1. Ngài
Văn Thù hỏi Phật
2. Phật khen Ngài Văn Thù
3. Phật trả lời cho Ngài Văn Thù
4. Phật chỉ “Vô minh”
5. Phật dạy “Vô minh” không có thật thể
6. Phật dạy tu theo “Viên giác”
7. Phật và Bồ Tát đều tu theo “Viên Giác”
8. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
B.- Phần
Chánh-tôn I.- CHƯƠNG
VĂN-THÙ
1. Ngài Văn Thù
hỏi Phật
Khi ấy Ngài Văn-thù
Sư Lợi Bồ-tát ở trong đại-chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu
của Phật ba vòng, rồi chắp tay đảnh-lễ và quỳ thẳng bạch
rằng:"
Bạch đức Ðại-bi
Thế-Tôn, xin Ngài vì thính-chúng trong pháp-hội hiện-tại nầy
và các chúng-sanh cầu Ðại-thừa đời sau, từ bi chỉ dạy:
1. Nói lại nhơn-địa
tu-hành thanh-tịnh của Như-Lai;
2. Các vị Bồ-tát đối
với Ðại-thừa, đã phát tâm thanh-tịnh (Bồ-đề) rồi, làm sao xa
lìa được các bịnh (trừ-vọng); khiến cho các chúng-sanh khỏi
đọa vào đường tà (tà-kiến).
Ngài Văn-thù Bồ-tát
thưa thỉnh như vậy ba lần, kính lạy rồi trở lui, cùng với
đại chúng ngồi yên-lặng, để chờ nghe lời Phật chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Ðại-ý
đoạn nầy là Ngài Văn-Thù hỏi Phật hai điều:
1. Phật đã tu-hành
như thế nào mà được thành Phật?
2. Các vị Bồ-tát,
khi đã phát-tâm Bồ-đề rồi, làm sao cho các vọng đừng sanh?
Câu hỏi thứ nhất
giống như câu hỏi trong kinh Lăng-Nghiêm, Ngài A-Nan hỏi
Phật: “...Xin Phật chỉ dạy cho con phương-pháp nào mà tất cả
các đức Phật tu-hành đều được thành đạo chứng quả...”.
Câu hỏi thứ hai,
giống như câu hỏi trong kinh Kim-Cang, Ngài Tu-Bồ-Ðề hỏi
Phật: “... Làm sao an-trụ Chơn-tâm và làm sao
hàng-phục được Vọng-tâm...” (Vân hà ưng trụ, vân hà
hàng-phục kỳ tâm).
2. Phật khen Ngài
Văn Thù
Khi ấy đức Thế-Tôn
kêu Ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát mà dạy rằng:
- Nầy Thiện-nam, quý
lắm! Ông vì các vị Bồ-tát hiện-tại và tất cả chúng-sanh đời
sau cầu pháp Ðại-thừa mà thưa hỏi:
1. Nhơn-địa tu-hành
của Như-Lai;
2. Khi đã phát-tâm
thanh-tịnh rồi, làm sao xa-lìa các bịnh, để khỏi đọa vào
tà-kiến. Vậy ông hãy chăm-chú nghe, tôi sẽ vì các ông chỉ
giáo.
Khi đó Ngài Văn-Thù
Sư-Lợi Bồ-tát và đại-chúng đều hoan-hỷ, vừa kính-cẩn và vừa
chăm-chú chờ nghe lời Phật dạy bảo.
LƯỢC GIẢI
Phật trước
khen-ngợi, rồi sau dặn-dò phải chăm-chú nghe, là vì
“Viên-giác” là cảnh-giới thanh-tịnh, phải định-tâm chú-thần
mà nghe, không thể dùng tâm sanh-diệt, ý-nghĩ xằng-xiêng mà
nghe hiểu được
3. Phật trả
lời cho Ngài Văn Thù
- Này thiện-nam,
Như-Lai có pháp “Ðại Ðà-la-ni” (1) tên là “Viên-Giác”. Từ
tánh “Viên-Giác” nầy mà sanh ra tất cả các pháp
thanh-tịnh: Chơn-như, Bồ-đề (Trí-giác) Niết-bàn
(viên-tịch) và Ba-la-mật (Ðáo-Bỉ-Ngạn), nay ta sẽ dạy
trao cho các ông.
Nầy Văn-Thù,
nhơn-địa tu-hành của các đức Phật, đều y “Viên-Giác” nầy mà
vĩnh-viễn đoạn trừ vô-minh, được sáng-suốt thanh-tịnh
viên-mãn, nên mới được thành Phật.- Vậy “Vô-minh” là gì?
LƯỢC GIẢI
Ngài Văn-Thù hỏi
nguyên-nhơn tu-hành của các đức Phật thế nào?- Ðến đây Phật
mới trả lời: Tất cả chư Phật đều y “Viên-Giác” để
chiếu phá vô-minh và được thành Phật. Nào là: Chơn-như,
Bồ-đề, Niết-bàn và Bát-nhã Ba-la-mật-đa v.v... cũng đều từ
“Viên-Giác” nầy mà lưu xuất.
Vậy muốn ngộ
được “Viên-giác’ trước phải hiểu rõ Vô-Minh và diệt trừ
vô-minh là điều cần nhứt.
4. Phật chỉ “Vô
minh”
- Nầy Thiện-nam, tất
cả chúng-sanh từ hồi nào đến giờ, bị nhiều món điên-đảo làm
mê-mờ tánh “Viên-Giác”, như người lạc đường, lầm lộn bốn
phương. Ðiên-đảo vọng-hiện ra thân và tâm, rồi lầm nhận thân
tứ-đại giả hợp nầy làm thân mình, chấp cái vọng-niệm sanh
diệt duyên theo bóng-dáng của sáu trần cho là thật tâm
mình. Như người nhặm con mắt, thấy trong hư-không có các hoa
đốm, hoặc mặt trăng thứ hai. Thật ra trong hư-không chẳng có
hoa đốm hay mặt trăng thứ hai, nhưng vì người nhặm con mắt
vọng-chấp. Bởi vọng-chấp, nên chẳng những không biết được
hư-không, mà lại thêm mê-lầm: Chấp thật có hoa đốm sanh. Vì
mê-lầm mà có sanh-tử luân-hồi, nên gọi là “Vô-minh”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn nầy Phật chỉ rõ
cái “Vô-minh”. Vô-minh là những cái vọng-tưởng điên-đảo che
mờ tánh “Viên-Giác” (bản tâm thanh-tịnh).
Bởi Vô-minh vọng
hiện ra có thân có cảnh rồi chúng-sanh trở lại chấp thật-ngã
thật-pháp, tạo ra vô-số nghiệp, mê-mờ chồng-chập, che đậy
tánh Viên-Giác! Vì thế mà nhiều kiếp sanh-tử luân-hồi,
trầm-luân trong biển khổ.
Cũng như người bị
buồn ngủ (dụ cho Vô-minh) nổi lên, làm cho mê-mờ tánh
tỉnh-táo (dụ cho Viên-Giác); nhơn đó hiện ra cảnh chiêm-bao
đủ cả người và vật (hiện thế-giới và chúng-sanh), rồi cũng
khóc cũng cười, cũng mừng cũng giận, mỗi mỗi đều cho là
thiệt cả, nên luyến-ái triền miên, từ giấc chiêm-bao nầy
tiếp-tục qua giấc chiêm-bao khác, không biết chừng nào
thức-tỉnh.
Ðây là dụ cho
Vô-minh chồng-chập che mờ tánh “Viên-Giác” (Chơn-tâm).
5. Phật dạy
“Vô minh” không có thật thể
- Nầy thiện-nam!
Cái “Vô-minh” này không có thật thể (thật vật). Như người
ngủ chiêm-bao, thấy các cảnh vật, đến khi thức rồi, thì cảnh
vật kia không còn; và như người hết nhặm, thì các hoa đốm
trong hư-không tự tiêu-diệt. Lúc bấy giờ không thể nói “thật
có chỗ hoa diệt”, vì không thật có chỗ hoa sanh vậy.
Tất cả chúng-sanh ở
trong cái “không sanh diệt” (tánh Viên-Giác) mà vọng thấy có
sanh-diệt, cho nên mới bị trầm luân trong biển sanh-tử
luân-hồi.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật
dạy: Tất cả chúng-sanh vẫn ở trong bản tánh Viên-Giác
thanh-tịnh không sanh không diệt, mà tự mình mê-mờ (Vô-minh)
vọng thấy có sanh-diệt, nên vĩnh kiếp triền-miên, luống chịu
trôi lăn trong biển sanh-tử luân-hồi, thật đáng thương!
Nhưng “Vô-minh” là
hư-vọng, không có thật-thể, cho nên khi giác-ngộ rồi, thì nó
tự hết. Cũng như các “Tối”, vì nó không có thật-thể,
nên khi “Sáng” đến, thì “Tối” tự mất. Nếu Vô-minh là vật có
thật, như núi, như sông v.v... thì không dễ gì làm tiêu nó
được.
Phật lại tỷ-dụ:
Vô-minh như chiêm-bao, không phải thật vật, nên khi thức rồi
thì cảnh chiêm-bao tự mất. – Vô-minh như mắt người bị nhặm,
thấy hoa-đốm lăng-xăng giữa hư-không khi hết nhặm rồi thì
hoa đốm liền tiêu.
6. Phật dạy tu
theo “Viên giác”
- Nầy Thiện-nam,
nhơn-địa tu-hành của Như-Lai là tu theo Viên-Giác. Nghĩa là:
biết các pháp đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư-không có
người chịu sanh-tử luân hồi.
Không phải phá hoại,
làm cho các pháp mất đi mà kêu là không, chính bản-tính của
các pháp nó tự không. Cái “biết (năng biết) các pháp không”
đó, cũng như hư-không. “Cái biết như hư-không”, cũng không
luôn. Nhưng không thể nói: “không có cái biết”. Phải dứt trừ
hết cả “có” và “không”, như thế mới gọi là “tùy thuận tánh
Viên-giác” (tu Viên-Giác).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn nầy Phật dạy tu
theo “Viên-Giác”, có 5 từng bực:
1. Từng bực thứ
nhất, là quán các pháp đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa
hư-không, nên không sanh tâm tham, sân, si. Ba độc không
sanh, thì ba nghiệp thân, khẩu, ý chẳng tạo nghiệp. Vì không
tạo nhiệp, nên không có cảnh luân-hồi và người bị luân-hồi.
2. Trên nói “cảnh bị
biết” không, nói đến từng thứ hai là “cái tâm hay biết” cũng
như hư-không.
3. Ðến từng thứ ba,
là cái biết “cái tâm hay biết cũng như hư-không” cũng không
luôn.
4. Sợ người lầm chấp
cảnh-giới nầy không có cái biết, nên đến từng thứ tư, Phật
dạy tiếp: “không phải là không có cái biết”.
5. Ðến từng thứ năm,
Phật dạy phải rời các vọng-chấp “có” và “không”, mới nhập
được tánh viên-giác.
7. Phật và Bồ Tát
đều tu theo «Viên Giác»
Tại sao thế? Vì
trong Như-Lai-Tạng (Viên-Giác) không có sanh diệt, không có
thấy biết, như hư-không thường còn, chẳng lay động, như tánh
của pháp-giới viên-mãn khắp giáp cả mười phương.
Ðây gọi là chỗ
nhơn-địa tu-hành của Như-Lai, các vị Bồ-tát cũng nhơn nơi
đây mà phát tâm thanh-tịnh tu theo Ðại-thừa. Chúng-sanh đời
sau cũng phải y theo đây tu-hành, mới khỏi đọa vào tà-kiến.
LƯỢC GIẢI
Như-Lai-Tạng là tánh
Như-Lai hàm chứa tất cả các pháp; cũng gọi là “Viên-Giác”,
cũng kêu là “Pháp-giới-tánh” (bản tánh của các pháp). Nó
viên-mãn khắp-giáp cả mười phương, không có sanh-diệt và
cũng không tri-kiến, như hư-không thường còn chẳng lay động.
Phật dạy: Ðây là chỗ
tu-hành của Như-Lai. Các vị Bồ-tát cũng nhơn nơi đây phát
tâm thanh-tịnh tu Ðại-thừa. Chúng-sanh đời sau cũng phải y
nơi đây tu-hành mới khỏi lạc vào tà-đạo.
Ngài Văn-Thù hỏi 2
câu:
1. Nhơn-địa
tu-hành của Như-Lai.
2. Các vị
Bồ-tát phát tâm Bồ-đề tu theo Ðại-thừa, làm sao phá trừ được
các vọng? Ðến đây Phật đã dạy xong.
8. Phật nói
bài kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi đó Ðức Thế-Tôn,
muốn tóm lại các nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng:
Văn-Thù! Ông phải
biết:
Chỗ chơn-địa tu-hành
Của các đức Như-Lai
Là dùng trí
Viên-giác
Phá trừ hết Vô-minh:
Biết các pháp
hư-huyễn
Thì khỏi bị
luân-hồi.
Cũng như người
chiêm-bao,
Thức rồi cảnh mộng
hết.
Cái biết cũng không
còn
Sáng-suốt khắp mười
phương (Viên-giác),
Bình-đẳng không
chuyển-động,
Tức thì thành
Phật-đạo.
Các huyễn diệt hết
rồi,
Thành đạo cũng không
thành:
Xưa nay tánh
viện-mãn.
Bồ-tát y nơi đây,
Phát tâm đại Bồ-đề,
Các chúng-sanh đời
sau,
Tu đây mới khỏi
đọa.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ
nầy: Các Ðức Phật dùng trí Viên-Giác phá trừ Vô-minh. Nghĩa
là: biết muôn vật đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư-không,
không sanh tâm nhiễm-trước, nên khỏi bị luân-hồi.
Người được giác-ngộ
rồi cũng như người thức giấc chiêm-bao: các cảnh vật đều
không còn - Cảnh “bị biết” đã không, nên “cái biết” (năng
biết) cũng không. Vì năng và sở đều không nên tánh Viên-giác
mới hiện ra sáng-suốt chiếu khắp cả mười phương, bình-đẳng
không chuyển-động, như thể là “thành Phật”.
Nói “thành Phật” là
tạm nói mà thôi, thật ra cũng không “thành”. Vì tánh
“Viên-Giác” của mỗi người đều sẵn có, chỉ trừ hết “Vô-minh”
rồi thì “Viên-Giác” tự hiện ra, chớ có gì đâu mà gọi là
“thành”.
Cũng như người có
sẵn hòn ngọc trong túi, chẳng qua vì quên, nên in như
mất. Ðến khi nhớ lại thì ngọc vẫn ở sẵn trong túi áo, chớ
đâu phải mới “đặng”. Bởi thế nên nói “thành đạo cũng không
thành”.
Phật y theo
Viên-Giác nầy mà tu, Bồ-tát cũng y theo Viên-Giác nầy mà
phát tâm Bồ-đề, cho đến chúng sanh đời sau cũng phải y theo
Viên-Giác nầy tu-hành mới khỏi lạc vào tà-đạo.
1. Ngài Phổ
Hiền hỏi Phật
2. Phật Khen Ngài Phổ Hiền
3. Phật trả lời cho ngài Phổ Hiền
4. Phật dạy pháp tu để nhập “Viên Giác”
5. Phật dạy pháp tu ly huyễn
6. Phật dạy “Giác ngộ” không có tuần tự, “rời huyễn” chẳng
cần phương tiện.
7. Phật nói bài kệ tóm lại nghĩa trên
II.
Chương Phổ Hiền
1. Ngài Phổ
Hiền hỏi Phật:
Khi ấy Ngài Phổ Hiền
Bồ tát, ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật
ba vòng rồi chắp tay đảnh lễ và quỳ thẳng bạch rằng:
- Bạch Ðức Ðại bi
Thế Tôn, xin Ngài vì các vị Bồ Tát ở trong hội này và tất cả
chúng sanh đời sau tu Ðại thừa, từ bi chỉ dạy phương pháp tu
hành để vào cảnh giới Viên Giác thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn, nếu
chúng sanh biết các pháp đều như huyễn, thân và tâm này cũng
huyễn, thì cần gì phải tu? Tại sao còn dùng cái “huyễn” trợ
lại tu “pháp huyễn” làm gì?
Lại nữa, nếu các
pháp hư huyễn đều diệt hết, thì thân tâm này cũng diệt; nếu
thân tâm đều diệt thì lấy ai tu hành mà gọi là “tu pháp như
huyễn”?
Bạch Thế Tôn, nếu
các chúng sanh không tu hành, vẫn ở mãi trong cảnh sanh tử
huyễn hóa mà chẳng tự biết, thì làm sao dẹp trừ các tâm vọng
tưởng, để giải thoát được sanh tử luân hồi?
Xin Phât vì chúng
sanh đời sau, chỉ dạy phương tiện tu tập và thứ lớp tu hành
như thế nào, để cho chúng sanh khi nghe đến cảnh giới Viên
Giác thanh tịnh này, y theo đó tu hành, vĩnh viễn xa lìa
được các vọng huyễn.
Ngài Phổ Hiền Bồ tát
thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
Lược Giải
Ðại ý đoạn này là
Ngài Phổ Hiền Bồ tát hỏi Phật:
1. Nếu tất cả
chúng sanh biết các pháp đều như huyễn thì cần gì phải
tu, vì nó là huyễn. Tại sao còn dùng cái huyễn (thân
tâm) tu pháp như huyễn làm gì?
2. Nếu chúng
sanh chấp là huyễn mà không tu, thì vẫn ở mãi trong sanh tử
luân hồi, làm sao được giải thoát?
Xin Phật từ bi chỉ
dạy phương tiện tu hành và phải tu tuần tự như thế nào, mới
nhập được cảnh giới Viên Giác thanh tịnh?
2. Phật
khen Ngài Phổ Hiền
Khi đó Ðức THế Tôn
khen Ngài Phổ HIền Bồ tát và dạy rằng:
Này thiện nam, quý
lắm! Ông vì vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, hỏi về
phương tiện và thứ lớp tu tập pháp môn “như huyễn Tam
muội”(1) của Bồ Tát, khiến cho chúng sanh xa lìa các huyễn.
Vậy các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông khai thị.
___________
(1) Chữ
“Tam muội” Tàu dịch là “Ðịnh” hay “chánh thọ”. Vi nhiếp tâm
chuyên chú một chỗ, không có xao lãng, nên dọi là “Ðịnh” –
Ngài Tôn Mật nói: “Rõ thấu thân và tâm đều như huyễn, thầm
hiệp với chơn như, như thế gọi là “chánh thọ”.
Nghĩa bóng bóng của
chữ “Tam muội”, là chỉ cho công việc làm đã quán thuần thục.
Nhưng người niệm Phật, có khi niệm mà có lúc lại quên, còn
bị các vọng niệm xen tạp, như thế là chưa được tam muội. Bao
giờ người niệm Phật, chỉ ròng rặc một niệm Phật thôi (nhứt
tâm bất loạn) không có một niệm gì khác xen vào, đi đứng nằm
gnồi, bất luận chỗ nào hay lúc nào, từ năm này cho đến tháng
nọ, cũng vẫn nhớ niệm Phật, như thế gọi là được “niệm Phật
tam muội”.
Khi đó, Ngài Phổ
Hiền Bồ Tát và đại chúng đều hoan hỷ, kín cẩn và chăm chú
nghe lời Phật chỉ giáo.
Lược Giải
Văn Thù và Phổ Hiền
là hai vị đại Bồ tát, ngài Văn Thù tiêu biểu cho đại
trí. Ngài Phổ Hiền tiêu biểu cho đại hạnh. Có Ðại trí (căn
bản trí) mới phá trừ được căn bản vô minh. Có Ðại hạnh mới
hoàn thành được công hạnh của Phật. Người tu hành lúc nào
cũng phải đủ cả “Trí và Hạnh”. Có “Trí” mới phá đưọc vô minh
và thấu rõ chơn lý. Có “hạnh” mới đạt được chơn lý, hoàn
thành quả Phật.
Ðoạn này Phật khen
ngài Phổ Hiền bồ tát, vì chúng sanh mà hỏi pháp tu “như
huyễn tam muội”
Chúng ta quán các
vật đều hư huyễn; nhưng có khi lại thấy là thiệt, như thế
chưa được “như huyễn Tam muội”. Bao giờ đi đứng nằm ngồi bất
luận giờ phút nào hay nơi nào cũng đều thấy các pháp hoàn
toàn hư huyễn, như thế là chúng ta được pháp “Như huyễn tam
muội”.
3. Phật trả
lời cho ngài Phổ Hiền
-Này thiện nam! tất
cả các cảnh vật huyễn hóa (thế giới, chúng sanh) của chúng
sanh, đều sanh trong tâm Viên Giác mầu nhiệm của Như
Lai. Các pháp hư huyễn có diệt, mà tánh Viên Giác vẫn không
diệt. Cũng như đốm sanh trong hư không, các hoa đốm hư huyễn
kia có hoại diệt, mà tánh hư không chẳng hề hoại diệt.
Lược Giải
Hoa đốm là dụ cảnh
vật, hư không là dụ Viên Giác. Ðại ý đoạn này là nói các
pháp giả dối hư huyễn giữa này, đều sanh trong Viên Giác
(chơn tâm). Các pháp hư huyễn diệt mà tâm Viên Giác không
diệt. Cũng như cá hoa đốm sanh trong hư không, các đốm
có diệt mà hư không không diệt.
4. Phật dạy
Pháp Tu để nhập Viên Giác
Khi các huyễn cảnh
diệt rồi, thì cái huyễn tâm của hành giả cũng theo đó mà
diệt luôn. Ðến khi các huyễn (năng và sở) đều diệt hết, thì
cái tâm Viên Giác không vọng động tự hiện.
Bởi đối với vọng
huyễn mà nói “Viên Giác” nên Viên Giác cũng trở thành vọng
huyễn, vì còn ở trong vòng đối đãi vậy. Ðến cảnh giới này,
nếu nói “có viên Giác” thì chưa rời vọng huyễn đã đành, mà
nói là “không Viên Giác” thì cũng chẳng rời được vọng
huyễn.
Thế nên, các vọng
huyễn (có và không) đều phải bị diệt hết rồi, mới gọi là
Viên Giác.
Lược Giải
Ðoạn này lý lẽ uyên
thâm, có 5 từng:
1. Huyễn cảnh
diệt
2. Huyễn tâm
cũng diệt
3. Các huyễn
(năng, sở) diệt hết, tâm “Viên giác hiện bày.
4. Bởi đối vọng
huyễn mà gọi “viên giàc” nên Viên Giác cũng trở thành hư
huyễn. Vì còn ở trong vòng dối đãi phân biệt, nên chưa phải
là “Viên Giác”.
5. Nếu “chấp có Viên
Giác” thì ở trong vòng vọng huyễn mà “chấp không Viên Giác”
cũng còn ở trong vòng vọng huyễn. Các vọng huyễn: có, không
sanh, diệt, phải chẳng v..v.. đều phải diệt hết rồi, thế mới
đúng là “Viên Giác”.
Ðại ý đoạn này nói:
“Tánh Viên Giác” (Chơn tâm) không thể dùng lời nói mà luận
bàn được, cũng không dùng ý nghĩ mà suy nghĩ được. Nếu vừa
móng tâm động niệm, nghĩ thánh nói phàm, cho thế này là
vọng, thế kia là chơn, như thế là hãy còn trong vòng đối
đãi, hễ còn đối đãi phân biệt, thì đều là vọng huyễn cả:
phải rời hết các vọng huyễn mới đúng là “viên Giác”.
5. Phật dạy
Phương pháp ly huyễn
Này Thiện Nam! Tất
cả các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, cần phải xa lìa các
việc như sau:
1. Xa lìa các cảnh
giới huyễn hóa hư vọng. Nhưng còn cái “Tâm biết xa lìa”
2. Cái “Tâm biết xa
lìa” đó cũng là huyễn, nên cũng xa lìa luôn.
3. Cái “xa lìa” đó
cũng là huyễn, nên cũng phải xa lìa
4. Cái “lìa cái xa
lìa” cũng là huyễn nên cũng phải xa lìa luôn
5. Phải không còn
cái gì để “xa lìa” nữa, như thế mới gọi là trừ được các
huyễn.
Tỷ như người kéo củi
lấy lửa, dùng hai miếng củi tre cọ xát nhau; cọ cho đến khi
lửa phát ra, trở lại cháy hai miếng tre; cháy đến lúc củi
hết, lửa tàn tro bay, bấy giờ chỉ còn đất trống.
Dùng “cái huyễn” tu
các “pháp huyễn” cũng thế. Khi các huyễn diệt hết rồi, không
phải là đoạn diệt mà lúc bấy giờ tánh Viên Giác tự hiện bày.
Lược Giải
Ðại ý đoạn này nói:
người tu hành trước hết phải lìa các huyễn cảnh, sau lìa
huyễn tâm; lìa cho đến không còn cái gì để lìa nữa, thế mới
là lìa được hết các huyễn. Lúc bấy giờ cái phi huyễn là
“viên giác tánh” hiện ra. Như thế thì “Viên Giác tánh” không
phải là đoạn diệt.
Như người kéo lửa
(dụ cho tu như huyễn) ban đầu dùng hai miếng củi tre cọ nhau
(dụ cho tâm và cảnh), khi lửa phát ra trở lại cháy hết củi
đến lúc lửa tàn tro bay (tâm cảnh đều hết), bấy giờ
chỉ còn đất trống (dụ cho Viên Giác).
6. Phật
dạy: “Giác Ngộ” không có tuần tự, “rời huyễn” chẳng cần
phương tiện
-Này thiện nam! Khi
biết được các pháp hư huyễn, tức là lìa được các huyễn, chớ
không cần phải có phương tiện gì khác. Lìa được các huyễn
tức là “giác” cũng không có lớp lang tuần tự gì.
Tất cả Bồ tát và
chúng sanh đời sau, y như thế mà tu hành, mới xa lìa được
các huyễn
Lược Giải
Phật dạy người biết
được các pháp là hư huyễn thì không còn cố chấp và tham
luyến các pháp nữa, tức là lìa được các huyễn rồi, chớ không
có phương pháp tu tập nào khác.
Câu này giống như
câu trong Kinh Lăng Nghiêm: “Giác mê, mê diệt” (Giác ngộ
được cái mê, thì cái mê ấy hết) Cũng như người khi biết mình
là chiêm bao, thì không còn chiêm bao nữa.
Lìa được các vọng
huyễn, tức thì “Viên Giác” hiện bày, thế nên không có lớp
lang từng bực. Dụ như khi ánh sáng đến, thì cái tối liền
diệt; tối vừa diệt thì sáng vừa hiện, không có lớp lang từ
tự chi hết.
Ðoạn trước Ngài Phổ
Hiền có hỏi thức lớp tu pháp môn như huyễn thế nào. Ðến đoạn
này Phật trả lời đã xong.
7. Phật Nói
Bài kệ Tóm lại các nghĩa
Khi ấy Ðức Thế Tôn
muốn tóm lại nghĩa này, nên nói bài kệ rằng:
Phổ Hiền! Ông nên
biết
Các vô minh huyễn
hóa
Của tất cả chúng
sanh,
Từ vô thỉ đến giờ,
Ðều sanh trong Viên
Giác
Của các Ðức Như Lai
Cũng như các hoa đốm
Sanh trong thái hư
không
Hoa đốm diệt hết
rồi,
Hư không vẫn trong
tịnh,
Các huyễn từ “Giác”
sanh,
Huyễn diệt, “Giác”
viên mãn
Viên Giác không vọng
động
Các Bồ tát hiện tại
Và chúng sanh đời
sau
Thường phải xa lia
huyễn.
Xa lìa cho hết huyễn
Như lửa từ cây sanh
Trở lại cháy hết
cây;
Lửa tàn tro bay tận.
“Giác ngộ” không
tuần tự
“Phương tiện” cũng
không cần.
Lược Giải
Ðại ý bài kệ này
Phật dạy: Các vô minh vọng huyễn của chúng sanh từ vô thỉ
đến giờ, đều sanh trong tâm Viên Giác của Như Lai. Ðến khi
các vô minh vọng huyễn diệt rồi, thì tâm “Viên Giác” hiện
ra, khôngc có tuần tự và cũng không cần có phương tiện gì
khác.
Dụ như hoa đốm sanh
trong hư không, khi hoa đốm diệt hết thì hư không tự trong
tịnh. Và như lửa từ trong cây sanh, trở lại đốt cháy cây,
đến khi củi hết lửa tàn, khói tan tro tận, lúc bấy giờ chỉ
còn bầu trời trong suốt.
Lưu Ý
Trong chương Phổ
Hiền này, chúng ta nên lưu ý về câu hỏi của Ngài Phổ Hiền và
lời đáp của Phật, vì rất quan hệ đến đời tu hành của chúng
ta.
Ngài Phổ Hiền hỏi
rằng: “Ðã là huyễn thì cần gì phải tu? Tại sao còn dùng thân
tâm như huyễn để tu hành như huyễn?” - Ðoạn này chúng ta
hiểu lầm, thì không sao khỏi sanh ra những vọng chấp: “Thân
huyễn, cảnh huyễn, tu học cũng huyễn v.v...” rồi trăm việc
lành đều bỏ xuôi, thật là nguy hiểm vô cùng.
Vậy ta cần phải xét
kỹ về đoạn trả lời của Phật. Ðại ý Phật dạy rằng: Tuy biết
các pháp là “huyễn” nhưng cần phải tu mới đạt đến chỗ “phi
huyễn” (Chơn). Cũng như: vẫn biết không có “tiếng gõ bảng”
của thầy giáo thì không sao dẹp được hết tiếng ồn ào của học
trò. Ðến khi hết tiếng ồn ào của học trò thì tiếng gõ bảng
cũng không cần nữa.
Tổ sư đã dạy: “hữu
vị tuy nguy, xả chi tắc Phật đạo nan thành”; nghĩa là các
việc tu hành đều thuộc về hữu vi phá, tuy biết là vọng,
nhưng nếu bỏ đi không tu thi khó thành đạo Phật. Cổ
nhơn dạy: “Ðạp gai lấy gai mà lể” hay là “phải dùng giặc để
dẹp giặc” cũng là nghĩa ấy.
Vẫn biết “Viên Giác”
tánh “Không phải huyễn, nhưng muốn nhập viên giác thì phải
dùng huyễn để trừ huyễn. Khi các huyễn diệt hết, thì
tánh “Viên Giác” mới hiện
Cổ Ðức dạy: “thật tế
lý địa bất thọ nhứt trần, vạn sự môn trung bất xả nhứt
pháp”, nghĩa là: về chỗ lý tánh chơn thật (Viên Giác) thì
khôgn thọ một mảy trần; nhưng về sự tướng tu hành, thì không
bỏ một việc nhỏ.
Ðây là một quy tắc
từ nghìn xưa. Những vị tu hành được thành đạo quả,
không một ai vượt qua ngoài quy tắc này.
1. Ngài Phổ Nhãn hỏi
Phật
2. Phật khen ngài Phổ Nhãn
3. Phật dạy phương pháp tu
4. Phật dạy quán “Thân” như huyễn
5. Phật dạy quán “Tâm” như huyễn
6. Huyễn hết thì chơn hiện
7. Dùng ngọc Ma ni dụ tánh Viên Giác
8. Vì có kẻ lìa huyễn và người chưa lìa được, nên phân ra có
Thánh và Phàm
9. Viên Giác hiện, thì các pháp đều thanh tịnh
10. Vì hiện tượng bình đẳng nên bản thể bình đẳng
11. Bàn thể và hiện tượng khắp cả mười phương.
12. Vì chứng Viên Giác nên thấy các Pháp bình đẳng
13. Tu và chứng mà thật ra không có tu và chứng
14. Sanh tử và Niết bàn đều như mộng
15. Các pháp bình đẳng
16. Tóm lại
17. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
CHƯƠNG PHỔ NHÃN
1. Ngài Phổ Nhãn
hỏi Phật
Khi ấy ngài Phổ Nhãn
bồ tát, ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật
ba vòng, rồi chắp tay đảnh lễ và quỳ thẳng bạch rằng:
-Bạch Ðức Thế Tôn,
xin Ngài vì các vị Bồ tát ở trong hội này và tất cả chúng
sanh đời sau, giảng dạy thứ lớp tu hành của Bồ tát.
Bạch Thế Tôn, như
chúng sanh kia, khi nghe Phật nói Pháp “ly huyễn tam muội”
này, tâm sanh mê muội, vì không biết làm sao để hạ thủ công
phu. Vậy, nếu không có phương tiện chơn chánh và suy nghĩ
chơn chánh, thì không thể ngộ nhập được Viên Giác.
Xin Ngài mở lòng từ
bi, vì những người chưa ngộ như chúng con hiện tại và các
chúng sanh đời sau, tạm lập ra các phương tiện: Phải tu hành
thế nào? Phải suy nghĩ (tư duy) làm sao? Phải an
trụ và giữ gìn (trụ trì) thế nào mới được ngộ nhập Viên
Giác?
Ngài Phổ Nhãn Bồ tát
thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lễ Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trước Ngài Phổ
Hiền Bồ tát hỏi Phật, ý hỏi rất u thâm - Phật xứng theo lý
Viên đốn mà trả lời rằng: “Giác ngộ, không có từng tự; biết
huyễn là lìa được huyễn, không cần phương tiện.”
Ngài Phổ Nhãn Bồ
tát, vì thấy Phật nói Pháp môn “Viên đốn” như thế, nghĩ
rằng: duy có những người trình độ cao thượng mới có thể làm
được; trái lại những kẻ căn cơ thấp kém, nếu không có tạm
lập phương tiện và chỉ dạy thứ lớp tu hành thì làm sao ngộ
nhập được. Vì vậy, nên qua chương này, Ngài PHổ Nhãn Bồ tát
cầu Phật tạm lập phương tiện và chỉ dạy thứ lớp tu hành, để
cho chúng sanh có thể hạ thủ công phu, nhập được Viên Giác.
Tóm lại các câu hỏi
của Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật, gồm trong hai phần:
1. Hỏi về “Tư Huệ”
tức là câu hỏi “phải suy nghĩ thế nào cho chơn chánh?”
2. Hỏi về “Tu Huệ”
tức là câu hỏi “phải an trụ và giữ gìn thế nào? Tạm lập
phương tiện tu hành và thứ lớp tu làm sao, mới ngộ nhập được
Viên Giác”?
*****
2. Phật Khen Ngài
Phổ Nhãn
Khi đó đức Thế Tôn
khen Ngài Phổ Nhãn Bồ tát và dạy rằng:
-Này thiện nam, quý
lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời
sau, cầu thỉnh Như lai tạm lập phương tiện tu hành và chỉ
dạy thứ lớp tu làm sao, phải suy nghĩ làm sao cho chơn chánh
(tư huệ), phải an trụ và giữ gìn thế nào (tu huệ). Vậy các
ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông khai thị.
Khi đó Ngài Phổ Nhãn
Bồ tát và đại chúng đều hoan hỷ, kính cẩn và chăm chú nghe
lời Phật chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật khen
ngài Phổ Nhãn vì đại chúng cầu Phật tạm lập phương tiện tu
hành để nhập Viên Giác. Trong câu hỏi gồm có hai phần: 1.
Hỏi về Tư huệ, 2. Hỏi về tu huệ
**
3. Phật dạy
Phương pháp tu
-Này Thiện Nam,
những hàng sơ học Bồ tát và các chúng sanh đời sau, muốn ngộ
nhập tâm Viên Giác thanh tịnh của Như Lai, thì cần phải
Chánh niệm(1), và xa lìa các vọng huyễn. Vậy trước hết
phải:
1. Y theo pháp
“chỉ” của Như Lai (Ðại thừa định)
2. Giữ gìn giới
cấm kiên cố
3. Sắp xếp đồ
chúng cho yên ổn (sắp xếp hoàn cảnh xung quanh cho thuận
tiện)
4. Ở chỗ thanh
vắng
5. Phải suy nghĩ
như sau:
LƯỢC GIẢI
Tổ sư dạy: “Thật tế
lý địa bất thọ nhứt trần, Phật sự môn trung bất xả nhứt
pháp”. Nghĩa là: Về chỗ lý tánh tuyệt đối thì không thọ một
mảy may gì; nhưng về sự tướng tu hành thì không bỏ một việc
lành nào cả.
Ðành rằng, về cảnh
giới Viên Giác, chúng ta nói không trúng, suy nghĩ cũng
nhằm; “giác ngộ” không có tiệm thứ, “rời huyễn” chẳng cần
phương tiện; nhưng khi hạ thủ công phu (bắt tay vào việc tu
hành) thì không thể bỏ qua các sự tướng tu trì.
