|
PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích
Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo HCM Ấn Hành PL 2541-1997
KHOÁ THỨ MƯỜI
HAI
KINH KIM CANG - DỊCH NGHĨA &
LƯỢC GIẢI
- KINH KIM CANG
Dịch Nghĩa & Lược Giải
LỜI TỰA
Phật nói
kinh Đại Bát Nhã, tại 4 chỗ, 16 hội, chép đến 600 quyển(1)
mới hết (Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm). Tóm tắt bộ kinh lớn
trên là "Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật", gọi tắt là "Kinh
Kim Cang". Kinh này rút lại trong một bài là "Ma Ha Bát Nhã
Ba La Mật Đa Tâm Kinh", gọi tắt là "Tâm kinh", gồm 260 chữ.
Rốt sau Phật dạy:" Ta không nói một chữ".
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, mở
đầu, mà cũng là trọng tâm của kinh này, bằng hai câu hỏi của
ông Tu Bồ Đề:
"Vân hà ưng trụ?"
"Vân hà hàng phục kỳ tâm?"
Nghĩa là:
"Làm sao hàng phục vọng tâm?" và
"Làm sao an trụ chơn tâm?"
Toàn bộ kinh Kim Cang Bát Nhã,
Phật chỉ giải đáp hai câu hỏi trên, tóm tắt lại chỉ trong
một câu:
"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm".
Nghĩa là: "Đừng sanh vọng tâm trụ chấp
một nơi nào". Đây là câu "tinh ba" của bộ kinh Kim Cang Bát
Nhã, mà ngày xưa đức Lục Tổ Huệ Năng nhờ đó đã được tỏ ngộ.
Phật dạy: "Đừng sanh vọng tâm trụ chấp
một nơi nào", tức là dạy: "Dùng trí huệ Kim Cang Bát Nhã,
phá trừ rốt ráo (Ba la mật) các vô minh vọng chấp: ngã, pháp
hay bốn tướng" (Ngã, Nhơn, Chúng sanh và Thọ giãi).
Khi các vô minh phiền não vọng chấp hết
rồi thì chơn tâm thanh tịnh hiện ra. Đó là từ bờ mê muội
triền phược của chúng sanh mà sang bờ giác ngộ giải thoát
của chư Phật, tức là: "đáo bỉ ngạn (đến bờ giác ngộ).
Phật dạy: "Đừng sanh vọng tâm trụ chấp
một nơi nào". Đó là phương pháp tu hành của Đại thừa đốn
giáo, để "hàng phục vọng tâm" mà cũng là "an trụ chơn tâm"
vậy.
Vì phạm vi của bài tựa này có hạn và
theo trình độ tầm thường của tôi, nên tôi chỉ trình bày sơ
sài được một vài đặc diểm của kinh này thôi. Ngoài ra, không
biết bao nhiêu nghĩa lý cao siêu mầu nhiệm còn bí ẩn trong
kinh này; dù tôi có suốt đời, cũng không thể dùng trí phàm
phu diễn tả hay lời nói phàm phu giải thích thấu đáo được ý
nghĩa của Thánh hiền!
Xin quí vị hãy cố gắng đọc kỹ và tinh
tấn tu hành để hiểu được nghĩa lý cao siêu của kinh này.
Tôi dịch kinh này đến ba năm mới xong.
Bắt đầu từ ngày 24 tháng 2 năm Qúi mão (19/3/1963) đến ngày
mùng 10 tháng 7 năm Ất Tî (6/8/1965). Vì kinh đã khó, mà
trong khi dịch lại găp nhiều duyên trở ngại: bị hai năm Pháp
nạn lận đận lao đao, quá lao tâm khổ trí; đến khi Phật giáo
thống nhất, lại Phật sự quá tràn ngập, rồi tiếp đến hai lần
tôi vào dưỡng đường, nên công việc phải chậm trễ.
Hôm nay, nhờ Tam bảo gia hộ, tôi đã
dịch và lược giải xong kinh Kim Cang và Bát Nhã Tâm kinh, là
bộ kinh thuộc khoá XII trong toàn bộ Phật học phổ thông, do
tôi chủ trương biên soạn. Thế là tôi đã đóng hoàn thành cây
thang giáo lý 12 nấc, mà tôi đã hoài bảo trên 25 năm nay(1).
Được mãn nguyện, tôi rất vui mừng và
thành tâm đốt nén hương lòng, cầu nguyện:
Mặt trời Phật sáng thêm
Xe chánh pháp chạy hoài
Trên đền đáp bốn ơn
Dưới cứu độ ba loài
Thế giới được hoà bình
Nhơn dân đều an lạc
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành đạo Phật.
Mùa Hạ Năm Ất Tị 1965
Sa Môn Thích Thiện Hoa
PHẬT HỌC PHỒ
THÔNG
Do Hoà Thượng
Thích Thiện Hoa biên soạn
THÀNH HỘI PHẬT GIÁO TP.
HỔ CHÍ MINH
ấn hành
Chịu trách nhiệm ấn
hành TT .THÍCH GIÁC TOÀN
Biên tập kỹ thuật TT. THÍCH THIỆN MINH
ĐĐ. THÍCH ĐỔNG BỒN
Sửa bàn in MINH THANH
Trình bày PHÁP TUỆ _ TÂM CAO
NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ
HỔ CHÍ MINH
Xuất bản
62 . Nguyễn Thị Minh Khai _ Quận I
Tel. 8225340 8296764 8222726 8296713 8293637
In lại theo bản in Phật lịch 2536 1992
|
BÀI THỨ
NHẤT
LƯỢC GIẢI
Đề mục kinh có tám chữ: "Kim Cang
Bát Nhã Ba la mật kinh"; gọi tắt là kinh Kim Cang"
KINH: Kinh điển hay giáo lý, do Phật hoặc Bồ Tát nói ra.
Chữ "Kinh" có nhiều nghĩa, nhưng tóm lại có ba nghĩa như sau:
1. Đường canh (nghĩa đen): Sợi chỉ xuôi trong tấm
vải. Nhờ sợi chỉ xuôi xâu kết các sợi chỉ ngang, để làm thành
một tấm vải. "Kinh" cũng có nghĩa là sự tổng hợp ghi chép lại
các lời nói của Phật hoặc thánh hiền.
2.Thường: Không thay đổi. Chơn lý của Phật không
thay đổi; dù Phật quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng đều nói chơn
lý như vậy.
3. Hợp (Khế): Kinh của Phật "hợp với chơn lý của
vũ trụ" và "hợp với căn cơ trình độ của chúng sanh". Cũng một bộ
kinh, mà tuỳ theo trình độ của mỗi người, kẻ hiểu cao, người
hiểu thấp. Tuy sự hiểu ngộ có cao thấp không đồng, mà cứ như lý
tu hành thì đều được khỏi khổ luân hồi, không sót một người nào.
