pháp
Cũng như pháp tu bố thí
nói ở bài trước; trì giới ba la mật cũng có hai cách: Trì
giới sai chánh pháp và trì giới đúng chánh pháp, hay nói
theo danh từ nhà Phật là: Trì giới chấp tướng và trì giới
không chấp tướng.
1. Trì giới chấp
tướng. Trì giới chấp tướng là trì giới mà chỉ có
hình thức bên ngoài, chứ bên trong thì rất nhiễm ô. Chẳng
hạn trì giới vì háo thắng để được người đời khen ngợi; trì
giới với một tâm lý tự cao tự đại, cho mình hơn người, và
khinh dễ người phàm giới; trì giới vì bị ép buộc, nên thiếu
hoan hỷ mà sanh tâm buồn phiền, miễn cưỡng...Trì giới như
thế là thiếu thành tâm, là giả dối, đánh lừa mình và người.
Trì giới như thế chẳng ích lợi gì, chỉ thêm mất thời giờ và
không phải là trì giới Ba la mật.
2. Trì giới không
chấp tướng. Trì giới không chấp tướng là làm theo
đúng vẹn toàn các điều răn cấm mà đức Phật đã chỉ dạy, không
vì danh lợi, không vì háo thắng, không vì bị hoàn cảnh ép
buộc mà làm.
Trong khi trì giới,
hành giả không hề nghĩ mình giỏi hơn người, cũng không chấp
nê theo giới luật, khinh dễ người phạm giới. Hành giả chỉ vì
thuận theo đức tánh vốn không nhiễm trước mà làm điều lợi
ích cho tất cả chúng sinh và nhìn nhận "trì giới" là bổn
phận của mình không thể bỏ qua được. Trì giới như thế mới
đúng là trì giới Ba la mật, công đức sẽ vô lượng vô biên.
IV. Công Ðức Trì
Giới Ba La Mật
Như trên đã nói, trì
giới Ba la mật có một hiệu lực rất lớn lao cho việc tu hành
của người Phật tử. Phật tử thọ trì giới luật nghiêm trang
thanh tịnh thì lúc hiện tiền tâm được thơ thới an vui, không
có gì phải ân hận. Ðối với làng nước, hành giả được niềm nở
kính nhường, nhất là đối với các tín đồ, lúc nào cũng được
hoan hỷ, quý trọng. Trong kiếp vị lai, hành giả chắc chắn
được chứng quả Bồ đề, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Nếu chúng ta đem so
sánh pháp môn bố thí với trì giới Ba la mật, thì sẽ thấy
phép trì giới hơn hẳn bố thí một bậc.
Người Phật tử có tài
thí, pháp thí mà không có trì giới, thì không thể thành Phật
được, vì người ấy vừa tạo phước và cũng vừa gây tội, do chỗ
không trì giới, thành thử gây nghiệp thiện ác xen tạp, đâu
được trọn lành mà mong chứng đến quả Thánh?
Trái lại, người Phật
tử, nếu chỉ chăm chú nghiêm trì giới luật, thì chắc chắn sẽ
thành Phật. Vì sao vậy? Vì trong lúc chuyên tâm trì giới là
đã có tài thí và pháp thí hàm súc rồi:
Khi hành giả trì giới
được thanh tịnh, thì tâm từ bi ,hỷ xả bủa khắp. Hễ họ thấy
kẻ nào làm hạnh tài thí, pháp thí cho ai, thì liền sanh tâm
hoan hỷ tán thành công đức, như thế tức là người ấy được một
phần công đức "tùy hỷ bố thí".
Hơn nữa, khi hành giả
thành thật chuyên trì giới luật, thực hành theo đúng lời
Phật dạy, làm gương mẫu cho quần sinh bắt chước, tức là đã
thí pháp bằng thân giáo. Còn khi hành giả trì tụng giới luật
cho nhập tâm thuần thục, cũng tức là thí pháp bằng khẩu
giáo.
Xem như thế thì trì
giới Ba la mật là một pháp môn rất thần diệu, có thể bao gồm
cả bố thí lẫn trì giới, chắc chắn sẽ đưa hành giả đến bờ
giải thoát.
C. Kết Luận
Giá trị và công năng
của trì giới Ba la mật đã được chứng minh một cách rõ ràng,
chúng ta không còn nghi ngờ điều gì nữa. Giờ đây chúng ta
còn một quyết định dứt khoát là phát tâm dõng mãnh trì giới
Ba la mật.
Sự tu chỉ cốt ở thực
hành. Dù thông minh tài trí đến đâu, dù thâm hiểu giáo lý
đến đâu, mà không thực hành, thì cũng vô ích. Chúng ta đừng
nên quên rằng chữ "hành" thường đi theo chữ "học" và chữ
"tu" (học hành, tu hành). Ðạo Nho cũng có câu: "học nhi thời
tập chi". Ðạo Phật lại dạy một cách mạnh mẽ hơn: "tu mà
không học là tu mù; học mà không tu là cái đảy sách". Nhất
là khi đã mang danh Phật tử, đã thọ giới mà không giữ giới,
thì chẳng khác gì đem giới luật của Phật ra mà phỉ báng và
làm trò cười cho thế nhân.
Vậy chúng tôi xin
khuyên quí Phật tử, sau khi đã nhận chân giá trị cao quí và
lợi ích lớn lao của pháp môn trì giới Ba la mật, hãy mau mau
phát tâm rộng lớn tu hành trì giới này, để chóng thoát vòng
sinh tử khổ đau.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 7
Lục Ðộ (tiếp
theo)
Ðộ thứ ba: Tinh Tấn Ba La Mật
A. Mở Ðề
Ngạn ngữ ta có câu: "Ăn
không lo, của kho cũng hết". Thực vậy, dù tiền rừng bạc biển
mà ăn rồi ngồi không, thì cơ nghiệp cũng có ngày tiêu tan.
Ðối với người giàu, lười biếng còn như thế, huống hồ đối với
người nghèo túng, thì lười biếng là một chứng bệnh rất nguy
hiểm...
Người làm ruộng không
siêng năng cày cấy, bón phân tát nước, thức khuya dậy sớm,
lo lắng mọi việc, thì đến mùa lúa, chắc chắn sẽ bị thất bại,
thiếu trước hụt sau, nợ nần vây kéo, cả năm buồn bả.
Anh thợ máy hay chị thợ
may không siêng năng với nghề nghiệp, lười biếng ăn chơi mãn
tháng suốt năm, vì tiền bạc không dư nên phải vất vả, đến
khi đau ốm lại càng khổ vô cùng.
Người đi buôn bán,
không siêng năng thức khuya dậy sớm, mua tảo bán tần, thì
phải bị lỗ lã, thâm thủng nhiều ngày, mang công mắc nợ, nên
phải sang tiệm thế đồ, gia tài khánh kiệt.
Trong đạo Phật cũng
vậy, lười biếng là một cái tội. Người học đạo không tinh tấn
thức khuya dậy sớm tham thiền, quán tưởng, niệm Phật tụng
kinh, không lo hoằng dương chánh pháp, cứ biếng nhác qua
ngày, tiêu pha của đàn na thí chủ; như thế mình đã không tự
độ, thì làm sao độ tha được ! Hiện tại không có lợi ích gì
cho đạo, sau khi chết phải trả nợ cho đàn na thí chủ. Nói
chung lại, người lười biếng dù ở ngoài đời hay trong đạo, dù
làm việc gì cũng không thành công.
Muốn tránh những điều
tai hại trên, ta phải tu pháp Tinh tấn Ba la mật.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
"Tinh" là tinh chuyên
(ròng rặt) một việc không có xen tạp. "Tấn" là tiến tới mãi
mãi không dừng, không gián đoạn hay thối lui.
Hai chữ tinh tấn nói
theo nghĩa thông thường là siêng năng chuyên cần; theo Duy
thức học, thì tinh tấn là món trong mười một món thiện tâm
sở, không phải thuộc về phần tội ác. Bởi vậy, người siêng
năng làm những điều sai quấy như siêng năng đào đường khoét
vách, cờ bạc rượu chè thì không phải là tinh tấn, mà duy
thức học gọi là "phóng dật" (buông lung)
II. Thành Phần Của
Tinh Tấn Ba La Mật
a) Tinh tấn ngăn các
điều ác đừng sanh. Nghĩa là các điều ác, từ trước đến
giờ mình chưa làm đến, thì từ nay về sau cũng phải tinh tấn
đừng cho nó phát sinh. Thí dụ như từ hồi nào đến giờ, ta
không hề sát sinh hại vật, trộm cướp gian giảo, trêu hoa
ghẹo nguyệt, nói lời dối trá hung ác và cờ bạc rượu chè
v.v...thì từ đây về sau ta cũng phải tinh tấn thêm lên, cố
gắng giữ gìn cho đừng sanh khởi.
b) Tinh tấn diệt cho
mau các điều ác đã sanh. Nghĩa là các điều ác mà mình đã
lỡ làm rồi, thì phải tinh tấn diệt trừ cho mau, thí dụ như
ta lỡ tạo những tội ác tham lam trộm cướp, đa mê sắc dục,
giận dữ kiêu căng, thì nay ta phải tinh tấn đừng cho nó tăng
trưởng thêm nữa, mà trái lại phải diệt trừ cho chóng.
c) Tinh tấn làm cho
các điều lành phát sinh. Nghĩa là từ trước đến nay có
những điều lành ta chưa thực hiện được, thì nay ta phải tinh
tấn để cho nó phát hiện ra trong hành động. Thí dụ, lâu nay
ta chưa làm những việc thiện xã hội, bỏ công bỏ của ra giúp
người nghèo đói tật nguyền, hay ta chưa quy y thọ giới, ăn
chay niệm Phật, học đạo nghe kinh v.v...thì từ ngày hôm nay
ta phải tinh tấn làm cho các điều làm này được phát sanh.
d) Tinh tấn làm cho
các điều lành tăng trưởng. Nghĩa là các điều lành đã
được phát sanh rồi, nay ta phải tinh tấn làm cho nó tăng
trưởng hơn nữa, hay ta đã quy y rồi, bây giờ phải tinh tấn
phát nguyện trì giới. Nếu ta đã thọ Ngũ Giới rồi, bây giờ
phải tinh tấn tu Bát quan trai...Tóm lại, tất cả việc lành
từ ngoài đời cho đến trong đạo, mình đã làm thì phải tinh
tấn làm sao cho mỗi ngày được phát triểủn.
IV. Phải Tinh Tấn
Như Thế Nào Mới Ðúng Chánh Pháp?
Tinh tấn, cũng như bố
thí và trì giới, đều có hai phương diện:
a) Tinh tấn có chấp
tướng. Có người trước mặt mọi người, thì rất tinh tấn,
lăng xăng làm việc này việc khác, tỏ ra cần mẫn chăm chỉ để
được tiếng khen, nhưng khi không ai nhòm ngó, thì lại rất
giãi đãi. Có người vì sợ người trên la rầy, quở phạt mà tinh
tấn; nhưng khi được tự do, không ai kiểm soát thì lại buông
lung. Có người tinh tấn với một tâm lý háo thắng, quyết hơn
người để tự cao tự đại.
Tinh tấn với một dụng
tâm không trong sạch, như vì danh, vì lợi, vì sự kiêu căng
v.v...đều là tinh tấn chấp tướng, không đúng là tinh tấn Ba
la mật.
b) Tinh tấn không
chấp tướng. Tinh tấn không chấp tướng tức là tinh tấn
một cách chân thành, không vì dục vọng mà chính vì mình
nhiều tội lỗi, nên quyết tâm sửa chữa, thấy mình cần giải
thoát ra khỏi luân hồi, nên phải gấp rút chuyên cần tu
luyện. Người tinh tấn không chấp tướng thì dù ở giữa đám
đông người hay ở một mình, dù có người nhắc nhở kiểm soát
hay không ,dù đạt được quả vị cao hay thấp v.v...cũng không
bao giờ thay đổi ý chí và thái độ quyết tiến của mình, mà
mục đích là giải thoát mình và người ra khỏi cảnh khổ sanh
tử luân hồi.