Ðại ý đoạn này Phật
dạy khi hạ thủ công phu, trước phải dụng: 1. Giới, 2. Ðịnh
(chỉ), 3. Huệ (tức là câu “thường suy nghĩ như vậy” ở đoạn
sau), 4. Sắp xếp các ngoại duyên cho được yên ổn.
Trong chương PHổ
Hiền, Phật dạy: “Biết huyễn là lìa được huyễn, không cần
phương tiện chẳng có tiệm thứ”. Ðồng với trong kinh Lăng
Nghiêm Phật dạy: “bất tùy phân biệt” (không theo trần cảnh
khởi vọng niệm phân biệt).
Ðoạn kinh này, Phật
dạy phải dùng: “Giới, Ðịnh, Huệ, và sắp xếp các ngoại duyên
cho được thuận tiện”. Cũng như trong Ðại cương Lăng Nghiêm
về bài thứ 12, Phật dạy tu “Giới, Ðịnh, Huệ” và “ba món tiệm
thứ”.
**
4. Phật dạy Quán
thân này như huyễn
-Phải thường nhớ
nghĩ như vầy: Cái thân của ta nay đây, là do bốn chất: đất,
nước, gió, lửa hòa hiệp. Như da, thịt, gân, xương, răng,
tóc, móng tay, tủy, não v.v… là thuộc về nước; nhiệt độ
trong người là thuộc về lửa; phổi hô hấp, tim đập, mạch
nhảy, các chuyển động trong người là thuộc về gió.
______
(1) Chữ “Chánh niệm”
là niệm chơn chánh. Trong Viên Giác lược sở giải: Rời các
vọng huyễn, dứt hết các vọng niệm thế mới là: “chánh niệm”
Ðến khi bốn chất này
rã rời, không còn hòa hợp nữa, thì cái thân hư dối này (cái
ta) ở chỗ nào?
LƯỢC GIẢI
Người đời, ai cũng
chấp thân này là ta, rồi thương yêu quý trọng nó, cho nên
suốt đời lao tâm nhọc trí, vật lộn với vật chất một cách vất
vả, cũng vì lo cho ta ăn, mặc và ở v.v... Lo cho ta rồi lo
cho bà con quyến thuộc của ta, lo cả cho đồng bào chủng loại
của ta.
Nếu ta được là người
mất, đồng bào ta được thì đồng bào người phải bị mất. Vì vậy
mà thế giới chiến tranh, nhơn loại tương tàn tương
sát. Chúng sanh tạo không biết bao nhiêu điều tội lỗi, rồi
vĩnh kiếp luân hồi.
Bởi thế nên đoạn này
Phật dạy, khi hạ thủ công phu là quán thân như huyễn (vô
ngã). Khi đã thấy xác thật thân này là hư huyễn rồi, thì
không còn tham lam luyến ái, vì nó mà tạo ra các tội lỗi, để
rồi thọ quả báo sanh tử luân hồi.
Muốn cho độc giả
thưởng thức được lý thú ở đoạn này, nên tôi dẫn một đoạn
trong bài thơ “Nguyện cầu” của một thi sĩ sau đây:
Ta
còn để lại gì không?
Kìa non nước
chảy, nọ sông cát bồi!
Lang thang từ độ
luân hồi
U minh nẻo trước,
xa khơi dặm về
Trông ra bến thảm
bờ mê
Nghìn thu nửa
chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi
trên đường
Dù nhơ dù sạch,
đừng vương gót này.
*
5. Phật dạy quán
tâm như huyễn
-Này Thiện nam! ông
đã biết thân này rốt ráo không thật có, chẳng qua do các
duyên hòa hiệp làm ra thân tướng giả tạm, đồng với loại
huyễn hóa.
Do bốn duyên là đất,
nước, gió, lửa hòa hợp, nên vọng có sáu căn là mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và ý. Nhơn bốn duyên và sáu căn, trong ngoài
hợp lại thành cái thân giả tạm, rồi vọng khởi ra các vọng
tưởng phân biệt. Các vọng tưởng phân biệt tích tụ trong thân
này in như có cái hình tướng “năng duyên”, duyên theo bóng
dáng của trần cảnh, nên giả gọi đó là “Tâm”.
-Này Thiện nam! cái
tâm hư vọng phân biệt này, nếu không có trần cảnh thì không
còn phân biệt được cái gì cả. Lại nữa, khi bốn duyên (tứ
đại) rã rời rồi, thì thân giả tạm này cũng không còn. Lúc
bấy giờ, cái vọng niệm phân biệt bị tích tụ trong thân
thường duyên theo bóng dáng của sáu trần đó, cũng bị phân
tán. Rốt cuộc rồi không còn thấy có cái gì mà gọi là “Tâm”
cả.
LƯỢC GIẢI
Về chương Văn Thù,
Phổ Hiền, Phật dạy quán “Cảnh như huyễn”, đến chương Phổ
Nhãn này, trước Phật dạy quán “Thân như huyễn” rồi sau quán
“Tâm như huyễn” là vì lối tu hành phải bắt đầu từ dễ đến
khó, từ cạn đến sâu. Trước quán “cảnh như huyễn” tuy khó,
nhưng chưa khó lắm, đến quán “Thân như huyễn” mới là khó
hơn. Ði sâu vô một từng nữa là quán “Tâm như huyễn”
lại càng khó hơn nữa.
Ðại ý đoạn này, Phật
dạy quán “Tâm như huyễn”, không có thật thể. -Người đời
thường chấp tâm này (linh hồn) là ta, cái ta này thường còn
không biến đổi; nếu ta (linh hồn) là người thì khi chết rồi
trở lại làm người; còn ta là thánh thì chết rồi trở lại làm
thánh, không có thay đổi; người có tu không sợ tội lỗi,
chẳng ham phước lành, gây tạo nhiều tội ác rồi nhiều kiếp
trầm luân, chịu không biết bao nhiêu khổ sở.
Vì thương kẻ mê lầm
này, nên Phật dạy quán “Tâm như huyễn”. Khi hành giả quán
thân và tâm (linh hồn) đều như huyễn, không phải thật ngã
(ta) một cách xác thật rồi, thì không còn vì nó mà tạo các
tội lỗi. Tội lỗi không tạo, vọng niệm chẳng sanh, huyễn thân
và huyễn tâm đều dứt hết, thì tánh Viên Giác, thanh tịnh
không hư huyễn hiện ra, lúc bấy giờ hành giả ra khỏi sanh tử
luân hồi.
6. Huyễn hết thì
chơn hiện, như bụi sạch thì gương sáng
-Này Thiện nam!
Vì “huyễn thân” của chúng sanh kia diệt, cho nên “huyễn tâm”
cũng diệt; do “huyễn tâm” diệt, cho nên cái “huyễn trần”
cũng diệt; do “huyễn trần” diệt, nên cái “huyễn diệt” đó
cũng diệt luôn. Bởi thâm tâm là tướng trần cấu hư huyễn đã
hoàn toàn diệt, nên lúc bấy giờ tánh “Viên Giác phi
huyễn” hiện ra, thanh tịnh khắp cả mười phương. Thí như lau
gương khi bụi hết thì gương sáng tự hiện bày.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật
dạy các huyễn tuần tự diệt. Có năm lớp:
1. Huyễn Thân diệt
2. Huyễn Tâm diệt
3. Huyễn Trần (pháp)
diệt
4. Huyễn Trí diệt
5. Phi Huyễn (Viên
Giác) hiện
Như lau gương sạch
bụi thì ánh sáng hiện ra.
*******
7. Dùng ngọc
Ma-Ni dụ tánh Viên Giác
-Này Thiện Nam!
Dụ như ngọc Ma-ni trong sáng, tùy mỗi phương chiếu hiện ra
năm màu; nhưng người quê mùa không biết, cho năm màu (dụ cho
ngũ uẩn) kia là thật có.
Tánh Viên Giác thanh
tịnh cũng thế, tùy các loại mà ứng hiện ra mỗi thân tâm (ngũ
uẩn) không đồng. Những kẻ mê muội lại chấp cho thân
tâm đó là thật có, vì thế nên không thể xa lìa được các
tướng huyễn hóa hư vọng.
LƯỢC GIẢI
Luận về “bản tánh
Viên Giác” thì sáng suốt thanh tịnh không có một mảy trần,
tức là nghĩa “chơn không”; nhưng tùy theo nghiệp mà biến
hiện, không một loài vật nào chẳng có, tuy có mà không thật
có, tức là nghĩa “diệu hữu”.
Tánh Viên Giác không
hai, nhưng tùy theo vọng nghiệp của mỗi loại mà biến hiện
các vật ngàn sai muôn khác. Người khéo dùng thì nó hiện ra
Tứ Thánh (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật). Kẻ vụng dùng
thì nó hiện ra lục phàm (Thiên, Nhơn, A-Tu-La, Ðịa ngụ, ngạ
quỷ, súc sanh). Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dùng
giây đờn thí dụ: trong giây đờn không có tiếng hay tiếng dở;
tùy người biết sử dụng thì nó phát ra tiếng hay, còn người
không biết sử dụng thì nó phát ra tiếng dở. Cũng một giây
đờn đó, hay dở chỉ tại người khéo hay vụng mà thôi.
Ðoạn kinh trên nói:
“Ngọc Ma-ni trong suốt là dụ cho tánh “Viên Giác thanh
tịnh”; nói “ngọc Ma-ni tùy mỗi phía hiện ra ngũ sắc” là dụ
cho tánh “Viên Giác tùy mỗi loại hiện thân ngũ uẩn”.
Ðại ý đoạn này nói
“Trong ngọc Ma-ni trong suốt không có ngũ sắc, nhưng vì tùy
mỗi phương, ánh chiếu in như có ngũ sắc. Trẻ con không biết,
lầm tưởng ngũ sắc kia là thật có, rồi sanh tâm tham muốn
khóc đòi v.v... chớ đâu biết rằng “ngũ sắc” kia không
thật. Cũng như trong tánh Viên Giác thanh tịnh không có ngũ
uẩn, nhưng tùy theo nghiệp chúng sanh vọng thấy in như có
năm uẩn. Chúng sanh mê muội không biết hư huyễn, lại chấp
cho là thật có, rồi sanh tham mê ái luyến, tạo ra các
nghiệp. Vì thế mà bị triền miên trong sanh tử, không bao giờ
ra khỏi các vọng huyễn.
*********
8. Vì có kẻ lìa
huyễn và người chưa lìa được, nên phân có thánh và phàm
-Này Thiện nam! Bởi
đối với những kẻ mê muội chấp thân tâm huyễn cấu này là thật
có, không thể xa lìa được, nên ta gọi đó là chúng sanh.
Ðối với người đã xa
lìa được thân tâm cấu huyễn thì ta gọi đó là Bồ tát. Ðến khi
các “huyễn cấu” hết, “pháp đối trị” trừ, “trí đối trị” cũng
không, cho đến không còn danh từ để kêu gọi, và lời nói để
luận bàn (người không cảnh vắng, các vọng hoàn toàn diệt,
thì tạm gọi là Viên Giác hay Phật).
-Này Thiện nam! Các
Bồ tát và chúng sanh đời sau, khi diệt hết các ảnh tượng
vọng huyễn rồi thì tánh “Viên giác thanh tịnh” hiện ra, khắp
cả vô biên hư không, không có ngằng mé và phương hướng.
LƯỢC GIẢI
Những người mê muội,
không biết các pháp đều do tánh VIên Giác huyễn hiện, lại
chấp cho là thật có, rồi sanh ra ái luyến triền miên, nên
Phật gọi là “chúng sanh”. Những người biết được các pháp hư
huyễn đều do Viên Giác sanh, đã dùng pháp đối trị và xa lìa,
thì Phật gọi đó là “Bồ tát”. Lên một từng nữa là khi các
“cảnh huyễn cấu” hết “pháp trừ huyễn” không, “trí đối trị”
chẳng còn, “danh từ kêu gọi” và “lời nói luận bàn” cũng
không, cho đến “người” cũng chẳng còn: cảnh vắng người
không. Như bệnh hết, thuốc bỏ, ông thầy thuốc cũng
không còn. Các vọng huyễn hoàn toàn diệt hết, thì cảnh giới
Viên Giác thanh tịnh viên mãn hiện khắp ở mười phương, lúc
bấy giờ tạm gọi là “Phật”.
9. Viên Giác Hiện
thì các pháp (căn, trần, thức) đều thanh tịnh
-Này thiện nam! Vì
tánh Viên Giác thanh tịnh sáng suốt đã hiện ra nên “tâm”
thanh tịnh: do Tâm thanh tịnh nên “6 thức” thanh tịnh; do 6
Thức thanh tịnh nên “6 căn” thanh tịnh; do 6 căn thanh tịnh
nên “6 trần” thanh tịnh; do 6 trần thanh tịnh nên 4 đại, 12
xứ, 18 giới và 25 loài đều thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói:
vì tánh Viên giác thanh tịnh đã xuất hiện, nên các pháp
thuộc về thế gian là Căn, Trần, Thức cũng đều thanh tịnh. Dụ
như trong rừng cây y lan (loại cây hồi), một phen gỗ chiên
đàn xuất hiện, thì cả rừng đều thơm ngát.
Sáu thức: Nhãn thức,
Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức
Sáu căn: Nhãn căn,
Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn, Thân căn và Ý căn.
Sáu trần: Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.
Bốn đại: Ðịa, Thủy,
Hỏa và Phong.
Mười hai xứ: Sáu căn
và sáu trần
Mười tám giới: 6
Căn, 6 Trần và 6 Thức.
25 loài: Cõi Dục có
14 loài, là bốn châu (Ðông Thắng thần châu, Nam Thiêm bộ
châu, Tây Ngưu hóa châu, Bắc Cu lô châu); bốn ác thú (Tu la,
Ðịa ngục, ngạ quỷ, Súc sanh (và sáu cõi Dục (1.Tứ
Thiên vương, 2. Ðao lợi, 3. Dạ ma, 4. Ðâu suất, 5. Hóa lạc,
6. Tha hóa, tự tại) Cõi Sắc có 7 loài, là bốn cõi Thiền (từ
Sơ thiền đến Tứ thiền) cõi Phạm vương, cõi vô tướng và Ngũ
tịnh cư. Cõi Vô sắc có bốn: 1. Không Vô biên xứ, 2.
Thức vô biên xứ, 3. Vô sở hữu xứ, 4. Phi phi tưởng xứ.
*
-Này Thiện Nam!
Vì các pháp thế gian thanh tịnh, nên các pháp xuất thế gian
như: 10 lực, 4 món Vô úy, 4 món Vô ngại trí, 18 pháp Bất
cọng, 37 phẩm Trợ đạo và 84000 pháp môn Ðà la ni, tất cả đều
thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói:
Một pháp đã thanh tịnh, nên tất cả các pháp đều thanh tịnh,
vì tất cả đều đồng tánh Viên Giác. Thí như một cục phèn bỏ
vào thau nước, một chỗ trong thì cả thau đều trong.
Ðoạn trên nói các
pháp Thế gian thanh tịnh. Ðoạn này nói các pháp Xuất thế
gian cũng thanh tịnh.
Mười lực: 1. Tri
giác xứ phi xứ trí lực. 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực;
3. Tri chư thiền giải thoát tam muội trí lực; 4. Tri chưa
căn thẳng, liệt trí lực; 5. Tri chủng chủng giải trí lực; 6.
Tri chủng chủng giới trí lực; 7. Tri nhứt thế chi sở đạo trí
lực; 8. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực; 9. Tri túc mạng vô
lậu trí lực; 10. Tri Vĩnh đoạn tập khí trí lực.
Bốn món Vô úy: 1.
Nhứt thế trí vô sở úy; 2. Lậu tận vô sở úy; 3. Thuyết chướng
đạo vô sở úy; 4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy.
Bốn món Vô ngại trí:
1. Pháp vô ngại trí; 2. Nghĩa vô ngại trí; 3. Từ vô ngại
trí; 4. Lạc thuyết vô ngại trí.
Mười tám pháp Bất
cọng: 1. Thân vô thất; 2. Khẩu vô thất; 3. Niệm vô thất; 4.
Vô dị tưởng; 5. Vô bất định tâm; 6. Vô bất tri dĩ xã; 7. Dục vô
diệt; 8. Tinh tấn vô diệt; 9. Niệm vô diệt; 10. Huệ vô diệt;
11. Giải thoát vô diệt; 12. Giải thoát tri kiến vô diệt; 13.
Nhứt thế thân nghiệp tùng trí huệ hành; 14. Nhứt thế khẩu
nghiệp tùng trí huệ hành; 15. Nhứt thế ý nghiệp tùng trí huệ
hành; 16. Trí huệ tri quá khứ thế vô ngại; 17. Trí huệ tri
vị lai thế vô ngại; 18. Trí huệ tri hiện tại thế vô ngại.
Ba mươi bảy Phẩm trợ
đạo (xem Phật Học Phổ Thông, khóa III bài Ðạo Ðế nói rõ)
Ðà La Ni: Tàu dịch
là “Tổng trì”. Nghĩa là ở trong mỗi một pháp môn tóm giữ
được tất cả Pháp. Do trừ 84000 phiền não mà được 84000 pháp
Ðà La Ni.
*****
Này Thiện Nam!
Vì các pháp thế gian và xuất thế gian đều thanh tịnh, nên
các nhân thanh tịnh; do cá nhân đã thanh tịnh nên nhiều cá
nhân thanh tịnh, cho đến mười phương chúng sanh đều đặng
Viên Giác thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Chánh
báo chúng sanh thanh tịnh. Vi đã đồng tánh Viên Giác, nên
các pháp nói trên đã thanh tịnh, thì thân chúng sanh cũng
thanh tịnh. Cũng một ý này, nhưng có kinh lại nói một cách
khác: “còn một chúng sanh nào chưa thành Phật thì ta cũng
chưa thành Phật”, vì đồng một bản thể vậy.
-Này Thiện Nam! Vì
một thế giới đã thanh tịnh, nên nhiều thế giớ cũng thanh
tịnh. Vì nhiều thế giới thanh tịnh nên cùng tận 10 phương hư
không (không gian) trùm khắp 3 đời (thời gian), tất cả đều
thanh tịnh bình đẳng không động.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Y báo
của chúng sanh thanh tịnh. Vì đồng tánh Viên Giác, nên Chánh
báo đã thanh tịnh thì Y báo cũng thanh tịnh. Cũng như trong
nhà tối lâu đời, khi đốt lên một ngọn đèn, ánh sáng được
xuất hiện, một chỗ từ vừa sáng thì tất cả chỗ trong nhà đều
sáng.
**
10.
Vì thấy hiện tượng (các pháp) bình
đẳng nên biết bản thể (Viên Giác) bình đẳng
-Này Thiện Nam!
Hư không đã bình đẳng không động, nên biết tánh Viên Giác
bình đẳng không động, vì bốn đại bình đẳng không động, nên
biết tánh Viên Giác bình đẳng không động. Như thế, cho
đến 84000 pháp môn Ðà La Ni đều bình đẳng không động, nên
biết tánh Viên Giác bình đẳng không động.
LƯỢC GIẢI
Từ bản thể là tánh
Viên Giác, sanh ra các pháp hiện tượng là hư không, bốn đại
và thiên hình vạn trạng cho đến 84000 pháp Ðà La Ni. Hiện
tượng đã từ bản thể sanh mà hiện tượng đã bình đẳng không
động, cố nhiên bản thể cũng bình đẳng không động.
**
11. Bản thể
(tánh) khắp cả 10 phương, nên hiện tượng khắp cả 10 phương
Này Thiện Nam! Vì
tánh Viên Giác thanh tịnh không động, viên mãn cùng khắp tất
cả, không có bờ bến, nên biết 6 căn, 6 trần, 4 đại, cho đến
pháp môn Ðà La Ni cũng thanh tịnh và viên mãn khắp cả pháp
giới.
Này thiện nam! Vì
tánh Viên Giác kia mầu nhiệm viên mãn không hoại, nên bản
thể của căn, bản thể của trần, không có một pháp nào hoại
diệt và lộn lạo; cho đến pháp môn Ðà La Ni, cũng không có
hoại diệt và lộn lạo. Thí như trăm ngàn ngọn đèn, đồng đốt
trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu
khắp cả nhà, nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt nhau.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này có hai
phần. Phần trên nói: Vì bản thể là tánh Viên Giác châu biến,
nên hiện tượng là các pháp cũng châu biến. Ðại ý phần này
giống đoạn văn trong kinh Hoa Nghiêm nói về “Sự, Lý vô ngại
Pháp giới”
Phần dưới nói: Vì
bản thể không hoại diệt nên tất cả các pháp không có một
pháp nào hoại diệt. Thí như trăm ngàn ngọn đèn chiếu trong
một nhà, không có lộn lạo và hoại diệt nhau. ý đoạn
này giống với đoạn văn trong Kinh Hoa Nghiêm nói về “Sự, Lý
vô ngại Pháp giới”. Trong kinh Pháp Hoa chép: “Thị
pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ” (Pháp nào an
trụ địa vị pháp ấy. Thế gian tướng là thường trụ tướng). Và
Kinh Lăng nghiêm có chép” Tứ đại châu biến không có hoại
diệt và tạp loạn lẫn nhau”.
***
12.
Vì chứng được viên giá nên thấy các
pháp bình đẳng
-Này Thiện nam!
Vì các Bồ tát thành tựu được tánh Viên Giác rồi, nên không
sợ pháp hữu vi ràng buộc, không cầu pháp vô vi giải thoát,
không nhàm chán sanh tử, không ưa thích Niết Bàn, không kính
người trì giới, không ghét người phạm giới, không tôn trọng
kẻ tu lâu, chẳng khin người mới học. Tại sao thế? -Vì
tất cả cá pháp đều là Viên Giác vậy.
Thí như con mắt xem
thấy các cảnh vật hiện tiền, cái “thấy” này trùm khắp tất
cả, không thương, ghét. Tại sao thế? Vì cái “thấy” này chỉ
có một thể, nên không có thương, ghét vậy.
LƯỢC GIẢI
Vì tất cả các pháp
đã đồng một tánh Viên Giác, nên Bồ tát bình đẳng: không
thương không ghét, không khinh không trọng, không sợ sanh
tử, chẳng cầu Niết bàn. Ðoạn này lý rất cao thâm, chúng ta
không nên đem phàm tình mà phán đoán.
Ông Thường Bất Khinh
Bồ tát nói: “Tôi không dám khinh các Ngài, các Ngài sẽ thành
Phật vì các Ngài đều có tánh Phật” (Khả năng thành Phật). Và
trong kinh Tứ thập Nhị chương chép . “Cúng dường cho nhiều
đức Phật, công đức không bằng cúng dường cho người Vô niệm,
vô trụ, vô tu, vô chứng”. Ðại ý các đoạn trên đều nói
đến thể tánh bình đẳng này.
**
13.Có tu và có chứng mà thật ra không
tu và không chứng
-Này Thiện nam!
Các Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, tuy tu tập Tâm
này (Viên Giác) mà được thành tựu (quả Phật) rồi, nhưng thực
ra thì không tu và cũng không thành, vì tánh Viên Giác vừa
tịch diệt vừa phổ chiếu tất cả, đối với Phật hay chúng sanh,
không hai không khác.
LƯỢC GIẢI
Phật đã dạy “Nhứt
thế chúng sanh giai hữu Phật Tánh” Nghĩa là: Tất cả chúng
sanh đều có Tánh Phật (Viên Giác). Song chúng sanh vì bị mây
vô minh che phủ mặt trăng Viên Giác (Phật) của mình, nên in
tuồng có mê; bởi in tuồng có mê nên cũng in tuồng có Tu và
CHứng. Ðến khi mây vô minh tan hết, thì mặt trăng Viên
Giác hiện ra. Mặt trăng này đâu phải bấy giờ mới có, và cũng
không phải do dụng công tu hành mới thành, vì nó có từ vô
thỉ đến giờ. Bởi thế nên nói “In tuồng có Tu và có
Chứng” Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, cũng với ý này, Phật
đã dạy: “Niệm đến chỗ không niệm mới là chơn niệm, làm đến
chỗ không làm mới là thật làm, nói đến chỗ không nói mới là
thật nói, tu đến chỗ không tu mới là tu, chứng đến chỗ không
chứng mới là thật chứng...”
Tuy biết như vậy,
nhưng lúc đầu tiên hạ thủ công phu, phải có Tu có Chứng, rồi
mới có thể đạt đến chỗ rốt ráo là Vô tu Vô chứng. Cũng như
ông thầy giáo muốn cho cả lớp học được yên lặng thì phải
dùng tiếng động là gõ thước trên bảng. KHi học trò yên lặng
thì tiếng gõ bảng hết, lúc bấy giờ mới đổi lại cảnh yên tịnh
được.
Cũng vì ngộ lý này,
nên người xưa có làm bài thơ rằng:
Bách xích can đầu
trực hạ thủy
Nhứt ba tài động vạn
ba tùy
Dạ tịnh thủy hàn ngư
bất thực,
Mãn thuyền không tải
nguyệt minh qui.
Ý nghĩa bài thơ
này, câu thứ nhất nói: “Nhợ 100 thước trên đầu cần câu, thả
thẳng xuống mặt nước”. Câu thứ hai nói: “Một lượn sóng vừa
gợn (động) thì liền có muôn gnàn lượn sóng nhấp nhô nổi
theo”. Hai câu này ý nói: Khi hạ thủ công phu, lúc đầu tiên
thuộc về hữu tướng Tu, còn phải dụng công có Tu có Chứng.
Câu thứ ba nói: “Ðến
khuya các tiếng động hết, một bầu tịch mịch thanh vắng mặt
nước đông lạnh, bằng phẳng như tờ; cá cũng không ăn mồi”. Ý
nói hành giả lúc bấy giờ đã đi sâu vào chỗ “Tâm cảnh như
như, ngả pháp đều không” thuộc về Vô tướng tu. Vô cùng dung
hạnh.
Câu thứ tư nói: “Chỉ
có thuyền trống chở ánh sáng mặt trăng về...” Ðại ý câu này
nói: “Không tâm tải đạo” (tâm trống không, chứa đạo). Hành
giả lúc bấy giờ, tâm thể sáng suốt hiện khắp cả 10 phương
(viên giác); in tuồng có chứng có đắc... mà thật ra không
chứng và không đắc.
*****
14. Sanh tử và
niết bàn đều như mộng, vì chúng sanh vốn đã thành Phật
Các thế giới của chư
Phật, nhiều như số cát sông Hằng, đều ở trong tánh “Viên
Giác” này. Cũng như hoa đốm ở trong hư không, mặc tình
lăng xăng khởi lên và lăng xăng diệt mất. Nó không
phải “tức” là tánh Viên Giác, mà cũng không phải “ly” tánh
Viên giác; không triền phược và giải thoát. Bởi thế nên biết
“Sanh tử và Niết bàn” cũng đều như giấc mộng hôm qua, vì
chúng sanh vốn đã thành Phật từ xưa đến giờ.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói:
Tánh Viên Giác thanh tịnh vắng lặng như hư không nên mặc
tình cho các pháp lăng xăng khởi diệt như hoa đốm.
Niết bàn là đối với
sanh tử mà có, trong tánh Viên Giác, Sanh tử đã không, cho
nên Niết bàn cũng như mộng.
Ðứng về phương diện
lý tánh mà luận, thì tất cả chúng sanh đều sẵn có tính Phật
(Viên Giác) nên nói: “chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến
nay”. Song chúng sanh vì bị mây vô minh che mờ, nên mặt
trăng Phật (Viên Giác) của mình chẳng hiện. Ðến khi được gíó
Bát Nhã thổi tan mây vô minh rồi, thì trăng Viên Giác (Phật)
của minh tự hiện.
Cũng vì ngộ lý này,
nên cổ nhơn có làm bài thơ rằng:
Tòng hạ vấn đồng
tử...
Ngôn: Sư thê dược
khứ,
Chỉ tại thử sơn
trung
Vân thâm bất kiến
xứ.
Dịch nghĩa:
Dưới cây tòng, hỏi Ðồng tử... Ðồng thử thưa rằng: “Thầy đi
hái thuốc, chỉ ở trong núi này thôi, nhưng vì mây đen nên
chẳng thấy được”
Trong bài thơ này,
tác giả mượn người khách hỏi Ðồng tử để nói về lý đạo.
Ðại ý: Chúng sanh đi
tìm Ðạo. Thật ra Ðạo (Phật) không đâu xa, chỉ ở trước
mắt. Nhưng vì chúng sanh bị mây vô minh che mờ, nên chẳng
thấy được Ðạo (Phật).
Trong kinh có câu:
“Tâm, Phật, chúng sanh, tam vô sai biệt”: Tâm, Phật và chúng
sanh cả ba không sai khác. Hay là câu: “Phật pháp tại thế
gian, bất ly thế gian giác”: Phật pháp tại thế gian, giác
ngộ không rời thế gian; cũng là chỉ cho ý này. Bởi
chúng sanh và Phật đồng một thể tánh Viên giác, nên Phật với
chúng sanh không hai, triền phược và giải thoát không khác
sanh tử với Niết bàn như mộng.
*******
15. Các Pháp bình
đẳng
-Này Thiện nam!
Phải biết sanh tử và Niết bàn đều như giấc mộng hôm qua, cho
nên không có sanh diệt và cũng không có khứ lai. Ở nơi quả
vị sở chứng, không có “được’ và “mất” hay “thủ” và “xả”. Ở
nơi người năng chứng cũng không có “tạo tác” và đình chỉ”
hay “sanh (nhậm) và “diệt”.
Trong tánh Viên
Giác, tất cả các pháp đều bình đẳng, không có hoại diệt. Rốt
ráo không có người năng chứng và quả sở chứng.
LƯỢC GIẢI
Trong kinh nói: “chư
pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng”. Nghĩa là: Các
pháp từ xưa đến nay, tướng nó thường vắng lặng. Bởi đồng
tánh Viên Giác, nên tất cả các pháp bình đẳng, không sanh
diệt, không khứ lai, không đắc thất, không thủ xả, không
làm, không thôi, không sanh, không diệt, rốt ráo không có
người năng chứng và quả sở chứng, vì tất cả đều là tánh Viên
Giác vậy.
16.TÓM LẠI
Này Thiện Nam! Các
vị Bồ tát kia phải y lời ta dạy trên mà suy nghĩ như vậy,
dùng phương tiện như vậy, y theo lớp lang và tuần tự tu hành
như vậy, phải cầu pháp như vậy và khai ngộ như vậy, mới khỏi
mê muội.
LƯỢC GIẢI
Nguyên trước Ngài
Phổ Nhãn hỏi Phật: “Phải suy nghĩ làm sao? Lập phương tiện
thế nào? Và thứ lớp tu hành ra sao? v.v...
Phật đã giải thích
rành rẽ rồi, nên đoạn này Phật dạy: “Phải suy nghĩ như vậy,
dùng phương tiện như vậy v.v... thì mới khỏi mê muội và ngộ
nhập được tánh Viên Giác”
*
17. Phật nói bài
kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy Ðức Thế Tôn
muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
Phổ Nhãn! Ông phải
biết:
Thân, Tâm của chúng
sanh
Tất cả đều như
huyễn:
Thân này thuộc bốn
đại
Thân này trả sáu
trần;
Bốn đại tan rã rồi,
Cái gì gọi là “TA”?
Tuần tự tu như vậy,
Tất cả đều thanh
tịnh.
Viên Giác khắp Pháp
giới,
Không làm, thôi,
sanh, diệt
Không năng chứng, sở
chứng:
Tất cả thế giới Phật
Như hoa đốm hư
không.
Ba đời đều bình đẳng
Rốt ráo không qua
lại
Bồ tất mới phát tâm,
Và chúng sanh đời
sau,
Muốn cầu nhập Phật
đạo
Phải như thế tu
hành.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này là
tóm lại các nghĩa trên.
Phật dạy quán sát
Thân này và Tâm này đều như huyễn, không có thật “Ngã". Cứ
như thế mà tu hành thì lần lần sẽ được thanh tịnh. Lúc bấy
giờ tánh Viên Giác hiện ra khắp cả Pháp giới, không còn
“làm” hay “thôi”, “sanh” hay “diệt”, và cũng không có “năng
chứng” và “sở chứng”. Các thế giới nhiều như số cát Sông
Hằng, đều ở trong tánh Viên Giác, mặc tình nó sanh diệt như
hoa đốm giữa hư không. Ba đời đều bình đẳng, rốt ráo không
qua lại. Các Bồ tát và chúng sanh đời sau, phải như thế
tu hành, mới vào được Ðạo Phật.
1. Ngài Kim Cang
Tạng Bồ Tát hỏi Phật
2. Phật khen Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát
3. Phật dạy: “Người mê nói ngộ, ngộ ấy thành mê”
4. Phật dùng thí dụ để giải thích nghĩa trên
5. Các Pháp hư huyễn không có thật sanh và diệt
6. Thành Phật rồi không trở lại làm chúng sanh
7. Tánh Viên Giác phi tất cả tưởng
8. Tánh Viên Giác không thể nghĩ bàn
9. Không thể dùng tâm chúng sanh phân biệt được cảnh Phật
10. Phật nói bài kệ tóm lại các ý nghĩa trên
IV.
CHƯƠNG KIM CANG TẠNG
1.
Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát hỏi Phật
Khi ấy Ngài Kim Cang
Tạng Bồ tát ở trong Ðại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của
Phật ba vòng, và kính cẩn chắp tay, đảnh lễ dưới chân Phật,
rồi quỳ thẳng bạch rằng:
Bạch đức Ðại bi Thế
Tôn, Ngài đã vì các vị Bồ tát nói rõ tánh “Viên Giác thanh
tịnh” của Như Lai, và chỉ dạy những phương tiện, tuần tự tu
hành để nhập tánh Viên Giác. Ngài đã vén mở mây vô minh mờ
ám cho các chúng sanh. Thính chúng trong pháp hội này, nhờ
lòng từ bi của Phật khai hóa, mà mắt Trí huệ được sáng tỏ.
Bạch đức Thế Tôn:
1. Nếu các chúng
sanh đã thành Phật từ xưa đến nay, thì tại làm sao lại có
tất cả vô minh để trở lại làm chúng sanh nữa?
2. Nếu chúng sanh
sẵn có các vô minh, thì do nhơn duyên gì mà đức Như Lai lại
nói: “Chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay”?
3. Nếu 10 phương
chúng sanh đã thành Phật từ xưa, về sau lại sanh ra vô minh;
vậy thì các đức Như Lai hiện nay đã thành Phật rồi, chừng
nào các Ngài sanh trở lại phiền não nữa?
Cúi xin đức Ðại bi
Thế Tôn, vì các vị Bồ tát hiện tại và tất cả chúng sanh đời
sau, nhổ sạch gốc rễ nghi lầm, khiến cho chúng sanh được ngộ
nhập đạo vô thượng.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này, Ngài
Kim Cang Tạng Bồ tát nghi: Có vô minh thì gọi là chúng sanh,
không vô minh mới kêu là Phật; thế mà Ðức Như Lai lại nói:
“chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay”.
Nếu chúng sanh đã
thành Phật từ xưa đến nay, thì phải không còn vô minh. Nếu
không còn vô minh, thì không còn gọi là chúng sanh nữa. Tại
làm sao Phật còn gọi: “Chúng sanh”?
Lại nữa, nếu chúng
sanh sẵn có vô minh thì không thể nói “Nguyên lai thành
Phật”. Tại sao Phật lại nói: “chúng sanh nguyên lai đã thành
Phật”.
Chúng sanh tu hành
phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật. Nếu khi được
thành Phật rồi, vô minh trở lại khởi lên làm chúng sanh nữa,
thì tu biết chừng nào cho rồi! Lại nữa, chư Phật hiện nay đã
thành Phật, vậy chừng nào các Ngài nổi vô minh trở lại làm
chúng sanh nữa?
Ðoạn này giống như
trong kinh Lăng Nghiêm, khi Ngài Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử
hỏi Phật: “chơn tâm vốn đã thanh tịnh tại sao thoạt sanh ra
sơn hà đại địa và các chúng sanh?”
2.
Phật khen Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát
Khi đó đức Thế Tôn
khen Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện nam, quý
lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau
thưa hỏi Như Lai những đạo lý diệu huyền.
Nay ta vì các ông
nói giáo pháp Ðại thừa, nghĩa lý rốt ráo và cao thượng,
khiến cho các vị Bồ tát tu học trong mười phương, và tất cả
chúng sanh đời sau, đều đoạn trừ hết các điều nghi ngờ, đặng
tín tâm chắc chắn. Vậy các ông nên chăm chú nghe lời ta chỉ
dạy.