Kinh Phật có những đặc điểm như thế, nên gọi là "Khế kinh"
KIM CANG: Chữ "Cang", người Nam đọc là "cang", người Bắc
đọc là "cương". Có hai nghĩa:
1. Ngọc Kim cương: Thuộc về loại khoáng vật rất quí giá.
Tánh nó rất cứng và rất bén, đã không bị các vật phá hoại, trái
lại còn phá hoại các vật.
2. Kim Cang: chất cứng rắn trong loại kim khí, tức là
"thép", cũng thuộc về loại khoáng vật. Tánh nó cũng rất cứng
bén, và cũng không bị các vật phá hoại, trái lại còn phá hoại
các vật, như khoan sắt, đục đá v.v...dao búa nhờ có thép mới
bén.
Chất "cứng rắn" của "ngọc Kim cương" hay của "thép", đã sẳn có
từ hồi nào đến giờ, không phải do rèn luyện mới có, hay nhờ các
vật bên ngoài tạo thành.
Phật dùng "ngọc kim cương" hay "chất thép cứng", để thí dụ "trí
huệ Bát Nhã" rất quí báu và sẳn có trong mọi người (tức là
tánh Phật sáng suốt của mỗi chúng sanh).
Trí huệ Bát Nhã, không phải do tu mới có, hay nhờ các duyên bên
ngoài luyện tập mới thành. Nó có sẳn trong mỗi chúng sanh từ vô
thỉ đến nay. Dù ở địa vị phàm phu nó cũng không giảm, hay chứng
quả Thánh nó cũng không thêm. Nó đã không bị các vô minh phiền
não tàn phá, trái lại còn phá tiêu tất cả vô minh phiền não từ
vô thỉ đến nay. Nó phá một cách rốt ráo và dễ dàng, như gió thổi
mây bay, mặt trời chiếu sương mù tan. Bởi thế nên gọi là "Bát
Nhã Ba La mật" Trí huệ rốt ráo.
BÁT NHÃ: Dịch âm của chữ Phạn "Prajnà". Vì Trung hoa
không có chữ dịch cho cân xứng nên chỉ dịch nguyên âm là "Bát
Nhã".
Bát Nhã có nhiều nghĩa sâu xa, nhưng tóm lại có sáu nghĩa:
1. Viễn ly: xa lìa các vô minh, phiền não vọng chấp;
2. Minh: Sáng, không mờ tối
3. Huệ: Sáng tỏ
4. Thanh tịnh: trong sạch không nhiễm ô
5. Trí: Thông suốt
6. Trí huệ: Sáng tỏ thông suốt
Bát Nhã có nhiều nghĩa như vậy, nếu lấy một nghĩa thì không được
đúng lắm, nên các nhà dịch chỉ để nguyên âm chữ Phạn (Bát
Nhã).
Tuy nhiên, trong 6 nghĩa trên đây, nếu đem so sánh và cân nhắc,
thì có thể dùng tạm nghĩa "trí huệ"; vì nghĩa "trí huệ" có phần
rõ ràng và xác đáng hơn hết.
Nhưng cần phải chọn lọc thật kỹ, bỏ ra các thứ Trí huệ sau đây,
mới đúng với nghĩa chữ "Bát Nhã":
1. Trí huệ thế gian: Trong thế gian, những người học rộng
thấy xa, thông minh lanh lợi, khôn khéo lịch duyệt, hay giỏi mọi
phương diện, thiên hạ gọi đó là người "trí huệ". Nhưng trí huệ
đó là trí huệ của thế tục phàm phu, chứ không phải là "trí huệ
Bát Nhã".
2. Trí huệ ngoại đạo: Chúng ngoại đạo tu thiền định
(xem bài "Thiền định" trong bản đồ tu Phật) lâu ngày cũng có
trí huệ, biết được quá khứ vị lai, thần thông biến hoá vô cùng,
nhiều pháp kỳ lạ. Nhưng trí huệ đó là tà trí huệ, chứ không phải
là "trí huệ Bát Nhã".
3. Trí huệ Nhị thừa: Hàng Thinh văn và Duyên giác, do tu
pháp Tứ đế và Thập Nhị Nhơn duyên mà đặng đạo quả. Các vị này đã
khỏi sanh tử luân hồi, thần thông tự tại và có trí huệ biết được
việc quá khứ, hiện tại và vị lai. Nhưng trí huệ đó thuộc về Tiểu
thừa trí huệ, chỉ thấy về "ngã không chơn như" (thiên không),
chớ chưa thấy được "pháp không chơn như", nên cũng không phải
trí huệ Bát Nhã.
Trừ ba loại trí huệ trên đây, duy chỉ có trí huệ Phật hay của
Đại thừa Bồ Tát, mới phải là trí huệ Bát Nhã.
Công dụng cũa trí huệ Bát Nhã, như mặt nhựt chiếu phá các mây mù
vô minh vọng chấp: ngã, pháp, bốn tướng (ngã, nhơn, chúng
sanh, thọ giả), có, không, chẳng phải có, chẳng phải không
v.v...Bởi thế nên Trí huệ Bát Nhã chiếu soi các pháp, thì pháp
nào cũng bỏ hình tướng giả dối, mà hiện ra tướng chơn thật.
Tướng chơn thật của các pháp đã hiện, tức là chơn tâm, chơn như
hay chơn lý của vũ trụ hiện ra vậy.
Trí huệ Bát Nhã, có công năng như chiếc thuyền đưa chúng sanh
một cách rốt ráo, từ bên này bờ mê muội triền phược của phàm
phu, đến bên kia bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật, nên cổ
nhơn cũng gọi là "thuyền Bát Nhã".
Muốn phân biệt trí huệ Bát Nhã khác với trí huệ của phàm phu,
ngoại đạo và Tiểu thừa, thì chúng ta nên dịch nghĩa chữ "Bát
Nhã" như sau:
1. Trí huệ Phật
2. Trí huệ rốt ráo (Bát Nhã
Ba La mật)
3. Trí huệ Bát Nhã (dùng cả
chữ Phạn và chữ hán)
BA LA MẬT: "ba la mật" hoặc "ba la mật đa" là dịch âm của
chữ Phạn "Paramita". Có hai nghĩa:
1. Đáo bỉ ngạn: Đến bờ bên kia. Trí huệ Bát Nhã có công
năng đưa chúng sanh từ bờ triền phược mê muội của phàm phu bên
này, mà qua đến bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật bên kia, nên
gọi là "Bát Nhã Ba la mật".
2. Cứu kính viên mãn: hoàn toàn rốt ráo. Theo tục ngữ ở
Ấn Độ, phàm làm việc gì, khi đã được hoàn toàn viên mãn, thì gọi
là "Ba la mật". Trí huệ Bát Nhã là loại trí huệ đã rốt ráo viên
mãn, nên gọi là "Bát Nhã Ba la mật".
