|
Khóa Thứ 10 và
11
LUẬN ĐẠI THỪA
KHỞI TÍN
DỊCH NGHĨA VÀ
LƯỢC GIẢI
Giảng lần thứ
nhứt tại Phật Học Đường Nam Việt
Ngày 12 tháng 9 năm Tân Sửu (11 10 61)
BÀI THỨ NĂM
CHƯƠNG THỨ BA
PHẦN GIẢI THÍCH
NÓI VỀ
NGHĨA "BẤT GIÁC"
MỤC LỤC
2. Nói về nghĩa
"Bất giác" (không giác ngộ: mê)
a. Nói về Tam tế
1. Nghiệp tướng (Vọng động)
2. Chuyển tướng (Tâm phân biệt, trực giác)
3. Hiện tướng (Cảnh bị phân biệt)
b. Nói về lục thô
1. Trí tướng (Vọng thức phân biệt)
2. Tương tục tướng (Vọng niệm tương tục)
3. Chấp thủ tướng (Chấp sự vật)
4. Kế danh tự tướng (Chấp danh tự)
5. Khởi nghiệp tướng (tạo nghiệp)
6. Nghiệp hệ khổ tướng (thọ, quả)
c. Nói về hai Tướng
1. Đồng (đồng bản chất)
2. Khác (khác hình tướng)
CHÁNH VĂN
Do không thật biết pháp
"Chơn như" nên tâm bất giác (mê) nổi lên, liền khởi vọng
niệm (sanh tướng vô minh). Song vọng niệm vì là không có
thật thể, nên chẳng rời Bản giác.
Thí như người lầm
phương hướng; vì có phương hướng nên mới lầm, nếu không
phương hướng thì không có lầm.
Chúng sanh cũng thế, do
có "Giác" nên mới có "Mê"; nếu không có "Giác" thì cũng
không có "Mê" (Bất giác)
Song chúng sanh cũng
nhờ có "Tâm vọng tưởng bất giác" này, nên mới biết phân biệt
danh từ và nghĩa lý của các pháp. Và cũng nhờ thế mà chư
Phật mới có thể vì chúng sanh nói ra "Chơn giác" (tánh
Phật). Nếu lìa "Tâm bất giác" thì cũng không thể chỉ bày cái
"Chơn giác" được (dụ như lìa sóng không có nước).
LƯỢC GIẢI
Chúng sanh vì không ngộ
được Phật tánh (bản giác) nên gọi là mê (bất giác). Song cái
"mê" này không có thật thể, chỉ lấy Phật tánh làm thể, nên
không rời Phật tánh (bản giác) được. Cũng như người lầm
đường, do có con đường nên mới có lầm, nếu không có con
đường thì cũng không có sự lầm lạc. Bởi thế nên, nếu rời
Phật tánh (bàn giác) thì cũng không có cái mê (bất giác).
Cũng như bỏ sóng, không có nước.
Sóng, cũng nhờ có cái
mê vọng (bất giác) này, nên chúng sanh mới biết phân biệt
các pháp chơn vọng, thánh phàm và nhàm chán cảnh khổ sanh
tử, ham mộ thú vui "Niết bàn".
Và cũng nhờ chúng sanh
có biết phân biệt, nên chư Phật mới có thể thuyết pháp giảng
dạy, chỉ bày Phật tánh (chơn giác). Nếu không có tâm mê vọng
bất giác phân biệt của chúng sanh, thì Phật cũng không làm
sao chỉ bày Phật tánh (chơn giác) cho chúng sanh được.
Đọc qua đoạn văn này,
chúng ta nên lưu ý đến câu: "Vì không ngộ được Phật tánh,
nên gọi là mê" hay đổi lại cách nói "Tại sao có dại?" vì
chưa khôn vậy". Vậy thì cái mê dại (vô minh) này, sẳn có từ
hồi nào đến giờ, vì từ hồi nào đến giờ chúng sanh chưa từng
ngộ được Phật tánh.
Nói tóm lại, chơn như
với vô minh đồng thời có, không phải chơn như có trước, vô
minh có sau. Khi chơn như (Phật tánh) hiện, thì vô minh mất,
cũng như khi "khôn" rồi, thì "dại" tự hết.
GIẢI DANH TỪ
"Bất giác":
không biết. Thật ra không phải là không biết; vẫn có biết,
song cái "biết" ấy hư vọng, chẳng chơn thật, nên cũng gọi là
"vọng niệm" hay "vô minh" v.v..
"Không thật biết":
Chúng sanh vẫn biết được chơn như hay Phật tánh; song chỉ
biết suông trên văn tự, do ý thức phân biệt hư dối mà thôi;
chứ không biết đúng như thật.
(Đoạn này nói về căn
bản vô minh (bất giác), tiếp sau đây sẽ nói đến chi mạt vô
minh (tam tế, lục thô).
a. NÓI VỀ TAM TẾ
CHÁNH VĂN
Và, do "Bất giác" (căn
bản vô minh) nên sanh ra ba tướng rất vi tế (tam tế: chi mạt
vô minh); ba tướng vi tế này không rời "Bất giác".
1. Tướng nghiệp vô
minh (nghiệp tướng): vì "Bất giác" (hoặc) cho nên tâm
động, gọi đó là "Nghiệp". Bởi thế nghiệp (nhơn) nên có
"khổ"(quả) . Trái lại, nếu "Giác" (không có hoặc) thì tâm
không động (nghiệp nhơn) nên cũng không khổ (quả).
2. Tướng năng kiến
(chuyển tướng tức là kiến phần): Vì có "Động" (nghiệp
tướng) cho nên sanh ra "Năng phân biệt" (năng kiến). Nếu
không "Động" thì không có "Năng phân biệt" (không có nghiệp
tướng thì cũng không có chuyển tướng).
3. Tướng cảnh giới
(hiện tướng tức là tướng phần): Vì có "Năng phân biệt"
(kiến phần) nên cảnh bị phân biệt (tướng phần) vọng hiện ra.
Bởi thế nên rời "Năng phân biệt" (kiến phần) thì cũng không
có cảnh bị phân biệt (nghĩa là nếu không có chuyển tướng thì
cũng không có hiện tướng).
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói: Vô minh
sanh ra 3 tướng rất vi tế: Nghiệp, Chuyển và Hiện; bà tướng
này không rời vô minh.
1. Vì vô minh (bất
giác) cho nên tâm động tức là "Nghiệp". Đó là tướng vi tế
thứ nhứt, gọi là "Tướng nghiệp vô minh", cũng gọi là "Hoặc,
Chuyển"; bên Duy thức tôn gọi là "Tự chứng phần" của thức A
lại da.
Do "Hoặc" (vô minh) nên
tạo "Nghiệp" (tâm động); bởi có "nghiệp" nên phải thọ "quả
khổ". Trái lại, nếu giác ngộ không mê hoặc (vô minh) thì
không tạo nghiệp (vọng động); không tạo nghiệp nên chẳng có
quả khổ.
Tất cả quả khổ, không
ngoài hai món sanh tử: Phàm phu thì bị khổ "Phần đoạn sanh
tử"; Tiểu thánh thì bị khổ "Biến dịch sanh tử". Song hai món
quả khổ này, đều do "động niệm" tức là hướng về trí Phật
(không vọng niệm thì chơn tâm hiện).
2. Vì tâm động (ngiệp
tướng) cho nên mới có phân biệt. Đó là tướng vi tế thứ hai,
gọi là "tướng năng kiến" (phần năng phân biệt), cũng gọi là
"Chuyển tướng"; bên Duy thức tôn gọi là kiến phần của thức A
lại da. Nếu tâm không vọng động, thì cũng không do đâu mà
phát sanh ra phân biệt được. Nghĩa là: Nếu không có "nghiệp
tướng"; thì cũng không có "chuyển tướng"; hay nói cách khác:
nếu không có "Tự chứng phần" thì cũng không có "Kiến phần".
3. Vì có tâm năng phân
biệt, nên mới vọng hiện ra cảnh giới bị phân biệt. Đó là
tướng vi tế thứ ba, gọi là "Tướng cảnh giới" (phần bị phân
biệt) cũng gọi lá "Hiện tướng"; bên Duy thức tôn gọi là
"Tướng phần" của thức A lại da. Bởi tâm và cảnh không rời
nhau, nếu lìa tâm năng phân biệt thì không có cảnh giới bị
phân biệt. Nghĩa là: rời "Chuyển tướng" thì không có "Hiện
tướng"; hay nói cách khác: rời "Kiến phần" thì không có
"Tướng phần".
Từ thể tánh chơn tâm,
không có năng sở (bỉ, thử); song vì mê nên tâm động (nghiệp
tướng) mà sanh ra có năng phân biệt (chuyển tướng) và cảnh
giới bị phân biệt (hiện tướng). Nếu giác cảnh giới bị phân
biệt (hiện tướng). Nếu giác ngộ không mê, thì tâm không
động, không sanh, và cảnh bị phân biệt chẳng hiện.
Đoạn này xin lưu ý độc
giả: Trong luận này nói "Do nghiệp tướng sanh ra chuyển
tướng, do chuyển tướng sanh ra hiện tướng". Nói như thế, là
lấy theo nghĩa "tương quan, tương sanh" mà nói. Kỳ thật ba
tướng này, đồng thời sanh khởi; nghĩa là một pháp vừa động,
thì tất cả pháp đều động, không phải có thứ lớp tuần tự như
vậy.
Tóm lại, ba tướng
"Nghiệp tướng, Chuyển tướng và Hiện tướng: này, ở các kinh
khác, cũng thường gọi là "Hoặc, Nghiệp và Khổ", hay trong
Duy thức gọi là "Tự chứng phần, Kiến phần và Tướng phần của
thức A lại da.
GIẢI DANH TỪ
Bất giác và vô minh:
"Vô minh" là không sáng suốt, "Bất giác" là không giác ngộ.
Bởi thế nên bất giác cũng tức là vô minh.
Tướng nghiệp vô
minh: Vô minh vọng động thành ra tướng nghiệp, gọi tắt
là "Nghiệp tướng"; tức là "Tự chứng phần" của thức A lai
da.
Tướng Năng kiến:
Phần năng phân biệt, cũng gọi là "Chuyển tướng"; tức là
"Kiến phần" của thức A lại da.
Tướng cảnh giới:
Cảnh giới bị phân biệt, cũng gọi là "Hiện tướng"; tức là
"Tướng phần" của thức A lại da.
Phần đoạn sanh tử:
Sanh tử do sự biến đổi. Như vị Tu đà hoàn, khi chứng lên quả
Tư đà hàm (sanh) thì xả vị Tu đà hoàn (tử); khi lên vị A na
hàm, thì bỏ quả Tư đà hàm v.v...Thí như người Lính, khi lên
Cai thì bỏ Lính, lên Đội thì bò Cai v.v...
Tự chứng phần_
Duy thức tôn nói: Mỗi người có 8 món Tâm vương và 51 món Tâm
sở. Mỗi một Tâm vương hay Tâm sở đều có 4 phần: 1. Phần bị
phân biệt (tướng phần), 2. Phần năng phân biệt (Kiến phần);
Hai phần này thuộc về Dụng, ở bên ngoài. 3. Phần tự chứng và
4. Phần chứng tự chứng; hai phần này thuộc về thể, ở bên
trong và làm chỗ nương cho hai phần ngoài.
Tương quan tương
sanh: Liên quan với nhau và sanh cùng nhau, có cái này
thì phải có cái kia.
b. NÓI VỀ LỤC THÔ
CHÁNH VĂN
Do đã có cảnh giới hiện
ra (Hiện tướng) nên tiếp tục sanh sáu tướng sau này:
1. Tướng Trí (Trí
tướng: Phân biệt): Do có cảnh giới hiện ra nên sanh tâm
phân biệt (trí) thương,ghét
2. Tướng tương tục
(Tương tục tướng: Vọng niệm tương tục): Do tâm phân biệt
thương ghét, cho nên tiếp tục sanh ra các niệm khổ vui, mừng
lo v.v...không dứt.
3. Tướng chấp thủ
(chấp thủ tướng: chấp sự vật): Do các niệm tương tục
phân biệt những cảnh khổ vui, cho nên tâm mới vướng mắc,
chấp lấy nơi sự vật (cảnh).
4.Tướng chấp danh tự
(kế danh tự tướng: chấp danh tự): Do phân biệt vọng chấp
nơi sự vật, nên giả đặt ra những danh tự để kêu gọi.