Khi đó Ngài Kim Cang
Tạng Bồ tát và Ðại chúng đều vui mừng, kính cẩn vâng nghe
lời Phật chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Kim Cang là chất
ngọc quý, cứng rắng nhứt trong loại ngọc. Nó đã cứng mà lại
bén (sắc), hay phá hoại các vật, mà các vật không phá hoại
được nó.
Ðoạn này Ngài Kim
Cang Tạng Bồ Tát đứng lên thưa hỏi những chỗ khó khăn, là
tiêu biểu phải dùng Kim cang trí mới phá trừ nổi những mê
lầm (vô minh) sâu sắc.
Ngài Kim Cang Tạng
Bồ tát cũng là một vị Thượng thủ trong hàng Bồ tát.
3. Phật dạy:
Người mê nói ngộ, Ngộ ấy thành mê
-Này Thiện nam! Tất
cả các pháp, có thủy chung, sanh diệt, tiền hậu, hữu vô, nào
tụ tán, khởi dừng, xoay vần, qua lại, các món thủ xả, mỗi
niệm nối luôn. Những loại kể trên đều là luân hồi cả. Người
chưa ra khỏi luân hồi mà nghĩ bàn đến Viên Giác, thì tánh
“viên giác” đó cũng trở thành luân hồi (vị xuất luân hồi nhi
biện Viên giác, bĩ Viên Giác tánh tức đồng lưu chuyển) Nếu
người ra khỏi luân hồi (hết mê vọng rồi) thì không còn thấy
có các việc hư vọng ấy nữa.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật
nói: Người còn ở trong vòng “mê” mà nói việc “ngộ” thì cái
“ngộ’ này cũng thành “mê”. Dùng tâm chúng sanh nghĩ bàn đến
cảnh giới Phật, thì cảnh giới Phật cũng thành chúng
sanh. Dùng tâm luân hồi mà nghĩ bàn đến tánh Viên Giác, thì
tánh “viên giác” cũng trở thành luân hồi.
Phật bảo Ngài Kim
Cang Tạng Bồ tát: Nếu ông đứng trong vòng hư vọng, tương
đối, có thánh có phàm, có chúng sanh, có Phật v.v.. mà luận
đến cảnh giới tuyệt đối, bất tư nghị của chư Phật thì không
thể được. Bởi thế nên người muốn hiểu chỗ cao siêu của đạo
Phật thì cần phải tu, chớ không thể nói suông mà hiểu được.
4. Phật dùng thí
dụ để giải thích nghĩa trên
-Này Thiện nam! Thí
như: vì con mắt nháy mà thấy nước dợn sóng; vì mắt xem không
kịp mà thấy thành vòng lửa; nhơn mây bay mà thấy mặt trăng
chạy; vì thuyền đi mà thấy bờ trôi. Trong lúc các vật đây
động, như mắt nháy, mây bay, thuyền chạy v.v.. mà các vật
yên tịnh kia như nước đứng, lửa đốm, trăng dừng, còn thấy
chuyển động thay, huống chi ông dùng tâm cấu nhiễm sanh tử
luân hồi mà quan sát tánh Viên giác thanh tịnh của Như Lai,
thì tánh Viên giác này làm sao chẳng cấu nhiễm. Thế nên ông
mới sanh ra ba điều nghi vấn trên.
LƯỢC GIẢI
Trong đoạn này, Phật
dùng những việc tầm thường trong đời làm thí dụ, như mắt
nháy, mây bay, thuyền đi v.v.. mà thấy nước dợn, trăng bay,
bờ chạy v..v... để chỉ rõ: vì dùng tâm cấu nhiễm mê vọng của
chúng sanh mà quan sát nghĩ ngợi đến cảnh giới của Phật, nên
cảnh Phật trở thành tương đối mê vọng.
Vì ngài Kim Cang
Tạng Bồ tát dùng tâm phân biệt đối đãi có không, sanh diệt,
thánh phàm v.v... nên thấy có chúng sanh chưa thành Phật và
có Phật đã thành. Bởi thế nên Ngài sanh ra ba điều nghi ngờ
trên. Nếu Ngài nhập được tánh Viên giác thanh tịnh rồi thì
những tướng tốt đối đãi như thánh phàm nhiễm tịnh, sanh tử
và Niết bàn, chúng sanh và Phật đều không còn. Lúc bấy giờ
Ngài không còn nghi ngờ như trên nữa. Vì vậy nên đoạn sau
Phật quở: “.. những lời ông thưa hỏi đó, chẳng có đúng
đắn...”
****
5. Phật dạy: các
Pháp hư huyễn, không có thật sanh và thật diệt
-Này Thiện nam! Thí
như người bịnh lòa mắt, trông nơi hư không vọng thấy có các
hoa đốm lăng xăng. Ðến khi bịnh lòa nhặm hết rồi, thì hoa
đốm kia tự diệt. Lúc bấy giờ, người ấy không nên hỏi: “Cái
bịnh lòa nhặm này đã diệt rồi, vậy chừng nào sanh trở lại
nữa?” -Tại sao thế? –Vì cái lòa nhặm nó vọng huyễn không có
thật thể vậy.
Và, cũng không nên
hỏi: “Những chỗ hoa đốm diệt ở nơi hư không kia, vậy chừng
nào hoa đốm ấy sanh trở lại nữa?” -Tại sao thế? –Vì trong
hư không vốn không có hoa đốm, cho nên nó không có sanh ra
hoa đốm hay diệt hoa đốm vậy.
Sanh tử và niết bàn
đối với tánh Viên giác, cũng đồng như hoa đốm sanh diệt
trong hư không. Tánh Viên Giác vẫn nhiệm mầu viên mãn, yên
lặng chiếu soi, lìa cái nhặm vô minh và cảnh giới hoa đốm.
Này Thiện nam! Nên
biết hư không kia còn không phải tạm có và tạm không, huống
chi tánh Viên Giác của Như Lai là bản tánh của hư không, nó
bình đẳng tùy thuận các duyên, mà lại tạm có và tạm không
hay sao.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói:
Vô minh và các vọng cảnh, đều hư huyễn không thật, cũng như
hoa đốm và mắt nhặm. Vì hoa đốm với nhặm, đều không phải
thật vật,cho nên nó không thật có sanh và diêt. Bởi thế, khi
hết nhặm rồi, không nên hỏi: “chừng nào nhặm trở lại nữa?”
Hay hoa đốm đã diệt rồi, cũng không nên hỏi: “Chừng nào nó
sanh trở lại nữa?”
Hoa đốm và bịnh
nhặm, mặc tình nó vọng sanh vọng diệt, mà hư không lúc nào
cũng vẫn thanh tịnh và yên lặng. Cũng như Vô minh và vọng
cảnh, mặc tình vọng khởi và vọng diệt, mà tánh Viên giác vẫn
thanh tịnh viên mãn và xa lìa các vô minh cùng Vọng cảnh.
Tánh hư không bình
đẳng tùy thuận các đồ vật, mà hiện ra có tướng Vuông và
Tròn. Cũng như tánh Viên Giác bình đẳng, tùy thuận các duyên
mà hiện ra tất cả Pháp.
Hư không, không phải
nhơn lúc hoa đốm diệt mà nó tạm có, cũng không phải nhơn lúc
hoa đốm sanh mà nó tạm không; bởi tánh hư không thường có và
bình đẳng, tùy hoa đốm mặc tình sanh diệt, nhưng hư không
vẫn không thay đổi.
Cũng thế, tánh Viên
giác thanh tịnh của Như Lai, thường còn bình đẳng và
tùy thuận các Pháp. Không phải nhơn lúc Vô minh diệt mà nó
tạm có, hay Vô minh sanh mà nó tạm không, nó tùy thuận tất
cả, không có chướng ngại.
******
6. Phật dùng thí
dụ, để chỉ rõ khi thành Phật rồi, không trở lại làm chúng
sanh
-Này Thiện nam! Thí
như chất kim khoáng, sau khi được nấu lọc, bỏ hết quặng rồi,
thì chỉ còn vàng y. Chất vàng này không phải do nấu lọc mới
sanh, vì nó có sẵn từ trước kia rồi, và khi đã thành vàng y,
cũng không bao giờ trở lại thành quặng nữa, dầu trải qua bao
nhiêu năm, nó cũng không hư hoại.
Tánh Viên Giác thanh
tịnh của Như Lai cũng thế.
LƯỢC GIẢI
Phật dùng vàng để
thí dụ tánh Viên Giác, dùng khoáng dụ chúng sanh. Khi vàng
còn ở trong khoáng, cũng như Phật tánh (Viên giác) ở trong
cái vỏ chúng sanh. Vì y nơi Phật tánh sẵn có, nên Phật nói:
“chúng sanh đã thành Phật”.
Khi chất kim khoáng
được đem ra nấu luyện, lọc bỏ hết quặng chỉ còn vàng y, thì
vàng này không còn trở lại làm khoáng nữa.
Cũng như chúng sanh,
sau khi trải qua thời gian tu luyện, gạn lọc hết vô minh,
phiền não, tánh Viên giác hiện ra, được thành Phật rồi; lúc
bấy giờ không còn khởi vô minh phiền não trở lại làm chúng
sanh nữa.
Dầu chưa được nấu
luyện, lọc bỏ quặng ra, lúc ấy chất vàng vẫn sẵn có. Ðến khi
nấu luyện, lọc bỏ hết quặng thành vàng y rồi, không phải lúc
bấy giờ vàng mới có. Tánh Viên giác cũng thế, khi làm chúng
sanh, nó vẫn sẵn có, nên nói: “chúng sanh đã thành
Phật”.Trải qua thời gian tu luyện trừ hết Vô minh phiền não,
tánh Viên Giác hiện ra, không phải lúc bấy giờ nó mới sanh.
Khi tánh Viên Giác
đã hoàn toàn hiện rồi, thì vô minh phiền não không còn sanh
trở lại nữa, nên nói: “Thành Phật rồi, không còn trở lại làm
chúng sanh”.
****
7. Tánh Viên Giác
phi tất cả tướng
-Này THiện nam! Tánh
Viên giác mầu nhiệm của Như Lai vốn không có Bồ đề, và Niết
bàn, không có thành Phật và chẳng thành Phật, cũng không có
luân hồi và phi luân hồi.
LƯỢC GIẢI
Ðứng về phương diện
tương đối mà nói: Vì có phiền não nên có Bồ đề, có sanh tử
nên có Niết bàn, có luân hồi nên mới có giải thoát, có chúng
sanh mới có Phật.
Song đứng về phương
diện lý tánh tuyệt đối, tức là tâm Viên Giác mầu nhiệm của
Như Lai mà nói, thì phiền não đã không, nên Bồ đề chẳng có,
sanh tử đã không, nên Niết bàn chẳng có, cho đến chúng sanh
đã không, nên Phật cũng chẳng có.
Ðến cảnh giới này,
thì nói năng không trúng, suy nghĩ cũng chẳng nhằm. Hành giả
phải tự chứng nhập.
******
8.
Tánh Viên Giác không thể nghĩ bàn
-Này Thiên nam! Rất
dỗi như cảnh giới Niết bàn thân tâm đoạn diệt của Thinh Văn
(1) Tiểu thừa kia, còn không thể dùng tâm phân biệt mà thân
chứng được, huống chi cảnh giới Viên giác thanh tịnh của Như
Lai mà lại dùng tâm suy nghĩ so đo của chúng sanh, làm sao
nhập được.
Cũng như người dùng
lửa đom đốm, để đốt núi Tu di, làm sao đốt được. Người dùng
tâm luân hồi, sanh vọng chấp luân hồi, mà muốn vào biển Niết
bàn tịch tịnh của Như Lai thì không thể được.
Thế nên ta dạy: Tất
cả các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, trước phải đoạn hết
căn bản sanh tử luân hồi từ vô thỉ.
LƯỢC GIẢI
Cảnh giới Niết bàn
của Thinh Văn là cảnh giới Tiểu thừa (trầm không thú tịch
khôi thân diệt trí) mà còn không thể nghĩ ngợi được, huống
chi cảnh giới của Phật cao siêu tột bực, mà lại dùng cái
vọng tâm sanh tử luân hồi của phàm phu và trí của Tiểu thừa
để suy nghĩ phân biệt cảnh giới Viên giác của Như Lai, thì
quyết không thể hiểu được (dĩ luân hồi tâm, sanh luân hồi
kiến, nhập ư Như Lai đại tịch diệt hải, chung bất năng chí)
cũng như người dùng lửa của con đom đốm để đốt núi Tu Di thì
không thể được.
Bởi thế nên Phật
dạy: “trước phải đoạn hết căn bản sanh tử luân hồi từ vô
thỉ”, tức là diệt vọng tâm phân biệt. Cũng như trong kinh
Lăng Nghiêm, Phật dạy rành rõ hai món căn bản là:
1. Phải đoạn căn bản
của sanh tử luân hồi là vọng tâm
2. Phải y trụ nơi
căn bản
***
_____
(1) Thân tâm đoạn
diệt của Thinh Văn – Hàng Thinh Văn Tiểu thừa rất sợ việc
hóa đạo độ sanh, vì sợ gặp những nghịch cảnh rồi vô minh
phiền não nổi lên, mà phải bị thối chuyển. Bởi thế nên
các Ngài cứ lo tu giải thoát một mình. Từ đời này cho đến
kiếp nọ, ưa ở chỗ thanh vắng tịch mịch, say đắm cảnh Niết
bàn của Tiểu thừa, giữ tâm yên tịnh luôn không dám khởi
niệm, say mê với cảnh thiền, thân không lay động cũng như
tro nguội, nên nói: “Thân tâm đoạn diệt”. Chỗ khác gọi rằng:
“Trầm không thú tịch khôi thân diệt trí”, nghĩa là: say sưa
với cảnh không, thích thú nơi tịch mịch, thân yên lặng như
tro nguội, tâm trí diêt, không móng niệm.
Bởi thế nên Phật quở
hàng Tiểu thừa là loại giống khô, mộng héo (tiêu nha bại
chủng), nghĩa là thứ giống khô rụi, không thể nứt mộng sanh
chồi nữa được.
Phật lại dạy rằng:
Không ai đem giống gieo trồng trên hư không được, mà phải
gieo trồng trên mặt đất. Giống Bồ đề cũng thế, không thể
gieo trồng nơi chỗ trống không được, mà phải gieo trồng nơi
đất chúng sanh. Bởi thế nên muốn thành quả Phật Bồ đề thì
phải hóa độ chúng sanh.
9. Không thể dùng
tâm chúng sanh, phân biệt được cảnh Phật
-Này Thiện nam! Nếu
có suy nghĩ phân biệt là từ vọng tâm (thức) khởi, nên tất cả
suy nghĩ, đều là cái vọng tưởng phân biệt duyên theo bóng
dáng của sáu trần. Nó hư vọng như hoa đốm trong hư không,
chẳng phải là chơn tâm. Nếu ông dùng cái vọng tâm suy nghĩ
này, mà suy nghĩ cảnh giới của chư Phật, thì cảnh giới ấy
cũng lẩn quẩn trong vòng vọng tưởng của chúng sanh mà
thôi. Cũng như người ngồi trong đợi cho hoa đốm giữa hư
không kết thành ra quả, thì không có thể được.
Này Thiện nam! ông
dùng tâm hư vọng thô phù, sanh ra các lối chấp xảo quyệt,
(chấp càng) cho nên ông không thể nhập được cảnh Viên Giác
chơn thật của Như Lai. Bởi thế, nên những lời ông hỏi trên,
đều là hư vọng phân biệt, không phải lời hỏi đúng đắn chơn
thật.
LƯỢC GIẢI
Ðức Thế Tôn, sau khi
trải qua thời gian ba vô số kiếp tu hành, được thành Phật
hiệu là Thích Ca Mâu Ni rồi, Ngài dạy rằng: “Nói thành Phật
thật ra không thành cái chi khác, mà chỉ trở lại với tánh
Phật sẵn có đó thôi”. Trong kinh nói: “Thành mà vẫn không
thành”, hay câu: “Ngộ liễu đồng vị ngộ, vô pháp diệc vô
tâm”. (Giác ngộ rồi cũng đồng như khi chưa giác ngộ, vì
không có pháp và cũng không có Tâm gì khác).
Tánh Phật này, không
riêng gì một mình Ngài có, mà tất cả chúng sanh đều có sẵn
có. Vì căn cứ theo Phật tánh sẵn có này, nên Ngài nói: “Tất
cả chúng sanh đều có tánh Phật” hay trong kinh Hoa Nghiêm
nói: “Tất cả chúng sanh đều sẵn có đầy đủ trí huệ đức tướng
của Như Lai”.) nhứt thế chúng sanh cụ hữu Như Lai trí huệ
đức tướng). Bởi thế nên Ngài nói: “Chúng sanh đã thành Phật
từ lâu”.
Vậy, người muốn hiểu
đến lý này, phải nhập cảnh giới Phật, trình độ phải gần như
Phật mới hiểu được. Nếu chỉ dùng tâm cấu nhiễm thô phù phân
biệt của chúng sanh, mà so tính đến cảnh giới Phật, thì làm
sao hiểu được. Cũng như người muốn hiểu câu nói của cụ già
tám muơi, ít nhất trình độ cũng gần như cụ già mới hiểu. Nếu
dùng trí non nớt của trẻ con năm, mười tuổi, mà suy nghĩ câu
nói của cụ già thì làm sao hiểu được. Bởi thế nên Phật nói:
“những lời ông hỏi trên đều là hư vọng phân biệt, không phải
lời hỏi chơn thật".
***
10. Phật nói bài
kệ để tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy đức Thế Tôn,
muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói kệ rằng:
Kim Cang Tạng! Nên
biết:
Như Lai tánh vắng
lặng,
Chưa từng có chung
thỉ,
Nếu dùng tâm luân
hồi,
Suy nghĩ cảnh giới
Phật,
Cảnh Phật thành luân
hồi.
Người ở bờ luân hồi,
Không thể vào biển
Phật.
Phật tánh tuy sẵn
có,
Phải tu mới hiển
nhiên.
Cũng như vàng sẵn
có,
Phải lọc quặng mới
thành.
Khi đã thành vàng y,
Không trở lại làm
quặng.
Sanh tử và Niết bàn,
Phàm phu cùng chư
Phật,
Thảy đều như hoa
đốm.
Tâm suy nghĩ đã
huyễn,
Làm sao nhập được
chơn.
Nếu rõ được tâm nầy,
Mới cầu được Viên
Giác.
LƯỢC GIẢI
Bài kệ này tóm lại
các nghĩa trên. Ðại ý nói: Tánh Viên Giác của Phật thanh
tịnh vắng lặng, không có thánh phàm, chúng sanh và Phật
v.v... Nếu dùng tâm phân biệt của chúng sanh mà phân biệt
cảnh giới Phật, thì cảnh Phật cũng thành cảnh chúng sanh.
Chúng sanh tuy sẵn
có Phật tánh, nhưng phải nhờ có tu mới hiển. Cũng như chất
vàng tuy sẵn có trong khoáng, nhưng phải nhờ lọc hết quặng
mới thành vàng y. Khi đã thành vàng y rồi thì không còn trở
lại làm quặng nữa. Cũng như khi đã thành Phật rồi không còn
trở lại làm chúng sanh.
Bởi đứng trong vòng
vọng nhiễm tương đối, nên thấy có sanh tử và Niết bàn, chúng
sanh và Phật; chớ đứng về tánh Viên giác thanh tịnh của Như
Lai, thì các pháp trên đây đều như hoa đốm giữa hư không.
Ngài Kim Cang Tạng
Bồ tát vì muốn đại diện cho phàm phu, nên đã dùng tâm vọng
nhiễm của chúng sanh mà suy nghĩ so đo, thấy có chúng sanh
và Phật, và giả thốt ra các lời hỏi hư vọng ấy. Những lời
hỏi này, đối với cảnh Viên giác chơn thật của Như Lai, thì
chẳng nhằm chi cả. Bởi thế nên Phật quở rằng: “Những lời ông
hỏi đều không chơn chánh”.
Vậy nên, hành giả
phải rời các vọng niệm phân biệt, mới hiểu được tánh Viên
Giác.
1. Ngài Di Lặc Bồ
tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Di Lặc Bồ tát
3. Phật dạy: Ái và Dục là gốc rễ của sanh tử luân hồi
4. Phật trả lời câu hỏi: “Có mấy loại chúng sanh luân hồi?”
5. Bồ tát hiện thân, không phải do Ái dục, mà do lòng Ðại bi
và Nguyện lực
6. Phật nói: có năm chủng tánh
7. Bồ tát thị hiện các hình tướng và cảnh thuận nghịch để
nhập thế độ sanh
8. Chỉ nguyện thành Phật, không ở Nhị thừa và chớ gặp ngoại
đạo tà sư.
9. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
V. CHƯƠNG DI LẶC
BỒ TÁT
1. Ngài Di
Lặc Bồ tát hỏi Phật
Khi đó Ngài Di Lặc
Bồ tát ở trong Ðại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật
ba vòng và chấp tay kính cẩn, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi
qùy thẳng bạch rằng:
-Bạch đức Ðại bi Thế
tôn, Ngài đã vì các vị Bồ tát và Ðại chúng, mở kho báu bí
mật của Như Lai (Viên giác cảnh giới) và làm cho Ðại chúng
hiện tại cùng chúng sanh đời sau, được con mắt đạo sáng suốt
không lo sợ, phân biệt được việc tà chánh, hiểu sâu lý luân
hồi, đối với cảnh Ðại Niết bàn (niết bàn Ðại thừa) sanh lòng
tin chắc chắn, không còn khởi các vọng chấp, trở lại cảnh
giới luân hồi nữa.
Bạch đức Thế Tôn:
1. Các vị Bồ tát và
chúng sanh đời sau, làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi, để
vào biển Ðại Tịch diệt của Như Lai?
2. Có mấy loại chúng
sanh luân hồi?
3. Có mấy hạng
người tu theo đạo Bồ đề của Phật?
4. Khi Bồ tát nhập
thế độ sanh, phải dùng những phương tiện gì để giáo hóa
chúng sanh?
Cúi xin đức Thế Tôn,
rủ lòng đại bi cứu thế, chỉ dạy cho các vị Bồ tát hiện tại
và chúng sanh đời sau, khiến cho chúng sanh, gương lòng được
sáng tỏ, mắt trí huệ trong xanh, viên ngộ được “Tri kiến vô
thượng” của Như Lai.
Ngài Di Lặc Bồ tát
thưa thỉnh như vậy ba lần, và kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Vì trong chương Kim
Cang Tạng, Phật dạy: “Trước phải đoạn gốc rễ của luân hồi từ
vô thỉ”, nên chương này Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi: “... Làm sao
đoạn được gốc rễ luân hồi? Và có mấy loại chúng sanh luân
hồi?”
Ðại ý đoạn này Ngài
Di Lặc Bồ tát hỏi:
1. Làm sao đoạn được
gốc rễ luân hồi để vào biển Ðại Niết Bàn của Như Lai?
2. Có mấy loại chúng
sanh luân hồi?
3. Có mấy hạng người
tu đạo Bồ đề của Phật?
4. Khi Bồ tát nhập
thế độ sanh, phải dùng những phương tiện gì thể giáo hóa
chúng sanh?
Biển Ðại Tịch diệt.
-Tức là Niết bàn của Ðại thừa, rộng rãi bao la như biển cả,
đã thanh tịnh mà yên lặng nên gọi rằng “Tịch diệt”. Ðủ cả
bốn đức là: Chơn thường, Chơn lạc, Chơn ngã và Chơn
tịnh. Cũng là một cái tên khác Viên giác hay chơn tâm.
Ðức Di Lặc Bồ tát.
-Tiền thân: Trong vô số kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu
là Ðại thông Trí Thắng Như Lai, lúc bấy giờ Ngài (đức Di
Lặc) và đức Phật Thích Ca (tiền thân) đồng phát tâm Bồ đề.
Ðến khi đức Phật Nhựt Nguyệt Ðăng Minh ra đời, thì Ngài mới
phát tâm xuất gia nhưng tánh hay giải đãi, quen theo lối
phong lưu đài các, phóng túng, chẳng chịu thúc liểm tu hành,
nên thành Phật trễ sau đức Thích Ca, vào tiểu kiếp thứ mười.
Về sau nhờ đức Phật
Thích Ca dạy cho pháp tu Duy thức, Ngài quán thấy “Tam giới
duy tâm, vạn pháp duy thức”
Vì nhận thấy giàu
sang phú quý, danh vọng quyền tước... đều như bóng trong
gương như trăng dưới nước, do thức tâm biến hiện, nên Ngài
tảo trừ hết vọng tưởng say mê về hư vọng giả cảnh, trừ tánh
“biến kế sở chấp” trên “y tha”, ngộ được tánh “viên thành
thật” nên được Phật Thích Ca thọ ký cho Ngài sau sẽ thành
Phật ở thế giới Ta bà này.
Thân hiện tại của
đức Di Lặc: Cách đây 2500 năm (544, trước T.L), khi Phật
Thích Ca giáng sanh tại Ấn Ðộ, thì Ngài hiện thân vào nhà
của Bà La Môn tên là Ba Bà Lợi ở về Nam Thiên Trúc, nhằm
ngày mùng một tháng giêng âm lịch. Họ của Ngài là A Dật Ða
(không ai hơn), tên Di Lặc (Từ Thị). Tên họ này tiêu biểu
lòng từ bi, hỷ xả vô biên của Ngài. Từ bao nhiêu kiếp cho
đến ngày thành Phật, Ngài cũng vẫn lấy hiệu là Di Lặc.
Kinh Di Lặc thượng
sanh có nói: Ngày rằm tháng 2 (tháng 4 ta) sau khi nói kinh
này 12 năm, thì Ngài nhập diệt tại chỗ bản sanh, rồi Ngài
sanh lên nội viện cõi trời Ðâu suất để chờ khi thế giới này
giảm rồi tăng trở lại trong khoảng kiếp tăng, loài người
hưởng thọ tám vạn tuổi, lúc bấy giờ Ngài mới giáng xuống cõi
này, rồi sau đến ngồi gốc cây Long Hoa tu thành ngôi Chánh
giác. Ngài thành Phật rồi hóa độ chúng sanh vô lượng đến sáu
vạn năm mới nhập diệt.
Hóa thân của đức Di
Lặc: Kinh chép “bồ tát dĩ lợi sanh vi bổn hoài”: Bồ tát lấy
việc cứu độ làm lợi ích cho chúng sanh làm bổn phận của
mình. Ngài hiện ra nhiều thân để lẫn lộn với từng lớp người
đặng hóa độ chúng sanh. Trong các hóa thân của Ngài, các
Phật tử ở Tàu cùng ở Việt nam hiểu nhiều và thờ nhiều hơn
hết là thân Ngài Bố đại Hòa thượng. Ngài hiện thân làm một
vị Hóa thượng tại đất Minh Châu huyện Phụng Hóa bên
Tàu. Ngài thường quảy cái đãy bằng vải đi khắp chợ búa xóm
làng, ai cho vật chi Ngài đều bỏ hết vào đãy mang đi.
Ngài tụ họp các trẻ con lại, rồi phân phát cho chúng bánh
kẹo, giảng dạy Phật pháp, trò chuyện rất vui thú, nên Ngài
đi đến đâu thì các em tụ họp đông đảo đến đó.
Ngài thường giảng
kinh cho người nghèo, làm nhiều điều mầu nhiệm lạ thường.
Lúc bấy giờ thiên hạ không ai hiểu đặng Ngài là người như
thế nào cả, chỉ cùng nhau kêu là vị Bố Ðại Hòa Thượng (ông
hòa thượng mang đãy bằng vải). Ðến đời Lương niên hiệu Trịnh
Minh năm thứ ba, tháng ba, Ngài nhóm chúng lại tại chùa Nhạc
Lâm, rồi Ngài ngồi ngay thẳng nói bài kệ:
Di Lặc chơn Di Lặc
Hóa thân thiên bách
ức
Thời thời thị thời
nhơn
Thời nhơn giai bất
thức
(Di Lặc thật là Di
Lặc, biến hóa trăm ngàn ức thân, thường hiện trong đời, mà
người đời chẳng ai biết). Nói xong kệ rồi, Ngài an nhiên
nhập diệt. Kẻ tăng người tục đều cùng nhau đến lễ bái cúng
dường và dựng tượng Ngài thờ tại điện ở phía đông chùa Nhạc
Lâm bên Tàu.
Vì căn cứ theo ứng
thân này, nên trong các chùa ở Tàu hay Việt Nam thường thờ
tượng Ngài Bố Ðại Hòa Thượng với vẻ mặt hiền từ hân hoan,
miệng cười vui vẻ, tượng trưng cho đức hoan hỷ. Người béo
bụng to, hay cầm cái đãy, chung quanh có sáu em bé đang leo
trèo lên mình Ngài, là tượng trưng cho lục tặc (sáu giặc)
khi đã bị Ngài hàng phục. Ðây là hóa thân trong trăm ngàn
hóa thân của đức Di Lặc Bồ tát.
Tương lai của đức Di
Lặc: Hiện nay đức Di Lặc là một vị Bổ xứ Bồ tát đang ở nội
viện cung trời Ðâu suất, đợi đến khi thế giới này hết kiếp
giảm thứ 9 rổi, đến kiếp tăng thứ 10, trong lúc nhơn loại
hưởng thọ được trên tám vạn tuổi, lúc bấy giờ Ngài mới giáng
sanh xuống cõi này, trong nhà của một vị Bà la môn tên là Tu
Phạm Ma, thân mẫu của Ngài tên Phạm Ma Bạt Ðề. Khi sanh ra
Ngài có nhiều tướng tốt, đức hạnh vẹn toàn, thông minh quán
chúng. Lớn lên Ngài xuất gia tu hành đến núi Kê Túc để
nhận lãnh y bát của Ðức Phật Thích Ca, do Ngài Ma Ha Ca Diếp
trao lại, rồi sau Ngài đến ngồi dưới gốc cây Long Hoa dùng
Kim Cang trí trừ sạch vi tế vô minh, chứng đạo vô thượng Bồ
đề.
Ngài thuyết pháp tại
giảng đường Hoa Lâm dưới cây Long Hoa. Hội thứ nhất độ được
chính mươi sáu ức người thành A La Hán, hội thứ hai độ chín
mươi bốn ức người thành A La Hán, hội thứ ba độ chính mươi
hai ức người thành A La Hán. Thế nên gọi là “Long Hoa tam
bội”. Ngài thuyết pháp đến sáu vạn năm, hóa độ vô số
chúng sanh.
*********
2. Phật
khen Ngài Di Lặc Bồ Tát
Khi ấy đức Thế Tôn
khen Ngài Di Lặc Bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện nam, quý
lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau,
thưa hỏi Như Lai những nghĩa lý cao siêu huyền diệu, khiến
cho các vị Bồ tát đều được con mắt trí huệ thanh khiết và
tất cả chúng sanh đời sau đoạn tuyệt được sanh tử luân hồi,
tâm ngộ thật tướng(1) và chứng được Vô sanh nhẫn(2). Các ông
nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy.
Khi ấy Ngài Di Lặc
Bồ tát và Ðại chúng đều vui mừng kính cẩn, vâng nghe lời
Phật khai thị.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật khen
Ngài Di Lặc Bồ tát: Những lời ông hỏi, để Phật chỉ giáo, nên
khiến các vị Bồ tát hiện tại, mắt trí huệ được sáng tỏ và
chúng sanh đời sau cũng nhờ câu hỏi này mà vĩnh viễn ra khỏi
luân hồi.
_________
(1) Thật
tướng: Tướng chơn thật, không hư vọng, không bị thời gian
thay đổi, không gian chuyển đổi, suốt xưa thấu nay, nó vẫn
thường như; cũng một biệt danh của “Viên Giác”.
(2) Vô sanh nhẫn:
Chữ “Nhẫn” là an nhẫn, an trụ hay là chứng. Chữ “vô sanh” là
không sanh. Nghĩa là: an trụ chỗ Ngã và Pháp không còn
sanh khởi, tức là an trụ “chơn tâm”
********
3. Phật dạy: Ái
và Dục là gốc rễ của sanh tử luân hồi
-Này Thiện Nam! Tất
cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, đều do món “ân ái và tham
dục” cho nên mới bị sanh tử luân hồi. Tất cả chúng sanh
trong thế giới tóm lại có bốn loài:
1. Loài
sanh trứng
2. Loài sanh con
3. Loài
sanh chỗ ẩm ướt
4. Loài hóa
sanh
Các loại chúng sanh
này, đều do “dâm dục” mà tạo thành tánh mạng của nó (nhứt
thế chúng sanh giai dĩ dâm dục nhi chánh tánh mạng).
Bởi thế, nên các ông
phải biết: gốc rễ của sanh tử luân hồi là “Ái” và “Dục”
vậy. Vì có “dục” cho nên mới sanh ra ái luyến, do “luyến ái”
nên mới sanh tử tử sanh, nối luôn không dứt.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật chỉ
ngay gốc rể của sanh tử luân hồi là “ân ái và tham
dục”. Chính như thân mạng của các chúng sanh đây, cũng đều
do dâm dục tạo thành.
Bởi thân mạng đã do
ái dục sanh, nênthân mạng còn thì ái dục còn, ái dục còn thì
thân mạng còn.
Trong kinh Phật danh
chép: “Có ái dục thì sanh, ái dục hết thì diệt; cho biết gốc
rễ của sanh tử là tham ái (hữu ái tắc sanh, ái tận tắc diệt,
cố tri sanh tử, tham ái vi bổn).
Trong kinh Niết bàn
cũng nói: “nhơn ái sanh ưu, nhơn ưu sanh bố, nhược ly tham
ái, hà ưu hà bố”. Nghĩa là: Vì tham ái nên mới sanh lo, nhơn
lo mới sanh sợ, nếu nguời lìa được ái dục rồi, thì có lo gì
và sợ gì?
Bốn lòai:
1. Noãn sanh: loài
sanh trứng, như loài chim, cá v.v..
2. Thai sanh: loài
sanh con, như loài người và thú v..v...
3. Thấp sanh: loài
sanh chỗ ẩm ướt, như lăng quăng, vi trùng v.v...
4. Hóa sanh: như
loài nhộng hóa làm bướm, hoặc như loài địa ngục, ngạ quỷ và
chư Thiên v.v...
****
-Này Thiện nam!
Nhơn ái luyến nên sanh ra “dục”, do dục nên mới có thân
mạng. Bởi thế, nên truy tầm đến cội gốc của nó, thì chúng
sanh ái luyến thân mạng tức là ái luyến “Dục”. Ái
luyến dục là “nhơn”, mà ái luyến thân mạng là “quả”.
LUỢC GIẢI
Ngài Tôn Mật nói:
“Do cảnh dục trần bên ngoài nó trêu ghẹo, làm cho tâm sanh
ái luyến; do tấm ái luyến, cho nên mới sanh ra tham dục. Vì
tham dục nên tạo nghiệp, do tạo nghiệp nên mới thọ quả.
Khi thọ quả khổ rồi trở lại tạo nghiệp nữa. Vì thế nên sanh
tử không cùng”.
********
4. Phật trả lời
câu hỏi: “Có mấy loại chúng sanh luân hồi?”
-Này Thiện nam!
Cảnh hồng trần có lắm điều xuôi ngược, nếu người khi gặp
nghịch cảnh, sanh tâm giận ghét, tạo ra các nghiệp dữ, thì
đọa vào Ðịa ngục, Ngạc quỷ và súc sanh.
Nếu người biết nhàm
cảnh dục, ưa tạo nghiệp lành, chán chê ác nghiệp, thì lại
sanh về cõi người và cõi trời Dục giới.
Còn những người nhàm
chê cảnh trần lao, ô nhiễm ở cõi Dục, tham ái cảnh Tứ thiền
và Bát định của hai cõi trên, như thế cũng còn tư dưỡng gốc
tham ái, cho nên sanh về hai cõi hữu vi là “trời Sắc giới”
và “Vô sắc giới”.
Các loại chúng sanh
trên đây, đều còn trong vòng sanh tử luân hồi, vì còn các
tham ái, nên chẳng thành Thánh đạo. Thến nên, chúng sanh nào
muốn thoát ly sanh tử luân hồi, thì trước phải đoạn trừ các
tham dục và tâm ái luyến.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trêen là Ngài
Di Lặc Bồ tát hỏi: “Có mấy loại chúng sanh luân hồi?”. Ðến
đoạn này Phật trả lời có ba loại chúng snah luân hồi:
1. Ác nghiệp:
Như Ðịa ngục, Ngạ quỷ và súc sanh (nghiệp ác bực thượng thì
đọa vào địa ngục, nghiệp ác bực trung thì đọa làm Ngạ quỷ,
nghiệp ác bực hạ thì đọa làm súc sanh).
