|
BÀI THỨ BẢY
B. PHẦN
CHÁNH TÔN
(Tiếp
theo)
38. Người thọ
trì kinh này công đức vô lượng
39. Công đức kinh này vô lượng vô biên không thể nghĩ
bàn
40. Phật khuyên người thọ trì đọc tung kinh này sẽ được
đạo quả Bồ Đề
41. chỗ phụng thờ kinh này, cũng được nhơn thiên và
thánh thần cúng dường
42. Người thọ trì kinh này mà bị người kkhinh khi là do
tội chướng đời trước của họ rất nặng nề.
43. Người thọ trì kinh này, công đức nhiều hơn Phật
Thích Ca cúng dường vô số chư Phật
44. Kinh này nghĩa lý không thể nghĩ bàn, nên phước báo
của người thọ trì kinh này cũng không thể nghĩ bàn.
45. Đây là lần thứ hai, ông Tu Bồ Đề hỏi lại Phật hai
câu quan trọng
46. Phật phá cái chấp "Như Lai có đắc pháp với Phật
Nhiên Đăng".
47. Phật nói: "Tất cả các pháp đều là Phật pháp.
38. NGƯỜI THỌ
TRÌ KINH NÀY CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG
Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Như Lai
dùng Trí huệ Phật, thấy rõ ràng và biết chắc chắn: đời
sau nếu có người phát tâm thọ trì đọc tụng kinh này,
người ấy sẽ thành tựu công đức vô lượng vô biên".
LƯỢC
GIẢI
Đầy là lần
thứ 6, Phật khuyến khích về công đức thọ trì kinh này.
Kinh này
nghĩa lý cao siêu khác thường, quá tầm hiểu biết của
người, sợ người không hiểu và không tin thì sẽ mất lợi
ích lớn, nên Phật dạy: "Như Lai dùng Trí huệ Phật, thấy
biết rõ ràng và chắc chắn: sau này nếu có người thọ trì
đọc tung kinh này, sẽ được công đức vô lượng".
Người hiểu
biết được nghĩa lý và thọ trì kinh này, người ấy sẽ ngộ
được kinh Kim Cang Bát Nhã, tức là đã trồng hạt giống Bồ
Đề, tất nhiên sẽ đặng quả Bồ Đề nên Phật nói: "được công
đức vô lượng".
39. CÔNG ĐỨC KINH
NÀY VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN
Phật dạy: "Tu
Bồ Đề! Nếu có người nào, một ngày ba lần: Sớm mai, đem
thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố thí; Trưa,
đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố thí;
Chiều, cũng đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để
bố thí. Bố thì như vậy cho đến vô lượng trăm ngàn muôn
ức kiếp, phước đức của người này vô lượng vô biên.
Nếu có người
nghe kinh này, tin hiểu không nghi ngờ, thì người này
phước đức nhiều hơn người trước. Chỉ tin mà thôi còn
được phước đức như vậy, huống chi là thọ trì đọc tụng,
hoặc phiên dịch hay giảng dạy cho người. Tóm lại, công
đức của kinh này vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn".
LƯỢC
GIẢI
Đây là lần
thứ 7, Phật tán thán công đức của kinh này không thể
nghĩ bàn. Người đem một thân mình bố thí đã khó, huống
chi là nhiều thân. Nhưng, giả sử có người đem nhiều thân
mình ra bố thí, mỗi ngày ba lần, sớm mai, trưa và chiều
đều bố thí vô lượng vô số thân mình, cho đến nhiều ngày,
nhiều tháng, nhiều năm và nhiều kiếp đều bố thí như vậy,
thì phước đức người này biết là bao nhiêu.
Nhưng, nếu có
người nghe kinh này, chỉ sanh lòng tin, không nghi ngờ,
thì phước đức còn nhiều hơn người trước, huống chi thọ
trì đọc tụng hoặc giảng dạy cho người khác.
Tại sao vậy?_
Vì người tin được kinh này là người đã ươm trồng hạt
giống Kim Cang Bát Nhã; thọ trì đọc tụng là huân tưởng
hạt giống Bát Nhã; giảng dạy cho người là làm cho người
huân sanh hạt giống Bát Nhã. Hạt giống Bát Nhã đã sanh
trưởng thì thế nào cũng được thành Phật. Bởi thế nên
nguời tin thọ hoặc giảng dạy kinh này, phước đức nhiều
hơn người bố thí thân mạng.
Tóm tắt đoạn
này, Ngài Xuyên Thiền sư có làm bài tụng rằng:
Nguuyên văn
(dịch âm):
- Sơ tâm hâu phát thí tân đồng
Công đức vô biên toán mạc cùng
Tranh tợ tín tâm tâm bất lập
Nhứt quyền đã phá thái hư không,
Dịch nghĩa:
- Sớm trưa bố thí phát tâm đồng
Công đức vô biên tính chẳng cùng
Đâu bằng tính tâm không trụ chấp
Một tay đánh phá cõi hư không.
ĐẠI Ý
BÀI TỤNG
Đây là lần
thứ 8, Phật tán thán công đức người thọ trì kinh này sẽ
đặng quả Bồ Đề của Phật .
Phật vì những
hàng Đại thừa Bồ Tát và những người phát tâm Tối thượng
thừa cầu quả Phật, mà nói kinh này. Bởi thế nên những
người chịu nghe và tin theo kinh này, hoặc thọ trì đọc
tụng hay giảng dạy cho người nghe, tất nhiên người ấy đã
có căn tánh (hạt giống) Đại thừa hay Tối thượng
thừa, nên đặng công đức vô lượng vô biên và sẽ thành
Phật.
Trái lại,
những người căn tánh Tiểu thừa, bị gò bó trong cái khung
bốn tướng, tư tưởng không hợp với giáo lý Đại thừa, nên
không bao giờ họ lãnh hội được kinh Đại thừa và tu hành
theo Đại thừa hoặc giảng dạy cho người.
41. CHỖ PHỤNG THỜ
KINH NÀY CŨNG ĐƯỢC NHƠN THIÊN VÀ THÁNH THẦN CÚNG DƯỜNG
Phật dạy: "Tu
Bồ Đề! Chỗ nào phụng thờ kinh này, thì chổ ấy như có
chùa tháp của Phật; tất cả trời người, thánh thần đều
cung kính lễ bái, dâng hoa cúng dường hoặc di nhiễu".
LƯỢC
GIẢI
Đây là lần
thứ 9, Phật tán thán công đức Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba
La Mật.
Trong đoạn
thứ 13, Phật dạy:"Tất cả Phật và Pháp đều từ kinh này
sanh ra". Vì kinh này rất quý báu như vậy, nên trong
đoạn 20 và đoạn này (41) đều nói, chỗ thờ kinh này, cũng
được trời, người, thần thánh xem như chùa Phật hay tháp
Phật, đều đến cung kính lễ bái cúng dường, hoặc đi kinh
hành (đi xung quanh chỗ thờ kinh).
42. NGƯỜI THỌ TRÌ
KINH NÀY MÀ BỊ NGƯỜI KHINH KHI LÀ DO TỘI CHƯỚNG ĐỜI
TRƯỚC CỦA HỌ RẤT NẶNG NỀ.
Phật dạy:" Tu
Bồ Đề! Nếu người tho trì đọc tụng kinh này, mà bị người
khing khi, thì người này do tội chướng đời trước rất
nặng nề còn thừa lại, đáng lẽ phải đoạ vào ác đạo; nhưng
nay chỉ bị người khinh khi, nhưng tội chướng đời trước
bị tiêu diệt và họ sẽ mau đặng quả Bồ Đề".
LƯỢC
GIẢI
Đây là lần
thứ 10, Phật tán thán công đức Kinh Kim Cang Bát Nhã.
Kinh này công
đức vô biên và rất quý báu như thế, nên người thọ trì
kinh này lẽ ra phải được sự cung kính tôn trọng. Nhưng
trái lại, bị người khinh khi, thì biết người này do tội
chướng đời trước nặng nề còn thừa lại, đáng lẽ phải bị
đoạ vào ác đạo. Nhờ công đức thọ trì kinh này, nên họ bị
quả báo rất nhẹ, là chỉ bị người khinh khi. Từ đây các
tội chướng đời trước tiêu diệt và họ sẽ đặng thành quả
Phật.