5. Tướng khởi nghiệp
(khởi nghiệp tướng: tướng tạo nghiệp): Do chấp theo danh
tự tốt xấu đó, rồi tạo ra các nghiệp lành hay dữ.
6. Tướng nghiệp hệ
khổ (Nghiệp hệ khổ tướng: Thọ quả khổ): Do tạo ra các
nghiệp, nên bị các nghiệp kéo dẫn đi lãnh thọ quả khổ, không
được tự tại.
Tóm lại, phải biết: Gốc
từ vô minh (căn bản vô minh) sanh ra các pháp nhiễm ô (chi
mạt vô minh) nên các pháp nhiễm ô đều là vô minh (bất
giác).
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói về 6 món
thô (lục thô). Do từ vô minh vọng động (Tự chứng phần của
thức A lai da) khởi ra tâm (Kiến phần của thức A lại da) và
cảnh (Tướng phần của thức A lại da) là ba món vi tế, rồi
tiếp tục sanh khởi 6 món thô sau này:
1. Vì có cảnh giới
(hiện tướng) nên tâm phân biệt tốt xấu, rồi sanh ra thương
(tham) ghét (sân) v.v...gọi là "Tướng trí", chữ "Trí" là
biết phân biệt tốt xấu.
2. Do tâm biết phân
biệt tốt xấu v.v...nên các niệm thương ghét, mừng giận, khổ
vui v.v...tiếp tục sanh khởi không gián đoạn, gọi là "Tướng
tương tục".
3. Do các niệm thương
ghét, mừng giận, khổ vui, nên sanh tâm chấp lấy: Cái gì vui
thích thì tham luyến, còn buồn khổ thì sân hận, gọi là
"Tướng chấp thủ".
4. Do sanh tâm chấp
cảnh, nên giả đặt ra những danh từ để kêu gọi, cái này đẹp,
cái kia xấu v.v...gọi là "Tướng kế danh tự".
5. Do có những danh tự
kêu gọi đẹp xấu v.v...nên sanh tâm tham lam, giận ghét, và
vì thế mà tạo ra cái nghiệp, gọi là "Tướng khởi nghiệp".
6. Do tạo các nghiệp,
nên bị nghiệp kéo dẫn sanh tử luân hồi trong 3 cõi, để thọ
quả báo, không được tự tại, gọi là "Tướng nghiệp hệ khổ".
Tóm lại, do "mê hoặc"
nên "tạo nghiệp"; nhơn ""tạo nghiệp" nên phải thọ "quả khổ"
trở lại "mê hoặc" nữa; nhơn "hoặc" lại tạo "nghiệp" tho "quả
khổ", mãi mãi không biết bao giờ cùng tận, như cái vòng tròn
không mối, nên gọi là "Luân hồi".
Bởi do vô minh vọng
niệm sanh ra tất cả các pháp phiền não tạp nhiễm, nên các
pháp đều là vô minh. Nếu người được "vô niệm" (không vọng
niệm), thì tất cả các pháp phiền não sanh tử đều hết.
Trong 3 món Tế và 6 món
Thô này, về phàm phu thì đủ cả; Tiểu thừa về 3 quả trước,
thì đủ 3 món Tế và 4 món Thô trước; A la hán thì có 3 món Tế
và 3 món Thô trước; hàng Pháp thân Bồ Tát (từ Bát địa trở
lên) chỉ còn 3 món Tế.
Xin xem biểu đồ sau
đây:
I. Phàm phu (có đủ 9
món)
3 món Tế
1. Nghiệp tướng
(vọng động)
2. Chuyển tướng
(trực giác)
3. Hiện tướng
(cảnh)
6 món Thô
1. Trí tướng
(phân biệt)
2. Tương tục
tướng ( vọng niệm tương tục)
3. Chấp thủ
tướng (chấp sự vật)
4. Kế danh tự
tướng ( chấp danh tự)
5. Khởi nghiệp
tướng (tạo nghiệp)
6. Nghiệp hệ khổ
tướng (thọ quả)
II. Tiểu thừa, 3 quả
trước, có 7 món
3 món Tế
1. Nghiệp tướng
2. Chuyển tướng
3. Hiện tướng
4 món Thô
1. Trí tướng
2. Tương tục
tướng
3. Chấp thủ
tướng
4. Kế danh tự
tướng
III. A la hán có
6 món
3 món Tế
1. Nghiệp tướng
2. Chuyển tướng
3. Hiện tướng
3 món Thô
1. Trí tướng
2. Tương tục
tướng
3. Chấp thủ
tướng
IV. Pháp thân Bồ
Tát chỉ có món Tế
1. Vô minh
nghiệp tướng (nghiệp tướng)
2. Năng kiến
tướng (chuyển tướng)
3. Cảnh giới
tướng (hiện tướng)
c.NÓI VỀ HAI TƯỚNG
CHÁNH VĂN
Lại nửa, "Giác" (chơn)
với "Bất giác" (vọng) đều có 2 tướng: Đồng và Khác.
Thế nào là "Đồng"?_
Các sự nghiệp huyễn hoá của "Giác" (vô lậu) và "Bất giác"
(vô minh) đều đồng một thể tánh chơn như. Thí như các món đồ
gốm đều đồng một chất đất.
Bởi thế nên trong Khế
kinh chép: "Tất cả chúng sanh, từ hồi nào đến giờ, vẫn
thường ở trong Bồ Đề Niết bàn; không phải do tu mới có, do
làm mới được; rốt ráo không có gì gọi là "chứng" cả, và cũng
không hình tướng gì có thể thấy được.
Song, chúng sanh thấy
sắc thân Phật, có 32 tướng tốt, có 80 vẻ đẹp v.v...là do tuỳ
tâm vọng nhiễm của chúng sanh mà huyễn hiện, không phải tánh
chơn như có các hình tướng ấy; vì tánh chơn như không có
thấy được vậy.
Thế nào là "Khác"?_
Do tuỳ tâm vọng nhiễm của chúng sanh mà hiện ra các huyễn
tướng sai khác: hữu lậu (mê) và vô lậu (giác). Ví như các
thứ đồ gốm, hình tướng khác nhau.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này lấy hai mặt
"đồng" và "bất giác", để chỉ sự tương quan tương phản của
hai thứ ấy. Đứng về bản thể của các pháp mà luận, thì
"nhiễm" và "tịnh" đều là chơn như. còn đứng về hiện tượng
của các pháp mà nói, thì "nhiễm" và "tịnh" có sai khác.
Bởi "giác" và "bất
giác" đều là Chơn như, cũng như các thứ đồ gốm (đồ kiểu hay
đồ đá) đều bằng đất, nên nói tất cả chúng sanh từ hồi nào
đền giờ, vẫn thường ở trong Chơn như. Tánh Chơn như này
không phải do tu mới được, hay làm mới có; rốt ráo không có
sở đắc, và cũng không có hình tướng gì có thể chỉ bày được.
Song, chúng sanh thấy
có Phật hiện thân độ sanh; đó là tự tâm của chúng sanh, tuỳ
nghiệp huyễn hiện, chứ không phải tánh Chơn như có những
hình tướng như thế.
Câu: "Tuỳ tâm vọng
nhiễm" của chung sanh mà hiện ra các huyễn tướng sai khác:
hữu lậu (mê) và vô lậu (giác). Nghĩa là nói: Không phải ở
đâu khác, mà chính chính ở tâm chúng sanh, có thể đổi các
phiền não nhiễm ô, ra các công đức thanh tịnh. Khi tâm vọng
động thì sanh ra vô lượng hằng sa pháp tạp nhiễm, khi tâm
hết vọng động thì hiện ra vô lượng hằng sa công đức thanh
tịnh. Tất cả đều tuỳ tâm của chúng sanh mà hiện ra các tướng
nhiễm, tịnh. Các tướng này đều như huyễn.
Câu: "...Các sự nghiệp
chuyển hoá của vô lậu (giác) và vô minh (mê)", có nghĩa là:
Tánh giác đã có nghiệp dụng, hiện ra tất cả cảnh giới thù
thắng vi diệu, không thể nghĩ bàn, thì vô minh cũng có
nghiệp lực hiện ra Tam tế, Lục thô, tất cả sanh tử khổ vui,
cũng không thể nghĩ bàn. Bởi thế nên Chơn và vọng đều là
huyễn cả. Khế kinh chép: "sanh tử và Niết bàn đều như mộng
huyễn".
QUYẾT NGHI
Hỏi:_ Chúng snh
đã vốn là Phật, tại sao không thấy chúng sanh có Báo thân và
Hoá thân Phật?
Đáp:_ Khi nói
chúng sanh vốn là Phật, là đứng về phương diện bản thể Phật
tánh mà nói, chứ không phải đứng về phương diện hiện tượng
Phật tướng mà nói vậy. Về bản thể thì các chúng sanh đều có
Phật tánh, nhưng về hiện tượng thì chúng sanh có Báo thân và
Hoá thân.
Hỏi:_ Chơn như
Phật tánh đã không có sắc tướng, tại sao chư Phật chứng
được, và có tướng Báo thân và Hoá thân?
Đáp:_ Sắc thân
của chư Phật, chỉ tuỳ theo tâm của chúng sanh mà hiện ra,
không phải trong thể tánh chơn như có những hình tướng ấy.
Đã nói về "Tâm sanh
diệt" dưới đây sẽ nói "Tướng Nhơn duyên sanh diệt"
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ SÁU
CHƯƠNG THỨ BA
PHẦN GIẢI THÍCH
NÓI VỀ NGHĨA "BẤT GIÁC" (Tiếp Theo)
MỤC LỤC
Nói về nghĩa "Bất giác"
(tiếp theo)
d. Nói về "ý tương tục" có 5 thứ:
1. Nghiệp thức (nghiệp tướng)
2. Chuyển thức (chuyển tướng)
3. Hiện thức (hiện tướng)
4. Trí thức (trí tướng)
5. Tương tục thức (tương tục tướng)
e. Nói về "ý thức"
Cảnh giới này duy có Phật mới biết được rốt ráo.
d. NÓI VỀ "Ý" TƯƠNG
TỤC, có 5 thứ
CHÁNH VĂN
Trên đã nói "Tâm sanh
diệt", (thức A lại da) tiếp theo đây sẽ nói "cái "Ý" làm
nhơn duyên sanh diệt".
Tất cả chúng sanh đều
từ nơi tâm (A lại da) mà sanh ra ý (Mạt ma) và ý thức (thức
thứ 6). Nghĩa là do thức A lại da có vô minh bất giác
(nghiệp tướng) nên sanh ra Năng kiến (chuyển tướng) và Năng
hiện (hiện tướng) rồi tiếp tục sanh ra các niệm (lục thô),
chấp lấy cảnh giới v.v...gọi là "Ý".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói về sự quan
trọng của "ý". Trong các nơi khác, khi nói đến "ý" thì
thường dùng để chỉ riêng cho thức Mạt na, là thức sanh diệt
tương tục thắng hơn các thức. Nhưng chữ "ý" ở luận này là
chỉ chung cho cả 8 thức; vì cả 8 thức đều có nghĩa "sanh
diệt tương tục".
Thức A lại da là gốc
của sanh diệt, thức Mạt na làm nhơn duyên cho sự sanh diệt
tương tục; còn ý thức thì khởi hoặc tạo nghiệp, làm cho
chúng sanh nhiều kiếp sanh tử không dứt.
CÁI "Ý" CÓ 5 THỨ
CHÁNH VĂN
Cái "Ý" này lại có 5
thứ: Nghiệp thức (nghiệp tướng), Chuyển thức (chuyển tướng),
Hiện thức (hiện tướng), Trí thức (trí tướng) và Tương tục
thức (tương tục tướng).
a. "Nghiệp thức" là sự
vô minh bất giác làm cho tâm vọng động (tức là Tự chứng phần
của thức A lại da)
b. "Chuyển thức" là
phần Năng phân biệt (Kiến phần của thức A lại da) do tâm
vọng động chuyển sanh ra.
c. "Hiện thức" là sự
hiện bày của cảnh giới ngũ trần bị phân biệt (Tướng phần của
thức A lại da). Cảnh giới này không có trước sau, trong tất
cả thời, mặc tình sanh khởi, thường hiện ở trước.
(3 thức này thuộc về
Tam Tế)
d. "Trí thức" là cái
biết phân biệt các pháp nhiễm tịnh.
e. "Tương tục thức" là
niệm niệm sanh diệt tương tục không gián đoạn.
