|
NHƠN
MINH LUẬN CƯƠNG YẾU
NHƠN
MINH LUẬN TỪ ĐÂU MÀ CÓ?
Trước thời Phật
Thích Ca giáng sanh (chưa rõ xác thật là bao nhiêu năm), ở
Ấn độ có nhiều phái ngoại đạo, tranh chấp nhau bằng lý
thuyết. Ông Túc Mục Tiên nhơn là một trong các vị
Tổ của các phái,
lập ra pháp luận lý này, để bác các đạo. Phương pháp này
được tín dụng và
đắc lực trong thời kỳ
ấy.
Đến khi Phật ra đời,
thấy Nhơn minh là một môn luận lý có qui tắc, vừa đúng lý và
vừa hợp thời, được công chúng thừa nhận, nên Phật cũng dùng
lối lý luận này để bác các ngoại đạo tà giáo đem về chánh
lý.
Sau khi Phật nhập
diệt, độ khoảng 600 năm, có Ngài Mã Minh và Long thọ, hai vị
Bồ Tát ra
đời ở Ấn độ, sưu
tập lại, phân làm năm phần: Tôn, Nhơn, Dụ, Hiệp, Kết.
Về sau Ngài Trần Na
Bồ tát, cải cách lại, thành lập Nhơn minh luận có 3 phần:
Tôn, Nhơn,
Dị và viết ra bộ
"Nhơn minh nhập chánh lý luận". Từ ngài Trần Na về trước,
người ta gọi là:
"Cổ Nhơn minh"; từ Ngài Trần Na về sau là: "Tân Nhơn minh".
Đến đời Đường, Ngài
Huyền Trang Pháp sư (người Trung hoa) sang Ấn dộ học Phật
pháp,
rất tinh thông
về môn học này. Ngài đã nhiều lần lên luận đàm, dùng lối lý
luận Nhơn minh
này mà biện
luận, làm cho cả Ấn độ 18 nước đều kính phục.
Sau khi trở về nước,
Ngài dịch lại và truyền bá trong nước Trung hoa.
Vì sự đòi hỏi của
tín đồ, nên tôi (Sa môn Thích Thiện Hoa) phỏng dịch và chú
giải bằng chữ Việt.
SAO GỌI LÀ "NHƠN MINH NHẬP CHÁNH
LÝ LUẬN?"
Nhơn minh luận là
một luận lý tối cổ ở Á đông, vừa đúng lý, vững chắc và vừa
có qui tắc.
Điều cốt yếu là
phải rành rõ "nguyên nhân" hay "lý do vì sao", thì lối luận
lý mới chơn chánh
và đúng đắn, nên
gọi là "Nhơn minh nhập chánh lý luận".
Vì nhờ "Nhơn" mới rõ
được Tôn, nhờ "Nhơn" mới lập được Dụ. Bởi "Nhơn" rất trọng
yếu
như vậy, nên gọi
là "Nhơn minh", mà không gọi là "Tôn minh hay Dụ minh. Nhơn
minh là một trong ngũ minh
NỘI DUNG CỦA NHƠN
MINH
Nội dung của Nhơn
minh luận chia làm 3 phần: Tôn, Nhơn, Dụ. Theo Cổ Nhơn minh
có thêm
2 phần: Hiệp và
Kết là 5 phần:
Cổ Nhơn minh
:
1. Tôn: Nhơn
loại đền phải chết.
2. Nhơn: Vì có
sanh vậy.
3. Dụ: Như loài
vật
4. Hiệp: Phàm có
sanh phải có chết
5. Kết: Loài vật
có sanh, nên loài vật phải có chết; nhơn loại có sanh, nên
nhơn loại phải có chết.
Tân Nhơn minh
1. Tôn: Nhơn
loại đều phải chết.
2. Nhơn: Vì có
sanh vậy.
3. Dụ: Phàm có
sanh phải có chết, như loài vật.
▲ Trở Lên
|
A.TÔN
Phàm nói ra một câu
gì, hày trình bày một lập thuyết gì, cái lập thuyết ấy gọi
là Tôn. Như nói: "Tôi ăn cơm."
Tôn có nhiều tên,
như:
1. Tiền trần (danh
từ trước) cũng gọi: Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt.
2. Hậu trần (danh từ
sau) cũng gọi: Pháp, Sai biệt, Năng biệt.
Thí dụ như nói: Tôi
ăn cơm
Tôi Tiền trần (danh
từ trước), Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt.
Ăn cơm Hậu trần
(danh từ sau), Pháp, Sai biệt, Năng biệt.
TÔN CÓ TÔN Y VÀ
TÔN THỂ
I.Tôn y gồm có 2
phần
1. Tiền trần:
Hữu pháp, Sở biệt và Tự tướng
2. Hậu trần:
Pháp, Năng biệt và Sai biệt.
Tôn thể._Cổ Nhơn
minh (từ Ngài Trần Na về trước) lấy Tiền trần làm Tôn y, Hậu
trần làm
Tôn thể.
Tân Nhơn minh (từ
Ngài Trần Na về sau) cho Tiền trần và Hậu trần là vật kiện
để lập Tôn,
nên đều là Tôn
y. Hai vật kiện ấy hợp chung lại thì gọi là Tôn thể.
