|
Mục Lục Khóa Thứ Ba
Thinh Văn
Thừa Phật Giáo
01 Khái niệm tổng quát về Tứ diệu đế
02 Khổ đế
03 Tập đế
04 Tập đế
(tiếp theo)
05 Diệt đế
06 Diệt đế
(tiếp theo)
07 Ðạo đế
(Tứ niệm xứ)
08 Ðạo đế
(Tứ chánh cần)
08-2 Ðạo đế
(Tứ như ý túc)
09 Ðạo đế
(Ngũ căn Ngũ lực)
09-2 Ðạo đế
(Thất bồ đề phần)
10 Ðạo đế
(Bát chánh đạo)
Bài Thứ 1
Khái
Niệm Tổng Quát Về Tứ Diệu Ðế (Ariya Saccani)
A.Mở Ðề
Nguyên Nhân Và Hoàn
cảnh Ðức Phật Thích Ca Giảng Về Pháp Tứ Diệu Ðế Lần Ðầu
Tiên
Ðức Phật Thích Ca, sau
khi thành đạo dưới cội cây bồ đề, liền nghĩ đến việc đem
giáo lý của Ngài vừa chứng được, ra truyền bá cho chúng
sanh. Nhưng giáo lý của Ngài là giáo lý cao siêu, thâm diệu,
còn chúng sanh phần đông căn cơ còn thấp kém, khó có thể
giác ngộ nhanh chóng như Ngài được. Nhưng không lẽ vì giáo
pháp của Ngài thậm thâm vi diệu mà không giáo hóa chúng
sanh? Ðể làm tròn nhiệm vụ hóa độ của Ngài, Phật phương tiện
nói pháp Tứ Diệu Ðế là Tiệm giáo để cho chúng sanh dễ bề tu
hành.
Quan sát căn cơ năm
người bạn đồng tu với Ngài trước kia là nhóm ông Kiều Trần
Như, có thể khai ngộ được với pháp Tứ Diệu Ðế, đức Phật đi
đến Lộc Uyển là nơi họ đang tu hành để nói pháp Tứ Diệu Ðế.
Sau khi nghe Phật
thuyết pháp Tứ Diệu Ðế, thành kiến mê lầm tan vỡ, trí huệ
siêu thoát xuất hiện, năm vị này được ngộ đạo, chứng nhập
quả vị A La Hán. Ðó là năm vị đệ tử đầu tiên của đức Phật
Thích Ca.
từ đây về sau, Tứ Diệu
Ðế là giáo lý căn bản về Tiệm giáo (phương pháp tu chứng từ
từ) và đã giác ngộ cho không biết bao nhiêu đệ tử của Phật.
Ngày nay, chúng tôi đem
giáo pháp Tứ Diệu Ðế ra trình bày với quí vị độc giải trong
tập sách này, cũng không ngoài mục đích ấy.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa Về Tứ
Diệu Ðế
Tứ là bốn; Diệu là hay
đẹp, quý báu, hoàn toàn; Ðế là sự chắc chắn, rõ ràng đúng
đắn nhất. Chữ Phạn là Ariya Saccani.
Tứ diệu đế là bốn sự
thật chắc chắn, quí báu, hoàn toàn nhất, không có một giáo
lý ngoại đạo nào có thể sánh kịp. Với bốn sự thật mà Ðức
Phật đã phát huy đây, người tu hành có thể từ địa vị tối
tăm, mê mờ, đi dần đến quả vị giác ngộ một cách chắc thật,
không sai chạy, như một ngọn đuốc thiêng có thể soi đường
cho người bộ hành đi trong đêm tối đến đích. Vì cái công
dụng quí báu, mầu nhiệm, vô cùng lợi ích như thế nên mới gọi
là Diệu.
Chữ Ðế còn có nghĩa là
một Sự Thật lớn nhất, cao nhất, bao trùm tất cả các Sự Thật
khác, và muôn đời bất di bất dịch, chứ không phải là sự thật
hạn cuộc trong không gian và thời gian.
Trong giáo lý Tiểu thừa
thì Tứ Diệu Đế là giáo lý căn bản.
II. TỨ Diệu Ðế Gồm
Những Gì?
Tứ diệu đế là: Khổ đế,
Tập đế, Diệt đế và Ðạo đế.
1. Khổ đế ( Dukkha).
Khổ đế là chân lý chắc thật, trình bày rõ ràng cho chúng ta
thấy tất cả những nỗi đau trên thế gian này mà mỗi chúng
sinh đều phải chịu, như Sống là khổ, Ðau là khổ, Già là khổ,
Chết là khổ V.V..những nỗi khổ dẫy đầy trên thế gian, bao
vây chúng ta, chìm đắm chúng ta như nước biển. Do đó, Ðức
Phật thường ví cõi đời là một bể khổ mênh mông.
2. Tập đế (Sameda
Dukkha). Tập đế là chân lý chắc thật, trình bày nguyên nhân
của bể khổ trần gian, là lý do vì đâu có những nỗi khổi ấy.
Khổ đế như là bản kê hiện trạng của chứng bệnh; còn Tập đế
như là bản nói rõ nguyên nhân của chứng bệnh, lý do vì sao
có bệnh.
3. Diệt dế (Nirodha
Dukkha). Diệt đế là chân lý chắc thật, trình bày rõ ràng
hoàn cảnh quả vị an lành, tốt đẹp mà chúng sanh sẽ đạt đến
khi đã diệt trừ được những nỗi khổ và những nguyên nhân của
đau khổ. Diệt đế như là một bản cam đoan của lương y nói rõ
sau khi người bệnh lành thì sẽ ăn ngon, ngủ yên như thế nào,
thân thể sẽ tráng kiện, tâm hồn khoan khoái như thế nào.
4. Ðạo đế (Nirodha
Gamadukkha). Ðạo đế là những phương pháp đúng đắn, chắc thật
để diệt trừ đau khổ. Ðó là chân lý chỉ rõ con đường quyết
định đi đến cảnh giới Niết Bàn. Nói một cách giản dị, đó là
những phương pháp tu hành để diệt khổ và được vui.
Ðạo đế cũng như cái toa
thuốc mà vị lương y đã kê ra để người bịnh mua và những lời
chỉ dẫn mà bịnh nhân cần phải y theo để lành bệnh.
III. Bố Cục Kỳ Diệu
Của Tứ Diệu Ðế
Tứ diệu đế đã được Ðức
Phật sắp đặt theo một thứ tự rất khôn khéo, hợp lý, hợp
tình. Ngày nay các nhà nghiên cứu Phật học Âu Tây, mỗi khi
nói đến Tứ Diệu Ðế, ngoài cái nghĩa lý sâu xa, nhận xét xác
đáng, còn tóm tắt tán thán cái kiến trúc, cái bố cục, cái
thứ lớp của toàn bộ pháp môn ấy.
Trước tiên, đức Phật
chỉ cho chúng sanh thấy cái thảm cảnh hiện tại cỉa cõi đời.
Cái thảm cảnh bi đát nầy có nằm ngay trước mắt ta, bên tai
ta, ngay trong chính mỗi chúng ta; những sự thật có thể
thấy, nghe, ngửi, nếm, rờ được, chứ không phải những sự thật
xa lạ ở đâu đâu. Ðã là một chúng sanh, ai không có sanh, ai
không đau ốm, ai không già, ai không chết v.v...? Và những
trạng thái ấy đều mang theo tánh chất khổ cả. Ðã có thân,
tất phải khổ. Ðó là một chân lý rõ ràng, giản dị, không ai
là không nhận thấy, nếu có một chút ít nhận xét.
Khi chỉ cho mọi người
thấy cái khổ ở trước mắt, ở chung quanh và chính trong mỗi
chúng ta rồi, đức Phật mới đi qua giai đoạn thứ hai, là chỉ
cho chúng sanh thấy nguồn gốc, lý do của những nỗi khổ ấy.
Ngài đã từ hiện tại đi dần về quá khứ, đã từ bề mặt đi dần
xuống bề sâu, đã từ cái dễ thấy đến cái khó thấy. Như thế là
lý luận của Ngài đã đặt căn bản lên thực tại, lên những điều
có thể chứng nghiệm được, chứ không phải xa lạ, viễn vong,
mơ hồ.
Ðến giai đoạn thứ ba,
đức Phật nêu lên trình bày cho chúng ta thấy cái vui thú của
sự hết khổ. Giai đoạn nầy tương phản với giai đoạn thứ nhứt:
giai đoạn trên khổ sở như thế nào, thì giai đoạn nầy lại vui
thú như thế ấy. Cảnh giới vui thú mà Ngài trình bày cho
chúng ta thấy ở đây, cũng không có gì là mơ hồ, viễn vong,
vì nếu đã có cái khổ là có cái vui. và khi đã thấy rõ được
cái khổ như thế nào, thì mới hăng hái tìm cách thoát khổ và
khao khát hướng đến cai vui mà đức Phật đã giới thiệu.
Ðến giai đoạn thứ tư là
giai đoạn Phật dạy những phương pháp để thực hiện cái vui
ấy. Ở đây chúng ta nên chú ý là đức Phật trình bày cảnh giới
giải thoát trước, rồi mới chỉ bày phương pháp tu hành sau.
Ðó là một lối trình bày rất khôn khéo, đúng tâm lý: trước
khi bảo người ta đi, thì phải nêu mục đích sẽ đến như thế
nào, rồi để người ta suy xét, lựa chọn có nên đi hay không.
nếu người ta nhận thấy mục đích ấy cao quý, đẹp đẽ, khi ấy
người ta mới hăng hái, nỗ lực không quản khó nhọc, để thực
hiện cho được mục đích ấy.
Như thế, chúng ta có
thể phác họa lại cái bố cục của bức họa Tứ Diệu Ðế như sau:
Chúng ta đang đứng
trước một bức họa vĩ đại gồm có hai phần chính: Phần dưới là
một bể thẳm mênh mông, sóng gió tơi bời, trong ấy thuyền bè
đang bị đắm chìm, với vô số nạn nhân đang lặn hụp, kêu la,
khóc lóc, chới với...(Khổ đế).
Trong cái phần nầy của
bức tranh, ta cũng thấy được những nguyên nhân gây ra những
thảm họa ấy: đó là những luồng gió dục vọng, tham, sân, si..
những đám mây vô minh đen nghịt, che khuất cả mặt trời (Tập
đế).
Nhìn đến phần trên của
bức họa, ta thấy quang cảnh dần dần sáng sủa, yên tĩnh; ở
đây, giông tố không đến được, không có những vực sâu, hố
hiểm, không có những nạn nhân đang rên siết, khóc than...đây
là một miền cao nguyên, cang lên cao, cảnh trí càng đẹp đẽ,
yên vui. Người ở đây trông có vẻ bình tĩnh, thảnh thơi, vui
vẻ lắm; và cũng như cảnh trí, những người càng ở tầng bậc
cao thì lại càng có dung mạo đẹp đẽ, cốt cách phương phi,
giải thoát...(Diệt đế).
Trong
phần nầy, nếu chúng ta chú ý nhìn rõ, thì thấy từ một cảnh ở
dưới lên một cảnh trên, có những con đường đi với những cái
bản đề tên đường đi, rất hay như: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần,
Tứ như ý túc,. Bát chánh đạo v.v...Trên những con đường ấy,
có rất nhiều người đang đi lên, và rất ít người đi xuống. và
càng lên cao thì con đường lại càng rộng rãi mát mẻ, tốt đẹp
và những khách bộ hành lại càng mang rất ít hành lý...(Ðạo
đế).
Bức họa ấy có ghi mấy
chữ ở phần dưới là: "Thế gian" và phần trên là "Xuất thế
gian".
Ðây, bức họa Tứ Diệu Ðế
rõ ràng trình bày ra trước mắt chúng ta hai cảnh giới: Thế
gian và Xuất thế gian, tương phản như thế đó. Những ai đã
nhìn được bức họa ấy, tất đều có một thái độ là muốn xa lành
cảnh ở phần dưới và mong ước được sống trong cảnh giới trình
bày ở phần trên bức họa.
VI. Ðịa Vị Quan
Trọng Của Tứ Diệu Ðế Trong Toàn Bộ Giáo Lý Của đức Phật
Thích Ca
Tứ Diệu Ðế là giáo lý
căn bản của đạo Phật, không phải riêng đối với Tiểu Thừa mà
chung cho cả Ðại Thừa nữa. Người tu hành muốn có một kết quả
chắc chắn, không thể bỏ qua Tứ Diệu Ðế được. Pháp môn nầy,
tuy tiến chậm, nhưng khi tiến được bước nào là chắc bước
nấy. Pháp môn nầy tuy không đưa thẳng người tu hành đến quả
vị Phật, nhưng với một sự tinh tấn và quyết tâm nó có thể dễ
dàng đưa người tu hành đến quả vị A La Hán. Rồi từ quả vị A
La Hán, hành giả sẽ tu thêm một pháp môn khác của Ðại Thừa,
để tiến đến quả vị Phật. Căn cơ nào, trình độ nào cũng có
thể tu theo pháp môn nầy được, chứ không phải như một số
pháp môn khác, phải cần có một trình độ học thức cao và một
trí tuệ trên mức trung bình mới có thể theo được. Vì thế, nó
là một pháp môn phổ thông cho cả hai phái Tiểu Thừa lẫn Ðại
Thừa, Nam tông và Bắc tông. Ngày nay pháp môn này là pháp
môn được phổ biến nhất trên thế giới. Các Phật tử Âu Mỹ hầu
hết đều tu theo pháp môn nầy là những tập sách nghiên cứu về
đạo Phật, của những nhà Phật học tây phương đều nói nhiều
nhất về Tứ Diệu Ðế.
C. Kết Luận
Phật Tử Phải Học và
Thực Hành Pháp Tứ Diệu Ðế
Một giáo lý căn bản,
quan trọng như Tứ Diệu Ðế, người Phật tử không thể không
hiểu được. Không hiểu biết về Tứ Diệu Ðế là không hiểu biết
gì về giáo lý đạo Phật cả. Người Phật tử, hơn ai cả, phải
thấu triệt cõi đời là khổ. Muón thế, không gì hơn là hãy
lắng nghe đức Phật dạy về Khổ đế, vì chỉ có Khổ đế mới nói
lên một cách tường tận đầy đủ, chính xác về mọi nỗi khổ đau
của cõi đời.
Thấy rõ được mọi nỗi
khổ đau rồi, ta cần tìm hiểu vì đâu có khổ, nguyên nhân của
khổ là đâu. Vì chỉ khi nhận thấy được nguồn gốc của nó, mới
có thể diệt trừ tận gốc nó được. Ðiều này, cũng không chỗ
nào nói rõ ràng, phân tích ràng mạch bằng Tập đế. Nhưng thấy
được mọi nỗi đau khổ của cõi đời và nguồn gốc của nó, không
phải để mà chán ngán, khóc lóc, rên siết. Nếu thế thì không
có gì tiêu cực bi quan bằng. Một sô dư luận tưởng lầm đạo
Phật là yểm thế bi quan là vì họ đã dừng lại ở hai phần đầu
của Tứ Diệu Ðế.
Nhưng người Phật tử
không dừng lại đó. Ðã thấy đau khổ làm cho cuộc đời xấu xa,
đen tối, khổ đau, thì phải diệt trừ đau khổ. Hạnh phúc không
đâu xa, hạnh phúc hiện ra sau khi đã diệt trừ được đau khổ.
Ðau khổ lùi chứng nào thì hạnh phúc đến chứng ấy, như bóng
tối tan đi đến đau thì ánh sáng thay vào đến đó. Muốn thấy
ánh sáng của Niết Bàn thì phải thực hiện những lời dạy của
Phật trong Diệt đế.
Muốn thực hiện Niết Bàn
thì phải có đủ phương tiện. Những phương tiện nầy, đức Phật
đã cung cấp một cách đầy đủ trong trong Ðạo đế.
Như thế, đức Phật Thích
Ca đã làm đầy đủ nhiệm vụ của kẻ dẫn đường cho chúng ta đi
từ cõi đời đen tối đến quả vị A La Hán. Ngài đã đặt vào tay
chúng ta một bản đồ chỉ dẫn rõ ràng về cuộc hành trình và
ban cho chúng ta đầy đủ phương tiện cần thiết trong chuyến
đi vĩ đại ấy.
Chúng ta chỉ còn lên
đường và bước đi.
|
Bài Thứ 2
Khổ Ðế
(Dukkha)
A. Mở Ðề
Ðời Là Một Biển Khổ Ðầy
Mồ Hôi Và Nước Mắt
Có một số người cho
rằng đời là một bữa tiệc dài, không hưởng thụ cũng uổng. Do
đó, họ không để lỡ một dịp nào có thể đem lại cho họ những
khoái lạc vật chất.
Nhưng họ không ngờ rằng
những khoái lạc ấy điều là giả dối, lừa phỉnh, chẳng khác gì
cái khoái lạc mong manh của người khát mà uống nước mặn,
càng uống lại càng khát; và cổ họng, sau cái phút uống vào,
lại thêm đắng chát.
Khế kinh có câu: "Nước
mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển". Thật thế ! Cõi đời
không vui, cõi đời toàn là khổ. Những nỗi vui, nếu có, cũng
chỉ là tạm bợ, hào nhoáng như một lớp sương bên ngoài mà
thôi; chứ bản chất của cõi đời là đau khổ. Cõi đời là một
biển đầy mồ hôi và nước mắt, trong ấy chúng sinh đang bơi
lội, hụt lặn, chìm nổi, trôi lăn. Ðó là sự thật. Nhưng sự
thật ấy, không ai nhìn thấy một cách tường tận và nói lên
một cách rõ ràng như đức Phật đã nói trong khổ đế, phần thứ
nhứt của Tứ Diệu Ðế.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa Chữ Khổ
Ðế (DUKKHA)
Khổ đế do chữ Dukkha mà
ra. "DU", nghĩa là khó; "KKHA" là chịu đựng, khó kham nhẫn.
Dukkha nghĩa là đắng; nghĩa rộng là những cái gì làm cho
mình khó chịu, mình đau đớn như: ốm đau, đói khát, buồn rầu,
sợ hãi v.v..
"ÐẾ" là một sự thật
vững chắc, đúng đắn, hoàn toàn, cao hơn cả.
Khổ đế, là sự thật đúng
đắn vững chắc cao hơn cả về sự khổ ở thế gian. Sự thật nầy
nó rõ ràng, minh bạch không ai có thể chối cãi được.
Dưới đây, chúng ta hãy
nghe đức Phật giải bày một cách tường tận, sâu sắc, tỉ mỉ về
sự khổ của thế gian.
II. Luận Về Sự Khổ
Của Thế Gian
Kể cho hết cả sự khổ ở
thế gian, thì không bao giờ cùng. Song căn cứ theo kinh
Phật, có thể phân loại ra làm ba thứ khổ (tam khổ) hay tám
thứ khổ (bát khổ).
1. Ba khổ: Ba thứ khổ
là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
a) Khổ khổ. Cái
khổ chồng chất lên cái khổ, bản thân đã là khổ, mà hoàn cảnh
chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là "Khổ khổ"
Thật thế, mỗi một chúng
sanh, tự mình đã là nạn nhân của bao nhiêu cái khổ, cái xấu
xa; thân thể là một bầu thịt xương dơ bẩn, nếu một vài ngày,
không săn sóc, rửa ráy, thì thối tha không thể chịu đựng
được. Hơn nữa, cái thân ấy cũng không bền chắc, mà trái lại
rất mong manh: khát nước độ ba ngày, ngạt thở độ năm phút,
đứt một mạch máu, bị nhiễm một số vi trùng độc...thế là mạng
vong.
Lại trên cái khổ sống
chết bất ngờ mà con người không làm chủ được, còn nhiều cái
khổ khác nữa chất chồng, không sao tránh khỏi được như: bệnh
tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, áp bức, sưu
cao thuế nặng v.v...Vì thế nên gọi là "khổ khổ".
b) Hoại khổ.
Trong Khế kinh chép: "Phàm vật có hình tướng đều phải bị
hoại diệt". Thực thế, vạn vật trong vũ trụ đều bị luật vô
thường chi phối, không tồn tại mãi được. Cứng rắn như sắt
đá, lâu năm cũng mục nát; to lớn như trái đất, mặt trăng,
mặt trời lâu ngày cũng tan rã. Yếu ớt, nhỏ nhen như thân
người, thì mạng sống lại càng ngắn ngủi, phù du! Cái búa tàn
ác của thời gian đập phá tất cả; mỗi phút mỗi giây ta sống,
cũng là mỗi phút mỗi giây ta đang bị hủy hoại. Và dù ta có
sức mạnh bao nhiêu, quyền thế bao nhiêu, giàu có bao nhiêu
cũng không thể cản ngăn, chống đỡ không cho thời gian hủy
diệt đời ta. ta hoàn toàn bất lực trước thời gian. Thật là
khổ sở, tủi nhục, đớn đau !.
c) Hành khổ. Về
phương diện vật chất, ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối,
phá hoại; còn về phương diện tinh thần, ta cũng không hề tự
chủ, yên ổn, tự do được. tâm hồn ta thường bị dục vọng dằn
vặt, lôi kéo, thúc đẩy từng phút từng giây. tư tưởng ta cũng
luôn luôn biến chuyển nhảy vọt lăng xăng từ chuyện này sang
chuyện khác, như con ngựa không cương, như con vượn chuyền
cây, không bao giờ dừng nghỉ. Thật là đúng như lời Phật dạy:
"tâm viên, ý mã".
Nếu xét sâu xa hơn nữa,
ta sẽ thấy tâm hồn ta còn bị cái phần bên trong kín sâu, nằm
dưới ý thức, là phần tiềm thức chi phối, sai sử một cách vô
cùng mãnh liệt trong mỗi ý nghĩ, cử chỉ hành động của chúng
ta. ta giận, ta thương, ta ghét, ta muốn thứ này, ta thích
thứ kia, phần nhiều là do tiềm thức ta sai sử, ra mệnh
lệnh.
Nói tóm lại, ta không
được tự do, ta bị chi phối bởi những ý tưởng, dục vọng, tiềm
thức, và luôn luôn chịu mệnh lệnh của chúng. Ðó là "Hành
khổ".
2. Tám khổ: nếu chúng
ta phân tích tỉ mỉ hơn, thì cái khổ của thế gian có thể chia
ra làm tám loại. tám loại này tựu trung cũngk ngoài ba khổ
kia.
Tám loại khổ: sanh
khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc
khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Dưới đây chúng
ta hãy nói rõ về tám nỗi khổ ấy.
a) Sanh khổ: Sự
sanh sống của con người có hai phần khổ: Khổ trong lúc sanh,
khổ trong đời sống.
Khổ trong lúc sanh.
Người sanh và kẻ bị sanh đều khổ cả. Khi người mẹ mới có
thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dả dượi, bất
thần...Thai mỗi ngày mỗi lớn, thì người mẹ mỗi ngày mỗi mệt
mỏi, nặng nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp. Ðến khi
gần sanh, sự đau đớn của người mẹ không sao nói xiết. Dầu
được thuận thai đi nữa, mẹ cũng phải chịu dơ uế nhiều ngày,
yếu đuối nhiều tháng, vì tinh huyết hao mòn, ngũ tạng suy
kém. Còn rủi bị nghịc thai, thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn
nhiều nữa. Có khi sau một lần sinh bị giải phẩu, mẹ phải
chịu tật suốt đời.
Còn con, từ khi mới đầu
thai cho đến lúc chào đời, cũng phải chịu nhiều điều khổ sở.
Trải qua chín tháng mười ngày, con bị giam hãm trong khoảng
tối tăm, chật hẹp, còn hơn cả lao tù ! Mẹ đói cơm, khát
nước, thì con ở trong thai bào lỏng bỏng như bong bóng phập
phều. mẹ ăn no thì con bị ép như bồng bột bị đè dưới thớt
cối, khó bề cựa quậy. Ðến kỳ sanh sản, thân con phải chen
qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bể, nên khi vừa thoát ra
ngoài, liền cất tiếng khóc vang: "Khổ a ! Khổ a !". Thật
đúng như hai câu thơ của Ôn Như Hầu:
"Thảo nào lúc mới chôn
nhau
Ðã mang tiếng khóc ban
đầu mà ra !"
Khổ trong đời sống. Về
phương diện vật chất, hay tinh thần, đời sống đều có nhiều
điều khổ sở.
Về vật chất, con người
đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, đồ
mặc, nhà ở, thuốc men. Muốn có những nhu cầu ấy, con người
phải cần lao kham khổ, đổ mồi hôi, sôi nước mắt, mới mua
được chén gạo, bát cơm, manh quần, tấm áo. Về nhà ở, thì có
khi suốt đời vất vả làm lụng, vẫn không đủ sức tạo được một
ngôi nhà nho nhỏ.