(2 thức này thuộc về 2
món. Thô trước, trong 6 món Thô)
năm thứ "ý" này, giữ
gìn tất cả nghiệp lành dữ, từ quá khứ vô lượng kiếp về
trước, cho đến ngày nay cũng không mất (trì chủng). Nó lại
có công năng làm cho thành thục tất cả quả báo khổ vui về
hiện tại cũng như tương lai, không sai mất (chấp thủ căn
thân, thế giới và kiết sanh tương tục). Và có công năng nhớ
việc đã qua, nghĩ những việc hiện tại và suy tính những việc
chưa đến (vị lai).
Bởi thế nên ba cõi (Dục
giới, Sắc giới và Vô sắc giới) đều hư ngụy, duy tâm tạo ra.
Nếu rời tâm thì không có cảnh giới sáu trần này (ba cõi).
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói về nghĩa
chử "ý", là chỉ cho một dòng sanh diệt tương tục không gián
đoạn. Từ vô minh vọng động, sanh ra 3 món Tế, là Nghiệp
tướng (nghiệp thức), Chuyển tướng (chuyển thức), Hiện tướng
(hiện thức) và hai món Thô là Trí tướng (trí thức) và Tương
tục tướng (tương tục thức).
Năm cái "ý" này có công
năng giữ gìn thiện ác, quả báo khổ vui hiện tại và vị lai,
làm cho không mất (đó là công năng trì chủng chấp thọ thân
căn thế giới và kiết sanh tương tục của thức A đà na); nhớ
nghĩ những việc đã qua và lo tính những điều chưa đến (đó là
công năng của thức thứ 6), và một dòng sanh diệt, tiếp tục
từ trước đến sau không gián đoạn, gọi đó là "ý". Bởi thế nên
chữ "ý" này là chỉ chung cho cả 8 thức.
Tóm lại, từ vô minh
vọng động, sanh ra thức A lại da. Từ thức A lại da lại tiếp
tục sanh ra 7 thức trước; rồi cùng nhau làm nhơn làm duyên,
lại thành ra một dòng sóng thức, sanh diệt tương tục vô tận,
gọi đó là "ý". Cũng vì rõ nghĩa này, nên Cổ nhơn làm bài thơ
có câu rằng: "...Nhứt ba tài động vạn ba tuỳ ..." (một lượng
sóng vừa nổi lên, thì trăm ngàn lượng sóng đều nổi theo).
Nào ba cõi, nào 6 trần
đều từ 8 thức này biến hiện. Bởi thế nên các pháp đều hư
dối, duy tâm tạo ra; nếu rời 8 thức, thì các cảnh giới đều
không còn.
CHÁNH VĂN
Nghĩa này thế nào?_ Do
tất cả pháp đều từ vọng tâm của chúng sanh mà sanh khởi, nên
tất cả sự phân biệt tức là phân biệt trong tự tâm. Nhưng tâm
không có hình tướng gì cả, nên không thể thấy được nó. Phải
biết, tất cả cảnh giới ở thế gian, đều do vô minh vọng tâm
của chúng sanh mà được tồn tại, nên tất cả các pháp, đều
không có thật thể, mà chỉ vọng tâm huyễn hiện, như bóng
trong gương.
Nếu vọng tâm sanh khởi,
thì các pháp đều sanh khởi; vọng tâm diệt thì các pháp đều
diệt (Tâm sanh tắc chủng chủng pháp sanh, tâm diệt tắc chủng
chủng pháp diệt).
LƯỢC GIẢI
Tất cả các pháp đều do
tâm của chúng sanh sanh ra, nên chúng sanh phân biệt các
pháp, tức là phân biệt ở nơi tự tâm. Kinh Lăng Nghiêm chép:
"Tự tâm thủ tự tâm, phi huyễn thành huyễn pháp" (tự tâm
chúng sanh trở lại chấp lấy tự tâm chúng sanh; tâm không
phải huyễn mà trở lại thành pháp hư huyễn).
Tất cả các pháp đều
không thật có, chỉ nương nơi tâm mà tồn tại, như hoa trong
gương, như trăng dưới nước. Nếu tâm động thì các pháp sanh,
tâm tịnh thì các pháp diệt. Trong Khế kinh chép: "tâm sanh
tắc chủng chủng pháp sanh, tâm diệt tắc chủng chủng pháp
diệt" là vậy. Tổ Qui Sơn nói: "Nhứt tâm không sanh thì muôn
pháp đều dứt" (Nhứt tâm bất sanh vạn pháp câu tức). Bởi thế
nên đoạn trước nói "Người quán vô niệm (không vọng niệm) thì
hướng về trí Phật".
Đoạn này đã nói về "ý
tương tục" rồi, tiếp theo dưới đây sẽ nói đến ý thức.
e. NÓI VỀ "Ý THỨC"
CHÁNH VĂN
Trên đã nói về "ý" rồi,
tiếp theo đây nói về "ý thức". Ý thức tức là "thức tương
tục". Bởi chúng phàm phu chấp trước rất nặng nề nơi Ngã và
Ngã sở, nên khởi ra các món vọng chấp, leo chuyền theo sự
vật, phân biệt cảnh giới sáu trần, gọi đó là "ý thức" (thức
thứ sáu). Cũng gọi đó là "Phân ly thức", hay gọi "Phân biệt
sự thức". Thức này nương nơi kiến (kiến hoặc) và ái (tư
hoặc) phiền não mà được nuôi lớn.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói về "ý
thức".
So với 5 món "ý" nói
trên, thì ý thức này thuộc về món thứ năm là "Tương tục
thức"; trong Lục thô nó thuộc về Thô thứ hai là "Tương tục
Tướng"; trong 8 thức nó thuộc về thức thứ 6.
_ Bởi thức này, niệm
niệm tương tục, chấp Ngã và Ngã sở, leo chuyền theo các trần
cảnh, phân biệt các sự vật, vọng chấp đủ điều, nên gọi là
"Thức tương tục".
_ Bởi thức này phân
biệt 5 trần cảnh (Sắc, Thinh, Hương, Vị và Xúc) mỗi cảnh
riêng nhau, nên gọi là "Phân ly thức".
_ Bởi thức này phân
biệt tất cả sự vật, nên cũng gọi là "phận biệt sự thức".
_ Lại nữa, thức này nhờ
2 món phiền não là "Kiến" và "Ái" mà được nuôi lớn, "kiến"
tức là kiến hoặc, thuộc về phân biệt hoặc. "Ái" tức là Tư
hoặc, thuộc về Cu sanh hoặc. Do hai món phiền não này, nên ý
thức mới khởi hoặc tạo nghiệp, quanh quẩn trong sanh tử luân
hồi.
***
Trong "Môn sanh diệt"
có 2 phần, trên đã nói về phần thuận dòng vô minh (lưu
chuyển), sanh ra các pháp sanh tử tạp nhiễm; sau đây sẽ nói,
chính nơi pháp tạp nhiễm lưu chuyển đó, để chỉ sự trở lại
thanh tịnh (hoàn tịnh) tuỳ theo trình độ của người, hoặc mau
hay chậm không đồng.
CẢNH GIỚI NÀY DUY PHẬT
MỚI BIẾT ĐƯỢC RỐT RÁO
CHÁNH VĂN
Do vô minh huân tập
sanh ra thức. Cảnh giới này, chúng phàm phu không thể biết
được; dù cho hàng Nhị thừa dùng trí huệ quán sát cũng không
thể biết được; các vị Bồ Tát từ Sơ tín cho đến Tam hiền (Trụ
Hạnh, Hướng) phát tâm quán sát, chỉ biết được chút ít; bực
Thập địa Bồ Tát (Pháp thân Bồ Tát) cũng chỉ biết được từng
phần; cho đến Đẳng giác Bồ Tát cũng không thể biết hết ; duy
có Phật mới biết được rốt ráo.
Tại sao vậy?. _ Vì tâm
này từ hồi nào đến giờ, tánh nó vẫn thanh tịnh, không có vô
minh; song bị vô minh làm nhiễm ô (bất biến tuỳ duyên), vì
thế nên rất khó biết. Bởi thế nên chỉ có Phật mới có thể
biết được cảnh giới này.
Tóm lại, chơn tâm (tâm
tánh) vì thường không vọng niệm, nên gọi là "bất biến" (chơn
như). Song chúng sanh vì không ngộ nhập được chơn tâm (nhứt
pháp giới) này, lại sanh vọng niệm nên gọi là "vô minh".
LƯỢC GIẢI
Người đang chiêm bao
không bao giờ biết được chiêm bao; phải thức giấc rồi mới
biết đó là cảnh chiêm bao; chúng sanh đang ở trong vòng vô
minh vọng thức, không thể biết được vô minh vọng thức; bao
giờ giác ngộ hoàn toàn, mới biết được rốt ráo cảnh giới của
vô minh vọng thức.
Do vô minh huân tập vào
chơn như, nên chơn vọng hoà hiệp biến thành thức A lại da.
Chúng phàm phu vì đang ở trong vòng thức biến, nên không bao
giờ biết được cảnh giới thức biến. Hàng Nhị thừa tuy dùng
trí huệ quán sát, phá được ngã chấp; nhưng mây pháp chấp hãy
còn dày bịt và che lối chơn tâm, nên cũng không thể thấy
được cảnh giới ấy. Các bực Bồ Tát ở vị Tam hiền, mới phá
được đôi phần phân biệt pháp chấp; nên chỉ biết được chút ít
về cảnh giới này. Đến bực Thập địa Bồ Tát , hễ phá được một
phần vô minh, chứng được một phần pháp thân, thì thấy được
một phần của cảnh giới này, và cứ tuần tự như thế, cho đến
khi nào phá được 10 phần vô minh, thì chứng 10 phần pháp
thân và biết được cả 10 phần của cảnh giới này. (Thập địa Bồ
Tát, do phá vô minh, chứng được pháp thân, nên gọi là "Pháp
thân Bồ Tát"). Bực Đẳng giác Bồ Tát, vì còn vi tế vô minh,
nên đối với cảnh giới này, biết cũng chưa tường tận. Đến quả
vị Phật, do phá vô minh đã sạch hết, nên mới hoàn toàn biết
được cảnh giới này; cũng như người đã hoàn toàn thức tĩnh,
mới biết được rốt ráo cảnh mê mộng.
***
Trên đã nói nhơn duyên
trở lại bản tâm thanh tịnh rồi, dưới đây sẽ lược nói đến địa
vị nào, mới đoạn được hoặc gì, để trở lại bản tâm thanh
tịnh.
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ BẢY
CHƯƠNG THỨ BA
PHẦN GIẢI THÍCH
NÓI VỀ Ý NGHĨA "BẤT GIÁC" (tiếp theo)
MỤC LỤC
Nói về nghĩa "Bất giác"
(tiếp theo)
g. Nói về Tâm nhiễm ô, có 6 lớp:
1. Nhiễm ô chấp trước (chấp thủ tướng và kế danh tự tướng)
2. Nhiễm ô bất đoạn (tương tục tướng)
3. Nhiễm ô phân biệt (trí tướng)
4. Nhiễm ô cảnh sắc (hiện tướng)
5. Nhiễm ô năng phân biệt (kiến tướng)
6. Nhiễm ô về nghiệp (nghiệp tướng)
h. Tâm nhiễn ô và vô minh khác nhau như thế nào?
i. Ba tướng nhiễm ô sanh diệt:
1. Tướng sanh diệt thô
2. Tướng sanh diệt vừa
3. Tướng sanh diệt vi tế
g. NÓI VỀ TÂM NHIỄM
Ô
CHÁNH VĂN
Tâm nhiễm ô này (kể từ
Thô đến Tế) có 6 lớp:
1. Nhiễm ô về chấp
trước (chấp tương ưng nhiễm, tức là hai món Thô: chấp thủ
tướng và kế danh tự tướng). Hành giả phải đến quả Nhị thừa
hay vị Thập tín, mới trừ được món nhiễn ô này.
2. Nhiễm ô bất đoạn
(Bất đoạn tương ưng nhiễm, tức là món Thô về tương tục
tướng). Hành giả từ địa vị Thập tín đến địa vị Thập hồi
hướng, phương tiện tu hành, lần lần xả bỏ, khi đến Sơ địa
(tịnh tâm địa) mới hoàn toàn xa lìa được món nhiễm ô này.
3. Nhiễm ô về trí phân
biệt (Phân biệt trí tương ưng nhiễm, tức là món Thô về Trí
tướng). Hành giả phải từ Nhị địa (Cụ giới địa) lần lần diệt
trừ, cho đến Thất địa (Vô tướng phương tiện địa) mới hoàn
toàn xa lìa nhiễm ô này.