CHÍN LỖI VỀ TỢ TÔN
Phàm lập Tôn phải
tránh chín lỗi sau đây, thì cái Tôn ấy mới đúng đắn, mới đủ
tư cách để
thành lập luận
thuyết của mình, hoặc bác thuyết của người khác. Chín lỗi
gồm có:
1. Hiện lượng
tương vi._Lập cái tôn, trái với cảm giác hiện tiền. Như
hiện tiền ai cũng hiểu
biết rằng: Mũi
ngửi mùi, tai nghe tiếng v.v...Nay lại lập cái Tôn rằng:
Tôn
1. Tai tôi nghe
mùi thơm
2. Mắt tôi thấy
tiếng nói v.v ...
Vì nói như vậy là
trái với sự hiểu biết hiện tại; vừa nói ra, người ta thấy
mình nói sai rồi.
Tôn đã sai thì
làm sao lập được "Nhơn" và "Dụ".
2. Tỷ lượng tương
vi._ Lập cái Tôn trái với sự "so sánh phân biệt". Theo
sự so sánh hiểu biết của người: Phàm là người, ai cũng phải
chết, như các vị tiền nhân đã chết. Và phàm vật gì có hình
phải có hoại, cũng nhu bao nhiêu vật đã hoại trước. Nay lại
lập Tôn rằng:
Tôn
1. Tôi sống hoài
không chết.
2. Cái nhà tôi
không bao giờ hư.
Lập Tôn như vậy là
trái với sự "so sánh phân biệt" của người, nên có lỗi.
3. Tự giáo tương
vi._ Lập cái Tôn, trái với giáo lý của mình tôn thờ. Nói
rộng ra là trái với chủ nghĩa, đảng phái, gia đình, quốc gia
hay một lý thuyết mà mình đương tôn trọng.
Như trong Đạo Phật
nói "Chúng sanh có quả báo luân hồi". Và nói "Có thế giới
cực lạc ở
phương Tây
v.v...". chúng ta là Phật tử lại lập cái Tôn rằng:
Tôn
1. Chúng sanh
không có luân hồi quả báo
2. Không có nước
cực lạc.
Ngoại nhơn hỏi lại:
"Ông nói như vầy, thì mâu thuẩn với Tôn giáo của ông. Vậy
ông nói
đúng lý, hay Tôn
giáo của ông đúng lý? Nếu Tôn giáo ông dạy đúng lý, thì lời
nói ông sai,
còn lời nói của
ông đúng lý thì Tôn giáo của ông sai. Vậy ông nhìn nhận cái
nào đúng?"
Họ không cần bác
mà mình cũng bị thua.
4. Thế gian tương
vi._ Lập cái Tôn, trái với phong tục, tập quán và sự
hiểu biết của thế gian.
Thế gian có 2
hạng người: Có học thức và không học thức.
Nếu đối với người có
học thức mà chúng ta lập cái Tôn như vầy:
Tôn
1. Ông Thiên lôi
đánh anh Xoài chết
2. Bịnh ho lao
không phải do vi trùng gây nên.
Lập cái Tôn như thế,
bị lỗi trái với thế gian, với những người có hoc thức (Khoa
học).
Vì khoa học
(người có học thức) nói "bịnh ho lao do vi trùng gây nên",
và không công nhận
có ông Thiên
lôi. Chúng ta nói như thế, sẽ bị họ chê là người không có
học thức.
Trái lại, nếu đối
với thế gian người vô học, mà chúng ta lập cái Tôn như vầy,
cũng bị lỗi
thế gian tương
vi.
Tôn
1. Không có ông
Thần ban phuớc giáng hoạ.
2. Bịnh ho lao
phát sinh do vi trùng.
Bởi thế người thế
gian vô học, họ tin có ông Thần ban phước giáng hoạ và họ
không biết vi trùng.
Mặt dù chúng ta
nói phải, nhưng thiếu những lời lẽ khôn khéo ngăn đón, nên
họ không công nhận. Bởi họ không công nhận, nên lời nói sau
của mình không giá trị, vì thế nên mới bị lỗi
"Thế gian tương
vi".
5. Tự ngữ tương
vi._ Lập cái Tôn mà lời nói sau của mình, tự mâu thuẩn
với lời nói trước
của mình. Như
lập:
Tôn
1. Vật này bao
nhiêu mà rẽ vậy?
2. Ông này mù mà
cái chi cũng thấy hết.
Đã không biết giá là
bao nhêu, tại sao biết rẽ? Đã là mù thì tại sao cái chi cũng
thấy.
Lời nói của mình
tự mâu thuẫn với lời nói của mình. Chính mình cũng thấy sai,
thì ai
công nhận là
phải.
6. Năng biệt bất
cực thành._ Lập cái Tôn mà "danh từ sau" bên đối phương
không công nhận. Như đối với Phật học hay khoa học mà lập
cái Tôn như vầy:
Tôn
1. Thế giới này
(danh từ trước) do Thần Tạo vật (danh từ sau) sanh.
2. Anh Ồi (danh
từ trước) bị Thiên lôi (danh từ sau) đánh.
Phật học và khoa học
đồng nhận Thế giới và anh Ồi; nhưng không bao giờ nhận có
"Thần Tạo vật"
và "Thiên lôi". Bởi đối phương không công nhận nên bị lỗi
"bất thành".
7. Sở biệt bất
cưc thành._ Lập cái Tôn mà "danh từ trước" bên đối
phương không công nhận. Như đối với Phật học và khoa học,
lập như vầy:
Tôn
1. Thần Tạo vật
(danh từ trước) sanh ra loài người.
2. Thái cực
(danh từ trước) sanh ra vạn vật.
Loài người và vạn
vật là hai danh từ sau, thì cả Phật học và khoa học đều nhận
có: còn
Thần Tạo vật và
Thái cực là hai danh từ trước, thì Phật học cũng như khọc
học đều không công nhận, nên bị lỗi "bất thành".