2. Thiện nghiệp: -
Ðây là nói về hữu lậu thiện. Như: Thiên, Nhơn và Thần A Tu
La (Nghiệp lành bực thượng thì sanh lên 6 cõi Trời về Dục
giới, nghiệp lành bực trung thì sanh về cõi Người, nghiệp
lành bực hạ thì sanh làm thần A Tu La)
3. Bất động
nghiệp (Thiền định) – Như cõi Trời Tứ Thiên và Tứ
không. Do tu thiền định mà được sanh về bốn cõi Thiền ở Sắc
giới (1. Ly, sanh hỷ lạc địa; 2. Ðịnh, sanh hỷ lạc địa; 3.
Ly hỷ, diệu lạc địa; 4. Xả niệm, thanh tịnh địa). Và bốn cõi
Không, ở cõi Trời Vô sắc (1. Không vô xứ thiện; 2. Thức vô
biên xứ thiên; 3. Vô sở hữu xứ thiên; 4. Phi tưởng phi phi
tưởng xứ thiên)
Ba loại chúng sanh
này (ác nghiệp, thiện nghiệp và bất động nghiệp) tuy có cao
thấp, sang hèn khác nhau, nhưng cũng đều còn ái và dục,
chẳng qua thô hay tế đó thôi. Ái dục còn tức là phiền não
hữu lậu còn; vì phiền não hữu lậu còn nên phải còn sanh tử
luân hồi.
Tóm lại, vì chúng
sanh trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới) còn ái
nhiễm nên đều còn luân hồi cả.
Kết thúc đoạn
này, Phật dạy một câu:
“....Thế nên chúng
sanh, muốn ra khỏi sanh tử luân hồi, thì truớc hết phải đoạn
trừ ân ái và tham dục” (Thị cố chúng sanh, dục thoát sanh
tử, miễn chư luân hồi, tiên đoạn tham dục, cập trừ ái khát).
Phật dạy Pháp tu ra
khỏi sanh tử luân hồi, vỏn vẹn chỉ có một câu thôi:
“Phải đoạn ân ái
và tham dục”
Rất giản dị và rõ
ràng vô cùng. Thật là “khuôn vàng thước ngọc”, đáng làm quy
cũ cho muôn đời! Hành giả chỉ thực hành đúng như lời Phật
dạy đây, đó là Tu, Tu là đó rồi.
Cũng như trong kinh
Lăng Nghiêm Phật dạy rằng:
“...Dâm Tâm bất trừ,
Trần bất khả
xuất...”
Nghĩa là: Tâm nghĩ
ngợi đến việc tham dục, nếu không dứt trừ, thì cảnh hồng
trần này không biết bao giờ ra khỏi.
5. Bồ tát hiện
thân, không phải do ái dục mà do lòng đại bi và nguyện lực
-Này Thiện nam! Các
vị Bồ tát hóa hiện thân hình ở trong thế gian, không phải vì
ái dục nhiễm ô như chúng sanh, mà gốc do lòng Từ bi và đại
nguyện cứu thế, nên đã hiện ra thân tham dục để vào sanh tử
hóa độ chúng sanh, khiến cho chúng sanh xả bỏ các ái dục.
LƯỢC GIẢI
Vì sợ có người hiểu
lầm: Bồ tát củng có phụ mẫu, thê tử, v.v... tất nhiên phải
có ái dục, nhiễm ô và cũng thật sanh tử như chúng sanh, nên
đoạn này Phật giải thích: Bồ tát do lòng từ bi và đại nguyện
cứu thế, nên hiện ra thân tham dục, để vào sanh tử, đặng hóa
độ chúng sanh, chớ không phải thật có tham dục và sanh tử.
6.
Phật dạy: Có năm chủng tánh
-Này Thiện Nam! Nếu
tất cả chúng sanh đời sau, bỏ được các tham dục, trừ tâm
thương ghét, dứt hẳn sanh tử luân hồi, nơi tâm được thanh
tịnh, cầu nhập cảnh giới Viên giác của Như Lai thì sẽ được
ngộ nhập.
-Này Thiện nam! Tất
cả chúng sanh gốc từ vô minh tham dục, nên sanh ra năm món
tánh sai khác. Năm món tánh này là căn cứ theo việc đoạn trừ
hai chưóng có cạn và sâu mà phân định.
Thế nào là hai
chướng?
1. Lý chướng:
làm chướng ngại chánh tri kiến
2. Sự chướng:
làm tiếp nối các sanh tử. Nếu đối với hai món chướng này má
hoàn toàn chưa đoạn thì gọi là chúng sanh
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trên Ngài Di
Lặc Bồ tát hỏi: “Có mấy hạng người tu theo đạo Bồ đề của
Phật?”. Ðến đoạn này Phật trả lời có năm hạng. Song năm hạng
này là căn cứ theo việc đoạn trừ hai chướng có cạn và sâu
của hành giả mà phân định.
Lý chướng: Chướng về
Lý, cũng tên là “Sở tri chướng”, do chấp Pháp mà sanh. Vì
chấp pháp nên làm cho chướng ngại “Chơn như lý tánh” không
hiện bày; vì thế, nên nói “Lý chương là chướng ngại chánh
tri kiến của Phật”
Sự chướng: Chướng về
sự, cũng gọi là “phiền não chướng, do chấp Ngã sanh. Do các
phiền não nên tạo ra các nghiệp vì tạo nghiệp nênmới thọ
luân hồi. Vì thế Phật nói: “Sự chướng làm tiếp nối sinh tử
luân hồi”.
Bởi chấp ngã nên
khởi ra các phiền não làm chướng ngại Bồ đề. Bởi chấp ngã
nên sanh ra Sở tri chướng, làm phát tâm tu hành, đối với hai
món chướng này chưa đoạn được món nào, cho nên chỉ kêu là
“chúng sanh” mà không liệt vào trong năm chủng tánh.
*********
-Này Thiện nam!
Thế nào là năm chủng tánh?
1. Thinh văn
chủng tánh
2. Duyên giác
chủng tánh
3. Bồ tát chủng
tánh
4. Bất định chủng
tánh
5. Ngoại đạo
chủng tánh
1. Thinh Văn và
2. Duyên giác chủng
tánh
Nếu chúng sanh nào
đoạn tuyệt tham dục, trừ được sự chướng (ngã chấp) nhưng lý
chướng (pháp chấp) chưa đoạn, thì chỉ chứng đặng quả Thinh
văn và Duyên giác chớ chưa được an trụ cảnh giới Bồ tát.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói về
chủng tánh Thinh văn và Duyên giác, chung gọi là “nhị thừa
chủng tánh”.
Ðành rằng hai quả vị
này đồng bỏ hẳn lòng tham dục, đồng phá được ngã chấp, trừ
sự chướng, đồng đoạn được sanh tử và cũng đồng chưa trừ được
lý chướng (pháp chấp) nhưng pháp tu của hai bên khác nhau.
-Một bên tu pháp Tứ
đế đoạn được sự chướng (ngã chấp) thì gọi là “Thinh Văn
chủng tánh”
-Một bên tu pháp
“Thập nhị nhơn duyên đoạn được sự chướng (ngã chấp)
thì gọi là “Duyên giác chủng tánh”
Ngài Tôn Mật giải
rằng: “Biết được khổ sanh tử, dứt trừ tâm leo chuyền, thì
gọi là trừ “sự chướng”, thật ra chưa có thể trừ được ba món
Tế” (ba món Tế, xem trong quyển Ðại thừa Khởi tin luận).
3. Bồ tát Chủng tánh
-Này Thiện nam! Nếu
các chúng sanh đời sau, muốn vào biển Ðại Viên giác của Như
Lai, thì trước phải phát nguyện, siêng năng đoạn trừ hai món
chướng. Ðến khi hai món chướng đã nép phục, thì ngộ vào cảnh
giới Bồ tát.
Nếu như khi món
chướng (ngã chấp, pháp chấp) đã hoàn toàn diệt, thì vào được
cảnh giới Viên Giác mầu nhiệm của Như Lai, viên mãn quả Bồ
đề và đạt Niết bàn.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói về bồ
tát chủng tánh. Có chia làm hai thời kỳ:
1.
Thời kỳ hai chướng mới nép phục.
2.
Thời kỳ đoạn tuyệt hai chướng
Hành giả từ khi còn
địa vị phàm phu, đang bị hai chướng (phiền não chướng và Sở
tri chướng) hoành hành, rồi trải qua giai đoạn giằng co, cho
đến lúc hai chướng bị nép phục, như thế mới vừa lên địa vị
Bồ tát. Khi lên địa vị Bồ tát, tiếp tục đoạn chướng, đến lúc
đoạn tuyệt được phiền não chướng (ngã chấp) thì đặng Bồ đề
(trí đức), đoạn tuyệt được sở tri chướng (pháp chấp) thì
đặng đại Niết bàn (đoạn đức). Hai chướng bị đoạn vĩnh viễn
rồi, thì đặng vào quả “Phật”.
Tại sao lập Bồ tát
tánh mà không lập Như Lai tánh? Vì Bồ tát tu hành đến lúc
hoàn toàn rốt ráo, thì chứng quả vị Phật, nên không lập thêm
Như Lai tánh.
**********
4. Bất định chủng
tánh
-Này Thiện nam!
Có loại chúng sanh có thể chứng được Viên giác. Song, nếu
chúng gặp Thiện tri thức là Thinh văn hóa độ, thì chúng
thành Tiểu thừa; còn gặp thiện tri thức là Bồ tát hóa độ thì
chúng thành Ðại thừa. Nếu gặp Như Lai dạy tu đạo vô thượng
Bồ đề, thì chúng thành Phật thừa.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói về “Bất
định chủng tánh”. Nghĩa là chúng sanh này căn tánh
không nhất định Ðại thừa hay Tiểu thừa. Nếu gặp Thiện tri
thức thuộc về Ðại thừa giáo hóa, thì chúng thành Ðại thừa;
còn gặp Thiện tri thức thuộc về Tiểu thừa giáo hóa thì chúng
thành Tiểu thừa.
*******
5. Ngoại đạo chủng
tánh
-Này Thiện nam! Có
những chúng sanh đi tầm Thiện tri thức chỉ dạy đường lối tu
hành, nhưn glại gặp ngoại đạo tà sư dạy bảo, nên chúng nó
sanh ra tà kiến, hiểu ngộ không chơn chánh, thế gọi là
“Ngoại đạo chủng tánh”. Ðây không phải lỗi tại chúng sanh
đó, mà lỗi tại tà sư.
Tóm lại, chúng sanh
tu Bồ đề, có năm món chủng tánh sai khác, như ta vừa kể
xong.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói về
“ngoại đạo chủng tánh”. Tuy chúng sanh này vẫn có tâm
tu hành, nhưng không gặp “thiện tri thức” giáo hóa, lại gặp
tà sư chỉ dạy, nên thành ngoại đạo.
Vì sự hiểu biết của
chúng tà ngụy, không phải là chánh đạo, nên gọi là “ngoại
đạo”. Ngoại đạo chủng tánh, ở kinh khác gọi là “Xiễn đệ
chủng tánh”, nghĩa là “đoạn giống Phật”. Vì trong bốn chủng
tánh trên, tuy có Ðại thừa và Tiểu thừa khác nhau, nhưng
cũng đều “chánh ngộ”, duy có Ngoại đạo chủng tánh, sanh các
tà kiến, đoạn diệt chánh kiến, trái ngược với chánh nhơn
thành Phật cho nên gọi là “chúng Xiễn đề” (đoạn giống Phật).
7. Bồ tát nhập
thế độ sanh thị hiện các hình tướng và các cảnh thuận nghịch
-Này thiện nam! Các
vị bồ tát đều y bổn nguyện độ sanh của mình từ vô thỉ và do
lòng Ðại bi thanh tịnh(1) thúc đẩy nên nhập thế độ sanh. Bồ
tát dùng phương tiện thị hiện ra nhiều hình tướng, khi thì
hiện cảnh thuận, khi thì hiện cảnh nghịch, có lúc lại lân la
ở chung với chúng sanh và đồng làm các nghề nghiệp như chúng
sanh (Ðồng sự nhiếp) để tiện bề hóa độ, khiến cho chúng sanh
được thành Phật.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trên Ngài Di
Lặc Bồ tát hỏi Phật: “Khi bồ tát nhập thế độ sanh, phải dùng
những phương tiện gì để giáo hóa chúng sanh?”
__________
(1) Ðại bi thanh
tịnh: Bồ tát do lòng từ bi rộng lớn thương xót chúng sanh mà
hiện thân hóa đạo, không phải vì danh và lợi v.v.. cho
nên nói là “Thanh tịnh”
Ðại ý đoạn này Phật
trả lời: Bồ tát do bản nguyên độ sanh từ vô thỉ (bồ tát dĩ
lợi sanh vì bổn hoài), và lòng Ðại bi thanh tịnh thúc giục,
nên mới nhập thế độ sanh; không đồng như chúng sanh do ái
dục làm nhiễm ô và bị nghiệp lực lôi cuốn mà nhập thế.
Bồ tát dùng phương
tiên, thị hiện ra nhiều hình tướng để độ sanh. Như Ngài Quan
Âm hiện 32 ứng thân, Ðức Di Lặc Bồ tát hiện thân Bố đại Hòa
thượng, hoặc có vị hiện thân Kim Cang, hiện thân Tiêu Diện,
Thập Diện, Thập Ðiện Minh vương, Ngưu đầu, Mã viện v.v.. có
lúc hiện “Từ”, có lúc hiện “Oai” nên có câu:
“Kim Cang lộ mục sở
dĩ hàng phục tứ ma
Bồ tát đê mi do thị
ai từ ư lục đạo”
Nghĩa là: Thần Kim
Cang trợn mắt là để hàng phục bốn ma. Bồ tát xủ mày là vì
thương chúng sanh trong 6 đạo. Bồ tát khi thị hiện
cảnh thuận: giảng dạy Pháp lành khuyên người tu học v.v.. có
lúc lại hiện cảnh nghịch như: hiện chảo dầu sôi, để độ ông
Nan Ðà tôn giả, hoặc dùng gọng xiềng đánh đập v.v.. để cho
người biết thức tỉnh hồi tâm. Cổ nhơn nói: “Người không gặp
tai nạn, thì chẳng biết hồi tâm hướng thiện”. (Nhơn vô vạn
họa, bất hồi đầu). Hay như Ngài Thiện Tài Ðồng Tử đi tham
học với Bà Tu Mật Nữ v.v..
Bồ tá có khi thị
hiện lân la ở chung cùng với chúng sanh và đồng làm
các nghề nghiệp như chúng sanh (như Ngài Lục Tổ khi ở chung
với bọn thợ săn v.v... để lần hồi dẫn dắt chúng sanh trở về
Chánh Ðạo).
Tóm lại, các Bồ tát
nhập thế độ sanh, đều do tâm đại bi làm chủ động, lấy Ðại
nguyện làm căn bản, dùng phương tiện có nhiều môn, tuy không
nhứt định, nhưng đại khái không ngoài Thuận và Nghịch. Hoặc
dùng lời giảng dạy (khẩu giáo hóa) hoặc hiện thân hóa độ
(thân giáo hóa), hoặc dùng đồng sự nhiếp, chung quy một mục
đích là khiến cho chúng sanh được giải thoát và thành Phật.
*****
8. Chỉ nguyện
thành Phật, không ở nhị thừa và chớ gặp ngoại đạo
-Này Thiện nam! Nếu
chúng sanh đời sau, phát đại nguyện thanh tịnh của Bồ tát,
khởi tâm tăng tấn cầu nhập Viên Giác, thì phải phát nguyện
như vầy:
Con nguyện ngày nay,
được gặp Thiện tri thức dạy con tu hành để nhập Viên giác
của Phật, chớ gặp tà sư ngoại đạo và Nhị thừa.
Con y theo bản
nguyện tu hành, lần hồi dứt trừ các chướng. Khi các chướng
hết, nguyện viên mãn, thì con sẽ được vào thành lớn Viên
Giác, trang nghiêm tốt đẹp và lên cung điện thanh tịnh giải
thoát của Như Lai.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn này Phật
dạy các chúng sanh đời sau, muốn cầu Viên Giác, thì phải
phát lời thệ nguyện: “Con nguyện chớ gặp tà sư ngoại đạo và
tiểu thừa chỉ lo tu ích kỷ tiêu cực không chịu hoằng pháp
lợi sanh. Con nguyện gặp Thiện tri thức Ðại thừa, tu lợi tha
tích cực, dạy bảo con tu hành được thành quả Phật”.
Ngài Như Sơn nói:
“Lý, tuy đốn ngộ, nhưng về phần sự tướng thì phải lần lần
diệt trừ” (lý tuy đốn ngộ, sự nải tiệm trừ)
Khi các chướng hết
rồi, thì đi, đứng nằm ngồi trong tất cả thời và tất cả chỗ,
đều được giải thoát. Ðó là cung điện giải thoát thanh tịnh
và thành Viên giác trang nghiêm của Như Lai.
**********
9. Phật nói bài
kệ, tóm lại các nghĩa trên
Khi đó Ðức Thế Tôn,
muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
Di Lặc! Ông nên
biết:
Tất cả các chúng
sanh
Ðều do tham dục vậy,
Nên đoạ vào sanh tử
Chẳng đặng đại giải
thoát.
Nếu người đoạn
thương ghét,
Cùng với tham, sân,
si.
Không cần tu gì
khác,
Cũng đều được thành
Phật.
Cầu nguyện gặp Minh
sư,
Khai ngộ được chơn
chánh,
Y theo nguyện Bồ
tát,
Trừ tuyệt hai món
chướng,
Ðược vào đại Niết
bàn
Các Bồ tát mười
phương,
Ðều bởi lòng Ðại bi,
Phát nguyện vào sanh
tử,
Tùy loại độ chúng
sanh.
Người tu hành hiện
tại
Và chúng sanh đời
sau,
Phải đoạn trừ ái
hoặc,
Mới đặng vào Viên
Giác
LƯỢC GIẢI
Bài kệ này Phật gọi
Ngài Di Lặc bồ tát mà dạy, đại ý như vầy: Tất cả chúng sanh
vì tham dục, nên bị sanh tử luân hồi,không được giải
thoát. Nếu người đoạn tuyệt được tham, sân, si v.v.. thì
được thành quả Phật. Thế nên người tu hành phải cầu Minh sư
khai ngộ, rồi y theo hạnh nguyện của Bồ tát mà đoạn trừ hai
chướng và cầu chứng quả Niết bàn của Phật.
Các vị Bồ tát ở mười
phương đều do lòng Ðại bi thanh tịnh làm chủ động và chí
nguyện lợi tha thúc đẩy, nên không nỡ yên ở chỗ thanh tịnh
tu giải thoát một mình, thích thú nơi cảnh tịch tịnh lo phần
ích kỷ như hàng Tiểu thừa; mà Bồ tát thệ nguyện nhập thế độ
sanh, lẫn lộn với trần lao để tùy duyên hóa độ. Không sợ ô
nhiễm, chẳng kể gian lao, không từ khó nhọc.
1. Ngài Thanh Tịnh
Huệ Bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát
3. Phật dạy: Trong Viên Giác không có Bồ tát và chúng sanh
4. Phàm phu tùy thuận tánh Viên Giác
5. Bồ tát ở vị Tam hiền tùy thuận tánh Viên giác
6. Bồ tát lên Thánh vị tùy thuận tánh Viên giác
7. Như Lai tùy thuận tánh Viên giác
8. Tóm tắt
9. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
CHƯƠNG THANH TỊNH
HUỆ
1. Ngài Thanh
Tịnh Huệ Bồ tát hỏi Phật
Khi ấy Ngài Thanh
Tịnh Huệ Bồ tát ở trong Ðại Chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu
của Phật ba vòng, rồi chắp tay kính cẩn, đảnh lễ dưới chân
Phật và quỳ thẳng bạch rằng:
Bạch Ðức Ðại Bi Thế
Tôn, Ngài đã vì chúng con, khôn khéo rộng nói những việc
không thể nghĩ bàn. Những việc mà chúng con từ hồi nào đến
giờ, chưa từng thấy và chưa từng nghe, hôm nay nhờ Phật khai
thị khiến cho chúng con được liểu ngộ, thân tâm khoan khoái
vui mừng, đặng lợi ích rất lớn.
Bạch đức Thế Tôn,
xin Ngài vì các vị bồ tát và tất cả chúng sanh trong pháp
hội này, chỉ dạy thứ lớp tu chứng của Như Lai như thế nào để
cho chúng sanh hiện tại và đời sau, nhơn nghe lời Phật dạy
đây, mà được khai ngộ, lần lượt tùy thuận vào tánh Viên Giác
của đức Pháp Vương (Phật).
Ngài Thanh Tịnh Huệ
thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này, Ngài
Thanh Tịnh Huệ Bồ tát hỏi Phật: Trên đường lối tu hành, từ
địa vị phàm phu đến quả vị Phật, phải trải qua bao nhiêu địa
vị? Thứ lớp tu chứng sai khác thế nào? Cầu Phật chỉ dạy,
khiến cho chúng sanh được liễu ngộ, lần lượt nhập vào tánh
Viên Giác.
Thanh Tịnh Huệ là
trí huệ thanh tịnh, tức là Bát nhã huệ. Từ chương này đến 6
chương sau là chú trọng về việc hạ thủ công phu. Trong khi
tu hành bất luận giờ phút nào, cũng phải dùng Bát nhã trí để
lãnh đạo; cho nên chương này Ngài Thanh Tịnh Huệ đứng lên
thưa hỏi, là tiêu biểu cho Bát nhã huệ vậy.
*********
2. Phật khen Ngài Thanh Tịnh Huệ
Bồ tát
Khi đó đức Thế Tôn
khen Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện nam, quý
lắm! ông vì các bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, thưa
hỏi Như Lai về thứ lớp tu chứng sai khác như thế nào. Vậy
các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy
Khi đó Ngài Thanh
Tịnh Huệ Bồ tát và Ðại chúng đều hoan hỷ và kính cẩn vâng
nghe lời Phật chỉ giáo.
***********
3. Phật dạy:
Trong Viên giác không có Bồ tát và chúng sanh
-Này Thiện
nam! Trong tánh Viên giác thanh tịnh, không tất cả pháp, mà
có đủ tất cả pháp. Nó tùy thuận các duyên biến hiện ra
đủ tất cả, mà không thủ và không chứng. Thí như con mắt,
thấy được tất cả vật, mà không tự thấy mình. Nó vẫn bình
đẳng mà không tự thấy mình bình đẳng.
Này Thiện nam! Trong
thật tướng (viên giác) không có Bồ tát và chúng sanh. Tại
sao thế?
- Bởi Bồ tát và
chúng sanh đều là huyễn hóa vậy. Khi các tướng huyễn hóa
diệt rồi, thì không có người năng chứng và quả sở chứng.
Chúng sanh vì còn mê
muội điên đảo nên chưa diệt trừ được các tướng huyễn hóa. Vì
chúng sanh vọng khởi công dụng, để đối trị các tướng huyễn
hóa, bởi có những tướng huyễn hóa đã diệt và chưa diệt, nên
chúng mới thấy có thứ lớp tu chứng sai khác. Nếu người đặng
tùy thuận tánh Viên giác tịch diệt của Như lai rồi, thì
không còn thấy có cảnh tịch diệt và người tịch diệt nữa.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật
nói: Trong tánh Viên giác vốn không có tất cả pháp, mà tùy
duyên hiện ra đủ tất cả các pháp sai khác. Ðoạn này giống
với đoạn trong kinh Lăng Nghiêm. Phật thí dụ cây đờn, trong
cây đờn không có các bài bản hay và dỡ; song tùy duyên nó
hiện ra đủ các tiếng hay và dở.
Trong tánh Viên Giác
không có năng thủ, sở thủ và năng chứng sở chứng, không Bồ
tát và chúng sanh. Vì chúng sanh chưa diệt trừ được các
tướng huyễn hóa, nên vọng khởi công dụng để dẹp trừ các
tướng vọng huyễn này. Vi thế mà thấy có chứng và có đắc, bực
lớp sai khác. Nếu tùy thuận được tánh Viên giác tịch diệt
của Như Lai rồi, thì không còn thấy có một pháp nào cả.
Trong đoạn này có
cái ví dụ: “Như con mắt không tự thấy con mắt” – Cái ví dụ
này chỉ cho tánh bình đẳng và vô công dụng của Viên
Giác. Tánh Viên Giác tùy duyên hiện ra các pháp mà không
thủ, không chứng. Cũng như con mắt bình đẳng chiếu soi tất
cả vật, mà không thấy mình có chiếu soi và bình đẳng.
*******
4. Phàm phu tùy
thuận tánh Viên giác (địa vị thập tín)
-Này Thiện nam! Tất
cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, do lầm tưởng có “thật ta và
vật của ta” rôì sanh lòng thương yêu cái ta và vật của ta,
cho nên gặp cảnh nghịch với ta thì giận ghét, còn thuận với
ta thì tham ái, say mê theo cảnh ngũ dục. Chúng chưa từng
biết thân tâm này là hư vọng, mỗi niệm sanh diệt luôn luôn,
không có thật ta.
Nếu gặp thiện hữu
tri thức dạy bảo, chúng được khai ngộ tánh Viên Giác thanh
tịnh, hiểu rõ thân tâm này là hư vọng mỗi niệm sanh diệt
không thật có cái ta; lúc bấy giờ chúng mới tự xác nhận
rằng: thân tâm này là “trần lao vọng lự”.
Những người nào đoạn
trừ được vĩnh viễn các trần lao vọng lự này, thì ngộ pháp
giới thanh tịnh, nhưng đối với tánh Viên Giác chưa được tự
tại, vì còn bị cái “biết thanh tịnh” nó làm chướng ngại,
những người như thế thì gọi là kẻ phàm phu tùy thuận tánh
Viên Giác.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trên (số 3) là
đứng về tánh Viên Giác thanh tịnh bình đẳng mà nói, nên
không có Bồ tát và chúng sanh sai khác. Nhưng đứng về phương
diện sự tướng tu hành mà luận thì có lớp lang tu chứng rõ
ràng. Bởi thế nên từ đoạn này (số 4) về sau là nói thứ lớp
nhập Viên Giác, bắt đầu từ vị Thập Tín, Tam Hiền, Thập Thánh
và đến quả Phật.
Ðại ý đoạn này, nói
hàng Thập Tín tùy thuận tánh Viên Giác - Bởi tất cả chúng
sanh từ vô thỉ đến giờ vì mê lầm chấp ta và cảnh vật của ta
là chơn thật, cho nên sanh ra tham, sân v.v.. Nếu gặp Thiện
tri thức dạy bảo, chúng giác ngộ được cái “ta” và “cảnh vật
của ta” đều hư vọng, sanh diệt không thật, thì lúc bấy giờ
chúng mới trừ được ngã chấp, đặng pháp giới thanh
tịnh. Nhưng, vì còn “biết thanh tịnh”, thế là còn pháp chấp
chưa trừ, nên còn chướng ngại tánh Viên giác. Vì thế nên gọi
là “chúng Phàm phu (vị Thập tín) tùy thuận tánh Viên Giác”.
***********
5. Bồ tát ở vị
Tam hiền, tùy thuận tánh Viên giác
Này Thiện nam! Tất
cả các vị Bồ tát, vì còn chấp cái “biết thanh tịnh” (giác),
nên chướng ngại tánh Viên giác. Nay tuy đoạn được cái chướng
ngại đó (cái biết thanh tịnh) nhưng còn trụ ở cái
“giác”. Như thế cũng còn cố chấp ở nơi “giác”, nên tánh Viên
giác vẫn còn bị chướng ngại, không được tự tại. Bởi thế nên
gọi là bực Tam hiền bồ tát, tùy thuận tánh Viên giác.
LƯỢC GIẢI
Các vị Bồ tát này,
tuy rời được cái “biết thanh tịnh”, nhưng còn cái “biết
giác”. Vì còn cái “biết giác” làm chướng ngại, nên tánh Viên
giác không được hiển hiện. Ðại ý đoạn này nói: Bực Tam hiền
Bồ tát tùy thuận tánh Viên Giác, Tam hiền là: Thập trụ, Thập
hạnh và Thập hồi hướng.
****
6. Bồ tát lên
thánh vị, tùy thuận tánh viên giác
Này Thiện nam! Nếu
còn “biết” (chiếu) và còn có “giác”, thì đều còn chướng ngại
(vì còn năng và sở)
-Thế nên Bồ tát
thường “giác” mà không trụ nơi “giác”, năng chiếu và sở
chiếu đồng vắng lặng. Bồ tát tự dùng tâm chướng ngại diệt
trừ các chướng ngại (dĩ vọng diệt vọng), khi các chướng ngại
diệt hết, cũng không còn người năng diệt. Thí như có người
tự mình chặt lấy đầu mình, khi cái đầu đã rụng rồi, thì cũng
không có người chặt (năng đoạn).
Này thiện nam! Tất
cả kinh giáo của Như Lai đều như ngón tay để chỉ mặt trăng
Viên giác (chơn lý). Vậy các ông phải biết: đây là ngón tay
kinh giáo chớ không phải mặt trăng Viên giác. Nếu các ông
chỉ cố chấp ngón tay, thì không bao giờ thấy được mặt trăng.
Những người biết nhơn ngón tay kinh giáo này, mà nhận được
mặt trăng Viên giác, thì gọi là Bồ tát lên thánh địa, tùy
thuận tánh Viên giác.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trên nói Bồ tát
ở vị Tam Hiền còn “biết” và còn “giác”. Ðến đoạn này nói: Bồ
tát đã lên thánh địa, tuy thường “giác” mà không trụ trước
nơi “giác”, vì không còn năng và sở. Cũng như người ta tự
chặt cái đầu của minh khi cái đầu rụng rồi, thì không có
người chặt và kẻ bị chặt.
Tất cả kinh giáo của
Phật đều là phương tiện để chỉ chơn lý (viên giác). Hành giả
phải nương các pháp phương tiện để đến chơn lý; nếu cố chấp
nơi phương tiện thì không bao giờ đến chơn lý
Giáo pháp của Phật
cũng như ngón tay chỉ mặt trăng. Người muốn thấy mặt trăng
thì phải nhơn ngón tay mà xem, khi thấy mặt trăng (chơn lý)
rồi thì phải quên ngón tay (phương tiện). Nếu cố chấp nơi
ngón tay (phương tiện) thì người ấy không bao giờ thấy mặt
trăng chơn lý.
Cái thí dụ này giống
như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật thí dụ “ngón tay chỉ mặt
trăng v.v..”
*********
7. Như Lai tùy
thuận tánh Viên giác
-Này Thiện nam! Tất
cả sự chướng ngại tức là Cứu kính giác, chánh niệm hay vọng
niệm đều là giải thoát, trì giới hay phá giới đều là Niết
bàn; trí huệ hay ngu si cũng đều là Bát nhã; Bồ tát và ngoại
đạo đồng là Bồ đề; Vô minh và chơn như đồng một cảnh giới;
giới, định, huệ và dâm, nộ (giận) si đều là hạnh thanh tịnh;
chúng sanh và quốc độ đồng một pháp tánh; địa ngục và thiên
đường đều làm Tịnh độ; hữu tình và vô tình đều thành Phật
đạo; tất cả phiền não là rốt ráo giải thoát, vì biển huệ
pháp giới chiếu soi cả tướng cũng như hư không. Ðây
gọi là Như Lai tùy thuận tánh Viên giác.
LƯỢC GIẢI
Các đoạn trên đã
nói: từ vị Thập tín, thì bị cái “Biết tịnh” làm ngại; qua vị
Tam Hiền, lại bị cái “biết giác” làm ngại; đến vị Thập
thánh, tuy đã lìa hết các ngại, nhưng hãy còn cái “thường
giác” chưa được viên dung.
Ðoạn này nói về quả
vị Phật, đã hoàn toàn nhập Viên giác tánh, thấy tất cả pháp
đồng một bản thể, nên nói: “các chướng ngại tức là cứu kinh
giác, chánh niệm và tà niệm đều là giải thoát, phiền não
sanh tử tức là Bồ đề, Niết bàn, trí huệ, ngu si đều là bát
nhã v.v...”
Bởi thế nên Cổ dức
có dạy rằng: “Mê thời Chơn như thành vọng tưởng, ngộ thời
vọng tưởng, tức Chơn như”.
***
8. Tóm lại
-Này thiện nam! Các
vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ trong tất cả thì giờ
không khởi vọng niệm phân biệt, đối với các vọng tâm cũng
chẳng cần diệt trừ, ở cảnh vọng tưởng, chẳng gia thêm phân
biệt, ở nơi cảnh không rõ biết, chẳng cần phân biệt chơn
thật, khi nghe đến pháp môn này, không lấy làm lạ lùng và
kinh hãi, lại sanh tâm tin chắc, hiểu biết rõ ràng, lãnh thọ
và phụng trì, thì ta gọi chúng sanh này là người tùy thuận
tánh Viên giác.
-Này thiện nam! Các
ông phải biết. Những chúng sanh tùy thuận như thế, là đã
nhiều đời tu hành, từng trồng rất nhiều công đức: “Cúng
dường các đức Phật và các vị Bồ tát nhiều như số cát sông
Hằng. Ta ấn chứng cho những người này sẽ thành tựu “nhứt thế
chủng trí” (Phật trí).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật dạy
cốt yếu có một câu: “chỉ trong tất cả thì giờ, không khởi
vọng niệm, v.v.. đó là tùy thuận tánh Viên Giác”. Nghĩa là:
nếu trong tất cả thời mà vọng niệm không sanh khởi, thì
tham, sân, si không sanh; 3 độc không sanh thì 3 nghiệp
chẳng tạo, các nghiệp không tạo thì chẳng còn sanh tử luân
hồi; sanh tử đã không thời chơn tâm tư hiện, như thế là tùy
thuận tánh Viên giác. Tỷ như ly nước đục để trên bàn, nếu
trong tất cả thì giờ đều được yên lặng, không bị chao động,
thì tánh nước trong tự hiện.
Ðoạn này giống như
trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “Bất tùy phân biệt” (không
theo trần cảnh khởi vọng niệm phân biệt). Thật là một pháp
tu mau chóng (viên đốn), nếu không phải người nhiều kiếp
tu hành, đã từng trồng căn lành từ nhiều đời đức Phật, thì
không thể lãnh thọ nỗi pháp môn này.
Tóm lại, Phật dạy:
Nếu các Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ trong tất cả thời
không khởi vọng niệm, cũng không cần để tâm diệt trừ vọng
niệm v.v.. những chúng sanh thật hành được như thế là căn
lành của chúng đã trồng sâu từ nhiều đức Phật, và chúng đã
nhập được tánh Viên giác, sẽ thành quả Phật.
Ngài Thanh Tịnh Huệ
hỏi thứ lớp tu chứng của Như Lai, đến đây Phật trả lời xong
hết.
*****
9. Phật nói bài
kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy đức Thế Tôn,
muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
Thanh Tịnh Huệ phải
biết:
Viên mãn tánh Bồ đề
Không còn thủ và
chứng,
Không bồ tát, chúng
sanh.
Giác và khi chưa
giác
Thứ lớp có sai khác:
Chúng sanh bị “biết”
ngại (Thập tín)
Bồ tát bị “giác”
ngại (Tam hiền)
Thánh Ðịa hằng vắng
lặng (Thập thánh)
Vì không trụ các
tướng,
Viên mãn quả Ðại
giác,
Nên gọi “khắp tùy
thuận” (Phật)
Các chúng sanh
đời sau,
Tâm chẳng sanh hư
vọng,
Ta nói chúng sanh
này,
Hiện đời là Bồ tát
Vì cúng dường chư
Phật,
Công đức đã viên mãn
Tuy có nhiều phương
tiện,
Cũng đều tùy thuận
Giác.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này
Phật dạy: Tánh Viên Giác không có thủ và chứng, không Bồ tát
và chúng sanh. Nhưng về thứ lớp tu hành thì có phân biệt ra
Tín vị, Hiền vị, Thánh vị, và Phật vị. Nếu như chúng sanh
nào tâm chẳng sanh vọng tưởng, là Bồ tát hiện tại, vì chúng
sanh này đã trồng công đức từ hằng sa chư Phật.
Pháp môn tu tuy có
nhiều và thứ lớp chứng đạo có sai khác nhưng cũng đều về
tánh Viên giác.
Trong chương Thanh
Tịnh Huệ này, Ngài Thanh Tịnh Huể hỏi Phật thứ lớp tu chứng
như thế nào? Phật trả lời có hai phần:
1. Ðứng về lý tánh
Viên giác mà nói, thì không có bồ tát và chúng sanh, không
thủ và không chứng.