4. Nhiễm ô về cảnh sắc
(Hiện sắc bất tương ưng nhiễm, tức là món Tế về Hiện tướng).
Hành giả tu hành phải đến Bát địa (Sắc tự tại địa) mới xa
lìa được món nhiễm ô này.
5. Nhiễm ô về năng phân
biệt (năng kiến tâm bất tương ưng nhiễm, tức là món Tế về
Kiến tướng). Hành giả tu hành phải đến Cửu địa, mới xa lìa
được món nhiễm ô này.
6. Nhiễm ô về nghiệp
(Căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm, tức là món Tế về Nghiệp
tướng). Hành giả từ Thập địa lên Đẳng giác Bồ Tát và phải
đến quả vị Phật, mới có thể diệt trừ món nhiễm ô này.
Tóm lại, vì không ngộ
được chơn tâm (bất đạt nhứt pháp giới nghĩa) nên sanh ra
nhiều lớp nhiễm ô (Tam tế, Lục thô). Muốn diệt trừ các nhiễm
ô này, hành giả phải trải qua nhiều địa vị: Bắt đầu từ địa
vị Thập tín để tâm quán sát và học tập đoạn trừ tâm nhiễm ô.
Qua Tam hiền rồi vào Thập địa, tuỳ mỗi địa vị, diệt trừ mỗi
phần tâm nhiễm ô (vọng hoặc); đến quả vị Phật mới diệt hoàn
toàn rốt ráo.
LƯỢC GIẢI
Vì không ngộ được chơn
tâm, nên sanh ra trùng trùng mê vọng. Các lớp mê vọng tuy
nhiều, nhưng đại lược chia làm 6 lớp, từ Thô đến Tế.
1. Chấp tương ưng nhiễm
(nhiễm ô về sự chấp trước) tức là hai món Thô thứ ba và thứ
tư (chấp thủ tướng và kế danh tự tướng) trong 6 món Thô.
Hành giả tu hành phải đến Nhị thừa hay Thập tín mới đoạn trừ
được lớp vọng nhiễm này.
2. Bất đoạn tương ưng
nhiễm (nhiễm ô về bất đoạn) tức là món Thô thứ hai (tương
tục tướng) trong 6 món Thô. Hành giả tu hành từ địa vị Tam
hiền đoạn trừ lần lần cho đến Sơ địa mới trừ hết lớp vọng
nhiễm này.
3. Phân biệt trí tương
ưng nhiễm (nhiễm ô về phân biệt) tức là món Thô thứ nhứt
(trí tướng) trong 6 món Thô. Hành giả tu hành từ Nhị địa cho
đến Thất địa mới trừ được lớp vọng nhiễm này.
4. Hiện sắc bất tương
ưng nhiễm (nhiễm ô về cảnh giới) tức là món Tế thứ ba (hiện
tướng) trong 3 món Tế. Hành giả tu hành đến Bát địa mới đoạn
được lớp vọng nhiễm này.
5. Năng kiến tâm bất
tương ưng nhiễm (nhiễm ô về năng phân biệt) tức là món Tế
thứ hai (kiến tướng) trong 3 món Tế. Hành giả tu hành, phải
đến Cửu địa, mới đoạn được lớp vọng nhiễm này.
6. Căn bản nghiệp bất
tương ưng nhiễm (nhiễm ô về nghiệp) tức là món Tế thứ nhứt
(Vô minh nghiệp tướng) trong 3 món Tế. Hành giả tu hành khi
sắp chúng quả Phật, mới đoạn trừ được lớp vọng nhiễm rất vi
tế này.
Tóm lại, vì vô minh
vọng nhiễm chồng chất nhiều lớp, từ nhiều đời nhiều kiếp,
nên hành giả phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều địa vị để
phá trừ. Phá một lớp vô minh, thì Hành giả chứng lên được
một địa vị. Như thế, bắt đầu từ phàm phu, tu đến quả vị
Phật, Hành giả phải trải qua thời gian là 3 lần vô số kiếp
(A tăng kỳ kiếp) và qua 55 địa vị, mới đoạn mê hoặc (vô
minh) được hoàn toàn và chứng được rốt ráo quả Phật.
CHÁNH VĂN
_ Sao gọi là "tương
ưng" (3 món nhiễm về tương ưng)? _ Vì Tâm vương, Tâm sở khác
nhau (tâm niệm, pháp dị) và tánh chất nhiễm ô của cảnh bị
duyên không đồng; song Tâm vương khi duyên cảnh nào thì Tâm
sở cũng ưng thuận duyên theo cảnh đó, nên gọi là "tương
ưng". (ngôn thuyết).
_ Sao gọi là "bất tương
ưng" (3 món nhiễm về bất tương ưng)? _ Vì tâm mới vừa bất
giác vọng động, chưa phân ra căn cảnh hay Tâm vương, Tâm sở,
nên gọi là "bất tương ưng".
LƯỢC GIẢI
Trong 6 món nhiễm ô
này, sở dĩ 3 món đầu (chấp tương ưng nhiễm, bất đoạn tương
ưng nhiễm và phân biệt trí tương ưng nhiễm) đều gọi là
"tương ưng", là vì chúng nó thô phù, lại chia ra 2 phần rất
rõ rệt (căn, cảnh; Tâm vương, Tâm sở) và có sự hoà hiệp nhau
(tương ưng).
Còn 3 món nhiễm ô sau
(hiện sắc bất tương ưng nhiễm, năng kiến tâm bất tương ưng
nhiễm và căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm) lại gọi là "Bất
tương ưng"; là vì chúng nó rất vi tế, còn ở trong vòng trừu
tượng, chưa phân Năng, Sở, Tâm, Cảnh, nên chẳng có sự hợp
nhau.
h) TÂM NHIỄM Ô VÀ VÔ
MINH KHÁC NHAU THẾ NÀO?
CHÁNH VĂN
_ Tâm nhiễm ô là phiền
não chướng (phiền não ngại) làm chướng ngại căn bản trí (vô
phân biệt trí) duyên Chơn như.
_ Vô minh là sở tri
chướng (trí ngai làm chướng ngại hậu đắc trí (tự nhiên
nghiệp trí) duyên các pháp sai biệt của thế gian.
_ Tại sao tâm nhiễm ô
lại chướng ngại căn bản trí? _ Vì tâm nhiễm ô sanh ra Năng
kiến tướng (kiến phần) và Năng hiện tướng (tướng phần) rồi
vọng sanh ra chấp thủ cảnh giới (thuộc về Lục thô), nên trái
với tánh Chơn như bình đẳng
_ Tại sao vô minh (bất
giác) lại chướng ngại Hậu đắc trí (sai biệt trí)? Vì các
pháp thường tịnh, không có khởi động; còn vô minh thì bất
giác vọng động, nên trái với tánh thường tịnh của các pháp.
Bởi thế nên không thể tuỳ thuận biết hết các cảnh giới thế
gian.
LƯỢC GIẢI
Vô minh và tâm nhiễm ô
khác nhau thế nào? _ Từ vô minh sanh ra tâm nhiễm ô (Tam tế,
Lục thô) nên vô minh là gốc, mà tâm nhiễm ô là sự sai biệt
của vô minh.
Vô minh thuộc về mê
"Lý", tức là sở tri chướng, làm chướng ngại Hậu đắc trí,
cũng gọi là Sai biệt trí (trí này phân biệt các pháp sai
biệt thế gian).
Tâm nhiễm ô thuộc về mê
"Sự", tức là phiền não chướng, làm chướng ngại Căn bản trí;
cũng gọi là Vô phân biệt trí (trí này duyên Chơn như).
Tại sao phiền não (tâm
nhiễm ô) làm chướng ngại Căn bản trí, còn Sở tri (vô minh)
lại chướng ngại Hậu đắc trí? _ Tánh Chơn như bình đẳng,
không có năng sở bỉ thử, nên phải dùng Căn bản trí (vô phân
biệt trí) mới duyên được Chơn như. Song vì phiền não là tâm
nhiễm ô lại chao động, có năng sở bỉ thử, ngàn sai muôn
khác, trái với chơn như bình đẳng, nên làm chướng ngại "Vô
phân biệt trí" (Căn bản trí).
_ Các pháp thế gian
không rời chơn như, và chơn như đã thanh tịnh nên các pháp
thế gian cũng phải thanh tịnh. Song vì vô minh bất giác,
trái với tánh thanh tịnh của các pháp, nên không thật biết
được các pháp. Bởi thế nên vô minh (sở tri chướng) làm
chướng ngại Sai biệt trí (Hậu đắc trí).
Đã nói nhơn duyên sanh
diệt rồi, tiếp theo đây sẽ nói tướng sanh diệt.
l) BA TƯỚNG NHIỄM Ô
SANH DIỆT
CHÁNH VĂN
Lại nữa, tướng nhiễm ô
sanh diệt, có 3 thứ:
1. Tướng sanh diệt
thô (chấp thủ tướng và kế danh tự tướng) đây là cảnh
giới của địa vị Tam hiền (phàm phu) biết.
2. Tướng sanh diệt
vừa Thô vừa Tế (tức là 2 món Thô đầu: Trí tướng, Tương
tục tướng và 2 món Tế sau: Chuyển tướng và Hiện tướng), đây
là cảnh giới của Bồ Tát (từ Sơ địa đến Đẳng giác) biết.
3. Tướng sanh diệt
Vi tế (tức là món Tế đầu tiên: Vô minh nghiệp tướng) đây
là cảnh giới chỉ có Phật mới biết.
Ba tướng nhiễm ô sanh
diệt này, đều do vô minh huân tập mà sanh. Nghĩa là do vô
minh bất giác làm nhơn và cảnh giới hư vọng làm duyên, mới
sanh ra các tướng nhiễm ô sanh diệt.
Bởi thế nên, nhơn (vô
minh) diệt, thì duyên (cảnh giới) diệt. Nếu vô minh (nhơn)
diệt, thì Tam tế diệt (bất tương ưng tâm diệt), và nếu cảnh
giới (duyên) diệt, thì Lục thô diệt (tương ưng tâm diệt).
LƯỢC GIẢI
Tướng nhiễm ô sanh diệt
có Thô và Tế, tức là Lục thô và Tam tế. Hàng Tam hiền (Trụ,
Hạnh, Hướng) chưa đặng Thánh vị, nên đều gọi là phàm phu.
Hàng phàm phu (Tam hiền) chỉ biết hành tướng của hai món Thô
thứ ba và thứ tư. Bồ Tát từ Sơ địa đến Đẳng giác thì biết
được hành tướng của 2 món Tế sau (Chuyển tướng và Hiễn
tướng). Duy Phật mới biết được hành tướng của món Vi tế thứ
nhứt là "Vô minh nghiệp tướng".
Các tướng sanh diệt
Thô, tế này, đều do vô minh huân tập mà có. Nghĩa là do vô
minh bất giác làm nhơn, sanh ra 3 món Vi tế (Nghiệp tướng,
Chuyển tướng và Hiện tướng); rồi do cảnh giới (Hiện tướng)
làm duyên, sanh ra 6 món Thô.
Bởi thế nên vô minh
(nhơn) diệt, thì cảnh giới (duyên) diệt. Nếu vô minh diệt
thì Tam tế diệt; và nếu cảnh giới (Hiện tướng) diệt thì Lục
thô cũng diệt.
VẤN ĐÁP ĐỂ QUYẾT NGHI
CHÁNH VĂN
Hỏi:_ Nếu tâm
này (tâm nhiễm ô) diệt, thì lấy gì để tiếp tục tu hành? Và
nếu tâm này còn tương tục, thì làm sao được thành Phật?
Đáp:_ Chỉ diệt
cái "Vọng tướng" của tâm, chớ không phải diệt cai "Chơn thể"
của tâm. Cũng như vì gió nên nước nổi sóng. Nếu gió đứng thì
sóng lặng, chứ nước không diệt.
Cũng thế, vì vô minh
(gió) mà tâm thể (nước) sanh ra vọng tướng (sóng). Nếu vô
minh (si mê) diệt thì vọng tướng của tâm cũng diệt, chớ tâm
trí (tâm thể) không diệt.
LƯỢC GIẢI
Vì đoạn trước nói "Nếu
Nhơn diệt, thì tâm bất tương ưng diệt; còn Duyên diệt, thì
tâm tương ưng diệt", nên đoạn này mới có câu hỏi: "Nếu tâm
này diệt, thì lấy gì để tiếp tục tu hành v.v..."