8. Câu bất cực
thành._ Lập cái Tôn mà "danh từ trước" và "danh từ sau",
bên đối phương
đều không nhìn
nhận. Như đối với khoa học mà lập như vầy:
Tôn
1. Cốc thần,
Thái cực tức là chơn như
2. Thần Tạo vật
chính là Thái cực.
Bên khoa học không
nhìn nhận danh từ trước là "Cốc thần, Thái cực hay Thần Tạo
vật" và cũng không nhìn nhận danh từ sau là "Chơn như hay
Thái cực". Phàm lập luận mà bên đối phương không hiểu, hoặc
hiểu mà không nhìn nhận, thì không thể lý luận được nữa. Nên
bị lỗi "bất thành".
Tóm lại, ba lỗi bất
thành này (Năng biệt, Sở biệt và Câu bất thành) bên đối
phương không hiểu, hoặc hiểu mà không công nhận. Bởi hai
nguyên nhơn:
1. Lập không đúng.
2. Lập đúng mà
thiếu lời khôn khéo giản biệt, nên bị lỗi ấy.
9. Tương phù cực
thành._ Lập cái Tôn mà trùng ý kiến với bên đối phương.
Như lập:
Tôn
1. Cơm ăn no
bụng.
2. Nước uống đã
khác.
Phàm cãi nhau là vì
hai bêb ý kiến không đồng. Nếu bên khách đã nhìn nhận như
mình, mà mình còn lập thêm cái tôn ra nữa thì vô ích, nên bị
lỗi "tương phù" (trùng điệp).
Trong 9 lỗi về Tôn,
tứ 1 đến 5 là thuộc về lỗi "tương vi"; từ 6 đến 8 là thuộc
vể lỗi "Bất thành".
Lỗi thứ 9 vì lập
trùng điệp, nên không có hiệu quả. 9 lỗi về tợ Tôn, giải
thích đã rồi, bây giờ sẽ nói 14 lỗi về tợ Nhơn.
▲ Trở Lên
|
PHỤ BÀI HỌC
ÔN
(ÔN LẠI 9
LỖI VỀ TỢ TÔN)
Quý vị nên xét
kỹ, những câu sau này, đối với 9 lỗi trong tợ Tôn, thuộc
về lỗi gì?
1. Mẹ tôi không
có chồng.
2. Không có Trời
Đất Quỷ Thần.
3. Không Nhơn
quả, Luân hồi.
4. Không Thiên
đường và Địa ngục.
5. Trời sanh
muôn loại.
6. Trời không
luân hồi.
7. Minh sơ sanh
Thần ngã.
8. Vò vò bắt sâu
làm con của nó.
9. Tai nghe mùi
thơm.
10. Tai nghe
tiếng, mũi ngửi mùi.
11. Tôi trường
sanh bất tử.
12. Vật này bao
nhiêu mà rẻ vậy.
13. Ông mù này,
cái chi cũng thấy.
14. Ngựa đua
dưới nước, tàu chạy trên bờ.
|
NHƠN
Nhơn là nguyên nhơn hay lý do. Phàm
một sự vật hay câu nói gì, cũng đều có nguyên nhơn
hay lý do cả.
Như nói
Tôn : Tôi muốn ăn cơm.
Nhơn: Vì tôi đói bụng vậy (lý do).
Phàm cái "Nhơn" nào đủ cả ba tánh
chất sau đây, mới đúng đắn. Trái lại, nếu thiếu một,
thiếu hai, hoặc thiếu ba, thì cái Nhơn ấy có lỗi. 14 lỗi về
Nhơn sau này, cũng bởi thiếu một, hai hoặc ba tánh chất sau
đây. Vậy quý vị nên nhớ kỹ ba tánh chất của Nhơn.
1. Biến thị Tôn pháp tánh. _
Nghĩa là: Cái Nhơn phải bao trùm cả Tôn (tánh chất thứ
nhứt).
Biểu Như Tôn : Tôi muốn ăn cơm.
Lập Nhơn:Vì tôi đói bụng vậy.
Cái Nhơn "Vì tôi đói bụng" này, nó
trùm được danh từ trước của Tôn là "Tôi muốn";
và cũng trùm được danh từ sau của Tôn là "Ăn cơm".
Nhơn trùm cả Tôn
Nghĩa là: Vì tôi đói bụng, nên "tôi muốn"; và vì tôi đói
bụng, nên "tôi ăn cơm".
2. Đồng phẩm định hữu tánh._
Nghĩa là cái Nhơn quyết định phải hoàn toàn hoặc ít nhứt là
phải có một phần liên quan với Đồng dụ. Nó phải là đồng một
tánh chất như Đồng dụ (tánh chất thứ hai của Nhơn).
BIỂU Tôn: Tôi muốn ăn cơm
Như Nhơn: Vì đói bụng vậy
lập Đồng dụ: Như anh A (đói bụng và
muốn ăn cơm)
"Như anh A " là đồng dụ. Nghĩa là anh A cũng "vì đói bụng"
(Nhơn) nên "muốn ăn cơm" (Tôn). Nhơn trùm cả Tôn và
liên quan
Với Đồng dụ
Cái Nhơn "vì đói bụng" này, hoàn
toàn liên quan với Tôn và Đồng dụ (thí dụ thuận).
3. Dị phẩm biến vô tánh._ cái
"Nhơn" này đối với Dị dụ (thí dụ về bề trái) phải hoàn toàn
không liên quan; nghĩa là tánh chất của Nhơn, phải hoàn toàn
không có trong Dị dụ mới được (tánh chất thứ ba của Nhơn).