IV. Công Ðức Của
Tinh Tấn Ba La Mật
Trong tất cả sự nghiệp,
vĩ đại ở đời, hay kết quả vẻ vang trong đạo, cái bí quyết
duy nhất để thành công là pháp tinh tấn. Tinh tấn như là
chất dầu xăng làm cho chiếc xe hơi chạy. Ðộng cơ dù tốt,
người lái dù giỏi, con đường dù bằng phẳng, mục đích dù gần,
mà không dầu xăng thì chiếc xe vẫn ở nguyên một chỗ.
Cho nên câu nói cuối
cùng của đức Phật Thích Ca với các Ðệ tử trước khi nhập diệt
là: "Hỡi các người, hãy tinh tấn lên để giải thoát". Người
thọ trì Tam quy, tinh tấn giữ năm giới và làm các điều phước
thiện, thì sẽ được sanh lại làm nhân đạo, phúc thọ song
toàn. Người tinh tấn tu Thập thiện và tu Tứ thiền, Bát định,
thì sẽ sanh về cõi Trời Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
Người thấy các khổ cảnh sanh lòng nhàm chán cảnh đời, quyết
tâm dứt trừ các phiền não, tinh tấn tu ba mươi bảy phẩm trợ
đạo, kết quả sẽ chứng được bốn quả Thanh Văn. Người quán
thấy mười hai nhân duyên là nguồn gốc của nhiều kiếp sanh tử
luân hồi, tinh tấn tu hành, quyết đoạn trừ mười hai nhân
duyên, sẽ thành quả Duyên giác. Các vị Bồ Tát, xứng theo tự
tánh vô tham của mình, tinh tấn tu pháp bố thí ba la mật;
xứng theo tự tánh vô sân, tinh tấn tu pháp nhẫn nhục ba la
mật; xứng theo tự tánh vô si, tinh tấn tu pháp trì giới ba
la mật; xứng theo tự tánh tịch tịnh, tinh tấn tu pháp tu
pháp thiền định ba la mật...Tóm lại, các vị Bồ Tát trong khi
tu, vì xứng với thể tánh chân tâm của mình mà tu pháp lục
độ, không chấp ở nơi ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh
tướng, thọ giả tướng, không thấy mình có, có người, có năng
sở, bỉ thử, thì khi nhân hạnh Bồ Tát được viên mãn, sẽ thành
quả Phật.
Xem thế đủ biết công
đức của tinh tấn lớn lao biết chừng nào. Tu pháp môn nào
cũng vậy, hễ có tinh tấn mới có hiệu qủa, không tinh tấn thì
hòan toàn thất bại.
C. Kết Luận
Giá trị và lợi ích của
tinh tấn không thể nghĩ bàn, vậy trong khi làm việc đời cũng
như việc đạo, chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị sẵn đức tinh
tấn, như người tài xế chuẩn bị xăng nhớt, trước khi làm
những cuộc hành trình xa xôi. Nếu chúng ta không luyện được
đức tinh tấn, không chiến thắng được tánh giải đãi, buông
lung thì chúng ta hãy cân nhắc rằng, công việc mà chúng ta
sắp làm sẽ hoàn toàn thất bại. Công việc tu hành, đi từ bờ
mê đến bến ngộ, đường dài muôn trùng vạn dặm, trải qua bão
táp mưa sa, nếu không có được đức tinh tấn, như các bùa hộ
mệnh và bí quyết tiến thủ, thì chúng ta chỉ quanh quẩn mãi
trong biển sanh tử luân hồi.
Một lần nữa, hãy nghe
lời đức Bổn sư dạy còn văng vẳng bên tai: "Hỡi các người!
Hãy tinh tấn lên để giải thoát".
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 7 (tt)
Ðộ thứ
tư: Nhẫn Nhục Ba La mật
A. Mở Ðề
Kinh Hoa Nghiêm có nói:
"Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai" (một niệm
lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn muôn ức cửa nghiệp
chướng đều mở ra). Thật vậy, lắm người vì một phút không dằn
được cơn tức giận, mà đánh đập vợ con đến tàn tật, đốt phá
của cải quý báu của ông cha để lại, rồi phải ân hận suốt
đời. Lắm lúc, vì không làm chủ được tánh nóng nẩy mà tình
cốt nhục phải chia ly, nghĩa vợ chồng phải phân rẽ, bạn chí
thân trở thành kẻ oán thù...
Người học đạo cũng vậy,
nếu gặp nghịch cảnh không nhẫn nhịn được, thối chí nản lòng,
đôi khi phải bị đọa đày. Như ông Ðộc giác tiên nhân, vì một
niệm sân hận không nhẫn được, mà phải bị mất năm pháp thần
thông. Ông Uất Đầu Lam Phất, vì sân hận mà phải đọa làm loài
phi ly trùng (chồn bay). Nên sách có nói: "Nhất sân chi hỏa
năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn" (Nghĩa là một đóm
lửa sân, có thể đốt tan muôn mẫu rừng công đức).
Vậy muốn trừ sân hận
một cách có hiệu quả, phải tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
"Nhẫn" là nhịn, chịu
đựng những cảnh trái mắt nghịch lòng. "Nhục" là điều sỉ
nhục, điều xấu hổ, làm tổn thương đến lòng tự ái của mình.
Nhẫn nhục Ba la mật là
nhẫn nhục đến chỗ cùng tột không còn ai có thể nhẫn nhụ hơn
thế nữa.
II. Thành Phần Của
Nhẫn Nhục Ba La mật
1. Thân nhẫn.
Ðối với nghịch cảnh như nắng mưa, nóng lạnh, đói khát, đau
ốm, hoặc bị người đánh đập, hành hạ, làm bức não nơi thân,
mình cũng cam chịu, không phàn nàn hay chống cự lại. Ðây là
chịu đựng về thể xác.
2. Khấu nhẫn.
Thân đã nhẫn chịu không chống lại người và miệng cũng không
thốt ra những lời nguyền rủa độc ác, trước những lời mạ nhục
chua cay, mắng nhiếc tồi tệ hay đánh dập tàn nhẫn.
3. Ý nhẫn.
Nhẫn nhục cả trong tâm, không căm hờn, không oán giận, không
nổi lên ý phản đối, những tư tưởng hắc ám để trả thù.
Trong ba thứ nhẫn này,
"ý nhẫn" là khó nhất và quan trọng nhất. Có nhiều khi thân
có thể chịu đựng được các hình, nhưng miệng vẫn lẩm bẩm
nguyền rủa. Thêm một lần nữa, miệng tuy không thốt ra những
lời phản đối, nguyền rủa, nhưng ý vẫn ngấm ngầm phản đối, và
tức giận đốt cháy tim gan.
Ðến khi "tâm ý" cũng
không ngấm ngầm nổi dậy phản đối, sự tức giận lắng xuống tận
đáy lòng; đứng trước mọi nghịch cảnh, lòng vẫn phẳng lặng
như không, thì nhẫn nhục mới thật là hoàn toàn.
Nếu bên trong vẫn chưa
nhẫn được, thì thế nào giận giữ cũng có ngày xuất hiện ra
trong lời nói và hành động.
III. Phải Nhẫn Nhục
Như Thế Nào Mới Ðúng Chánh Pháp?
1. Nhẫn nhục có
chấp tướng. Nhẫn nhục vì sợ quyền thế; Nhẫn nhục vì
đang nằm trong hoàn cảnh bất lợi chưa thể trả thù được; Nhẫn
nhục để mong cầu được người khen, hay được chức trọng, quyền
cao; Nhẫn nhục vì khinh bỉ đối thủ, hay tự cho mình cao hơn
người, không thèm chấp nê, phản đối. Nhẫn nhục như thế là
Nhẫn nhục chấp tướng vì còn do dục vọng tham, sân, si, mạn
thúc đẩy, chưa phải là Nhẫn nhục Ba la mật.
2. Nhẫn nhục
không chấp tướng. Người tu hạnh Nhẫn nhục ba la mật,
trước hết phải do ý muốn diệt trừ lòng sân hận, kiêu mạn,
tất đố, tự ái, tham lam...Nếu có người chửi mắng, mình phải
bình tĩnh tự nghĩ rằng: "Ta có làm điều gì sái quấy không?
Nếu có, thì ta bị sỉ nhục là phải, ta nên cảm ơn người. Nếu
ta trong trắng, thì những lời sỉ nhục ấy có dính líu gì đến
ta đâu, mà phải khổ tâm nghĩ đến?"
Hơn nữa, người tu Nhẫn
nhục còn nhắm mụt đích trao dồi lòng từ bi và hỷ xả, ta Nhẫn
nhục không oán giận, không trả thù là vì ta thương người, ta
muốn xem mọi người như thân thuộc anh em. ta Nhẫn nhục vì ta
không muốn cuộc đời là một đấu trường, một bãi chiến, một lò
lửa của sân hận, đốt thiêu tất cả.
Chúng ta hãy tập cho
được Nhẫn nhục như ông Purna trong câu chuyện sau đây: "Khi
Phật còn tại thế, một Ðệ tử của Phật, ông Purna xin Phật đi
qua truyền đạo tại xứ Chronaparanta, là một xứ có tiếng rất
hung ác. Phật hỏi ông Purna:
Ông đã phát nguyện đem
đạo pháp của ta đến truyền bá cho dân xứ ấy, nhưng nếu ho
không nghe, lại còn dùng lời hung ác mắng chửi ông, thì ông
nghĩ sao?
Bạch Thế tôn, con
nghĩa: Họ là người tốt, vì họ không dùng cây đánh đập con,
hay lấy đá ném con.
Phật hỏi tiếp:
Nếu họ lấy cây đánh
ông, hay dùng đá ném ông, thì ông nghĩ sao?
Bạch Thế tôn, con nghĩ:
Họ vẫn còn lòng nhân, vì họ không chém giết hay đập con đến
chết.
Phật lại hỏi:
Nếu họ chém giết hoặc
đánh chết ông thì ông nghĩ sao?
Bạch Thế tôn, con nghĩ:
Họ là ân nhân của con, vì nhờ họ mà con thoát được thân đau
khổ, bỏ được bọc thúi tha, từ biệt đời sống khốn nạn này.
Ðức Phật khen:
Hay lắm ! Ông nhẫn nhục
được như vậy thì mới có thể qua xứ ấy truyền đạo được !
Ông Purna qua xứ
Chronaparanta truyền đạo không bao lâu, dân chúng xứ ấy đều
qui đầu Phật pháp cả.
Nhẫn nhục như ông Purna
mới thật đúng là Nhẫn nhục Ba la mật, nghĩa là nhẫn từ ngoài
thân đến trong tâm, nhẫn mà không thấy mình nhẫn và cảnh
nhục để nhẫn.
IV. Công Ðức Của
Pháp Nhẫn Nhục Ba La mật
Như đoạn mở đầu đã nói,
lửa sân hận có thể đốt thiêu tất cả những gì quí báu, mà
loài người đã xây dựng được trên thế giới này. Lửa sân hận
chỉ có thể bị dập tắt bằng nước Nhẫn nhục Ba la mật.
Không Nhẫn nhục thì gia
đình ly tán, bạn hữu chia lìa, tớ thầy đoạn tuyệt, đồng bào
xung đột, thế giới chiến tranh.