Đại ý trong lời đáp:
Tâm có hai phần, chơn thể và vọng tưởng. Tâm chơn thể như
nước; tâm vọng tướng như sóng. Nước vì gió mà có sóng, nên
khi gió hết thì sóng lặng, chứ nước không diệt.
Cũng thế, vì gió vô
minh làm chao động, nên nước tâm thể nổi lên các vọng thức,
rồi sanh diệt tương tục. Khi gió vô minh hết, thì sóng vọng
thức lặng, chứ nước tâm thể không diệt.
Trên đây có hai danh
từ: Tậm thể và Tâm trí, giới nghĩa khác nhau. Nói "Tâm thể"
là chỉ chung cho cả nhiễm tịnh, phàm thánh đều có Tâm thể.
Còn nói "Tâm trí" là chỉ riêng về phần "Tịnh" của tâm thể
khi đã rời nhiễm, và đặng thành thánh quả.
Trên đây nói phần
"nhiễm tịnh sanh diệt, sanh ra tất cả pháp", tiếp theo đây
sẽ nói "nhiễm huân tập nhau", để chỉ rõ các pháp sanh khởi
không dứt.
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ TÁM
CHƯƠNG THỨ BA
PHẦN GIẢI THÍCH
NÓI VỀ NGHĨA "BẤT GIÁC" (tiếp theo)
MỤC LỤC
Nói về nghĩa "Bất giác"
(tiếp theo)
k. Nói về bốn món huân tập:
1. Chơn như huân tập
2. Vô minh huân tập
3. Nghiệp thức huân tập: Ý thức và Ý
4. Cảnh giới hư vọng huân tập.
k. NÓI VỀ BỐN MÓN
HUÂN TẬP
CHÁNH VĂN
Lại nữa, vì có bốn món
huân tập, nên các pháp tạp nhiễm và thanh tịnh được sanh
khởi không dứt.
1. Chơn như (pháp thanh
tịnh) huân tập
2. Vô minh (các nhơn
tạp nhiễm) huân tập
3. Nghiệp thức (vọng
tâm) huân tập
4. Cảnh giới hư vọng
(sáu trần) huân tập.
Sao gọi là "huân tập"?_
Chữ "Huân" là xông ướp; chữ "Tập" là quen. Thí như y phục
không có mùi thơm, song vì người ta lấy vật thơm xông ướp
vào, nên nó quen (có) mùi thơm.
Cũng thế, chơn như là
pháp thanh tịnh thật không có nhiễm ô, song vì bị vô minh
huân tập vào, nên có tướng nhiễm ô. Trái lại, vô minh là
pháp tạp nhiễm, cũng không có diệu dụng thanh tịnh, chỉ vì
bị chơn như huân tập vào, nên nó có diệu dụng thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói về việc
"Huân tập" của tâm sanh diệt, để chỉ rõ lý do các pháp sanh
diệt tương tục. Ở đây nên lưu ý nhứt, là hai chữ "huân tập".
Chúng ta được chứng Thánh Hiền hay bị làm phàm phu, đều do
huân tập cả.
Thí như người không
biết uống rượu, gần gũi bạn rượu nay nếm một giọt, mai uống
một ly, như thế gọi là "Huân". Lâu ngày người ấy vì quen hơi
rượu, nên ghiền rượu, gọi là "Tập" (tập quán).
Chơn như và vô minh
huân tập nhau cũng thế. Nếu chơn như mạnh, huân tập vô minh,
thì vô minh biến thành tịnh dụng. Trái lại, nếu Vô minh
mạnh, huân tập vào chơn như thì chơn như biến ra tướng nhiễm
ô. Cũng như nước lạnh và nóng đổ chung một bồn, nếu thế lực
của nước nóng nhiều, thì làm cho nước lạnh trở thành ấm,
trái lại, nếu thế lực của nước lạnh nhiều, thì làm cho nước
nóng trở thành mát.
Hằng ngày chúng ta
"huân tập" không biết bao nhiêu việc, huân tập cái gì thành
ra cái nấy. Huân tập cái xấu nhiều, thành ra người xấu, Huân
tập cái tốt nhiều, thành ra người tốt. Vào hàng bán hương
chiên đàn, được xông ướp mùi thơm, thì ta thơm. Vào hàng bán
thịt cá, bị ướp mùi tanh hôi, thì ta hôi. Gần gũi người hiền
huân tập đức tánh tốt, thì ta thành người lương thiện; gần
gũi kẻ ác, huân tập theo tánh hung dữ, ta thành người bạo
ác. Bởi thế nên ngạn ngữ có câu: "Gần mực thì đen, gần đèn
thì sáng". Hằng ngày chúng ta chung đụng, gần gũi, lân la
không biết bao nhiêu hạng người, chúng ta phải thận trọng về
sự huân tập này. Huân tập Phật (chơn như) thì được thành
Phật, huân tập chúng sanh (vô minh) thì làm chúng sanh.
Huân tập có bốn loại:
1. Chơn như huân tập
2. Vô minh huân tập
3. Vọng tâm huân tập
4. Vọng cảnh huân tập
sẽ tuần tự giải thích
từ thô đến tế như sau.
DO HUÂN TẬP NÊN CÁC
PHÁP NHIỄM Ô SANH KHỞI KHÔNG DỨT
CHÁNH VĂN
Huân tập thế nào, mà
các pháp tạp nhiễm sanh khởi không dứt?_ Do chơn như mà có
vô minh (hoặc); rồi vô minh làm nhơn trở lại huân tập vào
chơn như (nghiệp) sanh ra vọng tâm (khổ); rồi vọng tâm (khổ)
trở lại huân tập vào vô minh (hoặc) v.v...
Nghĩa là vì chưa ngộ
nhập được chơn như, nên bất giác (hoặc, tức là nghiệp tướng)
vọng niệm sanh khởi (nghiệp, tức là chuyển tướng) và vọng
hiện ra các cảnh giới (khổ, tức là hiện tướng).
Rồi do cảnh giới nhiễm
ô vọng hiện này (khổ) trở lại huân tập vào vọng tâm, sanh ra
vọng niệm chấp trước (hoặc, tức là bốn món Thô trước) và tạo
ra các nghiệp (nghiệp, tức là món Thô thứ năm) rồi chịu tất
cả khổ về thân và tâm v.v...(khổ, tức là món Thô thứ sáu).
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói do huân
tập nên các pháp tạp nhiễm sanh khởi không dứt.
Vì chưa ngộ nhập được
chơn tâm, nên vô minh bất giác vọng động nổi lên (hoặc) rồi
huân tập trở lại chơn tâm (nghiệp) biến thành vọng tâm
(khổ).
Rồi từ vọng tâm (khổ)
trở lại huân tập vô minh (hoặc sanh ra vọng niệm (nghiệp) và
cảnh giới hư vọng (khổ).
Cảnh giới hư vọng (khổ)
trở lại huân tập vọng tâm, sanh ra vọng niệm chấp trước
(hoặc) tạo ra các nghiệp (nghiệp) rồi chịu quả khổ về thân
và tâm v.v...(khổ).
Cũng như 12 nhơn duyên:
Từ vô minh (hoặc) làm duyên cho hành (nghiệp), hành làm
duyên cho thức, danh sắc, lục nhập, xúc thọ (khổ); thọ làm
duyên cho ái (hoặc) và ái làm duyên cho thủ, hữu (nghiệp)
sanh và lão tử (khổ) v.v...Ba đời nhơn quả, từ hoặc tạo
nghiệp (nhơn quá khứ), do nghiệp nên thọ khổ (quả hiện tại).
Rồi khổ lại mê hoặc tạo nghiệp, (nhơn hiện tại) và vì tạo
nghiệp nên phải chịu khổ về sau (quả vị lai), v.v...Như cái
vòng tròn không có mối. Bởi thế nên nói các pháp tạp nhiễm
tương tục sanh khởi lkhông dứt.
CHÁNH VĂN
Nói về cảnh giới hư
vọng (6 trần) huân tập._ Cảnh giới hư vọng (6 trần) huân tập
có hai món: 1. Cảnh giới huân tập làm tăng trưởng vọng niệm
(Trí tướng và Tương tục tướng), 2. Cảnh giới huân tập làm
tăng trưởng chấp thủ (Chấp thủ tướng và Kế danh tự tướng).
Nói về vọng tâm (nghiệp
thức) huân tập._
Vọng tâm huân tập có
hai món: 1. Vọng tâm (nghiệp thức căn bản) huân tập lại căn
bản vô minh (làm cho tạng thức bất đoạn) làm cho các vị Bồ
Tát, A la hán, Bích Chi Phật (Duyên giác) phải thọ khổ "Biến
dịch sanh tử" (sanh tử biến đổi). 2. Vọng tâm (phân biệt sự
thức) huân tập chi mạt vô minh (tức là bốn món Thô trước)
làm cho chúng phàm phu chịu khổ "phần đoạn sanh tử".
Nói về vô minh huân
tập._vô minh huân tập có 2 món: 1. Căn bản vô minh huân tập
vào chơn như làm thành tựu nghiệp thức (Tạng thức), 2. Chi
mạt vô minh (kiến, ái) huân tập vào vọng tâm làm thành tựu
(tăng trưởng) phân biệt sự thức (ý thức)
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói về 3 loại
huân tập (còn loại thứ tư, là chơn như huân tập, sẽ nói
trong bài sau), từ thô về tế:
1. Cảnh giới hư vọng 6
trần huân tập vào vọng tâm, nuôi lớn chi mạ vô minh, cũng
gọi nhuận sanh vô minh, tức là Niệm (Trí tướng và Tương tục
tướng) và thủ (chấp thù tướng).
2. Vọng tâm (nghiệp
thức) huân tập lại vô minh, nuôi lớn hai món khổ sanh tử của
phàm phu và Thánh giả:
a. Vì vọng tâm (nghiệp
thức huân tập vào căn bản vô minh, nuôi lớn "vọng niệm", làm
cho Tạng thức (A lai da) bất đoạn, nên các vị Bồ Tát, Duyên
giác, A la hán phải bị khổ biến dịch sanh tử.
b.Vì vọng tâm phân biệt
sự thức (ý thức) huân tập vào chi mạt vô minh, (Trí tướng,
Tương tục tướng, Chấp thủ tướng và Kế danh tự tướng, tức là
kiến hoặc và tư hoặc) nuôi lớn "chấp thủ", làm cho 7 thức
trước tương tục mãi mãi, nên chúng phàm phu phải bị khó phân
đoạn sanh tử.
3. Vô minh huân tập làm
thành tựu nghiệp thức và phân biệt sự thức: a. Vì căn bản vô
minh huân tập vào chơn như, nên làm thành tựu nghiệp thức,
tức là A lại da thức, b. Vì chi mạt vô minh (Kiến: Kiến
hoặc; Ái: tư hoặc) huân tập vào vọng tâm (nghiệp thức), nên
làm thành tựu phân biệt sự thức tức là thức. Nói chung là
bảy thức trước. Vì bảy thức trước phân biệt các sự vật, rồi
chấp ngã, chấp pháp, nên các sự vật mới thành như thế này,
hoặc như thế nọ. Bởi thế nên gọi là phân biệt sự thức.
Đã nói "Do huân tập nên
các pháp tạp nhiễm sanh khởi không dứt" rồi; tiếp theo đây
sẽ nói: "Do huân tập nên các pháp thanh tịnh sanh khởi không
dứt".
DO
HUÂN TẬP NÊN CÁC PHÁP THANH TỊNH SANH KHỞI KHÔNG DỨT
CHÁNH VĂN
Huân tập thế nào, mà
các pháp thanh tịnh sanh khởi không dứt?_ Do chơn như huân
tập vô minh, nên làm cho hành giả khởi vọng tâm nhàm chán
khổ sanh tử, cầu vui Niết bàn. Nhờ công năng chán khổ sanh
tử, ưa thú vui Niết bàn của vọng tâm đó, trở lại huân tập
vào chơn như, nên hành giả mới tự tin tánh Phật (khả năng
thành Phật) của mình, (ở vị Thập tín) và biết cảnh giới hiện
tiền không thẫy có, chỉ do tâm vọng động hiện ra (thập trụ)
rồi tu hành để xa lìa các nhiễm ô (thập hạnh và Thập hồi
hướng). Khi biết xác thực, không có cảnh giới hiện tiền (Sơ
địa) hành giả mới dùng các phương tiện tu hành (từ Nhị địa
đến Cửu địa) và khởi ra hạnh tuỳ thuận chơn tâm, không chấp
thủ (Chấp thủ tướng và Kế danh tự tướng) không vọng niệm
(Trí tướng và Tương tục tướng) và tu hành trải qua nhiều
kiếp lâu xa (Thập địa).