2. Về sự tướng tu
hành, thì có thứ lớp sai khác. Như về Tín vị thì bị cái
“biết” (giả) làm ngại; ở về Hiền vị thì còn bị cái “giác”
làm ngại; vào Thánh vị tuy được tịch diệt nhưng chưa được
viên mãn.
Tóm lại, Phật dạy
một câu “nếu người đối với tất cả thời, không khởi vọng
niệm, thì được tùy thuận tánh Viên giác”.
1. Ngài Oai Ðức Tự
tại Bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Oai Ðức Tự tại Bồ tát
3. Phật dạy: Cảnh “Viên giác” không hai, nhưng phương tiện
vào có nhiều đường
4. Tu pháp “Xa ma tha”.
5. Tu pháp “Tam ma bát đề”
6. Tu pháp “thiền na”.
7. Tu pháp phương tiện này lợi ích rất lớn,
8. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên.
VII. CHƯƠNG OAI
ÐỨC TỰ TẠI
1. Ngài Oai Ðức
Tự tại Bồ tát hỏi Phật
Khi ấy Ngài Oai Ðức
tự tại Bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu
của Phật ba vòng rồi chắp tay kính cẩn, đảnh lễ dưới chân
Phật và quỳ thẳng bạch rằng:
-Bạch đức Ðại bi Thế
Tôn, xin Ngài vì chúng con, phân biệt chỉ dạy “phương tiện
để nhập Viên giác tánh (1) của Phật mà giác tâm được quang
minh, chẳng nhơn tu hành mà vẫn được lợi ích lớn.
Bạch đức Thế Tôn,
thí như cái thành lớn (Viên giác) có bốn cửa (các phương
tiện), hành giả muốn vào cửa nào cũng được, đâu phải chỉ có
một con đường.
Cũng thế, các vị Bồ
tát tu hành, làm trang nghiêm cõi Phật và thành đạo Bồ đề
đâu phải chỉ có một phương tiện. Cúi xin đức Thế Tôn vì
chúng con chỉ dạy các phương tiện tu hành và thứ lớp làm
sao, để các vị Bồ tát trong pháp hội này và chúng sanh đời
sau cầu pháp Ðại thừa, đều được khai ngộ và mau vào biển Ðại
tịch diệt (viên giác) của Như Lai.
Ngài Oai Ðức Tự Tại
Bồ tát thưa thỉnh như vậy 3 lần, chắp tay kính cẩn, lễ Phật
rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói:
Thành Viên Giác không hai, nhưng cửa phương tiện đi vào rất
nhiều. Xin Phật vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng
sanh đời sau tu Ðại thừa, chỉ dạy các phương tiện và thứ lớp
tu hành như thế nào, để hành giả mau được vào thành Viên
Giác.
Kinh Lăng Nghiêm
chép: “Quy nguyện tánh vô nhị, phương tiện hữu đa môn”. (Trở
về tánh “Bản nguyên” thì không hai, nhưng phương tiện đi vào
lại có nhiều cửa).
(1) Viên âm (là
tiếng tròn): Tiếng nói của Phật đầy đủ ý nghĩa, tùy theo
trình độ của người cao thấp đều được hiểu ngộ.
2. Phật khen Ngài
Oai Ðức Tự Tại bồ tát
Khi đó đức Thế Tôn
khen Ngài Oai Ðức Tự Tại Bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện nam, quý
lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau,
thưa hỏi Như Lai về các phương tiện tu hành. Ông nên chăm
chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy.
Khi đó Ngài Oai Ðức
Tự Tại Bồ tát cùng với đại chúng cùng yên lặng, chăm chú và
hoan hỷ nghe lời Phật chỉ giáo.
3. Phật dạy: Cảnh
“Viên giác” không hai nhưng phương tiện vào có nhiều đường
-Này Thiện Nam! Tánh
viên giác nhiệm mầu vô thượng này, nó trùm khắp cả 10 phương
và sanh ra chư Phật cùng tất cả các pháp. Bởi tất cả chúng
sanh cùng với chư Phật đồng một bản thể bình đẳng không
khác, nên người tu hành khi đã trở về tánh Viên Giác, thì
thật ra không có hai nơi; song những phương tiện để nhập
Viên giác lại có vô lượng
Vì trình độ của
chúng sanh không đồng, nên các phương tiện trở về tánh Viên
Giác có sai khác, nhưng không ngoài ba phương tiện sau này.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này
nói: “Viên giác không hai, song phương tiện tu hành để nhập
Viên Giác thì có nhiều pháp. Nhưng không ngoài ba pháp môn
là: Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu ở đây.
4. Tu pháp “Xa ma
tha” (tứ là tu chỉ hoặc gọi là tu định)
-Này Thiện nam! Nếu
các Bồ tát ngộ được Viên Giác thanh tịnh rồi, thì y theo tâm
Viên Giác thanh tịnh này mà giữ cái hạnh yên lặng và lóng
các vọng niệm. Khi các giác quan vọng thức phiền động đã
lặng rồi, thì trí huệ thanh tịnh phát sanh. Lúc bấy giờ cái
thân tâm hư vọng sanh diệt như khách và nhiễm ô như bụi này,
từ đây diệt hết. Khi đó trong nội tâm của hành giả sanh ra
vắng lặng và nhẹ nhàng thư thới (tịch tịnh khinh an) nên chư
Phật trong mười phương thế giới đều hiện ra trong tâm của
hành giả, rất rõ ràng như bóng hiện trong gương.
Phương tiện tu hành như thế, gọi là “Xa ma tha”
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật
nói: “Bồ tát khi ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh rồi, thì
dùng tâm thanh tịnh này để lóng các phiền não vọng thức. Khi
các căn cáu phiền não đã lóng đứng rồi, thì trí huệ thanh
tịnh phát sanh. Lúc bấy giờ hành giả quan sát lại thân tâm
hư vọng như khách, huyễn hóa lăng xăng như bụi đều diệt hết
(ngã, pháp không còn).
Bởi các vọng hoặc
nhiễm ô đã diệt hết, tâm được thanh tịnh, nên 10 phương chư
Phật hiện ra trong tâm của hành giả. Cũng như ly nước được
lóng trong, thì các bóng ngoài hiện trung” (nếu tâm chúng
sanh được thanh tịnh, thì bóng Bồ Ðề tự hiện vào)
Lưu ý: Trong
kinh nhày nói: “Chỉ, quán”, không đồng với “Chỉ, quán” của
Tiểu thừa. Vì “Chỉ, quán” của Tiểu thừa là phải dùng
phương tiện của bên ngoài để tu. Còn lối “chỉ, quán” của Ðại
thừa là xứng theo bản thể của chơn tâm mà “chỉ” và “quán”,
nên có phần cao siêu hơn.
5. Tu pháp “Tam
ma bát đề” (tức là tu quán, hoặc gọi tu huệ)
-Này Thiện nam! Nếu
các Bồ tát ngộ được Viên Giác thanh tịnh rồi, thì y theo tâm
Viên Giác thanh tịnh mà quán sát tâm tánh, thân căn và trần
cảnh này đều là vật huyễn hóa. Lúc bấy giờ Bồ tát khởi ra
cái trí như huyễn để trừ các pháp như huyễn; làm các hạnh
như huyễn để hóa độ chúng sanh như huyễn. Bởi bồ tát tu pháp
quán như huyễn này, nên phát đại bi tâm(1) thương xót
cứu khổ tất cả chúng sanh mà vẫn nhẹ nhàng thư thới (đại bi
khinh an) không tham trước luyến ái nơi chúng sanh.
Tất cả Bồ tát, đều y
theo pháp quán như huyễn này mà tu hành, lần lần tăng
tiến. Ban đầu quán cảnh là huyễn, nhưng người quán chưa phải
huyễn; sau người quán cũng là huyễn và cuối cùng hoàn toàn
xa lìa các tướng huyễn (lúc bấy giờ cái phi huyễn hiện
ra). Thế là Bồ tát đã hoàn thành được pháp quán mầu nhiệm
này. Bồ tát lần lượt tiến tu, cũng như đất làm cho mầm mộng
lần hồi được sanh trưởng. Phương tiện tu như thế, gọi là
“Tam ma bát đề”.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật
dạy: “Khi bồ tát ngộ được Viên giác thanh tịnh rồi, y nơi
tâm Viên giác này mà quán các pháp, nào căn, trần và thức
đều là huyễn hóa. Lúc bấy giờ Bồ tát khởi cái trí như huyễn
để diệt các vô minh phiền não như huyễn, tu các hạnh như
huyễn, để hóa độ chúng sanh như huyễn. Ðến khi các huyễn
cảnh đã không, huyễn trí cũng hết, nào tâm, cảnh, năng sở
đều tiêu, hoàn toàn xa lìa các huyễn tướng rồi, thì tánh
Viên giác phi huyễn hiện ra. Như tiếng ồn của học trò hết
tiếng, gõ bảng của thầy giáo thôi, lúc bấy giờ cảnh yên tịnh
hiện ra.
Thí như người ngủ,
chiêm báo thấy giặc bao vây, đem bệnh diệt trừ v.v..
Khi giặc trong chiêm bao tan (cảnh huyễn hết) binh lính hết
(người quán huyễn không) và tâm chiêm bao cũng không còn
(huyễn trí hết) thì tâm giác ngộ tự nhiên hiện vậy (Viên
giác hiện)
Bồ tát y theo tánh
Viên giác tu pháp quán như huyễn này, từ chỗ cạn đến chỗ
sâu, ly được một phần huyễn tức là chứng được một phần
giác. Cũng như cái mầm chồi, y nơi đất mà lần hồi nảy nở.
Kinh này Phật dạy tu
pháp quán như huyễn, giống như kinh Kim Cang Phật dạy:
Nhứt thế hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào
ảnh
Như lộ, diệc như
điển
Ưng tác như thị quán
Nghĩa là:
Nên quán như thế
này:
Cái gì có làm ra
Ðều như mộng, huyễn,
bọt
Như bóng, sương và
chớp
Lưu ý: Nhờ pháp
“chỉ” mới dừng đứng các vọng niệm đương khởi và sẽ khởi bên
trong. Khi vọng niệm không còn khởi, thì “chơn tánh” tự hiện
bày.
Nhờ pháp “Quán” mới
rõ các cảnh hiện tiền như huyễn, để đối trị âm thanh luyến
thân, cảnh và xa lìa ngã chấp, pháp chấp. Khi ngã pháp hết
thì Viên Giác hiện ra
Bồ tát phát tâm Ðại
bi: Bồ tát nhận thấy tất cả chúng sanh cùng với mình đồng
một bản thể chơn như bình đẳng không hay không khác. Vì thế
mà Bồ tát phát tâm thương xót tất cả chúng sanh, nên gọi là
“Ðại bi tâm”
Bồ tát rộng độ chúng
sanh, mà không thấy chấp có mình năng độ và người được
độ. Bởi không chấp tướng “ngã, nhơn,” như thế, nên Bồ tát
làm không biết bao nhiêu việc lành, độ vô số chúng sanh mà
tâm vẫn nhẹ nhàng thư thái (kinh an).
6. Tu pháp “Thiền na” (tức
là chỉ, quán đồng thời tu, hay gọi là Ðịnh huệ song tu)
-Này Thiện nam! Nếu
các Bồ tát ngộ được Viên giác thanh tịnh tâm rồi, thì y như
tâm Viên giác này mà tu: Không chấp thủ pháp “Quán như
huyễn”, và pháp “chỉ tịch tịnh”. Bồ tất rõ biết thân tâm này
đều là vật ngăn ngại, còn tánh Viên Giác (vô tri giác minh)
thì không bị các vật làm chướng ngại, lại còn siêu vượt ra
ngoài những cảnh chướng ngại (sanh tử) và không chướng ngại
(Niết bàn); nó vẫn thọ giới dụng thế giới và thân tâm ở
trong cõi trần này, mà không bị cảnh trần ràng buộc, mặc dù
phiền não hay Niết bàn cũng không làm lưu ngại nó được. Thí
như tiếng “boong” của chuông, tuy ở nơi chuông mà vẫn thoát
ra ngoài chuông.
Bồ tát lúc bấy giờ,
ở nơi nội tâm được vắng lặng. Rất nhẹ nhàng thư thái, nào
ngã, nhơn chúng sanh, thọ mạng, bốn tướng đều chẳng còn và
được tùy thuận cảnh giới Viên giác tịch tịnh mầu nhiệm. Bồ
tát tu pháp phương tiện này, gọi là tu “Thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Thiền na Tàu dịch là
“Tính lự”. Chữ “Tính” tức là “chỉ” (Ðịnh). Chữ “Lự” tức là
“Quán” (huệ).
-"Pháp Xa ma tha”
thì tu về “Chỉ là Ðịnh"
-Pháp “Tam ma bát
đề” tu về “Quán là huệ"
-Pháp “Thiền na” này
Chỉ và Quán đều tu, khiến cho Ðịnh và Huệ được quân bình.
Ðại ý đoạn này nói:
Bồ tát khi ngộ được tâm viên giác thanh tịnh rồi, y theo tâm
này mà tu, không dùng pháp “Chỉ” và “Quán”. Bồ tát rõ biết
thân tâm này đều là vật chướng ngại, mà tánh Viên giác không
chướng ngại. Mặc dù thọ dụng thân này, tâm này và thế giới
trần cảnh này, mà tánh Viên giác vẫn hoàn toàn siêu vượt ra
ngoài các cảnh chướng ngại và không chướng ngại, cho đến
phiền não hay Niết bàn cũng không lưu ngại nó được. Cũng như
tiếng “boong” của chuông, vượt ra ngoài chuông.
Khi đó Bồ tát diệt
hết bốn tướng (ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng), nhập vào
cảnh giới Viên giác. Bồ tát tu phương tiện này gọi là tu
“Thiền na”.
7. Tu
pháp phương tiện này lợi ích rất lớn
-Này thiện nam! Ba
pháp môn này, đều là phương tiện để nhập Viên giác
tánh. Mười phương các đức Phật đều nhơn phương tiện này mà
được thành Phật. Mười phương các vị Bồ tát, tu các phương
tiện hoặc đồng hay khác, nhưng cũng đều y ba pháp môn này mà
được chứng ngộ hay thành Viên giác.
-Này Thiện nam! Giả
sử có người tu theo đạo Phật, hoá độ được muôn ức vị A La
Hán và Bích Chi Phật, nhưng lợi ích không bằng có người chỉ
trong giây phút tùy thuận và tu tập pháp môn Viên giác vô
ngại này.
LƯỢC GIẢI
Ba pháp môn “chỉ,
quán và chỉ quán song ty” này là cái phương tiện để nhập
Viên giác tánh . Tất cả chư Phật và Bồ tát cũng đều y theo
ba pháp môn này mà được thành đạo chứng quả.
Những người giáo hóa
ngàn muôn ức Thinh văn và Duyên giác tuy nhiều, nhưng thuộc
về Tiểu thừa quả, nên sự lợi ích không bằng người trong giây
phút, tùy thuận tánh Viên giác. Vì tùy thuận tánh Viên
Giác tức là vào cảnh giới Phật, nên lợi ích lớn hơn.
8. Phật nói
bài kệ tóml ại nghĩa trên
Khi đó Ðức Thế tôn
muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
Oai Ðức! Ông nên
biết:
Viên giác tánh không
hai,
Phương tiện tu có
nhiều.
Như Lai tóm chỉ bày
Không ngoài ba pháp
này:
Tu pháp “chỉ” vắng
lặng
Như bóng chiếu trong
gương.
Tu pháp “Quán” như
huyễn
Như mộng (mầm, chồi)
lần lần lớn
Chỉ, Quán đồng thời
tu,
Như tiếng “boong”
của chuông.
Ba pháp môn mầu
nhiệm,
Ðều tùy thuận Viên
giác.
Mười phương các đức
Phật,
Và các đại bồ tát,
Nhơn đây được thành
đạo
Ba pháp, chứng hoàn
toàn
Là rốt ráo Niết bàn
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này
Phật nói: Tánh viên giác không hai, nhưng các phương tiện tu
hành có vô số. Song, không ngoài 3 pháp môn là: Chỉ, Quán và
Chỉ Quán song tu. Các Ðức Phật và các vị Bồ tát cũng đều y
ba pháp này mà được thành đạo. Chứng 3 pháp này được hoàn
toàn thì rốt ráo quả Niết bàn.
Ba pháp môn này cũng
đều gọi là ba pháp “Chỉ” hay ba pháp “Quán”
1. Xa ma tha là “thể
chơn chỉ”, tức là “không quán”, y theo chơn đế mà tu
2. Ta ma bát đề là
“phương tiện tùy duyên chỉ” tức là “giả quán”, y theo tục đế
để mà tu.
3. Thiền na là “nhị
biên phân biệt chỉ”, tức là “trung quán”, y theo trung đế để
mà tu.
Nếu phân tách mà
nói, thì ba pháp Chỉ gọi là “Xa ma tha”, còn ba pháp Quán
gọi là “Tam ma bát đề”. Chỉ và Quán không hai gọi là
“Thiền na”.
1. Ngài Biện Âm Bồ
tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Biện Âm Bồ tát
3. Phật dạy 25 pháp tu (25 luân)
4. Tóm lại
5. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
VIII. CHƯƠNG BIỆN
ÂM
1. Ngài Biện Âm bồ tát hỏi Phật
Khi đó NGài Biện Âm
bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật
ba vòng, rồi lạy Phật và quỳ thẳng bạch rằng:
-Bạch đức Ðại bi Thế
Tôn, vừa rồi Ngài dạy ba pháp môn tu hành như thế, rất là hy
hữu.
Nhưng các vị Bồ tát,
khi muốn nhập Viên giác, đối với ba pháp môn phương tiện
này, có mấy cách tu tập?
Cúi xin đức Thế Tôn,
vì cả đại chúng hiện tại và chúng sanh đời sau, phương tiện
mở bày, khiến cho chúng con đều ngộ được tướng chơn thật
(viên giác).
Thưa thỉnh như vậy 3
lần, rồi Ngài Biện Âm kính cẩn lạy Phật và trở lui.
LƯỢC GIẢI
Vừa rồi ở chương Oai
Ðức Tự tại, Phật dạy có 3 pháp môn tu là “Chỉ, quán và chỉ
quán song tu”, rất rõ ràng.
Ðến chương này Ngài
Biện Âm Bồ tát lại hỏi thêm ba pháp môn phương tiện trên, có
mấy cách tu. Nghĩa là mỗi người chỉ tu một pháp hay cả ba
pháp? Ba pháp này tu đồng thời hay có trước sau? Phải theo
thứ lớp tu hay vượt qua thứ lớp?
2.
Phật khen Ngài Biên Âm Bồ tát
Khi đó đức Thế Tôn
khen ngài Biện Âm bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện nam, quý
lắm! Ông vì đại chúng hiện tại và chúng sanh đời sau, thưa
hỏi Như Lai có bao nhiêu cách tu tập. Ông nên chăm chú nghe,
Như Lai sẽ vì các ông mà chỉ giáo.
Khi đó NGài Biện Âm
bồ tát, cùng với Ðại chúng đồng yên lặng và hoan hỷ nghe lời
Phật dạy bảo.
3.
Phật dạy 25 pháp tu
-Này Thiện nam! Tánh
Viên giác thanh tịnh của tất cả Như Lai, vốn không có pháp
bị tu và người tu tập. Song vì các vị Bồ tát hiện tại và
chúng sanh đời sau, chưa nhập được Viên giác, còn phải
phương tiện dùng huyễn pháp để tu tập, vì thế nên chia ra có
25 cách tu như sau:
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói:
Xứng về tánh “Viên giác thanh tịnh” thì không có người tu và
pháp để tu. Song vì chúng sanh chưa giác ngộ, còn phải dùng
phương tiện tu tập, vì thế nên Phật chia ra có 25 pháp môn
tu.
Tuy chia ra 25 pháp
môn tu, nhưng vẫn y theo 3 pháp là “Chỉ quán và Chỉ quán
đồng thời tu” mà Phật đã dạy ở chương trước. Có khi tu chung
hai pháp, ba pháp, mà có lúc lại riêng từng pháp một, hoặc
tu trước, hoặc tu sau, tùy theo trình độ của chúng sanh xây
qua trở lại thành 25 pháp; song tu pháp nào cũng đều chứng
nhập được viên giác.
1. Riêng tu một
pháp “xa ma tha” (tu định)
-Này Thiện nam! Nếu
có Bồ tát giữ tâm rất vắng lặng, nhờ sức vắng lặng này, mà
đoạn các phiền não, được vĩnh viễn thành tựu rốt ráo tánh
Viên giác, thì vị Bồ tát ấy lúc bấy giờ chẳng rời chỗ ngồi
mà vẫn nhập được Niết bàn, Bồ tát tu như thế, gọi là chỉ tu
một pháp “Xa ma tha” (tu chỉ).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
riêng tu một pháp “Chỉ”. Bồ tát giữ gìn tâm trạng rất tinh
tịch, nên phiền não không sanh, đó là tu pháp “Chỉ”. Nhờ thế
mà Bồ tát được rốt ráo thành tựu tánh “Viên giác”, đặng quả
Niết bàn của Chư Phật.
2. Riêng tu một
pháp “Tam ma bát đề” (tu huệ)
-Này Thiện nam! Nếu
có Bồ tát chỉ tu pháp quán “như huyễn”, và nhờ sức Phật gia
hộ, nên Bồ tát ấy biến hóa ra được thế giới, thì mặc dù Bồ
tát làm các diệu dụng độ sanh (tu quán), đầy đủ công hạnh
mầu nhiệm của Bồ tát; nhưng vẫn không mất niệm tịch tịnh
(Ðịnh) và Huệ yên lặng (Huệ) của Ðà La Ni (Viên giác). Bồ
tát tu như thế, gọi là riêng tu một pháp “Tam ma bát đề”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
riêng tu một pháp “Quán”. Bồ tát khi tu pháp quán như huyễn,
và nhờ thần lực của Phật, nên biến hiện thế giới uế độ thành
Tịnh độ, biến địa ngục trở thành Thiên cung, vì các pháp đều
như huyễn như hóa. Tu như thế là tu “Quán”. Bồ tát mặc dù
làm đủ công hạnh lợi tha, mà không rời bản thể thường tịch
(Ðịnh) và thường chiếu (huệ) của tánh viên giác.
Chữ “Ðà la ni” ở
chương này, đồng với chữ “đà la ni” trong chương Văn Thù,
tức là biệt danh của tánh Viên giác, như trong chương Văn
Thù chép: “Có pháp Ðại Ðà La Ni gọi là Viên giác”
3. Riêng tu pháp
“Thiền na” (định, huệ đồng tu)
-Này Thiện nam! Nếu
có Bồ tát chỉ diệt các huyễn, không chấp thủ tác dụng, riêng
đoạn các phiền não, khi phiền não đoạn hết rồi, thì chứng
được thật tướng, Bồ tát tu như thế, gọi là riêng tu pháp
“Thiền na” (chỉ, Quán song tu).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
đồng thời tu các “chỉ” và “quán”. Bồ tát “chỉ diệt các
huyễn”, tức là không dùng “Ta ma bát đề” như đã nói ở trước
(không tu quán như huyễn); “không chấp thủ tác dụng” tức là
không tu “xa ma tha” như dã nói ở trước (không tu chỉ);
“riêng đoạn phiền não” tức là tu “Thiền na” (Chỉ, quán song
tu). Khi đoạn hết phiền não thì Bồ tát chứng đặng thật
tướng, tức là tu “thiền na” mà nhập viên giác tánh.
4. Trước tu
“định” sau tu “huệ”
-Này Thiện nam! Nếu
có Bồ tát trước giữ gìn nơi rất tịnh (chỉ) sau dùng tịnh huệ
(huệ yên tịnh) chiếu soi các pháp như huyễn như hóa, lúc bấy
giờ khởi ra hạnh Bồ tát. Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu
“Xa ma tha” (chỉ) sau tu “Tam ma bát đề” (Quán)
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước tu “Chỉ” sau tu “Quán” - Bồ tát trước giữ tâm rất tịnh
là tu “chỉ”, rồi dùng trí huệ yên tịnh mà chiếu soi các pháp
như huyễn là tu “Quán”. Lúc bấy giờ Bồ tát trên thì cầu đạo
Phật, dưới hóa độ chúng sanh, đó là thực hành Bồ tát hạnh.
5. Trước tu
“định” sau “định,huệ đồng thời tu”
-Này Thiện nam! Nếu
có Bồ tát, dùng, trí huệ yên tịnh, chứng đặng thể tánh rất
tịnh, rồì đoạn các phiền não, vĩnh viễn ra khỏi sanh tử. Bồ
tát tu như thế, gọi là trước tu “xa ma tha” (chỉ) sau tu
“thiền na” (chỉ, quán song tu)
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước tu “Chỉ" sau “chỉ, Quán song tu” - Bồ tát dùng trí huệ
yên tịnh, chứng được tánh rất tịnh là tu “chỉ”, đoạn hết các
phiền não, vĩnh viễn ra khỏi sanh tử luân hồi là “chỉ, quán
song tu”.
6. Trước tu
“Ðịnh”, thứ tu “Huệ, sau “Ðịnh, Huệ song tu”
-Này Thiện nam! Nếu
có bồ tát, dùng trí huệ thanh tịnh, lấy sức huyễn hóa biến
hiện ra các hình thức, để hóa độ chúng sanh; sau đoạn các
phiền não, rồi nhập vào cảnh giới tịch diệt. Bồ tát tu
như thế, gọi là trước tu “xa ma tha” (chỉ) thứ tu “tam ma
bát đề” (quán) sau tu “Thiền na” (Chỉ, quán song tu).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước tu “chỉ”, thứ tu (quán), sau “chỉ, quán song tu”. -Bồ
tát dùng trí huệ thanh tịnh là tu “chỉ”, lấy sức như
huyễn mà biến hiện ra nhiều hình thức để độ chúng sanh là tu
“Quán”. Sau Bồ tát đoạn phiền não rồi vào tịch diệt là “chỉ,
quán song tu”.
7. Trước tu
“Ðịnh” thứ “Ðịnh, Huệ song tu”, sau tu “huệ”
-Này Thiện nam! Nếu
có Bồ tát dùng sức rất tịnh, đoạn các phiền não rồi, sau
khởi cái hạnh thanh tịnh mầu nhiệm của Bồ tát, để độ các
chúng sanh. Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Xa ma tha”,
thứ tu “Thiền na”, sau tu “Tam ma bát đề”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước tu “Chỉ”, thứ “chỉ, quán song tu”, sau tu “Quán” - Bồ
tát trước tu “chỉ” được rất tịnh, rồi tiến tu “Thiền na”
(Chỉ, quán song tu) để đoạn phiền não. Khi phiền não hết rồi
thì Bồ tát vào trần lao độ sanh, đặng diệu hạnh tự tại vô
ngại, không còn lo sợ nhiễm trước.
8. Trước tu
“Ðịnh”, sau đồng thời tu “Huệ” và “Ðịnh, Huệ song tu”
-Này Thiện nam! Nếu
có Bồ tát dùng sức rất tịnh của tâm, đoạn trừ phiền não và
dựng lập thế giới, hóa độ chúng sanh. Bồ tát tu như thế, gọi
là trước tu “Xa ma tha” sau đồng thời tu “Tam ma bát đề” và
“Thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
truớc tu “Chỉ”, sau đồng thời tu “Quán” và “Chỉ, Quán song
tu” - Bồ tát dùng sức rất tịnh là tu “Chỉ”, đoạn trừ các
phiền não là tu “Thiền Na”, dụng lập thế giới và hóa độ
chúng sanh là tu “Quán”
9. TRước đồng
thời tu “Ðịnh” và “Huệ” sau “Ðịnh, Huệ song tu”
-Này Thiện nam!
Nếu có Bồ tát dùng sức rất tịnh, giúp cho việc biến hóa, sau
đoạn các phiền não. Bồ tát tu như thế, gọi là trước đồng
thời tu “Xa ma tha” và “Tam ma bát đề” sau tu “Thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước đồng thời tu “Chỉ” và “Quán” sau “Chỉ, Quán song
tu”. Bồ tát dùng sức rất tịnh là tu “chỉ” giúp việc biến hóa
là tu “Quán”, sau đoạn phiền não là “Chỉ, Quán song tu”.
10. Trước đồng
thời tu “Ðịnh” và “Ðịnh, Huệ song tu” sau tu “huệ”
-Này Thiện nam! Nếu
có bồ tát dùng sức rất tịnh, giúp cho tịch diệt; sau rồi
khởi tác dụng, biến hóa thế giới. Bồ tát tu như thế, gọi là
trước đồng thời tu “xa ma tha” và “Thiền na”, sau tu “Tam ma
bát đề”
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước đồng thời tu “Chỉ” và “Chỉ, Quán song tu”, sau tu
“Quán”. - Bồ tát dùng sức rất tịnh, để đoạn phiền não, mà
vẫn giữ tịch diệt, tức là đồng thời tu “Chỉ” và tu “Thiền
na”. Sau dùng diệu hạnh của bồ tát ra thế giới hóa độ chúng
sanh, tức là tu “Quán”. Từ pháp tu thứ tư, đến pháp tu
thứ mười này cộng 7 pháp đều là trước tu “Chỉ”.
11. Trước tu
“huệ” sau tu “Ðịnh”
-Này Thiện nam! Nếu
có Bồ tát dùng sức biến hóa tùy thuận theo các chúng sanh để
hóa độ, mà vẫn giữ tánh rất tịnh Bồ tát tu như thế, gọi là
trước tu “Tam ma bát đề”, sau tu “Xa ma tha”
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước tu “Quán”. Sau tu “Chỉ”. – Bồ tát dùng sức biến hóa,
tùy thuận theo các chúng sanh để hóa độ là tu “Quán”, mà vẫn
giữ tánh rất tịnh là tu “chỉ”.
12. Trước tu
“huệ” sau “Ðịnh, Huệ song tu”
-Này Thiện nam! Nếu
có bồ tát, dùng sức biến hóa, hoá hiện ra các cảnh giới mà
vẫn giữ tịch diệt (vắng lặng). Bồ tát tu như thế gọi là
trước tu “Tam ma bát đề” sau tu “thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
tu trước “Quán” sau “Chỉ, quán song tu”. - Bồ tát dùng sức
biến hóa là tu “Quán”, biến ra các cảnh giới, để hóa độ
chúng sanh mà vẫn giữ tịch diệt, thế là “Chỉ, Quán song tu”.
13. Trước tu
“Huệ” thứ tu “Ðịnh” sau “Ðịnh, Huệ song tu”
-Này Thiện nam! Nếu
có bồ tát dùng sức biến hóa, làm các Phật sự mà vẫn ở yên
nơi tịch tịnh, đoạn các phiền não, Bồ tát tu như thế, gọi là
trước tu “Tam ma bát đề” thứ tu “Xa ma tha” sau tu “thiền
na”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước tu “Quán” thứ tu “chỉ”, sau “chỉ, quán song tu”. - Bồ
tát dùng sức biến hóa làm các Phật sự là tu “Quán”, yên ở
chỗ vắng lặng là tu “chỉ”, đoạn phiền não là “Chỉ quán song
tu”
14. Trước tu
“huệ” thứ “Ðịnh, Huệ đồng thời tu” sau tu “Ðịnh”
-Này Thiện nam! Nếu
có bồ tát dùng sức biến hóa, làm các việc không ngại, đoạn
các phiền não và an trụ nơi rất tịnh. Bồ tát tu như thế gọi
là trước tu “Tam ma bát đề” thứ tu “Thiền na”, sau tu “Xa ma
tha “
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước tu “Quán”, thứ “chỉ, quán song tu”, sau tu “Chỉ”. - Bồ
tát dùng sức biến hóa làm các việc vô ngại là tu “Quán”,
đoạn các phiền não là “Chỉ, Quán song tu”, an trụ nơi rất
tịnh là tu “Chỉ”.
15. Trước tu
“Huệ” sau đồng thời tu “định” và “định, huệ song tu”
-Này Thiện nam! Nếu
có bồ tát dùng sức biến hóa làm các phương tiện và tùy thuận
hai pháp: rất tịnh (chỉ) và tịch diệt (thiền na). Bồ tát tu
như thế, gọi là trước tu “Tam ma bát đề” sau đồng thời tu
“Xa ma tha” và “Thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước tu “Quán”, sau đồng thời tu “chỉ” và “chỉ, quán song
tu”. - Bồ tát dùng sức biến hóa làm các phương tiện là tu
“Quán”, tùy thuận tánh rất tịnh là tu “chỉ”, và tùy thuận
tịch diệt là “Chỉ, quán song tu”.
16. Trước đồng
thời tu “huệ” và “Ðịnh” sau tu “Thiền na” (định, huệ song
tu)
-Này thiện nam! Nếu
có bồ tát dùng sức biến hóa, khởi ra các công dụng, giúp cho
tánh rất tịnh, sau đoạn các phiền não. Bồ tát tu như thế,
gọi là trước đồng thời tu “Tam ma bát đề” và “Xa ma tha”,
sau tu “Thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước đồng thời tu “Quán” và “chỉ”, sau “chỉ, Quán song tu”.
– Bồ tát dùng sức biến hóa, khởi ra các công dụng là tu
“Quán”, giúp cho tánh rất tịnh là tu “chỉ”, sau đoạn các
phiền não là “chỉ, quán song tu”.
17. Trước đồng
thời tu “Huệ” và “Ðịnh, Huệ song tu”, sau tu “Ðịnh”.
-Này Thiện nam! Nếu
có bồ tát dùng sức biến hóa, giúp với tịch diệt, sau an trụ
nơi tánh định thanh tịnh, không do tạo tác. Bồ tát tu như
thế, gọi là trước đồng thời tu “Tam ma bát đề” và “thiền
na”, sau tu “xa ma tha”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước đồng thời tu “Quán” và “chỉ, quán song tu”, sau tu
“chỉ”. - Bồ tát dùng sức biến hóa là tu “Quán”, giúp với
tịch diện là “Chỉ, quán song tu”, sau an trụ nơi tánh định
thanh tịnh sẵn có, không do tạo tác, là tu “chỉ”.
Câu “Tánh định thanh
tịnh không do tạo tác” là chỉ cho “tu tánh chơn định” sẵn có
và thanh tịnh, không do tạo tác mà thành, cũng không phải
dụng công tu tập mà được, xưa nay nó vẫn thanh tịnh.
18. Trước “Ðịnh,
Huệ song tu” sau tu “định”
-Này thiện nam! Nếu
có Bồ tát dùng sức tịch diệt (vắng lặng) khởi hạnh rất ịnh,
rồi an trụ nơi thanh tịnh. Bồ tát tu như thế, gọi là trước
tu “Thiền na”, sau tu “Xa ma tha”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước tu “Chỉ, quán song tu” sau tu “chỉ”. - Bồ tát dùng sức
tịch diệt, khởi tánh rất ịnh là “chỉ quán song tu” rồi an
trụ nơi thanh tịnh là tu “chỉ”.
19. Trước “Ðịnh,
Huệ song tu” sau tu “huệ”.
-Này Thiện nam! Nếu
có Bồ tát dùng sức tịch diệt, khởi ra tác dụng, tuy đối các
cảnh, mà vẫn tùy thuận nơi tịch tịnh. Bồ tát tu như thế, gọi
là trước tu “Thiền na”, sau tu “Tam ma bát đề”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước “Chỉ quán song tu”, sau tu “Quán”. - Bồ tát dùng sức
tịch diệt khởi ra tác dụng độ sanh là “Chỉ, quán song
tu”. Mặc dù Bồ tát làm các hạnh lợi sanh mà vẫn tùy thuận
nơi tịch tịnh là tu “Quán”.
20. Trước “Ðịnh,
Huệ song tu” thứ tu “Ðịnh” sau tu “huệ”
-Này Thiện nam! Nếu
có bồ tát dùng sức tịch diệt, quán tự tánh các chúng sanh,
an trụ nơi Ðịnh, mà vẫn biến hóa các pháp để độ sanh. Bồ tát
tu như thế, gọi là trước tu “Thiền na”, thứ tu “Xa ma tha”
sau tu “tam ma bát đề”
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước “Chỉ, quán song tu”, thứ tu “chỉ”, sau tu “Quán” - Bồ
tát dùng sức tịch diệt, quán tự tánh các chúng sanh để hóa
độ, là “chỉ, quán song tu”; an trụ nơi Ðịnh là tu “chỉ”,
biến hóa các pháp để độ sanh là tu “Quán”.