Có Nhẫn nhục thì gia
đình sum họp, bạn hữu tương thân, tớ thầy trung tín, đồng
bào đoàn kết, thế giới hòa bình. Riêng đối với bản thân,
không Nhẫn nhục thì lửa giận thiêu đốt lòng mình và dục vọng
hoành hành, sự nghiệp tiêu tan, mọi người xa lánh, đạo quả
khó tròn.
Có Nhẫn nhục thì lòng
từ chan chứa, thanh tịnh tràn lan, sự nghiệp dâng cao, người
người quí trọng, đạo quả viên thành.
Vì nhận thấy công đức
lớn lao và quí báu của Nhẫn nhục cho nên cổ nhân đã có nhắn
nhủ với người đời một cách mạnh mẽ như sau:
Nhẫn nhẫn nhẫn, trái
chủ oan gia tùng thử tận
Nhiêu nhiêu nhiêu,
thiên tai vạn họa nhất tề tiêu
Mặc mặc mặc, vô hạn
thần tiên tùng thử đắc
Hưu hưu hưu, cái thể
công danh bất tự do
Nghĩa là:
Nhẫn nhẫn nhẫn (thân
nhẫn, miệng nhẫn, tâm nhẫn)
thì những điều trái chủ
oan gia từ đây dứt hết.
Nhịn nhịn nhịn (thân
nín, miệng nín, tâm nín) thì cảnh giới thần tiên vô hạn cũng
do đây mà được.
Thôi thôi thôi
(thân, miệng, tâm đều thôi) thì những công danh cái thế
không còn tự do.
C. Kết Luận:
Chúng ta không còn nghi
ngờ gì nữa giá trị và công đức lớn lao, quý báu của nhẫn
nhục. Giờ đây chúng ta chỉ còn quyết tâm thực hành ngay pháp
môn này. Nhất là đối với Phật tử nào đã nhiều lần bị lửa
giận tàn phá tâm can, gia đình và sự nghiệp của mình, hãy
mau mau tu tập pháp nhẫn nhục này. Ðừng để phải ăn năn, hối
tiếc và khổ đau thêm một lần nữa vì lửa nóng giận.
Kẻ tu hành lại càng gấp
rút thực hành pháp môn này. Không có gì tai hại cho sự
nghiệp tu hành của mình mà làm cho người chung quanh khinh
lờn, xa lánh bằng sự nóng giận, cọc cằn nơi một kẻ xuất gia
cầu đạo. Dù những người ấy có tinh thông kinh điển bao
nhiêu, tu hành bao nhiêu ,mà khi thấy nét mặt họ đỏ gay,
giọng nói họ quát tháo, cử chỉ họ mất tự chủ, thì người
chung quanh không còn tin tưởng ở sự tu hành của họ nữa, vì
sự nóng giận tố cáo họ một cách hùng hồn.
Chúng tôi tưởng không
cần phải nói nhiều hơn nữa về những tai hại của giận dữ; vì
chắc rằng những ai đã có lần giận dữ cũng đã thấy rõ như thế
rồi.
Ðể kết luận bài này,
chúng tôi chân thành cầu mong cho mọi người cùng chúng tôi,
đều thật hành pháp môn nhẫn nhục này một cách có hiệu quả,
để cõi đời thêm phần an lạc
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 8
Ðộ thứ
năm: Thiền Ðịnh Ba La Mật
A. Mở Ðề
Kẻ tu hành muốn đến bờ
giải thoát hoàn toàn, cần phải tu cả phước lẫn huệ. Trong
bốn độ trước của lục độ mà chúng ta đã học, chỉ nói về tu
phước. Trong hai độ cưối cùng là Thiền định và Trí huệ,
chúng ta sẽ học về tu huệ.
Trước tiên, chúng ta
hãy tìm hiểu tánh cách quan trọng và giá trị của Thiền định.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Thiền định là gì? Thiền
phiên âm theo tiếng Phạn là Thiền na, xưa dịch là tư duy,
nay các học giả dịch là Tĩnh lự. Tu Tư duy có nghĩa là tu
tập bằng phương pháp suy nghiệm, nghiên tầm và suy cứu về
những đối tượng của tâm thức. Tĩnh lự có nghĩa là dùng tâm
thể vắng lặng để thẩm sát các vấn đề đạo pháp.
Còn chữ Ðịnh phiên âm
theo tiếng Phạn là Tam muội (Samadhi), có nghĩa là tập trung
tâm lý vào một đối tượng duy nhất, không để cho tâm ý tán
loạn. Hợp hai chữ Thiền và Ðịnh lại, ta có một định nghĩa
chung: Tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất không cho
tán loạn, để tâm thể được vắng lặng và cho tâm dụng được
mạnh mẽ, hầu quan sát và suy nghiệm chân lý.
II. Các Loại Thiền
định
Thiền định có thể gọi
là một trạng thái của tâm lý, trạng thái ấy gọi là trạng
thái Tĩnh lự. Song ở Dục giới, tâm lý không thể có được
trạng thái ấy, vì nó chỉ phát hiện ở Sắc giới, và Vô sắc
giới. Rõ hơn nữa là Thiền thuộc về Sắc giới và Ðinh thuộc về
Vô sắc giới. Ở mỗi giới, Thiền và Ðịnh đều phân làm bốn cấp
bực từ thấp lên cao, cho nên có danh từ là Tứ thiền và Tứ
định.
Tứ thiền và Tứ định
này, tuy là kết qủa của công phu tu tập Thiền định, hay gieo
trồng thiện căn, nhưng cũng là chung cho cả Phật pháp, cả
Thế gian pháp, cả Thánh cả Phàm. Nói rõ hơn, là dù theo
phương pháp Ðạo Phật hay phương pháp nào, nếu có đường lối,
có công phu đều có thể đạt đến Tứ thiền và Tứ định; nhưng
đây cũng chỉ là thế gian pháp mà thôi.
Còn nói về pháp Ðịnh
của chư Phật, Bồ Tát và A La Hán thì khác. Ðó là Thiền định
thuộc Xuất thế gian pháp, không thể phát hiện trong phạm vi
Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới được. Muốn đạt đến trạng
thái Tĩnh lự của các bậc ấy, người ta phải đạt đến sự thoát
ly tam giới. Còn lẩn quẩn trong tam giới thì tâm ý chỉ có
thể đạt đến Tứ định là cùng.
Muốn có được Tứ thiền
và Tứ định, chỉ phải thoát ly và đoạn diệt phiền não ở Dục
giới. Nhưng nếu muốn đạt các pháp Ðịnh vô lậu, thì phải diệt
trừ tất cả các phiền não của Vô sắc giới.
Trước khi mong đến được
Ðịnh vô lậu, phải vấn đến Thiền, bởi vì Thiền là căn bản của
Ðịnh. Có được ngũ nhãn, lục thông cũng nhờ Thiền. Vả lại,
Thiền có công dụng thẩm sát, nghiên cứu. Nếu muốn quan niệm
chân lý, tất phải nhờ đến Thiền, do đó Thiền là pháp tối yếu
cho kẻ học đạo.
Ðứng về phương diện các
trình độ của Thiền, kinh sách có dạy như sau:
1. Thế gian
thiền. Thiền này có hai loại: Căn bản vị thiền và
Căn bản tịnh thiền. Căn bản vị thiền gồm có mười hai phẩm,
phân làm ba: Tứ thiền, Tứ vô lượng và Tứ không.
Người phàm chán cảnh
tán loạn của Dục giới thì tu Tứ thiền. Người muốn phước lớn
thì tu Tứ vô lượng. Kẻ nhàm chán cảnh sắc giới chật hẹp thì
tu Tứ không. Vì mười hai phẩm Thiền này có thể làm căn bản
cho thịện pháp xuất thế gian, nên gọi là căn bản Thiền. Với
lại, an trú trong mười hai phẩm ấy, người tu Thiền còn ưa
thích cảm giác lạc thọ của Thiền, nên gọi là căn bản vị
Thiền.
Căn bản vị thiền, phân
làm hai: Lục diệu môn và Thập lục đặc thắng. Ai có huệ tánh
nhiều thì tu Lục diệu môn, kẻ nào có định tánh nhiều thì tu
Thập lục đặc thắng. Những ai có huệ tánh và định tánh đều
nhau thì có thẻ tu cả hai loại. Vì người ta có thể căn cứ
vào pháp Thiền này để phát sinh vô lậu trí, không phải chỉ
thuần hữu lậu, như ở Căn bản vị thiền, nên gọi là căn bản
tịnh thiền.
Tuy nhiên, cả hai loại
đều chỉ là thế gian thiền mà thôi, vì trước thời Phật giáng
thế, phép Thiền này đã có.
2. Xuất thế gian
thiền. Pháp thiền này là của bậc xuất thế. Có bốn
thứ Thiền quán: Cửu tướng quán, Bát bối xả quán, Bát thắng
xứ quán và Thập nhất thiết xứ quán. Tu bốn thiền quán này,
tuy là lấy các pháp hữu vi làm đối tượng suy nghiệm, những
có thể đi đến kết quả ly dục, phát sinh vô lậu trí, nên gọi
là Xuất thế gian thiền.
3. Xuất thế gian
thượng thượng thiền. Ðây là pháp Thiền cao tột của
các bậc đại nhân. Kinh Ðịa trì có giải về chín môn đại thiền
này như sau:
Một là "Tự tánh thiền",
nghĩa là quán sát thật tướng của tự tâm, không cần lấy đối
tượng ngoại cảnh.
Hai là "Nhất thiết
thiền", có công năng tự hành và hóa tha.
Ba là "Nan thiền", môn
Thiền gian nan, thâm diệu, khó tu.
Bốn là "Nhất thiết môn
thiền", có nghĩa là tất cả các pháp Thiền định đều do môn
(cửa) này mà phát xuất.
Năm là "Thiện nhân
thiền", môn Thiền của những chúng sanh có đại thiện căn cùng
tu.
Sáu là "Nhất thiết hạnh
thiền", bao nhiếp tất cả hạnh pháp của Ðại Thừa.
Bảy là "Trừ não thiền",
có năng lực trừ diệt phiền não, khổ đau cho chúng sinh.
Tám là "Thử thế tha thế
lạc thiền", có năng lực làm cho chúng sinh an lạc trong hiện
tại và tương lai.
Chín là "Thanh tịnh
tịnh thiền", có năng lực đoạn trừ hoàn toàn các hoặc nghiệp,
và chứng được Tịnh báo đại Bồ đề. Ðến môn Thiền này, tâm ý
hoàn toàn thanh tịnh và lại cũng không còn thấy cái tướng
thanh tịnh ấy nữa, nên gọi là Tịnh báo.
III. Công Năng Của
Thiền định
Theo Bồ Tát hạnh, có
thể tu tập Thiền định và đạt đến mười kết quả tốt đẹp sau
đây:
Một là được an trụ
trong pháp thức uy nghi. Tu Thiền định phải theo pháp thức
mà hành trì, như vậy trải qua một thời gian khá lâu, thì ngũ
căn được tịch tịnh, chánh định phát khởi, không cần có sự cố
gắng mà vẫn được an trụ trong pháp thức oai nghi.
Hai là được thực hành
cảnh giới từ bi. Khi tu Thiền định, thì giữ được tâm từ bi,
thương yêu chúng sinh, muốn cho tất cả được an ổn.
Ba là không còn phiền
não. Nhờ năng lực Thiền định mà các phiền não tham, sân, si,
không còn phát sinh nữa.
Bốn là gìn giữ được các
giác quan. Không cho sắc, thanh, hương, vị, xúc lay động.
Năm là vui vẻ lạc thú.