Tóm lại, "Kim Cang Bát Nhã Ba la mật kinh" là kinh nói về "Trí
huệ Phật" (Bát Nhã), loại Trí huệ đã rốt ráo viên mãn
(ba la mật). Trí huệ này có công năng đưa hành giả từ bến mê
muội triền phược của chúng sanh, sang bờ giác ngộ giải thoát của
chư Phật (đáo bỉ ngạn).
Trí huệ Phật (Bát Nhã) rất quý báu (như ngọc kim cương),
vừa cứng rắn và sắc bén (như thép), có thể phá tiêu núi
vô minh vọng chấp (ngã, pháp hay bốn tướng) và đốn tận gốc rừng
phiền não nghiệp chướng, từ vô lượng kiếp đến nay, mà không bị
hư tổn; cũng như ngọc kim cương hay chất thép, có thể đục chẻ
các loại rất cứng, như sắt, đá v.v...mà không bị hư hoại.
Phật nói kinh "Đại Bát Nhã" tại 4 chỗ, 16 hội gồm 600 quyển,
trong 22 năm mới xong (nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm).
Tóm tắt lại kinh Đại Bát Nhã là "kinh Kim Cang Bát Nhã Ba la
mật".
NÓI VỀ DANH, TƯỚNG, THỂ, DỤNG VÀ TÔN CHỈ CỦA KINH NÀY:
Danh: Kinh này lấy "thí dụ" (Kim Cang) và "pháp"
(Bát Nhã Ba la mật) mà đặt tên.
Tướng: Kinh này lấy "Đại thừa" làm giáo tướng.
Thể: Kinh này lấy "Thật tướng" làm thể.
Dụng: Công dụng của kinh này là phá các chấp tướng
(Ngã, pháp) đoạn hết các vô minh mê hoặc.
Tôn chỉ: Kinh này lấy "Vô trụ" (không trụ chấp nơi
nào) làm tôn chỉ.
KẾT LUẬN
Mới đọc đến đề mục kinh, chúng ta đã thấy thích thú lắm rồi! Đề
mục kinh chỉ có tám chữ, mà đã nói lên được rõ ràng nội dung và
tôn chỉ của kinh: Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẳn có Trí huệ
Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã
(Phật tánh sáng suốt hay khả năng thành Phật) rất là quý
báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép. Trí huệ Bát
Nhã có sẳn từ vô thỉ đến nay, đã không bị cái gì làm hư hoại;
trái lại, còn phá tiêu núi Ngã tướng, Nhơn tướng, chúng sanh
tướng và Thọ giả tướng, hay núi Ngã chấp, pháp chấp; nói tổng
quát là phá các vô minh vọng chấp từ vô thỉ đến nay. Nó phá một
cách hoàn toàn rốt ráo (Ba la mật) và dễ dàng, như mặt
trời chiếu sương tan, gió thổi mây bay.
Trí huệ Bát Nhã có công năng như chiếc thuyền, đưa hành giả từ
bên này bến vô minh mê muôi của chúng sanh, vượt qua khỏi sông
mê bể khổ, đến bờ bên kia Giác ngộ giải thoát của chư Phật, tức
là "Đáo bỉ ngạn" (Ba la mật). Bởi thế nên Cổ nhơn gọi là
"Thuyền Bát Nhã".
Chúng ta đã sẳn có "Trí huệ Bát Nhã" hay "Trí huệ Phật", thì thế
nào chúng ta cũng sẽ thành Phật.
TÊN DỊCH GIẢ
Đức Phật Thích ca Mâu ni nói kinh này tại tịnh xá của ông Trưởng
giả Cấp Cô Độc trong vườn của Thái tử Kỳ Đà, ở nước Xá Vệ.
Ngài A-Nan kiết tập. Ngài Tam Tạng Pháp sư tên Cưu Ma La thập
dịch từ văn Phạn (Ấn Độ) qua văn Trung hoa.
TAM TẠNG PHÁP SƯ: Tam Tạng là ba kho tàng; vì có công
năng trùm chứa văn nghĩa của Phật pháp, nên gọi là "Tàng".
1. Kinh tạng: chép những lời Phật dạy hoặc những lời của
các vị Bồ Tát nói ra, khi đã được Phật chứng nhận.
2. Luật tạng: chép những giới và luật (kỹ luật)
trong 7 chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, sa di ni, Thức xoa
và Ưu bà tắc, Ưu bà di).
3. Luận tạng: chép những lời nghị luận chánh tà, phân
biệt chơn vọng của các vị Bồ Tát và chư Tổ.
Thầy giảng "kinh" thì gọi là "Pháp sư"
Thầy giảng "luật" thì gọi là "Luật sư"
Thầy giảng "luận" thì gọi là "Luận sư"
Ngài Cưu Ma La Thập, thông suốt cả ba tạng và giảng dạy cả Kinh,
Luật, Luận, nên gọi Ngài là "Tam Tạng Pháp sư" (vị Pháp sư
thông ba tạng).
CƯU MA LA THẬP (Kumàralabdha): Tên của một vị Pháp sư có
danh tiếng lỗi lạc ở Ấn Độ; bên Trung hoa dịch nghĩa là "Đồng
Thọ", nghĩa là vị Pháp sư, tuổi tác thì "đồng niên", mà tài đức
lại "kỳ lão" (thọ).
Kinh này có nhiều bản dịch, nhưng bản dịch của Ngài Cưu Ma La
Thập rất rõ ràng sáng suốt, nên được phổ biến nhiều hơn hết.
A. PHẦN TỰ
(PHẦN MỞ ĐẦU KINH BÁT
NHÃ)
Tôi nghe như vầy: Một hôm, tại nước Xá Vệ, Phật và 1250 vị
Đại Tỳ kheo, đều ở Tịnh xá Kỳ hoàn, trong vườn của ông Thái tử
Kỳ Đà và ông Trưởng giả Cấp Cô Độc.
Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng đều đắp y, mang bình
bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực.
Khất thực xong, Phật và chúng tăng đồng về Tịnh xá để thọ
trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rữa
chân, rồi trải toạ cụ, ngồi yên tịnh.
LƯỢC GIẢI
Đây là những cử chỉ bình thường và rất đơn giản; nhưng đã tạo
thành một bức tranh tuyệt diệu, nói lên được tinh thần "giải
thoát vô trụ", để mở màn cho Phật nói kinh Bát Nhã.
Chúng ta hãy định tâm, đọc kỹ lại một lần nữa, những câu sau
này, thì chúng ta sẽ thấy bộc lộ rõ ràng tinh thần Bát Nhã
(giải thoát vô trụ).