Nhưng chẳng phải đợi
đến cảnh đói khát mới gọi khổ; ăn uống thất thường, thiếu
thốn cũng đã là khổ rồi. Chẳng đợi phải lâm vào cảnh màn
trời chiếu đất, hay ăn lông ở lỗ mới gọi là khổ; áo quần
không đủ ấm, nhà cửa không che được nắng mưa, cũng đã là khổ
rồi. Nhưng nào phải chỉ có những người nghèo hèn mới khổ
đâu? Người giàu có cũng cứ khổ như thường: muốn có tiền, tất
phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt mặt tối
trong công việc, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có được, chứ
đâu phải tiền bạc ở trên hư không rơi xuống cho đâu ! Ðó là
còn chưa nói dến những nỗi khổ vật chất bất thường khác nữa
mà không ai có thể tránh khỏi được.
Về phương diện tinh
thần, đời người cũng có nhiều điều khổ nhục, có nhiều khi
còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Không nói gì
nhiều, chỉ xin đơn cử ở đây một thí dụ về nỗi khổ trong sự
học hỏi.
Muốn tìm lẽ phải, chơn
lý, đạo đức, tất phải gia công học hỏi nhiều năm cả về
phương diện lý thuyết lẫn thực nghiệm. Về lý thuyết ta học
trong sách vở với thầy với bạn hay tự học. Về thực nghiệm ta
cũng gặp lắm điều khổ sở, khó khăn. Như học lý thuyết với
thầy ở trường, lắm khi gặp bài khó, lại thêm thầy giảng dạy
quá cao, học trò không thu nhận được gì hết, thế là người
giận kẻ buồn khổ tâm quá ! Còn tự học ở nhà với quyển sách
trơn, có lúc gặp đoạn văn mắc mỏ, lại không đủ tài liệu tra
cứu thêm, bị bít lối ra, rồi khởi tâm tức giận buồn phiền,
cũng là khổ. Về sự học thực nghiệm ở đời, lắm khi cũng phải
trả một giá rất đắc. ta sẽ bị người này phỉnh gạt, người kia
áp bức, kẻ nọ oán thù, kẻ kia khinh bỉ...bao nhiêu hạng
người là bấy nhiêu tâm tánh. Và hiểu đời được một phần nào
là ta đã phải chịu đựng biết bao nhục nhã, khổ đau.
Tóm lại, về vật chất
hay tinh thầnh, sự sống mang theo nhiều cái khổ. Sanh khổ là
thế.
b) Lão khổ. Ca
dao có câu:
"Già nua là cảnh cảnh
điêu tàn
Cây già cây cỗi, người
già người si".
Con người đến lúc già,
thân thể hao mòn, tinh thần suy kém, nên khổ thể xác lẫn
tinh thần.
Khổ thể xác. Càng già,
khí huyết càng hao mòn. Bên trong, ngũ tạng, lục phủ càng
ngày càng mỏi mệt, hoạt động một cách yếu ớt; bên ngoài các
giác quan dần dần hư hoại, như mắt mờ, tai điếc, mũi nghẹt,
lưỡi đớ, tay chân run rẩy, đi đứng khó khăn, việc gì cũng
nhờ vả kẻ khác.
Ðã vậy, mỗi khi thời
tiết xoay trở thì cảm nhiễm theo khí hậu mà đau, như trời
mới nắng thì đã sốt, trời mới mưa thì đã rét v.v.. không
chút gì gọi là vui thú cả !
Khổ tinh thần. Người
xưa có nói: "Ða thọ, đa nhục". Thật thế, tuổi nhiều, nhục
lắm ! Càng già thân thể càng suy kém thì trí tuệ cũng càng
lu mờ. Do đó, sanh ra lẫn lộn, quên trước, nhớ sau, hành
động như kẻ ngây dại: ăn dơ, uống bẩn; nói năng giống người
mất trí; ăn rồi bảo chưa ăn, chưa ăn bảo ăn rồi; có khi lại
còn chửi bới, nói nhảm nhí làm trò cười cho lũ trẻ. Thật
đúng là "Lão khổ".
c) Bệnh khổ.
Hành hạ xác thân con người, làm cho nó khổ sở không gì hơn
là cái đau ! Ðã đau, bất luận là đau gì, từ cái đau lăt vặt
như đau răng, nhức đầu, đến cái đau trầm trọng như phung,
lao v.v...đều làm cho con người phải rên xiết, khổ sở, khó
chịu. Nhất là những bệnh trầm kha (lâu ngày khó chữa), thì
lại càng hành hạ xác thân, đắng cơm, nghẹn nước, cầu sống
không được, cầu chết cũng không, oan oan ương ương, thật là
khổ não.
Thân đã đau, mà tiền
lại hết. Có nhiều người sau một lần đau, chỉ còn hai bàn tay
trắng ! Cho nên ngạn ngữ có câu: "Không đau làm giàu biết
mấy".
Ngoài ra, bệnh tật lại
còn làm cho lục thân quyến thuộc buồn rầu, lo sợ. Mỗi lần
trong nhà có người đau, thì cả gia quyến đều rộn rịp, băn
khoăn ngồi đứng không yên, quên ăn quên ngủ, biếng nói,
biếng cười, bỏ công ăn việc làm. thật đúng là "Bệnh khổ".
d) Tử khổ. Trong
bốn hiện tượng của vô thường; sanh, già, bệnh, chết thì
"chết" là cái làm cho chúng sanh kinh hãi nhất. Con người sợ
chết đến đổi ở trong hoàn cảnh sống thừa, đáng lẽ không nên
sống làm gì nữa, thế mà nghe nói đến cái chết, cũng sợ không
dám nghĩ đến. Những người xấu số bị bịnh nan y như ung thư,
bịnh hũi, sống thêm một ngày là khổ thêm một ngày, thế mà
những người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống mà thôi.
Cái chết làm khổ con
người như thế nào mà ai cũng sợ hãi thế?
Về thân xác. Có mục
kích một người bệnh khi hấp hối bị hành xác rồi mới biết cái
chết là đáng sợ. người sắp chết, mệt ngột không ngằn, trợ
mắt, méo miệng, giựt gân chuyển cốt, uốn mình, giăng tay, bẻ
chân...Trong lúc ấy tai hết nghe, mắt hết thấy, mũi hết thở,
miệng hết nói. Rờ thử vào người chết, thì thấy lạnh ngắt như
đồng, thân cứng đơ như gỗ. xác chết dần dần sình lên, trong
rất ghê tởm; nếu để lâu ngày lại nứt ra, chảy nước tanh hôi
khó chịu vô cùng.
Về tinh thần. Khi sắp
chết, tâm thần rối loạn, sợ hãi vô cùng: phần xót thương cha
mẹ, vợ chồng, anh em, con cái từ đây đoạn tuyệt, phần lo
mình một thân cô quạnh, bước sang thế giới mịt mù xa lạ.
Thật không còn gì đau khổ bằng phút chia ly vĩnh viễn này !
Tóm lại, cái chết làm
cho thân thể tan rã, thần thức theo nghiệp dẫn đi thọ sanh ở
một cõi nào chưa rõ. Thật là "tử khổ".
e) Ái biệt ly khổ.
Trong cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em
đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly, thì thật không có
gì đau đớn hơn. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.
Sanh ly khổ. Một gia
đình đang sống trong cảnh đàm ấm vui vầy, bỗng bì hoàn cảnh
bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy đến, như giặc
giã, bão lụt...làm cho mỗi người bơ vơ thất lạc mỗi nơi: kẻ
đầu này trông đợi, người gốc kia nhớ chờ. thật đau lòng xót
dạ ! Người đời thường nói: "Thà lìa tử, chứ ai nỡ lìa
sanh?". Ðó là cái khổ của "Sanh ly".
Tử biệt khổ. Nhưng mặc
dù xã cách nhau người sống còn có ngày gặp gỡ; chứ chết rồi
bao thuở được vum vầy? Vì vậy, đứng trước cảnh chết, là một
sự biệt ly vĩnh viễn, con người không ai là chằng khổ đau.
Do đó, lâm phải cảnh tử biệt này, có người đã xót thương rầu
rĩ đến quên ăn, bỏ ngủ, có người đau đớn, tuyệt vọng đến nỗi
toan chết theo người quá cố. Ðó là cái khổ của "tử biệt".
g) Cầu bất đắc khổ
(thất vọng). Người ta ở đời, hễ hy vọng càng nhiều thì
thất vọng càng lắm. Bất luận trong một vấn đề gì, số người
được toại nguyện thì quá hiếm hoi, mà kẻ thất bại bất như ý,
thì không sao kể xiết. Muốn được kết quả tốt đẹp, người ta
phải vận dụng không biết bao nhiêu năng lực, lao tâm, tổn
trí, mất ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành
công. Thế rồi, chẳng may những điều mong ước ấy không thành,
sự đau khổ không biết đâu là bờ bến. Dưới đay, xin nêu lên
vài thí dụ về những thất vọng mà người đời thường gặp nhiều
nhất.
Thất vọng vì công danh.
Trong đời, danh vọng thường là một miếng mồi ngon mà phần
đông người đời ưa thích. Nhưng miếng mồi ấy, phải đâu dễ
giành giật được? Không nói gì đến những kẻ nhảy dù, muốn làm
quan tắt, nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường
hợp những kẻ mong cầu danh vọng một cách chánh đáng, bằng
năng lực, tài trí, học hỏi của mình. Ðối với những hạng
người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng may ra
mới được thành công. Thật đúng như lời Ôn Như Hầu Nguyễn gia
Thiều đã nói:
"Gót danh lợi, bùn pha
sắc xám
Mặt phong trần nắng nám
mùi dâu !"
Thất vọng vì phú quý.
Số người thất vọng vì công anh đã nhiều. Nhưng sô người thất
vọng vì phú quý cũng không phải ít. Muốn cho mau giàu, nhiều
người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi
mưu gian chước lận đỗ bể ra, tài sản bị tịch thu, bản thân
bị tù tội, gia quyến bị nhục nhã theo, thực là khổ !
Thất vọng vì tình
duyên. Tình duyên cũng là một điều làm cho bao người phải
điêu đứng, khổ sở. Trong trường tình ái, thử hỏi đã mấy ai
được toại nguyện? Nhan nhãn trên báo chí hằng ngày, những
câu chuyện tình duyên trắc trở đưa đến sự quyên sinh, thật
không sao kể xiết. Ðấy là "Cầu bất đắc khổ".
h) Oán tắng hội khổ.
Con người ở trong cảnh thương yêu, chẳng ai muốn chia ly;
cũng như ở trong cảnh hờn ghét, chẳng ai mong gặp gỡ. Nhưng
oái oăm thay ! Ở đời khi mong muốn được hội ngộ, lại phải
chia ly; cũng như khi mong ước được xa lìa, lại phải sống
chung đụng nhau hằng ngày ! Cái khổ phải biệt ly đối với hai
người thương yêu nhau như thế nào, thì cái khổi phải hội ngộ
đối với hai người ghét nhau cũng như thế ấy.
Người ta thường nói:
"Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt; ở chung với người
nghịch, như nếm mật, nằm gai".
Chưa nói đến trường hợp
những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con quyến thuộc,
giữa vợ chồng, anh em, khi vì một lý do gì đó, sanh ra bất
hòa với nhau, cũng đủ khó chịu rồi. Muốn lánh mặt nhau, mà
mỗi khi đi ra đi vào lại phải gặp nhau mãi ! Quyết không nói
chuyện với nhau, mà nhiều khi bắt buộc nín không được, phải
nói ra với sự ngượng ngùng. Ðịnh tuyệt giao hẳn, ngặt vì còn
phải ăn chung ở lộn một nhà, dầu cố sức trốn tránh, song lắm
lúc cũng phải giao thiệp lấy lệ. Thật là khổ. Ðấy là bà con
cật ruột, có tình cốt nhục, có nghĩa đồng bào, mà sự hờn
ghét còn thúc đẩy con người hết muốn thân mến, không mong
gặp gỡ nhau thay ! Huống chi đối với người dưng, nước lã,
khác giống, khác nòi, một khi đã thù ghét nhau rồi mà phải
sống bên cạnh nhau thì thế nào cũng có một ngày xảy ra đại
họa. Ðó là ý nghĩa của "Oán tắng hội khổ".
i) Ngũ ấm xí thạnh
khổ. Cái thân tứ đại của con người cũng gọi là thân ngũ
ấm (năm món che đậy): sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và
thức ấm. Với cái thân ngũ ấm ấy, con người phải chịu không
biết bao nhiêu là điều khổ. Giữa ngũ ấm ấy luôn luôn có sự
xung đột, mâu thuẫn, chi phối lẫn nhau. Vì sự xung đột, mâu
thuẫn ấy, nên cái thân con người mới chịu những cái khổi sau
đây:
Bị luật vô thường chi
phối không ngừng, từ trẻ đến già, từ mạnh đến ốm, từ đau đến
chết, luôn luôn làm cho con người phải lo sợ, buồn phiền.
Bị thất tình, lục dục
lôi cuốn, làm cho con người phải đắm nhiểm sáu trần, phải
khổ lụy thân tâm.
Bị vọng thức điên đảo
chấp trước, nên con người nhận thức một cách sai lầm: có ta,
có người, còn, mất, khôn dại, có không, và sanh ra rầu lo,
khổ não.
Ấy
là "Ngũ ấm xí thạnh khổ."
III. Ðức Phật Nêu Rõ
Những Nỗi Khổ Ấy Ðể Làm Gì?
Có người sẽ băn khoăn,
thắc mắc tự hỏi: Ðức Phật nêu lên một cách rốt ráo những nỗi
khổ của thế gian để làm gì? Cuộc đời đã đau khổ như thế, thì
nên che giấu bớt đi chừng nào hay chừng ấy, chứ sao lại lột
trần nó ra làm gì cho người ta càng thêm đau khổ? Ta cố gắng
tạo nên một ảo tưởng tốt đẹp về cuộc đời để sống an ổn trong
ấy, có hơn không? Ðứa trẻ nít sống một cách hồn nhiên, yên
ổn trong hạnh phúc, vì nó không biết đến những nỗi đau khổ,
xấu xa của cuộc đời. Tại sao ta lại không cố bắt chước như
chúng, đừng tìm biết gì cả về những sự xấu xa, khổ sở của
cõi đời, để sống một cuộc sống có hạnh phúc hơn? Ðức Phật là
một đấng thường được gọi là đấng từ bi, sao lại làm một vịệc
nhẫn tâm như thế?
Những câu hỏi thắc mắc
trên, mới nghe thì hình như có lý, nhưng nếu suy xét một
cách rốt ráo, sẽ thấy chúng là nông cạn. Ðức Phật không nhẫn
tâm khi nêu lên những nỗi khổ căn bản của cõi đời; chính là
vì lòng từ bi mà Ngài làm như thế. Ðức Phật muốn cho người
đời biết rõ những nỗi khổ của trần gian, vì những lợi ích
lớn sau đây:
1. Gặp cảnh không
khủng khiếp: Những nỗi khổ mà Ðức Phật nói ra ở trên là
những nổi khổ căn bản, không ai tránh khỏi được. Ðã sống,
tất phải gặp chúng. Có ai không ốm, không già, không chết?
Có ai suốt đời không gặp chia ly với người thân thuộc, không
bị chung sống với những kẻ thù nghịch? Có ai đạt được tất cả
những điều mình mong ước? Cho nên dù có muốn tạo ra một ảo
tưởng đẹp đẽ về cuộc đời để sống cho yên ổn, thì ảo tưởng
ấy, sớm hay muộn gì cũng sẽ bị thực tế phủ phàng xé tan đi
mất ! Và khi ấy, cuộc thế tràn truồng, xấu xí, ghê tởm sẽ
hiện ra một cách vô cùng đột ngột, trước mắt những kẻ thường
quen sống trong ảo tưởng đẹp đẽ. Bấy giờ những kẻ thiếu
chuẩn bị để sống một cuộc sống đau khổ, sẽ hoảng lên, vô
cùng tuyệt vọng và có nhiều khi không đủ can đảm để sống
nữa.
Trái lại, khi chúng ta
biết rõ cảnh Ta Bà này có nhiều điều khổ, thì gặp cảnh khổ,
chúng ta không đến nỗi khủng khiếp, tán loạn tinh thần, mà
trái lại, chúng ta sẽ điềm tĩnh nhẫn nại để tìm phương giải
thoát. Tỷ như nhà nông, biết bổn phận mình là phải vất vả
với nghề cày sâu cuốc bẫm, tay lấm chân bùn, mới có lúa gạo
để sống, nên gặp cảnh mưa tuôn, nắng táp cũng không nao núng
chút nào. Trái lại, một kẻ quyền quí, quen sống trong nhung
lụa, trong cảnh đền đài nguy nga, rủi gặp thời cuộc hổn
loạn, đôi thay bất ngờ, đâm ra kinh hãi và liều mình tự tử.
2. Không tham cầu
nên khỏi bị hoàn cảnh chi phối: Khi chúng ta rõ biết
cuộc đời vui ít buồn nhiều, và hễ càng ham muốn nhiều thì
lại càng đau khổ lắm, khi biết rõ như thế, chúng ta sẽ tiết
chế dục vọng của chúng ta và sẽ "biết đủ". Do đó, chúng ta
không bị hoàn cảnh chi phối, không bị sóng đời lôi kéo, vùi
dập chúng ta xuống vực thẳm mênh mông của cõi Ta Bà đen tối.
Tỷ như người trí, rủi bị giam cầm, biết lo nghĩ phương kế để
thoát ly lao ngục, chứ không như kẻ dại, trong khi ngồi tù,
chỉ lo tranh giành những món cơm thừa, canh cặn mà quên rằng
mình sẽ bị đem xử tử, nếu mình không sớm tìm kế thoát thân.
3. Gắng sức tu hành
để thoát khổ: Khi đã biết thân người nhiều khổ và cảnh
Ta Bà ít vui, con người mới mong ước được thoát ly ra khỏi
cảnh giới đen tối của mình và sống ở một cảnh giới tốt đẹp
hơn. Cũng như lũ trẻ đang chơi mê mẩn trong cảnh nhà đang
cháy, may nhờ đấng cha lành báo động, chúng mới biết và gấp
rút tìm đường thoát ra.
C. Kết Luận
Biết Khổ Phải Tìm
Nguyên Nhân Sanh Ra Khổ Ðể Diệt Trừ
Chúng ta đã được đức
Phật từ bi chỉ rõ cho thấy rằng cõi Ta Bà này, cũng như tam
giới đều là biển khổ. Kinh Pháp Hoa cũng nói: "Ba cõi không
an, ví như nhà lửa", tiếc vì chúng sinh mê muội, lấy khổ làm
vui mà không tự biết, nên phải bị trầm luân.
Nay chúng ta đã biết rõ
mặt thật xấu xí của đời rồi, đã biết nó là một biển khổ mênh
mông luôn luôn dậy sóng, thì ta phải nhàm chán nó, xã lánh
nó. Biết khổ để rồi chán đời, nản chí, buông xuôi tay ngồi
khóc than. Nhưng làm thế nào để thoát ly nó, nếu chúng ta
chưa rõ biết ngành ngọn, đường đi nước bước, chưa biết rõ vì
đâu phát sinh đau khổ? Nhà lương y giỏi muốn trừ bênh, phải
tìm căn nguyên của bệnh. Một viên tướng giỏi muôn trừ diệt
tận gốc bọn phiến loạn, phải cho điều tra kỹ lưỡng sào
huyệt, tổng hành dinh của chúng ở đâu, nhiên hậu mới có thể
bao vây, đánh bắt chúng nó đầu hàng một cách dễ dàng.
Cũng vậy, biết khổ chưa
đủ để diệt khổ. Muốn diệt khổ tận gốc phải tìm nguyên nhân
phát sanh ra khổ.
Nguyên nhân phát sanh
ra khổ, đức Phật đã thuyết trong đoạn thứ hai của tứ diệu đế
là Tập đế, mà quý độc giả sẽ đọc trong bài thứ ba của tập
sách này.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 3
Tập Ðế
(Sameda Dukkha)
A. Mở Ðề
Vì Sao Phật Nói Khổ Ðế
Trước và Tập Ðế Sau
Trong Khổ đế, chúng ta
đã thấy rõ những nỗi thống khổ của trần gian. Trước những
nỗi khổ ấy, không ai là không nhàm chán, ghê sợ cho cuộc đời
ở cảnh giới Ta Bà nầy, và không ai có thể an tâm, điềm nhiên
sống trong cảnh ấy. Nhiều câu hỏi liền nẩy ra trong đầu óc
chúng ta: Vì đâu sanh ra những nỗi khổ ấy? Ta có thể thoát
ra khỏi móng vuốt của chúng để sống ở một cảnh giới đẹp đẽ
hơn chăng? Và thoát ra bằng cách nào?
Ðó là những câu hỏi mà
đức Phật sẽ lần lượt giải đáp một các tường tận ở ba phần:
Tập, Diệt và Ðạo đế.
Ngay trong phần Tập đế
nầy, đức Phật giải đáp câu hỏi thứ nhứt của chúng ta là nói
rõ nguyên nhân của đau khổ.
Ðức Phật rất rành tâm
lý của chúng sanh, nên mới nêu lên cái khổ trước rồi mới nói
cái nhân sau. Nếu vào ngay đầu, Ngài nói: "Nầy các ngươi !
hãy nghe ta nói rõ những nguyên nhân sanh ra đau khổ đây !"
Nếu Ngài bảo như thế, chắc chúng ta sẽ không chú ý nghe cho
lắm, vì chúng ta, mặc dù là sống trong bể khổ, nhưng vì mê
mờ, chúng ta có thấy một cách tường tận và rùng rợn tất cả
những nỗi khổ của cảnh Ta Bà đâu? Có nhiều khi chúng ta còn
cho cảnh giới nầy là vui nữa là khác. Do đó, chúng ta không
thiết tha đi tìm nguyên nhân phát anh đau khổ. Chỉ khi nào
chúng ta đã ý thức một cách sâu sắc những nỗi khổ sở của
chúng ta, khi ấy chúng ta mới thấy sự băn khoăn khẩn cấp đi
tìm đường tự giải cứu cho chúng ta. Và muốn tự giải cứu, tất
chúng ta cầm tìm xem vì đâu mà có đâu khổ; như vị lương y,
muốn trị bệnh, trước phải tìm hiểu nguyên nhân sinh bệnh.
Nguyên nhâ sinh bệnh
khổ đau của chúng sanh, đức Phật gọi là Tập đế.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Tập đế: Tập là chứa
nhóm, dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn lên. Ðế là sự thật
vững chắc, đúng đắn hơn cả. Tập đế là sự thật đúng đắn, vững
chắc về nguyên nhân của những nỗi khổ đã chứa nhóm, tích trữ
lâu đời, lâu kiếp trong mỗi chúng sanh. Ðó là sự thật về cội
gốc của sanh tử, luân hồi, của bể khổ trần gian.
II. Nguyên Nhân Của
Ðau Khổ Là Những Gì?
Phật dạy: Cội gốc của
sanh tử luân hồi do các phiền não mê lầm là những dục vọng
xấu xa, những ý niệm sai quấy, làm não loạn thân tâm chúng
ta.
Phiền
não rất nhiều, nói rộng thì đến tám muôn bốn ngàn (84.000),
nói hẹp lại thì có mười phiền não gốc, gọi là căn bản phiền
não. Do mười phiền não gốc nầy mà sanh ra vô số phiền não
ngành ngọn (xin xem quyển Tu Tâm). Mười phép phiền não gốc
là:
1. Tham: Nghĩa
là tham lam. Tánh tham có động lực bắt ta phải dòm ngó, theo
dõi những cái gì nó ưa thích, như tiền tài, danh vọng, miếng
ăn, chỗ ở v.v...rồi nó xúi ta lập mưu nầy, chước nọ để tầm
kiếm cho được những thứ ấy. Ðiều tai hại nhất là lòng tham
không có đáy, thâu góp bao nhiêu cũng không vừa; được một
muốn có mười, được mười muốn có trăm. Tham cho mình chưa đủ,
còn tham cho bà con quyến thuộc và xứ sở của mình. Cũng vì
tham mà cha mẹ vợ con xung đột; cũng vì tham mà bè bạn chìa
lìa; cũng vì tham mà đồng bào trở lại xung đột, xâu xé nhau;
cũng vì tham mà chiến tranh tiếp diễn, giết hại không biết
bao sanh linh. Tóm lại, cũng vì tham mà nhân loại, chúng
sanh chịu không biết bao nhiêu điều thống khổ.
Tham không những hại
cho mình và cho người, trong hiện tại mà cả đến tương lai
nữa.