Xem Thiền định là một món ăn ngon lành hơn tất cả các món ăn
khác trong thế gian.
Sáu là xa lìa được ái
dục. Một khi tâm niệm đã lắng yên, ái dục không còn phát
sinh và làm nhiễm trước được nữa.
Bảy là chứng được chân
không ,nhưng không bao giờ bị rơi vào chỗ chấp đoạn diệt hư
vô.
Tám là cởi mở được tất
cả những dây trói buộc sự giải thoát.
Chín là khai phát được
trí huệ vô lượng và an trú trong cảnh giới của chư Phật.
Mười là đạt đến sự giải
thoát thành thục, đến chỗ mà tất cả hoặc nghiệp không còn
nhiễu lại được nữa.
C. Kết Luận:
Chúng ta có thể tóm tắt
thành quả tốt đẹp của Thiền định như sau:
Ngũ căn được tự tại,
phiền não được dứt trừ ,từ bi được mở rộng, trí huệ được
phát chiếu, cảnh giới giải thoát được phô bày ra trước mắt.
Một pháp môn có công năng quí báu, có diệu dụng phi thường
như thế, làm sao chúng ta có thể bỏ qua được?
Mong rằng vì lợi ích
thiết thực nói trên, quí vị Phật tử hãy gắng công tu tập
pháp môn Thiền định này cho chíng có kết quả.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 8 (tt)
Ðộ thứ sáu: Trí Huệ Ba La Mật
A. Mở Ðề
Trong đạo Phật, hai
tiếng vô minh được nhắc nhở đến luôn, vì chính vô minh là
nguồn gốc, là đầu dây mối nhợ của đau khổ của sanh tử luân
hồi. Phật thường dạy: "Cái khổ của lạc đà, của lừa ngựa chở
nặng mãn kiếp, cái khổ trôi lăn trong tam giới chưa gọi là
khổ. Ngu si không trí huệ tin tưởng sai lạc, không biết
hướng đi, cái ấy mới thật là khổ".
Ngài còn dạy một cách
mạnh mẽ, dứt khoát hơn: "Si là gốc của tội lỗi, Trí huệ là
gốc của muôn hạnh lành". Chúng ta là Phật tử chúng ta không
muốn gây tội lỗi để chịu quả khổ đau, chúng ta chỉ mong làm
được các hạnh lành để hưởng phước quả và được giải thoát.
Vậy tất nhiên chúng ta phải tu huệ, trì Trí huệ Ba la mật.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Trí huệ là gì? "Trí"
phiên âm chữ phạn là Phã na; "Huệ" phiên âm chữ Phạn là Bát
nhã. "Trí" có nghĩa là quyết đoán; "Huệ" có nghĩa là giản
trạch, Tự điển Phật học Trung Hoa định nghĩa như sau: "Trí
là biết Tục đế và Huệ là thông hiểu Chân đế".
Cũng có thể nói: Trí là
thể tánh sáng suốt trong sạch, Huệ là cái Diệu dụng xét soi
tự tại. Trí huệ Ba la mật là thể tánh sáng suốt có khả năng
soi sáng sự vật một cách thấu đáo tinh tường đến nơi đến
chốn, không thể sai lầm được.
II. Các Loại Trí
Huệ
Trí huệ như định nghĩa
trên là trí huệ của đạo Phật, chứ không phải trí huệ phổ
thông, thường dùng trong các sự học hỏi hiểu biết, suy luận
hằng ngày trong đời.
Theo triết học Phật
Giáo, khả năng nhận thức có hai loại: Hiện lượng và tỷ
lượng.
1. Hiện lượng:
Là sự nhận biết trực tiếp không cần qua trung gian suy luận.
Hiện lượng lại chia làm hai:
Chân hiện lượng, là
nhận thức trực tiếp mà đúng.
Tợ hiện lượng, Là nhận
thức trực tiếp mà sai
2. Tỷ lượng:
Là sự nhận biết qua trung gian suy luận. Tỷ lượng cũng có
hai thứ:
Chân tỷ lượng, là lối
hiểu biết bằng suy luận đúng đắn.
Tợ tỷ lượng, là lối
hiểu biết mà suy luận mà sai lầm.
Hiện lượng của địa vị
phàm phu rất kém cỏi và phần nhiều là tợ hiện lượng. Tỷ
lượng của địa vị phàm phu lại còn kém cỏi hơn nữa và phần
nhiều là tợ tỷ lượng. Ðứng về phương diện tính chất, Ðạo
Phật chia trí huệ ra làm hai loại lớn là " Căn bản trí" và "
Hậu đắc trí".
1. Căn bản trí:
Căn bản trí, là giác tính minh diệu mà mỗi chúng sinh vốn đã
có sẵn, nhưng vì bị phiền não che lấp, nên chưa phát chiếu
ra được. Có thể so sánh căn bản trí như là một chất kim khí
quí báu (vàng, bạc) đang ở trong trạng thái khoáng chất, nằm
lần lộn với đá (phiền não vô minh)
2. Hậu đắc trí:
Hậu đắc trí, là trí huệ có được nhờ công phu tu tập như trì
giới, thiền định v.v...Có thể so sánh Hậu đắc trí như chất
kim khí (vàng, bạc) được lọc từ khoáng chất ra và không còn
lẫn lộn với đất đá, bụi bặm nữa (phiền não, vô minh).
Theo Duy thức học, sau
khi đạt đến địa vị Giác ngộ, nghĩa là có được "Hậu đắc trí",
thì tám thức chuyển thành bốn trí:
Thức thứ tám, A lại da
có tác dụng là chấp trí sanh mạng và chủng tử, được đạt đến
địa vị vô lậu và biến thành "Ðại viên cảnh trí" (trí sáng
như bức gương lớn và tròn đầy, tượng trưng cho biển cả chơn
như).
Thức thứ bảy, Mạt na có
tác dụng là chấp ngã, biến thành "bình đẳng tánh trí" (trí
có năng lực nhận thức cách bình đẳng, vô ngã của vạn pháp).
Thức thứ sáu, Ý thức có
tác dụng là phân biệt, biến thành "Diệu quan sát trí" (trí
có năng lực quan sát thâm diệu).
Năm thứ cuối (nhãn
thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức) biến thành
"Thành sở tác trí" (trí có năng lực nhận thức cùng khắp và
thần diệu)
III. Làm Thế Nào Ðể
Có được trí Huệ?
Muốn có được trí huệ,
đức Phật chế ra nhiều pháp tu. Trong số nhiều pháp tu ấy thì
"Văn, Tư, Tu" và "Giới, Ðịnh, Huệ" là những pháp thường được
nhắc nhở và thực hành nhiều nhất.
Văn, Tư, Tu: Văn, Tư,
Tu là ba pháp tu để có được trí huệ:
Văn huệ: là huệ
do tai nghe âm thanh, mắt thấy âm tự của Phật, hay qua các
kinh điển mà hiểu được nghĩa lý.
Tư huệ: là huệ
do trí suy nghĩ, tìm tòi, rõ được nghĩa lý, hiểu được sự
thật.
Tu huệ: là huệ
do tu hành thể nghiệm và thể nhập chân lý, mà gíac ngộ,
chứng được sự thật.
Văn, tư, tu rất tương
quan mật thiết với nhau, hành giả cần phải chuyên tu cả ba
thứ, không thể bỏ qua một thứ nào mà thành tựu được. Hãy
nghe Phật dạy:
" Văn huệ, tư huệ, tu
huệ, ba môn khuyết một không được. Nếu ai nghe mà không suy
nghĩ, thì như làm ruộng mà không gieo mạ; nếu suy nghĩ mà
không tu, thì như làm ruộng mà không tát nước, bừa cỏ, rốt
cuộc không có kết quả. Ba huệ được đầy đủ thì chứng quả Tam
thừa?" (Sa Di thập giới).
Giới: là lời răn dạy
của Phật (xem lại bài Trì giới Ba la mật).
Ðịnh: là thiền định,
giữ cho tâm ý không loạn động, để suy nghiệm đến những vấn
đề căn bản của Ðạo (xem lại bài Thiền Ðịnh Ba la mật).
Huệ: là sự phát chiếu
của Trí, sau khi đã tẩy sạch phiền não và vô minh.
Giới, Ðịnh, Huệ tương
quan mật thiết với nhau: Do trì giới mà thân tâm không loạn
động. Do thân tâm không loạn động mà tâm trí được Ðịnh. Tâm
trí khi đã định thì Trí huệ phát chiếu.
Ngược lại, Trí huệ phát
chiếu thì tâm dễ Ðịnh, Tâm đã Ðịnh thì Trì giới không khó
khăn.
Tóm lại: Giới, định,
huệ, đều tương duyên tương quan mật thiết với nhau, một cái
tăng thì hai cái kia cũng tăng.
IV. Công Năng Của
Trí Huệ
Như chúng ta đã thấy
trong phần chia loại, trí huệ khi đã đạt đến địa vị Giác ngộ
(tám thức chuyển thành bốn trí) thì công năng, diệu dụng của
nó rộng lớn vô cùng, không thể nói hết. Tuy thế, để có một
quan niệm tương đối rõ ràng, chúng ta có thể nêu lên ba công
năng chính của trí huệ như sau:
1. Dứt trừ phiền
não: Phiền não là do mê lầm phát sinh. Khi trí huệ
đã có thì mê lầm phải mất, như khi ánh sáng phát ra thì bóng
tối tất phải tan biến. Mê lầm đã mất thì phiền não tất không
còn phát sinh nữa.
2. Chiếu sáng sự
vật: Sự vật bị vô minh che khuất, như màn sương sớm
che phủ cảnh vật, nay trí huệ phát chiếu vào sự vật, chẳng
khác gì khi ánh sáng mặt trời lên, thì màn sương tất phải
tan biến, lúc bấy giờ thực tướng thực tánh của sự vật được
lộ bày như thật.
3. Thể nhập chân
lý: Khi bị vô minh phủ lấp, ngăn che thì người ta
với vật tưởng như riêng biệt, sai khác. Nay nhờ trí huệ soi
sáng, thấy rõ được tâm cảnh đều chơn không, nên thể nhập
được chân lý, giác ngộ hoàn toàn.
C. Kết Luận
Gíá trị và công năng
của trí huệ lớn lao không thể nói hết. Nó là cứu cánh của
người Phật tử. Cứu cánh ấy, chúng ta phải cố đạt cho được.
Trước khi nhập Niết
Bàn, đức Phật cũng đã thiết tha khuyên các Ðệ tử phải trao
dồi trí huệ như sau:
" Trí huệ là chiếc
thuyền kiên cố chở khỏi biển già, đau, chết; là ngọn đèn lớn
chói sáng vô minh hắc ám, là liều thuốc hay chữa hết thảy
bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt gãy cây phiền não. Vậy các
người phải lấy sự nghe, sự suy nghĩ, sự tu tập mà tự tăng
ích cho trí huệ mình". (Kinh Di Giáo).
Những lời nhắn nhủ
thống thiết của đức Bổn sư, chúng ta không thể không ghi nhớ
và thực hành được. Vả chăng, trong sáu độ Ba la mật mà chúng
ta đã học trong ba bài kế tiếp này, mục đích cũng chỉ để dẫn
đến độ thứ sáu là trí huệ, cái mức độ cuối cùng của đạo Giác
ngộ và giải thoát.
Cầu mong tất cả quý vị
Phật tử có được trí huệ để tự độ và độ tha đến bên kia bờ
giải thoát.