- "Sắp đến giờ ngọ trai, Phật
và chúng tăng
đều đắp y, mang bình bát vào thành
Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực.
Khất thực xong, Phât và chúng tăng
đồng về Tịnh xá để thọ trai. Sau khi
thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình
bát và rữa chân, rồi trải toạ cụ ngồi
yên tịnh."
Vì ngộ được tánh "Bát Nhã giải thoát", trùm khắp trên muôn vật,
nên Cổ nhơn có nói hai câu:
- Thanh thanh tuý trúc,
tổng thị Chơn như
Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã.
Dịch nghĩa:
- Mướt mướt tre xanh, biểu lộ
Chơn như.
Mởn mởn hoa vàng, trình bày Bát Nhã.
Ngài Thái hư pháp sư giảng:
"Phật nói kinh này để chỉ rõ trong mỗi chúng sanh đều sẳn đủ bản
thể Kim Cang Bát Nhã. Cái diệu dụng của Kim Cang Bát Nhã là làm
cho hành giả khi tu Lục độ vạn hạnh, mà không trụ chấp các
tướng.
Người ngộ được Kim Cang Bát Nhã rồi thì đối với các pháp và mọi
việc đều thông suốt vô ngại; những việc làm bình thường hằng
ngày đều là Phật pháp, tạm bình thường đó cũng là Phật pháp cho
đến đi, đứng, nằm, ngồi v.v... cũng đều là Phật pháp. Những việc
thần thông biến hoá đều là diệu dụng vô thượng của chư phật đã
đành, mà những nỗi mừng, vui, giận, ghét cũng là cái phương tiện
hay khéo của phật pháp.
Trái lại, nếu người chưa nhập được "Kim Cang Bát Nhã", dù có
được thần thông biến hoá di sơn đảo hải đi nữa, thì cũng là tà
thuật của yêu ma ngoại đạo, dù có thiền định muôm năm, cũng chỉ
hưởng phước quả hữu lậu của cõi nhơn, thiên mà thôi; một mai
nghiệp báo hết rồi, vẫn trở lại thọ khổ luân hồi trong lục đạo.
Quí vị nên chín chắn nghĩ xét!
Kinh Kim Cang Bát Nhã, trong mỗi người đều sẳn đủ và khắp cả
pháp giới. Nó không ở trong, không ở ngoài, không ở chính giữa
và cũng không rời trong ngoài và chính giữa; không thể nghĩ bàn
và cũng không trụ chấp được. Nếu người bền chí tu hành lâu dài,
thì sẽ có ngày tự nhiên đốn ngộ. Trái lại, nếu người hướng ngoại
tìm cầu, chấp rằng Phật có thần thông biến hoá v.v... phải có đủ
như thế, mới phải là Phật. Những người chấp như thế, không thể
phân biệt, giản trạch được thế nào là Phật pháp và thế nào là
ngoại đạo. Than ôi! nếu sai một hào ly, thì cách xa ngàn dặm!
Quí vị phải cẩn thận, rất cẩn thận!"
(KIM CANG GIẢNG LỤC)
GIẢI DANH TỪ
TÔI NGHE NHƯ VẦY: trong trí Độ Luận có chép: "Khi Đức Như
Lai sắp nhập Niết bàn ông Ưu Ba Ly nói với A- Nan rằng:_ Ông là
người giữ gìn "Pháp tạng" của Phật, ông phải bạch Phật những
điều cần yếu về sau.
Ông Ưu Ba Ly và A-Nan cùng nhau đến bạch Phật bốn điều:
1. Tất cả các kinh của Phật, mở
đầu nên đề chữ gì?
2. Phật nhập diệt rồi lấy ai
làm thầy?
3. Nương nơi đâu mà trụ?
4. Xá lợi và y bát của Phật,
phân như thế nào?
Phật dạy:
1. Mở đầu các kinh, hãy để "Như
thị ngã văn" (tôi nghe như vầy).
2. Ta nhập Niết bàn, các ông
phải lấy "giới luật" làm thầy.
3. Các ông phải trụ nơi pháp
"Tứ niệm xứ" (quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô
thường, quán pháp vô ngã).
4. Xá lợi của ta chia làm ba
phần (một phần thờ tại nhơn gian, một phần thờ trên các cõi
trời, một phần thờ dưới Long cung) còn y và bát truyền lại
cho ông Ma Ha Ca Diếp.
TỲ KHEO: Tỳ kheo là dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa có
ba:
1. Khất sĩ: Là kẻ đi xin: trên xin giáo pháp của Phật để
nuôi tâm, dưới xin vật thực để nuôi thân.
2. Phá ác: Phá trừ các việc tội ác.
3. Bố ma: Làm khủng bố các ma.
NGỌ TRAI: Phật độ cơm đúng giờ ngọ (12 giờ trưa) nên gọi
là "ngọ trai". Những thực phẩm cúng dường chư Tăng, trong giờ
ngọ, thì gọi là "Trai Tăng"
Y: Y phục của chư tăng, tức là áo Cà sa. Y phục của chư
Tăng bằng vải, có nhiều loại: Không điều (mạn y), năm điều, bảy
điều và chín điều v.v...
BÌNH BÁT: Đồ đựng thức ăn của chư tăng, làm bằng sành
v.v...lớn hay nhỏ tuỳ sức người dùng.
TOẠ CỤ: Tấm vải để lót vải ngồi của Phật hoặc chư Tăng.
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ
HAI
PHẦN CHÁNH TÔN
- 1.
Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật hai câu quan trọng
- 2.
Phật khen Ông Tu Bồ Đề và hứa sẽ khai thị
- 3.
Phật dạy Bồ Tát hoá độ chúng sanh không nên chấp tướng
- 4.
Phật dạy Bồ Tát bố thí không nên chấp tướng
- 5.
Bố thí không chấp tướng, phước nhiều như mười phương hư
không
- 6.
Phật dạy an trụ chơn tâm.
1. ÔNG TU BỔ ĐỀ
HỎI PHẬT HAI CÂU QUAN TRỌNG
Khi đó, ở trong đại chúng, ông
Trưởng lão Tu Bồ Đề đứng dậy, vén tay áo bên hữu, gối quỳ xuống,
chắp tay cung kính và bạch Phật rằng:
"Hy hữu thay Ðức Thế Tôn! Ngài thường nhớ nghĩ và bảo hộ các vị
Bồ Tát. Ngài rất hay khéo dạy bảo các vị Bồ Tát .
Bạch Thế Tôn! Nếu có người phát tâm Bồ Đề muốn cầu quả Phật,
thì:
Làm sao hàng phục vọng tâm ?
Và làm sao an trụ chơn tâm ?
LƯỢC GIẢI
Đoạn này, ông Trưởng lão Tu Bồ Đề hỏi Phật hai câu quan trọng,
để mở đầu, phật nói kinh Bát Nhã.