Tóm tắt đoạn
này, Ngài Trương Vô Tận có làm bài tụng:
Nguyên văn
(dịch âm):
- Tứ tự diêm hương khứ phục hoàn
Thánh phàm chỉ tại sát na gian
Tiền nhơn tội nghiệp kim nhơn tiện
Đáo khước tiền nhơn tội nghiệp sơn.
Dịch nghĩa:
- Bốn mùa lạnh nóng mãi trôi qua
Phàm thánh không ngoài một sát na
Tội nghiệp tiền thân nay phải chịu
Chịu rồi mới hết nghiệp oan gia.
ĐẠI Ý
BÀI TỤNG
Bốn mùa nóng
lạnh, ngày tháng trôi qua là sự tuần hoàn của vũ trụ.
Chứng thánh hay đoạ phàm, chỉ ở trong sát na mê hay ngộ.
Kiếp trước làm tội ác nên kiếp này phải trả, bị người
khinh khi. Trả xong nghiệp chướng oan gia mới được tự
tại giải thoát.
43. NGƯỜI THỌ TRÌ
KINH NÀY CÔNG ĐỨC NHIỀU HƠN PHẬT THÍCH CA CÚNG DƯỜNG VÔ
SỐ CHƯ PHẬT
Phật dạy:" Tu
Bồ Đề! Ta nhớ trong quá khứ, về vô lượng vô số kiếp,
trước thời Phật Nhiên Đăng, ta cúng dường và phụng thờ
tám trăm bốn ngàn muôn ức vô số chư Phật. Nhưng về sau
này, nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này, thì công
đức của người này so với công đức của ta cúng dường
phụng thờ vô số chư Phật trước kia, công đức của ta
không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần vạn,
một phần ức của người này; cho đến dùng toán số hay thí
dụ cũng không thể tính toán hay thí dụ được công đức của
người thọ trì kinh này".
LƯỢC
GIẢI
Đây là lần
thứ 11, Phật tán thán công đức Kinh Kim Cang Bát Nhã.
Cúng Phật
thuộc về tu phước, dù nhiều bao nhiêu, cũng thuộc về
phước hữu vi.
Người thọ trì
kinh này, sẽ tỏ ngộ được lý Bát Nhã và sẽ mau đặng đạo
quả Bồ Đề. Sau khi thành đạo, họ sẽ trở lại hoá độ vô số
chúng sanh đều được giải thoát, thì công đức làm sao thí
dụ được hay tính toán cho hết. Bởi thế nên Phật
nói:"Công đức của người thọ trì kinh này nhiều hơn công
đức của Phật cúng dường vô số chư Phật về quá khứ".
44. KINH NÀY NGHĨA
LÝ KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN NÊN PHƯỚC BÁO CỦA NGƯỜI THỌ TRÌ
KINH NÀY CŨNG KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN
Phật dạy:"
Nếu ta nói hết công đức của người thọ trì đọc tụng kinh
này, sợ e người nghe, tâm sanh cuồng loạn, hoặc nghi ngờ
không tin.
Tóm lại, kinh
này nghĩa lý vô biên, không thể suy nghĩ và luận bàn,
nên phước báu của người thọ trì kinh này cũng không thể
suy nghĩ và luận bàn".
LƯỢC
GIẢI
Đây là lần
thứ 12, Phật tóm lại, tán thán nghĩa lý của kinh này vô
biên, nên công đức của người thọ trì kinh này, cũng
không thể nghĩ bàn.
Từ trước đến
đây đã 12 lần, Phật so sánh, khuyến khích và tán dương
công đức của người thọ trì kinh này. Nếu nói hết lời,
Phật e người nghe rối trí, hoặc nghi ngờ không tin. Nếu
người hiểu được nghĩa lý cao thâm của kinh này, không
thể nghĩ bàn, thì họ sẽ tin công đức phước báu của người
thọ trì kinh này, cũng không thể nghĩ bàn.
45. ĐÂY LÀ LẦN THỨ
HAI, ÔNG TU BỔ ĐỀ HỎI LẠI PHẬT HAI CÂU QUAN TRỌNG
Khi ấy, ông
Tu Bồ Đề bạch Phật:"Bạch Thế Tôn! nếu có người phát tâm
Bồ Đề, thì làm sao hàng phục vọng tâm và làm sao an trụ
chơn tâm?"
Phật dạy:" Tu
Bồ Đề! nếu có người phát tâm Bồ Đề, thì phải dụng tâm
như vầy: Ta hoá độ tất cả chúng sanh, nhưng không thấy
có mình độ và chúng sanh được độ. Tại sao vậy? Nếu Bồ
Tát còn thấy mình độ và chúng sanh được độ, thì Bồ Tát
còn tướng ngã, nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ giả,
tức nhiên không phải là Bồ Tát.
Tu Bồ Đề!
Thật không có một pháp gì gọi là phát tâm Bồ Đề".
LƯỢC
GIẢI
Đây là lần
thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 1), ông Tu Bồ Đề hỏi
Phật "Làm sao hàng phục vọng tâm? Và làm sao an trụ chơn
tâm?".
Đại ý Phật
dạy:" Nguời phát tâm Bồ Đề ra làm các Phật sụ, lợi ích
tất cả chúng sanh, không nên chấp ngã, pháp hay bốn
tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Nếu không chấp
ngã pháp hay bốn tướng thì sóng phiền não vọng niệm
không sanh. Nếu sóng phiền não vọng niệm không sanh thì
biển chơn tâm tự yên tịnh. Đó là phương pháp "hàng phục
vọng tâm" mà cũng là "an trụ chơn tâm".
Nếu Bồ Tát
làm Phật sự, hoá độ chúng sanh, mà còn thấy có mình hoá
độ (ngã) và người được độ (nhơn) thì Bồ
Tát chưa nhập được Kim Cang Bát Nhã, vì còn chấp bốn
tướng: ngã, nhơn v.v...nên không phải là Bồ Tát.
Nói đến "Tâm
Bồ Đề", sợ có người trụ chấp tâm Bồ Đề, nên Phật liền
phá chấp:" Thật không có một pháp gì gọi là phát tâm Bồ
Đề".
Ngộ được lý
vô trụ của kinh Kim Cang Bát Nhã, Ngài Trường Sa có làm
bài kệ như sau:
Nguyên văn
(dịch âm):
- Bách xích can đầu bất động nhơn
Tuy nhiên đắc nhập vị vi chơn
Bách xích can đầu tu tấn bộ
Thập phương thế giới hiện toàn thân.
Dịch nghĩa:
- Đầu sào trăm thước đứng vững trân
Tuy ngộ nhưng chưa đúng lý chơn
Đầu sào trăm thước thêm một bước
Mười phương thế giới hiện toàn thân.
ĐẠI Ý
BÀI KỆ
Hai câu đầu
là nói, người tu hành dầu cao siêu đến đâu, nhưng nếu
còn chấp một tí nào, thì cũng chưa phải là thật tu, thật
chứng, cũng như người đứng trên đầu sào trăm thước, tuy
cao, nhưng chưa thoát ly được đầu sào.
Hai câu sau
là nói, hành giả phải rời tất cả vọng chấp ngã, pháp mới
nhập được pháp giới tánh (chơn tâm hay Bát Nhã);
lúc bấy giờ thân mình hiện khắp cả mười phương pháp
giới; cũng như chim đã bỏ đầu sào trăm thước, thung dung
tự tại bay đi trong cõi thái hư.
46. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP "NHƯ LAI CÓ ĐẮC PHÁP VỚI PHẬT NHIÊN ĐĂNG"
Phật hỏi: "Tu
Bồ Đề! Về quá khứ, Như Lai có đắc pháp Bồ Đề với Phật
Nhiên Đăng không ?"