2. Sân: Nghĩa là
nóng giận. Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng, như lòng
tham không được toại nguyện, thì sân nổi lên, như một ngọn
lửa dữ đốt cháy lòng ta. Thế là mặt mày đỏ tía hay tái xanh,
bộ dạng thô bỉ, nói năng hung dữ, có khi dùng đến võ lực hay
khí giới để hạ kẻ đã làm trái ý, phật lòng ta. Vì nóng giận
mà cha mẹ, vợ con, anh em xa lìa, bạn bè ly tán; vì nóng
giận mà đồng bào trở nên thù địch, nhân loại đua nhau ra
chiến trường; vì nóng giận mà kẻ bị tàn tật, người vào khám
đường, kẻ mất địa vị, người tan sự nghiệp. Kinh Hoa Nghiêm
chép: "Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai",
nghĩa là một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp
chướng đều mở ra. Sách Phật chép: "Nhất tinh chi hỏa, năng
thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn", nghĩa là một đóm lửa
giận, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức. Thật vậy, lửa
sân hận đã bừng cháy lên giữa lòng nhân loại, và đã đốt
thiêu không biết bao nhiêu là công lao, sự nghiệp mà nhân
loại đã tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để tạo nên.
3. Si: Nghĩa là
si mê, mờ ám. Si như là một tấm màn dày đặc, đen tối trùm
lên trí huệ của ta, làm cho ta không thể nhìn thấy được sự
thật, phán đoán được cái hay, cái dỡ, cái tốt, cái xấu. Do
đó, ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi, làm hại mình,
hại người mà không hay. Vì si mà lòng tham trở thành không
đáy, bởi vì nếu người sáng suốt thấy cái tai hại của tham,
thì người ta đã kềm hãm được một phần nào tánh tham. Vì si
mà lửa sân tự do bùng cháy; nếu người sáng suốt biết cái tai
hại của lửa sân thì không để cho nó hoành hành như thế. Tổ
sư đã dạy: "Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác tri".
Nghĩa là không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ mình giác
ngộ chậm. Nói một cách dễ hiểu hơn: Không sợ tham và sân, mà
chỉ sợ si mê. Thật đúng như thế: Nếu tham, sân nổi lên, mà
có trí sáng suốt ngăn chận lại, thì tham, sân không thể tồn
tại được; như khi đã có ánh sáng mặt rời lên, thì bóng tối
tất nhiên phải tự tan biến.
Ba tánh tham, sân, si
này, Phật gọi là ba món độc; vì do chúng nó mà chúng sanh
phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân hồi, đọa vào địa ngục, ngạ
quỉ và súc sinh.
4. Mạn: Nghĩa là
tự nâng cao mình lên và hạ người khác xuống; tự thấy mình là
quan trọng mà khinh rẻ mọi người; ỷ mình có tiền của, tài
trí hay quyền thế mà dương dương tự đức, mục hạ vô nhân,
khinh người già cả, hỗn láo với người đức hạnh, chà đạp
người dưới, lấn lướt người trên.
Vì lòng ngã mạn cho
mình là hơn hết, nên chẳng chịu học hỏi thêm, không nghe lời
nói phải. Do đó, làm nhiều điều lầm lẫn sai quấy, phước lành
tổn giảm, tội lỗi càng tăng, phải chịu sanh tử luân hồi
không bao giờ cùng.
Mạn có bảy thứ:
a) Mạn: hơn người ít,
mà nghĩa mình hơn nhiều.
b) Ngã mạn: ỷ mình hay
giỏi mà lấn lướt người.
c) Quá mạn: mình bằng
người mà cho là hơn người, người hơn mình mà cho là bằng.
d) Mạn quá mạn: người
hơn mình nhiều mà cho mình hơn người.
đ) Tăng thượng mạn:
chưa chứng thánh quả mà cho mình đã chứng.
e) Ty liệt mạn: mình
thua người nhiều mà nói rằng thua ít.
g) tà mạn: người tu về
tà đạo, được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết được đôi
chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người.
5. Nghi: nghĩa
là nghi ngờ, không có lòng tin. Người nghi ngờ không làm nên
được việc gì hết. Ðối với người thân trong gia đình, họ
không tin cậy giao phó công việc; đối với bạn bè, họ nghi
ngờ tất cả mọi thiện chí. Ngay đối với mình, họ cũng không
tự tin nữa. Ðã không tự tin, họ còn gây hoang mang cho người
chung quanh, làm cho người thế gian ngã lòng, thối chí.
Ðối với đạo lý chân
chánh, họ cũng không hăng hái tin theo. Những pháp tu giải
thoát và các điều phước thiện, họ do dự không làm.
Nghi có ba phương
diện:
a) Tự nghi: Nghĩa là
nghi mình. Chẳng hạn như nghe chư Tăng bảo: "Tu hành sẽ được
giải thoát", nhưng lại tự nghi rằng: "Chẳng biết mình tu có
được không?". Vì lòng do dự nghi ngờ ấy, nên không tu.
b) Nghi pháp: Nghĩa là
nghi phương pháp mình tu. Chẳng hạn như nghe kinh Di Ðà nói:
"Người chí tâm niệm Phật, từ một ngày cho đến bảy ngày, được
nhất tâm bất loạn, đến khi lâm chung sẽ được Phật Di Ðà tiếp
dẫn sanh về nước Cực lạc"; nhưng họ lại nghi ngờ "Phương
pháp ấy không biết có kết quả đúng như vậy không? " Do sự
nghi ngờ đó mà không tu.
c) Nghi nhơn: Nghĩa là
nghi người dạy mình. Như có người dạy rằng: "Làm lành sẽ
được phước, làm ác sẽ bị tội"; nhưng lại nghi rằng: "Chẳng
biết người này nói có thật không ". Do sự nghi ngờ ấy mà
không làm.
Tóm lại, tánh nghi ngờ
làm cản trở sự tiến triển của mình, ngăn ngại mọi công tác
hữu ích và làm cho cuộc đời không vượt ra khỏi cảnh tối tăm
khổ sở.
6. Thân kiến:
Nghĩa là chấp thân ngũ ấm tứ đại giả hiệp này làm ta. Vì cái
chấp sai lầm ấy, nên thấy có một cái Ta riêng biệt, chắc
thật không biến đổi, thấy cái Ta ấy là riêng của ta, không
dính dấp đến người khác, và là một thứ rất quý báu. Vì tưởng
lầm như thế, nên kiếm món ngon, vật lạ cho ta ăn, may sắm
quần áo tốt đẹp cho Ta mặc, lo xây dựng nhà cao, cửa lớn cho
Ta ở, thâu góp thật nhiều của cải, đất ruộng để dành cho Ta
hãnh diện với mọi người. Do sự quý chuộng phụng sự cho cái
Ta ấy, mà tạo ra lắm điều tội lỗi, chà đạp lên bao nhiêu cái
Ta khác, làm cho họ đau khổ vì Ta. Và thế giới trở thành một
bãi chiến trường cũng vì cái Ta.
7. Biên kiến:
nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, có một thành
kiến cực đoan. Biên kiến có hai lối chấp sai lầm lớn nhất
là:
a) Thường kiến: nghĩa
là chấp rằng khi chết rồi, cái Ta vẫn tồn tại mãi: người
chết sẽ sanh ra người, thú chết sẽ trở lại thú, thánh nhơn
chết trở lại làm thánh nhơn. Do sự chấp ấy, họ cho rằng tu
cũng vậy, không tu cũng vậy, nên không sợ tội ác, không
thích làm thiện. Lối chấp này, đạo Phật gọi là "Thường kiến
ngoại đạo".
b) Ðoạn kiến: nghĩa là
chấp rằng chết rồi là mất hẳn. Ðối với hạng người chấp Ðoạn
kiến, thì hễ tắt thở là không còn gì tồn tại nữa; tội cũng
không mà phước cũng chẳng còn. Họ không tin nhân quả luân
hồi, nên mặc tình làm các điều tội lỗi. Họ tự bảo: "Tu nhơn
tích đức già đời cũng chết; hung hăng, bạo ngược tắt thở
cũng không còn".
Có người đối trước
những cảnh buồn lòng, nghịch ý, những chuyện tình duyên trắc
trở, tưởng rằng chết là hết đau khổ, là giải thoát tất cả,
nên họ đã không ngần ngại mượn chén thuốc độc, hay dòng sông
sâu để kết liễu đời mình. Họ đâu có ngờ rằng chết rỗi vãn
chưa hết ! Lối chấp này, kinh Phật gọi là "Ðoạn kiến ngoại
đạo".
8. Kiến thủ:
nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình.
Kiến thủ có hai phương
diện:
a) Kiến thủ vì không ý
thức được sai lầm của mình. hành vi của mình sai quấy, ý
kiến của mình sai lầm, nhưng vì không đủ sáng suốt để nhận
thấy, nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình, tự cho là
giỏi, ai nói cũng chẳng nghe.
b) Kiến thủ vì tự ái
hay vì cứng đầu. Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy
là dở, nhưng vì tự ái, cứ bảo thủ cái sai cái dở của mình,
không chịu thay đổi. Như ông biết trước đã lỡ theo tà đạo,
nay con cháu vẫn biết đó là tà, nhưng cứ theo như thế mãi
không chịu đổi. Họ cứ nói một cách liều lỉnh: "Xưa sao nay
vậy", hay "Xưa bày nay làm". Hay như cha mẹ trước đã lỡ làm
nghề tội lỗi, đến đời con cháu, vẫn cứ bảo thủ nghề ấy không
chịu thay nghề khác.
Nói rộng ra trong thế
giới, có một số đông người, mặc dù thời thế đã cải đổi, tiến
bộ mà họ cứ vẫn giữ lại những lề thói, cổ tục hủ bại mãi.
Chẳg hạn như ở Việt Nam ta, đến bây giờ mà vẫn có những Phật
tử, hễ trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng kiến;
khi đưa đám tang, gánh theo những con heo quay to tướng, đi
biểu diễn qua các đường phố; mỗi khi tuần tự hay kỵ giỗ, thì
đốt giấy tiền vàng bạc, áo quần kho phướng, mỗi năm phải hội
họp để cúng tế tà thần, ác quỷ v.v...Chấp chặt những hủ tục
như thế, đều thuộc và "Kiến thủ" cả.
9. Giới cấm thủ:
nghĩa là làm theo lời răn cấm của ngoại đạo tà giáo. Nhưng
sự răn cấm nầy nhiều khi thật vô lý, mê muội, dã man, không
làm sao đưa người ta đến sự giải thoát được, thế mà vẫn có
nhiều người tin và làm theo. Chẳng hạn như ở Ấn Độ, có phái
ngoại đạo lấy đá dằn bụng, đứng một chân giữa trời nắng, nằm
chỗ bẩn thỉu, leo lên cao nhảy xuống, gieo mình vào lửa, hay
nhảy xuống sông trầm mình để được phước. Có đạo, mỗi năm lại
bắt tín đồ giết một người để tế thần, hay như đạo của anh
chàng Vô Não, phải giết một trăm người lấy một trăm ngón tay
xâu làm chuỗi hạt mới đắc đạo.
Những thứ cuồn tín như
thế, không làm cho cuộc đời sáng sủa, mà còn làm đen tối,
khổ đau thêm.
10. Tà kiến:
nghĩa là chấp theo lối tà, không chơn chánh, trái với sự
thật, trái với luật nhân quả. Nói một cách khác, Tà kiến
nghĩa là mê tín dị đoan, như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình
vôi, ông táo, xin xâm, bói quẻ, buộc tôm, đeo niệt, coi sao,
cúng hạn v.v...
Nói rộng ra, cả bốn món
chấp trên, đều thuộc và Tà kiến cả.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 4
Tập Ðế (Sameda
Dukkha)
(tiếp theo)
III. Tánh Chất Của
10 Món Căn Bản Phiền Não
Tánh chất của mười món
căn bản phiền não không giống nhau: có thứ nhanh nhẹn, có
thứ chậm chạp; có thứ mãnh liệt, có thứ yếu ớt; có thứ đâm
sâu gốc rễ trong lòng người, có thứ nằm khơi khơi ở trên ý
thức; có thứ dễ dứt trừ, có thứ khó tiêu diệt. Vì tính chất
không đồng ấy mà đức Phật đặt cho chúng những danh từ khác
nhau, để dễ phân biệt, như Kiết sử, Kiến hoặc, Tư hoặc.
1. Kiết sử: Mười thứ
phiền não gốc: thâm, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên
kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến cũng gọi là "Thập Kiết
sử".
Kiết là trói buộc; Sử
là sai khiến. Mười phiền não nầy gọi là Kiết Sử, vì chúng nó
có mãnh lực trói buộc loài hữu tình không cho ra khỏi ba cõi
và sai sử chúng sinh phải quay lộn trong vòng sanh tử luân
hồi, từ đời nầy đến kiếp nọ, và phải chịu không biết bao
nhiêu điều khổ não.
Tuy đều có tánh chất
sai sử, trói buộc cả, nhưng mười Kiết sử này có thứ mạnh,
thứ yếu, thứ chậm chạp, thứ mau lẹ, nên đức Phật chia chúng
ra làm hai thứ với hai tên gọi khác nhau là: Lợi sử và Ðộn
sử.
a) Lợi sử là những món
phiền não rất lanh lẹ, dễ sanh khởi mà cũng dễ trừ bỏ (lợi
là lanh lợi). Lợi sử gồm có năm là:
Thân kiến Biên Kiến,
Kiến Thủ, Giới Cấm thủ ,Tà Kiến.
b) Ðộn sử là những món
phiền não nặng nề, chậm chạm, sanh khởi một cách ngấm ngầm,
sâu xa, nhưng mãnh liệt, khó dứt trừ (độn là chậm lụt).
Thuộc về Ðộn sử gồm có năm phiền não là:
Tham, Sân, Si, Mạn,
Nghi.
Người học Phật muốn
giải thoát, tất nhiên phải chặt đứt mười thứ dây nhợ, xiềng
xích nầy mới được.
Trước khi muốn chặt đứt
chúng một cách có hiệu quả, phải hiểu rõ tánh chất mềm hay
cứng, bở hay dai của chúng để liệt chúng vào loại dễ chặt
hay khó chặt. Như người bửa củi, chia củi ra làm hai loại:
loại dễ bửa và loại khó bửa; loại dễ bửa thì dùng bú nhỏ,
loại khó bửa thì dùng búa lớn; cũng vậy, hành giả trước khi
muốn chặt đứt phiền não, phải liẹt chúng làm hai loại: loại
Kiến hoặc dễ trừ, và loại Tư hoặc khó diệt.
2. Kiến hoặc:
Chữ Kiến hoặc có hai nghĩa:
a) Loại mê lầm nầy mong
manh cạn cợt, chỉ tu hành đến địa vị Kiến đạo (thấy chân lý)
thì đoạn được.
b) Loại mê lầm nầy
thuộc về phần vọng kiến (vọng chấp), phân biệt của ý thức
đối với sự vô thường, vô ngã v.v....mà sinh ra; hay do lầm
nghe theo lời khuyên dạy của ta sư ngoại đạo mà sinh ra.
Nói một cách dễ hiểu
hơn, Kiến hoặc là cái lầm thuộc về mê lý, do vọng chấp (chấp
sai) phân biệt của ý thức sanh ra. Ðến địa vị Kiến đạo là
đoạn trừ được cái hoặc này. Bởi chúng nó dễ trừ, cũng như cỏ
mọc khơi trên mặt đất, hễ dẫy (phác) thì hết, nên cũng gọi
là "Phân biệt hoặc" (nghĩa là cái lầm về phần phân biệt của
ý thức).
Tóm lại, Kiến hoặc hay
Phân biệt hoặc là do mê lý mà sanh, và sẽ bị diệt trừ khi
ngộ được chân lý.
Mười phiền não nói
trên, hay Kiến hoặc, nếu đem phối hợp với bốn Ðế trong ba
cõi, thì thành ra tám mươi tám hoặc.
Ðể có một ý niệm rõ
ràng hơn, chúng ta hãy phân tách như sau:
Mười món Kiến hoặc là:
Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ,
Giới cấm thủ và Tà kiến.
Trong ba cõi (Dục giới,
Sắc giới, Vô sắc giới), mỗi cõi có bốn Ðế (khổ, tập, diệt,
đạo), mỗi đế có các hoặc (mê lầm) chung hiệp lại thành tám
mươi tám Kiến hoặc.
Như Dục giới có bốn Ðế:
Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Khổ đế có đủ mười hoặc. Tập đế và Diệt
đế chỉ có bảy hoặc (vì trừ Thân kiến, Biên kiến và Giới cấm
thủ). Ðạo đế có tám hoặc (trừ Thân kiến và Biên kiến). Bốn
đé cộng thành ba mươi hai Kiến hoặc.
Cõi Sắc và Vô sắc cũng
y như Dục giới, song ở trong đó mỗi Ðế đều trừ ra một món
Sân (vì hai cõi nầy chỉ có vui trong thiền định, nên chẳng
có Sân) nên mỗi cõi chỉ có hai mươi tám hợc. Hai cõi hiệp
lại thành năm mươi sáu hoặc; cộng với ba mươi hai hoặc ở cõi
Dục nữa, tổng cộng thành ra tám mươi tám món Kiến hoặc.
Ðây là biểu đồ 88 món
Kiến hoặc
I. Dục giới (có 32)
1. Khổ đế: 10
a) Tham, b) Sân
c) Si, d) mạn,
đ) Nghi
e) Thân kiến
ê) Biên kiến, g)
Kiến thủ
h) Giới cấm thủ
I) Tà kiến
2. Tập đế: 7
Như Khổ đế, trừ Thân
kiến, Biên kiến và Giới cấm thủ
3. Diệt đế: 7
Như tập đế
4. Ðạo đế: 8
Trừ Thân kiến và Biên
kiến
II. Sắc giới (có 28)
1. Khổ đế: 9
Như Khổ đế ở Dục giới,
trừ Sân.
2. Tập đế: 6
Như Tập đế ở Dục giới,
trừ Sân.
3. Diệt đế: 6
Như Diệt đế ở Dục giới,
trừ Sân.
4. Ðạo đế: 7
Như Ðạo đế ở Dục giới,
trừ Sân.
III. Vô sắc giới (có
28)
Như Khổ, Tập, Diệt, Ðạo
ở Sắc giới.
Sắc giới và Vô sắc giới
đều trừ Sân, là vì hai cõi nầy ở trong thiền định, có hỷ có
lạc, nên Sân không sanh khởi.
Khổ đế đủ mười hoặc là
vì thuộc về Quả. Tập đế ít hơn (có 7) là vì thuộc và Nhân.
Diệt đế là quả xuất thế nên chỉ có 7. Đạo đế về phần tu hành
nên chỉ có 8.
3. Tư hoặc:
Trong số mười phiền não căn bản nói trên, có bốn thứ ăn sâu
gốc rễ từ vô thỉ rất khó diệt trừ là Tham, Sân, Si, Mạn (bốn
Ðộn sử) thì gọi là Tư hoặc. Theo tân dịch thì Tư hoặc có hai
nghĩa:
a) Nó ngấm ngầm khởi
lên, do mê muội về sự vật mà sanh; như đối với sự vật ăn,
mặt, ở ( sắc, thanh, hương, vị, xúc) sanh tham gia trước.
b) Sự mê lầm này phải
đến địa vị Tu đạo mới trừ dứt được.
Chúng nó có từ vô thỉ
đến giờ, hễ có ta là có nó, nó với ta đông minh một lượt,
nên cũng gọi là "câu sanh hoặc ". Chúng nó có tiềm tàng sâu
kín, và chi phối sai tử chúng ta một cách mãnh liệt, nên
hành giả phải hết sức tu trì, mới có thể lần hồi trừ được.
Cũng như cỏ cú, phải ra công moi đào nhiều lần, mới nhổ sạch
tận gốc.
Tóm lại Tư hoặc cũng có
tên Câu sanh hoặc, do sự mê là sanh, và chỉ khi đến địa vị
Tu đạo mới đoán ra được.
Mười món này phối hợp
với bốn đế ở ba cõi, sẽ thành 81 món như sau:
Mười món Dục giới, có
4: Tham, San, Si, Mạn.
Tư Hoặc Sắc giới, có 3:
Tham, Si, Mạn.
Vô sắc giới, có 3:
Tham, Si, Mạn
(hai cõi sau vì ở trong
thiền định, nên không có sân)
Bốn thứ tư hoặc này lại
chia ra làm ba hạng: hạng nhất là bậc thượng; hạng vừa là
hạng bậc trung; hạng kém hơn là hạng bậc hạ. Mỗi hạng như
thế lại chia ra làm ba bậc hay ba phẩm nữa (thượng, trung,
hạ), cộng tất cả thành chín phẩm.
(Xem biểu chín phẩm Tư
hoặc dưới đây)
Mười thứ I.
Thượng 1. Thượng
thượng
Tư hoặc 2. Thượng
trung
chia làm 3. Thượng hạ
Chín
phẩm II.
Trung 1. Trung
thượng
2. Trung trung
3. Trung hạ
III.
Hạ 1. Hạ thượng
2. Hạ trung
3. Hạ hạ
Chín phẩm Tư hoặc nhân
cho ba cõi (gồm chín địa 81 thứ) hoặc.
(Xem biểu đồ 81 món Tư
hoặc đưới đây)
I. Dục giới 1.Ngũ
thứ tạp cư địa, có: 9 phẩm Tư hoặc
II.Sắc giới 2.
Sơ Thiền, ly sanh hỷ lạc địa: __
3. Nhị thiền định sanh
hỷ lạc địa: __
4. Tam thiền ly hỷ lạc
địa: __
5. Tứ thiền xả niệm
thah tịnh địa: __
III. Vô sắc giới 6.
Không vô biên xứ địa __
7. Thức vô biên xứ đia
__
8. Vô sỡ hữu xứ địa __
9. Phi phi tưởng xứ địa
__
Cộng: 9 địa Thành: 81
phẩm Tư hoặc
VI. Tóm Tắt Về Ý
Nghĩa Kiến Hoặc và Tư Hoặc
Nói tóm lại, nhưng cái
mê lầm thuộc về phần phân biệt (do ý thức phân biệt mà sanh)
đều thuộc về Kiến hoặc. Những cái mê lầm thuộc về phần Câu
sanh (ngấm ngầm cùng với ta đồng sanh) thì thuộc về phần Tư
hoặc.
Lại một nghĩa nữa,
những cái mê lầm thuộc về phần mê lý, đến khi Kiến đạo là
đoạn trừ đuợc, nên gọi là Kiến hoặc. những cái mê lầm thuộc
về phần mê sự, phải tu hành đến địa vị Tu đạo, mới lần đoạn
trừ, thì gọi là tư hoặc. Ðoạn Kiến hoặc chỉ mới là cái lầm
trên phương diện kiến thức; đến khi đoạn Tư hoặc thế gian
thì cả cái lầm trên phương diện ý thức, hành vi đều không
còn nữa.
Ðoạn 88 cái lầm về Kiến
hoặc và 81 cái lầm về Tư hoặc thì sẽ chứng được 4 quả thánh
Thanh văn của Tiểu thừa, trong đó quả vị cao nhất là quả vị
A la hán (1)
C. KẾT LUẬN:
Sỡ dĩ chúng sinh chịu
được các đều khổ não, nguyên nhân là do phiền não gây tạo ra
nghiệp Tập đế. Tập đế gồm có nhiều thứ phiền não; nhưng có
mười thứ căn bản phiền não là: tham, sân, si, mạn, nghi,
thân kiếm, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.
Trong 10 món này, vì
căn cứ theo nhiều cái dễ phát sinh dễ trừ là năm món sử, thì
gọi là Ngũ lợi sữ; còn 5 món trước tánh nó ngấm ngầm phát
sanh và khó đoạn trừ thì gọi là Ngũ độn sử.
Ðứng về phương diên Tu
chứng mà xét, thì hành giả trong khi tu hành, chia 10 món
phiền não trên làm hai loại, để đoạn trừ trong thời kỳ sau
đây:
1. Những cái mê lầm khi
thấy đạo (chân lý) mới đoạn được, thì gọi là Kiến hoặc.
2. Những cái mê lầm khi
đến địa vị tu đạo mới đọan được thì gọi là Tư hoặc.
Về Kiến hoặc, ở cõi Dục
giới có 32 món mê lầm, ở cõi sắc giới có 28 và Vô sắc giới
cũng có 28, cộng lại thành 88 món mê lầm. Cái lầm ở cõi dục
rất thô, đến cõi sắc và Vô sắc giới thì vi tế hơn. Ðoạn được
88 thứ Kiến hoặc trong ba cõi, thì chứng đặng quả thánh thứ
nhất trong bốn quả của Tiẻu thừa là Tu đà hoàn (Tàu dịch là
Dự lưu). Ðến qủa này, 81 phẩm tư hoặc của ba cõi vẫn chưa
đoạn trừ.
Về Tư hoặc thì cõi Dục
giới có 4: tham, sân, si man. Cõi sắc giới và vô sắc, mỗi
cõi có ba (vì trừ sân). Cộng chung lại là mười món Tư hoặc.
Vì chúng có thô, vi tế không đồng nên phân ra có thượng,
trung, hạ phẩm. Mỗi phẩm lại phân ra ba phẩm nữa là: Thượng,
trung, hạ cộng thành 9 phẩm.