BIỂU
Tôn: Tôi muốn ăn cơm
Như Nhơn: Vì đói bụng vậy
lập Đồng dụ: Như anh A (đói bụng, muốn ăn)
Di dụ: Như anh B (no bụng
không muốn ăn)
Cái Nhơn "vì đói bụng" này, đối với
Dị dụ hoàn toàn không có liên quan; nghĩa là:
anh B (Dị dụ) đã no bụng (trái với Nhơn: đói bụng), nên
không muốn ăn (trái với Tôn: muốn ăn).
Nhơn này trùm cả Tôn và
Đồng dụ, còn Dị dụ thì không liên quan đến Tôn và Nhơn.
14 LỖI VỀ NHƠN
phàm lập cái "Nhơn", phải tránh 14
lỗi sau này, thì cái "Nhơn" ấy mới hoàn toàn đúng đắn,
chia làm 3 loại:
▲ Trở Lên
|
I. BỐN
LỖI BẤT THÀNH:
1. Lưỡng câu bất
thành._ Lập cái Nhơn mà cả chủ và khách đều không nhìn
nhận.
Như lập Tôn: con rắn
Hổ mây chạy mau
Nhơn: Vì nó có chân
vậy (nguyên nhơn)
Cả chủ và khách đều
không nhìn nhận "rắn hổ có chân". Nay lại lập cái Nhơn "vì
có chân", nên cái Nhơn này chẳng thành.
2. Tuỳ nhứt bất
thành._ Phàm lập cái Nhơn, phải chủ và khách hai bên đều
công nhận, ít nhứt là một bên khách phải có công nhận, thì
cái nhơn ấy mới thành. Nay cái Nhơn này bên khách không công
nhận nên bị lỗi "Tuỳ nhứt bất thành". Như đối với nhà Khoa
học mà lập như vầy:
Như lập Tôn: Vò vò
không sanh con (trứng)
Nhơn: Vì nó bắt sâu
làm con vậy.
Theo Khoa học nói
con Vò vò đẻ trứng trong tổ, rồi bắt sâu nhét vào làm mồi,
để cho
con nó khi nở ra
có mồi ăn. Nay lập cái Nhơn "bắt sâu làm con" thì bên khách
(Khoa học)
không công nhận,
nên bị lỗi.
3. Dự dự bất
thành._ cái Nhơn dụ dự chẳng nhứt định, nên không thành.
Như ở xa thấy mù mù, không rõ đó là sương mù hay khói mù,
lại lập như vầy:
Như lập Tôn: Chỗ kia
có lữa
Nhơn: Vì có mù (mây
mù)
Bởi cái Nhơn này có
thể lập được cả hai Tôn, vừa "có lữa" và vừa "không có
lữa",
dụ dự không nhứt
định, nên bị lỗi "bất thành".
4. Sở y bất
thành._ Chỗ y cứ của mình, bên khách không công nhận.
Như tín đồ Nhứt
thần giáo đối
với khoa học hoặc Phật giáo mà lập như vầy:
Như lập Tôn: Thần
sanh ra mọi vật
Nhơn: Vì trong kinh
của Đạo tôi nói vậy.
Phải là tín đồ của
Tôn giáo họ, mới nhìn nhận kinh của Đạo họ là đúng. Còn đối
với khoa học hay
Phật giáo, không nhìn nhận kinh sách của họ, mà y cứ nơi
kinh sách
đó để lập luận
với người ngoài Đạo mình, nên bị lỗi "sở y ất thành".
Một tỷ dụ thứ hai:
Theo trong Nhơn minh có lập cái lượng như vầy:
Như lập Tôn: Hư
không thật có
Nhơn: Vì muôn vật
đều y hư không vậy.
Phái "vô không
luận", họ chẳng công nhận "thật có hư không". Nếu với phái
này, mà lập cái
Nhơn như vậy thì
bị lỗi "sở y bất thành".
Bốn lỗi "bất thành"
đã nói rồi, bây giờ sẽ nói đến sáu lỗi "bất định"
▲ Trở Lên
|
II. SÁU
LỖI BẤT ĐỊNH:
1. Cọng bất định._
cái Nhơn này liên quan cả Đồng dụ và Di dụ, nên bị lỗi
"không nhứt định"
BIỂU
Tôn: Anh A đau
Nhơn: Vì ăn xoài
sống
Như Đồng dụ: Như anh
B
Lập (ăn xoài sống và
đau)
Dị dụ: Như anh D
(ăn xoài sống, không
đau)
Nếu nói anh A "vì ăn
xoài sống" mà đau như anh B, thì tại sao anh D cũng "ăn xoài
sống"
mà lại không
đau? Bởi thế nên người ta có thể lập cái Tôn ngược lại
rằng:
Tôn: Anh D không
đau
Nhơn: vì ăn xoài
sống
Như lập Đồng dụ: Như
anh D (ăn xoài sống và không đau)
Dị dụ: Như anh A (ăn
xoài sống, đau)
người ta có thể nói
rằng: Vậy thì "vì ăn xoài sống" mà bị đau như anh A, hay "vì
ăn xoài sống" mà không đau như anh D?
Bởi lập cái Nhơn bất
định như vậy nên có lỗi.
2. Bất cọng bất
định._ Cái nhơn này không có liên quan với Đồng dụ.
BIỂU
Tôn: Tiếng là thường
còn
Nhơn: vì tai
nghe vậy
Như Đồng dụ: Như hư
không
Lập (tai không
nghe)
Dị dụ: Như cỏ cây
(tai không nghe).