Tu Bồ Đề
thưa: "Bạch Thế Tôn! Như Lai không có đắc pháp Bồ Đề với
Phật Nhiên Đăng:
Phật dạy:
"Đúng như vậy, Như Lai không có đắc pháp gì cả. Nếu Như
Lai có đắc pháp thì Phật Nhiên Đăng không thọ ký cho ta
rằng: về sau, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích ca Mâu
Ni".
Phật dạy
tiếp: "Tu Bồ Đề! Có người nói: "Như Lai đặng quả Bồ Đề
". Thật ra, Như Lai là bản thể như như của các pháp, nên
Như Lai không đặng pháp gì cả.
Tu Bồ Đề! Như
Lai đặng đạo Bồ Đề, không phải hư, không phải thật".
LƯỢC
GIẢI
Đây là lần
thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 15) phật dùng Trí
huệ Kim Cang Bát Nhã, phá cái chấp "Phật có đắc pháp".
Đúng theo thinh thần kinh Kim Cang Bát Nhã, thì phải phá
trừ hết các mây vô minh vọng chấp nhơn, ngã v.v...lúc
bấy giờ mặt trời Bát Nhã chơn không (chơn như hay
Phật tánh) mới hiện.
Bởi thế nên
Phật tuy đắc pháp Bồ Đề, nhưng không thấy mình có đắc
(vô ngã) và pháp Bồ Đề (vô pháp) đã đắc, nên
mới được Phật nhiên Đăng thọ ký.
Nếu Như Lai
còn thấy mình có đắc pháp Bồ Đề, tức nhiên Như Lai còn
chấp ngã (mình đặng) và chấp pháp (pháp Bồ
Đề), chưa nhập được Kim Cang Bát Nhã, thì đâu được
Cổ Phật Nhiên Đăng chứng nhận cho: "Về sau ông sẽ thành
Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni".
Chúng sanh
chấp "Như Lai đặng quả Bồ Đề", vì chúng sanh chưa hiểu
hai chữ "Như Lai". Phật giải thích: "Như Lai là bản thể
như như của các pháp"; đã là như như, nên không có đặng
pháp gì cả.
Phật dạy
tiếp:" Như Lai đặng đạo Bồ Đề, không phải hư, không phải
thật". Nếu đạo Bồ Đề mà còn có hư hay là thật, thì không
phải Bồ Đề. Đến chỗ này thì dùng lời nói luận bàn không
trúng, đem ý thức suy nghĩ phân biệt cũng chẳng nhằm.
Đây là lần thứ ba, Phật phá cái chấp "Như Lai đặng đạo
Bồ Đề" (lần thứ nhứt và thứ hai ở về đoạn 15 và 36).
Ngộ được lý
"Phật tuy đã thành Phật, nhưng không thấy mình được
thành Phật", nên ngài Phật Quốc Thiền sư có làm bài kệ
như sau:
Nguyên văn
(dịch âm):
- Tâm tâm tức Phật, Phật tâm tâm
Phật Phật tâm tâm, tức Phật tâm
Tâm Phật ngộ lai vô nhứt vật
Tướng quân chỉ khát vọng mai lâm.
Dịch nghĩa:
- Tâm tâm tức phật, phật tức tâm
Phật phật tức tâm, tâm tức Phật
Tâm, Phật ngộ rồi không chi cả
Nói me đỡ khát vạn quân binh.
ĐẠI Ý
BÀI KỆ
Người mê,
chấp tâm và Phật riêng khác. Kẻ hiểu lại nói: Phật tức
tâm, tâm tức Phật. Người tỏ ngộ rồi không còn thấy có
Phật và tâm. Vì cảm hoá chúng sanh nên mới đặt ra có
danh từ tâm và Phật để kêu gọi. Cũng như vì muốn cho vạn
quân đỡ khát nước, nên vị Chỉ huy mới phương tiện nói
"gần đến rừng me".
GIẢI DANH TỪ
Thọ ký:
Truyền trao và ký nhận.
47. PHẬT NÓI:" TẤT
CẢ CÁC PHÁP ĐỀU LÀ PHẬT PHÁP"
Phật dạy:" Tu
Bồ Đề! Như Lai nói: Tất cả các pháp đều là Phật pháp".
Tu Bồ Đề! Như Lai nói các pháp thật ra không phải các
pháp, chỉ giả gọi "các pháp"; cũng như thân Phật cao
lớn, Như Lai nói không phải thân Phật cao lớn, chỉ giả
gọi "thân Phật cao lớn".
LƯỢC
GIẢI
Đoạn này Phật
phá cái chấp "các pháp và thân Phật". Kinh chép:" Pháp
thân Phật biến khắp tất cả; cảnh giới của Phật ở gọi là
Thường tịch quang. Bởi thế nên nói "tất cả các pháp đều
là Phật pháp".
Chúng ta bị
mây vô minh che khuất trăng Bát Nhã, nên chỉ thấy các
pháp ngã, nhơn v..v.. chư Phật và Bồ Tát đã giác ngộ ,
phá tan mây vô minh, trăng Bát Nhã được sáng tỏ, nên chỉ
thấy toàn là Phật pháp.
Vừa nói đến
"các pháp", sợ chúng sanh chấp "các pháp mà không ngộ
được tánh Bát Nhã chơn không, nên Phật liền phá:" Như
Lai nói "các pháp" thật ra không phải "các pháp", chỉ
giả gọi là "các pháp". Cũng như thân Phật, thật ra không
phải thân Phật, chỉ giả gọi thân Phật".
▲ Trở Lên
BÀI THỨ TÁM
B.
PHẦN CHÁNH TÔN
(Tiếp theo)
48. Phật
phá cái chấp "Bồ Tát có độ sanh"
49. Phật phá cái chấp "Bồ Tát có làm trang
nghiêm cõi Phật"
50. Phật có đủ 5 loại con mắt
51. Phật thấy biết hết các tâm niệm của chúng
sanh trong hằng sa thế giới
52. Phật phá cái chấp "phước đức nhiều"
53. Phật phá cái chấp "thấy sắc thân và tướng
tốt của Phật là thấy Phật"
54. Phật phá cái chấp "Như Lai có thuyết pháp"
55. Phật phá cái chấp "thật có chúng sanh"
48. PHẬT
PHÁ CÁI CHẤP "BỔ TÁT CÓ ĐỘ SANH"
Phật
dạy:" Tu Bồ Đề! nếu Bồ Tát còn chấp mình hoá độ
vô số chúng sanh thì không phải là Bồ Tát. Tại
sao vậy? Vì thật ra không có một pháp gì gọi là
Bồ Tát. Bởi thế nên Phật nói: "Tất cả các pháp
không ngã, không nhơn, không chúng sanh và không
thọ giả".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dùng Trí huệ
Bát Nhã phá trừ cái chấp "thật có Bồ Tát, thật
có độ sanh" và Phật dạy:" Các pháp đều giả,
không có bốn tướng".
Đúng theo tinh thần kinh
Bát Nhã, thì pháp nào hay việc làm nào của Bồ
Tát, hợp với tánh Bát Nhã chơn không, thì pháp
đó hay việc làm đó mới là thật.
Nếu Bồ Tát còn chấp có mình
độ sanh tức là Bồ Tát còn nhơn (người
được độ) ngã (mình
độ) v.v...thì không hợp với
tinh thần Bát Nhã, nên không phải là Bồ Tát. Đây
là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở
đoạn 3) Phật phá cái chấp "Bồ
Tát có độ sanh".
Vì Bồ Tát hợp với tánh Bát
Nhã chơn không, nên Phật dạy:" Không có một pháp
gì gọi là Bồ Tát". Cũng vì các pháp hợp với tánh
Bát Nhã chơn không, nên Phật dạy:" Tất cả các
pháp đều không ngã, không nhơn, không chúng sanh
và không thọ giả".
49. PHẬT
PHÁ CÁI CHẤP "BỔ TÁT CÓ LÀM TRANG NGHIÊM CÕI
PHẬT"
Phật dạy:" Tu Bồ Đề! Nếu Bồ
Tát chấp rằng:" Ta làm trang nghiêm cõi Phật",
thì không phải là Bồ Tát. Tại sao vậy? Như Lai
nói:" Bồ Tát làm trang nghiêm cõi Phật, mà không
chấp mình có làm trang nghiêm cõi Phật, mới thật
là trang nghiêm cõi Phật.