Tổng Kết Về Lục Ba La
Mật
Ðạo Phật là đạo từ bi,
mà cũng là đạo giác ngộ. Từ bi thuộc về phước, giác ngộ
thuộc về huệ. Phước và Huệ là hai cánh làm cho con chim đại
bàng là hành giả làm bay thẳng đến bờ giải thoát. Do đó,
trong kinh thường nói: "Phước, Huệ song tu mới thành ngôi
Chánh giác". Trong sáu pháp Ba la mật, bố thí và nhẫn nhục
thuộc về tu phước; thiền định và trí huệ thuộc về tu huệ;
còn trì giới và tinh tấn là hai chất liệu có công dụng kiểm
soát và đốc thúc cho việc tu phước và huệ được thành tự hoàn
toàn.
Nếu chúng ta đem so
sánh một cách mộc mạc và đơn giản sáu pháp Ba la mật với
chiếc thuyền Bát nhã đưa người từ bờ mê đến bến giác, thì:
Từ bi là thức ăn, nhẫn nhục là nước uống, tinh tấn là cánh
buồm và chèo, trì giới là bánh lái, thiền định là la bàn và
trí huệ là đèn đuốc. Sáu thứ ấy đều cần thiết cho người thủy
thủ sẽ gặp khó khăn trong công cuộc hành trình vạn dặm của
mình.
Ðứng về một khía cạnh
khác để nhận xét giá trị của lục độ, chúng ta sẽ thấy như
thế này: Bố thí và nhẫn nhục thuộc về bi, thiền định và trí
huệ thuộc về Trí, còn trì giới và tinh tấn thuộc về Dũng.
Một Phật tử hoàn toàn phải có đủ ba phương tiện Bi, Trí,
Dũng mới mong đi đến bờ giác ngộ một cách thông suốt và
nhanh chóng.
Vậy trong quí vị Phật
tử tại gia cũng như xuất gia, trong khi học và hành sáu pháp
Ba la mật, đừng nên xem thường một pháp nào. Có như thế mới
đủ phương tiện và năng lực để tự đọ và độ tha, đến nơi cùng
tột và đúng với ý nghĩa Ba la mật.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 9
Bốn Món
Tâm Vô Lượng
A. Mở Ðề
Ðứng về phương diện
tuyệt đối, hay chơn như môn, thì tâm của chúng sinh hay tâm
của Phật cũng vẫn là một, không có rộng hẹp, thấp cao, sai
khác, ngăn cách.
Nhưng đứng về phương
diện tương đối hay sinh diệt môn, thì tâm có muôn hình vạn
trạng, tùy theo chủng tánh của chúng sinh mà có cao thấp,
rộng hẹp không đồng. Hễ nghĩ đến tham, sân, si, mạn
v.v...thì tâm trở thành nhỏ hẹp, lớn bé, ngàn sai, muôn
khác, cũng như cùng một thứ bột mà do người thợ làm bánh,
khéo hay vụng mà có bánh ngon, bánh dở, bánh tốt, bánh xấu,
bánh lạt, bánh mặn v.v...Cho nên Tôn cảnh Lục có chép: " Tâm
tạo chư Phật, tâm tạo chúng sinh, tâm tạo thiên đường, tâm
tạo địa ngục. Tâm vọng động thì ngàn sự sai biệt tranh khởi,
tâm bình thì thế giới thản nhiên, tâm phàm thì ba món độc
trói buộc, tâm thánh thì sáu món thần thông tự tại, tâm
không thì nhứt đạo thanh tịnh, tâm hữu thì vạn cảnh tung
hoành. Tự mình đạp mây mà uống nước cam lồ, chẳng có ai cho
mình. Nằm trong lửa hừng mà uống máu mủ cũng tự mình gây
nên, không phải trời sanh ra, cũng không phải do đất mà có
".
Xem thế thì cũng đủ
biết tâm là động lực chính để làm cho ta sướng hay khổ, vui
hay buồn, trầm luân hay giải thoát.
Vậy muốn thoát khỏi khổ
sanh tử luân hồi, muốn được quả vị thánh nhân, Bồ Tát, chúng
ta cần trau giồi cho được một tâm vô cùng rộng lớn, một "vô
lượng tâm".
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Vô lượng là gì? Vô
lượng nghĩa là nhiều, rộng lớn, không thể lường tính được.
Tâm vô lượng là tâm vô
cùng rộng lớn thoát ra khỏi sự ràng buộc của các thứ phiền
não đê hèn của phàm phu, phá vỡ được các thứ quan niệm chấp
trước hẹp hòi của Nhị thừa, là tâm có một vùng thương yêu
rộng lớn có thể bao trùm đến vô lượng chúng sinh, và tìm
phương cứu cho tất cả. Vô lượng tâm cũng có nghĩa là "Ðẳng
tâm", cái tâm bình đẳng, phổ biến; bình đẳng, vì tâm này chỉ
tự nhiên, không phân biệt so đo thấp cao, hơn kém; phổ biến,
bởi nó trang trải mọi nơi chẳng khu biệt, giới hạn.
Và dĩ nhiên, nhân nào
quả nấy: do thi hành bình đẳng, phổ lợi cho vô lượng chúng
sinh, nên chi tâm này có công năng dẫn sinh vô lượng phước
đức, làm cho sự kiện căn bản để cảm thành vô lượng quả báo
tốt đẹp, ấy là quả vị Bố tát và Phật đà.
Hơn nữa, tâm này không
những làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh, dẫn sinh vô lượng
phước đức, và tạo thành vô lượng quả vị tốt đẹp trong một
thế giới và trong một đời, mà còn lan rộng ra đến vô lượng
thế giới trong vô lượng kiếp sau này, và tạo thành vô lượng
chư Phật.
Tóm lại, chữ vô lượng ở
đây hàm nhiều nghĩa, vô lượng nhân lành, vô lượng quả đẹp,
vô lượng chúng sinh, vô lượng thế giới, vô lượng đời kiếp,
vô lượng chư Phật và Bồ Tát.
II. Thành Phần Và
hành Tướng Của Bốn Món Tâm Vô Lượng
Tâm vô lượng gồm có bốn
phần là: bi vô lượng, từ vô lượng, hỷ vô lượng và xả vô
lượng.
1. Bi vô lượng.
Bi là lòng thường xót rộng lớn trước những nỗi đau khổ của
chúng sinh và quyết tâm làm cho dứt trừ những đau khổ ấy.
Như chúng ta đã học trong khóa thứ ba nói về Tứ đế, cái khổ
của chúng sinh thật là mênh mông, rộng lớn không thể nói
hêt. Nó bao trùm cả nhân lẫn quả, cả thời gian lẫn không
gian, cả phàm lẫn thánh, thật đúng là vô lượng khổ.
Khổ nằm trong nhân.
Trong các kinh điển thường có câu: "Bồ Tát sợ nhân, chúng
sinh sợ quả". Chúng sinh vì không sáng suốt cho nên chỉ khi
nào quả khổ hiện ra mới lo sợ, chứ trong khi đang gây nhân
thì lại không nhận thấy, mà vẫn cứ thản nhiên như không. Họ
đang sống trong cảnh khổ mà họ không biết, nhiều khi lại cho
là vui. Họ hoan hô tán thán và khuyến khích nhau gây khổ mà
cứ tưởng là vui, như những đứa trẻ quẹt diêm quăng lên mái
nhà lá, rồi vỗ tay reo mừng với nhau. Vì thiếu sáng suốt cho
nên đôi khi họ gây khổ để cứu khổ, chẳng khác gì làm cho đỡ
khát bằng cách uống nước mặn.
Khổ nằm trong quả. Ðã
gây nhân quả, thì tất phải chịu quả khổ, đó là lẽ tất nhiên.
Có ai trồng khoai mà được đậu bao giờ? Thế mà người đời ít
ai chịu công nhận như thế. Người ta oán trời trách đất, rên
khóc thảm thiết, làm cho cõi đời đã đen tối lại càng đen tối
thêm, cuộc sống đã khổ sở lại càng khổ sở thêm.
Khổ sở bao tùm cả thời
gian. Từ vô thỉ đến nay, cái khổ chưa bao giờ dứt, mà cứ
trồng thêm lên mãi. Nó gây nhân rồi lại kết quả, kết quả rồi
lai gây nhân, cứ thế tiếp tục mãi trong một vòng lẩn quẩn,
như bánh xe lăn tròn trên đường thiên lý, không bao giờ dừng
nghỉ.
Khổ bao trùm cả không
gian. Cái khổ không có phương sở và quốc độ; ở đâu có vô
minh thì ở đó có khổ! Mà vô minh thì như một tấm màn vô tận,
bao trùm không chỉ một thế giới khác nữa. Khoảng không gian
mênh mông vô tận như thế nào, thì nỗi khổ đau cũng mênh mông
vô tận như thế ấy:
Khổ chi phối cả phàm
lẫn thánh. Chúng sinh ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đã đành
là khổ vô cùng, loài người vì say đắm ngũ dục lạc, và tham
sân, si chi phối, nên cũng quay cuồng lặn hụp trong biển khổ
như còn chư thiên mặc dù không khổ như người, nhưng cũng
không tránh được cái khổ vì ngũ suy tướng hiện. Cho đến các
hàng thánh như Thanh Văn, Duyên giác, vì còn mê pháp, trụ
trước Niết Bàn, nên cũng không tránh khỏi nỗi khổ biến dị
sanh tử. Xem thế đủ biết nõi khổ thật là lớn lao vô lượng.
Có được một lòng thương xót lớn lao vô lượng cân xứng với
nỗi đau khổ vô lượng và có một chí nguyện cứu độ tất cả
thoát khỏi nỗi đau khổ vô lượng, ấy là tâm Bi vô lượng.
Các vị Bồ Tát nhờ có
lòng đại bi nên đã phát tâm bồ đề rộng lớn, thệ nguyện độ
khắp tất cả. Các Ngài nhận thấy mình có sứ mạng vào trong
sanh tử để hóa độ chúng sinh, nên không chấp trệ ở Niết Bàn.
Sứ mạng chính của các Ngài là gần gũi chúng sanh để:
Làm cho chúng sanh nhận
được mặt thật của cõi đời, rõ thế nào là tà là chánh, là khổ
là vui.
Làm cho chúng sanh nhận
rõ được thân phận của mình mà thôi làm các điều ác, chừa các
điều tội lỗi.
Xem như thế đủ biết
lòng đại bi chính là động lực chánh để đi đến quả vi bỗ tát
và Phật. Trong đại hội Hoa Nghiêm đức bồ tát Phổ Hiền cũng
tự nhận và nói như thế này: "Nhơn vì chúng sanh mà khởi lòng
đại bi. Nhơn lòng đại bi mà phát tâm bồ đề. Nhơn phát tâm bồ
đề tiến thành ngôi chánh giác".
Câu nói của Ngài Phổ
Hiền đã rõ ràng, không còn nghi ngờ gì nữa. Phật đã dạy:
"Hạt giống Bồ đề, không thể gieo trên hư không, chỉ trồng
trên đất chúng sinh mà thôi". Vậy, chúng ta là Phật tử, muốn
tu bồ tát hạnh, tất phải mở rộng lòng Bi, thương xót tất cả,
không phân chia nhân, ngã, bỉ, thử, và phải phát nguyện độ
khắp tất cả, nghĩa là phải tu luyện cho có được một lòng Bi
vô lượng.
2. Từ vô lượng.
Từ là mến thương và vì mến thương mà gây tạo cái vui cho
người. Từ vô lượng là lòng mến thương vô cùng rộng lớn, đối
với toàn thể chúng sanh, và gây tạo cho chúng sanh cái vui
chân thật.
Vui của thế gian sở dĩ
gọi là giả tạm, vì cái vui ấy không bền, cái vui ấy còn
phiền não chi phối: khi tham, sân, si, mạn được thỏa mãn thì
vui, nhưng có bao giờ những thứ dục vọng ấy có thể thỏa mãn
được hoàn toàn và lâu bền đâu?