Cái Nhơn "vì tai
nghe" này, đối với "Đồng dụ" và Dị dụ đều không có liên quan
chút nào cả,
nên cũng bị lỗi
"bất định". Bởi cái nhơn này người ta có thể lập ngược lại
như vầy:
Tôn : Tiếng là
vô thường
Như Nhơn : Vì tai
nghe vậy
lập Đồng dụ: Như cỏ
cây (vô thường)
Dị dụ : Như hư không
(thường còn)
Vậy, "vì tai nghe"
mà tiếng nói thường còn như hư không? Hay "vì tai nghe" mà
tiếng nói
vô thường như cỏ
cây? Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định".
3. Đồng phẩm nhứt
phần chuyển, Dị phẩm biến chuyển bất định:
BIỂU
Tôn : Chỗ kia có
khói Nhơn: Vì có lửa vậy
Như Như lửa rượu
alcool
Đồng dụ: (có lửa,
không khói)
Lập Như lửa ở
nhà bếp
(có lửa, có
khói)
Dị dụ: Như lửa ở nhà
bếp
(có lửa, có
khói).
Nếu cái Nhơn "vì
có lửa", dụ như lửa ở nhà bếp, thì Tôn này có "khói"; còn
"vì có lửa",
dụ như lửa rượu,
thì cái Tôn này "không khói". Vì cái Nhơn này, đối với Tôn
"có khói" hay
"không khói" đều
không nhứt định, nên cái Nhơn này có lỗi bất định. Bởi người
ta có thể
lập ngược lại
như vầy:
Tôn : Chỗ kia
không khói
Như Nhơn : Vì có lửa
vậy
lập Đồng dụ: Như lửa
Alcool (có lửa, không khói)
Dị dụ : Như lửa ở
nhà bếp (có lửa, có khói)
4. Dị phẩm nhứt
phần chuyển, Đồng phẩm biến chuyển bất định: cái Nhơn
này đối với Dị dụ, có dính líu một phần, còn đối với Đồng dụ
thì phải hoàn toàn dính líu, nên cái Nhơn này cũng bị lỗi
"bất định".
BIỂU Tôn : Con khỉ
leo cây giỏi
Nhơn: Vì có hai
tay.
Như Đồng dụ: Như
con
Dị dụ _ Như con bò
(không tay, không biết leo)
Như con rắn (không
tay, leo cây giỏi).
Phàm Đồng dụ thì
phải hoàn toàn liên quan cả Tôn và Nhơn; còn Dị dụ thì hoàn
toàn không
dính líu gì đến
Tôn và Nhơn, như thế mới đúng.
Nay cái Nhơn này,
đối với Dị dụ bị dính líu hết mốt phần. Bởi thế cái tánh
chất thứ ba của
Nhơn là "Dị phẩm
biến vô tánh", nên bị lỗi; vì khách có thể hỏi lại rằng: "Vì
không tay,
nên leo cây giỏi
như con rắn"; hay vì không tay, nên "chẳng biết leo cây như
con bò?".
Bởi thế nên cái
Nhơn này bị lỗi "bất định".
5. Câu phẩm nhứt
phần chuyển bất định:
Cái Nhơn này, đối
với Đồng dụ và Dị dụ đều chỉ có dính líu một phần, nên cũng
bị lỗi "bất định".
BIỂU
Tôn: Tiếng vô
thường
Nhơn: Vì mắt không
thấy
Như tánh giận, buồn
v.v... (mắt không thấy và vô thường)
Như Đồng dụ Như
ruộng, nhà v.v...(mắt thấy lập Và cũng vô thường)
Như Hư không
(thường, mắt trông
thấy)
Dị dụ Như Giác tánh
(thường, mắt không thấy)
Cái thí dụ thứ hai:
Tôn: Người ta ai
cũng phải chết
Nhơn: Vì vật hữu
tình vậy
Đồng Như cầm thú
(hữu hình dụ có chết)
dụ Như nước biển
(hữu hình, không chết)
Như lập
Dị dụ Như hư không
(vô hình không chết)
Như tượng gỗ (hữu
hình không chết)
Nếu cái Nhơn "vì hữu
hình" này, mà dụ như cần thú, thì cái Tôn này có chết", còn
cái Nhơn
"vì hữu hình" mà
thí dụ như nước, thì cái Tôn này "không chết".
Phàm Dị dụ là dụ bề
trái của Tôn và Nhơn, nên phải dùng những vật "không chết".
(trái với Tôn)
và "vô hình" (trái với Nhơn) để làm thí dụ._ Nay cái Dị dụ
này chỉ trái
với Nhơn được
phân nữa. Vì ngoại nhơn có thể hỏi lại rằng: vậy "hư không,
không chết"
vì vô hình vậy?
Hay "tượng gỗ không chết "vì hữu hình vậy? Bởi hữu hình
(tượng gỗ)
vô hình (hư
không) đều không chết, nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định".
6. Tương vi quyết định bất định:
Chủ và khách lập
lượng trái nhau; song cả hai đều không có lỗi, và đều quyết
định thành lập được.
Nhưng không bên
nào phá dược bên nào.
Tôn : Sóng thường
còn
Nhơn: Vì sóng tức là
nước
Khách lập Đồng dụ :
Như điện.
Tôn : Sóng là vô
thường
Chủ phá Nhơn : Vì
chuyển động dược
Đồng dụ : Như gió.