Tóm lại, nếu Bồ Tát không
còn chấp ngã chấp pháp, Như Lai mới gọi là "thật
Bồ Tát".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dạy: Bồ Tát
không còn chấp ngã, chấp pháp, phải hợp với tánh
Bát Nhã chơn không, mới phải thật là Bồ Tát và
mới phải là trang nghiêm cõi Phật. Đây là lần
thứ hai (lần thứ nhứt, xem đoạn
16) Phật phá cái chấp "Bồ Tát
có trang nghiêm cõi Phật".
Bồ Tát làm trang nghiêm cõi
Phật, mà không chấp mình có làm trang nghiêm,
như thế mới thật là trang nghiêm cõi Phật. Trái
lại, nếu Bồ Tát chấp mình có làm trang nghiêm
cõi Phật, tức là Bồ Tát còn chấp ngã (ta
làm) chấp pháp (cõi
Phật), không hợp với tinh thần Bát Nhã, thì
không phải là trang nghiêm và cũng không phải là
Bồ Tát.
Tóm lại, Phật dạy:" Nếu Bồ
Tát nhập vào Bát Nhã chơn không, không còn các
vọng chấp ngã, pháp, thì Như Lai mới gọi là thật
"Bồ Tát".
Ngài Xuyên Thiền sư làm bài
tụng tóm tắt lại ý nghĩa trên, như sau:
Nguyên văn (dịch âm):
- Tá bà sam tử
bái bà môn
Lễ số châu truyền dĩ thập phần
Trúc ảnh tảo dai, trần bất động
Nguyệt luân xuyên hải thuỷ vô ngần.
Dịch nghĩa:
- Mượn áo
tràng bà để lạy bà
Lễ rồi, áo trả lại cho bà
Bóng trúc quét sân, trần chẳng động
Vừng trăng xuyên biển, nước không xao.
ĐẠI Ý BÀI TỤNG
Bài kệ này nói về lý "vô
trụ vô tướng của kinh Bát Nhã, Bồ Tát làm trang
nghiêm cõi Phật; cũng như người mượn áo tràng
của bà để lạy bà. Nhưng Bồ Tát không chấp có
trang nghiêm cõi Phật; như người lạy rồi trả áo,
không còn giữ lại vết tích gì cả.
Bồ Tát độ sanh hay làm các
Phật sự mà không thấy có mình độ và chúng sanh
được độ v.v...cũng như bóng trúc quét bụi, tia
sáng của vừng trăng xuyên biển; bụi trần không
động mà nước cũng không dợn.
50. PHẬT CÓ
ĐỦ NĂM LOẠI CON MẮT
Phật hỏi:" Tu Bồ Đề! Như
Lai có nhục nhãn không? "Tu Bồ Đề thưa:" Bạch
thế Tôn! Như Lai có nhục nhãn".
"Tu Bồ Đề! Như Lai có thiên
nhãn không?"
"Bạch Thế Tôn! Như Lai có
thiên nhãn".
"Tu Bồ Đề! Như Lai có Huệ
nhãn không?"
"Bạch Thế Tôn! Như Lai có
Huệ nhãn".
"Tu Bồ Đề! Như Lai có Pháp
nhãn không?"
"Bạch Thế Tôn! Như Lai có
Pháp nhãn".
"Tu Bồ Đề! Như Lai có Phật
nhãn không?"
"Bạch Thế Tôn! Như Lai có
Phật nhãn".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này phá cái chấp "Phật
và Bồ Tát không thấy chi hết".
Mục đích của kinh Bát Nhã
là phải phá hết các vọng chấp, thì chơn tâm hay
Phật tánh (Bát Nhã) mới
hiện. Bởi thế nên, chấp "có" đã bị bác, mà chấp
"không" cũng bị bác.
Từ trước đến đây, Phật đã
nhiều lần phá về chấp có. Như nói: "Bồ Tát phải
không thấy có mình độ sanh, không thấy có chúng
sanh được độ. Bồ Tát không thấy mình làm trang
nghiêm và không thấy cõi Phật được trang nghiêm
v.v..."
Sợ người chấp:" ...như thế
thì chư Phật và Bồ Tát không thấy chi hết", nên
đến đoạn này, Phật mới hỏi ông Tu Bồ Đề:" Như
Lai có năm món nhãn không?" . Ông Tu Bồ Đề thưa:
"Như Lai có đủ năm món nhãn"; nghĩa là có đủ năm
loại con mắt, nên Như Lai thấy tất cả.
GIẢI
DANH TỪ
1.
Nhục nhãn: Con mắt thịt cùa phàm phu, chỉ thấy
trong phạm vi nhỏ hẹp; nếu bị vật gì che ngăn
thì không thấy.
2.
Thiên nhãn: Con mắt của chư thiên, do tu thiền
định hoặc sanh lên các cõi trời, mới được con
mắt này. Thiên nhãn thấy được xa và thấu suốt
tất cả, không bị vật gì làm chướng ngại.
3.
Hụê nhãn: Con mắt Trí huệ. Huệ nhãn chỉ thấy
"ngã không"; nghĩa là chúng sanh không thật, chỉ
do ngũ uẩn và tứ đại hoà hợp. Hàng Thinh văn và
Duyên giác mới có Huệ nhãn.
4.
Pháp nhãn: Con mắt thấy suốt tất cả các pháp. Bồ
Tát đặng pháp nhãn, thấy "ngã pháp", đều không;
nghĩa là Bồ Tát không những rõ thấu ngã, nhơn,
chúng sanh và thọ giả đều không, mà cũng rõ thấu
tất cả các pháp đều không thật, chỉ do các duyên
hoà hợp sanh.
5.
Phật nhãn: Con mắt Phật. Phật thấy biết tất cả
các pháp trong thế gian và xuất thế gian. Phật
thấy hoàn toàn viên mãn, dù hằng sa thế giới, vô
lượng chúng sanh. Phật cũng đều thấy và biết tất
cả.
Tóm lại, Phật có đủ 5 con
mắt; Bồ Tát có 4 con mắt; Nhị thừa còn 3; phàm
phu chỉ một; chư thiên có 1 hoặc 2.
Cổ nhơn làm bài tụng nói về
ngũ nhãn như sau:
Dịch âm (nguyên văn):
- Thiên nhãn
thông phi ngại
Nhục nhãn ngại phi thông
Pháp nhãn phi quán tục
Huệ nhãn liễu trí thông
Phật nhãn như thiên nhựt
Chiếu dị thể hoàn đồng.
Dịch nghĩa:
- Mắt Trời
thấy thông suốt
Mắt Thịt thấy có ngại
Mắt Pháp thấy pháp không
Mắt Huệ thấy ngã không
Mắt Phật thất tất cả
Muôn pháp đồng nhứt thể.
51. PHẬT
THẤY BIẾT HẾT TÂM NIỆM CỦA CÁC CHÚNG SANH, TRONG
HẰNG SA THẾ GIỚI
Phật hỏi: "Tu Bồ Đề! Cát ỏ
trong sông hằng, Như Lai có gọi là cát không?".
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế
Tôn! Như Lai cũng gọi là cát".
Phật hỏi: "Như một sông
Hằng có vô số cát, rồi lấy mỗi một hạt cát, để
thí dụ một sông Hằng, thì có vô số sông Hằng.
Trong vô số sông hằng, mỗi một sông Hằng lại có
vô số cát nữa, rồi đem vô số hạt cát trong vô số
sông Hằng đó, lại thí dụ nữa, mỗi một hạt cát là
một hạt cát của Phật (Đại thế giới). Như thế,
thế giới của Phật có nhiều không?".
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế
Tôn nhiều lắm".
Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Tất cả
chúng sanh ở trong vô số thế giới như vậy, có
bao nhiêu tâm niệm, Như Lai đều thấy biết tất
cả".
Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề!