Còn vui xuất thế gian
là cái vui chân thật, vì nó lâu bền, thoát ra ngoài vòng
phiền não của tham, sân, si, mạn; nó không bị dục vọng chi
phối. Cái vui này không ồn ào, sôi nổi nhưng vĩnh viễn nhẹ
nhàng, vì là cái vui của cảnh giới giải thoát siêu phàm.
Muốn có được cái vui
này, thì trước tiên phải dứt trừ cho hết các khổ do phiền
não gây ra. Nếu không ngăn chặn được tham,sân, si hoành
hành, thì chỉ có thể có được một cái vui nhất thời giả dối.
Bởi thế, các vị Bồ Tát
muốn ban vui cho chúng sanh, thì trước tiên phải có lòng từ
bi vô lượng như đã nói trên, để luôn luôn răn nhắc chúng
sanh đừng gây tội dìu dắt chúng sanh tránh xa những hố hầm
nguy hiểm.
Qua các giai đoạn đầu
tiên ấy rồi, các Ngài mới hướng dẫn chúng sanh đi lên con
đường quang minh chánh đại, con đường sáng để tiến địa vị
giải thoát mà hưởng cái vui vĩnh viễn. Nói một cách rõ ràng
hơn là lòng Từ phải đi theo lòng Bi: Bi để chỉ nguyên nhân
của đau khổ và khuyên bảo chúng sanh đừng gây nhân khổ; Từ
để chỉ rõ phương pháp diệt khổ và được vui.
Tỷ dụ Bồ Tát muốn cho
chúng sanh hưởng cảnh Niết Bàn, thì trước hết các Ngài chỉ
cho biết thế nào là khổ (khổ đế) và đâu là nhơn của khổ (tập
đế), sau mới chỉ cho thấy cái vui Niết Bàn như thế nào (diệt
đế). Nếu chúng sanh y theo lời dạy của các Ngài mà thi hành,
thì cái vui Niết Bàn sẽ xuất hiện. Như thế, động lực dạy cho
chúng sanh biết khổ đế và tập đế là Bi, còn động lực dạy cho
chúng sanh biết diệt và đạo đế là Từ.
Nhưng nỗi khổ của chúng
sanh đã là vô lượng, lòng Bi đã là vô lượng, thì lòng Từ
cũng phải như thế. Muốn thành tựu tâm Từ này, Bồ Tát phải
dùng đủ phương tiện để làm lợi lạc cho chúng sanh. Tựu trung
có hai điểm quan trọng sau đây mà Bồ Tát không thể bỏ qua
trong khi hóa độ chúng sanh là: Tùy cơ và tùy thời.
Tùy cơ: Nghiã là
quan sát trình độ căn bản của chúng sanh như thế nào rồi tùy
theo đó mà dạy bảo. Tâm bệnh của chúng sanh vô lượng, nên
thuốc pháp của Bồ Tát cũng vô lượng. Nhưng chính vì bệnh vô
lượng mà thuốc cũng vô lượng nên cho thuốc đúng với bệnh là
một điều mà chỉ có các vi lương y đại tài như Hoa Ðà, Biển
Thước mới làm được.
Các vị bồ tát sở dĩ hóa
độ được nhiều chúng sanh là nhờ, ngoài trí huệ sáng suốt,
còn có một tâm Từ vô lượng, không quản khó khăn, không ngạị
gian nguy, một lòng kiên nhẫn vô biên như lòng kiên nhẫn của
người mẹ đối với người con, quyết tâm tác thành cho con nên
người mới thôi. Nếu không có được trí huệ, chí kiên nhẫn và
nhất là lòng từ bi vô lượng như các vị bồ tát thì khó tránh
khỏi cái nạn thối chuyển vì trần sa hoặc.
Dưới đây là một đoạn
văn chương trong Kinh Hoa Nghiêm có thể chứng minh một cách
hùng hồn lòng Từ vô lượng của đức Phổ hiền:
"...Hằng thuận chúng
sanh là như thế nào? Nghĩa là có bao nhiêu chúng sanh ở cõi
nước mười phương trong cả pháp giới, hư không giới...tôi đều
tùy thuận mà chuyển mọi thứ thừa sự, mọi cách cúng dường,
như kính cha mẹ, như phụng sự sư trưởng và A La Hán cho đến
bực Như Lai đều đồng không khác. Với kẻ bịnh khổ thì làm
lương y cho họ, với kẻ lạc đường, chỉ lối thẳng cho họ, với
kẻ trong đêm tối, làm cho họ được sáng lên và với kẻ nghèo
cùng, khiến cho họ được gặp của...Bồ Tát làm lợi ích bình
đẳng với tất cả chúng sanh như thế là vì Bồ Tát nhận thấy
rằng tùy thuận chúng sanh tức là tùy thuận cúng dường chư
Phật nên tôn trọng thừa sự chúng sanh tức là tôn trọng thừa
sự Như lai..".
Tùy thời. Tức là
thích ứng với thời đại với giai đoạn mà hóa độ chúng sanh.
Thời gian xoay vần cuộc thế biến chuyển mỗi khi một khác.
Thời tiết có khi mưa, khi nắng, thay đổi theo bốn mùa, thì
lòng người cũng có khi thích cái này khi ưa cái khác. Nếu
phương pháp hóa độ không biến chuyển, không thay đổi để cho
thích nghi với hoàn cảnh, với giai đoạn thì phương pháp dù
hay ho bao nhiêu, cũng chẳng thu được kết quả gì tốt đẹp. Bồ
Tát hiểu rõ như thế, nên khi dạy chúng sanh cũng phải theo
thời thế, biết khi nào là tượng pháp, khi nào mạt pháp để
cho giáo pháp được thích hợp với căn cơ.
Tóm lại, muốn hóa độ
chúng sanh một cách có hiệu qủa thì Bồ Tát bao giờ cũng
không quên hai điều chính là tùy cơ và tùy thời. Kinh "Tâm
Ðịa Quán" cũng có dạy:
" Các đức Phật chuyển
pháp luân, vẫn tùy cơ mà nói pháp, bao giờ cũng tránh bốn
điều sai lạc; một là nói không phải chỗ; hai là nói không
phải thời; ba là nói không phải là căn cơ; bốn là nói không
phải pháp".
Bởi những lẽ trên nên
Bồ Tát trong lúc hóa độ khi thì hiện thân, khi thì ẩn thân
lúc làm thuận hạnh, lúc lại nghịch hạnh, khi dùng oai dũng,
lúc lại Từ hòa. Công hạnh của bồ tát sai khác nhiều đến vô
lượng, nhưng chỉ phát sinh từ một ý duy nhất là tạo cái vui
chân thật cho chúng sanh.
Nên nhớ "tạo cái vui
chân thật" ở đây, không có nghĩa là tạo ra cảnh giới thiên
đàng hay cảnh giới cực lạc để cho những chúng sanh thân yêu
của mình vào hưởng, như người ta ban phép lạ, mà chỉ có
nghĩa là tạo cho chúng sanh cái mầm an vui chân thật bằng
cách thức tỉnh, dắt dẫn chúng sinh tránh các điều dữ làm các
điều lành một cách tích cực mạnh mẽ, cho đến khi cái mầm
vui, nhờ các hành động lành ấy mà kết quả vui mới thôi.
Ðấy, lòng Từ vô lượng
là thế. Như trên đã nói Từ phải đi theo với Bi. Nếu chỉ có
Bi không, thì đại nguyện của Bồ tát chưa thành, vì mới chỉ
cứu hkổ, chứ chưa ban vui. Chúng ta là Phật tử, muốn tu hạnh
Bồ Tát phải luyện tập cho lòng Từ mở rộng, mở rộng mãi cho
đến vô lượng vô biên.
3. Hỷ vô lượng.
Hỷ là gì? Nói cho đúng là tùy hỷ, nghĩa là "vui theo". "Vui
theo" có nhiều cách:
Phóng tâm vui theo
những cảnh trần: nào sắc, nào thanh, nào hương, nào vị, nào
xúc, nào pháp..để mặc cho nó làm chủ, không biết phản giác,
không biết tỉnh ngộ mà dẹp trừ những hiện hành phiền não, ấy
là vui theo dục vọng, theo thói quen phóng túng của lòng
phàm.
Vui theo ác nghiệp, như
khi thấy một người sát sanh, uống rượu, trộm cướp..đáng lẽ
ta nên khuyên can mà lại không, còn bằng lòng theo họ đi vào
con đường ác. Sự vui theo ở đây có nghĩa là khuyến khích
đồng lỏa với kẻ ác vậy.
Vui theo những việc
nhơn từ phước thiện, như khi thấy người đem của ra bố thí,
lập nhà thương, ta tán thành, giúp đỡ vui theo với công việc
của họ. Sự vui theo này là một bước tiến đi đến con đường
thiện nghiệp. Tuy thế, ta nên phân biệt hai trường hợp tốt
sẽ được nhiều phước báo, còn nếu không vì lòng thiện, nhưng
vì thấy người làm thiện được người ta ca tụng, danh tiếng
vang lừng mà mình cùng hùa theo tán thành, giúp đỡ để được
tiếng khen lây, thì không khéo chỉ gây thêm ngã ái ngã mạn.
Khác với những lối vui
trên, là những lối vui tầm thường của thế gian, hàng Nhị
thừa chỉ vui theo cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh. Thứ vui theo
này, tuy không có tánh cách trụy lạc ác độc, nhưng theo
chánh giáo, thì cũng còn hẹp hòi, thiếu lòng Từ bi rộng rãi
và chưa phải đúng nghĩa "hỷ" vô lượng tâm. Ðức Phật còn quở
đó là cái vui "Khôi thân diệt trí" hay "thu tịch Niết Bàn".
Chỉ có sự "vui theo"
sau đây của Bồ Tát mới đúng với nghĩa tâm Hỷ vô lượng.
Trong khi thật hành
phương tiện Từ bi để độ sinh và sau khi công hạnh này được
kết quả, nhận thấy chúng sinh hết khổ, hưởng vui, tâm của Bồ
Tát tự nhiên cũng vui theo. Trong luận Ðại Thừa Trang nghiêm
Ngài Trần Na Bồ Tát dạy rằng: "Sự vui này còn nhiều gấp bội
sự vui của chúng sinh được hưởng". Bồ tát còn xác nhận
rằng:"Nếu làm chúng sinh được vui, tức làm cho tất cả chư
Phật được vui mừng". Ðó là lời nói của đức Phổ Hiền.
Nên nhớ cái "Hỷ" của bồ
tát có những đặc điểm sau đây:
Chẳng những không làm
cho chúng sinh mê lầm mà còn giác ngộ cái mê và được giải
thoát.
Không còn bị buộc trong
vòng vui tự đắc làm tăng trưởng ngã mạn, chấp trước ở thế
gian, mà trái lại, làm cho chúng sinh xuất thế.
Thoát ra khỏi phạm vi
tư lợi mà phổ biến và bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.
Tóm lại, sự vui ở đây bắt nguồn từ lòng Từ bi mà phát ra.
Lòng Từ bi rộng lớn bao nhiêu thì cái "hỷ" này cũng rộng ớn
như thế.
Chúng ta là Phật tử, tu
hạnh Bồ tát, chúng ta phải tập cho được cái vui trong sạch,
giải thoát của các vị bồ tát, chứ đừng quay cuồng theo cái
vui nhiễm ô ích kỷ, hẹp hòi của phàm phu hay hàng Nhị thừa.
4. Xả vô lượng.
Xả là cái gì? Xả là bỏ, không chấp không kể.