Hai cái lượng này
rất mâu thuẩn nhau, song đều quyết định thành lập được. Bên
khách vẫn
công nhận "sóng
có chuyển động", bên chủ cũng nhận "sóng tức là nước". Nhưng
không bên
nào phá được bên
nào, nên Nhơn này bị lỗi "bất định". Đây cũng là vì thiếu
lời lẽ khôn khéo, để làm cho "người ta phục mình. Thuở xưa
có người nói: Ai lập trước thì hơn".
Phải lập Tôn : Sóng
không thường còn
Nhơn : Vì nó là nước
bị gió động
như vầy Đồng dụ:
Cũng như gió.
6 lỗi "Bất định" đã
giải thích rồi, bây giờ sẽ nói đến 4 lỗi tương vi.
▲ Trở Lên
|
III. BỐN
LỖI TƯƠNG VI
1. Pháp tự tướng
tương vi._ Cái Nhơn trái (mâu thuẩn) với tự tướng (lời
nói trắng)
của danh từ sau
Tôn: Gió thường còn
Như lập Nhơn : Vì có
động vậy
Đồng dụ : Như hư
không
Dị dụ : Như sóng.
Đã có động thì làm
sao lại thường còn; nên cái Nhơn "có động" này, rất trái với
tiếng
"thường còn" là
lời nói trắng về danh từ sau của Tôn.
2. Pháp sai biệt
tương vi Nhơn._ Cái Nhơn trái (mâu thuẩn) với ý hứa (ẩn
ý) của danh từ sau
Tôn: Loài người
quyết định có tạo ra
Như lập (ý hứa là
một vị thần).
Nhơn : Vì có trí
khôn và mắt, tai v.v...
Đồng dụ : Như con do
cha mẹ sanh ra
Trong
cái Tôn này, về chữ "quyết định có người tạo ra" là do người
lập Tôn, ẩn ý của họ
muốn nói: Người
tạo ấy là một vị Thần. Và ẩn ý của họ cho vị Thần ấy có ba
đức tánh sau này:
1. Toàn trí toàn
năng, 2. Thường còn, 3. Độc tôn.
Nhưng cái Nhơn
này nó lại trái ngược (mâu thuẩn) với ẩn ý của họ:
1. Nếu vị thần ấy
tạo ra loài người có trí khôn và mắt tai v.v...như cha mẹ
sanh con; vậy cha mẹ "không toàn trí toàn năng", vì sanh ra
có những đứa con ngỗ nghịch với cha mẹ, thì vị thần ấy
cũng "không toàn trí toàn năng" vì tạo ra loài người mà có
những kẻ oán trách lại vị Thần ấy, và giữa loài người, không
biết bao nhiêu những điều bất bình đẳng.
2. Cha mẹ sanh ra
con, đến khi già phải chết "không phải thường còn"; vậy vị
Thần ấy đã
sanh ra loài
người, thì vị thần ấy cũng phải chết, "không thường còn".
3. Cha mẹ sanh ra
con, tất nhiên phải có ông, bà sanh lại cha mẹ, nên cha mẹ
không phải
"độc tôn". Vậy
thì vị Thần ấy đã tạo ra loài người, thì vị thần ấy cũng
phải có một vị thần
lớn hơn sanh ra,
nên vị thần ấy cũng không "độc tôn". Bởi thế nên cái Nhơn
này bị lỗi mâu thuẩn với ý hứa (ẩn ý) của danh từ sau là
"người tạo ra".
3. Hữu pháp tự
tưởng tương vi Nhơn._ cái Nhơn mâu thuẩn với lời nói
trắng (tự tướng)
về danh từ trước
của Tôn
Tôn : Phải có một
ông Vô hình, tạo ra Vũ trụ
Như lập Nhơn :Vĩ Vũ
trụ có trật tự ấy
Đồng dụ: Như ông
Kiến trúc sư làm nhà.
Cái Nhơn "Vì vũ trụ
có trật tự" này, rất trái ngược với danh từ trước của Tôn
là "Ông Vô hình". Đã Vô hình thì làm sao tạo ra Vũ trụ là
vật hữu hình và có trật tự được? Phải vật hữu hình mới tạo
ra vật hữu hình. Như ông kiến trúc sư, vì hữu hình mới tạo
ra cái nhà hữu hình được.
4. Hữu pháp sai
biệt tương vi nhơn._ Cái Nhơn trái ngược với ý hứa (ẩn
ý) về danh từ
trước của Tôn.
Tôn : Phải có một
đấng sanh ra vũ trụ
Như lập Nhơn : Vì vũ
trụ có thứ tự vậy.
Đồng dụ: Như ông thợ
làm nhà.
Người lập lượng này,
nếu nói trắng ra "Có một ông thần", thì sợ bên đối phương
không
công nhận, mà
phải bị lỗi "Sở biệt bất thành", nên họ chỉ nói một cách hồn
hàm là "Có một Đấng". Song ẩn ý của họ muốn nói "Đấng ấy là
một vị thần"; và họ cho vị Thần này có 3 đức tánh: 1. Thường
còn, 2. Cao cả, 3. Sanh vạn vật.
Nhưng Đấng ấy đã
sanh ra được van vật, thì Đấng ấy tất nhiên cũng phải bị
người khác
lớn hơn sanh ra
và chết; không phải cao cả và thường còn. Cũng như ông thợ
làm nhà.
Vì cái Nhơn này,
trái ngược với ần ý của danh từ trước, nên bị lỗi "tương
vị".
Ngoại nhơn có
thể lập lượng bác lại rằng:
Tôn: Đấng ấy phải bị
người khác sanh ra và phải chết.
Như lập Nhơn : Vì
Đấng ấy sanh ra vũ trụ vậy.
Đồng dụ: Như ông thợ
làm nhà.