"Hàng phục vọng tâm" và "an trụ chơn tâm" là vấn đề khó nhất.
Nhưng nếu người phát tâm Bồ Đề, mà không "hàng phục được vọng
tâm" và "an trụ chơn tâm" thì không bao giờ chứng đặng quả Phật.
Vậy "làm sao hàng phục vọng tâm?"
Và "làm sao an trụ chơn tâm?"
Đó là điều quan trọng, mà ông Trưởng lão Tu Bồ Đề, đã đại diện
cho toàn thể đại chúng, đứng lên cung kính hỏi Phật.
Lãnh hội được diệu nghĩa của kinh này nên Ngài Xuyên Thiền sư có
làm bài tụng rằng:
Nguyên văn (dịch âm):
- Nễ hỷ ngã bất hỷ
Quân bi ngã bất bi
Nhạn tư phi hàn bắc
Yến ức cựu sào qui
Thu nguyệt xuân hoa vô hạn ý
Cá trung chỉ hứa tự gia tri
Dịch nghĩa
- Người vui ta chẳng vui
Người buồn ta chẳng buồn
Nhạn bay về biển Bắc
Yến nhớ ổ trời Nam
Xuân hoa thu nguyệt vô cùng ý
Lãnh hội thế nào tự mình thôi (biết)
ĐẠI Ý
Bài này diễn tả lý Bát Nhã vô trụ
Hai câu đầu nói về "vô trụ vô chấp". Ba câu sau tả canh vật
thiên nhiên, như nhạn bay về biển Bắc; chim yến nhớ tổ bay về
phương Nam, mùa xuân đến trăm hoa đua nở, mùa thu thì mặt trăng
sáng tỏ.
Bức tranh tuyệt diệu của vũ trụ bao la, vô cùng ý tứ, biểu lộ
"Bát Nhã chơn như". Tự người ngộ lấy.
2. PHẬT KHEN ÔNG
TU BỔ ĐỀ VÀ HỨA SẼ KHAI THỊ
Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Lời ông vừa hỏi thật là quí lắm! vậy ông
hãy chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy".
Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề! Nếu có người phát tâm Bồ Đề, muốn cầu
quả Phật, thì như lời ta dạy đây mà "hàng phục vọng tâm" và "an
trụ chơn tâm".
LƯỢC GIẢI
Nhờ ông Tu Bồ Đề thưa thỉnh, mà Phật nói kinh Bát Nhã, để chỉ
dạy cho chúng sanh tỏ ngộ: Tự mình có tánh "Bát Nhã" và phải tự
trở về với tánh "Bát Nhã" của mình; nên phật khen câu hỏi của
ông Tu Bồ Đề thật là quí lắm!
Nhưng ngộ nhập được lý "Bát Nhã", không phải người vọng tâm loạn
ý mà nhập được; phải người dọn mình sạch sẽ, thành tâm định ý,
mới lãnh hội được, nên Phật dạy: "Phải chăm chú nghe". Và Phật
hứa sẽ dạy phương pháp "hàng phục vọng tâm và an trụ chơn tâm"
như sau.
GIẢI DANH TỪ:
Tâm Bồ Đề: Bồ Đề là dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa là "Giác" tức
là giác ngộ. Tâm Bồ Đề là tâm giác ngộ, sáng suốt; nói dễ hiểu
hơn là "tâm Phật" (Phật cũng dịch là Giác)
Người phát tâm Phật để cầu quả Phật, tâm Bồ Đề là "Nhơn Phật"
quả Bồ Đề là "quả Phật".
Tu Bồ Đề: Tên của một vị đệ tử phật. Trung hoa dịch có 3 nghĩa:
1. Thiện hiện (khéo thị hiện), 2. Thiện kiết (điềm lành), 3.
Không sanh (ông ưa nhập "không định" và ngộ lý "chơn không"
thứ nhứt).
Ông Tu Bồ Đề, bên trong thì ẩn hạnh Bồ Tát, bên ngoài lại hiện
tướng Thinh văn; địa vị cao, phước đức lớn, nên gọi là "Trưởng
lão".
Thế Tôn: "Phật là một đấng mà tất cả chúng sanh trong thế gian
và xuất thế gian đều tôn kính.
3. PHẬT DẠY BỒ TÁT ĐỘ SANH
KHÔNG NÊN CHẤP TƯỚNG
Phật dạy: "Tu Bồ Đề! các ông phải y như lời ta dạy đây, mà hàng
phục vọng tâm của mình.
Tu Bồ Đề! Các vị Đại Bồ Tát phải độ tất cả các loại chúng sanh
(như loài sanh trứng, loài sanh con, loài sanh chỗ ẩm thấp, loài
hoá sanh, loài có sắc, loài có tưởng, loài chẳng phải không
tưởng v.v...) đều được nhập Niết bàn. Bồ Tát tuy độ vô lượng vô
số chúng sanh như vậy, nhưng không thấy có một chúng sanh nào
được độ. Tại sao vậy? Nếu Bồ Tát còn thấy có mình độ và chúng
sanh được độ, tức là Bồ Tát còn chấp bốn tướng (tướng ngã, tướng
nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ giả) thì không phải là Bồ
Tát".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dạy Bồ Tát độ sanh, phải dùng Trí huệ Bát Nhã, phá
các vọng chấp ngã, nhơn v.v...đó là phương pháp "hàng phục vọng
tâm".
Bồ Tát muốn biết mình còn phiền não vọng chấp hay không, để diệt
trừ, tất nhiên phải lao mình vào phiền não; nghĩa là phải nhập
thế độ sanh, làm các Phật sự.
Phật dạy Bồ Tát khi nhập thế độ sanh làm các Phật sự, luôn luôn
phải dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ các chấp ngã, chấp pháp, không
còn thấy bốn tướng (ngã nhơn v.v....)thì phiền não vọng
chấp không sanh. Đó là phương pháp "hàng phục vọng tâm".
Nếu Bồ Tát vừa khởi vọng chấp: "có mình độ và người được độ
v.v...", tức là Bồ Tát còn ngã, nhơn, bỉ, thử, thì vô số phiền
não đua nhau nổi lên như sóng. Cổ nhơn nói:
"Nhứt ba tài động, vạn ba tuỳ".
Nghĩa là: Một lượng sóng vừa nhô lên, thì trăm ngàn lượng sóng
liền theo đó mà nổi lên.
Nếu Bồ Tát còn vô minh phiền não vọng chấp nổi lên, thì không
phải là Bồ Tát; vì chưa nhập được Trí huệ Bát Nhã.
Kinh Tứ thập nhị chương chép:
"Giáo pháp của ta: "Niệm" mà không trụ chấp nơi niệm, mới thật
là "Niệm". "Làm" mà không trụ chấp nơi làm, mới thật là "làm".