Như Lai nói tâm, không phải thật có tâm, chỉ giả
gọi là "tâm". Tại sao vậy?_ Vì tâm quá khứ tìm
không được, tâm hiện tại tìm không được, tâm vị
lai cũng tìm không được".
LƯỢC GIẢI
Đoạn nay tiếp với đoạn trên
(50), Như Lai có 5 con mắt, nên Như Lai thấy
biết vô cùng thế giới và vộ tận chúng sanh.
Trong vô số thế giới, mỗi
thế giới có vô số chúng sanh, mỗi chúng sanh có
bao nhiêu tâm niệm, Như Lai đều thấy biết tất
cả.
Vừa nói đến "tâm", sợ chúng
sanh vọng chấp "có tâm" mà không nhhập được Kim
Cang Bát Nhã, nên Phật liền phá: "Như Lai nói
"tâm" không phải thật có tâm, chỉ giả gọi là
"tâm".
Phật giải thích thêm: Vì
tâm quá khứ đã diệt, tâm vi lai chưa đến, tâm
hiện tại không dừng trụ, nên trong ba đời tìm
tâm không thể được.
Thuở xưa, Ngài Huệ Khả (Nhị
Tổ) đến cầu Tổ Đạt Ma (Sư Tổ) về pháp an tâm
(xen "bản đồ tu Phật" tập 4).
Tổ Đạt ma hỏi: "Ông đến đây
để làm gì?".
Ngài Huệ Khả thưa: "Bạch Tổ
Sư! Con đến đây để cầu pháp an tâm".
Tổ Đạt Ma hỏi:" Quá khứ tâm
bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai
tâm bất khả đắc, vậy ông muốn an cái tâm nào?".
Ngài huệ Khả thưa: "Trong
ba thời (quá khứ, hiện tại và vị lai) con tìm
tâm đều không thể được".
Tổ Đạt Ma dạy: "ta đã an
tâm cho ông rồi". Ngài huệ Khả liền tỏ ngộ.
Ngài Xuyên Thiền sư có làm
bài kệ nói về ba tâm
Nguyên văn (dịch âm):
- Tam tế cầu
tâm, tâm bất biến
Luỡng nhãn y nhiên đối lưỡng nhãn
Bất tu di kiếm khắc chu tầm
Tuyết nguyệt phong hoa thường kiến diện
Dịch nghĩa:
- Hai mắt trơ
trơ chỉ ngó chăm
Tìm mãi ba đời chẳng thấy tâm
Tuyết nguyệt phong ba thường đối diện
Kiếm rơi hà tất khắc khe tầm
LƯỢC GIẢI VÀ ĐẠI Ý
Thuở xưa, có người đi
thuyền làm rơi cây kiếm dưới sông. Người ấy liền
lấy dao khắc be thuyền, để chờ thuyền đậu nghỉ
sẽ tìm. Đến khi thuyền đậu, người ấy xuống sông
mò hoài không được kiếm. Anh ta thắc mắc: "Cây
kiếm mới rớt, tôi khắc thuyền làm dấu ngay chỗ
này, sao tìm hoài không được".
Người trí thấy vậy bảo:"Anh
dại quá! Kiếm rớt hồi nãy, thì anh phải tìm ngay
chỗ hồi nãy và tại chỗ đó; chớ đợi đến bây giờ,
đã khác chỗ rồi, thì làm sao tìm được".
Cũng thế, người tu hành
phải trực ngộ bản tâm mình. Nếu còn móng tâm để
tìm tâm ở đâu đâu, thì không bao giờ tìm được;
vì tâm quá khứ đã diệt, tâm hiện tại không dừng,
tâm vị lai chưa đến.
Tóm lại, đại ý bài tụng:
Những cảnh vật thiên nhiên,
như tuyết trong, trăng sáng, gió mát, hoa tươi ở
trước mắt, đều biểu lộ bản thể chơn tâm thường
trú. Hành giả phải tức nơi muôn vật đó mà trực
ngộ bản tâm mình, cần gì phải tìm đâu xa. Nếu
hành giả không trực ngộ, mà cứ lo tìm tâm quá
khứ, hiện tại và vị lai, thì cũng như người khắc
dấu lên thuyền để mò kiếm, không bao giờ mò
được.
52. PHẬT
PHÁ CÁI CHẤP "PHƯỚC ĐỨC NHIỀU"
Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Nếu có
người dùng 7 món báu, đựng đầy trong một Đại thế
giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) đem bố thí,
người này được phước đức không?".
Tu Bồ Đề thưa: "Nếu chấp
phước đức này thật có, thì Như Lai nói phước đức
này không nhiều. Không chấp phước đức nhiều, Như
Lai mới nói "đặng nhiều phước đức".
LƯỢC GIẢI
Nếu đem tân chấp tướng mà
làm việc phước đức, thì phước đức đó thành hữu
vi hữu lậu; dầu có nhiều bao nhiêu cũng có ngày
cùng tận. Trái lại, nếu đem tâm vô tướng (không
cầu danh, cầu lợi, không chấp nhơn, chấp ngã
v.v...) mà làm việc phước đức,
thì phước dức này thuộc về vộ lậu thanh tịnh,
hợp với tánh Bát Nhã chơn không (chơn
tâm) dù làm ít, nhưng phước đức
vô cùng tận.
Thuở xưa, Tổ Đạt Ma đến
Trung Hoa truyền đạo. Vua Lương Võ Đế đem việc
bố thí làm phước, đúc chuông, tạo tượng và lập
72 cảnh chùa v.v...để hỏi Tổ Đạt Ma. Trong câu
hỏi có tánh cánh khoe khoang chấp tướng.
Vua hỏi: "Trẫm lập 72 cảnh
chùa, đúc chuông, tạo tượng, tu kiều, bồi lộ
v.v...phước đức có nhiều không?".
Trả lới đúng theo tinh thần
"vô trụ, vô tướng" của kinh Bát Nhã, Tổ Đạt Ma
nói: "Không có phước đức". Vua Lương Võ Đế vì
trình độ quá kém, không hiểu được lời của Tổ
dạy, nên nghi rằng không phải Tổ, lại đem dâng
thuốc độc cho Tổ Đạt Ma uống ...(xem quyển "Tổ
Đạt Ma", do Hương Đạo xuất bản).
Ngài Xuyên Thiền sư tả về
cảnh: khi các mây vô minh vọng chấp hết, thì mặt
trăng Trí huệ Bát Nhã hiện ra, bằng hai câu như
sau:
Nguyên văn (dịch âm):
- Vô hạn dã
tâm phong quyển tận
Nhứt luân cô nguyệt chiếu thiên tâm
Dịch nghĩa:
- Gió cuốn mây
đen về biển cả
Một vừng trăng sáng giữa trời không
53. PHẬT
PHÁ CÁI CHẤP "THẤY SẮC THÂN VÀ TƯỚNG TỐT CỦA
PHẬT LÀ THẤY PHẬT"
Phật hỏi: "Tu Bồ Đề! ông có
thể cho thấy sắc thân của ta đây là thấy được
Phật không?".
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế
Tôn! Không thể cho thấy sắc thân của Phật là
thấy được Phật. Tai sao vậy? Vì Như Lai nói sắc
thân, không phải thật sắc thân, chỉ giả gọi là
sắc thân".
Phật hỏi tiếp: "Tu Bồ Đề!
ông có thể cho thấy các tướng tốt (32 tướng tốt,
80 vẻ đẹp) của ta đây là thấy được Phật không?".
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế
Tôn! không thể cho thấy các tướng tốt của Phật
là thấy được Phật. Tại sao vậy? Vì Như Lai nói
các tướng tốt, không phải thật tướng tốt, chỉ
giả gọi là tướng tốt".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dùng Trí huệ
Kim Cang Bát Nhã phá trừ cái chấp: "Thấy sắc
thân và tướng hảo của Phật là thấy được Phật".
Đây lần thứ ba (lần thứ nhứt và
nhì ở đoạn 7 và 25) Phật phá
cái chấp về việc thấy Phật.