14 lỗi về Tợ Nhơn,
chúng tôi đã giải thích rồi, sau đây sẽ nói 10 lỗi về Tợ dụ.
▲ Trở Lên
|
PHỤ BÀI ÔN HỌC
(ÔN LẠI 14
LỖI VỀ TỢ NHƠN)
Tợ Dụ có 10 lỗi,
phân làm 2 phần:
Quí vị nên xét kỹ
các lượng sau này, rồi chỉ ra: lỗi của Tôn, lỗi của Nhơn, và
nói rõ tại sao
Lượng thứ I
Tôn: Nhơn loại
quyết định có người tạo
Nhơn : Vì có trí
khôn và đủ cả mắt, tai v.v...
Đồng dụ : Như
con, phài có cha mẹ sanh ra.
Lượng thứ II
Tôn: Gió thường
còn
Nhơn : Vì có
động vậy
Đồng dụ : Như hư
không
Dị dụ: Như sóng
Lượng thứ III
Tôn: Phải có một
Đấng sanh ra vũ trụ
Nhơn : Vì vũ trụ
có trật tự vậy
Đồng dụ : Như
ông Kiến trúc sư làm nhà
Lượng thứ IV
Tôn: Phải có một
ông vô hình tạo ra vũ trụ
Nhơn : Vì vũ trụ
có trật tự vậy
Đồng dụ : Như
ông thọ làm nhà.
***
C. DỤ
Phàm lấy một vật gì
mà bên đối phương đã biết và đã công nhận, để so sánh chúng
minh
với một vật khác
mà bên đối phương kia chưa biết, hoặc chưa công nhận thì gọi
là "Dụ".
Thí dụ khi lập cái
"Tôn thường còn", thì phải lấy tất cả những vật "thường
còn", làm Đồng dụ; trái lại, phải lấy tất cả những vật "vô
thường" làm Dị dụ.
I. TỢ ĐỔNG DỤ
CÓ 5:
1. Năng lập pháp
bất thành._ Phàm cái nhơn là để thành lập cái Tôn, nên
cái Nhơn là
"năng lập pháp"
còn cái Tôn là "Sở lập pháp". Cái Dụ này trái ngược Nhơn,
nên bị lỗi "bất thành"
Như lập
Tôn: Con ngựa
hay chạy
Nhơn : Vì có
bốn vó
Đồng dụ : Như
con rắn hổ ngựa
Cái Dụ này hiệp với
Tôn (chạy hay), trái với Nhơn (thiếu chân)
2. Sở lập pháp
bất thành._ Nhơn là Năng lập mà Tôn là Sở lập (bị lập).
Cái dụ này trái ngược với Tôn, nên cũng bị lỗi "bất thành".
Như lập
Tôn: Người ta
không bay được.
Nhơn : Vì thiếu
hai cánh
Đồng dụ : Như
mây (không cánh, bay dược)
Cái Dụ này hiệp với
Nhơn (thiếu cánh) và trái ngược với Tôn và Nhơn. Bởi lấy Dị
dụ làm
Đồng dụ, nên bị
lỗi "bất thành".
Như lập
Tôn : Tiếng
thường còn
Nhơn : Vì tai
nghe vậy
Đồng dụ : Như
bàn, ghế.
Bàn, ghế "vô thường"
nên trái với Tôn, và "tai không nghe được", nên trái với
Nhơn.
4. Vô hiệp._
Cái Dụ này không có lời phối hiệp để kết thúc lại cho dễ
hiểu.
Như lập
Tôn : Người ta
phải chết
Nhơn : Vì có
sanh vậy
Đồng dụ : Như
chim v.v...
Đáng lẽ phải nói lời
phối hiệp để kết thúc lài như vầy: "Người ta có sanh (Nhơn)
phải có chết
(Tôn). Phàm vật
gì có sanh (Nhơn) phải có chết (Tôn), như chim v.v..."thời
người ta mới
dễ hiểu. Cái này
chỉ nói tắt rằng "như chim"; làm cho người ta không hiểu:
Như chim có
hai cánh, hay là
như chim có mỏ? Nên bị lỗi "vô hiệp".
5. Đảo hiệp._
Lời thí dụ, kết thúc phối hiệp lại trái ngược. Phàm kết thúc
phối hiệp thì phải
nói cái nhơn
trước rồi nói cái Tôn sau.
Như lập
Tôn : Người ta
phải chết
Nhơn : Vì có
sanh vậy
Đồng dụ : Phàm
vật gì có sanh (Nhơn) thì phải có chết (Tôn)như chim v.v
...
Nay kết thúc lại
trái ngược, nghĩa là: Phối hiệp Tôn trước rồi nhơn sau.
Như lập
Tôn : Người ta
phải chết
Nhơn : Vì có
sanh vậy
Đồng dụ : Phàm
có chết (Tôn) phải có sanh (Nhơn) như chim v.v ...
Bởi vì nói "có sanh
phải có chết" thì ai cũng thấy; còn nói "có chết phải có
sanh", người ta
khó nhận.
II. TỢ DỊ DỤ
CÓ 5:
Phàm Dị dụ là dụ bề
trái của Tôn và Nhơn, nên phải hoàn toàn trái ngược với Tôn
và Nhơn.
1. Sở lập pháp
bất khiển._ Cái Dị dụ này không trái với Tôn
Như lập
Tôn : Tiếng nói
thường còn
Nhơn : Vì vô
hình vậy
Đồng dụ : Như hư
không
Dị dụ: như vi
trần (vi trần hữu hình và thường còn) vi trần có hình chất
mà lại thường còn. Nếu lấy vi trần làm Dị dụ, thì chỉ trái
với Nhơn (vô hình) mà không trái với Tôn (thường) nên bị
lỗi.