"Nói" mà không trụ chấp nơi nói, mới thật là "nói". "Tu" mà
không trụ chấp nơi tu, mới thật là "tu". "Chứng" mà không trụ
chấp nơi chứng, mới thật là "chứng".
Đó là tôn chỉ "vô trụ tướng" của kinh Bát Nhã.
GIẢI DANH TỪ:
Tất cả chúng sanh chia làm 9 loại:
1. Loài sanh trứng (noãn
sanh): như gà, vịt, chim, cò v.v...
2. Loài sanh con (thai
sanh): như người, trâu, bò v.v...
3. Loài sanh nơi ẩm thấp
(thấp sanh): như vi trùng, con oăn v.v...
4. Loài hoá sanh (hoá sanh):
như cỏ mục hoá sanh đơm đớm v.v...
5. Loài có hình sắc (hữu
sắc):như chúng sanh ở cõi Dục và cõi Sắc.
6. Loài không hình sắc (vô
sắc): như chúng sanh ở cõi Vô sắc v.v...
7. Loài có tâm tưởng (hữu
tưởng): như chúng sanh ở cõi trời hữu tưởng v.v...
8. Loài không tâm tưởng (vô
tưởng): như chúng sanh ở cõi vô tưởng. Chúng sanh ở cõi Dục,
tu định vô tưởng, được sanh về cõi trời Vô tưởng, hưởng thọ 500
kiếp, rồi vẫn trở lại trong vòng sanh tử luân hồi.
9.Loài chẳng phải có tưởng và
chẳng phải không tưởng (phi hữu tưởng, phi vô tưởng): như chúng
sanh ở cõi trời phi phi tưởng xứ, trong cõi Vô sắc. Chúng sanh ở
cõi này, đồng với hư không, không có thân thể và thế giới. Họ
chỉ có định không có huệ, thọ đến tám vạn kiếp, rồi trở lại đoạ
về chỗ không vong.
BỐN TƯỚNG: Mỗi chúng sanh đều có bốn tướng: Như đối với người
khác tự xưng "tôi" hay "ta", là "ngã tướng"; Ta có nhơn cách là
"nhơn tướng"; Ta thuộc loài hữu tình, sanh vật là "chúng sanh
tướng"; Ta có thân mạng, sống trong một thời gian là "thọ giả
tướng".
Tóm lại, phàm chấp một tướng, tất nhiên chấp đủ bốn tướng:
_ Ngã tướng: chấp có "ta"
_ Nhơn tướng: chấp có "loài người".
_ Chúng sanh tướng: chấp có chúng sanh.
_ Thọ giả tướng: chấp có mạng sống trong một thời gian
NIẾT BÀN: Dịch âm của tiếng Phạn "Nirvana", dịch nghĩa là viên
tịch: Viên mãn vắng lặng. Niết bàn có bốn loại:
1. Tánh tịnh Niết bàn.
2. Vô trụ xứ Niết bàn.
3. Hữu dư Niết bàn.
4. Vô dư Niết bàn.
(Xem đoạn Diệt đế trong quyển Tứ diệu đế).
4. PHẬT DẠY BỔ TÁT BỐ THÍ
KHÔNG NÊN CHẤP TƯỚNG
Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Bồ Tát khi tu pháp Bố thí, không nên trụ
chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần là:
sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp. Tại sao vậy? Nếu Bồ Tát bố
thí mà không chấp tướng bố thí, thì phước đức nhiều lắm, không
thể nghĩ bàn".
LƯỢC GIẢI
Đoạn trên (đoạn 3), Phật dạy Bồ Tát khi độ sanh, phải
dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ "ngã chấp", tức là không chấp
bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả.
Đoạn này, Phật dạy Bồ Tát khi bố thí, cũng phải dùng Trí huệ Bát
Nhã, phá trừ "pháp chấp"; nghĩa là không chấp tướng sáu trần:
sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp. Đó là phương pháp "hàng phục
vọng tâm".
Bồ Tát làm Phật sự, như hoá độ chúng sanh hay bố thí v.v...mà
tâm còn chấp ngã chấp pháp, tất nhiên tâm còn phiền não nhiễm ô
mà làm các phật sự (phước thiện), thì các Phật sự đó cũng
biến thành nhiễm ô; cũng như đem đồ nhơ bẩn mà đựng vật tinh
khiết, thì vật tinh khiết trở thành nhơ bẩn, nên hành giả chỉ
hưởng phước hữu lậu nhiễm ô; nghĩa là phước báu nhơn thiên ở thế
gian, hưởng có thời hạn; như hư không bị cuộc hạn trong ly nhỏ.
Trái lại, khi làm các Phật sự, như bố thí v.v...nếu Bồ Tát dùng
Trí huệ Bát Nhã, phá trừ chấp ngã, chấp pháp; nghĩa là không
chấp mình là người bố thí, ban ơn (chấp ngã), kia là kẻ
thọ thí, chịu ơn (chấp nhơn), đây là vật bố thí (chấp
pháp), thí các phiền não nhiễm ô không sanh, tâm được thanh
tịnh. Tâm thanh tịnh tức là tâm Phật hay tâm chơn như, rộng rãi
bao la, như mười phương hư không. Nếu đem tâm thanh tịnh mà bố
thí, thì hành giả được phước vô lậu thanh tịnh, rộng lớn như hư
không, không cùng tận. Cũng như một giọt nước tuy nhỏ (bố thí
ít), nhưng được hoà vào biển cả (tâm tinh) thì cũng
được biến khắp cả biển, rộng rãi bao la.
Bởi thế nên Phật dạy: Bồ Tát khi bố thí phải "tam luân không
tịch", nghĩa là không thấy (chấp) có mình ban ơn, kẻ chịu
ơn và vật bố thí. Như thế mới gọi là "Bố thí Ba la mật" (Bố
thí rốt ráo).
5. BỐ THÍ KHÔNG CHẤP TƯỚNG
PHƯỚC NHIỀU NHƯ MƯỜI PHƯƠNG HƯ KHÔNG
Phật hỏi: "Tu Bồ Đề! Hư không ở phương Đông có thể nghĩ bàn được
không?". Tu Bồ Đề thưa: "bạch Thế Tôn! không thể nghĩ bàn được".
Phật hỏi tiếp: "Hư không phương Tây, phương Nam, phương Bắc,
phương trên, phương dưới và bốn gốc, có thể nghĩ bàn được
không?" Tu Bồ Đề thưa: "Bạch thế tôn! không thể nghĩ bàn được".
"Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Bồ Tát bố thí, không trụ chấp các tướng,
đặng phước đức cũng như mười phương hư không, nghĩa là nhiều lắm
không thể nghĩ bàn".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này tiếp theo đoạn trên (đoạn 4), Phật dùng mười
phương hư không, để thí dụ phước đức của người bố thí không chấp
tướng.