Thói thường, khi chúng
ta làm điều gì, nhất là khi được két quả tốt, thì hay tự
hào, đắc chí đôi khi ngạo nghể. Sự bất bình, cãi vả xung đột
giữa bạn bè thân thuộc hay giữa nhóm này và nhóm khác cũng
do tánh chấp trước. tự cho là quan trọng ấy. Nguyên nhân của
tánh nầy là do sự chấp ngã, chấp pháp mà ra.
Phàm phu thì vừa thấy
có mình làm (chấp ngã) vừa thấy có công việc kết quả mình
đạt được (chấp pháp) nên cứ bị trói buộc trong cái giới hạn
phân chia nhân ngã, bỉ thử và do đó, không bao giờ thoát
được cảnh giới phàm phu.
Còn hàng Nhị thừa tuy
đã xả được chấp ngã, nhưng chưa xả được chấp pháp. Sau khi
nhờ tu tập, các Ngài thoát ly được tam giới chứng được quả
Hữu dư y Niết Bàn, các Ngài coi như đó là phần thưởng xứng
đáng của bao công phu tu tập và yên trí nơi cảnh giới sở đắc
ấy. Do đó, hàng Nhị thừa vẫn còn bị biến dịch sanh tử.
Chỉ có các vị bồ tát là
những bậc chứng được pháp không, nên đã ly khai quan niệm
pháp chấp. Khi các Ngài ra công cứu khổ cho chúng sinh, thì
đó là một sự cảm ứng tự nhiên, giữa các Ngài với chúng sinh,
các Ngài dùng trí hoàn toàn vô phân biệt để được bình đẳng
phổ biến theo đồng thể đại bi.
Chúng sinh có hưởng
được vui chăng, Bồ tát không thấy mình là kẻ ân nhân chủ
động. Trái lại, các Ngài còn thấy chúng sinh là ân nhân của
mình trên bước đường lợi tha tiến đến công hạnh viên mãn.
Bởi thê, lòng Từ, lòng Bi của Bồ Tát thoát khỏi vòng ái kiến
và trụ trước, tức là xả vậy. Ðến như lòng "Hỷ" cũng thế, Bồ
Tát vui lòng từ bi, thấy chúng sinh được vui chứ không phải
lối vui tự đắc, vui vì thành thật tán thán công đức chung
cùng chư Phật, chư Bồ tát và chúng sinh, chứ không phải vui
vì dắm miếng riêng tư. Cho nên tâm tùy hỷ đây cũng hoàn toàn
giải thoát, nghĩa là cũng thanh tịnh trên tinh thần "Xả".
Như vậy, Xả là một tâm
lượng quảng đại cao cả. Ở đó, không kiến lập một tướng nào.
Kẻ gần người xa đều bình đẳng, kẻ trí người ngu vẫn như
nhau, mình và người không khác; làm tất cả mà thấy như không
làm gì cả; nói mà thấy mình không có nói gì cả, chứng mà
không thấy mình có chứng và quả gì được.Cho nên trong kinh
Tứ thập nhị chương có chép "Niệm mà không chấp nơi niệm mới
là niệm, hành mà không chấp nơi hành là hành, nói mà không
chấp nơi nói mới là nói, tu mà không chấp nơi tu mới là tu.
Lý hội nghĩa ấy là gần đạo, mê mờ không rõ là xa đạo".
Làm như thế tức là Xả:
Xả hết tất cả mới thật là Bồ tát. Nếu còn chấp một tướng gì,
dù nhỏ nhặt bao nhiêu cũng chưa phải là Bồ tát. Hãy nghe
trong kinh Kim Cang Phật dạy ông Tu Bồ Ðề. "Này ông Tu Bồ
Ðề, nếu có vị Bồ Tát còn tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng
sinh, tướng thọ giả, tức chẳng phải là Bồ Tát".
Ý nghĩa chữ Xả đã rõ
ràng. Bây giờ chúng ta chỉ còn cố gắng tu tập dần dần cho
được cái tâm xả ấy. Thành tựu được cái Xả một cách hoàn toàn
cái Xả vô lượng tức là chứng quả Bồ đề.
III. Sự đối Trị Của
Bốn Món Tâm Vô lượng
Bốn món tâm vô lượng là
bốn trạng thái của Tâm Bồ Tát, nhưng đó cũng là bốn pháp tu
của những Phật tử tu hạnh Bồ tát.
Trong mỗi con người đều
có hai xu hướng: xu hướng thiện và xu hướng ác. Hai xu hướng
này cứ xung đột nhau luôn: hễ thiện thắng thì ác lùi, hễ ác
thắng thì hiện lùi.
Khi lòng Giận hừng hẩy,
thì tâm Bi bị lấn.
Khi lòng sân bừng dậy,
thì tâm Từ bị che khuất.
Khi Ưu não dẫy đầy, thì
tâm Hỷ không phát hiện.
Khi lòng Ái dục còn
nặng nề, thì tâm xả không sanh.
Trái lại, khi tâm Bi
lớn mạnh, thì lòng Hận phải yếu mòn.
Khi tâm từ lan rộng,
thì lòng sân phải lùi.
Khi tâm hỷ bừng lên,
thì lòng Ưu não phải dẹp xuống.
Sự chiến đấu với phiền
não cũng như sự chiến đấu với giặc cướp, phải tiếp tục mãi
cho đến khi toàn thắng mới dừng lại. Nếu chúng ta mới chiến
thắng vài ba trận đã vội thỏa mãn và dừng nghỉ, thì giặp
cướp sẽ tái phát và hoành hành trở lại.
Cũng thế, trong trận
chiến đấu của Từ, Bi, Hỷ, Xã, chống sân, hận, ưu, dục chúng
ta phải tiếp tục thi hành cho đến toàn thắng, nghĩa là Bành
trướng các đức từ, bi hỷ, xả cho đến vô cùng tận để sân,
hận, ưu, dục hoàn toàn bị tiêu diệt mới thôi. Một khi bóng
tối đang còn, là vì ánh sáng chưa mạnh, muốn bóng tối hoàn
toàn tiêu tan, thì ánh sáng phải đủ sức chiếu soi cùng khắp.
Khi từ bi, hỷ xả, đã trở thành vô lượng thì phiền não sẽ
không còn và hành giả đạt đến quả vị Bồ tát. Ðó là ý nghĩa
"phiến não tức là Bồ đề" mà Ngài Bồ tát Trần Na đã dạy trong
Luận Ðại Thừa Trang nghiêm.
C. Kết Luận
Chúng ta thường nghe
quen tai và nói quen miệng bốn tiếng "từ bi hỷ xả". Những
chính vì "quen" quá mà chúng ta không để ý phân tách ý nghĩa
sâu xa của nó. Bốn đức tánh ấy có một sự tương quan mật
thiết và bổ túc cho nhau, thiếu một không được:
Vì thấy chúng sinh vô
cùng khổ sở, nên thương xót chúng sinh. Vì thương xót chúng
sinh nên ra tay cứu chúng sinh khỏi khổ (Bi). Cứu chúng sinh
khỏi khổ cũng chưa phải làm xong nhiệm vụ của tình thương,
nên cần phải tiếp tục làm cho chúng sinh được vui (Từ). Khi
chúng sinh hết khổ được vui, mình mới vui được (Hỷ). Nhưng
nếu cái vui này mà còn vướng ngã mạn, tự đắc vì tự cho mình
đã thành tựu những công hạnh lớn lao, thì cái vui ấy trở
thành ái dục, dơ bẩn nặng nề, kéo hành giả xuống hàng phàm
phu. Vậy cái vui ấy cần phải là một thứ vui trong sạch, hoàn
toàn xa lìa các thứ chấp trước như nhân, ngã, bỉ, thử, chúng
sinh, Bồ tát...(Xả).
Ðó là về phần phẩm, còn
nói về phần lượng thì bốn đức tánh này cần phải rộng lớn vô
cùng, hay nói theo danh từ thường dùng, là phải vô lượng. Có
vô lượng mới đủ sức cứu độ chúng sinh cũng nhiều vô lượng.
Có vô lượng mới lấn át tất cả những phiền não và không cho
chúng có đất sống để tái phát và nhiễu loạn.
Ðó là hành tướng và ý
nghĩa của bốn món Tâm vô lượng, hay của bốn đức: Ðại từ, Ðại
bi, Ðại hỷ, Ðại xả, mà chúng ta thường tán thán mỗi khi niệm
các danh hiệu Bồ tát hay Phật.
Phải công nhận rằng có
được bốn món Tâm vô lượng không phải là dễ, mặc dù bốn đức
ấy đã nằm sẵn trong bản tánh thanh tịnh của chúng sinh.
Nhưng cũng đừng thấy khó mà lại chùn chân, lùi bước. Có công
việc gì được thành công lớn lao, rực rỡ mà dễ dàng đâu?
Yếu tố quan trọng gíúp
cho sự thành công là sự quyết tâm và lòng kiên nhẫn. Người
tu hành cũng như kẻ trèo núi. Ðừng thấy núi cao mà nản chí,
sờn lòng. Trước tiên phải lập chí quyết trèo lên trên cho
đến chót núi, rồi sau đó tuần tự kiên nhãn bước từng bước
một, đừng hấp tấp và cũng đừng trễ nải thì một ngày kia thế
nào cũng đặt chân lên được chót núi cao.
Người tu hành cũng vậy,
hãy phát bốn lời thệ nguyện lớn, rồi cứ tuận tự, kiên nhẫn,
mà tu tập theo những pháp môn Phật đã chế cho đến khi thành
tựu mới thôi.
Cầu mong quí vị Phật tử
đều phát tâm dõng mãnh tu bốn món Tâm vô lượng.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 10
Ngũ
Minh
A. Mở Ðề
Người Tây phương thường
chê đạo Phật là tiêu cực. Thật ra, giáo lý của đức Phật như
chúng ta đã học trong mấy khóa phổ thông và nhất là trong
khóa IV này, chứng tỏ một tinh thần vô cùng tích cực, lợi
tha, cứu thế. Nhưng trong thực tế, chúng ta phải công nhận
rằng, phần đông các nhà hành đạo trong quá khứ; vì thiếu
phương tiện và khả năng chuyên môn nên chỉ hoằng pháp lợi
sinh bằng phương tiện nội điển, mà không đi sâu vào các
ngành sinh hoạt khác của xã hội. Do đó, Ðạo Phật bị thu hẹp
phạm vi hoạt động và mất rất nhiều ảnh hưởng trong đời sống
đại đa số quần chúng.
Nhất là trong thế giới
phức tạp ngaỳ nay, mà lòng người bị chi phối rất nhiều vì
những sinh hoạt kinh tế, chính trị văn hóa,...nếu người hành
đạo cứ giữ những lề lối cũ, không có những phương thức hoằng
pháp thich hợp với xã hội mới, không có những kiến thức và
khả năng thích hợp với các ngành hoạt động trong xã hội, thì
đạo Phật sẽ mất dần ảnh hưởng và không giữ được vai trò lãnh
đạo của mình nữa.
Những ý nghĩ trên đây
không phải là những phát minh mới mẻ gì của chúng tôi, mà
chính hơn 2.500 năm trước, đức Phật đã nghĩ đến trông dạy
các Ðệ tử của Ngài phải học Ngũ minh, nếu muốn truyền giáo
cho có hiệu quả.
Vậy Ngũ minh là gì và
có tầm quan trọng thế nào? Ðó chính là vấn đề mà chúng ta sẽ
đề cập dưới đây:
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Ngũ minh là gì? Ngũ
minh là năm kiến thức người hoằng pháp cần phải có, phải
hiểu biết.