Tóm lại, nhờ sức chơn
như huân tập này, nên vô minh diệt (Nghiệp tướng diệt). Vì
vô minh diệt nên tâm không vọng động (Chuyển tướng diệt); do
tâm không vọng động nên cảnh giới cũng theo đó mà diệt (Hiện
tướng diệt). Do vô minh (nhơn) và cảnh giới (duyên) đều
diệt, nên các tướng vọng nhiễm của tâm cũng diệt hết (Lục
thô diệt hết). Lúc bấy giờ, gọi là chứng Niết bàn, và hành
giả được diệu dụng không thể nghĩ bàn (tự nhiên nghiệp).
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói do huân
tập mà các pháp thanh tịnh sanh khởi không dứt.
Bên trong nhờ tánh Phật
(chơn như) huân tập vô minh, nên làm cho hành giả phản tỉnh,
nhàm khổ sanh tử cầu vui Niết bàn. Bên ngoài nhờ sự phản
tỉnh này, trở lại huân tập vào tánh Phật (chơn như) làm cho
hành giả giác ngộ cảnh giới này không thật, nên đã không
sanh tâm tham luyến và tạo nghiệp; trái lại, còn tuỳ thuận
theo tánh Phật tu hành, phá trừ Tam tế Lục thô, trải qua bao
vô số kiếp và 56 địa vị, từ Thập tín đến quả Phật.
Vì bên trong vô minh,
bên ngoài cảnh giới đều đã diệt nên vọng tâm cũng diệt; do
vọng tâm diệt, nên tánh Phật (chơn như) mới hiện ra, gọi đó
là cảnh Niết bàn. Lúc bấy giờ hành giả được rất nhiều diệu
dụng hoá độ chúng sanh không thể nghĩ bàn.
Chúng ta nên lưu ý đặc
điểm này: khi mê thì vô minh làm cho vọng tâm tạo ra các tội
khổ sanh tử triền phược; đến lúc ngộ thì chơn như (tánh
Phật) làm cho vọng tâm phản tỉnh và tiến tu đến đạo quả Bồ
Đề, Niết bàn.
Cũng như một cây gươm,
nếu kẻ giặc cầm thì sát nhơn vô đạo; còn người anh hùng
tướng sỉ cầm, thì bảo vệ non sông. Bởi thế nên người tu
hành, chỉ đổi cái "Dụng" mà thôi, chớ không phải trừ bỏ cái
"Thể" vậy.
CHÁNH VĂN
Lại nữa, vọng tâm huân
tập có hai thứ:
1. Ý thức huân tập
(phân biệt sự thức), làm cho chúng phàm phu và Nhị thừa nhàm
chán khổ sanh tử, và tuỳ theo năng lực của mình, lần lần tu
hành đến Đạo vô thượng Bồ Đề.
2. Ý huân tập, làm cho
các vị Bồ Tát phát tâm dõng mãnh, mau đến quả Niết bàn.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này giải thích,
vọng tâm huân tập trở lại chơn như, có hai loại:
1. Ý thức (thức thứ
sáu) huân tập vào chơn như; nghĩa là do công năng phản tỉnh
của ý thức, huân tập trở lại tánh Phật sẳn có (chơn như),
nên làm cho chúng phàm phu và hàng Nhị thừa nhàm chán khổ
sanh tử, phát tâm tu hành, lần lần đến đạo vô thượng Bồ Đề.
2. Ý (tương tục ý) huân
tập trở lại chơn như; nghĩa là do công năng phản tỉnh của ý,
huân tập trở lại tánh Phật (chơn như), nên làm cho hàng Bồ
Tát, phát tâm dõng mãnh tu hành, mau được quả Niết bàn.
Trên đã nói vọng tâm
huân tập vào chơn như, có thô và tế không đồng rồi; tiếp sau
đây sẽ nói chơn như huân tập vô minh, có "thể" và "dụng"
không đồng.
HẾT QUYỂN THƯỢNG
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ CHÍN
CHƯƠNG THỨ BA
PHẦN GIẢI THÍCH
NÓI VỀ NGHĨA "BẤT GIÁC" (tiếp theo)
MỤC LỤC
Nói về nghĩa "Bất giác"
(tiếp theo)
k. Nói về bốn món huân tập (tiếp theo)
Nói về chơn như huân tập, có 2 phần
1. Thể tướng chơn như huân tập (chánh chơn huân tập)
2. Diệu dụng chơn như huân tập (Trợ duyên huân tập)
Diệu dụng chơn như huân tập có 2 duyên:
a. Duyên sai biệt, có 2 thứ:
Duyên gần duyên xa
b. Duyên bình đẳng
Thể và Dụng chơn như huân tập, lại chia làm 2 thứ:
1. Chưa chứng nhập chơn như
2. Đã chứng nhập chơn như, được 2 trí:
Căn bản trí (vô phân biệt trí)
Hiện đắc trí (sai biệt trí)
k. NÓI VỀ BỐN MÓN
HUÂN TẬP (tiếp
theo và hết)
CHÁNH VĂN
Nói về chơn như (pháp
thanh tịnh) huân tập. Chơn như huân tập vô minh, có hai
phần:
1. Thể tướng chơn như
huân tập
2. Diệu dụng chơn như
huân tập.
Nói về thể tướng chơn
như huân tập vô minh: tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay,
đều sẳn có bản thể chơn như (tánh Phật) và có đủ các công
dụng (diệu dụng chơn như ) không thể nghĩ bàn, sanh ra các
cảnh giới. Do thể tướng và công dụng của chơn như (tánh
Phật) thường huân tập vô minh, nó thúc đẩy chúng sanh chán
khổ sanh tử, cầu vui Niết bàn, và tự tin mình có sẳn chơn
như (tánh Phật) nên tự phát tâm tu hành để thành Phật.
LƯỢC GIẢI
Trong kinh chép: "Tất
cả chúng sanh đều có tánh Phật " (khả năng thành Phật). Tánh
Phật này, cũng gọi là chơn như, Pháp tánh hay Chánh nhơn
Phật tánh v.v...Nhờ sẳn có tánh Phật (giống Phật) nên chúng
sanh tu hành mới được thành Phật.
Tánh Phật này thanh
tịnh vô lậu, và có diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nó thường
huân tập vô minh, làm cho chúng sanh tự tin mình có khả năng
thành Phật, nên phát tâm tu hành, chán khổ sanh tử cầu vui
Niết bàn. Nếu không nhờ tánh Phật này thúc giục, thì chúng
sanh không biết chừng nào mới phát tâm tu hành, cầu quả giải
thoát.
CHÁNH VĂN
Hỏi:_ Nếu tất cả
chúng sanh đều sẳn có Chơn như (tánh Phật) và đồng huân tập
vô minh thì tất cả chúng sanh phải đồng thời tự tin minh có
chơn như (tánh Phật), đồng thời phát tâm tu các pháp lành và
đồng thời chứng quả Niết bàn; tại sao có vô cùng sai khác:
kẻ tin người không, kẻ tu trước, người tu sau, có kẻ đã nhập
Niết bàn, còn người chưa nhập?.
LƯỢC GIẢI
Do trước nói: "Tất cả
chúng sanh đều sẳn có tánh Phật, và nhờ tánh Phật này huân
tập vô minh, nên làm cho chúng sanh nhàm cảnh khổ sanh tử,
ưa vui Niết bàn v.v.." nên mới có câu hỏi này. Trong câu hỏi
này có hai điều nghi:
Điều nghi thứ nhứt:
chúng sanh đã sẳn có tánh chơn như, bình đẳng như nhau, tại
sao lại có vô số những sự sai khác, không bình đẳng, như kẻ
đần độn, người thông minh, kẻ chánh người tà, kẻ tin người
không v.v...
Điều nghi thứ hai:
chúng sanh đã đồng nhờ chơn như huân tập vào vô minh, nên
phát tâm tu hành v.v...Vậy thì phải đồng thời phát tâm, đồng
thời tự tin mình có tánh Phật và đồng thời tu, đồng thời
chứng v.v...tại sao có vô cùng những sự sai khác, không bình
đẳng, như kẻ tu trước người tu sau, kẻ mau ngộ đạo người
chậm chạp v.v...
CHÁNH VĂN
Đáp:_ Từ hồi nào
đến giờ chơn như vẫn một; song vô minh có vô lượng vô biên,
tánh chất khác nhau, dày mỏng không đồng.
Do vô minh này mà sinh
ra các phiền não sai khác (Sở tri chướng) nhiều hơn số cát
sông Hằng. Cũng do vô minh này mà sanh ra các phiền não sai
khác, như ngã kiến, ái nhiễm v.v...(phiền não chướng).
Tóm lại, tất cả phiền
não (phiền não chướng, sở tri chướng) đều do vô minh sanh
khởi, hoặc trước hoặc sau vô cùng sai khác.
(Đoạn này đã nói "vô
minh sai khác không đồng", tiếp theo đây sẽ nói "ngoại duyên
không phải một").
Lại nữa, trong Phật
pháp nói: "Tất cả các pháp đều do nhơn duyên sanh; nhơn
duyên đầy đủ mới được thành tựu".
Thí như chất lửa trong
cây là "Chánh nhơn" của lửa. Song, nếu không có "trợ duyên"
là người biết lấy lửa, và các phương tiện như bùi nhùi,
(bổi) công người cọ sát v.v...thì lửa kia không thể tự phát
sanh ra được.
Cũng vậy, chúng sanh
tuy sẳn có tánh Phật (chơn như) là cái "nhơn chánh" để thành
Phật; song nếu không có "ngoại duyên" là gặp các đức Phật,
Bồ Tát và Thiện tri thức v.v...dẫn dắt chỉ dạy cho phương
pháp tu hành, thì hành giả cũng không thể tự mình đoạn trừ
phiền não và tu chứng Niết bàn được.
Trái lại, nếu chỉ có
"ngoại duyên" mà không có chơn như là cái "nhơn chánh" để
thành Phật, huân tập bên trong, thì hành giả cũng không thể
tự mình chán khổ sanh tử, cầu vui rốt ráo Niết bàn được.
Bởi thế nên, phải có
nội nhơn và ngoại duyên đều đầy đủ; nghĩa là bên trong nhờ
tánh Phật (chơn như) làm "chánh nhơn" huân tập; bên ngoài
nhờ đức từ bi và đại nguyện của Phật, Bồ Tát giúp hộ làm
"trợ duyên", thì hành giả mới chán khổ sanh tử, tin có cõi
Niết bàn và phát tâm tu tập các pháp lành. Nhờ tu tập các
pháp lành được thuần thục, nên hành giả mới gặp chư Phật Bồ
Tát thị hiện, chỉ dạy những điều lợi lạc. Lúc bấy giờ hành
giả mới tinh tấn tu hành, để đến đạo quả Niết bàn.
LƯỢC GIẢI
Tất cả chúng sanh đều
có tánh Phật (chơn như) và đồng huân tập vô minh v.v...thì
phải đồng phát tâm, đồng tu và đồng chứng như nhau. Song, có
sự vô cùng sai khác, không đồng nhau như kẻ phát tâm tu
hành, người huỷ bán, kẻ đã thành Phật, người còn trầm luân
là vì hai nguyên nhơn sau này:
1. Vô minh không đồng.
_ Mỗi chúng sanh có rất nhiều lớp vô minh: có thứ vô minh
thuộc về căn bản, có thứ vô minh thuộc về chi mạt; có thứ
sâu dày, có thứ mỏng cạn, có thứ thô phù dễ trừ, có thứ tế
nhị khó đoạn. Do các thứ vô minh này sanh ra hằng hà sa số
phiền não. Nhưng trong số phiền não này, tóm lại có hai
chướng: phiền não chướng và sở tri chướng (cũng gọi là trần
sa hoặc).
Vì đoạn trừ vô minh có
khó dễ, mau chậm khác nhau, nên chúng sanh phát tâm tu hành
và chứng quả không đồng thời.
2. Hoàn cảnh không
đồng._ Mỗi chúng sanh đều có mỗi hoàn cảnh khác nhau, hoàn
cảnh tức là các duyên chung quanh.
Chứng được đạo quả vô
thượng Bồ Đề, phải có đủ cả nhơn và duyên. Nhơn là chơn như
hay Phật tánh, huân tập bên trong; Duyên là những hoàn cảnh
giúp đỡ bên ngoài, như Phật, Bồ Tát và Thiện hữu tri thức
dạy bảo dẫn dắt v.v...Nếu chỉ có Nhơn mà thiếu Duyên, hoặc
có Duyên mà thiếu Nhơn, thì cũng không thành.