21. Trước “Ðịnh,
Huệ song tu” thứ tu “Huệ”, sau tu “Ðịnh”
-Này thiện nam! Nếu
có Bồ tát dùng sức tịch diệt của tự tánh vô tác, để khởi ra
tác dụng độ sanh, rồi y nơi cảnh giới thanh tịnh mà trở về
nơi Ðịnh. Bồ tát tu như thế, thì gọi là trước tu “Thiền na”,
thứ tu “Tam ma bát đề”, sau tu “Xa ma tha”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước “Chỉ, Quán song tu” thứ tu “Quán” sau tu “chỉ”. - Bồ
tát dùng sức tịch diệt của tự tánh vô tác, để khởi ra tác
dụng độ sanh, là “chỉ, quán song tu”. Bồ tát y nơi cảnh giới
thanh tịnh là tu “Quán”, sau trở về nơi Ðịnh là tu “chỉ”.
Chữ “Tự tánh vô
tác”, nghĩa là: tự tánh sẵn có không do tạo tác mà thành.
22. Trước tu
“thiền na” (Ðịnh, huệ song tu) sau đồng thời tu “Ðịnh và
huệ”
-Này Thiện nam! Nếu
có bồ tát dùng sức tịch diệt, mỗì mỗi thanh tịnh, an trụ ở
nơi Ðịnh, mà khởi ra các món biến hóa. Bồ tát tu như thế,
gọi là trước tu “Thiền na”, đồng thời tu “Xa ma tha” và “Tam
ma bát đề”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước “Chỉ, Quán song tu” sau đồng thời tu “Chỉ” và “quán”.
- Bồ tát dùng sức tịch diệt, mỗi mỗi thanh tịnh là “Chỉ,
Quán song tu” an trụ ở nơi định là tu “chỉ” khởi ra các món
biến hóa là tu “Quán”.
23. Trước đồng
thời tu “thiền na” và tu “Ðịnh” sau tu “huệ”
-Này thiện nam! Nếu
có bồ tát dùng sức tịch diệt, giúp cho tánh rất tịnh, sau
khởi ra việc biến hóa. Bồ tát tu như thế, gọi là đồng thời
tu “Thiền na” và “Xa ma tha” sau tu “Tam ma bát đề”
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước đồng thời “Chỉ, Quán song tu” và tu “Chỉ” sau tu
“Quán”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt là “Chỉ, quán song tu”,
giúp cho tánh tất tịnh là tu “Chỉ”, khởi ra các việc biến
hóa là tu “Quán”
24. Trước đồng
thời tu “thiền na” và “huệ”, sau tu “Ðịnh”
-Này Thiện nam! Nếu
có bồ tát dùng sức tịch diệt giúp việc biến hóa, sau khởi
tánh rất tịnh, ở cảnh giới trí huệ trong sáng. Bồ tát như
thế, gọi là đồng thời tu “Thiền na” và “Tam ma bát đề” sau
tu “Xa ma tha”
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
trước đồng thời “chỉ, quán song tu” và tu “Quán”, sau tu
“chỉ”. – Bồ tát dùng sức tịch diệt là “chỉ, quán song tu”,
giúp việc biến hóa là tu “Quán”, sau khởi tánh rất tịnh
v.v.. là tu “chỉ”.
25. Bồ tát viên
tu ba pháp
-Này thiện nam! Nếu
có bồ tát dùng huệ Viên giác, viên hiệp các pháp, nào tánh,
tướng của các pháp đều không rời tánh Viên giác, bồ tát như
t hế, gọi là viên tu ba pháp, tùy thuận tánh viên giác thanh
tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát
viên tu ba pháp
Bồ tát cùng Viên
giác huệ, viên hiệp tất cả các pháp. Nào Ðịnh, Huệ và Ðịnh
Huệ song tu, nào tánh, tướng của các pháp đều không rời tánh
Viên giác.
4. Tóm lại
-Này thiện nam! Ðây
là 25 pháp tu của Bồ tát. Vậy các bồ tát phải y theo đây mà
tu hành
Nếu các bồ tát hiện
tại và chúng sanh đời sau, muốn y theo 25 pháp môn này mà tu
hành , thì phải giữ giới thanh tịnh, tâm suy nghĩ vắng lặng
và phải trải qua 21 ngày thành tâm sám hối, rồi viết 25 pháp
môn này vào mỗi miếng giấy, niêm lại kỹ, đem để trên bàn
Phật và chí tâm cầu khẩn, rồi tùy tay hành giả rút một miếng
giấy, khi mở ra xem thì hành giả sẽ biết trình độ của mình
tu pháp Ðốn hay Tiệm. Song nếu hành giả một niệm nghi ngờ,
thì chẳng thành tựu.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật kết
thúc lại và dạy rằng: Ðây là 25 pháp tu của Bồ tát. Nếu có
người muốn tu theo 25 pháp này, thì điều cần yếu là phải giữ
giới cho thân tâm được thanh tịnh và chí thành cầu sám hối
21 ngày. Rồi hành giả viết tên 25 pháp tu này vào 25 miếng
giáy, xếp gói riêng từ miếng, để chung lại trên bàn. Hành
giả phải chí thành cầu nguyện, rồi tùy ý rút ra một thăm,
sau khi giở ra xem, hành giả sẽ tự biết căn cơ của mình Ðốn
hay Tiệm và phải y theo đó mà tu hành. Nếu hành giả có một
niệm nghi ngờ thì chẳng thành tựu.
Tóm lại, 25 pháp tu
này không ngoài Định, Huệ và Ðịnh Huệ song tu; chẳng qua tùy
theo trình độ của hành giả có sâu cạn, cao thấp không đồng,
nên có khi phải tu Ðịnh trước rồi Quán sau; có khi phải tu
Quán trước rồi Ðịnh sau; lắm lúc phải tu đồng thời v.v.. Vì
tùy theo trình độ của hành giả, mà thay đổi trước sau, xoay
qua trở lại nên thành ra 25 pháp. Vậy hành giả nên tùy theo
trình độ của mình mà tu tập
5. Phật nói bài
kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi đó Ðức Thế Tôn
muốn tóm lại nghĩa này, nên nói bài kệ rằng:
Biện Âm! ông
nên biết:
Các trí huệ
thanh tịnh
Của tất cả Bồ tát
Ðều do Thiền định
sanh
Thiền định là “Chỉ,
Quán”
Và “Chỉ, Quán song
tu”
Ba pháp, phân Ðốn,
Tiệm
Thành ra hai mươi
lăm
Mười phương các Như
Lai
Và hành giả ba đời
Ðều y pháp môn này
Mà đặng thành Bồ đề
Chỉ trừ người đốn
ngộ
Và những người không
tin
Mới chẳng theo pháp
này
Còn tất cả bồ tát
Và chúng sanh đời
sau
Phải như thế tu hành
Nhờ Ðại bi của Phật
Các ông siêng tu
Sẽ mau chứng niết
bàn.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này
nói: Trí huệ thanh tịnh vô ngại của các bồ tát đều do Thiền
định sanh. Thiền định là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song
tu. Bởi theo căn cơ của hành giả có đốn và Tiệm không đồng,
nên ba pháp này lại chia ra đến 25 pháp.
Chỉ trừ những bực
đốn ngộ và những người không tin, còn chư Phật và các vị Bồ
tát cùng chúng sanh đời sau đều tu theo các pháp môn này mà
được thành Bồ Ðề.
Vậy hành giả nên y
theo đây, siêng năng tu tập và nhờ lòng Ðại bi của Phật gia
hộ, sẽ mau chứng Niết Bàn.
1. Ngài Tịnh Chư
Nghiệp Chướng bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát
3. Phật trả lời: Do chúng sanh vọng chấp 4 tướng
4. Ðem vô minh cầu Ðạo, không thể thành Ðạo được
5. Phật nói bốn tướng
6. Vì không rời được bốn tướng nên tu chẳng thành Phật
7. Thương, Ghét là gốc của sanh tử luân hồi
8. Phật chỉ ngã tướng núp ẩn trong tàng thức
9. Không thấy người hủy nhục, không thấy mình thuyết pháp độ
sanh, lúc bấy giờ ngã tướng không còn.
10. Vì còn ngã tướng nên không nhập được Viên Giác
11. Phật dạy phương pháp nhập Viên giác
12. Phật nói bài kệ tóm tắt lại các nghĩa trên
IX. CHƯƠNG TỊNH
CHƯ NGHIỆP CHƯỚNG
1.Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ
tát hỏi Phật
Khi ấy ngài Tịnh Chư
Nghiệp Chướng bồ tát(1) ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh
bên hữu của Phật ba vòng, rồi lạy Phật và qùy thẳng chắp
tay, bạch rằng:
-Bạch đức Ðại bi Thế
Tôn, Ngài đã vì chúng con rộng nói “nhơn địa tu hành"(2) của
các đức như Lai, toàn những việc cao siêu mầu nhiệm, không
thể suy nghĩ và luận bàn được, khiến cho đại chúng đặng lợi
ích chưa từng có.
Chúng con là hàng Bồ
tát rất vui mừng, vì tất cả cảnh giới tu hành cần khổ của
đức Ðiều Ngự(3) trải qua vô số kiếp, nhiều như cát sông
Hằng, mà chúng con chỉ thấy như trong một niệm
-Bạch đức Thế Tôn,
nếu cái tâm Viên giác này tánh nó vốn thanh tịnh, vậy nhơn
cái gì mà nhiễm ô và vì sao khiến cho chúng sanh mê muội,
chẳng nhập được tánh Viên giác?
Cúi xin đức Như Lai,
rộng vì chúng con, khai ngộ Pháp tánh(4) , làm cho đại chúng
hiện tại và chúng sanh đời sau, đều được con mắt trí huệ.
Ngài Tịnh Chư Nghiệp
Chướng bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, cúi đầu kính lạy
rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Ngài
Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát hỏi Phật: “.. tánh Viên giác
đã thanh tịnh, vậy nhơn cái gì mà nhiễm ô? Và vì sao làm cho
chúng sanh mê muội không nhập được tánh Viên giác...”. Ðoạn
này giống như trong kinh Lăng Nghiêm, Ông Phú Lâu Na hỏi
Phật: “Tất cả chúng sanh vì sao có vọng, tự che lấy chơn tâm
mà phải chịu trầm luân?...”
_________
(1) Câu “Tịnh Chư
Nghiệp Chướng bồ tát” Cổ đức dạy: “Phật cao nhứt xích, ma
thắng nhứt trượng”, nghĩa là Phật cao 1 thước thì ma hơn 10
thước. Khi chưa tu, vì thuận theo phiền não nghiệp chướng,
nên chẳng thấy phiền não nghiệp chướng làm chướng ngại. Ðến
khi hạ thủ công phu, đi ngược dòng phiền não, lúc bấy giờ
mới thấy phiền não nghiệp chướng các bịnh hiện ra vô số. Các
phiền não nghiệp chướng này do bốn tướng Ngã, Nhơn, Chúng
sanh và Thọ giả mà sanh ra. Vì thế nên chương này, Ngài Tịnh
Chư Nghiệp Chướng bồ tát đứng lên thưa hỏi, cầu Phật chỉ dạy
phương pháp dẹp trừ các nghiệp chướng về Tâm bệnh. Ðến
chương dưới Phật sẽ nói rõ về bệnh tà sư.
(2) Nhơn địa tu hành
tức là ba pháp môn Phật dạy ở chương trên (xa ma tha, Tam ma
bát đề và Thiền na). Nhơn nghe thấy Phật dạy pháp môn tu,
cũng như thấy tất cả công dụng tu hành của các đức Phật trải
qua bao nhiêu kiếp lao khổ, như trong một niệm, cho nên nói
là “việc không thể nghĩ bàn”
(3) Ðiều ngự: Ðiều
phục ngự trị các phiền não ma quân. Ðây là một hiệu trong 10
hiệu của Phật (Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, v.v..)
(4) Pháp tánh: Tánh
các pháp. Các pháp tuy ngàn sai muôn khác, nhưng đồng
một bản tánh nên gọi là “pháp tánh”, tức là biệt danh của
Viên giác.
******
2. Phật khen Ngài
Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát
Khi ấy đức Thế Tôn
bảo ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát mà dạy rằng:
-Này Thiện nam, hay
lắm và quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh
đời sau, thưa hỏi Như Lai, phương tiện như vậy. Các ông nên
chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ giáo.
Khi ấy Ngài Tịnh
Chưa Nghiệp Chướng bồ tát cùng đại chúng đều hoan hỷ và yên
lặng vâng nghe lời Phật chỉ dạy
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật khen
ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát, vì đại chúng hiện tại và
chúng sanh đời sau, thưa hỏi những lời rất hữu ích.
***
3. Phật trả lời:
Do chúng sanh vọng chấp bốn tướng
-Này Thiện nam! Tất
cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, do vọng tưởng điên đảo,
chắp bốn tướng: Ngã, Nhơn, Chúng sanh và Thọ mạng, cho là
thật thể của ta; rồi sanh ra hai cảnh: thương và ghét. Thế
là ở nơi thân thể này đả hư vọng, lại chấp thêm cái hư vọng
nữa.
Bởi hai lớp vọng
nương nhau, sanh ra các vọng nghiệp. Vì có vọng nghiệp nên
vọng thấy có sanh tử luân hồi. Những người nhàm chán sanh tử
luân hồi thì lại vọng thấy có Niết bàn.
Bởi thế nên không
thể nhập được Viên giác thanh tịnh; chớ không phải tánh Viên
giác này chống cản không cho chúng sanh nhập. Và những người
nhập được, cũng không phải tại tánh Viên giác chấp thuận hay
cho họ nhập vậy. Thế nên kẻ khởi niệm hay người dứt niệm
cũng đều là mê muội. Tại sao thế? - Bởi vì vô minh đã khởi
sẵn (bổn khởi vô minh) và làm chủ tể từ vô thỉ vậy.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn thứ nhứt, Ngài
Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát hỏi Phậ: “... Cái tâm viên
giác này vốn đã thanh tịnh, vậy nhơn cái gì mà nhiễm ô? Và
vì sao khiến cho chúng ta sanh mê muội chẳng nhập được viên
giác?..”
Ðến đoạn này Phật
trà lời, đại ý nói: Bởi tất cả chúng sanh từ hồi nào đến
giờ, do vọng tưởng điên đảo, chấp bốn tướng (Ngã, Nhơn,
Chúng sanh, Thọ mạng) là thật thể của Ta, là lớp hư vọng thứ
nhứt. Rồi khi gặp cảnh thuận với ta thời thương, cảnh nghịch
với Ta lại ghét, là lớp hư vọng thứ hai. Vì thế mà nhiễm
ô. Ðây là Phật trả lời về câu hỏi thứ nhứt: Nhơn gì mà nhiễm
ô?
Nhơn cố chấp thật có
Ta, cho nên mới sanh ra thương ghét, vì thương ghét nên trở
lại chấp thật có Ta. Bởi hai lớp vọng này nương nhau, nên
sanh ra các vọng nghiệp. Vì thế mà chúng phàm phu vọng thấy
có sanh tử luân hồi trong 6 đạo. Hàng Tiểu thừa nhằm chán
sanh tử luân hồi thì lại vọng thấy có Niết bàn; rồi trầm
không thú tịch tham luyến nơi cảnh Niết bàn. Bởi thế
nên không nhập được tánh viên giác thanh tịnh, chớ chẳng
phải tánh Viên giác không cho họ nhập vậy. Ðây là Phật trả
lời câu hỏi thứ hai: Vì sao khhiến cho chúng sanh mê muội,
chẳng nhập được Viên Giác?
Phật lại dạy tiếp:
Những người nhập được, cũng không phải do tánh Viên giác
chấp thuận cho họ nhập. Bởi thế nên chúng phàm phu khởi
niệm, hay hàng Nhị thừa dứt niệm, đều là vô minh mê muội cả,
chớ không dính líu gì đến tánh Viên giác vậy.
******
4. Ðem vô minh
(ngã, tướng v.v...) mà cầu đạo, thì không thể thành đạo được
-Này Thiện nam! Tất
cả chúng sanh, sống không có con mắt trí huệ, nên không tự
thấy cả thân tâm này (ngã tướng) đều là vô minh. Vì ngã
tướng (thân tâm) do vô minh sanh, nên chúng sanh không đủ
can đảm tự tiêu diệt ngã tướng, cũng như người không thể tự
sát lấy mình được.
Bởi chấp thân này là
Ta, nên cảnh nào thuận với ta thì sanh ra thương yêu; còn
cảnh nào nghịch với Ta thì lại sanh ra oán ghét. Do tâm
thương ghét này, trở lại tiếp tục nuôi dưỡng vô minh. Vì thế
nên chúng sanh cầu Ðạo, đều không thành được Ðạo
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật
dạy rằng: Tất cả thân tâm của chúng sanh đều do vô minh
sanh; song vì chúng sanh (ngã tướng) đã từ vô minh sanh, nên
không đủ can đảm tiêu diệt vô minh (ngã tướng) của
mình. Cũng như người không thể tự sát mình được.
Vô minh đã sanh ra
ngã tướng, rồi từ ngá tướng sanh ra thương ghét, rồi trở lại
làm tăng thế lực cho nước. Bởi vô minh huân tập và tu dưỡng
lẫn nhau, tiếp nối không ngừng, nên chúng sanh dầu có cần
khổ tu đạo mà bốn tướng (Ngã, Nhơn, v.v..) không rời, thì
quyết định chẳng thành Ðạo.
Giống như trong Kinh
Lăng Nghiêm, Phật dạy: “... Nếu dùng gốc rễ của vọng tâm làm
tu nhơn, thì không thể nào thành được Ðạo). Ðem tâm đời mà
làm Ðạo, thì Ðạo cũng trở thành đời!
Trong kinh Viên giác
lược sớ chép: “Dùng tâm mê muội (Vô minh) mà cầu đạo, dầu
cho siêng năng khổ hạnh tu đủ các pháp môn, cũng chỉ giúp
thêm lực lượng cho vô minh mà thôi, chớ không thành được quả
vị Phật.
Phải biết: Gốc từ vô
minh sanh ra thương ghét, rồi do thương ghét trở lại huân
tập thành vô minh. Từ chủng tử sanh hiện hành, rồi hiện hành
huân làm chủng tử nối nhau không dứt. Chúng sanh đem
cái vô minh này mà cầu Ðạo thì trọn đời không thể thành tựu.
Kinh Bảo Tích
chép: Ðối với thân này, sanh yêu quý, thế là không rời tướng
Ngã, Nhơn; dùng cái tướng Ngã, Nhơn này mà tu hành thì trở
lại đọa ác thú.
****
5. Phật nói bốn
tướng:
A. NGÃ
TƯỚNG
-Này Thiện nam! Thế
nào là “Ngã tướng”? - Tất cả chúng sanh tự tâm chứng nhận
biết có Ta (ngã tướng) vậy. Thí như có người thân thể điều
hòa không có chút gì trái ý, tợ hồ như quên mình (lúc ấy
không thấy ngã tướng hiện). Ðến khi điều dưỡng bị thất
thường, thân thể mất thăng bằng, hoặc gặp phải những cảnh
trái nghịch, như gai đâm hay lửa đốt v.v... lúc bấy giờ mới
thấy cái Ta (ngã tướng) hiện ra rất rõ rệt. Vì thế mà chứng
biết có cái Ta.
-Này Thiện nam! Sâu
thêm một từng nữa, cái Ngã tướng có phần vi tế hơn trước, là
người tu hành, trong lúc thấy minh có chứng quả, có đắc
đạo. Cho đến khi chứng quả Như Lai, hay đặng Niết bàn thanh
tịnh của Phật, mà nếu còn cái tâm biết mình có chứng và có
đặng, như thế cũng đều còn “Ngã tướng”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật chỉ rõ
cái Ngã tướng (ta) có thô và tế.
1. Trong lúc bình
thường thì cái Ta hiện ra không rõ rệt, đến khi nghịch cảnh,
bị người đánh đập hoặc hủy nhục v.v.. lúc bấy giờ cái Ngã
tướng hiện ra mới rõ ràng. Ðâylà cái Ngã tướng thô.
2. Người tu hành,
một mình ở trong núi sâu rừng thẳm, không gặp các cảnh thuận
nghịch, tâm không phân biệt mình với người, lúc bấy giờ
tưởng mình đã chứng được “vô ngã” rồi. Ðến khi gặp
cảnh buồn vui thử thách, tâm mừng giận nổi lên, lúc bấy giờ
Ngã tướng hiện ra y nguyên. Cho đến lúc tự thấy mình đắc Ðạo
hay chứng Niết bàn tịch tịnh của Như Lai cũng đều còn NGã
tướng, song có phần vi tế hơn trước. Bởi vì còn biết có Niết
bàn hay quả Phật sở chứng (được chứng), tất nhiên phải có
cái Ta “năng chứng”. Nếu năng chứng và sở chứng chưa hết
(bỉ, thử chưa trừ) tức là còn Ngã tướng.
B. NHƠN
TƯỚNG
-Này thiện nam! Thế
nào là Nhơn tướng? -Tất cả chúng sanh, tự tâm hiểu ngộ Ta
đây là người vậy (nhơn tướng), nghĩa là hiểu ngộ ta là người
và các ngươi cũng là người (nhơn tướng). Nói rộng ra, hiểu
ngộ ngoài Ta (ngã) thì tất cả đều là người vậy.
-Này thiện nam! Ði
sâu vào một từng nữa, cái “nhơn tướng” có phần vi tế hơn, là
cái tâm này, cho đến hiểu ngộ rắng: “còn biết mình viên ngộ
Niết bàn”, cũng đều còn Ngã tướng; nghĩa là ở nơi tâm, nếu
còn một chút ngộ rắng : “Chứng lý đầy đủ”, thì đều gọi là
“Nhơn tướng”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật chỉ rõ
cái “nhơn tướng” có thô và tế.
1. Chúng sanh
tự công nhận mình là người (nhơn) và các người cũng là người
(nhơn). Nói rộng ra, ngoài mình (Ta) thì tất cả kẻ khác đều
là người (nhơn). Ðây là cái nhơn tướng thô thiển
2. Ði sâu vào
một từng nữa, cái Nhơn tướng có phần vi tế hơn, là cái “tâm
hiểu biết” này, cho đến nếu còn hiểu biết: “mình có viên ngộ
Niết bàn”, cũng còn Ngã tướng. Nghĩa là: hễ còn có một chút
hiểu biết, thế là còn “nhơn tướng”. Cái nhơn tướng này
rất là vi tế.
Tóm lại, nếu còn có
một chút hiểu ngộ rằng: “Mình viên ngộ Niết bàn”, thế là cái
“hiểu ngộ” và có cái “mình viên ngộ” khác nhau. Vậy thời
ngoài mình (mình viên ngộ) còn có Nhơn tướng (cái hiểu ngộ)
vậy.
Nói lại cho dễ hiểu:
còn có Ta viên ngộ Niết bàn, tức là Ngã tướng, cái “biết ta
viên ngộ” đó là nhơn tướng.
C. CHÚNG
SANH TƯỚNG
-Này thiện nam! Thế
nào là chúng sanh tướng? - Tất cả chúng sanh ở nơi tự tâm
không còn chấp mình là Ngã và Nhơn mà lại chấp là chúng
sanh. Tỷ như có người nói như thế này: “Tôi đây là chúng
sanh”. Bởi thế nên biết: Người kia nói “Tôi là chúng sanh”
thì biết không phải Ngã và Nhơn.
-Này thiện
nam! Những chúng sanh rõ biết hai món tướng trước (sở chứng,
sở ngộ) là thuộc về Ngã và Nhơn, nay không còn chấp Ngã,
Nhơn nữa; nhưng còn cái “tâm rõ biết”, đó là chúng sanh
tướng.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật nói
chúng sanh tướng có hai phần thô và tế.
1. Không còn
chấp ta đây là Ngã hay Nhơn mà lại chấp là chúng sanh. Như
thế là chấp về phần thô.
2. Rõ biết hai
tướng Ngã và Nhơn là phi, nên không còn chấp; thế là đã cao
hơn trước một từng, nhưng còn cái “rõ biết hai tướng Ngã,
Nhơn là phi”. Ðó cũng là cái vi tế Ngã tướng còn ẩn phục bên
trong, gọi là chúng sanh tướng.
D. THỌ MẠNG
TƯỚNG
-Này thiện nam! Thế
nào là thọ mạng tướng? – Các chúng sanh tâm chiếu soi (phân
biệt) đã thanh tịnh. Nhưng còn cái trí giác ngộ tưởng chúng
sanh trước (giác sở liễu giả). Bởi còn có cái “trí giác
ngộ”, tương tục tu tập các nghiệp vô lậu, chưa có thể tự trừ
đưọc; cũng như mạng căn tương tục, không tự đoạn được, nên
gọi là “thọ mạng tướng”.
-Này thiện nam! Nếu
còn tâm soi thấy (biết) tất cả cái giác (biết) trước (3
tướng trên) đó thì cũng còn ở trong vòng trần cấu (tâm chưa
trong sạch). Bởi còn năng giác và sở giác nên chưa rời trần
cấu vậy.
Cũng như nước nóng
làm tiêu băng, thì toàn băng là nước, lúc bấy giờ không còn
nước nóng năng tiêu và băng bị tiêu nữa. Nếu còn chút
nước nóng và băng, thế là nước chưa thuần nhứt. Cũng thế,
nếu còn cái Ta để giác ngộ cái Ta trước, thì chưa rời được
bốn tướng.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này
nói: Người tu hành khi phá trừ được Ngã, Nhơn, chúng sanh ba
tướng trên rồi, tâm đã được thanh tịnh, nhưng còn cái trí
tiếp tục tu vô lậu nghiệp, để phá trừ tướng trên. Vì cái trí
này còn tiếp tục trong một thời gian chưa có thể tự trừ
được. Cũng như mạng sống của người, sống tiếp tục trong một
thời gian, không thể tự đoạn được, nên gọi là “thọ mạng
tướng”.
Phật dạy thêm, đại
ý: Nếu còn tâm phân biệt để phá trừ các tướng ( Ngã, Nhơn,
Chúng sanh, thọ mạng) thế là còn vọng vì năng, sợ, bỉ,
thử đối đãi nhau, nên tâm chưa trong sạch. Bởi còn
vọng là còn nhiễm ô, vì thế nên gọi là trần cấu. Nghĩa là:
nếu còn một chút biết rằng: “Ta trừ Ngã”, thế là còn mắc
trong bốn tướng, chưa thoát ly được vọng – Cũng như nước
nóng làm tiêu băng, khi băng “tiêu rồi thì “nóng” cũng không
chỉ còn nước.
Ngài Tôn Mật giải:
Nước là dụ cho “chơn tâm” băng là dụ cho “bốn tướng”. Nước
nóng là dụ cho “trí huệ”. Nước vì lạnh mà đóng thành “băng”;
cũng như Tâm vì mê nên thành “bốn tướng’. Dùng nước nóng làm
tiêu băng, cũng như dùng trí huệ làm tiêu bốn tướng. Khi
băng tiêu rồi thì nóng (nước nóng) cũng không chỉ còn một
tánh nước mà thôi. Cũng như ngã tướng hết, thì trí phá Ngã
cũng không chỉ còn một thể tánh chơn tâm.
Tóm lại, tướng “thọ
mạng” cũng là tướng Ngã rất vi tế đó thôi. Chúng sanh trước
phân biệt chấp Ta, tức là Ngã tưóng. Khi phá được Ngã tướng,
nhưng còn cái “trí biết mình phá Ngã” là nhơn tướng. Khi phá
được Nhơn tướng, nhưng còn cái “trí biết mình đã phá nhơn
tướng” gọi là chúng sanh tướng. Khi phá được chúng sanh
tướng, nhưng vẫn còn cái “trí biết mình đã phá chúng sanh
tướng”. Cái trí đó vẫn tiếp tục tu các nghiệp vô lậu, chưa
có thể tự đoạn được, cũng như mạng căn tương tục sống trong
một thời gian và không thể tự đoạn được, nên gọi là “thọ
mạng tướng”.
Vậy thì bốn tướng
trên, cũng là một ngã tướng, chẳng qua từ thô vào tế, từ
thiển đến thâm mà thôi. Theo trong văn Kinh chữ Hán, dùng
bốn chữ riêng biệt, chỉ rõ bốn tướng có thô và tế khác nhau.
1. Chứng là
ngã tướng
2. Ngộ là nhơn
tướng
3. Liễu là
chúng sanh tướng
4. Giác là thọ
mạng tướng
******
6. Vì không rời
được bốn tướng, nên tu chẳng thành Phật
-Này thiện nam! Các
chúng sanh đời sau, bởi không rời được bốn tướng, nên tuy
trải qua nhiều kiếp, siêng năng tu hành khổ hạnh, nhưng chỉ
thành hữu vi mà thôi, chớ không thể chứng được Thánh quả.
LƯỢC GIẢI
Trong kinh Lăng
nghiêm Phật đã cặn kẽ căn dặn: “Nếu các ông nhận lầm căn bản
của sanh tử là vọng tâm làm nhơn địa tu hành, thì không bao
giờ thành quả vị Phật. Cũng như người nấu cát làm cơm, dầu
trải qua bao nhiêu kiếp cũng chẳng thành cơm được, vì nó gốc
là cát”
Giống với đoạn kinh
này, Phật dạy đại ý: Người mang tâm nhơn, ngã v.v... thuộc
về hữu vi hữu lậu của chúng sanh, mà muốn cầu quả vô
vi vô lậu của Phật, dầu cho cực khổ tu hành, trải qua nhiều
kiếp cũng không thể được, vì gốc nó là Ngã tướng, là chúng
sanh và hữu lậu vậy.
******
-Tại sao thế?
Bởi nhân các ngã tướng: có chứng có ngộ, cho là thành tực
quá Niết bàn. Chẳng khác nào người nhận giặc làm con,
nó sẽ phá tan gia tài quý báu vậy.
LƯỢC GIẢI
Ngài Như Sơn giải
rằng: Tại sao siêng năng tu hành trải lâu nhiều kiếp, mà
không chứng được thánh quả? - Bởi vì lầm nhận ngã tướng làm
Niết bàn vậy. Cũng như lầm nhận giặc làm con, đã không được
nhờ, trái lại còn bị nó phá hại chẳng ít.
Trên văn kinh, chữ
“các ngã tướng” tức chỉ cho bốn tướng: Ngã, Nhơn, Chúng sanh
và Thọ mạng.
Trên văn kinh, chữ
“có chứng có ngộ”; nghĩa là biết mình có chứng quả Phật, có
ngộ Ðạo, thế là chưa rời NGã tướng. Bởi hành giả đem “ngã
tướng” này, cho là đặng thánh quả, nên nói “nhận giặc làm
con vậy”.
******
7. Thương (tham)
ghét (sân) là gốc của sanh tử luân hồi
-Này thiện nam! Nếu
hành giả còn ưa (thương) Niết bàn (pháp ái) tức là còn Ngã
tướng (ta ưa); chẳng qua cái Ngã tướng ấy bị ẩn phục, rồi
lầm cho đó là tướng Niết Bàn.
Còn ghét sanh tử,
tức là còn Ngã tướng (ta ghét). Chúng sanh riêng ghét sanh
tử, ưa Niết bàn, chớ đâu biết rằng: cái “ưa” đó chính là gốc
sanh tử, còn “ghét” là gốc triền phược (không giải thoát).
-Này thiện nam! Làm
sao biết “ưa” và “ghét” là gốc của sanh tử triền phược? Bởi
các chúng sanh tu đạo Bồ đề, nếu còn đôi chút biết mình
chứng được Ðạo quả thanh tịnh, thế là chưa diệt trừ được tận
gốc Ngã tướng, nên còn sanh tử triền phược.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói:
“còn” thương ghét là còn ngã tướng; mà ngã tướng là gốc rễ
của sanh tử luân hồi.
Chúng sanh đem tâm
“thương ghét” này mà cầu đạo Bồ đề, thì không bao giờ được
giải thoát, vì nó là gốc của sanh tử luân hồi vậy.
Mặc dầu ghét sanh tử
là việc phải, ưa cảnh Niết bàn tịch tịnh là một điều hay;
nhưng cũng còn ở trong vòng thương ghét, nên chẳng rời Ngã
tướng.
Phải không “thương
ghét”, thì ngã tướng mới không; ngã tướng không, mới nhập
được Viên giác. Vì hiểu nghĩa này, nên cổ nhơn có làm bài kệ
rằng
HÁN VĂN:
Thập phương đồng
tụ hội
Cá cá học vô vi
Thử thị tuyển
Phật trường
Tâm không cập đệ
quy
DỊCH NGHĨA
Mười phương đồng
tu hội
Người người học
vô vi
Ðây là trường
thi Phật
“Tâm không” mới
được đậu
Bài kệ này quan
trọng nhứt là hai chữ “Tâm không”. Người còn “ưa ghét” tức
là còn tham sân; thâm sân còn thì sanh tử luân hồi còn. Bởi
thế nên trường thi làm Phật này, nếu ai Tâm không còn tham
sân tật đố, Tâm không còn nhơn ngã bỉ thử, Tâm không còn
mừng giận thương ghét v.v... thì được “đậu”
********
8. Phật chỉ “Ngã
tướng” ẩn núp trong tạng thức
-Này Thiện
nam! Trong khi có người đến khen ngợi kính phục, hành giả
lại sanh vui mừng, muốn tế độ người đó. Trái lại, nếu bị
người chê bai hủy báng, thì hành giả lại sân hận. Do đó mà
biết cái ngã tướng vẫn còn kiên cố núp ẩn trong tạng thức;
nó thường lai vãng trong các căn của hành giả, không gián
đoạn vậy. Người tu hành bởi không đoạn trừ được “ngã tướng”,
cho nên không thể nhập được Viên giác thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Người đời khi gặp
cảnh thuận hay nghịch, cái Ngả tướng thô trọng nổi lên rất
dễ biết. Ðến như người tu hành cổi lột được Ngã tướng thô
trọng bên ngoài, nhưng còn cái Ngã tướng vi tế tiềm tàng
trong tạng thức. Nó thường xuất đầu lộ diện, lai vãng ở nơi
các căn: mắt, tai, mũi, lưỡi.
Bằng chứng: trong
lúc được người khen kính thì ta sanh tâm hoan hỷ, muốn độ
người ấy. Trái lại, khi bị người hủy báng chê bai, thì
ta lại không vui. Ðó là cái Ngã tướng hiển lộ, có phần tế
nhị hơn trước. Bởi không trừ được tướng ngã, nên không nhập
được Viên giác.
Than ôi! Núi
không cao, trời không cao
Ngã tướng mới cao
Sông chẳng sâu,
biển chẳng sâu
Ngã tướng mới sâu
**********
9. Không thấy
người hủy nhục, không thấy mình thuyết pháp độ sanh, lúc bấy
giờ ngã tướng mới không còn.
-Này thiện nam! Nếu
hành giả muốn biết mình được vô ngã chưa, cứ xem trong lúc
bị người hủy nhục, mà không thấy có ngưòi hủy nhục như thế
là được Vô ngã.
Trái lại, trong lúc
thuyết pháp độ người mà còn thấy có Ta thuyết pháp, thế là
Ngã tướng chưa đoạn. Còn nhơn tướng, chúng sanh tướng và thọ
mạng tướng cũng thế.
LƯỢC GIẢI
Ðược người khen
không mừng, bị người chê chẳng buồn, cũng chưa chắc đã hết
Ngã tướng. Trong khi được khen bị chê, mà không thấy
có người khen chê, như thế mới là vô ngã. Trái lại, nếu thấy
có người khen chê, cố nhiên phải có Ta được khen, bị chê,
nên Ngã tướng hãy còn rõ ràng.
Một thí dụ thứ hai:
trong lúc thuyết pháp độ người, không thấy có Ta thuyết
pháp, có người nghe pháp, không thấy có Ta tế độ, có người
được độ; như thế mới được vô ngã. Trái lại, nếu còn thấy có
Ta thuyết pháp, có Ta tế độ, thế là Ngã tướng chưa đoạn.
Trong kinh Kim Cang,
Phật nói:
“Bồ tát độ vô số
chúng sanh mà không thấy chúng sanh có độ, nếu còn thấy có
Ta độ sanh tức không phải Bồ tát”; vì còn ngã tướng, nên
không phải bồ tát vậy.
Kinh Kim Cang lại
nói:
“Bồ tát thuyết pháp,
không thấy có mình thuyết, nếu còn thấy có Ta thuyết pháp,
tức không phải Bồ tát”; vì còn ngã tướng, nên không phải bồ
tát vậy.