Kinh Kim Cang, Phật dạy:
"Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng" (phàm
cái gì có hình tướng đều là hư dối).
Sắc thân của Phật, do bốn
đại hoà hợp giả tạo ra thân tướng, nên thân
tướng của Phật cũng hư vọng không thật, chỉ giả
gọi là thân Phật.
Rồi từ trên thân tướng, do
bốn đại giả tạo, lại sanh ra nhiều tướng, những
tướng ấy cũng hư vọng không thật, chỉ giả gọi là
32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.
Đến lúc hoàn thành nhiệm vụ
độ sanh, Phật thâu thần nhập diệt, xả thân tướng
tứ đại để vào cõi Niết bàn, thì xác thân và 32
tướng tốt, do tứ đại giả hợp của Phật cũng theo
luật "sanh, trụ, dị, diệt" mà biến đổi. Lúc bấy
giờ không còn cái gì để gọi là sắc thân và tướng
tốt.
Bởi thế nên Phật dạy:
"Không phải sắc thân, chỉ giả gọi sắc thân;
không phải tướng tốt, chỉ giả gọi là tướng tốt".
Vì thế nên ông Tu Bồ Đề thưa: "Không thể cho
thấy sắc thân hay thấy tướng tốt của Phật mà cho
là thấy được Phật".
54. PHẬT
PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ THUYẾT PHÁP"
Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông
chớ nên nghĩ rằng: "Như Lai có thuyết pháp". Tại
sao vậy? Nếu người nào không hiểu lời của Phật
dạy, lại nói rằng: "Như Lai có thuyết pháp", thì
người ấy khinh báng Phật".
Tu Bồ Đề! Như Lai nói:
"Thuyết pháp, tức là không có pháp gì có thể nói
được, mới gọi là thuyết pháp".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dùng Trí huệ
Kim Cang Bát Nhã phá trừ cái chấp "Như Lai có
thuyết pháp". Đây là lần thứ 3, Phật phá cái
chấp về "Như Lai có thuyết pháp" (lần
thứ nhứt ở đoạn 11 và 23)
Nếu người nào chấp: "Phật
có thuyết pháp", thì người đó còn chấp ngã (Phật) và
chấp pháp (thuyết pháp) Đem
tâm vọng chấp ngã pháp cuả phàm phu mà suy nghĩ
luận bàn đến chánh pháp của Phật, thì chánh pháp
của Phật, trở thành vọng chấp của phàm phu. Ngài
Xuyên Thiền sư nói: "Tà nhơn thuyết chánh pháp,
chánh pháp tức qui tà" (người tà
nói pháp chánh, pháp chánh trở thành tà).
Bởi thế nên Phật nói: "người đó khinh báng Phật
". Vì họ không nhập được "lý Kim Cang Bát Nhã",
nên Phật nói: "Họ không hiểu được lời của Phật
dạy".
Đức Lão Tử nói: "Đạo mà có
thể nói được, thì không phải thật là Đạo (Đạo
khả đạo, phi thường đạo)". Cũng đồng một ý này,
Đức Phật dạy: "Không có pháp gì có thể nói được,
mới gọi là thuyết pháp".
Phật nói bài kệ như sau:
Nguyên văn (diịch âm):
- Thị tùng
thành đạo hậu
Chung chí Bạt đề hà
Ư thị nhị trung gian
Vị thường thuyết nhứt tự
Dịch nghĩa:
- Từ khi mới
thành đạo
Đến lúc nhập Niết bàn
Trong khoảng thời gian ấy
Ta không nói một chữ.
ĐẠI Ý BÀI KỆ
Bài kệ này, nói về lý kinh
Bát Nhã. Cổ nhơn dạy: "vô thuyết vô văn chơn Bát
Nhã", (không nói Bát Nhã và
không nghe Bát Nhã, mới thật là nói Bát Nhã và
nghe Bát Nhã), (xin độc giả xem lại đoạn giải 11
và 23).
55. PHẬT
PHÁ CÁI CHẤP "THẬT CÓ CHÚNG SANH"
Khi đó, ông Tu Bồ Đề thưa
Phật: "Bạch Thế Tôn! Đời sau, nếu có chúng sanh
nào nghe đến kinh Bát Nhã, không biết họ có thể
tin được không?". Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Chúng
kia, không phải chúng sanh, cũng không phải phi
chúng sanh. Tại sao vậy? Như Lai nói chúng sanh,
thật không phải chúng sanh, chỉ giả gọi là chúng
sanh".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dùng Trí huệ
Kim Cang Bát Nhã phá cái chấp "thật có chúng
sanh". Trong tánh Bát Nhã chơn không thì ngã và
pháp đều không, bốn tướng chẳng còn.
Bốn tướng đã không, ngã
chấp chẳng còn, thì đâu có gì là chúng sanh hay
phi chúng sanh. Đã không phải chúng sanh hay phi
chúng sanh, thì có gì là tin hay không tin. Đúng
theo tinh thần kinh Bát Nhã, nếu còn phân biệt
vọng chấp, thì không phải là thật. Bởi thế nên
Phật dạy tiếp: "Như Lai nói chúng sanh, không
phải thật chúng sanh, chỉ giả gọi là chúng
sanh".
Ngài Phó Đại sĩ làm bài
tụng, để tóm tắt lại đoạn này, như sau:
Nguyên văn (dịch âm):
- Chúng sanh
dữ thọ giả
Uẩn thượng lập hư danh
Như qui mao bất thật
Tợ thố giác vô hình
Dịch nghĩa:
- Ngã, nhơn,
chúng sanh và thọ giả
Trên năm uẩn chỉ có giả danh
Như lông rùa không có thật thể
Tợ như sừng thỏ chẳng có hình.
ĐẠI Ý BÀI TỤNG
Tất cả các pháp trên năm
uẩn như ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả
v.v...đều không thật có, như lông rùa, sừng thỏ,
chỉ có giả sanh mà thôi.
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ CHÍN
B.
PHẦN CHÁNH TÔN
(Tiếp theo)
56.
Phật phá cái chấp "Như Lai đặng đạo quả vô
thượng Bồ Đề"
57. Pháp này bình đẳng không có thấp cao
58. Phật nói công đức của người thọ trì kinh này
không thể nghĩ bàn*
59. Phật phá cái chấp "Như Lai có độ chúng
sanh".
60. Thấy 32 tướng tốt của Phật chưa phải là thấy
được Phật.
61. Phật nói bài kệ, phá cái chấp "thấy Phật
bằng sắc tướng, nghe Phật bằng âm thanh".
62. Phật phá cái chấp "không" (tức là chấp đoạn
diệt)
63. Người ngộ "tất cả các pháp không thật",
phước đức nhiều hơn người bố thí vô số bảy báu
56. PHẬT
PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI ĐẶNG ĐẠO QUẢ VÔ THƯỢNG BỔ
ĐỀ"
Ông
Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Như Lai có
chứng đặng đạo quả Vô thượng Bồ Đề không? Phật
dạy: "Tu Bồ Đề! Như Lai không có một tí gì gọi
là đặng đạo quã Vô thượng Bồ Đề".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dùng Trí huệ
Kim Cang Bát Nhã phá trừ cái chấp "Phật có đặng
Đạo quả Bồ Đề". Đây là lần thứ 4 (lần
thứ nhứt, hai và ba ở đoạn 15, 36, và 46).
Trong Duy thức Tam thập
tụng có chép: "Nếu hành giả hiện tiền còn phần
nào thấy mình có chứng Duy thức tánh, thì chưa
phải thật chứng Duy thức tánh, vì còn chấp "có
sở đắc" vậy".
Đồng một ý với đoạn kinh
này, nếu còn chấp "mình đặng đạo quả Vô thượng
Bồ Đề", tức là còn bốn tướng: ngã, nhơn, chúng
sanh và thọ giả thì không phải thật chứng đạo vô
thượng Bồ Đề.
Hành giả phải ngộ nhập Kim
Cang Bát Nhã, xa lìa các vọng chấp, không còn
thấy mình chứng (không ngã) và
đạo quả Bồ Đề để chứng (không
pháp) thì mới thật là chứng đạo
vô thượng Bồ Đề. Bởi thế nên Phật dạy: "Như Lai
không có một tí gì gọi là đặng đạo vô thượng Bồ
Đề".