Trong ba cõi có chia ra
làm 9 địa mỗi địa có 9 phẩm Tư hoặc từ thô đến tế, công
chung 9 địa thành ra 81 Tư hoặc (1)
Chín phẩm Tư hoặc ở cõi
Dục thì rất thô, còn hai cõi trên lần vi tế. Các thứ phiền
não Tư hoặc vi tế dây, chiêu cảm với những khổ quả sanh tử,
luân hồi trong ba cõi, Diệt được tất cả thì chứng quả A la
Hán.
Phần Phụ Chú
Tứ Ðế là thuộc
về giáo lý tiểu thừa. Trong khi nghiên cứu và trung thành
với giáo lý này, chúng tôi chỉ kể chỉ có hai thứ hoặc và
kiến hoặc và Tư hoặc. Nhưng theo giáo lý Ðạị thừa thì ngoài
hai hoặc trên, có hai thứ hoặc khác nữa là Trần sa hoặc và
Vô minh hoặc, nếu chứng quả vị Ðại Thừa Bồ tát hay Phật, thì
phải đoạn trừ hai hoặc sau này
Ðể có một ý niệm tổng
quát về các thứ hoặc, chúng tôi xin được phụ chú dưới đây
hai loại hoặc ấy:
1. Trần sa hoặc: Trần
sa hoặc là cái mê lầm như cát bụi. Cái mê lầm không phải của
mình, vì khi chứng đươc quả A la Hán thì cái mê lầm về phần
Kiến Hoặc và Tư hoặc nơi cá nhân mình đã hết. Cái chơn trí ở
nơi tâm mình đã sáng suốt rồi. Nhưng so với mình, còn thấy
cái mê lầm của chúng sinh nhiều như cát bụi, nên sanh tâm
chán ngán, thối chí độ sanh, cứ trầm không thu tịch, thủ
cảnh thiên không Niết Bàn của Tiểu Thừa, không chịu ra hóa
đạo độ sanh (vì còn pháp chấp, mê lầm thấy thật có pháp mình
tu, Niết Bàn mình chứng).
2. Vô minh hoặc: Vô
minh là mê lầm, không rõ được bản chất chơn tâm. Thứ mê lầm
này là góc của các thứ mê làm khác, nên gọi là bản vô minh.
Nó rất vi tế, phá trừ trần sa hoặc rồi mới phá trừ được Vô
minh hoặc.
Cứ theo lối tu chứng
của Ðại Thừa mà luận, thì phải trải qua 51 địa vị, mới phá
hết dược các vô minh. khi mãn địa vị Thập tín rồi bắt đầu
lên thập trụ (10 vị) phá một phần vô minh thì được một phần
đức pháp tánh (3 đức: Pháp thân, báo thân, Giải thoát),
chứng lên vị sơ trụ. Như thế cứ phá thêm một phần vô minh là
chứng lên một địa vị; cho đến phá được 10 phần thì phá đước
Thập trụ. Bước qua Thập hạnh (10 vị), Thập hồi hướng (10 vị)
và thập địa (10 vị ) cũng thế, nghĩa là phá một phần vô minh
thì chứng lên một địa vị. Cho đến địa vị thứ 51; là Ðẳng
giác, dùng trí kim cương phá sạch hết tướng vô minh rất tinh
tế rồi, thì chứng được địa vị thứ 52 là quả Diệu giác
(Phật). Lúc bấy giờ vô minh diệt hết trí giác thế gian toàn
minh, cũng như trăng rằm Trung thu, bao nhiêu mây mờ vẹt
hết, tỏa ánh sáng khắp mười phương.
Chúng ta nên lưu ý:
Kiến hoặc, Tư hoặc là chiêu cảm phần đoạn sanh tử trong ba
cõi. Ðoạn Kiến hoặc. Tư hoặc thì không thọ phần sanh tử ra
ngoài tam giới, được thiên lý chơn, chúng nhị thừa: Thanh
văn, Duyên giác. Ðoạn Trần sa hoặc chứng quyền thừ Bồ tát.
Ðoạn sạch vô minh chứng quả Phật vô thuợng. Xét như thế thì
từ khi phát tâm tu hành cho đến thành Phật, phải trải qua
một công trình lớn lao và một thời gian lâu xa mới được.
(1) Sở dĩ gọi là phẩm
mà không gọi là món, loại hay thứ là vì trong mỗi mê lầm ấy,
không khác chất, chỉ khác phẩm lượng mà thôi, nghĩa là nó
đậm hay nhạt, mạnh hay yếu mà thôi
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 5
Diệt
Ðế (Nirodha Dukkha)
A. Mở Ðề
Sau Khi nói về phương
diện khổ đau xong, Ðức Phật nói về phương diện an lạc.
Sau khi giải bày đầy đủ
hiện tượng nhân quả về phần nhiễm, về phương diện đau khổ
xong, đức Phật liền thuyết minh các hiện tượng nhân quả về
phần tịnh, về phương diện An lạc. Nói một cách khác sau khi
dạy xong Khổ đế và tập đế, đức Phật liền dạy Diệt đế và đạo
đế. Có người chỉ thấy hai phần đầu của Tứ đế là khổ và Tập,
nên đã tưỡng Phật là đạo yếm thế, bi quan. Họ cho rằng Phật
giáo gieo vào lòng người sự chán đời là kẻ thấy cuộc đời xấu
xa, đau khổ, mà không tìm ra phương pháp để giải thoát ra
khói cảnh ấy, mà chỉ buông xuôi tay ngồi nhìn và khóc than,
sầu khổ. Ðạo Phật không làm như thế. Ðạo Phật trình bày cho
mọi người nhìn thấy cái hiện tại đen tối của mình, cái hoàn
cảnh xấu xa, có nhiề sự khuyết điểm, để cải đổi nó, kiến tạo
lại một cuộc sống đẹp đẽ, an vui hơn. Một giáo lý như thế,
không thể gọi là yếm thế, bi quan được mà chính là yêu đời,
lạc quan, vì còn tin tưởng ở khả năng kiến tạo của mình và
chúng sinh. Cảnh giới mà Ðức Phật trình bày cho chúng ta
thấy ở đầy là một cảnh giới hoàn toàn trái ngược với cảnh
giới tối tăm, sầu khổ, đớn đau mà chúng ta đang sống. Cảnh
giới ấy là cảnh giới huy hoàng, an lạc, mà chỉ những người
diệt tục, hết mê mới đạt được.
Cảnh giới ấy, chúng ta
sẽ nghe đức Phật trình bày trong phần diệt đế sau đây:
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa Sao gọi
là Diệt đế?
Diệt là tiêu diệt, trừ
diệt. Diệt ở đây tức là diệt dục vọng mê mờ, phiền não. Ðế
là lỹ lẽ chắc thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suốt soi thấu
và thuyết minh. Diệt đế, chữ Pali gọi là "Nirodha Dukkha"
tức là sự thật đúng đắn, mà đức Phật đã thuyết minh về hoàn
cảnh tốt đẹp mà mọi người có thể đạt được khi đã diệt hết
mọi phiền não, mê mờ. Phiền não, mê mờ là nguyên nhân của
đau khổ, như chúng ta đã nghe Phật thuyết trong Tập đế.
Khổ là quả, mà tập là
nhân. Diệt khổ mà chỉ diệt cái quả thì không bao giờ hết khổ
được. Muốn diệt khổ tận gốc, thì phải diệt cái nhân của nó,
như muốn nhổ cái thân cây, thì phải cắt cho hết cái rễ ăn
sâu trong lòng đất.
Trong khi nhân quả,
Phật dạy rằng: "Các ông phải biết, ví Tập nhân phiền não mới
có quả khổ sanh tử, vậy các ông phải dứt trừ phiền não tập
nhân. Khi đã dứt trừ rồi, lại thường thương nắm chắc chổ dứt
trừ cho chắn chắc, không khi nào nới bỏ. Ðến khi chứng được
đạo Niết Bàn, thì phải tất nhiên tập nhân phiền não phải
diệt hết, mà khổ luân hồi cũng không còn".
Thế cho biết, muốn giải
thoát tất phải tu hành. Mà tu hành là gì?
Là diệt trừ tập nhân
phiền não vậy. Diệt trừ phần nào tập nhân là đã bước đến hết
gần giải thoát chừng ấy, như một cái phao càng bớt dần chừng
nào vật nặng dìm nó xuống, thì nó lại nổi dần lên mặt nước
chừng ấy vậy.
II. Thứ Lớp Ðoạn
Hoặc (mê lầm)
Như
chúng ta đã biết trong bài tập đế, tập nhân phiền não rất
phức tạp, có thứ mong manh, cạn cợt, có thứ in sâu vào tâm
thức từ lâu đời lâu kiếp rất khó dứt trừ. Do tính chất cạn
sâu của các thứ phiền não ấy, nên đoạn trừ cũng phải tuần
tự, theo thứ lớp.
Có hai lớp đoạn hoặc
chính là:
1. Kiến đạo sở đoạn
hoặc: Những mê lầm nầy, khi thấy chánh đạo mới đoạn
được. Ðây là sự dứt trừ những sai lầm về phần lý trí. Những
phiền não nầy thuộc loại cạn cợt gây ra bởi sự gần gũi tà
sư, sự tuyên truyền ta, vạy của sách vở, cùng những người
tri kiến không chân chánh. Nếu gặp được Minh sư, thấy được
chân lý, thì liền đoạn hết. Vì thế sự dứt trừ những phiên
não nầy, gọi là "Kiến đạo sở đoạn hoặc".
2. Tu đạo sở đoạn
hoặc: Những mê lầm nầy, khi tu đạo mới đoạn được. Ðây là
sự đoạn trừ những phiền não, sâu kín, đã đâm sâu gốc rễ
trong tâm thức, biến thành thói quen, như sự chấp ngã, sự
say đắm nhục dục, tham, giận, kiêu căng v.v...Ðối với những
thứ phiền não nầy, phải cần nhiều công phu tu hành dẻo dai,
chắc chắn mới có thể đoạn trừ được. Do đó, mới gọi là "Tu
đạo sở đoạn hoặc".
III. Các Tầng Bậc Tu
Chứng
Ðoạn trên đã nói tổng
quát về hai loại đoạn diệt phiền não cho dễ phân biệt và dễ
hiểu. Ðến đây, để có một ý niệm rõ ràng về các tầng bậc tu
chứng mà một hành giả cần phải trải qua, chúng ta hãy tuần
tự điểm qua các quả vị từ thấp đến cao.
1. Tứ gia hạnh:
Muốn đoạn trừ kiến hoặc, trước tiên người tu hành phải rời
xa các tà thuyết, xoay tâm ý, tư tưởng dần vào chân lý: vô
thường, vô ngã, bất tịnh, tứ đế, để nhận chân được các tánh
cách vô thường, vô ngã, bất tịnh, không thật v.v...của cuộc
đời. Nhờ sự gần gũi với chân lý như thế, nên những điều thấy
biết sai lầm điên đảo sẽ tan hết và 88 món kiến hoặc cũng
không còn. Tuy nhiên, không phải chỉ trong một lúc mà đoan
được tất cả kiến hoặc; trái lại, phải cần nhiều thời giờ,
công phu tu tập. Từ những tư tưởng, thành kiến mê lầm của
phàm phu mà đến Thánh trí để dự vào lòng Thánh quả, người tu
hành phải tu bốn gia hạnh sau đây:
a) Noản vị: Noản
là hơi nóng; vị là địa vị. Người xưa, khi muốn lấy lửa, họ
dùng hai thanh củi tre cọ sát vào nhau; trước khi lửa sắp
bật lên, phải qua giai đoạn phát ra hơi nóng. Người tu hành
muốn có lửa trí tuệ, cũng phải trải qua giai đoạn hơi nóng.
Tất nhiên hơi nóng lửa trí tuệ chưa đốt cháy được củi phiền
não, nhưng không thể không qua giai đoạn nầy được. Ðó là
giai đoạn "Noản vị".
b) Ðảnh vị: Ðảnh
là chóp cao. Qua khỏi giai đoạn Noản vị, người tu hành tiếp
tục tiến bước và lên được trên chóp đỉnh núi mê lầm. Ðứng ở
địa vị nầy, toàn thân hành giả được tắm trong khoảng không
gian rộng rãi vô biên, nhưng chân chưa rời khỏi chóp núi mê
lầm.
c) Nhẫn vị: Nhẫn
là nhẫn nhịn, chịu đựng. Người biết nhịn, luôn luôn vẫn yên
lặng sáng suốt trước sự khuấy phá của đối phương. Người tu
hành lên đến bậc này, trí giác ngộ đã gần sáng tỏ, thân tâm
vẫn giữ được mực yên lặng trong sáng, mặc dù các pháp có
lăng xăng và ẩn hiện.
d) Thế hệ nhất vị:
Bậc nầy cao quí nhất trong đời. Tu đến bậc này là một công
phu rất to tát, gần giải thoát ra ngoài vòng Dục giới, như
con diều giấy bay liệng giữa không trung, tự do qua lại,
không còn bị cái gì làm ngăn ngại, ngoài sợi giây gai nhỏ.
Nếu bứt sợi gai kia là diều bay luôn. Cũng như thế, người tu
hành phá hết phần kiến hoặc nhỏ nhít sau cùng là được giải
thoát luôn.
Tóm lại, người tu hành
thường xuyên qua bốn món gia hạnh nầy, tức là phá được cái
lầm về tri kiến hay kiến hoặc, cái lầm của Phi phi tưởng mà
chứng đặng quả Tu đà hoàn là quả vị đầu tiên trong Thanh văn
thừa.
2. Tu đà hoàn:
Tàu dịch là Dư lưu quả (dự vào dòng Thánh). Ở quả vị này, ý
thức đã sáng suốt, không còn bị mê lầm nữa, song thất thức
còn chấp ngã, nên phải trở lại trong cõi Dục, nhiều nhất là
bảy phen sanh tử nữa, mới gọt sạch các kiết sử phiền não
thầm kín, nằm nép trong tâm thức, và chứng quả A La Hán.
3. Tư đà hàm:
Tàu dịch là Nhất lai, nghĩa là một phen sanh lại cõi Dục để
tu hành và dứt cho sạch phần mê lầm ở cõi Dục, mới tiến đến
bực A La Hán. Trên kia, quả tu đà hoàn chỉ là kết quả của
công phu tu hành đoạn được kiến hoặc, chứ chưa đá động đến
tư hoặc. Sau khi chứng quả Thánh đầu tiên rồi, phải tu nữa
để đoạn trừ tư hoặc, mới chứng được bậc nầy. Tuy nhiên, ở
cõi Dục có chín phẩm tư hoặc, mà vị này chỉ mới đoạn có 6
phẩm, còn 3 phẩm nữa chưa đoạn. Nghĩa là mới đoạn sáu phẩm
thô thiển bên ngoài, còn ba phẩm sâu kín bên trong chưa
đoạn. Vì thế, phải trở lại một phen để đoạn cho hết ba phần
sau, mới bước lên Thánh quả thứ ba là A na hàm được.
4. A na hàm: Tàu
dịch là Bất lai (nghĩa là không trở lại cõi Dục nữa). Khi
còn mê lầm của cõi Dục lôi kéo, mới sanh vào cõi Dục. Ðến
địa vị A na hàm nầy những mê lầm ấy không còn nữa, nên không
bị tái sanh ở đấy nữa, trừ trường hợp phát nguyện trở lại
cõi nầy để độ sanh. Vị nầy ở cõi Trời Ngũ tịnh cư thuộc Sắc
giới, cũng gọi là Ngũ bất hoàn thiên hay Ngũ na hàm. Vị nầy
đã cách xa chúng ta như trời vực, đã thoát ra ngoài cõi Dục.
Tuy thế, họ vẫn còn mang trong mình những mê lầm vi tế cu
sanh của hai cõi Sắc và Vô sắc. Vì vậy, ở Ngũ tịnh cư thiên,
họ phải tu luyện để dứt cho hết vi tế hoặc, mới bước lên
Thánh quả A La Hán (Tư hoặc gồm có 9 phẩm. Từ đà hàm quả
đoạn sáu hoặc, A na hàm quả đoạn thêm ba hoặc; đến A La Hán
quả là đoạn hết).
5. A La Hán: Ðây
là quả vị cao nhất, trong Thanh Văn Thừa. Tàu dịch có ba
nghĩa:
a) Ứng cúng: Vị nầy có
phước đức hoàn toàn, trí huệ hơn cả, đáng làm nơi phước điền
cho chúng sinh cúng dường.
b) Phá ác. Vị nầy đã
phá tan những nhiền não tội ác, không còn bị chúng khuấy phá
sai sử trói buộc nữa.
c) Vô sanh. Vị nầy
không còn lo xoay vần trong sanh tử luân hồi nữa, vì đã phá
trừ được phiền não là yếu tố của sanh tử luân hồi.
Trong ba nghĩa nầy, Vô
sanh là nghĩa quan trọng hơn hết, nên đã được nêu lên trong
chữ A La Hán. Vị nầy không những đã phá hết mê hoặc nông
cạn, mà chính ngay chủng tử mê lầm thầm kín cũng đã dứt
sạch. Cho đến chủng tử chấp ngã là nguồn gốc phiền não,
nguồn gốc luân hồi, cũng bị dẹp lại một bên, không còn bóng
dáng ra vào trong A lại da thức nữa.
Tánh cách của lòng ngã
chấp là khiến chúng sanh luôn luôn cố chấp bản thân nhỏ hẹp,
tạo thành ranh giới giữa mình và người, mình và sự vật, để
rồi gây nên vô lượng tội nghiệp và chịu vô lượg khổ báo. Một
tánh cách nguy hại của lòng ngã chấp nữa là thường làm cho
chúng sanh không tỏ ngộ, không thể chấp được cái tánh "đồng
nhất, không mất" của vạn sự vạn vật. Do đó, chúng sanh phải
chịu lắm nỗi thăng trầm với xác thân bé nhỏ của mình.
Vị A La Hán, do sự cố
công bền chí, đã diệt được lòng chấp ngã ấy, nên không bị
sống chết khổ đau, lo buồn sợ hãi chi phối. Như đồ đệ của ả
Phù dung, một khi đã bỏ được bệnh nghiền thì không còn ra
vào nơi tiệm hút làm bạn với bàn đèn ống khói nữa. A La Hán
là vị đã đoạn được cái sai lầm của cõi trời Phi phi tưởng,
nên không còn vương vấn với các cõi trời ấy nữa.
Song quả A La Hán cũng
chia làm hai bực, tùy theo căn cơ lanh lợi hoặc chậm lụt của
các vị ấy.
a) Bất hồi tâm độn A
La Hán: là vị A La Hán trầm không trệ tịch, tự thỏa chí
vào địa vị đã chứng, chứ không phát tâm xoay về Ðại Thừa.
b) Hồi tâm đại A La
Hán: là vị A La Hán lợi căn lợi trí, phát tâm xoay về
Ðại Thừa rộng lớn chứ không tự mãn ở địa vị đã chứng.
IV. Giá Trị Diệu
Dụng Của 4 Cõi Thánh
Bốn quả thánh của Thanh
văn trên đây, đều là những kết quả giải thoát hiển nhiên của
công phu tu tập. Không cứ căn cơ nào đều có thể ở ngay trong
cảnh giới của mình (kinh gọi là tự địa, tự giới), mà tu tập
để đạt đến bốn quả vị ấy. Hễ đoạn trừ mê lầm được chứng nào
thì chứng quả đến chứng ấy, chứ không phải chờ sanh qua thế
gian khác mới chứng quả kia đâu.
Khi chứng đến quả Tu đà
hoàn thì gọi "Kiến đạo sở đoạn". Ở đây, ý thức đã tương ứng
với Huệ tâm sở, sáng suốt, trực nhận đạo lý một cách rõ
ràng. Còn các vị sau, thuộc về "Tu đạo sở đoạn", nghĩa là
sau khi đã gội rửa các chủng tử mê lầm (tư hoăc) của A lại
da thức mới chứng được. Do sự dứt trừ phiền não sâu hay cạn
đó, mà diệu dụng của mỗi quả vị khác nhau.
Ở địa vị "Kiến đạo sở
đoạn" là thành tựu được năm phép thần thông (công dụng tự
tại không bị chướng ngại).
a) Thiên nhãn thông:
Nhãn lực soi thấy khắp muôn loài cùng sự sanh hóa trong thế
gian bao la hiện tại.
b) Thiên nhĩ thông:
Nhĩ lực nghe khắp mọi nơi, đủ các tiếng tăm đồng loại và dị
loại.
c) Tha tâm thông:
Tâm lực biết được tâm niệm, sở cầu của kẻ khác.
d) Túc mạng thông:
Trí lực hay biết các kiếp trước của mình.
đ) Thần túc thông:
Có hai nghĩa: một là được thần thông tự tại như ý muốn, hai
là trong giây lát muốn đi đâu liền được như ý muốn, không bị
sự vật hữu hình làm chướng ngại.
Năm phép thần thông
nầy, tuy có đặc biệt hơn nhân loại nhiều, song chưa phải là
điểm quan trọng của người tu hành cầu giải thoát. Ðiểm quan
trọng nhất của người tu giải thoát là "Lậu tận thông". Lậu
tận thông là được trí tuệ thông suốt cả ba đời, không còn bị
các phiền não hữu lậu làm ngăn ngại, nghĩa là giải thoát
sanh tử. Chỉ những vị A La Hán mới được qủa nầy.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 6
Diệt Ðế (Nirodha
Dukkha)
(tiếp theo)
V. Diệt Ðế Tức Là
Niết bàn
Kinh Niết Bàn dạy: "Các
phiền não diệt gọi là Niết Bàn, xa lìa các pháp hữu vi cũng
gọi là Niết Bàn".
Như các đoạn trước của
bài nầy đã nói, đến bốn quả Thánh thì phiền não nông cạn và
sâu kín đã tuần tự bị tiêu diệt. Vậy chứng được bốn quả
Thánh ấy, tức là đã chứng được Niết Bàn. Nói một cách khác,
Diệt đế tức là Niết Bàn.
Niết Bàn hay Niết Bàn
na hay Nê hoàn là do dịch âm chữ Phạn Nirvana mà ra. Niết
Bàn có nhiều nghĩa như sau:
Niết (Nir) là ra khỏi;
Bàn (vana) là rừng mê, Niết Bàn là khỏi rừng mê.
Niết là chẳng; Bàn là
dệt. Còn phiền não thì còn dệt ra sanh tử, không phiền não
thì không còn dệt ra sanh tử. Vậy Niết Bàn là không dệt ra
sanh tử luân hồi.
Chữ Bàn cũng có nghĩa
là không ngăn ngại. Niết Bàn còn có nhiêu nghĩa khác nữa,
song tóm lại không ngoài ba nghĩa: Bất sanh, giải thoát,
tịch diệt.
Bất sanh, nghĩa là
không sanh ra, không sanh các thứ mê lầm tội lỗi.
Giải
thoát, nghĩa là thoát ra ngoài sự ràng buộc, không mắc vào
các huyễn ngã, huyễn pháp.
Tịch diệt, nghĩa là
vắng lặng, dứt sạch. Vắng lặng, an lành, dứt sạch tất cả
nguòn gốc mê lầm.
Vì lẽ Niết Bàn có nhiều
nghĩa như thế, nên trong kinh thường để nguyên âm mà không
dịch nghĩa.
Theo định nghĩa của chữ
Niết Bàn nầy, thì bốn quả vị trên kia đều gọi Niết Bàn cả.
Song vì đã hoàn toán hay chưa hoàn toàn mà chia ra làm hai
thứ:
1. Hữu dư y Niết
Bàn: (Niết Bàn chưa hoàn toàn). Từ quả vị thứ nhất Tu đà
hoàn đến quả vị thứ ba A na hàm, tuy đã đoạn trừ tập nhân
phiền não, những chưa tuyệt diệt, tuy đã vắng lặng an vui,
nhưng chưa viên mãn, tuy an vui chưa hoàn toán, vì phiền não
và báo thân phiền não còn sót lại, nên gọi là Niết Bàn hữu
dư y. Vì phiền não còn sót lại nên phải chịu quả báo sanh tử
trong năm bảy đời; song ngã chấp đã phục, nên ở trong sanh
tử mà vẫn được tự tại, chứ không bị ràng buộc như chúng
sinh.
2. Vô dư y Niết Bàn:
(Niết Bàn hoàn toàn). Ðến quả vị A La Hán, đã đoạn hết phiền
não, diệt hết câu sanh ngã chấp, nên hoàn toán giải thoát cả
khổ nhân lẫn khổ quả. Sự sanh tử không còn buộc ràng vị nầy
được nữa, nên gọi là Niết Bàn vô dư y. Ðây là quả vị cao tột
của hàng Thanh văn. Ðến đây ngọn lửa dục vọng đã hoàn toàn
tắt hết, và trí vô ngại hiện ra một cách đầy đủ, không khi
nào còn trở lại tâm khởi chấp ngã nữa. Vì thế, nên được tự
tại giải thoát ngoài vòng ba cõi: Dục, Sắc, và Vô sắc giới.