Những kiến thức ấy là
những kiến thúc nào? Ðó là những kiến thức về nôi minh, nhân
minh, thanh minh, công xảo minh và y phương minh.
II Giải Rõ Về Ngũ
Minh
1. Nội minh.
Trước tiên, người hoằng pháp phải cần có Nội minh, nghĩa là
phải có kiến thức về nội điển Phật giáo.
Muốn hoằng pháp, nghĩa
là muốn đem giáo pháp truyền bá trong quần chúng để mọi
người đều hưởng sự lợi ích, thì trước tiên mình phải tự tìm
hiểu giáo lý của đạo Phật đã. Chúng ta đã biết rằng không
hiểu giáo lý, thì không ai có thể thực hành đúng theo Phật
pháp được. Những tình trạng lộn xộn, mê tín, lố lăng của Ðạo
Phật Việt Nam, sở dĩ có ra cũng vì người hành đạo thiếu sự
am tường giáo lý nội điển. Vì không biết rõ nội điển cho nên
không biết chủ trương chân chính của đạo Phật. Do đó, người
ta mới đi sâu vào những hành động sai lầm: vàng mã, đồng
bóng, cúng sao, cúng hạn, dời mả, giết hại sinh vật để tế
Thần tế Thánh, cúng kiến ông bà.
Muốn cho tình trạng ấy
chấm dứt, người hoằng pháp phải tự mình thông hiểu giáo điển
và truyền bá giáo lý cho tất cả tín đồ. Bao giờ cúng nên nhớ
rằng đạo Phật chủ trương hiểu rồi mới làm, mà không hiểu tức
là bị lạc đường lầm nẻo. Ðứng ra hướng dẫn tín đồ mà chưa
hiểu được nôi giáo, là một chuyện nguy hiểm vô chừng. Không
ai có thể tha thứ được cái thái độ "nhứt manh dẫn
quần manh" ấy.
Tăng giới phải là bực
thông hiểu giáo lý đã dành. Các bậc cư sĩ đứng ra làm Phật
sự, điều khiển những tổ chức Phật học cũng không thể không
hiểu giáo lý. Một tệ đoan mà chúng ta thấy cần phải sửa chữa
gấp là phải làm thế nào cho những phần tử trong bộ máy của
các tổ chức Phật học phải là những người có học đạo.
Chúng ta không thể nào
không lo sợ khi thấy những người thiếu học Phật, đứng giữ
địa vị tổ chức và điều khiển trong một Hội Phật học hay một
cơ quan giáo dục như gia đình Phật tử chẳng hạn.
Cho nên người có hoằng
pháp có bổn phận phải am tường nội điển. Phải tìm hiểu giáo
lý hàm chứa trong ba tạng: Kinh, Luật, Luận. Giáo lý cao
siêu trong ba tạng phân làm ba hệ thống rõ ràng:
a) Hệ thống Bát nhã:
Giáo lý chân không chủ trương rằng vạn pháp là không thực,
để hiển lý tánh chân không.
b) Hệ thống Pháp
tướng: Giáo lý Duy thức chủ trương vạn pháp không thực
tánh và có là do thức biến hiện ra ngàn sai muôn khác.
c) Hệ thống Pháp
tánh: Giáo lý pháp tánh là dẫn tướng qui tánh, chủ
trương đạt đến chơn như, các pháp đều do chơn như duyên khởi
mà có.
Về mỗi hệ thống giáo
lý, có vô số pháp môn để chúng sinh thực hành và đạt đến quả
vị giác ngộ. Người hoằng pháp cần thông hiểu các hệ thống
giáo lý và các pháp môn phương tiện để có thể đem ra ứng
tiếp với xã hội cho hợp thời và hợp cơ. Tóm lại, sự hiểu
biết về nội điển là điều quan hệ vào bậc nhất.
2. Nhân minh.
Am tường giáo lý chưa đủ. Muốn trình bày giáo lý ấy một cách
rõ ràng, khúc chiết, muốn lập thuyết vững vàng, người hoằng
pháp cần phải dựa trên một phương pháp luận lý; phương pháp
luận lý ấy gọi là nhân minh.
Nhân minh là gì? Là một
môn luận lý học của Phật Giáo, chủ trương chứng minh lập
thuyết bằng "Nhân", nghĩa là bằng cách suy cứu đến lý do.
Bộ sách vĩ đại làm căn
bản cho Nhân minh học là Nhân minh đai sớ. Ở đây, chúng ta
tìm hiểu qua đại cương để hiểu thế nào là Nhân minh mà
thôi.
Một lập luân đầy đủ
theo Nhân minh phải có ba phần: Tôn, Nhân, Dụ, gọi là tam
chi tác pháp. Tôn là chủ trương của mình. Nhân là lý do
thành lập chủ trương ấy. Dụ là những sự kiện đem ra để chứng
minh (có thuận và nghịch). Ví dụ:
Tôn: Ông Nguyễn Văn A
phải chết.
Nhân: Vì ông Nguyễn Văn
A đã có lúc bị sanh ra.
Dụ: Phàm cái gì đó sinh
tất phải có chết, như Không Tử, Trần Trọng Kim v.v...(đông
dụ). Trái lại, phàm cái gì không có sanh tất không có chết,
như hư không (dị dụ) v.v..
Ðồng dụ là những thí dụ
đồng loại (có sinh có diệt). Dị dụ là những thí dụ khác loại
(không sinh thì không chết).
Ta thêm một ví dụ
khác:
Tôn: Trò B sẽ bị phạt
Nhân: Vì trò B học bài
không thuộc.
Dụ: Phàm, ai không
thuộc bài thì đều bị phạt cả, như trò C, trò Ð,C (đồng dụ).
Phàm, ai thuộc bài thì đều không bị phạt như trò Mít, trò
Ổi.
Ta nhận thấy môn luận
lý nhân minh có hơi giống với luận lý học hình thức
(syllogisme) của phương tây, và lại đầy đủ tinh vi hơn luận
lý học này, vì nó có đủ tính cách diễn dịch và qui nạp.
Ba phần chính của môn
luận thức nhân minh, phải có liên lạc mật thiết với nhau.
Nhân bao giờ cũng quan hệ đến Tôn, phải triệt để có tính
cách của đồng dụ và tuyệt đối không có tính cách của dị dụ.
Còn dụ bao giờ cũng phải dính líu đến Tôn và Nhân. Mỗi phần
Tôn, Nhân, Dụ muốn đứng vững được, cần phải tránh nhiều lỗi.
(Xem quyển PHPT khóa IX).
Học nhân minh có mục
đích là biết phán đoán chân ngụy, thuyết phục ngoại đạo và
đọc được các bộ luận về pháp tướng học, bởi vì các Tổ ngày
xưa theo lối lập luận này trong khi viết các bộ luận kia.
3. Thanh minh.
Ðây là môn học về ngữ môn văn tự, về âm thanh và về văn học.
Sự truyền giáo cũng đã rất cần đến môn học này. Xưa các vị
Tổ sư muốn đem giáo pháp truyền bá ở các nước, đã phải thông
hiểu về các thứ sinh ngữ, đã phải có tài phiên dịch và trước
tác. Nhiều bộ sách đạo lý lưu truyền đến tận nay mà cũng
phải nhận là có những giọng văn sáng sủa lưu loát, chính là
nhờ ở căn bản về thanh minh rất rộng rãi vậy.
Trong Phật giáo, chỉ có
Thiền tông chủ trương không chú trọng mấy về văn tự. Các tôn
phái khác đều cần đến thanh minh. Người tu học cần phải có
kiến thức về văn học mới có thể học hiểu giáo lý tu tập; môn
học này. Người truyền giáo phải có kiến thức về văn học để
phiên dịch, trước tác với các nước Phật Giáo trên hoàn cầu.
Hiện nay, người Phật tử
Việt Nam rất cần đến thanh minh: Phật Giáo Việt Nam đang đòi
hỏi một kho kinh điển bằng tiếng Việt làm tài liệu học tập
và truyền bá. Như thế các nhà hữu tâm của Phật Giáo phải lưu
ý đến việc học tập văn chương và ngoại ngữ để có thể kiến
thiết một nền Phật học bằng quốc văn.
4. Công xảo minh.
Ðây là môn học về công nghệ và kỹ thuật:
Trong công cuộc hành
đạo, người tín đồ của Phật Giáo nhận thấy cần có đủ điều
kiện kinh tế, mới có thể lập ra những cơ quan tu học cho
Tăng giới, cho cư sĩ, mới có thể thành được những tổ chức
cứu tế, giúp đỡ cho người nghèo đói tật nguyền, thể hiện
lòng từ bi bác ái. Công nghệ và kỹ thuật mỗi ngày mỗi thêm
tiến bộ, người Phật tử cần phải học tập để có những phương
tiện hành đạo rộng rãi trong phạm vi xã hôi nhân sinh.
Công nghệ và kỹ thuật,
nếu chỉ là lợi khí cho sự kinh doanh vụ lợi ích kỷ, thì
không đáng cho ta phải bận tâm. Công nghệ và kỹ thuật ấy
tiến bộ chừng nào, thì gây đau khổ cho loài người chừng ấy,
bởi vì chúng sẽ biến ra lợi khí tranh giành, cướp đoạt và
bóc lột. Kỹ thuật tiến bộ của máy móc, của bom đạn đã là một
sự đe dọa ghê ghớm.
Người Phật tử học lấy
công nghệ và kỹ thuật rồi đem công nghệ và kỹ thuật phụng sự
nhân loại, thể theo lòng vị tha và bác ái muốn cho muốn loài
có hạnh phúc chân thực, tránh những tai hại do dục vọng gây
nên.
5. Y phương minh.
Ðây là môn học về các phương pháp chữa bệnh. Các đức Phật là
những nhà lương y, trị cả tâm bệnh và cả thân bệnh cho chúng
sinh, đức Dược Sư Lưu Ly là một gương sáng. Thế gian này đầy
dẫy những bệnh nhân đau khổ về vật chất lẫn tinh thần. Những
phương thuốc chữa bệnh tinh thần đã đành rằng rất cần thiết,
nhưng những phương thuốc chữa bệnh về vật chất cũng không
phải là không quan trọng. Người Phật tử nếu có được những
thời giờ rảnh rang nên học chuyên môn về thuốc, để có thể
thực hành một công tác xã hội rất thích hợp với lòng từ bi:
đó là sự chữa bệnh. Các bác sĩ, các lương y, nếu là Phật tử
thì đã có trong tay một phương tiện hành đạo rất quan trọng.
Ðem sự an ủi đến cho người bệnh, nâng đỡ họ trong cơn ốm
đau, cử chỉ đó thực có thể tiêu biểu được một phần nào tinh
thần cứu thế tích cực của đạo Phật.
Chúng ta hy vọng rằng
sau này Phật Giáo sẽ có được những bệnh viện do Phật tử chăm
sóc ngày đên, và mỗi một ngôi chùa địa phương, có thể có một
cơ quan cấp cứu tương trợ cho đồng bào trong những lúc nguy
biến ngặt nghèo.
C. Kết Luận:
Trong thời đại hiện
tại, xã hội đòi hỏi một phương thức hoằng pháp rộng rãi hơn.
Chúng ta không có thể áp dụng những phương tiện nhỏ hẹp, mà
cần phải mở rộng phạm vi của hoằng pháp theo Ðại Thừa Phật
Giáo; người Phật tử cần phải y lời Phật dạy học Ngũ minh và
mỗi người sẽ là một chiến sĩ từ thiện xã hội, lo xây đắp cho
nền Phật giáo tương lai hưng thịnh và thực hiện được hoài
bảo cứu tế to rộng của đức Bổn sư.
▲ Trở Lên
|
|
|