******
10. Vì còn “ngã
tướng” nên không nhập được viên giác
-Này Thiện nam! Ngã
tướng là cái trọng bịnh của hành giả. Song, chúng sanh đời
sau, lại nhận lầm cái trọng bịnh này, cho là mình chứng được
pháp Niết bàn, thật đáng thương xót! Bởi thế nên chúng
càng tinh tấn tu hành chừng nào thì lại càng thêm cái bịnh
Ngã tướng chừng nấy; vì thê nên không nhập được Viên giác
thanh tịnh
-Này thiện
nam! Chúng sanh đời sau chấp theo sự kiến giải và hạnh của
Như Lai, làm chỗ hiểu biết và hạnh của mình, song vì không
biết bốn tướng còn ẩn núp bên trong, nên chẳng thành tựu
được Thánh quả
Hoặc có chúng sanh
chưa đặng đạo mà nói mình đã đặng Ðạo, chưa chứng quả mà nói
mình đã chứng quả; thấy người tinh tấn tu hành lại sanh tật
đố. Bởi chúng sanh này chưa đoạn trừ được ngã ái nên không
nhập được Viên giác thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói
vì có ba nguyên nhân, nên hành giả không nhập được viên giác
thanh tịnh
1. Bởi hành
giả không biết bốn tướng rất tế nhị, lầm cho mình chứng được
đạo quả, nên càng tu chừng nào lại càng tăng trưởng bịnh Ngã
tướng chừng nấy. Vì vậy mà chẳng nhập được viên giác.
2. Hành giả
chỉ bắt chước theo chỗ kiến giải và hạnh của Như Lai làm của
mình, không biết bốn tướng vẫn còn tiềm tàng trong tạng thức
của hành giả, nên không được nhập Viên giác. Thí như
hành giả thấy trong kinh Phật dạy bố thí v.v... rồi thực
hành theo. Nhưng không biết trong khi ấy, lại bị bốn tướng
thường theo dõi. Nhưng trong khi bố thí, thấy có người thọ
thí (nhơn tướng) và ta bố thí (ngã tướng). Bố thí để cầu cho
ta được giàu sang, Ta được mạnh giỏi v.v.. vì cái Ngã tướng
còn nguyên hiện như thế, nên không nhập được Viên giác
3. Cũng vì Ngã
tướng chưa đoạn nên hành giả trong lúc tu hành thấy kết quả
được đôi phần, lúc bấy giờ tánh kiêu căng nổi lên, chưa phải
chứng ngộ đắc đạo, mà tự cho mình đã chứng ngộ hoặc đắc
đạo. Hay thấy người hơn mình, lại sanh ra tật đố v.v... Vì
thế mà không thể nhập được Viên Giác.
*****
11. Phật dạy
phương pháp nhập Viên giác
-Này Thiện nam!
Chúng sanh đời sau trông mong thành Ðạo, mà không cầu cho
ngộ đạo; chỉ ưa học nhiều nói suông, để tăng trưởng ngã
tướng.
Hành giả phải phát
tâm đại dõng mãnh, hàng phục các phiền não. Những pháp lành
chưa chứng được phải tinh tấn tu cho chứng; các pháp ác chưa
đoạn phải đoạn cho đưọc; khi xúc cảnh không sanh tham, sân,
si, mạn, ái và tật đố v.v.. nào nhơn, ngã, bỉ, thử, ân ái
v.v.. đều vắng lặng. Như Lai ấn chứng cho người này, lần
lượt sẽ thành tựu được Viên giác.
Trên đường tu hành,
hành giả phải cầu thiện hữu tri thức chỉ dẫn mới khỏi bị đọa
tà kiến. Song, nếu hành giả đối với Thiện tri
thức, lại phân biệt sang hèn, sanh tâm thương ghét, thì cũng
không thể nhập được biển Viên giác thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này, Phật
chỉ đường lối tu hành để nhập Viên giác, có 3 đoạn
Ðoạn thứ nhất, đại ý
Phật dạy: Muốn được đạo thì phải tu hành mới ngộ được
đạo. Nếu học nhiều nói suông mà không tu, thì chỉ tăng
trưởng Ngã tướng.
Ðoạn này giống như
trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan tự trách: “.. Bạch Thế
Tôn, vì con ỷ lai con là em của Phật, có lẽ Phật thương yêu
sẽ ban cho con đạo quả, không cần phải tu hành cực khổ, chỉ
lo học nhiều nói suông nên không lợi ích cho mình...”
Ðoạn thứ hai, đại ý
Phật dạy: Phương pháp tu hành để nhập Viên giác, là phải
phát tâm đại dõng mãnh, đoạn trừ các phiền não, tức là bốn
tướng nói trên. Siêng năng đoạn các ác pháp, tu chứng các
thiện pháp. Tất cả thời, tâm đều vắng lặng, khi đối cảnh
không sanh các phiền não như tham, sân, si v.v.. Phật ấn
chứng cho người ấy sẽ đặng nhập Viên giác.
Ðoạn này giống như
trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy bốn chữ “Bất tùy phân biệt”,
nghĩa là: khi đối cảnh không khởi phân biệt thì vọng niệm
chẳng sanh, vọng niệm không sanh chơn tâm hiển lộ.
Ðoạn thứ ba, đại ý
Phật dạy: Trên đường tu hành, hành giả phải cầu Minh sư chỉ
giáo, mới tránh khỏi đọa tà kiến. Song khi đối với
Minh sư không được phân biệt giàu nghèo, sang hèn v.v.. (y
pháp bất y nhơn) phải sanh tâm kính trọng. Nếu trại lại thì
không thể nhập được Viên giác.
***
12. Phật nói bài
kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy đức Thế Tôn,
muốn tóm lại nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Tịnh Nghiệp! Ông
nên biết:
Tất cả các chúng
sanh
Luân hồi từ vô thỉ
Ðều do chấp ngã
vậy.
Nếu không trừ bốn
tướng
Chẳng chứng quả Bồ
đề.
Nếu tâm còn thương
ghét
Hoặc tật đố si mê
Ấy là kẻ mê muội,
Không được nhập
Viên giác.
Người muốn được giác
ngộ,
Trước phải trừ
tham, sân,
Tâm hết chấp ngã,
pháp,
Mới được nhập Viên
giác
Thân này còn chẳng
có
Thương ghét do đâu
sanh
Hành giả phải cầu
Thầy
Mới khỏi đọa tà
kiến,
Cầu thầy, mà phân
biệt
Thời không nhập
Viên giác
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này:
Chúng sanh bị sanh tử luân hồi từ hồi nào đến giờ, đều do
chấp bốn tướng. Nếu bốn tưóng không trừ thì không thể chứng
bồ đề. Vì các phiền não như tham, sân, si v.v.. nó làm mê
muội, nên chúng sanh chẳng nhập được Viên giác. Hành giả
muốn nhập Viên giác trước phải đoạn tham, sân v.v.. Bao giờ
tâm không còn ngã chấp và pháp chấp, mới chứng đặng Viên
giác.
Song trên đường tu
hành, hành giả phải cầu Minh sư chỉ giáo, mới khỏi lạc tà
kiến. Khi cầu thỉnh Minh Sư, nếu hành giả còn phân biệt sang
hèn, sanh tâm thương ghét, thời cũng không nhập được Viên
giác.
X. CHƯƠNG PHỔ GIÁC
1. Ngài Phổ Giác
bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Phổ Giác bồ tát
3. Phật dạy ngài Phổ Giác bồ tát
4. Phật nói bốn định
5. Phật trả lời câu hỏi thứ ba: phải làm những hạnh gì?
6. Phật trả lời câu hỏi thứ tư: Phải trừ bỏ bịnh gì?
7. Phật trả lời câu hỏi thứ năm: Phải phát tâm như thế nào?
8.Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
XI. CHƯƠNG VIÊN GIÁC
1. Ngài Viên
Giác hỏi Phật
2. Phật khen ngài Viên Giác
3. Phật dạy pháp an cư
4. Phật dạy 21 ngày đầu ở trong tịnh thất
5. Phật dạy an cư 3 tháng theo Bồ tát thừa
6. Khi thấy thắng cảnh, hành giả chớ nên chấp trước
7. Tu chỉ (xa ma tha)
8. Tu quán (Tam ma Bát Ðề)
9. Chỉ Quán song tu (thiền na)
10.Tóm tắt
11.Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
X. CHƯƠNG PHỔ
GIÁC
1. Ngài Phổ Giác
bồ tát hỏi Phật
Khi ấy Ngài Phổ Giác
bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật
ba vòng, kính cẩn lạy Phật và quỳ thẳng chắp tay bạch rằng:
-Bạch đức đại bi Thế
Tôn, Ngài đã vì chúng sanh nói các bệnh (bốn tướng) của
người tu thiền, khiến cho Ðại chúng gội sạch các mê lầm nơi
tâm và được an ổn. Ðây là một việc lợi ích lớn chưa từng có.
-Bạch Thế Tôn, chúng
sanh đời sau các Phật lần xa, các vị Thánh hiền lại ẩn, tà
sư ngoại đạo rất thạnh hành; vậy trên đường tu hành:
1. Phải cầu bực
nào để dạy bảo?
2. Phải y phương
pháp nào tu hành?
3. Phải làm theo
hạnh nào?
4. Phải trừ những
bịnh gì?
5. Phải phát tâm
như thế nào?
Xin Phật từ bi chỉ
dạy, khiến cho những chúng sanh còn mê muội, khỏi bị đọa tà
kiến.
Ngài Phổ Giác bồ tát
thưa thỉnh như vậy ba lần, cúi đầu kính lạy, rồi trở về chỗ
cũ.
LƯỢC GIẢI
Chữ “Phổ Giác” là
giác ngộ cùng khắp. Trên đường tu hành, hành giả phải gặp
nhiều chướng ngại. Những chướng ngại ấy đều do chấp bốn
tướng mà sanh ra. Bởi thế nên chương thứ 9, Ngài Tịnh
Chư Nghiệp Chướng bồ tát đứng thưa hỏi, để Phật chỉ bày bốn
tướng cho hành giả biết rõ đặng trừ. Khi bốn tướng trừ hết
rồi thời các nghiệp chướng được thanh tịnh.
Song trên đường tu
hành, hành giả còn bị mây Vô minh rất vi tế, tức là bốn bịnh
sau này che mặt trăng Viên giác của hành giả, làm cho trăng
Viên Giác chiếu soi không được phổ biến.
Vì thế nên đến
chương thứ 10 này, NGài Phổ Giác bồ tát đứng lên thưa hỏi,
cầu Phật chỉ dạy thêm, để cho hành giả hiểu biết, đặng dẹp
trừ hết mây vô minh, thời trăng Viên giác kia mới được chiếu
soi phổ biến.
***
Tóm lại, đoạn này có
3 phần:
1. Trước Ngài
Phổ Giác tán thán Phật đã chỉ rõ những chứng bịnh của Thiền
giả là bốn tướng vừa nói trên, để chúng sanh biết bịnh đặng
trừ, sẽ được an ổn.
2. Ngài Phổ
Giác bồ tát thương xót chúng sanh đời sau cách Phật xa pháp,
các vị Hiền Thánh thì ở ẩn, ngoại đạo tà sư lại thạnh hành
làm cho người tu hành dễ lạc vào tà kiến
3. Ngài Phổ
Giác bồ tát, cầu Phật chỉ dạy 5 điều như sau:
a. Y theo phương
pháp nào để tu
b. Phải làm những
hạnh gì?
c. Phải trừ những
bịnh gì?
d. Làm sao để phát
tâm?
***
2. Phật khen ngài
Phổ Giác bồ tát
Khi ấy đức Thế Tôn
khen Ngài Phổ Giác bồ tát và dạy rằng
-Này Thiện nam, hay
lắm và quý lắm! Ông vì chúng sanh đời sau thưa hỏi Như Lai
đường lối tu hành như thế. Ðó là ông bố thí cho chúng sanh
đời sau con mắt đạo không sợ (đạo nhãn vô úy), khiến cho
chúng sanh đặng thành Thánh Ðạo. Vậy các ông nên chăm chú
nghe, ta sẽ vì các ông chỉ giáo.
Khi ấy Ngài Phổ Giác
bồ tát và đại chúng đều hoan hỷ và lẳng lặng vâng nghe lời
Phật chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật khen
Ngài Phổ Giác vì chúng sanh, cầu Phật chỉ dạy đường lối tu
hành để cho chúng sanh đi thẳng đường đến nơi thánh quả,
không còn lo sợ đọa vào tà kiến.
“Mắt đạo không sơ”
.- Ðối với đạo hiểu biết được rõ ràng như con mắt thấy đường
đi nên gọi là “con mắt đạo” (đạo nhãn). Trên đường tu hành
không còn lo sợ đọa vào tà kiến, nên nói “không sợ” (vô úy)
***
3. Phật dạy ngài
Phổ Giác bồ tát
-Này Thiện
nam! Chúng sanh đời sau muốn phát tâm tu đại thừa thì phải
cầu Thiện tri thức, tức là những người hiểu biết chơn chánh
(chánh tri kiến). Những vị ấy tâm chẳng trụ ở nơi tướng phàm
phu và cũng không dính mắc nơi cảnh của Thinh văn, Duyên
giác; tuy hiện ở nơi cảnh trần lao mà tâm vẫn thường thanh
tịnh. Có khi các vị ấy thị hiện đồng ăn đồng ở với người tội
lỗi (đồng sự nhiếp), mà thường khen ngợi các hạnh thanh tịnh
(phạm hạnh), không để cho chúng sanh làm việc tội lỗi.
Hành giả phải cầu
những người như vậy, dạy bảo tu hành, để thành tựu quả Phật.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật trả
lời câu hỏi thứ nhứt của Ngài Phổ Giác bồ tát hỏi: “Phải cầu
những bực nào dạy bảo?”. - Ðại ý Phật trả lời: Người tu hành
muốn được thành quả Phật, phải đủ hai điều kiện:
1. Bên trong,
hành giả phải phát tâm Ðại thừa làm chánh nhơn
2. Bên ngoài,
phải nhờ các thiện hữu tri thức, huớng dẫn đường lối tu hành
làm chánh duyên. Nếu có nội nhơn mà thiếu ngoại duyên, hay
có ngoại duyên mà thiếu nội nhơn đều không thành tựu.
Song, cầu thiện hữu
tri thức, phải là người “chánh tri kiến”. – Làm sao biết
người “chánh tri kiến?”. – Hành giả phải dùng hai phương
diện thuận cảnh và nghịch cảnh sau đây quan sát, sẽ phân
biệt được thế nào là “chánh tri kiến”
1. Thuận cảnh.
– Vì thiện tri thức này, tâm không trụ nơi phước báo của
phàm phu ở cõi người hay cõi trời, vào cũng không trụ nơi
phước báo của phàm phu ở cõi người hay cõi Trời, vào cũng
không trụ nơi cảnh thanh nhàn yểm thế tu ích kỷ tiêu cực của
Tiểu thừa là Thanh văn và Duyên giác.
2. Nghịch
cảnh. – Vì thiện hữu Trí thức này, hiện thân ở trong cảnh
nhiễm ô (trần lao) để hóa độ chúng sanh, mà tâm chẳng ô
nhiễm, thật hành theo “đồng sự nhiếp” của bồ tát để hóa độ
người.
Có khi vị này phải
thị hiện làm việc lầm lỗi như người nhưng không bao giờ dùng
lý luận miễn cưỡng để bào chữa lỗi mình, trái lại luôn luôn
khen ngợi hạnh thanh tịnh và tự chỉ trích lỗi lầm của mình.
Ngài Như Sơn giải
nghĩa chữ “Thiện tri thức” như vậy: Thiện là hay, khéo.
Tri là biết bịnh. Thức là biết thuốc. Nghĩa là vị này
có tài biết chơn vọng, tà chánh, biết tâm bịnh của chúng
sanh, biết pháp dược của Phật để đối trị.
***
-Này THiện
nam! Chúng sanh đời sau nếu gặp vị Thiện hữ tri thức như
thế, phải hết lòng cung dường, không tiếc thân mạng. Vị
thiện tri thức này khi giữ bốn oai nghi thanh tịnh, hành giả
cung kính đã đành, mà khi thị hiện lẫn lộn với chúng sanh
làm các tội lỗi để giáo hóa chúng sanh (đồng sự nhiếp), hành
giả cũng chớ nên sanh tâm khinh dễ.
-Này thiện nam! Ðối
với thiện hữu tri thức này, mà hành giả không khởi một niệm
khinh thường, thì hoa lòng (Tâm hoa) sẽ được rộng mở, chiếu
sáng khắp cả mười phương thế giới và thành tựu qủa Phật.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật
dạy: “y pháp bất y nhơn”. Trong luận Trí Ðộ nói: “nếu vị
thiện tri thức kia, có thể giải thích các nghĩa lý sâu xa
của Phật, dẫn dắt hành giả tu theo chánh Ðạo, được lợi ích,
thì hành giả phải hết lòng cung kính, như tôn kính Phật,
chẳng nên nghĩ những việc lỗi lầm của thiện hữu tri thức.
Thí như cái đãy xấu đựng ngọc, chớ nên vì đãy xấu mà bỏ vật
báu. Người có ghẻ lát cầm đuốc đưa hành giả qua con đường
nguy hiểm trong lúc ban đêm, chớ nên chê người lát mà không
dùng đuốc sáng. Người cầu dạo cũng thế: khi tìm được thiện
hữu tri thức có thể dẫn dắt hành giả đi trên đưòng tu hành,
thì hành giả phải trước sau một lòng tôn kính. Khi thiện tri
thức giữ giới thanht ịnh, hành giả cung kính đã đành, mà khi
Ngài vì chúng sanh thực hành theo hạnh “đồng sự nhiếp” của
bồ tát, người cầu đạo không nên thấy thế mà sanh tâm chấp
nhứt và khinh thường. Ðược như thế, mới chứng được Phật đạo.
***
4. Phật nói bốn
định
-Này thiện nam! Vị
thiện tri thức kia, đã chứng được diệu pháp và rời cả bốn
bịnh sau đây:
a. Bịnh tác (làm các
việc lành)
Như có người chấp
như thế này: Bản tâm của tôi, vì muốn cầu Viên giác, nên làm
tất cả các hạnh”. Song tánh Viên giác kia, không phải do làm
mà được. Bởi hành giả lấy cái “làm” để cầu Viên giác, nên
gọi là “bịnh tác” (bịnh làm).
LƯỢC GIẢI
Chữ “Tác”, nghĩa là
làm. Tánh Viên Giác đâu có phải do “làm” mà được. Cũng như
mặt trăng kia đâu phải do vẹt mây mới có. Bởi thế nên hành
giả chấp: “phải làm các hạnh lành để cầu nhập Viên giác”,
thì không có thể được. Vì tánh Viên giác là thanh tịnh, vô
vi và vô lậu mà hành giả lại dùng pháp hữu vi để cầu cảnh
giới vô vi thanh tịnh, thì không thể được, nên gọi là “bịnh
làm”.
Ðọc đến đoạn này,
độc giả không sao khỏi thắc mắc: tại sao bài trước Phật lại
nói: “... Tánh Viên giác không phải do làm các hạnh lành mà
được, nếu chấp do làm mà được, thì thành ra bệnh “Tác” v.v..
Lời nói của Phật trưóc sao in tuồng mâu thuẫn. Nếu không suy
nghĩa kỹ thì độc giả sẽ không hiểu.
Chúng tôi thường ví
dụ: muốn cho lớp học được yên tịnh, thời phải làm sao trong
lớp đừng có tiếng động, nếu có tiếng động thi lớp học chẳng
được yên tịnh. Cũng như muốn đặng tính Viên giác vô vi thanh
tịnh, thì không thể dùng pháp hữu vi vọng động mà cầu. Nếu
dùng hữu vi vọng động mà cầu thì không bao giờ đặng Viên
giác vô vi thanh tịnh.
Mặc dù như thế, song
người muốn nhập Viên giác quyết định phải trải qua hai giai
đoạn:
1. Gia đoạn
đầu tiên, người muốn nhập Viên giác thanh tịnh, phải có học
tu, bỏ các việc dữ, làm các việc lành v.v... Cũng như các
ông thầy giáo, thấy học trò làm ồn, muốn cho lớp học được
yên tịnh, giai đoạn đầu tiên, phải dùng tiếng ồn để trị
ồn. Nghĩa là ông thầy giáo phải gõ thước trước trên bảng cho
lớn, thì các học trò mới hết làm ồn. Cũng như người
đời nói: dùng độc trị độc, trong Ðạo nói : lấy vọng để trừ
vọng.
Ðến khi học trò đã
im lặng rồi, mà thầy giáo vẫn gõ hoài trên bảng để mong cho
lớp học được yên tịnh, thì không thể được. Vì tiếng gõ là
tiếng động, rất trái với tịnh, làm sao lấy cái “động”, để
cầu cái “tịnh” cho được. Cũng như người dùng cái tạo tác hữu
vi, để cầu Viên giác vô vi thanh tịnh, không thể được.
2. Vì thế nên
bước qua giai đoạn thứ hai: Thầy giáo phải thôi gõ bảng thì
lớp học mới hoàn toàn yên tịnh. Cũng như hành giả, phải trừ
cái bịnh “làm”, mới đặng Viên giác thanh tịnh.
Người muốn đến bờ
giải thoát, trước hết phải dùng cái bè tu học để qua sông
mê. Song khi đã đến bờ rồi, mà cứ ôm cái bè mãi thì làm sao
lên bờ được.
Tóm lại, hành giả
muốn nhập Viên giác thanh tịnh, phải trải qua hai giai đoạn:
1. Giai đoạn
đầu tiên, hành giả dùng cái bè tu học, bỏ dữ làm lành để qua
sông mê. Hay nói một cách khác là dùng tiếng gõ bảng của
thầy giáo, để trừ tiếng ồn của học trò.
2. Ðến giai
đoạn tối hậu, hành giả phải bỏ cái bè hữu vị tu học, mới
mong lên bờ giải thoát vô vi kia được. Hay đổi lại cách nói:
ông thầy giáo phải thôi gõ bảng thì trong lớp mới đặng yên
tịnh.
Cũng ý này, trong
kinh “tứ thập nhị chương” Phật dạy: “... tu vô tu tu, chứng
vô chứng chứng...” Nghĩa là: tu đến chỗ vô tu mới thật tu,
chứng đến chỗ vô chứng mới thật là chứng v..v...
Bởi thế nên cổ nhơn
có dạy rằng: “hữu vi tuy ngụy, xả chi tắt Phật đạo nan
thành”: Các việc tu hành về hữu vi tuy rằng hư nguy
chẳng nhằm chi, nhưng nếu hành giả bỏ đi, thì Ðạo Phật
vô vi khó thành. Hay là câu: “thật tế lý địa bất thọ nhứt
trần, vạn sự môn trung bất xả nhứt pháp”: Ðành rằng chỗ lý
tánh chơn thật (viên giác) không thọ một mảy trần, nhưng về
sự tướng tu hành thì muôn điều không bỏ một việc lành nào.
b. Bịnh nhậm (mặc
kệ, không tu hành)
-Này thiện nam! như
có ngưòi chấp như thế này: “Tôi nay không cần đoạn sanh tử
và cũng không cầu niết bàn. Người muốn cầu Viên giác, chớ
nên móng niệm diệt sanh tử hay cầu niết bàn, mặc tình cho
sanh tử hay niết bàn, tùy pháp tánh mà sanh hay diệt”.
Hành giả chấp như
thế, là bị bịnh nhậm (mặc kệ); vì tánh Viên giác kia, đâu có
phải để mặc kệ (nhậm) như vậy mà nhập được.
LƯỢC GIẢI
Chữ nhậm là mặc
kệ. Bịnh này do hành giả chấp: “Tánh viên giác không phải do
tu hành, làm các hạnh lành v.v.. mà nhập được”. Nên
hành giả để mặc cho nghiệp lực xoay chuyển, chẳng sợ tôị
lỗi, không ham phước lành, sanh tử không chê, niết bàn cũng
chẳng quý; vì thế nên không nhập được Viên giác.
c. Bịnh chỉ (dứt các
vọng niệm)
-Này thiện nam! Như
có người chấp như thế này: “Tôi nay muốn cầu Viên giác, nên
phải dứt hết các vọng niệm, đặng tất cả pháp bình đẳng vắng
lặng”.
Chấp như thế, là bị
bịnh “chỉ”; vì tánh Viên giác kia, đâu có phải do “dừng chỉ”
các vọng mà nhập được.
LƯỢC GIẢI
Chữ “chỉ” là dứt các
vọng niệm. Bởi hành giả thấy bịnh “tác” làm cho tâm khởi
động bịnh “Nhậm” (mặc kệ) làm tâm phóng túng cả hai đều
không nhập Viên giác được, nên hành giả xoay trở về nơi
“chỉ” (dừng đứng)
Vì vọng niệm mà thấy
các pháp sai khác, không được bình đẳng, cho nên hành giả tu
“chỉ” để dứt vọng niệm. Ðâu biết rằng: tánh viên giác không
có “niệm”, nếu khởi niệm thì trái, Viên giác không có “Chỉ”,
nếu hành giả lại “chỉ”, thì làm sao nhập được viên giác.
d. Bịnh diệt (diệt
các phiền não)
-Này Thiện nam! Như
có người chấp như thế này: “Tôi nay muốn cầu Viên giác, nên
vĩnh viễn đoạn các phiền não, nào thân tâm nào cảnh vật, tất
cả đều hư vọng không thật có, rốt ráo vắng lặng”. Dùng cái
“diệt” (vắng lặng) mà cầu Viên giác như thế là mắc bịnh
diệt; vì tánh Viên giác đâu có phải chỉ vắng lặng.
LƯỢC GIẢI
Chữ “diệt” là dứt
các phiền não, tâm và cảnh đều vắng lặng. Song tánh Viên
giác vừa tịch (vắng lặng) lại vừa chiếu (linh tri). Tịch và
Chiếu không hai. Hành giả chỉ chấp một bên “tịch” thì không
hợp với tánh Viên giác.
***
-Tóm lại, người cầu
đạo phải rời bốn bịnh trên, mới được nhập Viên giác thanh
tịnh. Người quán sát để trừ bốn bịnh như thế, là Chánh quán;
nếu trái lại, là tà quán.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này tóm lại bốn
bịnh trên. Chữ “Tác” là làm; “nhậm” là không làm, để
mặc kệ; “chỉ” là dùng chỉ các vọng niệm đương sanh và sẽ
sanh; “diệt” là dứt các phiền não đã sanh. Bởi tánh Viên
giác bất sanh bất diệt, bất cầu bất tịnh, bất tăng bất giảm,
vô vi vô lậu, mà hànhg giả dùng Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt v.v..
để cầu, thì không hiệp với tánh Viên giác.
Ngài Như Sơn nói:
Ðem bốn bịnh “Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt” mà chiêm nghiệm lại tâm
tư của mình, nếu còn một món nào thì cũng đều là bịnh cả;
phải trừ hết bốn bịnh này, mới được nhập viên giác thanh
tịnh
***
5. Phật trả lời câu hỏi thứ ba:
“phải làm những hạnh gì?”
-Này thiện
nam! Chúng sanh đời sau muốn tu hành, suốt đời phải kính
trọng cúng dường Thiện hữu tri thức. Khi thiện hữu tri thức
ở gần gũi, hành giả chớ nên khinh lờn. Khi thiện hữu tri
thức đi xa, hànhg iả chớ nên hờn giận.
Khi thiện hữu tri
thức hiện ra cảnh thuận hay nghịch, tâm hành giả phải như hư
không, chớ nên thay đổi. Hành giả phải rõ biết: thân tâm
minh cùng thầy bạn và các chúng sanh, đồng một bản thể bình
đẳng rốt ráo không khác. Hành giả phải tu hành như thế, mới
nhập được viên giác.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật trả
lời câu hỏi thứ ba: “phải làm những hạnh gì?”
Hạnh bồ tát rất
nhiều, nhưng việc thờ Thầy là điều rất cần thiết. Vì đời mạt
pháp nhược ma cường, nếu không có Minh sư chỉ dẫn, thì hành
giả không sao khỏi bị lạc vào đường tà. Bởi thế nên hành giả
phải suốt đời cung kính phục sự Thầy. Dù cho thiện tri thức
làm những điều thuận ý hay nghịch lòng, hành giả cũng phải
giữ một niềm tôn kính, tâm như hư không chớ nên thay đổi.
Hành giả phải quán
sát: Thầy bạn cùng chúng sanh và mình đều đồng một thể viên
giác, không riêng khác. Do đó hành giả mới bỏ được tánh kiêu
mạn của mình để thờ Thầy, quên bản ngã để độ sanh. Phải tu
hạnh như thế, mới nhập được Viên giác.
-Này thiện
nam! Chúng sanh đời sau, không đuợc thành Ðạo, đều do tất cả
hạt giống thương ghét, nhơn ngã, từ vô thỉ đến giờ. Vì thế
nên chẳng được giải thoát.
Nếu người xem những
kẻ oan gia cũng như cha mẹ không khác, đối với các pháp tâm
cũng không thương ghét, phân biệt tự tha, thì người ấy sẽ
trừ được các bịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trước Ngài Phổ
Giác bồ tát hỏi PHật: “phải trừ những bịnh gì?” - Ðoạn này
Phật trả lời: “phải trừ thương ghét”
Ðành rằng trong bài
số 9, Phật đã dạy trừ thương ghét, nhưng chỉ nói về phần thô
(hiện hành). Ðến đoạn này Phật dạy trừ về phần vi tế của
thương ghét tức là chủng tử. Nếu còn một chút ít thương ghét
ngấm ngầm bên trong làm chướng ngại, thì hành giả không thể
nhập được Viên giác thanh tịnh.
Bao giờ hành giả đối
với kẻ oan gia, xem cũng như cha mẹ, bình đẳng không khác,
xem sanh tử và Niết bàn chẳng hai, thì hành giả mới đoạn
được chủng tử của thương ghét và mới có thể nhập viên giác
thanh tịnh.
***
7. Phật trả lời
câu hỏi thứ năm: “phải phát tâm thế nào?”
-Này thiện
nam! Chúng sanh đời sau muốn cầu Viên giác thì phải phát tâm
như thế này: “tôi nguyện độ tất cả chúng sanh khắp cả hư
không, đều được rốt ráo vào Viên giác; người được viên giác
không chấp ở nơi viên giác; trừ hết các tướng Nhơn và Ngã
v.v..” - Phải phát tâm như vậy mới khỏi đọa vào tà
kiến.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật trả
lời câu hỏi thứ 5 mà ngài PHổ Giác bồ tát đã hỏi Phật: “Phải
phát tâm thế nào?”
Phật trả lời phải
phát tâm như vầy, mới khỏi đoạ vào tà kiến:
1. Phát tâm
quảng đại: nguyện độ tất cả chúng sanh (noãn, thai, thấp,
hóa) trong mười phương.
2. Phát tâm
rốt ráo: độ chúng sanh nhập viên giác cứu kính.
3. Phát tâm
chơn thường: ở trong viên giác mà không khởi vọng chấp
nơi viên giác.
4. Phát tâm
không điên đảo: Không khởi vọng tưởng điên đảo chấp các
tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng và tướng độ sanh.
Hai món phát tâm
trước là đại bi, hai món phát tâm sau là đại trí. Bi và Trí
được viên dung là do phát bốn món tâm trên được tròn. Câu
hỏi của ngài Phổ Giác giống như trong kinh Kim Cang, câu hỏi
của Ngài Tu Bồ Ðề: “Vân hà ưng trụ?” (Phải trụ tâm như thế
nào?_
Ðoạn này nói chữ
“phát tâm”, nghĩa là tâm phát nguyện. Như nguời đời nói “lập
chí”. Nhờ phát nguyện hay lập chí mà người đời tu hành
vượt qua bao nhiêu trở lực khó khăn và thúc đẩy sự tu hành
mau được thành công. Nếu “nguyện” rất thiết, thì hạnh mới
chuyên cần. Do đó mà mau đuợc kết quả. Các đức Phật cũng nhờ
phát nguyện rồi y theo nguyện đó tu hành mà được thành đạo
chứng quả.
Hành giả nếu không
có “nguyện lực” của mình làm động cơ thúc đẩy trên trường tu
hành, thì quả Phật khó mà đạt được.
***
8. Phật nói bài
kệ, tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy đức Thế Tôn
muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
- Phổ Giác ông nên biết
Những chúng sanh đời sau
Muốn cầu thiện tri thức
Nên cầu người chánh kiến
Tâm xa lìa Nhị thừa
Trong pháp trừ bốn bệnh
Là Tác, Chỉ, Nhậm, Diệt
Thân cận không kiêu mạn
Xa lìa không sân hận
Thấy các thứ cảnh giới
Tâm phải sanh hy hữu
Xem như Phật ra đời
Không phạm điều trái luật
Giới căn hằng thanh tịnh
Độ tất cả chúng sanh
Rốt ráo vào Viên giác
Không có tướng ngã nhân
Nên y chánh trí tuệ
Liền được khỏi tà kiến
Chứng giác Bát Niết-bàn.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này nói
tóm tắt lại các nghĩa trên: Các chúng sanh đời sau muốn cầu
thiện tri thức, phải tìm người chánh kiến. Làm sao biết
chánh kiến? – Là đã trừ bốn bịnh và xa lia tư tưởng Nhị thừa
Cách đối xử với
thiện tri thức: khi thân cận chớ nên khinh lờn, khi xa cách
chớ nên sầu hận. Khi thấy thiện tri thức hiện ra, cảnh
thuận hay nghịch, hành giả chớ nên vì thấy thế mà đổi tâm,
phải lấy làm hy hữu và kính như Phật ra đời. Hành giả phải
giữ giới hạnh thanh tịnh, không phạm các tội lỗi và độ các
chúng sanh, rốt ráo vào viên giác.
Hành giả phải y trí
huệ chơn chánh, trừ các tướng Ngã, Nhơn mới khỏi đọa tà kiến
và được nhập viên giác hay chứng quả niết bàn.
BÀI THỨ MƯỜI MỘT XI. CHƯƠNG
VIÊN GIÁC
1. Ngài Viên Giác bồ tát hỏi Phật
Khi ấy Ngài Viên
Giác bồ tát ở trong Ðại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của
Phật 3 vòng rồi lạy Phật và chắp tay quỳ thẳng bạch rằng:
-Bạch Ðức đại bi Thế
Tôn! Ngài đã vì chúng con rộng nói các phương tiện để nhập
Viên giác thanh tịnh, khiến cho chúng sanh đời sau đặng lợi
ích lớn
Bạch Thế Tôn! Chúng
con ngày nay đã được khai ngộ rồi. Nếu sau khi Phật nhập
diệt, chúng sanh đời sau chưa được khai ngộ, thì làm sao an
cư để tu tập cảnh giới Viên giác thanh tịnh này? Và ba pháp
quán thanh tịnh trong Viên giác đây, phải tu pháp nào trước?
Cúi xin đức Ðại bi
vì đại chúng và chúng sanh đời sau, bố thí cho chúng con
được lợi ích lớn.
Ngài Viên Giác bồ
tát thưa thỉnh như vậy 3 lần, kính lạy dưới chân Phật rồi
trở lui.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Ngài Viên
Giác Bồ tát hỏi Phật có hai câu:
1. Làm sao an cư tu
Viên giác thanh tịnh?
2. Ba môn quán thanh tịnh nên tu
pháp nào trước?
Chữ “Viên giác bồ
tát” – Viên Giác là Giác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã
nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minh và
chứng nhập Viên giác. Nhưng đứng về phương diện tu hành,
không phải tu nhứt thời mà chứng được Viên giác; phải lần
lượt như người lau guơng, lau nhiều bụi mới sạch. Bụi càng
sạch thì gương càng sáng; sáng, sạch đến chỗ hoàn toàn là dụ
cho Viên giác.
Xin nhắc lại, trước
về chương “Tịnh chư Nghiệp chướng” là dạy hành giả chưa được
phổ biến. Ðến chương “Phổ Giác”, bồ tát cầu Phật chỉ
dạy phương pháp tu hành để cho Giác tánh được phổ biến,
nhưng chưa Viên. Ðến chương “Viên Giác” là nói Giác tánh
Viên mãn. Chương này bồ tát hỏi Phật về việc an cư và tu 3
pháp quán, toàn chú trọng về sự tướng tu trì. Cho biết: Sự
chưa tròn là Lý chưa Viên. Lý Viên là nhờ sự tròn. Thí như
người tu đức từ bi, nếu chưa phổ cập đến loài vi tế côn
trùng (hộ mạng côn trùng) thì lòng từ bi chưa tròn.
***
2. Phật khen ngài
Viên Giác Bồ tát
Khi ấy đức Thế Tôn
khen ngài Viên Giác bồ tát và bảo rằng:
-Này Thiện nam, hay
lắm và quý lắm! Ông thưa hỏi Như Lai những phương tiện tu
hành, thế là ông bố thí cho chúng sanh lợi ích rất lớn. Vậy
các ông nên lóng nghe, ta sẽ vì các ông mà chỉ giáo.