2. Năng lập pháp
bất khiển._ cái Dị dụ này không trái với Nhơn
Như lập
Tôn : Tiếng nói
thường còn
Nhơn : Vì vô
hình vậy
Đồng dụ : Như hư
không
Dị dụ: như điện
chớp (vô hình, không thường).
Lấy điện chớp làm Dị
dụ, thì chỉ trái với "Tôn thường còn", mà không trái với
"Nhơn vô hình",
nên bị lỗi.
3. Câu bất khiển._
cái Dị dụ không trái với Tôn và Nhơn. Lỗi này vì lấy Đồng dụ
làm Dị dụ.
Như lập
Tôn : Người phải
chết
Nhơn: Vì có sanh
vậy
Đồng dụ : Như cỏ
cây
Dị dụ: như loài
vật
Phàm Dị dụ là phải
trái với Tôn và Nhơn. Nay dùng cái Dị dụ này không trái với
Tôn và
Nhơn nên bị
lỗi.
4. Bất ly._
Dị dụ không có lời kết thúc để ly biệt Tôn và Nhơn
Như lập
Tôn : Tiếng nói
thường còn
Nhơn : Vì không
hình chất
Đồng dụ : Những
gì vô hình đều thường còn, như hư không
Dị dụ: như bàn
ghế
Về Dị dụ, đáng lẽ
cũng phải có lời phối hiệp kết thúc để ly biệt Tôn và Nhơn
như vậy:
"Phàm những gì vô
thường, thì đều có hình chất, như bàn ghế". Nay chỉ nói tắt
rằng:
"Như bàn ghế"
Làm cho người ta không hiểu: Như bàn ghế có bốn chân? Hay
như bàn ghế có mặt?
Phải lưu ý: Về Đồng
dụ, nếu thiếu lời phối hiệp để kết thúc, thì gọi là "Vô
hiệp"; còn bên Dị dụ, nếu thiếu lời phối hiệp để kết thúc,
thì gọi là "bất ly".
5. Đảo ly._
Lời kết thúc của Dị dụ, để ly biệt Tôn và Nhơn, lại phối
hiệp mốt cách trái ngược.
Như lập
Tôn : Tiếng
thường còn
Nhơn : Vì vô
chất ngại
Đồng dụ : Như hư
không
Dị dụ: những gì có
chất ngại (Nhơn) đều vô thường (tôn) như bình, bàn v.v...
Phàm lời phối hiệp
để kết thúc của Dị dụ là phải nói Tôn trước rồi Nhơn sau,
mới thuận.
Như nói: "Những
gì vô thường (Tôn) thì đều có chất ngại (Nhơn) như bình, bàn
v.v...
"Nay phối hiệp
ngược lại Nhơn trước Tôn sau, nên bị lỗi "Đảo ly".
Lưu ý:_
về Đồng dụ, khi kết thúc, phải nói Nhơn trước rồi nói Tôn
sau. Nếu trái lại thì bị lỗi
"Đảo hiệp". Về
Dị dụ, khi kết thúc, phải nói Tôn trước rồi nói Nhơn sau.
Nếu trái lại thì bị lỗi
"Đảo ly". 10 lỗi
về Tợ Dụ đã giải thích rồi.
▲ Trở Lên
|
PHỤ BÀI
HỌC ÔN
Quý vị nên xét kỹ
các lượng sau này: Tôn thuộc về lỗi gì? Nhơn thuộc về lỗi
gì? Và Dụ thuộc về lỗi gì?
Lượng thứ I
Tôn : Người ta phài
chết
Nhơn : Vì có sanh
vậy
Đồng dụ : Phàm có
chết phải có sanh, như chim
Dị dụ: Phàm không
sanh thì không chết, như hư không
Lượng thứ II
Tôn : Tiếng nói
thường còn
Nhơn : Vì vô hình
vậy
Đồng dụ : Như hư
không
Dị dụ: như vi trần
Lượng thứ III
Tôn : Tiếng nói
thường còn
Nhơn : Vì tai nghe
vậy
Đồng dụ : Như hư
không
Dị dụ: như điện
chớp
Lượng thứ IV
Tôn : Người ta phải
chết
Nhơn : Vì có sanh
vậy
Đồng dụ : Như cỏ
cây
Dị dụ: như loài vật.
Hoặc lập nhiều lượng khác
LỢI ÍCH HỌC NHƠN
MINH LUẬN
Trong các Kinh điển
Đại thừa, phần nhiếu Phật dạy các đệ tử phải biết Ngũ minh
(1. Nội minh, 2. Nhơn minh, v.v...) thời việc hoá đạo
mới được nhiều lợi ích. Trong Ngũ minh, Nhơn minh là một.
Nhờ biết Nhơn minh
nên lời nói ít lỗi, luận lý vững vàng, có thể thuyết phục
được các tà thuyết đem về chánh đạo.
Nhờ biết Nhơn minh,
mới học nổi được các bộ luận trong Phật giáo. Vì trong các
bộ luận ấy phần nhiều dùng nhơn minh để lập
Chánh lý và phá các tà thuyết.
Tóm lại, Nhơn minh
là một môn Luận lý học, vừa lợi ích cho mình và lợi ích cho
người.
Sa môn THÍCH THIỆN
HOA
Sửa lại và viết
xong mùa thu năm Mậu tuất (1958)
Chùa PHẬT QUANG
(Trà Ôn)
▲ Trở Lên
|
|
|