VI. Niết Bàn Của Ðại
Thừa Giáo
Phật Giáo gồm có Tiểu
Thừa và Ðại Thừa mà Niết Bàn là danh từ chung cho cả hai
thừa ấy. Trên đây đã nói đến Diệt đế, hay Niết Bàn của Tiểu
Thừa, nhưng chưa nói đến Niết Bàn của Ðại Thừa. Vậy nói đến
Niết Bàn, thì cũng nên mở rộng phạm vi, nói luôn cả Niết Bàn
của Ðại Thừa để độc giả có một quan niệm đầy đủ về hai chữ
Niết Bàn.
Nói như thế, không có
nghĩa là Niết Bàn của Tiểu Thừa và Ðại Thừa là hai loại hoàn
toàn khác nhau về tính chất. Nếu có khác, thì chỉ khác về
phạm vi rộng hẹp, rốt ráo hay chưa rốt ráo mà thôi; nghĩa là
Niết Bàn của Ðại Thừa rộng rãi hơn có thể gồm cã Niết Bàn
của Tiểu Thừa, mà Niết Bàn của Tiểu Thừa không thể gồm cã
Niết Bàn của Ðại Thừa. Các thánh giả Nhị thừa (Tiểu Thừa)
tuy đã đoạn hết phiền não, nhưng tập khí vẫn còn, công đức
trí tuệ chưa viên mãn nên Niết Bàn mà họ chứng, dù là Niết
Bàn của hàng A La Hán đi nữa, đối với Ðại Thừa cũng chưa
hoàn toàn, nghĩa là còn là Hữu dư y Niết Bàn. Chỉ có Niết
Bàn của chư Phật mới được gọi là Vô dư y Niết Bàn.
Ngoài cái nghĩa rộng
hẹp trên, Niết Bàn của Ðại Thừa đại khái có hai loại:
1. Vô trụ xư Niết
Bàn: Ðây là Niết Bàn của các vị Bồ Tát. Các A La Hán, do
tu nhân giải thoát mà chứng được quả giải thoát; nhưng chưa
biết nguồn gốc của nhân quả, còn chấp có thực pháp phải tu,
quả vị phải chứng, nên chưa được hoàn toàn tự tại. Các vị Bồ
Tát thì trái lại, đã hiểu rõ "Tam giới duy tâm, vạn pháp duy
thức", pháp tánh bình đẳng như như; không thấy một pháp gì
cố định, một vật gì chắc thật, biệt lập chỉ thấy chúng là
những hình ảnh giả dối, do đối đãi với thức tâm, tạo thành
bởi thức tâm. Các vị Bồ Tát không có tâm địa đảo điển sai
lầm, không gán cho sự vật một giá trị nhứt định, như tốt,
xấu, khổ, vui, nên không sanh ra những thái độ oán, thân,
bỉ, thử, ưa, ghét. hễ có tri kiến sai lầm đó, là bị chướng
ngại khổ đau. Các vị ấy tu hành chứng theo sự tánh bình
đẳng, đem tâm hòa đồng cùng sự vật mà làm việc lợi tha. Tuy
làm việc lợi tha, mà vẫn ở trong chánh quán. Quán các phép
như huyễn như hóa, không có thật sanh tử, không có thật Niết
Bàn, không bao giờ trụ trước (vô trụ). Do đó, Bồ Tát thường
ra vào sanh tử lấy pháp lục độ để độ sanh, mà vẫn ở trong
Niết Bàn tự tại.
2. Tánh tịnh Niết
Bàn: Ðây là một thứ Niết Bàn tự tánh thường vắng lặng mà
thườg sáng suốt, thường sáng suốt mà thường vắng lặng ra
ngoài tâm lượng hẹp hòi của phàm phu và trí thức hữu hạn của
Nhị thừa, ngoại đạo. Nó thường bộc lộ sáng suốt nơi chư
Phật, mà vẫn thường sẵn có nơi mọi loài chúng sinh. Trong
kinh có khi gọi đó là Phật tánh, là chơn tâm, là Như lai
tạng v.v...
Nếu chúng sinh tự tin
mình có tánh Niết Bàn thanh tịnh, và khởi tâm tu hành theo
tự tánh ấy, tức có thể thành Phật không sai.
Mạng tự tánh Niết Bàn
mà để cho phiền não cấu trần che lấp, thì làm chúng sanh
trầm luân trong bể khổ.
Trái lại, ngộ tự tánh
Niết Bàn mà hết vọng tưởng mê lầm là thành Phật, và có đầy
đủ bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh. "Thường" nghĩa là không
bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng như khi nào,
không lên bổng xuống trầm không có già trẻ, chết sống, đổi
thay. "Lạc" nghĩa là không còn khổ não, lo buồn. "Ngã" là
được hoàn toàn tự chủ, không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi
phối. "Tịnh" là không còn ô nhiễm, luôn luôn thanh tịnh,
trong sáng. Chúng ta đừng lầm tưởng tánh "Chơn thường" nầy
với điều thường hằng của thế gian; tánh "Chơn lạc" với sự
vui thích tương đối là sự vui thích còn che đậy mầm mống đau
khổ bên trong; tánh "Chơn ngã" với sự tự chủ trong nhất
thời, tự chủ ngày nay bị động ngày mai; tánh "Chơn tịnh" với
sự trong sạch tương đối ở thế gian, sự trong sạch vật chất,
sự tướng bên ngoài, chứ bên trong vẫn còn nhiễm ô.
Vì tính cách quí trọng,
cao cả tuyệt đối của bốn đức; Thường, Lạc, Ngã, Tịnh nên
Tánh tịnh Niết Bàn là thứ Niết Bàn cao quí tột đỉnh của đạo
Phật, và người Phật tử Ðại Thừa trong khi tu hành, đều phát
nguyện rộng lớn quyết tâm chứng được thứ Niết Bàn ấy mới
thôi.
VII. Biện Minh Về
Niết Bàn
Tánh cách của Niết Bàn
quá rộng rãi, cảnh giới của Niết Bàn quá cao thâm, nên hay
gây ra nhiều sự hiểu lầm cho các căn cơ thiển bạc, mà tập
quán, thành kiến, hoàn cảnh hằng ngày làm chủ trí thức.
Người đời hay lấy tâm lượng hẹp hòi của mình để hình dung
Niết Bàn, và đã hình dung một cách sai lạ, nên cuối cùng họ
kết luận rằng: cứu cánh của đạo Phật là một sự không tưởng.
Câu chuyện ngụ ngôn sau đây chứng minh một cách hùng hồn tâm
trạng ấy:
Ngày xưa có một con cá,
vì nó là loài ở nước, nên dĩ nhiên cuộc đời chỉ sống trong
nước, và ngoài nước ra không biết gì hết.
Một hôm nó đang nhởn
nhơ bơi lội trong hồ, tình cờ gặp một con rùa, mà nó đã quen
từ trước, đi du lịch trên đất liền về. Nó liền chào:
Chào anh ! Ðã từ lâu
tôi không gặp anh. Vậy xưa rày anh ở đâu?
Ồ ! Tôi đi du lịch từ
trên đất liền về. Trên ấy, mặt đất khô ráo quá !
Ðất khô ! Anh nói cái
gì lạ vậy? Tôi chưa bao giờ thấy nơi nào kỳ lạ như vậy. Lẽ
nào lại có đất khô?
Xin thề rằng tôi không
nói đùa với anh đâu. Nhưng nếu quả tình anh không thể tin
được thì tùy anh, không ai ngăn cản được anh; nhưng dù sao,
tôi cũng mới từ đó về.
Này anh, anh hãy cố
gắng diễn đạt cho hợp lý hơn. Tôi nghi rằng cách diễn đạt
của anh chưa được rõ ràng lắm. Anh vui lòng cho tôi biết đất
mà anh nói đó có giống như cái gì trong thế gian của chúng
ta ở đây? Nó có ẩm ướt không?
Không ! Nó không ẩm
ướt.
Thế nó có mát dịu và
lạnh không?
Nó không mát, không dịu
mà cũng chẳng lạnh.
Thế nó có trong suốt để
cho ánh sáng xuyên qua được không?
Không, nó không trong
suốt và ánh sáng không thể xuyên qua được.
Thế nó có mềm và dễ bị
ép để cho tôi có thể quậy vi và đi lại dễ dàng trong ấy
không?
Không, nó không mềm,
không bị dồn ép dễ dàng và trong ấy, anh cũng không thể bơi
lội được.
Thế nó có lưu động và
đổ thành thác được không?
Không, nó không lưu
động và cũng không đổ thành thác được.
Vậy thì nó có dâng lên
để tạo thành những mũi sóng bạc đầu được không?
Không, tôi chưa bao giờ
thấy nó dâng thành làn sóng cả.
Ðến đây, con cá vênh
váo tự đắc than rằng:
Tôi đã từng nói với anh
rằng: đất mà anh nói đó là không phải cái gì cả. Tôi cũng
vừa hỏi anh về đất ấy và với câu hỏi nào anh cũng trả lời
rằng không. Ðất anh nói đã là không phải bất cứ cái gì tôi
nêu ra, vậy thì đất hẳn là ngoan không. Anh đừng tìm cách
bịp tôi nữa.
Tốt ! Anh đã quả quyết
rằng không có đất liền. Tôi cũng không có cách nào hơn là cứ
để anh tiếp tục tin như anh đã nghĩ. Nhưng một mai, có ai
khác hơn tôi và đủ sức phân biệt cho anh thấy sự sai khác
giữa đất và nước, ngày ấy anh sẽ thấy rằng anh chỉ là một
con cá ngốc.
Tâm
trạng của con cá này là tâm trạng của một số người thường
dựa vào sự hiểu biết nông cạn của mình, để quan niệm Niết
Bàn. Có người nghĩ rằng Niết Bàn là một trạng thái hư vô
tịch diệt luôn; có người nghĩ Niết Bàn là cảnh Thiên đường
như của ngoại đạo; có người lại bảo nếu Niết Bàn không phải
là hư vô tich diệt mà cũng không phải là Thiên đường, thì
Niết Bàn là một không tưởng.
Niết Bàn không thể là
một trạng thái hư vô tich diệt được. Tam tạng giáo điển chưa
bao giờ nói đến cảnh giới hư vô ấy. Sự hiểu lầm Niết Bàn với
hư vô là con đẻ của sự nghiên cứu thô thiển, nông cạn qua
các định nghĩa của Niết Bàn. Nghe nói Niết Bàn tức là
"Diệt", người ta vội tưởng ngay "Diệt" nghĩa là hoại diệt
không có gì tồn tại cả. Người ta không ngờ rằng "Diệt" ở
đây, có nghĩa là diệt nguồn góc đau khổ, phiền não, mê lầm.
mà khi đau khổ diệt thì an vui tất phát sinh, mê lầm diệt
thì sáng suốt tất tỏ lộ.
Như trên đã trình bày,
Niết Bàn có đủ diệu dụng: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh thì sao gọi
là hư vô được?
Niết Bàn của Phật cũng
không phải là một cảnh thiên đường như người đời và các
ngoại đạo thường ca tụng. Nguyên nhân của sự hiểu lầm này là
do tập quán xem Phật Giáo cũng như các "thần đạo" khác.
Trước khi Phật giáng thế, trong kinh Vệ đà (véda) của ngoại
đạo ở Ấn độ, cũng từng dùng danh từ Niết Bàn với nhiều định
nghĩa khác nhau, tùy theo trình độ hiểu biết cao thấp của
họ. Có đạo cho chết rồi mất hẳn là Niết Bàn; có đạo cho cõi
trời của Dục giới là Niết Bàn; có đạo cho chứng được tánh
không tham ái ở cõi Sơ thiền là Niết Bàn; có đạo cho các
định cảnh Không vô biên xứ; Phi phi tưởng xứ ở cõi trời Vô
sắc là Niết Bàn.
Nhưng, với đạo Phật
những nơi ấy còn ở trong vòng tam giới luân hồi. Bởi ở đó
chưa diệt được hết lòng chấp ngã, chấp pháp, còn sống chết
theo vọng tưởng sanh diệt, chứ chưa được rốt ráo như Niết
Bàn của Phật. Nói một cách tốm tắt dễ hiểu, Niết Bàn của đạo
Phật là sự thể nhập vào bản thể sáng suốt, thanh tịnh, đầy
đủ các đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. bản thể ấy không phải
chết lặng mà là sống động, có dầy đủ công năng, một sự sống
động vắng lặng, mà kinh thường gọi là "vắng thường soi, soi
mà thường vắng" (tịch nhi thường chiếu, chiếu nhi thường
tịch).
Một học giả tây phương
rất thông hiểu về đạo học Ðông phương. Ông Ram Linsen đã
viết trong quyển Le Destin du 20 siècle (vận mệnh của thế kỷ
hai mươi) như sau về Niết Bàn: "Niết Bàn không phải tịch
nhiên bất động, cũng không phải là cái trống không, là cái
chết mất vô tông vô tích. Niết Bàn là sự thực chứng cái bản
thể của vũ trụ. Không thực chứng được cái bản thể đó là
người còn thiếu sót, là sống một đời sống mất quân bình giữa
xác thịt và tâm linh. Niết Bàn không phải là ngoài cái động.
và chính Niết Bàn mới là nguồn gốc của những việc làm chân
chính. Ðây là một sự thật, nhất là đối với Ðại Thừa Phật
Giáo".
Như thế, Niết Bàn không
phải là một lối không tưởng, viễn vong không thực hiện được.
Miễn là tự tin mình có tánh Niết Bàn và cố gắng tập sống
theo tự tánh ấy, thì Niết Bàn là một kết quả rất thiết thực.
Mê muội không tự tin mình có tánh Niết Bàn là làm phát triển
tánh ấy là Thánh giả. Ðể cho phiền não tham, sân, si vô minh
chấp ngã làm chủ, là luân hồi. Gạn lọc cấu bẩn phiền não vô
minh nơi tâm thức cho hết sạch, như gạn bỏ bùn nhơ nơi nước,
cho đến khi ly nước hoàn toán trong suốt, ấy là Niết Bàn
hiển hiện.
VIII. Một Mẫu Chuyện
Về Niết Bàn
Ðể chứng minh tánh cách
triền phược của phiền não và giải thoát của Niết Bàn trên
đây, trong kinh Samitha Nikaya (Tạp A Hàm) Phật kể một mẫu
chuyện như sau:
"Có một tên trộn bị
người ta bắt được đem nạp cho nhà vua. Muốn giam giữ nó, nhà
vua ra lệnh dở nắp rương thả ra bốn con rắn độc. Con thứ
nhất quấn lất tay mặt tội nhân; con thứ hai quấn lấy tay
trái tội nhân; con thứ ba quấn lấy ngang hông và con thứ tư
quấn quanh cổ nó.
Một người đức hạnh đến
gần tội nhân, thấy rõ tình cảnh, liền nói rằng: Người đã bị
người ta giữ gìn cẩn thận, vậy hãy đứng yên, chớ nên cựa
quậy mà bị rắn cắn. Nọc con rắn thứ nhất sẽ là cho thân
người cứng đơ như đá; nọc con rắn thứ hai làm cho thân người
tiêu ra như nước; nọc rắn thứ ba làm cho thân người tan ra
như bột và bị gió cuốn đi; nọc con rắn thứ tư sẽ đốt người
cháy như ngọn lửa.
Tên trộm trả lời:
Không phải ! Những con
rắn ấy đều là đồ trang sức của tôi. Ðây là đôi vòng của tôi,
đây là sợi dây chuyển cổ và đây là sợi dâylưng.
Người đức hạnh lại dạy
nó từ từ giữ bốn con rắn ấy, đem bỏ vào trong rương, đạy nắp
lại, rồi mau mau chạy trốn.
Nó làm theo.
Hay tin, nhà vua liền
truyền lệnh cho năm trên lính đuổi theo bắt tên trộm.
Nó ráng chạy được một
đổi, lại gặp người đức hạnh khi nãy hô to:
Người hãy chạy thật mau
lên ! Có năm tên lính đang đuổi theo sau lưng kìa ! Chúng
lại thả ra bốn con rắn độc để rượt bắt người đấy. Khi đã
đuối sức, tên trộm liền dừng chân lại, và thấy phía trước có
sáu cái nhà bỏ trống, và bị sáu tên cướp vào vét sạch của
cải.
Sáu tên cướp lại nhập
đoàn với năm tên lính để đuổi bắt nó.
Người đức hạnh lại hô
to lên nữa:
Người ráng chạy mau lên
! Bọn cướp và lính nhà vua sắp đến nơi. Chúng lại bắt thêm
một người bạn thân của người để dụ người trở về trị tội.
Nhưng chạy được một
đỗi, tội nhân lại gặp một cái biển ngay trước mặt, nên phải
dừng chân lại. Nó hết sức lo âu, vì tại đây không có ghe
thuyền chi để thoát thân cả.
Người đức hạnh dạy nó
lấy tám cành cây khô, kết lại thành bè, để bơi đi trốn.
Làm bè xong, nó bơi ra
được một đỗi thì gặp một hòn cù lao. Nó định ghé lên, nhưng
dòm ngoái lại phía sau, thấy quân lính vẫn còn đuổi nà theo.
Nó cố sức bơi đến một cù lao thứ nhì, rồi thứ ba và thứ tư.
Nhân dân ở tại chỗ đó liền tôn nó lên làm vua. Lúc ấy, đoàn
người đuổi theo sau nó đều bị tiêu diệt và nó không còn thấy
hình bóng đâu nữa !
Nhà vua ám chỉ cái
nghiệp; tên trộm, ám chỉ người đi tìm đạo; bốn con rắn độc,
ám chỉ tứ đại; năm tên lính, ám chỉ ngũ uẩn; sáu cái nhà bỏ
trống sau khi bị cướp, ám chỉ sáu căn; sáu tên cướp, ám chỉ
sáu trần; tám cành cây kết lại thành bè, ám chỉ bát chánh
đạo; bốn cù lao, ám chỉ bốn bực thiền định hay bốn quả
Thánh; lễ tôn vương, ám chỉ sự giải thoát; sự tiêu diệt của
đoàn người đuổi theo sau, ám chỉ sự tan biến của màn vô minh
và sự bẻ gảy bánh xe luân hồi ".
Mẫu chuyện trên nầy ngụ
ý rằng: kẻ phàm phu bị màn vô minh che lấp, đắm mê theo vật
dục, nhận khổ làm vui, nhận xấu là tốt, khác gì kẻ tội trộm
nhận rắn độc làm đồ trang sức. Nếu nó không nhờ nhà tu hành
đức hạnh hạy bảo, thì đâu biết mình đang bị rắn độc bao vây
để chạy thoát, và đâu có gắng sức dẻo dai để bước lên bờ
giải thoát.
Chúng sinh khi còn mê
lầm, gây nên tội lỗi, thì giời phút nào cũng bị cầm tù trong
đau khổ, bị trói buộc vì nghiệp nhân. Nhưng đến khi bước lên
bờ giải thoát, được tự tại thì chẳng khác gì một vị chúa
tể.
Bốn cù lao mà tên trộm
đến được trong câu chuyện này, chỉ mới có nghĩa là bốn quả
Thánh của hàng Nhị thừa chưa phải là Niết Bàn rốt ráo, hoàn
toàn của chư Phật. Nhưng dù sao câu chuyện trên cũng cho
chúng ta một ý niệm thô thiển về sự tiến triển của kẻ tu
hành đi từ cảnh giới đau khổ, phiền não là cảnh giới Ta bà
nầy, đến trạng thái Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là Niết Bàn.
C. Kết Luận
Nói tóm lại, Diệt đế
tức là chân lý chắc thật nói về quả vị mà một kẻ tu hành có
thể chứng được. Quả vị ấy tức là Niết Bàn.
Nhưng vì sự tu hành có
thấp có cao, có rộng có hẹp, nên quả chứng tức là Niết Bàn
cũng có thấp có cao, có hoàn toàn, có chưa hoàn toàn.
Ðối với hàng Tiểu Thừa,
thì ba quả đầu: Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm là thuộc về
hữu dư y Niết Bàn, vì phiền não chưa hoàn toàn tuyệt diệu.
Chỉ đến quả vị A La Hán là quả vị mà mọi phiền não đã tuyệt
diệt, mới thuộc về Vô dư y Niết Bàn.
So với Ðại Thừa, thì
Niết Bàn của A La Hán cũng còn là Hữu dư y Niết Bàn, vì các
vị A La Hán mặc dù phiền não đã dứt sạch, ngã chấp đã hết,
nhưng pháp chấp hãy còn, thấy có pháp mình tu, có Niết Bàn
mình chứng, nên chưa có thể gọi là được Vô dư y Niết Bàn.
Chỉ có Niết Bàn của Ðại Thừa mới là Vô dư y Niết Bàn, vì ở
đây đã dứt sạch ngã chấp, pháp chấp, không còn thấy có pháp
mình tu, Niết Bàn mình chứng.
Niết Bàn của Ðại Thừa
có hai loại: Vô trụ xứ Niết Bàn của các vị Bồ Tát, và Tánh
tịnh Niết Bàn là chân tánh bản lai thanh tịnh và sáng suốt
của vũ trụ, mà các đức Phật đã thể chứng.
Trên đây kể sơ qua các
loại Niết Bàn, là các quả vị của Diệt đế Niết Bàn mà chúng
tôi diễn tả bằng văn tự ở đây so với Niết Bàn thật, còn xa
cách muôn trùng, Nhưng với hoàn cảnh hiện tại của chúng ta,
không có phương tiện nào khác hơn, để trình bày và tìm hiểu
Niết Bàn, thì đành phải dùng văn tự này.
Muốn thấy được Niết Bàn
thật, phải tự mình thân chứng, phải thể nhập Niết Bàn. Muốn
thân chứng, thể nhập Niết Bàn, cần phải tu theo phương pháp
mà đức Phật đã dạy trong phần Ðạo đế, là phần mà chúng tôi
sẽ trình bày trong những bài sau đây.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 7
Ðạo Ðế
(Nirodha Gamadukkha)
A. Mở Ðề
Nói Tổng Quát Về Ðạo
Ðế
Như trong bài trước đã
nói, muốn thực chứng, thể nhập Niết Bàn thì phải tu theo
phương pháp mà Phật đã dạy. phương pháp chân chính, có hiệu
quả chắc thật để thành Phật đó là Ðạo đế. Phần nầy là phần
quan trọng nhất trong bài Tứ diệu đế, vì nếu có rõ biết đời
là đau khổ, nguyên nhân của nó là gì, và nếu có thiết tha
cầu giải thoát khỏi cảnh khổ để đến một cõi an vui tốt đẹp
nhất là Niết Bàn, nhưng nếu không có phương pháp hiệu nghiệm
để thực hiện ý muốn ấy, thì biết cho nhiều cũng vô ích và
càng thêm đau khổ. Do đó, Ðạo đế là phần quan trọng và được
Phật dạy một cách rõ ràng chu đáo.
Ðạo đế có 37 phẩm, chia
ra làm 7 loại:
1 Bốn món Niệm xứ (Tứ
Niệm Xứ)
2 Bốn món Chánh cần (Tứ Chánh cần)
3 Bốn món Như ý túc (Tứ Như ý túc)
4 Năm Căn (ngũ Căn)
5 Năm Lực (Ngũ Lực)
6 Bảy phần Bồ đề (Thất Bồ đề phần)
7 Tám phần Chánh đạo (Bát Chánh đạo phần).
B. Chánh Ðề
A. Tứ Niệm Xứ
Ðịnh Nghĩa Về Tứ Niệm
Xứ
TỨ là bốn; NIỆM là hằng
nhớ nghĩ; XỨ là nơi chốn. tứ Niệm Xứ là bốn chữ, bốn điều mà
kẻ tu hành thường để tâm nhớ nghĩ đến. Ðó là:
Quán Thân bất tịnh
Quán Tâm vô thường
Quán Pháp vô ngã
Quán thọ thị khổ.
1. Quán thân bất
tịnh: Quán nghĩa là tập trung tư tưởng để quan sát
cho thấu đáo. Bất tịnh nghĩa là không sạch. Quán thân bất
tịnh nghĩa là tập trung tư tưởng để quan sát một cách tường
tận về sự dơ bẩn của cái thân ta.
Nói cái thân là bất
tịnh, chắc có nhiều người ngạc nhiên, phản đối cho là Phật
đã nói quá đáng.
Trong
đời còn cái gì quý báu hơn cái thân đâu? Người ta bảo bọc
nó, nâng niu nó, cung phụng nó đủ điều. Người ta cung cấp
cho nó đủ thức ngon vật lạ; người ta đùm bọc nó trong hàng
lụa, là, gấm vóc; người ta che chở nó trong nhà cao cửa lớn;
người ta dám làm tất cả những việc bất nhân tổn đức để cho
nó được sung sướng. Cái thân được quí chuộng, tôn trọng như
thế, mà bảo rằng nó là dơ bẩn, gớm ghiếc thì ai mà nghe
được.