Khi ấy Ngài Viên
Giác bồ tát và đại chúng đều yên lặng và hoan hỷ nghe lời
Phật chỉ giáo.
3. Phật dạy pháp
an cư
-Này Thiện nam! Khi
Phật còn tại thế hoặc nhập diệt rồi, hay đời mạt pháp(1) nếu
chúng sanh nào có đủ căn tính Ðại thừa, tin cái tâm Viên
giác của Phật, phát tâm tu hành; như ở Già Lam (chùa) thì
phải lo xếp đặt chúng Tăng, hoặc có những duyên sự khác
không thể chuyên tu tập được, thì tùy phận của Hành giả, tư
duy và quán các pháp môn mà ta đã dạy trước.
Nếu không có nhơn
duyên khác, thì hành giả phải lập đạo tràng và định thời kỳ
tu tập. Nếu thời gian đài thì 120 ngày, vừa thì 100 ngày,
ngắn thì 80 ngày.
Cách bài trí trong
tịnh thất, phải treo tràng phan và đủ cả hương hoa. Như Phật
còn tại thế thì nên chánh suy nghĩ. Nếu Phật nhập diệt rồi
thì an trí hình tượng Phật, mắt nhìn tâm tưởng nhớ, kính
đồng như Phật còn tại thế
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật dạy
hai cách:
1. Người phát
tâm tu hành, nếu vì bận rộn việc chùa hoặc các duyên sự
khác, không thể nhập đạo tràng chuyên tu được, thì hành giả
nên quán sát các pháp môn của Phật dạy, như trong chương Phổ
Nhãn v.v..
2. Nếu không
có duyên sự gì bận rộn, thì hành giả nên lập đạo tràng và
phân kỳ mà tu tập. Trường kỳ là 120 ngày, trung kỳ là
100 ngày, đoản kỳ là 80 ngày.
Nếu Phật còn tại
thế, thì hànhg iả chỉ chánh tâm nhớ nghĩ đức Phật, khỏi cần
có hình tượng. Nếu Phật nhập diệt rồi, thì nên thờ
tượng Phật để mắt nhìn, tâm tưởng, kính như Phật còn tại
thế.
______
(1)Chữ “Mạt pháp”
– Giáo pháp của Phật có chia làm 3 thời kỳ:
1. Chánh pháp,
1000 năm
2. Tượng pháp
(mường tượng như chánh pháp) 1000 năm
3. Mạt pháp (rốt
ngọn) 10000 năm. Hiện nay (1992) Phật lịch 2536, thế
là đã sang mạt pháp 536 năm.
***
4. Phật dạy 21
ngày đầu, ở trong tịnh thất
-Trải qua 21 ngày
đầu, hành giả kính lạy danh hiệu của các đức Phật trong 10
phương và chí thành sám hối. Nếu gặp cảnh giới tốt, thì hành
giả tâm đuợc nhẹ nhàng thư thới (khinh an). Qua 21
ngày rồi, hành giả phải chuyên nhiếp vọng niệm.
LƯỢC GIẢI
Người mới tu, giới
đức chưa đủ, thân tâm chưa được thanh tịnh, nên không có
năng lực tu định huệ. Vì thế nên lúc ban đầu phải lập đạo
tràng. Hành giả trải qua 21 ngày đầu lễ Phật và sám
hối. Cũng như cái chén cần rửa cho sạch mới có thể đựng Ðề
hồ được. Hành giả phải nhứt tâm thật hành như vậy, thì thân
mới được thanh tịnh. Trong 21 ngày, hoặc căn lành phát hiện,
hay có cảm ứng: hành giả thấy được điềm lành, thời thân tâm
sẽ được khoan khoái.
“Cảnh giới tốt”: Như
ở trong chiêm bao thấy Phật, hoặc khi làm lễ sám hối
thấy hào quang v.v...
***
5. Phật dạy an cư
3 tháng theo bồ tát thừa
-Này Thiện nam! Nếu
gặp đầu mùa Hạ 3 tháng an cư, thì hành giả phải an trụ nơi
hạnh thanh tịnh của Bồ tát, tâm lìa tư tưởng của Thinh văn,
không nhờ đồ chúng.
Ðến ngày an cư, hành
giả phải đối trước Phật phát nguyện như vầy: “Con là Tỳ kheo
(tên gì) hoặc Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc hay Ưu bà di, nguyện tu
theo hạnh tịnh diệt của Bồ tát thừa, trụ trì nơi thật tướng,
lấy đại viên giác làm già lam (chùa). Thân tâm con an cư
nơi “Bình đẳng tánh trí” hay “tự tánh Niết bàn”, không có hệ
thuộc xứ sở.
Con nay chẳng y theo
Thinh văn, con kính thỉnh mười phương chư Phật và các vị Bồ
tát cùng với con đồng làm pháp an cư 3 tháng. Con vì một
nhơn duyên lớn là tu bồ tát hạnh, cầu chứng quả Vô thượng
Diệu giác, nên không hệ phược đồ chúng.
Tu như thế mãn 3
thời kỳ rồi, tùy ý hành giả ra vào vô ngại. Ðây gọi là bồ
tát thị hiện an cư.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này chia làm 3
phần:
1. Phật dạy
hành giả lập thời kỳ tu tập như vậy chưa đủ mà phải an cư 3
tháng, bắt đầu từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm
lịch. Người phát tâm bồ đề tu theo viên giác, thì phải an cư
theo bồ tát hạnh. Nghĩa là không cần phải tập chúng an cư
theo luật tiểu thừa, mà tâm của hành giả phải luôn luôn an
trụ nơi hạnh thanh tịnh của Bồ tát. Bởi thế nên trên nguyên
văn kinh nói: “Tâm rời tư tưởng của Thinh văn, không nhờ đồ
chúng”.
2. Ðến ngày an
cư, hành giả phải đối trước Phật bạch như vầy:
“Con tên. thọ giới
tỳ kheo hay Tỳ kheo Ni, Ưu bà Tắc (thiện nam) hay Ưu Bà Di
(Tín nữ); nay y theo pháp đại thừa, tu theo hạnh tịch diệt
của bồ tát, lấy viên giác làm chùa, thân tâm con thường an
trụ nơi “tự tánh Niết bàn” hay “bình đẳng tánh trí”.
3. Hành giả
đối trước Phật phát nguyện rằng:
“Con nay vì muốn tu
hạnh Viên giác, nên không theo luật an cư của thinh văn
(tiểu thừa) không tập chúng tăng an cư, mà con chỉ cầu thỉnh
10 phương chư Phật và Bồ tát cùng với con làm pháp an cư
trong 3 tháng. Hành giả an cư như thế 3 tháng, sau khi mãn
thời kỳ rồi, tùy ý đi tới lui không ngại.
Chữ “Tịch diệt”:
Diệt các phiền não, tâm được tịch tịnh, tức là nói: ý theo
tâm chơn như không sanh diệt mà tu.
Chữ “thật tướng”
Tướng chơn thật, tướng này không sanh không diệt, không cấu
không tịnh, không tăng không giảm, không bị thời gian thay
đổi, không gian chuyển dời, tức là chỉ cho “chơn như thật
tướng”, cũng là cái biệt danh “viên giác”
“Viên giác làm chùa”
- Tiểu thừa an cư thì lấy sự tướng là cảnh chùa (già lam)
của mình ở, làm nơi tu hành, bồ tát an cư thì lấy lý tánh là
Viên giác làm chuà của mình ở tu, nên nói: “lấy Viên giác
làm chùa”.
“Bình đẳng tánh
trí”. – Hành giả đã an cư nơi thật tướng, tức là tánh Viên
giác, nên 6 căn ở thân không tạo nghiệp, 6 thức không dong
ruỗi theo 6 trần.
Lúc bấy giờ 5 thức
trước, chuyễn lại làm “thành sở tác trí”; thức thứ 6 chuyển
thành “Diệu quan sát trí”.
Khi hành giả chưa an
trụ nơi Viên giác thì thức thứ 7 này chấp ngã, nhơn, bỉ
thử. Ðến khi hành giả an trụ nơi Viên giác, thì thức thứ 7
chuyển thành “Bình đẳng tánh trí”. Lúc bấy giờ thức
thứ 8 không còn bị thức thứ 7 chấp làm “ngã” nữa, nên thức
thứ 8 chuyển thành “Ðại viên cảnh trí”.
Chữ “niết bàn tự
tánh”: cũng gọi là “tánh tịnh Niết bàn”, tức là biệt danh
của Chơn như hay Viên giác.
Chữ “không hệ thuộc
xứ sở”: tiểu thừa an cư phải có cảnh chùa để làm đạo tràng
xứ sở. Ðến như bồ tát thì lấy “Niết bàn tự tánh” làm đạo
tràng, nên nói: “không hệ thuộc xứ sở”.
Chữ “vô thượng Diệu
giác”: quả vị Phật sáng suốt (giác) mầu nhiệm (diệu) không
có quả vị nào trên (vô thượng)
***
6. Khi thấy thắng
cảnh, hành giả chớ nên chấp trước
-Này thiện nam! Như
chúng sanh đời mạt pháp muốn tu hành để cầu đạo bồ tát trong
khi vào tu 3 thời kỳ này, nếu thấy có các thắng cảnh hiện
ra, mà không đúng như hành giả đã nghe thấy, thì quyết không
nên chấp thủ.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật dạy
hành giả khi tu, nếu thấy hiện ra cảnh giới thù thắng, không
nên luyến trước.
Hành giả khi dụng
công tu hành, cố nhiên sẽ có cảnh giới thù thắng lạ thường
hiện ra. Song, nếu sanh tâm chấp trước, không phân
biệt chánh tà, thì hành giả dễ mắc lưới ma. Cho nên
hành giả phải thấy các cảnh giới ấy đúng như sự nghe học của
mình, nghĩa là lời Phật dạy, hoặc thiện tri thức bảo hay
trong kinh sách dạy như thế nào, thì khi các cảnh ấy hiện ra
phải đúng như thế ấy, mới gọi là chơn chính. Trái lại là ngũ
ấm ma hiện (nên xem đoạn Ngũ Ấm Ma, trong kinh Lăng Nghiêm)
Phàm người tu hành,
không ai chẳng nhơn nghe hiểu rồi sanh lòng tin, nhơn có tin
mới tu, nhơn tu mới có chứng, chứng là kết quả của nghe, tin
và tu. Thế nên tin, hiểu, tu và chứng trước sau phải hiệp
nhau. Nếu chỗ chứng (cảnh giới hiện ra) không hiệp với sự
nghe thì bất luận hiện ra cảnh giới thiện hay ác, cũng đều
là Ma cả.
***
7. Tu chỉ (Xa Ma
tha)
-Này thiện nam! Như
có các chúng sanh tu pháp “chỉ” (Xa ma tha) trước giữ chỗ
chí tịnh (rất yên lặng) không khởi vọng niệm nhớ nghĩ; do
yên lặng tột bực nên trí giác hiện ra. Như vậy từ khi mới
bắt đầu tịnh và ở một thân, cho đến khi khắp cả một thế giới
đều tịnh. Cũng thế, “trí giác” bắt đầu hiện ra ở một thân
cho đến khắp cả một thế giới đều “giác”.
-Này thiện nam!
Khi “trí giác” đã hiện khắp một thế giới, thì trong thế giới
ấy nếu có một chúng sanh nào, móng lên một niệm, lúc bấy giờ
hành giả đều biết cả. Cho đến trăm ngàn thế giới cũng thế.
Các cảnh giới ấy,
nếu không phải đúng như sự nghe của hành giả, thì quyết
chẳng nên chấp thủ.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật
dạy hành giả khi tu Ðịnh, đến chỗ tột bực, nên trí giác
(huệ) phát sinh. Bởi từ một thân tịnh cho đến một thế giới
tịnh, nên trí giác phát ra cũng từ một thân cho đến
khắp cả thế giới. Vì cả thế giới đều là “trí giác” của hành
giả, nên có một chúng sanh nào vừa móng niệm, thì hành giả
đều biết hết.
Song những cảnh giới
đã hiện ra, phải đúng như sự thấy nghe mà hành giả đã từng
nghe thiện tri thức hay trong kinh chỉ dạy, như thế cảnh
thấy mới chánh. Nếu trái lại là Ngũ ấm Ma hiện.
Ngài Như Sơn nói:
“Vì toàn cả thế giới đã thành “giác” nên chúng sanh toàn ở
trong giác tánh của hành giả. Bởi thế nên khi chúng sanh
khởi ra một niệm gì, thì hành giả đều biết cả. Cũng
như bóng đã hiện trong gương, nên gương chiếu không sót”.
Trong kinh Viên giác
lược sớ chép: hành giả tin, hiểu, tu, và chứng tuy thứ lớp
không đồng, nhưng phải không khác. Nghĩa là: “hiểu là hiểu
theo chỗ mình Tin, Tu là Tu theo chỗ mình hiểu. Chứng là
chứng theo chỗ mình Tu. Nay những cảnh giới của hành giả
chứng, nếu không phải đúng như chổ hiểu, tin và tu, thì
không nên chấp thủ”.
***
8. Tu quán (ta ma
bát đề)
-Này thiện nam! Nếu
chúng sanh, tu pháp “quán”, thì trước phải nhớ tưởng mười
phươgn các đức Phật và các vị bồ tát, rồi y theo các pháp
môn của Phật dạy đó mà siêng năng cần khổ tuần tự tu hành,
đặng thành tam muội và phát nguyện rộng lớn, tư huân tập
thành chủng tử. Trong lúc tu, nếu có hiện ra những cảnh giới
gì mà không dúng như chỗ nghe của hành giả, thì chớ nên chấp
thủ.
LƯỢC GIẢI
Phật dạy người tu
“quán”, trước phải nhớ tưởng các đức Phật và bồ tát rồi y
theo các pháp môn của Phật dạy mà siêng năng khổ hạnh tuần
tự tu hành để thành tam muội. Và phải phát đại nguyện huân
tập vào tâm thức của hành giả để thành chủng tử.
Trong khi tu, nếu có
những cảnh giới gì hiện ra mà không đúng như chỗ của hành
giả đã nghe thầy bạn dạy bảo, hay trong kinh luật chỉ giáo,
thì không nên chấp thủ; vì đó là Ma hiện.
“Tam muội” – Xem
đoạn giải thứ 2 trogn chương Phổ Hiền Bồ tát.
***
9. Chỉ quán song
tu (thiền na)
-Này thiện nam! Nếu
có chúng sanh muốn tu Thiền na (Chỉ quán song tu) thì trước
phải tu pháp môn sổ tức; trong tâm hành giả biết rõ được mỗi
niệm khi sanh, trụ, dị và diệt; phân biệt được ranh giới và
số mục của các niệm. Cho đến khắp cả bốn oai nghi (đi, đứng,
nằm, ngồi). Hành gia cũng đều biết; cũng như con mắt thấy
các vật dụng. trong khi tu nếu thấy có hiện ra cảnh giới gì
không đúng như sự thấy nghe của hành giả thì không nên chấp
thủ.
Ðây là phương tiện
đầu tiên tu hành của hành giả, tức là ba pháp quán.
Nếu các chúng sanh tinh tấn siêng tu ba pháp quán này được
hoàn toàn, tức là Như Lai xuất hiện ở thế gian vậy.
LƯỢC GIẢI
Ngaì Viên giác bồ
tát hỏi Phật: Hành giả đối với 3 pháp quán, tu pháp nào
trước? - Phật dạy trước tu pháp “chỉ” giữa tu pháp “Quán”,
sau tu “chỉ, quán song tu”.
Ðoạn này Phật dạy
“Chỉ, Quán song tu”. Người tu pháp này, trước phải tu pháp
sổ tức (đếm hơi thở). Nhờ có điều hòa hơi thở, nên tâm được
tịnh (chỉ); nhờ tâm được tịnh nên những vọng niệm thô tế,
khi sanh, trụ, dị và diệt, giới hạn của nó dài ngắn, lâu
mau, nhiều hay ít, hành giả đều biết được hết (quán)
Hành giả tịnh tọa,
dụng tâm tu pháp quán như vậy, khi mới thành công, thời
trong tất cả thời gian động tịnh như đi, đứng, nằm ngồi
v.v... hành giả đều hiểu biết phân biệt được rõ ràng, mỗi
niệm, khi sanh, trụ, dị và diệt, giới hạn dài ngắn hay lâu
mau và ít nhiều v.v...
Ðến lúc thành công
hoàn bị, thì trong trăm ngàn thế giới, có những vật gì, cho
đến có bao nhiêu hạt mưa, hành giả cũng đều biết được
hết. Không phải hành giả hiểu biết một cách lờ mờ, mà hiểu
biết một cách rõ ràng; cũng như mằt xem thấy các sự vật thụ
dụng vậy.
***
10. Tóm tắt
-Này Thiện nam! Nếu
chúng sanh đời mạt pháp, tâm muốn cầu đạo, nhưng vì nghiệp
chướng đời trưóc nặng nề, căn tánh ám độn, nên tu hành khó
thành tựu, thì phải siêng năng sám hối; thường sanh tâm
trông mong đoạn trừ các phiền não: thương, ghét, tật đố, dối
nịnh v.v... và tìm cầu quả vị cao thượng thù thắng.
Ðối với 3 pháp quán
thanh tịnh này, tùy hành giả tu một pháp. Nếu tu pháp quán
này không thành tựu thì tu pháp quán khác, phải lần hồi cầu
chứng, chớ nên thối tâm buông bỏ.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật
dạy: Nếu chúng sanh đời sau căn tánh ám độn, nghiệp chướng
nặng nề, muốn cầu Phật đạo, nhưng không thành tựu, thì phải
siêng năng sám hối, tâm thường trông mong đoạn các phiền
não. Ðối với 3 pháp quán, nếu tu pháp này không thành tựu
thì tu pháp khác, dốc lòng cầu chứng Ðạo, không nên thối
tâm.
***
11. Phật nói bài
kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy đức Thế Tôn,
muốn tóm lại các nghĩa này, nên nói bài kệ rằng:
Viên Giác ông nên
biết:
Tất cả các chúng
sanh
Muốn cầu đạo vô
thượng,
Phải lập ba thời kỳ:
Hai mươi mốt ngày
đầu
Sám hối nghiệp vô
thỉ,
Vậy sau chánh suy
nghĩ;
Nếu phi cảnh đã
nghe,
Thì chẳng nên chấp
thủ
Pháp “chỉ” rất tịch
tịnh
Pháp “Quán” chánh
nhớ nghĩ,
Thiền na rõ đếm hơi,
Thế gọi là tịnh
quán.
Người siêng năng tu
tập,
Thế gọi Phật hiện
thế.
Kẻ độn căn chẳng
thành,
Thì phải siêng sám
hối
Các tội từ vô thỉ.
Các tội chướng tiêu
rồi,
Cảnh Phật liền hiện
trước
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này
Phật dạy các chúng sanh muốn cầu đạo vô thượng bồ đề, thì
phải phân ba thời kỳ tu tập. Khi vào tịnh thất, trong 21
ngày đầu, hành giả phải chí tâm sám hối các nghiệp chướng từ
vô thỉ, sau rồi chánh tâm suy nghĩ.
Trong lúc tu, như có
hiện ra cho cảnh giới gì, nếu không đúng với chỗ thấy nghe
của hành giả, thì chớ nên chấp thủ.
Nếu hành giả siêng
năng tu tập ba phép quán thanh tịnh là: chỉ, quán và chỉ
quán song tu thì gọi là Phật hiện thế.
Nếu người nào căn
tánh ám độn không thể tu ba pháp môn này được thì nên siêng
sám hối các tội từ vô thỉ; khi các tội chướng tiêu diệt rồi,
thì cảnh Phật liền hiện ra trước mặt.
BÀI THỨ
MƯỜI HAI C. PHẦN LƯU
THÔNG
XII. CHƯƠNG
HIỀN THIỆN THỦ
1. Ngài Hiền Thiện
Thủ bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Hiền Thiền Thủ bồ tát
3. Phật nói tên kinh này
4. Phật nói công đức trì kinh này
5. Phật khuyên các Ðệ tử phải bảo hộ người trì kinh này
6. Các vị Thiện thần phát nguyện bảo hộ người tu hành
XII. CHƯƠNG HIỀN
THIỆN THỦ
1. Ngài Hiền
Thiện Thủ bồ tát hỏi Phật
Khi ấy ngài Hiền
Thiện Thủ bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh bên
hữu của Phật ba vòng, rồi quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:
-Bạch đức Ðại bi Thế
Tôn, ngài đã vì chúng con và các chúng sanh đời sau, rộng
rãi giảng dạy cho chúng con hiểu ngộ được những việc không
thể nghĩ bàn.
Bạch Thế Tôn:
-Kinh Ðại thừa này
tên gì?
-Chúng con làm sao
phụng trì?
-Chúng sanh tu theo
kinh này sẽ được công đức gì?
Chúng con làm sao
bảo hộ những người thọ trì kinh này?
-Phải truyền bá kinh
giáo này ở địa vị nào?
Ngài Hiện THiền Thủ
bồ tát, thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở
lui.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn kinh này có hai
phần:
a. Ngài Hiền Thiện
Thủ bồ tát tán thán Phật, vì chúng sanh giảng giải những
việc không thể nghĩ bàn
b. Bồ
tát hỏi Phât năm điều
1. Kinh này tên là
kinh gì?
2. Làm sao phụng
trì?
3. Chúng sanh tu
theo kinh này sẽ được công đức gì?
4. Làm sao bảo hộ
người thọ trì kinh này?
5. Truyền bá kinh
này ở địa vị nào?
***
2. Phật khen ngài
Hiền Thiện Thủ bồ tát
Khi ấy đức Thế Tôn
khen ngài Hiền Thiện Phủ Bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện nam, hay
lắm và quý lắm! ông vì các vị bồ tát và chúng sanh đời
sau, thưa hỏi Như Lai tên kinh và công đức trì kinh này, các
ông nên chăm chú nghe lời ta chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Vì muốn cho mưa Pháp
gội nhuần chúng sanh đời sau, nên Ngài Hiền Thiện Thủ Bồ tát
đứng lên hỏi Phật về việc thọ trì và truyền bá kinh
này. Ðoạn này Phật khen ngài Hiền Thiện Thủ và bảo phải chăm
chú nghe lời Phật chỉ giáo
***
3. Phật nói tên
kinh này
-Này Thiện nam! Kinh
này không phải chỉ mình ta nói, mà các đức Phật trong 10
phương nhiều như trăm ngàn muôn ức lần số cát sông Hàng,
cũng đều nói kinh này. Các đức Phật trong 3 đời đều bảo hộ
kinh này. Mười phương các vị Bồ tát đều quy y kinh này. Kinh
này là tròng con mắt của 12 bộ kinh. Kinh này có 5 tên:
1. Ðại Phương
Quảng Viên Giác Ðà La Ni Kinh
2. Tu Ða La Liễu
Nghĩa kinh
3. Bí mật Vương
Tam muội kinh
4. Như Lai quyết
định cảnh giới kinh
5. Như Lai tạng
tự tánh sai biệt kinh
Các ông phải hết
lòng cung kính phụng trì kinh này.
LƯỢC GIẢI
Kinh này nói về tánh
“Viên giác”. Người ngộ nhập được tánh Viên giác thì
thành Phật, còn không ngộ được thời làm chúng sanh.
Mục đích của Phật ra
đời là độ chúng sanh thành Phật song chúng sanh có nhập Viên
giác mới được thành Phật. Vì thế nên hằng sa đức Phật ra
đời, đều nói kinh Viên giác.
Vì kinh Viên giác
rất quý báu như thê, nên các đức Như Lai trong 3 đời thường
giữ gìn và bảo hộ kinh này. Mười phương các vị bồ tát đều
quy y kinh này, vì quy y kinh này là quy ý tánh Viên giác.
Giáo pháp của Phật
tuy nhiều, nhưng tóm lại chia ra có 12 bộ kinh, tức là 12
loại kinh. Kinh nào cũng đều nhắm một mục đích là dạy
chúng sanh tu hành thành Phật; mà muốn thành Phật thì phải
nhập Viên giác. Bởi thế nên kinh này là “tròng con mắt” của
12 bộ kinh
“12 Bộ kinh” - Phật
ra đời thuyết pháp 40 năm, tóm lại có 3 tạng: Kinh, Luật, và
Luận; phân ra 12 bộ, tức là 12 loại
Có bài kệ tóm 12 bộ
kinh:
Trường hàng, Trùng
tụng và Cô khởi
Thí dụ, Nhơn duyên
cùng Tự thuyết
Bổn sanh, Bổn sự, Vị
tằng hữu
Phương quảng, Luận
nghị và Ký biệt
Kinh này có nhiều
đức tính và nhiều công dụng nên có nhiều tên:
a. Ðại Phương Quảng
Viên giác Ðà La Ni kinh
Tánh Viên giác Quảng
đại phương viên bao trùm và gìn giữ các Pháp.
“Ðà La Ni”, Tàu dịch
là “Tổng Trì”: bao trùm và gìn giữ các Pháp
1. Pháp Ðà La Ni. - Chỉ một chữ, một
danh hiệu hay một câu, mà bao trùm tất cả chữ, tất
cả danh hiệu và
tất cả câu.
2. Nghĩa Ðà La Ni –
Như nói Chơn như, Duy tâm, Duy thức, Pháp giới v.v.. đều đã
tóm thâu sự vật sai biệt.
3. Ðịnh Ðà La Ni –
Do sức Ðịnh mà tinh thần thống nhất tập trung lại, nên phát
huy được lực lượng rất mạnh, nhờ đó mà thành tựu được nhiều
môn Ðịnh (Ðịnh Tổng trì).
4. Chú Ðà La Ni. -
Tức là thần chú. Do hành giả tập trung tinh thần trì chú,
nên có sức mạnh làm cho hành giả được toại bản nguyện của
mình.
b. “Tu Ða La Liễu
Nghĩa”. - Chữ “Tu Ða La”, tàu dịch là “Khế kinh”. Nghĩa là
kinh này hiệp với chơn lý và căn cơ của chúng sanh.
Chữ “Liễu
Nghĩa”: Nghĩa lý rốt ráo đứng đắn. Kinh của Phật có hai
loại:
1. Bất liễu nghĩa
kinh là những bộ kinh Phật tùy quốc độ, tùy thời đại và tùy
căn cơ, mà phương tiện nói ra, như các kinh về tiểu thừa,
nghĩa lý chưa rốt ráo.
2. Liễu nghĩa kinh
là những bộ Kinh nghĩa lý rốt ráo đúng đắn, Phật nói đúng
chân lý không có tùy thời tùy cơ v.v.. Như các kinh Ðại
thừa. Kinh “Viên Giác” đây thuộc về kinh Liễu Nghĩa.
c. “Bí Mật
Vương Tam muội”. - Chữ “Tam muội” tức là “Tam ma địa”, Tàu
dịch:
1. Ðẳng trì
2. Chánh định
3. Chánh thụ
4. Chánh tư duy
Viên giác Tam muội
này cao cả hơn các pháp Tam muội cho nên gọi là “vương”
(vua).
Chữ “Bí mật. – Pháp
Viên giác tam muội này, duy có Phật mới hoàn toàn thấu rõ
được; ngoài ra như chúng sanh thời không biết, cho đến bực
đẳng giác bồ tát cũng chưa có thể thấu tột được, cho nên nói
là “bí mật”.
d. “Như Lai quyết
định cảnh giới kinh”. - Cảnh giới Viên giác này duy có đức
Như Lai mới quyết định chứng nhập được. Từ bực đẳng giác Bồ
tát trở xuống, ở trong vòng cầu chứng nhập, nên chưa quyết
định được.
e. “Như Lai tạng tự
tánh sai biệt kinh”. - Chữ “Như Lai tạng”, nghĩa là “Như
Lai” còn tại triền. Bởi các vọng huyễn chưa viễn ly. Giác
tánh chưa phát hiện. Nghĩa là “quả đức Như Lai” còn bị
tiềm tàng ẩn phục trong tâm của chúng sanh; tức là tánh Viên
giác còn bị triền phược vậy.
Chữ “Tự tánh”: Tánh
Viên giác tùy duyên ứng hiện ra các pháp sai khác, nên gọi
là “sai biệt”.
***
4. Phật nói công
đức trì kinh này
-Này Thiện nam! Kinh
này nói về cảnh giới của Như Lai, nên duy có Phật mới hay
biế,t còn các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ y theo
đây tu hành lần hồi tiến đến địa vị Phật.
Này Thiện nam! Kinh
này tên “Ðại thừa đốn giáo”. Những chúng sanh đốn cơ mới có
thể do kinh này được khai ngộ. Kinh này cũng tiếp độ các
chúng sanh về tiệm tu. Bởi thế nên kinh này cũng như biển
cả, không nhượng các dòng sông nhỏ. Lớn như Thần A Tu La và
nhỏ như loài mòng muỗi, uống nước biển đều no bụng cả.
Này thiện nam! Giả
sử có người dùng toàn 7 món báu, chứa đầy cả đại thiên thế
giới, đem ra bố thí; công đức của người ấy rất lớn, nhưng
không bằng có người nghe tên kinh này, cho đến chỉ nghe
nghĩa một câu, công đức người này nhiều hơn.
Này thiện nam! Giả
sử có người giáo hóa chúng sanh tu hành chứng được quả A La
Hán nhiều đến trăm lần số cát sông Hằng, nhưng không bằng có
người giảng nói kinh này, cho đến rất ít là chỉ giảng nửa
bài kệ, công đức của người sau này nhiều hơn.
Này thiện nam! Nếu
có người nghe kinh này tin tưởng không nghi ngờ, thì biết
người đó đã trồng phước huệ không những ở một đời Phật, hoặc
hai đời Phật, mà người này đã trồng căn lành từ nhiều đời
Phật, như số cát sông Hằng; cho nên nay nghe đến kinh này
mới hay tin thọ.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này có 5 phần:
1. Kinh này nói về
cảnh giới viên giác nên duy có Phật mới hay thấu triệt, còn
từ các vị Bồ tát trở xuống chỉ y theo đây tu hành mà thôi
2. Kinh này thuộc về
Ðại thừa đốn giáo, nên rất hợp với những người căn cơ Ðại
thừa đốn ngộ. Song kinh này cũng tiếp độ các người căn cơ
Tiểu thừa tiệm tu; thí như biển cả không nhượng các dòng
sông. Tất cả chúng sanh lớn như A Tu La (Dụ đại thừa) nhỏ
như mòng muỗi (dụ nhị thừa) uống nước biển đều được no cả.
“Ðốn giáo”. – Ngài
Phổ Hiền phân Tam tạng kinh giáo của Phật làm năm thời:
1. Tiểu (tiểu
thừa)
2. Thỉ (đại thừa
thỉ giáo)
3. Chúng (Ðại
thừa rốt sau)
4. Ðốn (Ðại thừa
đốn giáo - Chữ “Ðốn” là mau lẹ, nhanh chóng)
5. Viên (Ðại thừa
viên mãn)
Ngài Thiên Thai lại
phân làm bốn thời:
1. Tạng (tiểu
thừa tạng giáo)
2. Thông (Thông
đến đại thừa)
3. Biệt (đặc biệt
Ðại thừa)
4. Viên (đại thừa
viên giáo)
3. Phật dạy người
thọ trì kinh này, công đức quý hơn người bố thí bảo
vật. Người dùng bảy món báu đựng đầy cả Ðại thiên thế giới,
đem bố thí cho chúng sanh, công đức của người ấy tuy lớn,
nhưng thuộc về phước hữu lậu, nên chỉ hưởng trong một thời
gian rồi hết. Không bằng người nghe tên kinh này, cho đến
chỉ nghe một câu nghĩa, tuy rằng ít, nhưng đã gieo
được hạt giống vô lậu thanh tịnh, không sớm thì muộn, thế
nào cũng được quả vô lậu, nên quý hơn tài thí.
4. Người giảng kinh
này, công đức nhiều hơn người giáo hoá vô số hàng Nhị thừa.
Vì giáo hóa vô số người chứng quả Nhị thừa, công đức tuy
lớn, nhưng chỉ thuộc về Tiểu thừa quả, nên không bằng người
y theo kinh liễu nghĩa Ðại thừa nói một câu hay một bài kệ,
làm cho người ngộ được tánh Viên giác, không sớm thì chày
người ấy quyết định sẽ được thành Phật. Ví như các
ngôi sao tuy nhiều, nhưng sáng không bằng một mặt trăng.
5. Người nghe kinh
này mà sanh tâm vui mừng, ham mộ và tin tưởng, không nghi
ngờ, thì biết người này đã có trồng hạt giống đại thừa, từ
nhiều đời đức Phật.
***
5. Phật khuyên
các đệ tử phải bảo hộ cho người trì kinh này
-Này Thiện nam! Các
ông phải bảo hộ những người tu hành đời mạt pháp, chớ để cho
các loài ác ma và ngoại đạo làm não loạn thân tâm của người
tu hành, khiến cho họ thối tâm.
LƯỢC GIẢI
Ðời mạt pháp, chúng
ngoại đạo tà sư rất thạnh hành hay làm nhiễu loạn đến người
tu hành. Nếu không bảo vệ giữ gìn, thì hành giả sẽ bị
chúng ma nhiễu hại, rồi phải thối chí ngã lòng.
***
6. Các vị thiện
thần phát nguyện bảo hộ người tu hành
Khi ấy ở trong pháp
hội có tám vạn Thần Kim Cang như ông Hỏa Ðầu kim Cang, Tối
Thoái Kim Cang, Ni Lam Bà Kim Cang, cùng với quyến thuộc
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba
vòng, rồi kính cẩn lạy Phật và thưa rằng:
-Bạch Thế Tôn! Nếu
các chúng sanh đời sau, có người nào thọ trì kinh Ðaị thừa
này, thì chúng con nguyện bảo hộ người ấy giữ gìn tròng con
mắt; cho đến chỗ đạo tràng của người này tu hành, chúng con
cũng nguyện dẫn hết binh tướng đến đó, sớm chiều bảo hộ,
khiến cho họ chẳng thối chuyển. Chỗ nhà cửa của người này ở,
hằn không có tai chướng, các tật bịnh đều tiêu hết, của báu
giàu có, thường chẳng thiếu thốn.
Khi ấy ông Ðại Phạm
Vương và 28 vị Thiên Vương, cùng ông Tu Di Sơn Vương và Hộ
Quốc Thiên Vương v.v... đều đứng dậy đi quanh bên hữu của
Phật ba vòng rồi kính cẩn lạy Phật và thưa rằng:
-Bạch Ðức Thế Tôn!
Chúng con cũng nguyện bảo hộ người thọ trì kinh này, thường
được an ổn, tâm chẳng thối lui.
Khi ấy có Ðại Lực
Quỷ Vương, tên là Cát Bàn Trà cùng với 10 vạn Quỷ Vương,
đứng dậy đi quynh bên hữu của Phật ba vòng, rồi lạy Phật và
thưa rằng:
-Bạch Ðức Thế
Tôn! Chúng con cũng nguyện sớm chiều hộ vệ người thọ trì
kinh này, khiến cho họ không thối lui. Chỗ của người trì
kinh ở, trong khoảng một do tuần (10 dặm) nếu có chúng quỷ
thần nào đến xâm phạm cảnh giới này, thì chúng con sẽ đập nó
nát như vi trần.
Khi ấy tất cả Ðại
chúng như các vị Bồ tát, Thiên long, Quỷ thần, quyến thuộc
của 8 bộ Quỷ thần và chư Thiên, Phạm vương v.v.. nghe Phật
nói kinh này đều hoan hỷ, tín thọ và phụng hành
LƯỢC GIẢI
Chương thứ 12 này là
nói về việc truyền bá lưu thông. Thính chúng trong pháp hội,
trên từ các vị đại Bồ tát dưới cho đến chúng quỷ thần, nghe
Phật nói kinh này, từ chương thứ 11 là chương Viên giác rồi,
tất cả đều lấy làm quý báu vô cùng, lợi lạc cho chúng sanh
vô tận, nên hớn hở vui mừng, tin thọ và phụng hành. Bởi thế
nên các vị Thiện thần đều phát nguyện bảo hộ kinh và triệt
để ủng hộ người thọ trì đọc tụng kinh này.
Chúng ta chắc đã có
trồng căn lành từ nhiều đời trước, cho nên hôm nay mới có
diễm phúc được nghe kinh này. Ước mong qúy vị mỗi ngày nên
phát Bồ đề tâm tu hành và truyền bá kinh này được phổ cập
quần sanh. Thế là chúng ta đã đền đáp được ơn Phật mà cũng
thực hành theo hạnh Phật là “Tự giác giác tha, giác hạnh
viên mãn”.