Phật dạy, Bồ Tát không chấp tướng bố thí, hay nói cách khác là
đúng như Trí huệ Bát Nhã mà làm việc bố thí, thì được phước đức
vô lậu thanh tịnh và nhiều như mười phương hư không, không có
cùng tận.
_Thế nào là phước hữu lậu nhiễm ô, có cùng tận? Và thế nào là
phước vô lậu thanh tịnh, không cùng tận?
Chúng tôi xin dẫn một thí dụ làm điển hình, để giải thích vấn đề
này:
Có hai gia đình nghèo khó, đồng gặp một hoàn cảnh như nhau,
trong nhà đều có tai nạn. Cả hai đều đến hai nhà khá giả để mượn
triền. Một nhà khá giả có tâm tham, thủ lợi, nên khi đưa của ra
đòi có lời. Nhà khá giả thứ hai có tâm từ bi, thương người nghèo
khổ lại gặp tai nạn, nên cho mượn không, chẳng nghĩ đến việc cảm
ơn hay tiền lời.
Đúng kỳ hẹn, cà hai gia đình tai nạn đều đem số tiền trả cho hai
người khá giả. Người khá giả tham lợi, nhận thêm số tiền lời chi
tiêu ít ngày hết. Thế là hai bên không còn ơn ích gì nhau nữa
cả. Người khá giả thứ hai, vì tâm nhơn từ giúp người không cầu
danh lợi, nên được người khốn khó kia nhớ ơn và thương kính mãi
mãi.
Đến khi nước nhà bị giặc giã, cả hai nhà khá giả đều tản cư. Gia
đình người tham lợi, tìm người giúp đỡ không ra; đến cậy anh vay
tiền lúc trước cũng không được. Đây là dụ cho phước hữu lậu
nhiễm ô (đem tâm tham làm phước) có cùng tận.
Trái lại, gia đìng người nhơn từ, được người nghèo khó thọ ơn
trước kia, tình nguyện hy sinh giúp đỡ mãi mãi không tính tiền
công. Đây là dụ cho phước vô lậu thanh tịnh (đem tâm từ bi
làm phước) không cùng tận.
Tóm lại, nếu hành giả đem tâm phiền não nhiễm ô (tham, sân,
si v.v...) mà làm các Phật sự, thì chỉ hưởng phước ô trược
hữu lậu của nhơn thiên, có cùng tận.
Trái lại, nếu hành giả đem tâm thanh tịnh (từ bi, Trí huệ,
không cầu danh lợi v.v...) mà làm các Phật sự, thì hưởng
phước vô lậu thanh tịnh của Phật, không cùng tận.
6. PHẬT DẠY AN TRỤ CHƠN TÂM
Tóm lại, Phật dạy: "Tu Bồ Đề! các vị Bồ Tát phải y như lời ta
dạy đó mà an trụ chơn tâm".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật tóm kết lại hai đoạn trên, để trả lời câu hỏi của
ông Tu Bồ Đề: "Làm sao an tru chơn tâm".
Phật dạy: "Các vị Bồ Tát độ vô lượng vô biên chúng sanh đều được
nhập Niết bàn, nhưng không thấy có một chúng sanh nào được độ";
và "Bồ Tát tu pháp bố thí, không nên trụ chấp các tướng như sắc,
thinh, hương, vị, xúc và pháp", nghĩa là Bồ Tát không chấp ngã
(khi độ sanh) không chấp pháp (khi bố thí); đó là
phương pháp "hàng phục vọng tâm" mà cũng là "an trụ chơn tâm".
Nếu Bồ Tát độ sanh và làm các Phật sự, mà còn khởi vọng tâm,
chấp nơi các tướng (ngã, nhơn v.v...) thì các phiền não
tham, sân, si đua nhau nổi lên. Nếu tham, sân, si đã nổi thì sao
không khởi tạo nghiệp sanh tử luân hồi.
Trái lại, nếu Bồ Tát độ sanh hay làm các Phật sự, mà không khởi
vọng tâm, chấp các tướng ngã, pháp v.v...thì các phiền não không
sanh. Phiền não không sanh, thì không tạo nghiệp. Nghiệp không
tạo thì không còn sanh tử luân hồi.
Tóm lại, Phật dạy: "Đừng trụ chấp một nơi nào". Đó là phương
pháp "hàng phục vọng tâm" và "an tru chơn tâm" của hàng Đại thừa
Bồ Tát.
Ngài Long Tế Hoà thượng ngộ được lý "vô trụ" của kinh Bát Nhã,
nên có làm bài tụng rằng:
Nguyên văn (dịch âm)
- Tâm cảnh đốn tiêu dung
Phương minh sắc dữ không
Dục thức bổn lai thể
Thanh sơn bạch vân trung
Dịch nghĩa
- Không còn chấp tâm và cảnh
Mới ngộ được lý sắc, không
Muốn biết bổn lai bản thể
Kìa, mây trắng với non xanh.
ĐẠI Ý
Muốn ngộ được lý "sắc tức thị không, không tức thị sắc", thì
phải trừ các vọng chấp ngã (tâm) và pháp (cảnh).
Muốn biết bản thể Bát Nhã chơn không, xưa nay như thế nào, thì
cứ xem "Kìa, mây trắng với non xanh"
▲ Trở Lên
|
BÀI THỨ
BA
B. PHẦN CHÁNH TÔN
(Tiếp theo)
07. Không nên chấp:
"Thấy thân tướng của Phật là thấy được Phật".
08. Người tin được kinh này, là do đã trồng căn lành từ nhiều
kiếp.
09. Người thọ trì kinh náy được công đức vô lượng
10. Giáo pháp của Phật cũng như chiếc thuyền đưa người qua bể
khổ
11. Phật phá cái chấp "Như Lai có thành Phật và thuyết pháp".
12. Phật pháp không có sai khác, do trình độ của chúng sanh mà
thấy có sai khác
7. KHÔNG NÊN CHẤP:"THẤY
ĐƯỢC THÂN CỦA PHẬT LÀ THẤY ĐƯỢC PHẬT"
Phật hỏi: "Tu Bồ Đề! Ông có thể
cho thấy cái thân tướng của ta đây là thấy được Như Lai chăng?".
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch thế Tôn! không thể cho thấy cái thân tướng
của Ngài đó là thấy Như Lai. Tại sao vậy?_ Vì Như Lai nói: "Cái
thân tướng này, không phải thật là thân tướng của Như Lai".
Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề! Phàm cái gì có hình tướng đều là hư
vọng. Nếu ông thấy các pháp (tướng) đều hư vọng, không thật (phi
tướng) tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp).