Song bình tĩnh mà xét
lại, cái thân nầy thật không có gi là trong sạch cả. Ngay từ
khi mới đầu thai, cái thân nầy đã bất tịnh rồi, vì nó là do
hai thứ nhơ nhớp là phụ tinh và mẫu huyết mà cấu thành. Ở
trạng thái đầu tiên, nó chẳng khác gì một con hộ trùng, rồi
dần dần lớn bằng hạt đậu, rồi bằng miếng thịt, nằm lẫn trong
máu me nhơ nhớp.
Về sau, nhờ sự duy trì
của nghiệp thức nó tượng thành hình người, chìm ngập trong
một cái bọc đầy máu huyết. Cái thân nằm co rút trong đó cho
đến chín tháng mười ngày, rồi chun theo một con đường rất
bẩn thỉu, để ra khỏi bụng mẹ. Từ đó, nhờ những thực phẩm
phần nhiều cũng không được tinh khiết gì như thịt cá, mà cái
thân lớn dần. Nếu xét về sự tiêu hóa của thức ăn thì chúng
ta cũng không khỏi lấy làm khó chịu: những món ngon vật lạ,
mới nuốt vào thì cũng ưa thích, nhưng khi đã nuốt vào khỏi
cổ cách một đêm sẽ biến thành đồ bất tịnh khi bài tiết ra
thì không ai chịu nổi, ngay đến chủ nhân của nó. Chưa nói
đâu xa, cái thân nầy vài ngày chưa tắm đã thấy bẩn thỉu, rít
rắm; cái miệng sáng dạy chưa súc, đã nghe có mùi hôi rồi.
Trong thân, chín lỗ thường trôi chảy ra những đồ bất tịnh
như: đại, tiểu, ghèn, rái, mũi, dãi...lắm chuyện nhơ nhớp.
Ðó là mới nói bề ngoài, bề trong thân người lại dơ hơn thập
phần. Khi mổ bụng một con gà, con heo ta thấy một đống nào
bọc chứa, ruột non, ruột già, tim, gan, phèo, phổi, bong
bóng...như thế nào, thì các bộ phận trong cơ thể ta cũng
chẳng khác gì thế ấy. Nhất là bộ tiêu hóa là chỗ chứa đựng
đủ thứ vật thực hôi thúi, chẳng khác gì một thùng phân.
Ðó là mới nói khi lành
mạnh, còn khi đau ốm lại càng dễ sợ hơn: nào đàm, nào mũi,
thúi tha tanh hôi không sao chịu được, nhất là gặp những
bệnh nan y như lao, cùi, giang mai, hoa liễu, thì thật là
không ai dám lại gần. Ðó là khi trẻ, còn khi già đầu bạc
răng long, lưng còm, da nhăn, má cóp, đi đứng yếu ớt, không
còn đủ sức để sửa soạn bề ngoài thì lại càng nhớp nhúa hơn
nữa.
Ðến khi chết, nghiệp
thức không còn duy trì để thay lớp mới đổi lớp cũ, thì da
thịt rã rời, đụng đâu rệu đấy. Nếu không đem chôn cất cho
kín, thì ruồi bọ, giòi rúc rỉa, mùi hôi thúi xông lên không
ai chịu nổi.
Vậy cái thân nầy quả
thật là bất tịnh, không còn chối cãi vào đâu được. Nhưng
người đời vì không xét kỹ nên mới yêu quí nó, cưng dưỡng nó
đủ điều: hễ thân ưa thì mình ưa, thân ghét thì mình ghét;
làm nô lệ cho thân, gây nghiệp, chịu quả báo đời đời kiếp
kiếp không dứt. Cũng vì thân, mà tham, sân, si nổi lên; cũng
vì thân mà sát, đạo, dâm sinh ra; cũng vì thân mà cọng ngôn,
ỷ ngữ, lưỡng thiện, ác khẩu hoành hành. Trăm ngàn vạn điều
lỗi lầm, cũng vì quá cưng dưỡng cái thân nầy mà tạo thành
ra.
Vậy
hành giả cần phải quan sát rõ cái thân là bất tịnh, mới
tránh được những nghiệp tham ái. Nhưng quán sát như thế
nào?
Xưa ở Ấn độ, khi một
hành giả muốn quán sát thân bất tịnh, thì tìm đến khu rừng
người ta bỏ xác người chết, gọi là thi lâm(1) để quán theo
lối" Cửu tưởng quán" của Phật dạy: Phép quán này gồm các
giai đoạn như sau:
a) Trướng tưởng: Ngày
đầu ở gần bên cạnh thây chết, quán thây sình trướng to lên.
b) Thanh ứ tưởng: Ngày
thứ hai quán thây bị gió nắng xanh xám.
c) Hoại tưởng: Ngày thứ
ba quán thây bị rã nát.
d) Huyết đồ tưởng: Ngày
thứ tư, quán thây máu thịt rơi rớt lai láng.
đ) Nồng lãnh tưởng:
Ngày thứ năm, quán thây chết da thịt rục rã.
e) Hám tưởng: Ngày thứ
sáu, quán chim thú đến mổ ăn thây.
ê) Tán tưởng: Ngày thứ
bảy, quán sau khi chim thú ăn, gân xương, đầu mình, tay chân
chia tan nát vỡ.
g) Cốt tưởng: Ngày thứ
tám, quán huyết thịt đã hết, chỉ còn bộ xương trắng bừa
bãi.
h) Thiêu tưởng: Ngày
thứ chín, quán bộ xương trắng đốt cháy thành tro đất.
Chín phép quán tưởng
nầy, để đối trị lòng tham sắc dục.
Một khi phép quán nầy
đã thuần thục, thì kẻ tu hành thấy một cách tường tận như ở
trước mắt, thân mình và tất cả mọi người điều bất tịnh,
không có gì đáng quý chuộng, ham muốn. Do đó, có thể đối trị
được bịnh tham sắc dục là một bịnh rất trầm trọng và nguy
hiểm của con người trên bước đường tu hành. Nhưng quán thân
bất tịnh là để trừ lòng tham sắc dục, chứ không phải để ghê
tởm thân mình, đến nỗi hũy bỏ mạng sống, như sáu mươi vị Tỳ
Kheo trong thời Phật tại thế, sau khi quán thân bất tịnh
thuần thục ròi, thấy ghê tởm mình và người chung quanh, đến
nỗi thuê người giết đi. Ðấy là một điều mà đức Phật nghiêm
cấm.
Ngày nay chúng ta không
có được huệ nhãn như Phật để trỏ vào bọn nữ sắc mà Thiên ma
sai đến để quấy rối, và bảo rằng: "Những cái túi da đựng
toàn những đồ dơ bẩn kia, hãy đi đi, ta không dùng ! ".
Nhưng nhờ khoa học đã phát minh ra quang tuyến, chúng ta có
thể thấy được rõ ràng những bộ xương sườn, xương sống, đầu
lâu, tim, gan, phèo, phổi của một tuyệt thế giai nhân, qua
ống rọi kiếng. Và chỉ chừng ấy củng đủ cho chúng ta quan
niệm rằng: Cái đẹp chỉ là bộ mã bên ngoài , là lớp da bọc,
chứ bên trong thì bộ xương nào cũng giống nhau cả, và chiếu
qua quang tuyến X, thì cái đầu lâu của một người đẹp, cũng
chẵn khác gì cái đầu lâu trắng phêu đang nằm lăn lóc ngoài
bãi tha ma.
Hỡi Phật tử, nếu ai đã
phát tâm chân thật tu hành, thì hãy cố gắng thi hành pháp
"quán thân bất tịnh "; nếu chưa đủ phương tiện để thực hành
phép quán ấy, thì cũng đừng bao giờ nên quên rằng: thân
người không trong sạch, không có gì đáng say mê đắm đuối để
đến nỗi phải gây ra bao nhiêu tai hại, tội lỗi không lường
cho mình và người chung quanh.
2. Quán tâm vô
thường: Tâm vô thường, nghĩa là cái tướng của tự tâm
chúng ta luôn luôn đổi thay, không thường. Cái tướng của tự
tâm là gì? Chính là cái phân biệt, hiểu biết hằng ngày, cái
thức.
Người không học Phật
thì không nhận biết thể chơn như rộng lớn cùng khắp cả vũ
trụ, mà nhận lầm cái phân biệt, cái thức là Ta, và cho rằng
cái Ta ấy là thường còn, không thay đổi, như những ngoại đạo
chấp có thần ngã hay có linh hồn thường trụ.
Thần ngã là lối chấp
của " Số luận sư ". Họ cho rằng mỗi chúng ta có thần ngã tự
tại, trong sạch, nhưng vì phân biệt, nên nhận thấy có vũ trụ
vạn hữu, rồi sanh lòng ưa muốn, bỏ mất thần ngã tự tại trong
sạch ấy. Vậy muốn cho thần ngã được giải thoát, thì phải dứt
các món phân biệt. Dứt cho hết sạch, không thấy, không nghe,
không biết nữa, thì thần ngã mới hiển lộ ra, và khi ấy mới
nhận biết rằng vì mình mới sanh ra có vũ trụ. Họ cho như thế
là rốt ráo, mà không biết thần ngã ấy cũng chỉ là vọng thức
mà thôi.
Còn linh hồn là lối
chấp của đa số thần giáo. Họ cho rằng duy có xác thịt chết,
chứ cái linh hồn trong trường hợp nào cũng vẫn nhận biết
mình, biết người, cũng thấy nghe như xác thịt, không bao giờ
chết...
Nhưng sự thật không
phải thế: cái tâm của chúng ta không thường chút nào hết. Nó
thay đổi luôn, khi nhỏ khác, khi lớn khác, khi có học khác,
khi chưa học khác, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét,
khi chuyên niệm về một chỗ, khi tản mát ra các trần
duyên...thật không có gí là thường hết. Nó là tâm pháp vô
thường, nó thay đổi đủ cách, tùy chỗ tu tập của mình mà tiến
hóa. Nếu tâm là thường thì không có sanh tử. Nếu tâm là
thường, thì dù có tu hành cũng không tăng trưởng, thì người
dốt cứ dốt, người vụng cứ vụng, người dữ cứ dữ. Nếu tâm là
thường thì không có nhân quả, tu cũng chừng ấy, mà lành cũng
chừng ấy, cho đến người học, người không học cũng như nhau,
chẳng có gì sai khác, thay đổi cả.
Vì muốn đối trị cái
vọng chấp kia, nên Phật mới dạy phép quán "Tâm vô thướng",
để cho chúng sanh nhận biết rằng cái tâm không phải như một
vật bất biến vô dụng, không phải là cái "Ta" chắc thật muôn
đời, rồi nương vào đó mà sanh ra không biết bao nhiêu là
vọng tưởng phiền não. Những tánh tham, sân, si, mạn, nghi,
ác kiến v.v...đều do ngã chấp mà sanh ra cả.
Lại cũng vì chấp tâm là
thường nên chi chi cũng là do bản tánh của mình, không thể
sửa đổi được , như bảo:" Tánh tôi hay nóng giận, hay tham
lam "; "Tánh tôi hay đam mê đờn ca xướng hát "; "Tánh tôi
thích cờ bạc rượu chè".
Họ cho đó là một lối
bào chữa, vì không phải lỗi tại họ, mà tại cái bản ngã chắc
thật của họ như thế rồi, không làm sao sửa đổi được. Do đó,
họ không thể nâng cao tâm trí theo con đường chơn chánh
được.
Vậy, Phật tử chúng ta
cần phải quán sát cái "tâm vô thường" đổi cái tâm mê lầm ra
cái tâm giác ngộ, phải trừ ngã chấp để ra khỏi vòng sanh tử
luân hồi.
3. Quán pháp vô
ngã: Pháp, theo tiếng Phạn là Dharma. tàu dịch là
quỹ trì, nghĩa là năm giữ phạm vi của mình, như vuông, dài,
tròn méo...để mỗi khi người ta trông đến, liền nhận biết cái
nầy là gi, và khỏi lẫn lộn với vật khác. Nghĩa chữ Pháp rộng
lớn mênh mông, chỉ cho tất cả mọi sự thật trên vũ trụ, chẳng
những các vật hữu hình, cho đến các vật vô hình tưởng tượng
như lông rùa, sừng thỏ, cũng gọi là Pháp CẢ.
Còn Ngã có nghĩa là chủ
lễ, là riêng có tự tướng của mình. Người ta thường chấp các
pháp đều có tự tướng của người, vật có tự tướng của vật, thế
giới có tự tướng của quốc gia, xã hội có tự tướng của xã
hội.
Ðã chấp có tự tướng của
mình, tất nhiên thấy có tự tướng của người khác. Ðối với tự
tướng của một vật, hễ về mình thì không về người khác, còn
về người khác thì không về mình. Do đó, sinh ra tâm niệm
nhân, ngã, bỉ thử, quí trọng, khinh rẽ, tranh chấp, đấu
tranh trong xã hội.
Song, xét ra cho kỹ thì
các pháp nào phải thật có "tự tướng"? Nói về lục trần thì
sắc đối với không, động đối với tịnh, sanh đối với
diệt...nào có cái gì riêng một mình thật có tự tướng đâu?
Trần đối với căn mà có hình tướng, căn đối với trần mà có
tác dụng, ngoài trần không có căn, ngoài căn không có trần.
Như thế, thì biết tất cả các pháp, dù căn, dù trần cũng đều
không có tự tướng.
Trong
kinh Lăng Nghiên có câu: "Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu
sanh, nhân duyên biệt ly, hư vọng hữu diệt". Nghĩa là: các
nhân duyên nhóm họp thì giả dối có sanh, các nhân duyên chia
rẽ, thì giả dối có hoại diệt. Vậy đủ biết: tất cả các pháp
làm nhân duyên cho nhau, in tuồng là có, chứ không có tự
tướng. Không có tự tướng, tức là "vô ngã".
Ví như trong giấc chiêm
bao, vì nhân duyên chiêm bao hiện ra thấy có cảnh nầy cảnh
khác. Ðương khi ấy, người chiêm bao, cũng lầm tưởng là thật
có, đến khi thức dậy, mới nhận ra đó là cảnh giả dối trong
chiêm bao. Chúng ta cũng thế, vì mê lầm nên không nhận ra
được sự giả dối của sự vật. Trong khi tâm duyên với cảnh,
cảnh duyên với tâm, vạn pháp hiện ra giữa vũ trụ, chúng ta
tưởng là thật có. thật ra, các pháp đều không tự tướng, đều
là "vô ngã".
Chúng ta không biết lý
"pháp vô ngã", cho nên ngoài bị hoàn cảnh kích thích, trong
bị phiền não lay động, quay cuồng theo sự múa rối của giả
cảnh. Vì thế, tuy muốn tự tại mà chưa lúc nào chúng ta được
tự tại, muốn an vui mà chưa lúc nào được an vui, muốn thường
trụ mà vẫn phải trôi lăn trong vòng sanh tử.
Nếu
chúng ta chứng được pháp vô ngã rồi, thì một thể vô ngã trùm
khắp cả pháp giới. Cảnh cũng vô ngã, tâm thức cũng vô ngã,
thì còn cái chi mà ghét, mà thương, mà chịu sanh tử luân hồi
nữa.
Pháp vô ngã là lối tu
giải thoát rốt ráo. Nếu ai ai cũng biết tu hạnh vô ngã một
đôi phần thì đâu có sự ích kỷ hại nhân, và cảnh tượng thế
giới hòa bình đâu phải là điều không thể thực hiện được?
4. Quán thọ thị
khổ: Thọ là chịu, nhận lãnh. Thọ thi khổ nghĩa là có
nhận lãnh là có khổ.
Nhận lãnh đây là nhận
lãnh cái gì?
Nhận lãnh ở đây có
nghĩa vô cùng rộng rãi, nghĩa là nhận lãnh tất cả những gì
mà người đời có thể nhận được trong cuộc sống. Trước tiên
nhận lãnh cái thân nầy là cái thân riêng của ta, cái tâm nầy
là cái tâm riêng của ta. Sự thọ nhận nầy là nguồn gốc đầu
tiên để thọ nhận những cái khác nhau về sau: để giữ gìn thân
mạng, ta thọ cái ăn, thọ cái mặc, thọ cái ở, thọ sắc, thanh,
hương, vị, xúc; thọ những cái gì làm cho ta khoái trá, thích
thú, vui vẻ. và lòng tham càng nhiều, thì thọ lại càng lắm.
Từ cái thọ cần thiết cho cuộc sống, ta tiến dần đến những
cái thọ ít cần thiết, rồi đến những cái thọ xa xỉ, thừa thải
vô ích, nhưng vì thói quen góp nhặt, tham lam, ta không thể
bỏ qua được. Nói tóm lại, mỗi chúng sanh, mỗi cuộc đời là
một chuỗi thọ nhận liên tiếp.
Và chính thọ nhận ấy là
mầm chính của đau khổ.
Trước tiên ta thọ nhận
cuộc đời; nhưng cuộc đời là gì nếu không phải là một trường
đau khổ, như chúng ta đã thấy trong phần khổ đế? Nào sanh,
nào lão, nào bệnh, nào tử, nào yêu mà phải xa lìa, nào oán
mà phải gặp gỡ v.v...thật là toàn những khổ nhưng đó là mới
nói những nỗi khổ căn bản. Ngoài ra, còn bao nhiêu nỗi khổ
khác, cũng do thọ mà ra như: nhận được một cái gì cho là quý
thì nơm nớp sợ mất, lo tìm kiếm cách nầy, chước nọ để giữ
gìn nó. Nhưng cuộc đời đã là vô thường thì còn cái gì là tồn
tại mãi? Ngay cuộc đời của ta mà cũng không giữ mãi được thì
còn cái gì được nữa? Do đó, sanh buồn thương, tiếc nuối, mất
ăn bỏ ngủ. Và người càng thọ nhiều chừng nào lại càng khổ
chừng ấy. Kẻ giàu thì sợ mất của, kẻ có địa vị thì sợ mất
địa vị, kẻ có người yêu đẹp thì sợ mất người yêu, kẻ có danh
vọng lớn thì sợ mất danh vọng...
Nhưng có phải muốn thọ
lãnh thì bao giờ cũng được thọ lãnh theo ý muốn đâu? Thọ mà
may gặp thuận cảnh thì được thỏa dạ trong phát đầu tiên,
nhưng thọ mà gặp nghịch cảnh thì càng thêm đau khổ. Ở đời,
thuận cảnh thì ít, mà nghịch cảnh thì quá nhiều. Thường
thường, ta ngửa tay mong nhận lãnh một cái nầy, mà một cái
trái ngược khác lại rơi vào tay ta ! Do đó, sanh giận dữ,
thất vọng, khổ đau.
Ðó là nghĩa của "Thọ
thì khổ". Phép quán nầy mục đích đối trị bệnh tham là một
bệnh trầm trọng nhất trong các bệnh phiền não, đã ăn sâu gốc
rễ trong lòng chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp.
Vậy Phật tử chúng ta,
muốn diệt trừ tánh tham, phải quán "thọ thị khổ". ta phải
luôn luôn nhớ lời Phật dạy: hễ có lãnh thọ thì có khổ; càng
lãnh thọ nhiều thì càng khổ lắm. càng ít lãnh thọ, thì khổ
đau càng ít. Tất nhiên chúng ta không thể xả bỏ tất cả trong
một lúc; nhưng chúng ta nên tuần tự xả những gì dễ xả, có
thể xả được, rồi đi dần đến những cái khó xả. Càng xả chừng
nào lại càng nhẹ gánh đau thương. Người đời thường cho rằng
càng gánh nhiều vàng bạc châu báu, danh vọng, địa vị, sắc
đẹp, vui thú, lại càng sướng; nhưng đã gọi là gánh thì gánh
gì cũng là gánh, và càng gánh nặng thì vai càng đau, chân
càng mỏi, đi càng chậm; tóm lại khổ càng nhiều. Trái lại,
nếu chúng ta không lãnh thọ, như sắc đẹp, mùi ngon, vị lạ
v.v...thì thân tâm ta không bị lay động. Ðối với cảnh ta
thấy không có gì đáng ưa, cũng không có gì đáng khổ sở. Như
thế mới được an nhiên tự tại thoát vòng khổ đau.
C. Kết Luận
"Tứ niệm xứ" là gíao lý
căn bản trong phần Ðạo đế. Có hiểu được giáo lý nầy một cách
tường tận thì sự tu hành mới vững chắc được. Nó đánh đổ được
một cách rốt ráo bốn thành kiến sai lầm lớn lao của con
người là: tưởng thân mình là quý báu tốt đẹp trong sạch;
tưởng tâm mình là vĩnh viễn thường còn, như một linh hồn bất
diệt; tưởng mọi sự vật trên đời nầy chắc thật trường cữu;
tưởng thu nhận tom góp được nhiều chừng nào thì sung sướng
chừng ấy.
Nhưng sự thật lại rất
trái ngược:
1) Thân thì bất tịnh,
như một cái đãy đựng đồ dơ, không đáng nâng niu chìu chuộng.
2) tâm thì vô thường,
luôn luôn biến đổi theo với hoàn cảnh bên ngoài, không có gì
là trường tồn, bất diệt.
3) Pháp thì vô ngã,
không có tự tánh nhất định, không chắc thật mà đều là như
huyễn như hóa.
4) Thọ thì khổ,
chẳng hạn, ta thọ lãnh cái thân, thì cái thân là dơ bẩn; ta
thọ lãnh cái tâm, thì tâm là vô thường là luôn luôn biến
đổi; ta thọ lãnh sự vật ở chung quanh, thì sự vật đều là giả
trá, như khói, như mây. Do đó, càng thọ lãnh nhiều chừng
nào, lại càng đau khổ nhiều chừng ấy.
Vậy
chúng ta phải luôn luôn quán sát, ghi nhớ bốn sự thật trên
đây. Càng chứng được bốn sự thật ấy chừng nào thì sự chấp
ngã, chấp pháp, tham, sân, si lại càng bớt dần chừng ấy.
Phật tử càng nắm vững
bốn sự thật ấy chừng nào, thì sự tu hành theo các môn trong
Ðạo đế sau nầy, như bốn món chánh cần, bốn món Như ý túc,
Ngũ căn, Ngũ lực v.v...mới dõng mãnh và chóng có kết quả
chừng ấy.
(1) Ở Ấn-độ có 4 cách
táng người chết là thả xuống sông, hỏa tiêu, chôn và bỏ vào
rừng.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 8
Ðạo Ðế (Nirodha
Gamadukkha)
(tiếp theo)
B. Tứ Chánh Cần
A. Mở Ðề
Nhờ Tứ Niệm Xứ, chúng
ta đã thấy rõ sự thật của đời. Ðó là: thân bất tịnh, tâm vô
thường, pháp vô ngã và thọ thị khổ. Thấy rõ được sự thật đau
khổ ấy rồi, chúng ta phải gia công, cố sức làm thế nào để
thoát ra ngoài móng vuốt nguy hiểm của chúng.
Muốn thế, sự siêng
năng, Tinh tấn là điều kiện trên hết trong công cuộc giải
thoát của chúng ta.
Ngoài đời cũng như
trong đạo, mỗi người muốn đạt được kết quả tốt đẹp trong đời
mình thì phải luôn luôn gia công gắng sức. Nhất là người tu
hành, mà cái quả là xuất trần, cái cứu kính là an vui vĩnh
viễn, thì sự gia công, sức cố gắng lại càng phải bền bỉ, dẻo
dai vượt bực mới thành tựu được.
Hơn ai cả, đức Phật
hiểu rõ sự quan trọng của tự tướng, nên đã dạy bảo chúng ta
trước khi đi sâu vào Ðạo, phải chuẩn bị những phương tiện
cần thiết, phải tỏ rõ một thái độ quyết tâm: Quyết tâm xa
lánh điều dữ và thực hiện những điều lành. Ðó là ý nghĩa của
"Tứ Chánh cần" mà chúng ta sẽ nghiên cứu dưới đây.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa Tứ Chánh
Cần
Tứ Chánh cần là bốn
phép siêng năng Tinh tấn hợp với chánh đạo. Bốn phép Tinh
tấn ấy là:
1. Tinh tấn ngăn ngừa
những điều ác chưa phát sinh.
2. Tinh tấn dứt trừ
những điều ác phát sinh.
3. Tinh tấn phát triển
những điều lành chưa phát sinh.
4. Tinh tấn tiếp tục
phát triển những điều lành đã phát sinh.
II. Quan Niệm Về
Ðiều Dữ Và Ðiều Lành Trong Ðạo Phật
Trước khi làm điều lành
tránh điều dữ, chúng ta phải biết rõ thế nào là lành, thế
nào là dữ. Những điều dữ là những điều gì có thể làm tổn hại
cho mình và người trong hiện tại cũng như trong tương lai.