57. PHÁP
NÀY BÌNH ĐẲNG KHÔNG CÓ CAO THẤP
Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Pháp
này bình đẳng không có cao thấp, không ngã,
không nhơn, không chúng sanh và không thọ giả,
tạm gọi là đạo vô thượng Bồ Đề.
Tu Bồ Đề! Do tu tất cả pháp
lành mà đặng đạo vô thượng Bồ Đề, Như Lai nói
pháp lành, không phải pháp lành, mới gọi là pháp
lành".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật nói "pháp này
bình đẳng, không có cao thấp", và phá cái chấp
"pháp lành".
Hành giả còn chấp "ta tu
pháp lành" tức là còn chấp ngã (ta
tu) chấp pháp (pháp
lành). Nếu đem tâm chấp ngã
chấp pháp mà tu pháp lành, thì pháp lành ấy
thuộc về hữu vi hữu lậu, không phải là pháp lành
cứu cánh.
Hành giả phải dùng Trí huệ
Kim Cang Bát Nhã, phá trừ các chấp ngã, chấp
pháp mà tu các pháp lành, thì các pháp lành ấy
mới hợp với Bát Nhã chơn không, thuộc về vô lậu
thanh tịnh, mới phải lá pháp lành rốt ráo. Bởi
thế nên Phật dạy: "Như Lai nói các pháp lành,
không phải pháp lành, mới gọi là pháp lành".
Hành giả nhập Kim Cang Bát
Nhã, phá trừ các vọng chấp mà tu các pháp lành
thì sẽ chứng được đạo vô thượng Bồ Đề. Đạo này
không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không
thọ giả, nên Phật nói: "Pháp này bình đẳng,
không có cao thấp".
Cổ nhơn có làm một bài
tụng, nói về cảnh giới khi ngã và pháp đều hết,
như sau:
Nguyên văn (dịch âm):
- Võ tiền chỉ
kiến hoa gian điệp
Võ hậu toàn vô điệp để hoa
Hoa điệp phân phân quá tường khứ
Bất tri xuân sắc lạc thi gia
Dịch nghĩa:
- Trước mưa
chỉ thấy hoa cùng bướm
Mưa rồi chẳng thấy bướm với hoa
Hoa rụng bướm bay qua khỏi vách
Vậy ai đã hưởng thú xuân này
ĐẠI Ý BÀI TỤNG
Đây là lần thứ 13, Phật tán
thán công đức không thể nghĩ bàn của người thọ
trì và truyền bá kinh này.
Bố thí 7 báu tuy quí, nhưng
chỉ giúp cho người về vật chất, giàu có sung
sướng trong một đời mà thôi. Phước đức tuy
nhiều, nhưng thuộc về hữu vi hữu lậu.
Người thọ trì hay giảng dạy
kinh Kim Cang Bát Nhã, sẽ được lợi ích về phần
tinh thần, mình và người đều sẽ tỏ ngộ lý Bát
Nhã và sẽ thành Phật, rồi tự độ và độ tha, lợi
ích muôn đời, nên mặc dù thọ trì rất ít, nhưng
phước đức vẫn nhiều hơn người trước. Phước này
thuộc về vô lậu thanh tịnh, nên không thể tính
lường hay thí dụ được.
59. PHẬT PÁ
CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ ĐỘ CHÚNG SANH"
Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông
chớ lầm tưởng: Như Lai nghĩ rằng: "Ta độ chúng
sanh". Tại sao vậy? Nếu Như Lai có nghĩ: "Ta độ
chúng sanh", thì Như Lai còn chấp bốn tướng:
ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, tức nhiên
không phải Như Lai. Bởi thế nên, Như Lai thật
không có độ chúng sanh nào cả.
Tu Bồ Đề! Như Lai nói "ta",
thật ra không có "ta"; nhưng chúng phàm phu lại
chấo có ta. Tu Bồ Đề! Như Lai nói phàm phu,
không phải phàm phu, chỉ giả gọi là phàm phu".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dùng Trí huệ
Bát Nhã phá cái chấp "Phật có độ chúng sanh".
Nếu còn thấy "ta độ chúng",
tức là còn vọng chấp ngã (ta) nhơn (chúng
sanh) thì không nhập được Kim
Cang Bát Nhã, nên không phải là Phật .
Vì Như Lai đã nhập Kim Cang
Bát Nhã, không còn các vọng chấp ngã, nhơn,
v.v...nên Như Lai không thấy "thật có độ sanh".
Vì phá trừ nghi vấn: Phật
đã không chấp bốn tướng, tai sao còn nói "ta"?
nên Phật dạy tiếp: "Như Lai nói "ta", nhưng thật
ra không có cái "ta", do chúng phàm phu vọng
chấp là ta".
Nói đến phàm phu, sợ chúng
sanh chấp "thật có phàm phu", nên Phật liền phá:
"Như Lai nói phàm phu, không phải thật phàm phu,
chỉ giả gọi là phàm phu".
60. THẤY 32
TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT CHƯA PHẢI LÀ THẤY ĐƯỢC PHẬT
Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông có
thể cho thấy 32 tướng tốt của ta đây, là thấy
được Phật không?".
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế
Tôn! Đúng như vậy, thấy 32 tướng tốt của Phật là
thấy được Phật". Phật dạy: "Ông hiểu lầm rồi!
nếu thấy 32 tướng tốt của ta đây, mà cho là thấy
được Phật, thì Vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng
có đủ 32 tướng tốt như ta, vậy vua Chuyển Luân
Thánh Vương cũng là Phật hay sao?".
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế
Tôn! Con hiểu ý Phật rồi, không thể cho thấy 32
tướng tốt của Phật là thấy được Phật".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dùng Trí huệ
Bát Nhã phá cái chấp: "thấy sắc thân của Phật là
thấy được Phật". Đây là lần thứ 4 (lần
1, 2, 3 ở đoạn 7, 25, 3) nói về
viễc thấy Phật .
Muốn rõ thêm đoạn này, tôi
xin nhắc lại một lần nữa:
Thuở xưa, có hai vị Tỳ
kheo, từ phương xa đến yết kiến Phật. Đi nữa
đường, một vị vì sợ phạm giới, không uống nước
có sinh trùng, nên bị khát chết. Một vị kia nhờ
uống nước được sống, đến yết kiến Phật.
Phật quở: "Ông Tỳ kheo kia
giữ giới, không uống nước tuy chết, nhưng ông đã
thấy ta trước rồi. Còn ông không giữ giới, tuy
sống đến yết kiến ta, nhưng ông lại cách ta ngàn
dặm !".
Vậy thì, thấy Phật là thấy
cái gì? Không thể cho thấy sắc thân có 32 tướng
tốt của Phật, mà cho là thấy được Phật. Bởi thế
nên Phật nói: "Nếu thấy 32 tướng tốt của Phật là
thấy được Phật, thì vua Chuyển Luân Thánh Vương
cũng có đủ 32 tướng tốt như Phật, vậy thì vua
Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Phật hay sao?".
Tóm lại, theo tinh thần Bát
Nhã, phải xa lìa tất cả các vô minh vọng chấp,
thì chơn tâm hay Phật tánh mói hiện. Đó mới là
thật thấy Phật.
Ngộ được nghĩa lý uyên thâm
của đoạn này, nên Cổ nhơn có làm bài tụng như
sau:
Nguyên văn (dịch âm)
- Phật tức tâm
hề tâm tức Phật
Tâm Phật tùng lai giai vọng vật
Nhược tri vô Phật phục vô tâm
Thỉ thị chơn như pháp thân Phật
Dịch nghĩa:
- Phật tức là
tâm, tâm tức Phật
Tâm Phật cả hai đều vọng vật
Người ngộ vô tâm và vô Phật
Liền chứng chơn như pháp thân Phật
ĐẠI Ý BÀI TỤNG
Phật tức tậm, tâm tức Phật.