Thí như trong cây có
sẳn chất lửa là "nhơn chánh"; song phải nhờ các "trợ duyên"
là hoàn cảnh bên ngoài, như người biết lấy lửa và bổi
v.v...thì lửa ấy mới phát sanh được. Nếu thiếu một (Nhơn
hoặc Duyên) thì lửa không thể xuất hiện được.
Bởi hoàn cảnh của mỗi
chúng sanh không đồng nhau, nên sự phát tâm tu hành và chứng
quả không thống nhất. Đây là lý do thứ hai.
Phật tánh có 3:
1. Chánh nhơn Phật
tánh: Chơn như là cái nhơn chánh để thành Phật; dụ như chất
lửa sẳn có trong cây.
2. Duyên nhơn Phật
tánh: Phật, Bồ Tát , Thiện hữu tri thức và kinh sách
v.v...là trợ duyên để thành Phật; dụ như người biết lấy lửa
và bổi v.v...
3. Liễu nhơn Phật tánh:
Chánh nhơn và trợ duyên đều đầy đủ, làm cho hành giả phát
hiện được (liễu ngộ) tánh Phật của mình; dụ như lửa trong
cây đã phát cháy.
CHÁNH VĂN
Nói về diệu dụng chơn
như huân tập:
Đây là các trợ duyên
bên ngoài của hành giả; có rất nhiều thứ trợ duyên, nhưng
tóm lại có 2 loại:
1. Duyên sai biệt, 2.
Duyên bình đẳng.
1. Duyên sai biệt:
Từ khi mới phát tâm cầu đạo, cho đến thành Phật, trong
khoảng thời gian ấy, hành giả hoàn toàn nhờ chư Phật và Bồ
Tát gia hộ cho trên đường tu hành. Vì tâm đại bi, nên Phật
và Bồ Tát hoặc hiện làm người thân thuộc, như cha mẹ (để dạy
bảo hành giả) hoặc hiện làm Thiện hữu tri thức (để nhắc
nhở), hoặc hiện làm người tôi tớ hầu hạ (để khuyên lơn),
hoặc hiện làm kẻ oan gia (như Đề bà đạt da v.v.. để xúc
khích) hoặc dùng Tứ nhiếp pháp (để cảm hoá), cho đến làm
không biết bao nhiêu công hạnh, để huân tập cho hành giả;
làm cho hành giả hoặc nhớ nghĩ công đức của các Ngài, hoặc
thấy hình tướng, hoặc nghe thuyết pháp, mà được lợi ích và
tăng trưởng căn lành.
Các duyên sai khác này,
chia làm hai loại:
a) Duyên gần, làm cho
hành giả mau đặng Bồ Đề (hiện tiền chứng đạo).
b) Duyên xa, làm cho
hành giả về sau mới đặng tế độ (nhiều kiếp về sau mới đặng
đạo).
Hai món duyên gần và xa
này, lại chia làm hai loại nữa: Duyên làm cho hành giả được
thọ đạo pháp và Duyên làm cho hành giả tăng trưởng đạo
hạnh.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này nói về diệu
dụng chơn như của chư Phật và Bồ Tát huân tập cho chúng
sanh. Chư Phật và Bồ Tát đã chứng được bản thể chơn như, nên
tự nhiện có diệu dụng không thể nghĩ bàn.
Do lòng Đại bi và Đại
nguyện của chư Phật và Bồ Tát, tuỳ theo trình độ của chúng
sanh phát tâm cầu đạo, nên từ diệu dụng của chơn như, ứng
hiện ra các thân hình v.v.. làm trợ duyên bên ngoài, để giúp
cho chúng sanh được thành đạo quả. Nhưng các duyên này, có
chia làm hai loại:
1. Duyên sai biệt: Do
trình độ của chúng sanh không đồng, sự phát tâm của mỗi
người mỗi khác, nên chư Phật và Bồ Tát thị hiện phải có sai
khác (Duyên sai biệt).
2. Duyên bình đẳng: Do
đồng thể đại bi, nên chư Phật và Bồ Tát phát nguyện độ sanh,
bình đẳng làm lợi ích.
Đoạn này nói về "Duyên
sai biệt".
Chư Phật và Bồ Tát thị
hiện rất nhiều phương tiện để độ sanh; nhưng không ngoài 5
việc như sau:
a) Vì muốn dùng từ ái,
để dẫn dắt hành giả, nên hiện làm cha mẹ.
b) Vì muốn dùng việc
hầu hạ, để gần gũi hành giả đặng khuyên lơn, nên hiện làm kẻ
tôi tớ.
c) Vì muốn dùng việc
cộng sự, để giúp cho hành giả, nên hiện làm Thiện hữu tri
thức.
d) Vì muốn xúc khích
hành giả trên đường tu hành, nên hiện làm kẻ oan gia (như Đề
bà đạt da).
đ) Vì muốn cảm hoá
người, nên dùng Tứ nhiếp pháp.
Tất cả những phương
tiện này, đều do lòng từ bi của Phật và Bồ Tát mà khởi hiện,
làm trợ duyên để huân tập cho hành giả tăng trưởng căn lành
và được nhiều lợi ích.
Các duyên sai biệt này
chia làm 2 loại:
1. Duyên gần; nghĩa là
hành giả sớm được tế độ. Như khi Phật còn tại thế, những
chúng sanh được hoá độ.
2. Duyên xa; nghĩa là
hành giả chậm được tế độ. Như khi Phật Đại Thông Trí Thắng
ra đời, đức Thích Ca làm đệ tử Ngài, cho đến thời kỳ này mới
được thành Phật.
Tất cả những phương
tiện này, đều giúp cho hành giả được lãnh thọ đạo pháp và
tăng trưởng đạo hạnh.
CHÁNH VĂN
2. Duyên bình đẳng:
Tất cả chư Phật và Bồ Tát đều phát nguyện độ thoát tất cả
chúng sanh. Do sức bi trí đồng thể tự nhiên huân tập, nên
các Ngài thường hằng tuỳ thuận chúng sanh nào muốn thấy Phật
nghe Pháp, thì đều bình đẳng hiện ra để hoá độ, không bỏ một
chúng sanh nào. Bởi thế nên chúng sanh khi ở trong thiền
định, đều được bình đẳng thấy Phật.
LƯỢC GIẢI
Chư Phật và Bồ Tát đã
chứng đến chỗ đồng thể (Phật và chúng sanh đồng một bản thể)
nên các Ngài tự thấy chúng sanh còn đau khổ, thì mình còn
đau khổ; chúng sanh còn trầm luân, thì mình chưa giải
thoát.
Bởi thế nên từ chỗ đồng
thể ấy, các ngài khởi Đại bi, Đại trí và phát Đại nguyện.
Như Ngài Địa tạng Bồ Tát thề rằng: "chúng sanh độ tận,
phương chứng Bồ Đề. Địa ngục vị không, thệ bất thành
Phật".(nghĩa là độ hết chúng sanh mới chứng Bồ Đề; nếu địa
ngục còn tội nhơn, thì tôi thề không thành Phật).
Đức A Nan thề rằng:"Ngũ
trược ác thế thệ tiên nhập. Như nhứt chúng sanh vị thành
Phật, chung bất ư thử thủ Nê hoàn". Nghĩa là: Trong đời tội
ác 5 trược, tôi thề xung phong vào trước, để độ chúng sanh.
Nếu còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, thì tôi thề
không chịu chứng quả Niết bàn.
Do sự thúc dục của đồng
thể bi trí này, nên các Ngài thường hằng tuỳ thuận tất cả
chúng sanh, bình đẳng hoá độ. Như Ngài Phổ hiền Bồ Tát
thường hiện thân cho người thấy; đức Quán Thế Âm Bồ Tát thì
ứng hiện 32 thân v.v..
Nếu chúng sanh nào tâm
thanh tịnh, thì được thấy chư Phật và Bồ Tát (chúng sanh tâm
nhược tịnh, Bồ Đề ảnh hiện trung).
Sự ứng hiện ấy rất tự
nhiên và bình đẳng, cũng như ao nước nào trong, thì tự nhiên
có trăng bình đẳng hiện vào.
Trên đã nói diệu dụng
chơn như của chư Phật, Bồ Tát, khi đã được hiển lộ rồi; còn
chơn như của chúng sanh chưa hiển lộ thì diệu dụng thế nào?
Hãy xem đoạn dưới đây:
CHÁNH VĂN
Thể và Dụng của chơn
như huân tập, lại chia làm hai loại:
1. Chưa chứng nhập
(tương ưng) chơn như.
2. Đã chứng nhập chơn
như.
1. Chưa chứng nhập
chơn như: Chúng phàm phu, hàng Nhị thừa và các vị Bồ Tát
mới phát tâm (Tam hiền), do ý và ý thức huân tập mà phát
tâm, và chỉ nương nơi sức tin của mình (tin tánh Phật ở nơi
mình) mà tu hành; vì chưa chúng nhập (tương ưng) bản thể
chơn như, nên chưa được vô phân biệt tâm (vô phân biệt trí,
tức là căn bản trí); vì chưa đặng diệu dụng của chơn như,
nên sự tu hành chưa được diệu dụng tự tại (sai biệt trí hay
hậu đắc trí)
2. Đã chứng nhập
chơn như: Các vị Bồ Tát đã chứng Pháp thân (Thập địa Bồ
Tát), chỉ nương nơi Pháp tánh (Pháp lực) tu hành (thuận tánh
khởi tu), tự nhiên huân tập vào chơn như, nên diệt được vô
minh. Các vị Bồ Tát này đã được vô phân biệt tâm (căn bản
trí), vì đã chứng nhập được bản thể chơn như; và đã được Sai
biệt trí (Hậu đắc trí), vì đã được diệu dụng của chơn như
(dữ Phật trí dụng tương ưng).
LƯỢC GIẢI
Thể chơn như không hai,
song vì còn ở trong vỏ chúng sanh hay đã thoát ra ngoài, mà
diệu dụng có rộng hẹp chẳng đồng; vì thế nên phân làm hai
loại:
1. Người chưa chứng
nhập được chơn như: chơn như còn bị các phiền não nhiễm ô
triền phược (tại triền), chưa được hiển lộ; như vàng còn ở
trong khoáng.
Chúng phàm phu, hàng
Nhị thừa và các vị Bồ Tát còn ở địa vị tam hiền, đều từ vọng
thức phân biệt mà phát tâm; do tự tin nơi mình có tánh Phật
mà tu hành. Vì chưa chứng nhập "thể" và "dụng" của chơn như,
nghĩa là chơn như còn bị triền phược, chưa được hiển lộ, nên
các vị này chưa được căn bản trí (vô phân biệt trí) và hậu
đắc trí (sai biệt trí).
2. Người đã chứng nhập
chơn như: chơn như đã được hiển lộ ra khỏi vỏ phiền não
nhiễm ô triền phược; như vàng đã ra khỏi khoáng.
Các vị Bồ Tát từ Sơ địa
cho đến Thất địa, mới nhập được bản thể chơn như; từ Bát địa
đến Phật mới được Diệu dụng của chơn như. Các vị này, tuỳ
theo tánh chơn như mà tu hành, nên diệt trừ được vô minh. Vì
đã chứng nhập Thể và Dụng của chơn như, nên các vị Bồ Tát
nầy được hai món trí:
Căn bản trí (Vô phân
biệt trí) và Hậu đắc trí (Sai biệt trí).
Đã nói nhiễm và tịnh
huân tập nhau rồi, dưới đây sẽ nói nhiễm và tịnh, cái nào có
cùng tận, cái nào không cùng tận.
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ MƯỜI
CHƯƠNG THỨ BA
PHẦN GIẢI THÍCH
NÓI VỀ NGHĨA "BẤT GIÁC" (tiếp theo)
MỤC LỤC
Nói về nghĩa "Bất giác"
(tiếp theo)
1. Chơn như và vô minh, thỉ và chung (tiếp theo)
Chơn như vô thỉ vô chung
Vô minh vô thỉ hữu chung
m. Nói về 3 đại nghĩa của Tâm:
1. Thể rộng lớn của Tâm
(tánh bình đẳng không động)
2. Tướng rộng lớn của Tâm
(đủ hằng sa công đức)
3. Dụng rộng lớn của Tâm
( có hằng sa diệu dụng, sẽ nói trong bài 11)
CHƠN NHƯ VÀ VÔ MINH,
THỂ VÀ DỤNG
CHÁNH VĂN
Lại nữa, vô minh (pháp
nhiễm ô) và chơn như (pháp thanh tịnh) đều đã có sẳn từ vô
thỉ đến nay và huân tập chẳng dứt; song đến khi thành Phật
rồi, thì vô minh bị dứt hết, còn chơn như lại vô cùng tận
trong đời vị lai, cho đến sau khi thành Phật cũng vẫn còn.