Chúng bao giờ cũng nghịch với từ bi, bình đẳng, trí tuệ và
chân lý.
Trái lại, những điều
lành là những điều có thể lợi ích cho mình và người, trong
hiện tại cũng như tương lai. Chúng bao giờ cũng hợp với từ
bi, bình đẳng, trí tuệ và chân lý.
Với hai định nghĩa nầy,
không phải đợi đến khi phát lộ ra bằng hành động, mới gọi là
lành hay dữ. Ngay trong ý nghĩ, và quan trọng nhứt là ý
nghĩ, cũng đã phân biệt được lành hay dữ rồi. Theo đạo Phật,
ba nơi phát sanh của lành hay dữ là: thân, khẩu, ý. Như thế,
một cử chỉ, một lời nói hay một ý nghĩ, đều có thể là lành
hay dữ. Do đó, đức Phật dạy chúng ta phải ngăn ngừa những
điều dữ, hay thực hiện những điều lành, ngay khi chúng còn ở
trong ý thức.
(Xem lại bài tập Thập
thiện trong khóa nhì)
III. Nội Dung Của Tứ
Chánh Cần
1. Tinh tấn ngăn
ngừa những điều ác chưa phát sanh: Tâm mình chưa
móng tưởng điều ác thì mình phải ráng giữ gìn, đừng cho nó
phát khởi lên, cũng như sợi dây buột mũi con trấu, kềm nó,
không cho ăn lúa.
Sau đây là một ít thí
dụ cụ thể có thể xảy ra hằng ngày trong đời chúng ta:
Khi chúng ta muốn tổ
chức một cuộc đi săn bắn, để lấy thịt rừng cụng ly đánh chén
với bè bạn, nhưng chúng ta lại nghĩ: "ta đã là đệ tử Phật,
đã thọ tam quy, trì Ngũ Giới rồi, không lẽ dám quên lời hứa
nguyện, sát hại chúng sinh và uống rượu !" Thế là chúng ta
không thi hành cuộc săn bắn nữa.
Khi phát khởi tâm gian
lận, muốn lập mưu kế lấy của người, chúng ta liền xét lại
rằng: "Của mình mất mình biết buồn rầu, thì của người mất
người đâu có vui ! Vả lại, mình đã nguyện trọn đời không
tham một vật nhỏ của ai, lẽ nào mình dám quên lời thệ
nguyện?" Sau khi nghĩ thế rồi, chúng ta không thi hành mưu
kế đen tối trên nữa.
Khi móng tâm hoa
nguyệt, chúng ta lại nghĩ rằng: "Mình đã nguyện trọn đời
không tà dâm, thì phải trì chí giừ gìn tiết hạnh". Và do ý
nghĩa ấy, chúng ta ngăn chặn được lòng hoa nguyệt.
Khi muốn nói dối để cho
được việc riêng của mình, chúng ta liền nghĩ rằng: "Mình đã
nguyện trọn đời nói lời ngay thật, thì phải cố gắng giừ cho
trọn lời thệ nguyện". Như thế, chúng ta khỏi phạm tội vọng
ngữ.
Nói tám lại, mỗi khi
tâm chúng ta móng lên một ý nghĩ sái quấy, muốn thực hiện
một đièu ác gì, chúng ta phải tìm những lý do chánh đáng,
tưởng nghĩ đến hậu quả tai hại của nó, để dập tắt ngay những
ý nghĩ bất chính, và ngăn ngừa không để cho nó phát sinh
trong hành động.
Người tu hành sửa các
giặc phiền não, si mê len lỏi vào tâm mình cướp mất của báu
công đức, nên luôn luôn cẩn thận giữ gìn, như người nhà giàu
giữ của: ngăn tường đóng ngõ, bỏ tủ, khóa chặt không để cho
kẻ gian vào nhà trộm mất.
Sự ngăn chặn, giữ gìn
không cho điều ác phát khởi nầy, không phải hạn cuộc trong
một thời gian nhất định nào, mà trái lại, phải tiếp tục luôn
luôn trong từng sát na, từng giây phút, từng ngày tháng,
từng năm nầy sang năm khác, cho đến chừng nào tâm mình được
thuần thục an nhiên, không nghĩ đến điều ác nữa mới thôi.
Công cuộc ngăn chận nầy đòi hỏi một sự siêng năng, Tinh tấn
dẻo dai, bền bỉ mới có hy vọng thành tựu được như ý muốn.
2. Tinh tấn dứt
trừ những điều ác đã phát sanh: Trong đời sống của
chúng ta, nhất là khi chưa hiểu biết Phật pháp và không tu
hành, chúng ta đã phạm rất nhiều tội ác. Những tội ác nầy
làm cho tâm của ta càng ngày càng tối tăm, lu mờ, như một
tấm gương bỏ lâu ngày, không ai chùi rửa, không thể soi được
nữa. nay chúng ta đã nhận thấy cái nguy hại của những điều
ác, thì chúng ta phải quyết tâm dứt trừ. Ðiều ác không ở đâu
xa, chúng phát sinh trong thân, khẩu, ý của mỗi chúng ta.
Vậy, trừ tội ác tức là ngăn chận không cho thân, khẩu, ý
chúng ta tiếp tục tạo nghiệp dữ nữa. Nhưng cái đà tội lỗi,
như cái đà một chiếc xe xuống dốc, càng xuống càng mau, càng
mãnh liệt, cho nên muốn diệt trừ tội lỗi, chúng ta phải vận
dụng nhiều nghị lực, nhiều cố gắng, phải luôn luôn siêng
năng Tinh tấn. Ðể ngăn chận cái đà tội lỗi, Phật tử chúng ta
phải luôn luôn nhớ nghĩ như vầy:
Sát sanh là điều ác đã
gây tội lỗi cho mình phải mắc nợ máu thịt và mạng sống, lại
làm hại cho người lẫn vật.
Trộm cướp làm khổ cho
người bị nghèo đói, rách rưới, buồn rầu đau khổ không thể kể
xiết.
Tà
dâm là điều không hợp lễ tiết, thường gây sự rối ren trong
gia đình và nhất là mang tiếng xấu hổ, làm mất phẩm giá con
người.
Nói dối mất lòng tin
cậy.
Nói thêu dệt làm chia
lìa ân nghĩa.
Nói lưỡi hai chiều làm
tăng trưởng oán thù.
Nói lời hung ác, trước
dơ miệng mình, sau chiêu lấy họa.
Ham muốn quá sức (tham)
tháy mình thiếu mãi, càng khổ thân nhọc trí.
Giận hờn tức tối, lửa
sân nổi lên, làm hư công hỏng việc và bao nhiêu rừng công
đức đều tiêu tan.
Si mê không rõ chánh
tà, mờ ám chân lý gây đủ các tội.
Xét như vậy rồi, nếu
tội ác đã trót lỡ sanh, thì bất cứ tội nào chằng hạn, chúng
ta phải đoạn trừ tận gốc rễ, đừng cho nó đâm chồi nẩy nhánh
nữa. Trong lúc đó, chúng ta lại huân tập các hột giống lành
thay thế vào tạng thức, thì lần hồi, chúng ta sẽ trở thành
người thuần thiện.
3. Tinh tấn làm
phát sanh những điều lành chưa phát sanh: Nhiều khi
chúng ta có những ý định hay đẹp, muốn giúp ích người nầy,
nâng đỡ người khác, nhưng vì tánh giải đãi, hay thiếu nghị
lực, chúng ta không thực hiện được những ý định tốt đẹp ấy.
Như thế, dù có thiện chí bao nhiêu, cũng không đem lại lợi
ích gì cho ta và cho người chung quanh cả. Muốn tạo những
thiện nghiệp, như nói lời hòa nhã với mọi người trong mọi
trường hợp, bố thí cho người nghèo túng, giúp đỡ cho người
có công ăn việc làm, thì chúng ta đừng chần chờ, mà trái
lại, phải hăng hái, Tinh tấn làm ngay. ta phải luôn luôn
thúc đẩy ta, biến những ý nghĩ tốt thành hành động. người
Pháp có câu tục ngữ rất có ý nghĩa, để châm biếm những người
có dự định tốt mà không bao giờ thực hiện: "Ðịa ngục lót đầy
những dự định tốt". (L'enfer est pavé de bonnes intentions).
Thật đúng như vậy, ở đời có bao nhiêu người có nhiều thiện
chí, có ý định làm điều hay điều phải, nhưng cho đến chết
vẫn chưa thực hiện được, và mang theo xuống địa ngục.
Vậy
chúng ta phải luôn luôn hăng hái làm phát triển những điều
lành, mỗi khi chúng vừa móng khởi trong tâm, đừng chần chờ,
giải đãi cho đến khi tử thần đến gõ cửa, mới ân hận là mình
chưa gây tạo được cho mình những nhân lành gì cả, nên phải
rơi vào địa ngục.
4. Tinh tấn tiếp
tục phát triển những điều lành đã phát sanh: Những
điều lành khi đã phát lộ ra hành động rồi, chúng ta đừng cho
thế là vừa, là đủ, không cần phải cố gắng làm thêm nữa.
Khi chúng ta làm điều
trọn lành, chúng ta có lợi về hai phương diện: một mặt, ngăn
chặn điều ác không cho tác hại; một mặt, làm điều thiện có
lợi ích cho mình và cho người. Chẳng hạn, như khi chúng ta
thọ giới bất sát sinh và thật hành theo giới ấy, là chúng ta
vừa ngăn chận sự giết hại người và vật, mà vừa chuộc người
và phóng sinh nữa. Các giới khác cũng vậy, nghĩa là một mặt
vừa "chỉ ác", một mặt vừa "tu thiện", rồi cứ như thế mà
siêng năng Tinh tấn luôn luôn mới được. Chúng ta phải tập
làm điều thiện cho thật thuần thục, cho thành thói quen, cho
đến khi mỗi ý nghĩ, mỗi lơi nói, mỗi việc làm điều thiện cả
mới được.
C. Kết Luận
Ý Nghĩa Rộng Lớn Và
Diệu Dụng Của Tứ Chánh Cần
Tứ Chánh cần là bốn
phép siêng năng chân chính trong công cuộc diệt trừ tội ác
và phát triển điều thiện. Nó bao gồm tất cả những quy điều
căn bản thiết yếu của mọi tôn giáo, đạo đức, luân lý.
Thật thế, nếu suốt đời,
chúng ta chỉ theo cho đúng 4 phép siêng năng nầy là: ngăn
ngừa không cho những điều ác phát sinh, diệt trừ những điều
ác đã lỡ phát sinh; thúc đẩy thực hiện những điều lành vừa
mống lên ở trong tâm, tiếp tục thực hiện được. nếu chúng ta
Tinh tấn làm được như thế, thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt
được địa vị Thánh hiền.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 8
(tt)
C. Tứ
Như Ý Túc
A. Mở Ðề
Sau khi đã nhận rõ được
chân tướng của cõi đời (Tứ niệm xứ), đã quyết tâm bỏ ác theo
thiện (Tứ Chánh cần), hành giả muốn đi xã trên đường đạo,
cần phải vạch cho mình một hướng tiến nhất định và phải có
một thái độ quyết tâm nhắm theo đúng hướng đã vạch mà đi,
không nhìn ngang nhìn ngửa, không mong ước cái này cái khác.
Hành giả chí quyết đi một đường, tập trung tất cả mong ước,
chí nguyện, ý chí, năng lực tinh thần của mình vào đó đến
khi được toại nguyện như ý mới thôi.
Muốn được như thế, hành
giả phải tu theo pháp môn "Tứ Như ý túc", một trong những
pháp môn của Ðạo đế dưới đây.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa Tứ Như Ý
Túc
Tứ Như ý túc là bốn
phép thiền định. Nói cho rõ đó là bốn phươngtiện giúp chúng
ta thành tựu các tam ma địa Samadhi: (chánh định), vì thế
nên cũng gọi là định pháp. "Như ý" là được như ý mình muốn.
"Túc" là chân, có nghĩa nương tựa mà cũng có nghĩa là đầy
đủ. Tứ Như ý túc, có nghĩa là bốn phép làm nơi nương tựa cho
các công đức thiền định, thần thông được thành tựu mỹ mãn
như ý muốn của mình. Bởi lý do ấy, nên cũng gọi nó bằng tên
Tứ thần túc. Luận Câu xá quyển 25 có nói: "Vì sao định mà
gọi là thần túc? Vì các công đức linh diệu thù thắng đều
nương nơi bốn định này mà được thành tựu".
Bốn định ấy là:
Dục Như ý túc
Tinh tấn Như ý túc
Nhất tâm Tứ Như ý túc
Quán Như ý túc.
II. Thành Phần Và
Nội Dung Của Tứ Như Ý Túc
1. Dục như ý túc:
Dục là mong muốn. Mong muốn một cách thiết tha, mong muốn
cho kỳ được, mong muốn cho đến khi mãn nguyện mới thôi. Ðó
gọi là dục như ý túc. Nhưng mong muốn cái gì? Tại sao đã là
Phật tử mà còn "dục", còn mong muốn?
Trước tiên, chúng ta
nên nhận định rõ ràng tánh chất của sự mong muốn ở đây. Có
thứ mong muốn thỏa mãn những thú tánh, những tham vọng, đó
là mong muốn tội lỗi, nên diệt trừ. Có thứ mong muốn hướng
thượng, trong lành, như mong muốn sống một cuộc đời đẹp đẽ,
thanh cao, mong muốn được giải thoát ra ngoài biển khổ sanh
tử, đó là thứ mong muốn hợp lý, đáng khuyến khích. Người
Phật tử mong muốn được thành đạt pháp thiền định mình đang
tu, để tiến lên chứng các Thánh quả. Thứ mong muốn này rất
cần cho người tu hành; nếu không mong muốn thiết tha, mãnh
liệt thì khó mà đi đến đích giải thoát được. Ðây cũng là một
sự cải chính rất hùng hồn để đánh tan quan niệm sai lầm cho
rằng: người Phật tử phải diệt dục, mà diệt dục nghĩa là diệt
tất cả, diệt luôn cả sự sống. Thật ra diệt dục ở đây tức là
dục vọng, diệt những phần ham muốn xấu xa đê hèn, làm cho
con người bị đọa xuống hàng thấp thỏi như loài sức sanh, địa
ngục, chứ đâu có diệt luôn cả những chí nguyện, những mong
ước, những đức tánh tốt đẹp của con người. Sự mong muốn sau
nầy, người Phật tử không bao giờ lãng quên, trái lại họ trút
cả tâm tư hướng về cái đích mình đang nhắm, những pháp mình
đang tu. Người thế gian ưa thích vật dục mạnh mẽ như thế
nào, thì người tu hành mong muốn thành tựu những pháp thiền
định của mình cũng mạnh mẽ như thế ấy. Có như thế, hành giả
mới tăng tiến mãi trên bước đường tu hành của mình.
2. Tinh tấn như ý
túc: Tinh tấn là dũng mãnh, chuyên nhất vào pháp
thiền định mình đang tu. Phần trên chỉ mới là sự ước muốn.
Sự ước muốn dù đẹp đẽ bao nhiêu mà không ra công, gắng sức,
luôn luôn bền tâm vững chí, nghĩa là thiếu sự Tinh tấn dũng
mãnh, thì ước muốn muôn đời cũng chỉ là ước muốn suông mà
thôi.
Chúng ta nên nhớ rằng:
Tinh tấn không phải chỉ là sự hắng hái, bồng bột trong chốc
lát, như sự ồ ạt, bốc cháy của ngọn lửa rơm. Tinh tấn là
nghị lực tu tập mạnh mẽ, thường hằng, không bao giờ gián
đoạn. Trong kinh Di Giáo đức Thế Tôn có dạy: "...Như người
kéo cây lấy lửa, cây chưa nóng đã thôi, tuy muốn được lửa,
nhưng khó thể được".
Vậy người muốn chứng
đạo quả, phải thường Tinh tấn đầy đủ như ý mình ước nguyện.
3. Nhất tâm như ý
túc: Nhất tâm là tâm chuyên nhất vào định cảnh,
không bào giờ tán loạn. Một con sông lớn, nếu bị chia nhiều
ngành tất nhiên sức chảy của nó bị yếu. Trái lại, một giòng
suối nhỏ, nếu chỉ chảy một đường, cũng đủ sức xoi thủng đá.
Người tu hành, tâm được chuyên nhất, không bị tán loạn, thì
muôn sự đều thành. Phật có dạy: "như người chứa nước, khéo
giữ bờ đê, người tu hành giữ nước trí tuệ cũng vậy, phải
khéo tu thiền định, chớ cho tán động".
4. Quán như ý
túc: Quán nghĩa là dùng trí tuệ sáng suốt quán sát
pháp mình đang tu. Quán trí ấy do định mà phát sanh, trí ấy
là tịnh trí. Vì tịnh cho nên nó có thể như thật thông đạt
thật nghĩa (chân lý) của các pháp (vũ trụ).
C. Kết Luận
Tóm Tắt Ý Nghĩa Và Diệu
Dụng Của Tứ Như ý Túc
Sở dĩ Dục, Tinh tấn,
Nhất tâm và Quán đều được gọi là như ý túc, vì chúng ta là
những thứ để cho tất cả công đức tu hành, thần lực nương vào
đó mà phát sanh, hợp như ý muốn của hành giả.
Bốn phép nầy như bốn
nấc thang kế tiếp theo nhau, để đưa hành giả từ cái nhân hữu
lậu mê mờ, đến cái nhân vô lậu giải thoát: Trước hết, do tu
tâm hằng mong muốn (Dục), cho nên sự tu tập dũng mãnh (Tinh
tấn); nhờ sự tu tập dũng mãnh, nên phiền não tiêu, tán động
hết, do đó tâm được chuyên nhất (Nhất tâm), nhờ tâm chuyên
nhất nên quán trí được thanh tịnh mãnh lợi (Quán), và có
năng lực phá tan cội gốc vô minh.
Khi vô minh hết, thì vô
số nghiệp chướng phải tiêu, hằng sa trí đức phát hiện. Người
tu hành, khi trí tuệ và công đức viên mãn tức khắc đày đủ vô
biên thần dụng trong sự hiện thân, hiện độ để cứu khổ chúng
sanh, chứ đâu có phải chỉ khi chứng được lục thông mới được
tự tại?
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 9
Ðạo Ðế (Nirodha
Gamadukkha)
(Tiếp theo)
Ngũ Căn Ngũ Lực
A. Mở Ðề
Trong 37 món trợ đạo,
Ngũ căn và Ngũ lực là những phương pháp quý báu, cũng quan
trọng như các pháp khác; có thể đưa người tu hành từ địa vị
phàm phu đến các Thánh quả trong ba thừa. Chúng là sự phục
sức trang nghiêm, là phương tiện công hiệu giúp người thẳng
tiến trên bước đường tu đạo, chứng quả. Vậy Phật tử chúng ta
không thể không biết để trì hành.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa Ngũ Căn
Ngũ căn là năm căn. Căn
đây tức là căn bản, là gốc rễ, là nguồn gốc để tất cả các
thiện pháp xuất phát.
Luận Trí Ðộ, quyển thứ
mười, giải rằng: "Năm căn này là căn bản để phát sanh tất cả
thiện pháp, nên gọi là ngũ căn". Năm căn ấy là: Tín căn, Tấn
căn, Niệm căn, Ðịnh căn, Huệ căn.
II. Thành Phần Và
Nội Dung Ngũ Căn
1. Tín căn: là
lòng tin mạnh mẽ vững chắc. Lòng tin này không giống như
lòng tin mù quáng, vô điều kiện, bất chấp lý trí của phần
nhiều ngoại đạo. Lòng tin ở đây là con đẻ của lý trí, là kết
quả của sự suy luận sáng suốt, của sự quan sát kỹ càng. Ðức
Phật không bao giờ bắt buộc Phật tử tin một điều gì mà không
suy luận được, không giải thích được. Vì lòng tin của người
Phật tử khởi từ trí xét đoán. Bởi thế nên nó vô cùng vững
chắc, mãnh liệt. Chính nó là căn bản phát sinh các hạnh
lành, Phật dạy: "Tin là mẹ vô lượng của công đức". Nhưng
Phật tử tin cái gì? Phật tử tin Tam Bảo:
Tin Phật: Phật tử biết
rằng đức Phật là đấng hoàn toàn giác ngộ, giải thoát. Vì
thế, Phật tử suốt đời tin tưởng theo Phật, để hướng tiến đến
sự giác ngộ, giải thoát mà Phật đã thân chứng.
Tin pháp: Pháp là chân
lý, là sự thật mà đức Phật đã khám phá ra và truyền lại cho
chúng ta. Hay nói một cách khác, pháp là giáo lý đúng như sự
thật mà đức Phật đã thuyết minh. Chúng ta tin tưởng những
giáo lý ấy, vì người nói ra là đức Phật, đã thân chứng được
và giác ngộ được nhờ giáo lý ấy.
Tin Tăng: Tăng là người
thật hành các giáo lý của Phật để giác ngộ mình và người, là
kẻ thay Phật đưa cao ngọn đuốc chánh pháp sáng ngời, để soi
đường cho chúng sinh. Vì thế, Phật tử suốt đời quy hướng về
Tăng.
2. Tấn căn: Tấn
là tinh tấn. Tấn căn là sự dũng mãnh tinh tấn trên bước
đường tu tập không bao giờ thối lui. Nếu đã có lòng tin chắc
chắn mà không tinh tấn thực hiện, làm theo những điều mình
tin, thì lòng tin suông ấy trở thành vô dụng, không đưa
chúng ta đến đâu cả.
Vậy cho nên người Phật
tử đã tin Tam Bảo, thì phải luôn luôn tinh tấn thực hành
giáo lý của Phật. Theo Luận Nhiếp Ðại Thừa, tinh tấn có ba
thứ:
Bị giáp tinh tấn: Nghĩa
là mang áo giáp tinh tấn. Người Phật tử trong cuộc chiến đấu
để diệt trừ đau khổ, tiến tới giải thoát, cần phải mang áo
giáp tinh tấn, để khi xông pha vào trận địa "phiền não",
khỏi bị ma quân hảm hại. Nhờ có áo giáp này, người Phật tử
tin tưởng ở năng lực của mình hùng dũng tiến tới, không sợ
gian nan nguy hiểm, không lùi bước trước một trở ngại hay
một địch thủ nào.
Gia hạnh tinh tấn:
Nghĩa là luôn luôn gắng sức không bao giờ dừng nghĩ trên
bước đường đi đến giải thoát. Với thứ tinh tấn này, người
Phật tử càng tiến càng hăng, càng thêm sức lực, càng phấn
chí không bao giờ biết mệt mỏi.
Vô hỷ túc tinh tấn: Vô
hỷ túc tinh tấn nghĩa là không vui sướng tự mãn, cho là vừa
đủ khi mới thu được một ít thắng lợi trên đường tu hành.
Người Phật tử chưa chứng được Phật quả, thì còn gia công
gắng sức tu luyện mãi, chứ không chịu dừng nghỉ, vui thú với
một quả vị thấp thỏi, tạm bợ, như người bộ hành khi chưa đến
đích cuối cùng, thì còn hăng hái bước mãi, chứ không chịu
chấm dứt cuôĩc hành trình của mình, bằng cách an phận ở mãi
trong quán trọ bên đường.
3. Niệm căn:
Niệm là ghi nhớ. Ghi nhớ những gì?
a) Thứ nhất niệm thí:
nghĩa là nhớ tu bố thí. Người Phật tử thường ngày nhớ đem
tài sản bố thí cho người bần cùng; đem hùng lực cứu giúp
người sợ hãi; đem chánh pháp chỉ giáo cho người si mê, khiến
họ hết khổ được vui.
b) Thứ hai niệm giới:
nghĩa là nhớ trì tịnh giới để đoạn trừ các phiền não nghiệp
chướng, tăng trưởng mọi hạnh lành. Giới có ba thứ:
Nhiếp luật nghi giới:
Những giới để ngăn cấm các hạnh nghiệp thô xấu, đoạn diệt
các nghiệp chướng nơi thân tâm.
Nhiếp thiện pháp giới:
Những quy điều đúng pháp và lợi ích, người thực hành theo
nó, có thể thành tựu tất cả pháp lành.
Nhiêu ích hữu tình
giới: Những điều luật làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng
sinh.
c) Thứ ba niệm thiền:
Luận Nhiếp Ðại Thừa có nói: "Thiền niệm trụ là an trụ bón
món thiền định". Vậy niệm thiền là nhớ tu các niệm thiền
định, để gạn sạch tất cả phiền não, thể chứng chân như:
4. Ðịnh căn:
Ðịnh hay tịnh lự do dịch nghĩa chữ Phạn là Dhyana (Thiền
na). Ðịnh là lắng tâm yên tịnh, chuyên chú vào chánh pháp,
để suy đạt thật nghĩa của nó. Theo Luận Nhiếp Ðại Thừa, định
có thể chia làm ba bậc:
An trụ định: Ðể tâm an
trụ vào định cảnh, không cho tán động, do đó phiến não được
tiêu trừ.