Tâm và Phật chỉ là hai danh từ để gọi mà thôi,
chớ không có cái gì chơn thật. Nếu người diệt
trừ các vô minh vọng chấp, ngộ được lý Phật và
tâm đều không, thì người ấy sẽ chứng đặng chơn
như hay Pháp thân Phật.
61. PHẬT
NÓI BÀI KỆ PHÁ CÁI CHẤP "THẤY PHẬT BẰNG SẮC
TƯỚNG, NGHE PHẬT BẰNG ÂM THANH"
Khi đó, Ðức Thế Tôn nói
tiếp bài kệ rằng:
- Nếu thấy ta
bằng sắc tướng
Nghe ta bằng âm thanh
Người này đi đường tà
Không thấy được Như Lai.
LƯỢC GIẢI
Bài kệ này tóm lại đoạn
trên, Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá cái chấp
"thấy Phật qua sắc tướng của Phật "và "nghe Phật
qua âm thanh của Phật".
Đoạn trên đã giải nếu chấp
sắc thân có 32 tướng tốt của Phật là Phật, thì
vua Chyển Luân Thánh Vương cũng có đủ 32 tướng
tốt như Phật, vậy vua Chuyển Luân Thánh Vương
cũng là Phật hay sao?
Nếu chấp tiếng nói thanh
thao vi diệu của Phật là tiếng Phật, thì tiếng
chim Ca Lăng Tần Già, cũng thanh thao vi diệu
như tiếp Phật, vậy tiếng chim Ca Lăng Tần Già
cũng là tiếng Phật hay sao?
Tóm lại, phải phá trừ các
vô minh vọng chấp, nhập Kim Cang Bát Nhã, mới
thật thấy và nghe được Phật. Trái lại, nếu còn
vô minh vọng chấp, chấp sắc tướng hay âm thanh
của Phật, không nhập được Kim Cang Bát Nhã, thì
không bao giờ thấy được Phật. Bởi thế nên Phật
quở: "Người này đi đường tà (vọng), không
bao giờ thấy được Như Lai".
62. PHẬT
PHÁ CÁI CHẤP "KHÔNG" (TỨC LÀ CHẤP ĐOẠN DIỆT)
Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông
chớ nên nghĩ rằng: "Như Lai không thừa nhận thân
tướng ,tốt đẹp này là thân Phật". Tại sao vậy? _
Nếu người phát tâm Bồ Đề mà nghĩ như vậy, thì
mắc về cái chấp "đoạn diệt". Tu Bồ Đề! Người
phát tâm Bồ Đề, đối với các pháp, không nên chấp
"đoạn diệt" (chấp không).
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dùng Trí huệ
Bát Nhã phá cái chấp "sắc thân đủ 32 tướng tốt
của Phật không phải là Phật".
Đúng theo tinh thần kinh
Bát Nhã, thì phá hết các chấp: ngã, pháp hữu, vô
v.v...lúc bấy giờ chơn tâm, Phật tánh hay Bát
Nhã v.v...mới hiện.
Bởi thế nên "chấp sắc thân
đầy đủ tướng tốt của Phật là Phật", đã bị Phật
quở là "lạc vào đường tà, không thấy được Phật";
mà "chấp sắc thân đầy đủ tướng tốt của Phật,
không phải là Phật", cũng bị Phật quở là "chấp
đoạn diệt" nghĩa là "chấp không", thuộc về "đoạn
kiến ngoại đạo".
Chấp "có" (chấp
thường) chấp "không" (chấp
đoạn) cũng đều là vọng chấp cả,
không thể chứng đặng Đạo Bồ Đề. Bởi thế nên Phật
dạy: "Người phát tâm Bồ Đề, đối với các pháp,
không nên chấp đoạn diệt".
Kinh chép:
- Nhược nhơn
dục thức Phật cảnh giới
Đương tịnh kỳ ý như hư không
Dịch nghĩa:
- Nếu người
muốn biết cảnh giới Phật
Tâm phải thanh tịnh như hư không
ĐẠI Ý
Người muốn nhập cảnh giới
Phật hay chứng đạo Bồ Đề, thì phải xa lìa các
vọng chấp: có, không, đoạn, thường v.v...giữ tâm
ý thanh tịnh như hư không
63. NGƯỜI
NGỘ "TẤT CẢ CÁC PHÁP KHÔNG THẬT", PHƯỚC ĐỨC
NHIỀU HƠN NGƯỜI BỐ THÍ VÔ SỐ BẢY BÁU
Phật day: "Tu Bồ Đề! Nếu
các vị Bồ Tát dùng 7 món báu, đựng đầy trong
hằng sa thế giới, đem bố thí; và có vị Bồ Tát
ngộ "tất cả pháp không thật" (nhứt thế pháp vô
ngã) và chứng đặng "pháp không" (pháp nhẫn) thì
công đức của vị Bồ Tát sau này, nhiều hơn vị Bồ
Tát trước. Tại sao vậy? Vì vị Bồ Tát sau này
không lãnh thọ phước đức".
Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch
Thế Tôn! Tại sao Bồ Tát không lãnh thọ phước
đức". Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Bồ Tát làm các việc
phước đức, nhưng không tham trước, nên nói Bồ
Tát không lãnh thọ phước đức
LƯỢC GIẢI
Đoạn này có Bồ Tát nhập Kim
Cang Bát Nhã chứng được "các pháp vô ngã" (vô
sanh pháp nhẫn) nên làm các
việc phước đức, mà không tham trước, không mong
cầu về mình, không chấp tướng phước đức, nên
phước đức nhiều hơn vị Bồ Tát bố thí bảy món báu
đựng đầy trong hằng sa thế giới.
Người đem tâm vọng chấp
ngã, pháp của phàm phu, mà làm các việc phước
đức, dù phước đức ấy có nhiều đến dâu, cũng
thuộc về hữu vi hữu lậu của thế gian phàm phu mà
thôi.
Trái lại, nếu người đem tâm
thanh tịnh, không chấp ngã, chấp pháp, hợp với
tánh Bát Nhã chơn không, mà làm việc phước đức,
không tham cầu phước đức riêng về phần mình, thì
người này mặc dù làm rất ít, mà phước đức nhiều
vô tận; vì phước đức này thuộc về vô lậu thanh
tịnh.
Giải thích đoạn này. Ngài
Trí Giả Đại sư làm bài tụng:
Nguyên văn (dịch âm)
- Tam thiên
đại thế giới
Thất bảo mãn kỳ chung
Hữu nhơn trì bố thí
Đắc phước giả như phong
Du thắng xan tham giả
Vị đắc đạt chơn tông
Chung tu tứ cú kệ
Tri giác chứng toàn không
Dịch nghĩa:
- Cả đại thiên
thế giới
Đựng đầy bảy món báu
Bố thí để cầu phước
Đặng phước cũng như gió
Còn hơn người bỏn xẻn
Chưa hiểu nghĩa chơn thật
Trì tụng bốn câu kệ
Mới ngộ được lý không
ĐẠI Ý BÀI TỤNG
Người đem bảy báu đựng đầy
một nghìn triệu thế giới nhỏ, để bố thí, được
phước đức tuy nhiều, nhưng không lâu dài, như
gió thổi qua; không bằng người tỏ ngộ lý chơn
không của kinh Bát Nhã, sẽ đặng phước vô lậu
thanh tịnh.
GIẢI DANH TỪ
"PHÁP KHÔNG" (hay PHÁP
NHẪN): bản thể chơn như thanh tịnh; nhưng vì mây
ngã pháp che mờ. Hành giả tu hành phá trừ được
ngã chấp (ngã không) thì
một phần chơn như hiện ra, nên gọi là "ngã không
chơn như"; phá trừ pháp chấp (pháp
không) thì một phần nữa chơn
như hiện ra, nên gọi là "pháp không chơn như".
Chứng được lý ngã không (sanh
không) và pháp không, thì gọi
là "nhị không chơn như" tức là đặng "vô sanh
pháp nhẫn", (chứng đặng ngã pháp
đều không).
(*) Khiếm khuyết đoạn
này
▲ Trở Lên
|
|
|