Tại sao vậy? _ Vì chơn như thường huân tập, nên vọng tâm (vô
minh) phải tiêu diệt. Do vọng tâm tiêu diệt, nên pháp thân
hiện ra; rồi pháp thân lại khởi diệu dụng, huân tập trở lại
nữa, nên chơn như không có cùng tận.
LƯỢC GIẢI
Chơn như và vô minh
đồng một bản thể và có từ vô thỉ. Song vô minh rốt sau bị
chơn như tiêu diệt, nên hữu chung; còn chơn như sau khi ra
khỏi triền phược rồi, lại được nuôi lớn nên vô chung.
Thí như trong trái
hồng, cả chất chát và ngọt đều đồng thời có. Song khi trái
hồng còn non, chất ngọt bị chất chát lấn át (chơn như tại
triền), nên người ta chỉ thấy chất chát (vô minh); đến khi
lớn dần, thì chất chát bị chất ngọt huân tập, nên chất chát
mỗi ngày mỗi ít, mà chất ngọt mỗi ngày mỗi thêm, rồt cuộc
rồi chát hết (vô minh diêt mà chỉ còn ngọt (chơn như). Khi
trái hồng đã chín ngọt rồi, thì không bao giờ trở lại chát
nữa chúng sanh khi đã thành Phật, không trở lại làm chúng
sanh nữa).
Trên đã nói về "Nhơn
duyên sanh diệt" rồi, dưới đây sẽ nói về ba đại nghĩa của
Tâm là: Thể, Tướng và Dụng.
m. NÓI VỀ 3 ĐẠI
NGHIÃ CỦA TÂM
(Trong bài này mới nói
hai nghĩa thể và tướng rộng lớn của tâm)
CHÁNH VĂN
Lại nữa, tất cả phàm
phu, Thinh văn, Duyên giác, Bồ Tát và Phật, từ hồi nào đến
giờ, đều tự sẳn có thể tướng chơn như này. Tánh chơn như
không tăng, không giảm, không trước, không sau, không sanh,
không diệt, rốt ráo thường hằng, đầy đủ tất cả công đức (đức
tánh), như là:
1. Đại trí huệ sáng
suốt.
2. Chiếu khắp cả pháp
giới.
3. Chơn thật hay biết.
4. Tâm tánh thanh tịnh.
5. Thường, lạc, ngã,
tịnh.
6. Trong mát (thanh
lương), không biến đổi và tự tại v.v..
Tóm lại, nó không rời,
không đoạn, không khác, đầy đủ pháp Phật không thể nghĩ bàn,
và có vô lượng công đức, nhiều hơn số cát sông Hằng. Vì nó
đầy đủ tất cả, không thiếu một công đức nào, nên gọi là Như
Lai tạng, cũng gọi là Như Lai Pháp thân.
LƯỢC GIẢI
Trước kia, trong phần
"Định danh nghĩa" có nói: "Tướng nhơn duyên sanh diệt tức là
Thể, Tướng và Dụng của Đại thừa ...". Đến bài này nói rõ Thể
lớn, Tướng lớn và Dụng lớn của Đại thừa, tức là tâm Chơn như
vậy.
Nhưng trong bài này,
chỉ mới nói Thể rộng lớn của tâm, là tánh bình đẳng không
vọng động, và Tướng rộng lớn của tâm, là có đủ hằng sa công
đức; còn Dụng rộng lớn của tâm, sẽ nói tiếp trong bài thứ
II.
Tất cả Thánh phàm, đều
sẳn có tâm chơn như và cũng đều từ tâm này sanh ra. Tâm chơn
như ở nơi Thánh không thêm, ở nơi phàm chẳng giảm, không
trước không sau, không sanh không diệt, đầy đủ hằng sa đức
tánh:
_ Đại trí huệ sáng suốt
(tức là đức tánh thường quang của Pháp thân Phật).
Chiếu khắp cả pháp giới
(tức là Thật trí chiếu suốt lý tánh. Quyền trí soi khắp tất
cả sự vật)
_ Chơn thật hay biết
(rời các vọng thức phân biệt, chỉ còn chơn giác).
_ Tâm tánh thanh tịnh (
chơn tâm thanh tịnh, xa lìa các vọng hoặc nhiễm ô).
_ Đủ bốn đức Niết bàn:
Chơn thường (thuần nhứt không thay đổi), Chơn lạc (không có
các khổ làm não loạn), Chơn ngã (không bị hai món sanh tử
bức bách), Chơn tịnh (không bị trần lao phiền não làm nhiễm
ô).
_ Trong mát (vĩnh viễn
xa lìa phiền não).
_ Không biến đổi (không
sanh, trụ, dị, diệt).
_ Tự tại (không bị các
nghiệp triền phược).
_ Không rời (hằng xa
công đức không rời chơn như).
_ Không đoạn (từ vô thỉ
đến giờ không hề gián đoạn)
_ Không khác (một vị,
không khác).
_ Và không thể nghĩ bàn
v.v.. (sự lý viên dung, nhiễm tịnh không hai, không thể nghĩ
bàn được).
Tóm lại, vì tâm chơn
như bao trùm vô lượng hằng sa công đức, nên gọi là Như Lai
tạng và làm chỗ nương cho tất cả các Pháp, nên cũng gọi là
Pháp thân của Như Lai.
CHÁNH VĂN
Hỏi: Trước đã
nói "Thể chơn như bình đẳng và xa lìa tất cả các tướng", tại
sao đến đây lại nói "Thể chơn như có đủ các đức tánh sai
khác"?
Đáp: _ Tuy đủ
các đức tánh, mà thật ra không có hình tướng gì sai khác;
chỉ đồng một vị chơn như bình đẳng mà thôi.
Hỏi: Nghĩa này
thế nào?
Đáp: _ Vì bản
thể chơn như vô phân biệt, và xa lìa các hình tướng sai
biệt, cho nên không có tướng gì sai khác (vô nhị).
Hỏi: _ Vậy thì
căn cứ theo nghĩa gì, mà nói là sai khác?
Đáp: _ Căn cứ
theo tướng sanh diệt của nghiệp thức, mà nói có sai khác
vậy.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy Luận chủ lập
những câu vấn đáp, để giải thích các nghi ngờ. Trong phần
vấn đáp thứ nhứt, về câu hỏi:"Thể chơn như đã bình đẳng và
xa lìa tất cả tướng, tại sao lại có đủ các đức tánh sai
khác?" _ Luận chủ trả lời, đại ý:"Tướng" không khác với
"Tánh", Tướng tức là Tánh, đều đồng một vị chơn như bình
đẳng, nên không khác; cũng như sóng không khác với nước,
sóng tức là nước, đều đồng một vị.
Trong phần vấn đáp thứ
hai, ngoại nhân vì chưa hiểu câu trả lời trên, nên hỏi gạn
lại, để được giải thích thêm. Luận chủ đáp, đại ý như sau:
chơn như xa lìa tất cả các tướng, và tất cả sự phân biệt,
cho nên không có hai tướng sai khác; sở dĩ có sự sai khác là
do đổi vọng tâm phân biệt (nghiệp thức) mà có.
Trong phần vấn đáp thứ
ba, đại ý về câu hỏi:"Thể và Tướng chơn như đã không hai,
vậy căn cứ vào đâu mà nói có sự sai khác?". Đại ý câu đáp: _
Căn cứ vào nghiệp thức sanh diệt, mà chỉ Tướng sai khác. Vì
nghiệp thức sanh diệt có đủ hằng sa pháp nhiễm ô, cho nên
khi chuyển nhiễm ô trở lại chơn như thanh tịnh, tất nhiên
cũng phải có đủ hằng sa tướng sai khác về đức tánh thanh
tịnh.
CHÁNH VĂN
Hỏi: _ Căn cứ
theo tướng sanh diệt của nghiệp thức thế nào, mà nói có các
đức tánh sai khác?
Đáp: _ Từ hồi
nào đến giờ, tất cả các pháp thật ra không có tướng gì sai
khác (thật vô ư niệm), chỉ một chơn tâm mà thôi. Song vì vô
minh bất giác, tâm vọng niệm khởi lên, thấy có các cảnh
giới, nên gọi là "vô minh".
_ Vì đối với nghiệp
thức (vọng tâm) có khởi niệm; trái lại chơn như không khởi
niệm nên chơn như có đức tánh Đại trí huệ quang minh (đức
tánh thứ nhứt).
_ Vì đối với nghiệp
thức có thấy, nên có cái không thấy; trái lại chơn như vì xa
lìa các cái thấy, nên chơn như có đức tánh chiếu khắp cả
pháp giới (đức tánh thứ hai).
_ Vì đối với nghiệp
thức có vọng động, nên không chơn thật hay biết, và tự tánh
không thanh tịnh; trái lại chơn như vì không vọng động, nên
chơn như có đức tánh Chơn thật hay biết và Tâm tánh thanh
tịnh (đức tánh thứ ba và tư).
_ Vì đối với nghiệp
thức thì không thường, không lạc, không ngã, không tịnh,
nhiệt não, suy biến và không tự tại; trái lại chơn như không
có các việc trên, nên chơn như có những đức tánh: chơn
thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh, thanh lương (trong
mát) bất biến và tự tại (đức tánh thứ 5 và 6 v.v...)
Tóm lại, vì đối với
nghiệp thức có hằng hà sa số nhiễm ô, còn chơn như thì trái
lại, không có các nhiễm ô, nên chơn như hiện ra đủ các đức
tánh thanh tịnh, cũng nhiều hơn số cát sông Hằng. Vì nghiệp
thức (vọng tâm) có khởi động, còn thấy có các pháp hiện tiến
để phân biệt, nên còn có chỗ thiếu sót; trái lại, chơn như
là pháp thanh tịnh, chỉ nhứt tâm, không có vọng niệm, nên
đầy đủ vô lượng công đức. Bởi thế nên gọi là Như Lai tạng,
cũng gọi là Pháp thân của Như Lai.
LƯỢC GIẢI
Đoạn vấn đáp nầy là
tiếp theo 3 đoạn vấn đáp trên, để giải thích thêm về câu
hỏi:"Thể chơn như đã bình đẳng, lìa tất cả tướng, tại sao
lại có đủ các đức tánh sai khác?" _ Đoạn vấn đáp trên đã trả
lời rằng:" Căn cứ theo tướng sanh diệt của nghiệp thức, nên
nói có các đức tánh sai khác". Bởi thế nên đến đoạn này, mới
có câu hỏi: "Căn cứ theo nghiệp thức thế nào mà nói chơn như
có các đức tánh sai khác?".
_ Đại ý trong câu trả
lời của đoạn văn này:" tất cả các pháp tức là chơn như, nên
không có tướng gì sai khác. Song vì vô minh bất giác, tâm
vọng niệm nổi lên (nghiệp thức), nên thấy (chuyển thức) có
cảnh giới (hiện thưc sai khác).
Nghiệp thức có vô số
tướng nhiễm ô như: Khởi vọng niệm, có tướng thấy, tướng
không thấy, có động, vô thường, vọng ngã, khổ, nhiệt não,
suy biến, không tự tại, có chỗ thiếu sót v.v...Vì đối với
các tánh nhiễm ô của nghiệp thức, nên chơn như mới có vô số
đức tánh thanh tịnh sai khác, như là:
1. Đại trí huệ quang
minh
2. Chiếu khắp cả pháp
giới
3. Chơn thật hay biết
4. Tánh thanh tịnh
5. Chơn thường, chơn
lạc, chơn ngã, chơn tịnh
6. Trong mát (thanh
lương) không biến đổi (không sanh, lão, bịnh, tử) và tự tại
v.v...
Tóm lại, vì đối nghiệp
thức có các tướng nhiễm ô, nhiều hơn số cát sông Hằng, nên
chơn như cũng có đủ các đức tánh thanh tịnh, nhiều hơn số
cát sông Hằng.
Đã nói Thể lớn, Tướng
lớn của chơn như rồi, tiếp đến bài thứ II sau đây, sẽ nói
Dụng rộng lớn của Tâm chơn như.
▲ Trở Lên
|
|
|