Dẫn phát định: Do đoạn
sạch phiền não nên được phát sanh sáu món thần thông là các
công đức thù thắng.
Thành sở tác sự định:
Do đã phát khởi được các công đức, thần thông, nên thường
làm lợi ích cho tất cả chúng sanh; cứu độ chúng sanh giải
thoát sanh tử, chứng được Niết Bàn.
5. Huệ căn: Huệ
là trí huệ sáng suốt, thâm nhập được chân tướng của vạn
pháp. Trí huệ ấy không có sự phân biệt, vì phân biệt là tác
dụng của vọng thức, là mê lầm. Cũng theo Luận Nhiếp Ðại
Thừa, trí huệ có ba thứ:
Vô phân biệt gia hạnh
huệ: Quán trí nầy không còn thấy có phân biệt, nhưng còn có
gia hạnh, nghĩa là còn phải dụng công tu hành, để thành tựu
hoàn toàn vô phân biệt trí. Vì thế, nên gọi là " vô phân
biệt gia hạnh huệ".
Vô phân biệt huệ:
Trí huệ nầy không có sự phân biệt, mà không cần phải gia
hạnh vì đã thuần phục. Do không phân biệt nên không có mê
vọng. Nhờ trí huệ này, người tu hành được tự tại thể chứng
nhân như.
Vô phân biệt hậu đắc
huệ: Hay hậu
đắc trí, nghĩa là trí huệ có được sau khi đã chứng được chân
như. Trí huệ này hoàn toàn sáng suốt, tỏ ngộ được thật nghĩa
của các pháp. Chư Phật nhờ hậu đắc trí nầy mà thi tác vô
lượng công đức, để cứu độ chúng sanh.
Nói một cách tổng quát
giản dị, huệ căn là trí huệ do thiền định đã làm lặng sạch.
Nó không đạt được sự thật của các pháp; nó là căn nguyên
phát sanh mọi việc vĩ đại để giải thoát chúng sinh.
II. Ðịnh Nghĩa Ngũ
Lực
Ngũ lực tức là năm năng
lực vĩ đại, năm thần lực của Ngũ căn. Nói một cách dễ hiểu:
Ngũ căn như năm cánh tay, còn ngũ lực như là sức mạnh của
năm cánh tay ấy.
IV. Thành Phần Và
Nội Dung Của Ngũ Lực
1. Tín lực: tức
là thầnlực của đức tin, hay sức mạnh lớn lao, vi diệu do tín
căn phát sinh.
2. Tấn lực: tức
thần lực của đức tinh tấn, hay sức mạnh bất thối chuyển,
kiên cố, có thể sang bằng mọi trở lực, sức mạnh này do tấn
căn phát sinh.
3. Niệm lực: tức
là thần lực của sự ghi nhớ, hay sức mạnh lớn lao bền chắc
của niệm căn.
4. Ðịnh lực: tức
thần lực của sự tập trung tư tưởng hay sức mạnh vĩ đại của
định căn.
5. Huệ lực: tức
thần lực của trí huệ hay sức mạnh vô biên của huệ căn.
Nói một cách tổng quát,
những sức mạnh nầy là kết quả thâu đạt được do sự kiên cố tu
luyện của Ngũ căn. Nó như là một ngọn lửa bật lên sau khi
người ta đã nỗ lực cọ sát hai cây củi vào nhau để lấy lửa.
C. Kết Luận
Diệu Dụng Của Ngũ Căn
Và Ngũ Lực
Như chúng ta đã thấy ở
trên, Ngũ căn và Ngũ lực vừa làm hai căn bản, vừa là nghị
lực để phát sinh, tăng trưởng vô lượng công đức thù thắng.
Bất luận người nào, hễ
đã lấy trí làm nền tảng, tinh tấn thật hành chánh pháp
(tấn), hằng ghi nhứ chánh pháp để tiến tu (niệm), tập trung
tư tưởng để trừ sạch vô minh phiền não, đem diệu huệ vô phân
biệt (huệ) để chứng chân như, thì người ấy thế nào cũng nắm
chắc trong tay quả vị vô thượng Bồ đề. Vì sao? Vì người ấy
đã có những thần lực vĩ đại (Ngũ lực) do Ngũ căn gây tạo.
Với ngũ lực nầy, hành giả như người bộ hành có đủ phương
tiện linh lợi, diệu dụng để băng rừng, vượt biển và đi đến
đích cuối cùng. Ðích cuối cùng của người tu hành theo chánh
pháp tức là thành Phật. Ðến đích này, người ấy là ánh sáng
của chúng sinh gieo mầm an lạc. Chính người mới có đủ thần
lực, diệu dụng làm cho chúng sinh trở thành những kẻ hoàn
toàn giải thoát, hoàn toàn giác ngộ.
Kết qủa của Ngũ căn và
Ngũ lực lớn lao, quý báu như thế đó, chúng ta không thể
không tu theo hai pháp môn ấy.
▲
Trở Lên
|
Bài Thứ 9
(tt)
Thất Bồ
Ðề Phần
A. Mở Ðề
Thất Bồ đề phần cũng là
một pháp môn quan trọng không kém gì ngũ căn. Sở dĩ đức Phật
chế ra nhiều pháp môn như thế là để tùy căn cơ từng người,
ai hợp pháp môn nấy về tên gọi, về chi tiết thì có khác
nhau, nhưng về đại thể, về tinh thần thì có nhiều chỗ giống
nhau. Vì thế, chúng ta sẽ thấy trong pháp môn "Thất Bồ đề
phần" có nhiều điểm giống như trong "Tứ Như ý túc" hay "Ngũ
căn, Ngũ lực".
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa Thất Bồ
Ðề Phần
Bồ đề do phiên âm chữ
Phạn Boddhi mà ra. Người Trung hoa dịch là Giác đạo, hay đạo
quả gíac ngộ. Phần là từng phần, từng loại. Thất Bồ đề phần
là bảy pháp tu tập tuần tự hướng đến đạo quả vô thường Bồ
đề, hay bảy pháp giúp người tu hành thành tựu đạo quả Ðại
giác.
Nó cũng có tên là Thất
giác chi. "Giác: tức là Bồ đề, còn "Chi" tức cũng như phần
vậy. Thất giác chi tức là bảy nhánh, bảy phương tiện đi đến
đích giác ngộ.
II. Thành Phần Và
Nội Dung Của Thất Bồ Ðề Phần
Thất Bồ đề phàn gồm
có:
1. Trạch pháp:
Trạch là lựa chọn; Pháp là pháp môn, là phương pháp tu hành.
Trạch pháp là dùng trí huệ để lựa chọn pháp lành để tu, pháp
dữ để tránh. Trong sự tu tập, nếu ta không có trí phân biệt
chánh tà, tất phải lầm lạc. Như các bài trước đã nói, lòng
tin của người Phật tử phải dựa trên lý trí, nếu không là mê
tín. Ðức Phật có dạy: "Hãy dùng trí huệ suy nghiệm, giải
trạch các pháp, rồi sẽ tín thọ, thật hành theo". Nếu tu lầm,
tin chạ, điều có nguy hại gắp trăm nghìn lần người không tu
hành. Vì vậy, Phật tử chúng ta muốn thẳng tiến trên đường
giác ngộ, giải thoát, không phải nghe ai bảo gì tin nấy,
không phải tự bảo một cách bừa bãi: "đạo nào cũng tốt cả";
không phải chung dung hòa Phật giáo với ngoại đạo; trái lại,
Phật tử cần sáng suốt để phòng sự đánh lộn sòng của các
ngoại đạo, sự xuyên tạc xảo quyệt để làm mất lòng tin sáng
suốt của chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo phân
biệt chánh, tà, chân, ngụy; phải thường trí huệ mà giản
trạch cả những pháp ở ngoài và những ý tưởng chơn vọng của
tâm để tu, để đoạn.
2. Tinh tấn:
Nhưng một khi đã lựa chọn được pháp môn chân chính để tu
rồi, thì phải tinh tấn, nghĩa là luôn luôn dũng tiến trên
bước đường tu tập, không quản ngại gian lao khó nhọc, không
khiếp sợ; không thối chuyển, không tự mãn, tự cao mà bỏ dở
mục đích chưa đạt được (như đã nói ở bài ngũ căn).
3. Hỷ: Nghĩa là
hoan hỷ. Nhờ tinh tấn tu hành, nên đoạn trừ được dần phiền
não thành tựu vô lượng công đức, do đó, sanh tâm hoan hỷ và
phấn chí tu hành.
4. Khinh an:
Khinh là nhẹ nhàng. An là an ổn. Nhờ sự tinh tiến tu tập nên
thân tâm được thanh tịnh; do đó người tu hành cảm thấy nhẹ
nhàng, khoan khoái, khinh an, như đã trút được gánh nặng dục
vọng, mê mờ.
5. Niệm: (Cũng
như chữ niệm trong mấy bài trước) nghĩa là thường ghi nhớ
chánh pháp để thực hành. Tâm niệm ta, nếu không thường nhớ
chánh pháp, tất nhiên tạp niệm phát sanh, phiền não tăng
trưởng. Cũng như một đám đất nếu không trồng hoa, thì cỏ
mọc. Vì thế người tu hành cần phải để tâm ghi nhớ chánh
pháp, đừng cho xao lãng buông lung nghĩ bậy.
6. Định:
Nghĩa là tâm chuyên chú, tập trung vào pháp mình đang tu
7.
Xả: Nghĩa là bỏ ra ngoài không vướng bận. Xả tức là hành
xả tâm sở, một trong 11 món Thiện tâm sở.
Hành xả nghĩa là thế
nào?
Người tu hành, nhờ trí
sáng suốt, nhận biết "thọ là khổ", nên không nắm giữ một thứ
nào hết, dù quý báu bao nhiêu. Ngay trong sự tu hành cũng
vậy, họ không trụ trước ở các pháp mình đã tu, đã chứng;
trái lại họ luôn luôn xả bỏ những gì mình đạt đến, để tiến
triển trên bước đường đi đến giải thoát. Nếu người tu hành
cứ mãi say đắm vào quả vị mình đã chứng, thì suốt đời sẽ bị
trầm một nơi đó, không bao giờ có thể tiến lên, để đạt thành
đạo quả vô thượng Bồ đề. Kinh Kim Cang sớ có nói: "Người tu
hành phải như người nương thuyền qua sông, khi thuyền đã cập
bến, nếu ta không bỏ nó để lên bờ, thì đừng hòng đến đâu và
biết gì được. Người muốn thành đấng siêu việt tự tại, cần
phải từ trước khước mọi đắm say".
Pháp hành xả nầy giúp
chúng ta thành tựu sự siêu việt.
C. Kết Luận
Tóm lại, người tu bảy
pháp Bồ đề phần nầy, chắc chắn sẽ được bốn kết quả quý báu
sau đây:
1. Tất cả pháp ác đều
được tiêu trừ.
2. Tất cả pháp lành
càng ngày càng tăng trưởng.
3. Vì thường tu thiện,
đoạn ác, nên luôn luôn được an lạc, không bị đau khổ.
4. Sẽ chứng thành Phật
quả.
▲ Trở Lên
|
Bài Thứ 10
Ðạo Ðế (Nirodha
Gamadukkha)
(Tiếp Theo)
E. Bát Chánh Ðạo
A. Mở Ðề
Trong 37 món trợ đạo,
Bát Chánh đạo là một pháp môn chính, được nhắc nhở đến nhiều
nhất. Vì thế, mỗi khi nói đến Ðạo đế là người ta liên tưởng
đến Bát Chánh đạo. Thậm chí có người tưởng lầm rằng Ðạo đế
với Bát Chánh đạo là một.
Sở dĩ Bát Chánh đạo
được xem là pháp môn chính của Ðạo đế, vì pháp môn nầy rất
đầy đủ có thể bao gồm được các pháp môn khác của Ðạo đế. Nó
rất phù hợp với mọi căn cơ, mọi thời đại, mọi phương sở; đối
với Tiểu Thừa cũng như Ðại Thừa, người Ðông phương cũng như
Tây phương ai ai cũng đều công nhận giá trị hoàn toàn cao cả
của Bát Chánh đạo, và đều áp dụng pháp môn nầy trong sự tu
hành của mình để đoạn trừ phiền não khổ đau, hầu bước lên
con đường giải thoát, an vui, tự tại.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa Bát Chánh
Ðạo
Bát Chánh đạo là tám
con đường ngay thẳng hay tám phương tiện mầu nhiệm đưa chúng
sinh đến đời sống chí diệu.
Người ta cũng có thể
dịch nghĩa "Bát Chánh đạo" là con đường chánh có tám ngánh,
để đưa chúnh sinh đến địa vị Thánh.
Cũng có khi người ta
gọi Bát Chánh đạo là "Bát Thánh đạo" vì cái diệu dụng của nó
sau đây:
a) Những kẻ phàm phu
học đạo, noi theo pháp môn nầy mà tu, thì khỏi lầm lạc vào
nẻo nguy hiểm, lần hồi sẽ chứng được quả Hiền Thánh.
b) Những bậc Hiền,
Thánh nương theo tám phương tiện nầy thì sẽ đi đến cảnh Niết
Bàn.
Bát Chánh đạo gồm có:
1. Chánh kiến
2. Chánh tư duy
3. Chánh ngữ
4. Chánh nghiệp
5. Chánh mạng
6. Chánh tinh
tấn
7. Chánh niệm
8. Chánh
định
II. Nội Dung Và Giá
Trị Mỗi Thành Phần Của Bát Chánh Ðạo
1. Chánh kiến:
Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết.
Chánh kiến hay Chánh tri kiến là thấy, nghe, hay, biết một
cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan.
Người có chánh kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế
ấy, không lấy trắng làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay, hay
trái lại. Sự nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán,
thành kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc. Người có
chánh kiến biết phân biệt cái nào giả, cái nào thật. Và khi
đã biết cảnh giả, vật dối, thì mắt không chăm, tâm không
chú; còn khi rõ biết cảnh vật thật, lời lẽ chân, thì chuyên
tâm vào sự lý chân thật làm cho đèn huệ sáng ngời, tiền trần
không phương che ám được.
2. Chánh tư duy:
Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chánh tư
duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ
phải.
Người tu theo phép
Chánh tư duy, thường xét nghĩ đạo lý cao siêu, suy tìm thể
tánh nhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm, những ý nghĩ
xấu xa để sám hối; biết suy nghĩ về ba món vô lậu học: Giới,
Ðịnh, Huệ, để tu giải thoát; biết suy xét vô minh và nguyên
nhân đau khổ, là nguồn gốc của tội ác, và tìm phương pháp
đúng đắn để tu hành hầu giải thoát cho mình và cho người.
3. Chánh ngữ:
Ngữ là lời nói; Chánh ngữ là lời nói chân thật, công bình,
ngay thẳng và hợp lý.
Người tu theo chánh
ngữ, không bao giờ nói sai, không thiên vị, thấy dở nói hay,
không xuyên tạc, nghe một đường nói một ngả. Người theo
chánh ngữ rất thận trọng lời nói; trước khi muốn nói gì phải
suy nghĩ coi có lợi ích và chân thật không. Xưa đức Khổng Tử
vào viếng chốn cổ miếu, thấy bức tranh họa một hình người
kẹp miệng ba lần, Ngài day lại dạy môn đệ phải cẩn thận lời
nói.
Ngày xưa, trước khi đức
Phật sắp nhập Niết Bàn, có Ðệ tử hỏi:
Bạch đức Thế Tôn, khi
Phật nhập Niết Bàn rồi, người đời sau gặp nhièu sách vở
ngoại đạo không sao phân biệt với kinh Phật , như thế, biết
tin theo lời nào tu?
Phật dạy:
Chẳng luận là lời nói
của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì cứ tin
theo mà tu.
Vậy, phàm những lời nói
đúng lý, hợp lẽ, có lợi ích cho toàn thể chúng sinh là chánh
ngữ. Những lời nói ấy chúng ta phải tin theo và tập nói cho
đúng như thế.
4. Chánh nghiệp:
Nghiệp là do người Trung Hoa dịch chữ Phạn Karma mà ra.
Nghiệp hay Karma nghĩa là hành động tạo tác.
Chánh nghiệp là hành
động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với
chân lý, có lợi ích cho người lẫn vật.
Người theo đúng "chánh
nghiệp" là người luôn luôn thận trọng , giữ gìn mọi hành
động của mình, để khỏi làm tổn hại đến quyền lợi, nghề
nghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc, tánh mạng của người
khác. Hơn nưa người theo đúng chánh nghiệp bao giờ cũng tôn
trọng lương tâm nghề nghiệp của mình, luôn luôn hành động có
lợi ích cho mọi người, mọi vật; và nếu cần, có thể hy sinh
quyền lợi hay tánh mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ cho
người khác.
Ngoài ra cũng gọi là
chánh nghiệp, khi dùng trí huệ để quán tưởng những pháp chân
chính, hoặc ngồi Thiền, niệm Phật , hoặc trì tụng kinh hành,
để giữ gìn thân, khẩu, ý ba nghiệp cho thanh tịnh.
5. Chánh mạng:
Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sanh sống một cách
chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của
mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời ngay
thật, không gian tham, không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt
của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì
nghề nghiệp của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một
cuộc đời có ý nghĩa lợi mình, lợi người, xứng với bát cơm
mình ăn, manh áo mình mặc chứ không ăn không ngồi rồi, sống
bám vào người khác.
Người theo Chánh mạng
sống đúng Chánh pháp, không mê tín dị đoan, và biết thân tứ
đại vốn vô thường, nên lấy tịnh giới làm thể, lấy trí huệ
làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chánh pháp.
6. Chánh tinh tấn:
Chữ tinh tấn ở đây cũng cùng nghĩa như tinh tấn đã nói trong
bài trước, nghĩa là chuyên cần, siêng năng, thẳng tiến mục
đích đã vạch sẵn không vì một lý do gì mà lùi bước. Chánh
tinh tấn là chuyên cần, siêng năng làm việc chánh nghĩa, lợi
lạc cho mình cũng như cho người và vật.
Người theo đúng Chánh
tinh tấn, trước tiên, bao giờ cũng hăng hái sửa mình, cương
quyết bài trừ những điều ác, quyết tâm phát triển mọi hạnh
lành (xem bài Tứ Chánh cần). Người theo đúng Chánh tinh tấn,
dũng mãnh tiến lên trên đường đi đến giải thoát, cho đến lúc
nào đạt được mục đích cao cả, cùng tột ấy mới thôi (xem đoạn
"Tấn căn" trong bài Ngũ căn).
Nói tóm lại, người theo
đúng Chánh tinh tấn, quyết tạo nghiệp vô lậu xấ thế gian,
lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết Bàn làm chỗ quy hướng,
một lòng chẳng trễ, muôn kiếp không dời, quyết công phu,
định thành đạo quả để trước tự độ, sau hóa đôĩ chúng sanh.
7. Chánh niệm:
Niệm là ghi nhớ (cũng như nghĩa chữ niệm ở các bài trước).
Chánh niệm là ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều
lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý
trọng cao siêu.
Chánh niệm có hai
phần:
a) Chánh ức niệm: là
nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối, và nghĩ
nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sinh và
ân Tam Bảo để lo báo đền.
b) Chánh quán niệm: là
dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ
mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương yêu và
quyết ra tay cứu độ.
Người theo đúng Chánh
niệm, thường quán sat cảnh chân đế, năng tưởng niẹm các pháp
trợ đạo; bất luận ở đâu và làm gì, cũng nhớ nghĩ đến cái quả
vô lậu xuất thế gian, dù trải qua bao nhiêu số kiếp cũng
không thối tâm xao lãng.
8. Chánh định:
Chữ "Ðịnh" ở đây cũng đồng nghĩa như chữ định trong các bài
trước, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, để
thấy cho rõ ràng. Chánh định là tập trung tư tưởng vào một
vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và
người.
Người theo đúng Chánh
định, thường tập trung tư tưởng để quan sát những vấn đề
chính sau đây:
Quán thân bất tịnh:
(bất tịnh quán) túc là quán tưởng thân không thanh tịnh, để
trừ tham dục, sai ái (xem lại đoạn: "quán thân bất tịnh"
trong bài Tứ niệm xứ).
Quán từ bi (từ bi quán)
là quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một chân tâm, bình
đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận, và mở rộng lòng thương
yêu để cứu độ chúng sinh.
Quán nhân duyên: (nhân
duyên quán) là quán tưởng tất cả pháp hữu hình như muôn vật,
vô hình như tâm niệm đều là giả hợp, duyên nhau mà có, chứ
không có một cách chân thật, không trường tồn, để đoạn trừ
ngu si, pháp chấp.
Quán giới phân biệt:
(giới phân biệt quán) nghĩa là phân biệt và quán tưởng sự
giả hợp của 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức để thấy không
thật có "ngã, pháp" ngõ hầu diêt trừ ngã chấp, pháp chấp.
Quán hơi thở: (sổ tức
quán) nghĩa là qúan tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở
ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức.
C. Kết Luận:
Như đã nói ở đoạn mở
đề, Bát Chánh đạo là pháp môn rất được thông dụng. Sự thông
dụng này sở dĩ có được là nhờ lợi ích thiết thực và quý báu
của nó đối với đời sống cá nhân của người tu hành, đối với
xã hội, và đối với đời sống tương lai. Có thể tóm tắt những
lợi ích, hay công năng của Bát Chánh đạo trong ba điểm sau
đây:
1) Cải thiện tự
thân: Nếu con người chuyên tu theo tám đường chánh này,
thì sửa đổi được tất cả mọi sự bất chính, mọi tội lỗi trong
đời sống hiện tại của mình, như ý niệm mê mờ, ngôn ngữ đảo
điên, hành vi sái quấy, đời sống vô luân. Khi những điều
trên nầy đã được cải thiện, thì tất cả cuộc đời riêng của
mỗi người sẽ chân chính, lợi lạc và thiện mỹ.
2) Cải thiện hoàn
cảnh: Nếu trong xã hội ai ai cũng đều chuyên tu theo tám
đường chánh đạo nầy, không những có nhiều lợi lạc trong cuộc
đời hiện tại mà còn gây tạo cho mình một tương lai tươi
sáng, gieo trồng cho mình những hạt giống Bồ đề để ngày sau
gặt háu quả vô thượng Niết Bàn, đầy đủ bốn đức Thường, Lạc,
Ngã, Tịnh.
Vì những lợi ích quý
báu như thế, chúng tôi xin khuyên mọi Phật tử hày phát
nguyện cương quyết tu theo Bát Chánh đạo.
Tổng Kết Về Ðạo Ðế
Chúng ta vừa biết qua
nội dung của Ðạo đế , hay 37 món trợ đạo là: Tứ niệm xứ, Tứ
chánh cấn, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phần,
Bát Chánh đạo. Phần Ðạo đế đã chiếm hết bốn bài trong mười
bài nói về Tứ đế. Chỉ cái số lượng ấy cũng đủ nói lên sự
quan trọng mà đức Phật muốn dành cho phương pháp tu hành để
chứng nhập Niết Bàn. Nhưng chúng ta đừng nên thấy quá nhiều
pháp môn mà vội nản lòng, thối chí. Vì căn cơ chúng sinh
không đều, nên đức Phật cần chế ra nhiều pháp môn, để mỗi
người có thể tùy theo căn cơ mính mà lựa pháp môn thích hợp
để tu hành. Tất nhiên một người có thể tu nhiều pháp môn nếu
có đủ khả năng, trí tuệ, sức khỏe; những nếu không đủ điều
kiện, thì tu một pháp môn cũng được. Khi tu thành một pháp,
các pháp kia đều thành, vì nó là một nhiếp thuộc lẫn nhau.
Vậy Phật tử không nên
ngã lòng thối chí. Với sự quyết tâm, với đức tinh tấn, chúng
ta tuần tự tiến dần vào Ðạo đế, không lo sợ, không nghi ngờ,
cũng không quá bồng bột, nóng nảy, rồi đây chậm hay nhanh,
thế nào cũng phải đến đích.
Hỡi quí vị Phật tử !
Mười phương các đức Như Lai, đầu tiên đều nhờ các pháp môn
nầy mà dần dần được viên thành Phật quả. Tất cả Thánh giả
trong ba thừa, đều nương vào đây để tu hành cho đến ngày đạt
đích. Chúng ta, đấng con Phật , những người đang canh cánh
ôm ấp bên lòng trí nguyện thành Phật , để cứu độ và cứu độ
chúng sinh, lẽ nào trong lúc đức Phật đã vì lòng từ bi mà
sửa soạn cho chúng ta mọi phương tiện , mọi hành lý để tiến
lên đường giải thoát, chúng ta lại do dự, chần chờ hay thối
thác !
Vậy chúng ta hãy mau
mau cất bước lên đường giải thoát.
HẾT KHÓA 3
▲ Trở Lên
|
|
|