LƯỢC GIẢI
Đoạn này, Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp: "Thấy sắc
thân của Phật là thấy được Phật". Đây là lần thứ nhứt, nói về
việc thấy Phật.
Trên đường tu hành, phải có đủ cả Sự và Lý. Nhờ Sự tướng bên
ngoài, mới ngộ được lý tánh bên trong; có ngộ Lý tánh bên trong,
mới thấy rõ được Sự tướng bên ngoài.
Người chấp Lý mà bỏ Sự, cũng như người chỉ kể suông đủ các thức
ăn cao lương mỹ vị, nhưng bụng vẫn đói. Người mê Sự mà bỏ Lý,
cũng như trẻ con mê bánh vẽ.
Nhờ có tượng cốt giả, kinh giấy, tăng phàm v.v...là sự tướng bên
ngoài, để giúp chúng ta nhớ lại tìm cầu Phật thiệt, Pháp thiệt
và Tăng thiệt trong tự tâm của chúng ta.
Nếu bác bỏ Sự tướng bên ngoài là hư giả (không thờ Phật, tụng
kinh v.v...) mà chỉ chấp suông về phần Lý tánh bên trong
(Phật tức tâm), thì Đức Phật nơi tâm ta cũng không làm sao biểu
lộ ra được.
Chư Tổ dạy:
- "Thật tế lý địa, bất thọ
nhứt trần
Phật sự muôn trùng, bất xả nhứt pháp".
Nghĩa là: Về Phật tâm thanh tịnh, thì không có một nảy trần.
Nhưng về phần Sự tướng tu hành, thì không thể bỏ qua một pháp
nào.
Trái lại, nếu chấp về Sự tướng (cầu Phật bên ngoài) mà
không tìm Phật thiệt nơi tự tâm của mình, thì cũng không bao giờ
thấy được Phật. Bởi thế nên phật dạy:
"Nếu người chấp: "thấy sắc thân của ta cho là thấy được Phật,
nghe tiếng nói Pháp của ta cho là nghe được tiếng Phật", thì
người đó đã đi lạc về đường tà, không bao giờ thấy được Phật".
(KINH KIM CANG)
Ngày xưa có hai vị Tỳ kheo, từ phương xa đến chiêm bái Phật. Đi
đường xa hết nước, bị khát lâu ngày, vừa gặp ao nước có sinh
trùng, một vị giữ giới không uống nên chết giữa đường; một vị
uống nước được sống, đi đến ra mắt Phật.
Phật quở rằng: "Ông Tỳ kheo giữ giới kia tuy chết, nhưng ông vẫn
sống và đã thấy ta rồi. Còn ông không giữ giới tuy sống, ở sát
bên ta, nhưng thật ra ông đã chết và cách ta ngàn dặm".
Tại sao, vị Tỳ kheo giữ giới bị chết giữa đường không thấy Phật,
mà Phật lại cho "đã thấy được ta rồi"; trái lại, vị Tỳ kheo
không giữ giới còn sống ở bên Phật thấy được Phật, mà Phật lại
cho là "cách Phật ngàn dặm?".
Cho biết, thấy cái sắc thân có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp bên
ngoài của Phật, chưa phải là thấy được Phật; phải thấy "Phật tâm
thanh tịnh" hay "pháp thân Phật" mới thật là thấy Phật.
Song le, đa số chúng sanh, chỉ rong ruổi chạy theo giả tướng,
tìm Phật bên ngoài, mà không biết xoay trở lại tìm Ðức Phật
thiệt trong tâm của mình. Bởi thế nên cổ nhơn quở: "Phật trong
nhà không thờ, mà thờ Ðức Phật Thích Ca ngoài đường" là vậy.
Vì phá cái mê lầm này, nên Tổ Đơn Hà đốt một vị Phật gỗ (Phật
giả). Có người hỏi ngài: "đốt để làm gì?"._ Ngài trả lời:
"đốt để tìm xá lợi" (tìm Phật thiệt). Ông chủ chùa thấy vậy sợ
khủng khiếp, nên rụng hết râu mày; vì huỷ kinh đốt Phật là tội
rất nặng.
Vì sự kiện này, nên cổ nhơn có lám bài kệ:
Nguyên văn (dịch âm):
- Đơn Hà thiêu mộc Phật
Viện chủ lạc tu mi
Nhứt trường kỳ đặc sự
Thiên hạ thiểu nhơn tri
Dịch nghĩa:
- Tổ Đơn Hà đốt Phật gỗ
Ngài viện chủ rụng râu mày
Một trường hợp rất đặc biệt
Trong thiên hạ ít người biết.
Trọng tâm trong đoạn văn này là hai chữ "thấy Phật". Phật hỏi:
"Ông có thể cho thấy cái thân tướng của ta đây là thấy được Như
Lai chăng?"_ Ngài Tu Bồ Đề đáp: "Không thể cho thấy cái thân
tướng của Phật là thấy Phật".
Phật dạy tiếp: "Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng",
(phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng). Sắc thân của Phật do
tứ đại giả hợp, có hình tướng nên cũng là hư vọng. Bởi thế nên
thấy sắc thân của Phật, chưa phải là thấy được Phật.
Vậy thì thấy cái gì mới thấy được Phật?
Phật dạy tiếp: "Nếu ông thấy các pháp (tướng) đều là hư
vọng, tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp).
Ngài thái Hư Pháp sư giảng:
Đoạn này không những nói sắc thân của Phật là hư vọng, mà tất cả
các hình tướng, như thế giới chúng sanh v.v...cũng đều hư vọng,
như hoa trong gương, như trăng duới nước, không có chơn thật.
Nếu người rõ thấu được các tướng đều hư vọng như vậy, tức là đã
thấy được "pháp thân của Như Lai", tức là rõ thấu được "tướng
chân thật của các pháp", cũng tức là "Trí huệ vô thượng", và
cũng tức là "Kim Cang Bát Nhã diệu tâm".
(KIM CANG GIẢNG LỤC)
Tóm lại, đoạn kinh nầy, Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã, phá
trừ vọng chấp: "Thấy sắc thân có 32 tướng tốt, và 80 vẻ đẹp bên
ngoài của Phật, rồi chấp là thấy được Phật", mà quên xoay trở
lại, tự tìm cầu Đức Phật thiệt trong tự tâm của minh.
8. NGƯỜI TIN ĐƯỢC KINH NÀY,
DO ĐÃ TRỔNG CĂN LÀNH TỪ NHIỀU KIẾP
Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn! chúng sanh nghe đến kinh
này, chẳng biết có tin được không?".
Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông chớ nên lo như vậy. Không những hiện
tại mà cả vị lai đều có người nghe và tin được kinh này. Sau 500
năm, khi Như Lai nhập diệt, nếu có người xuất gia (trì giới)
hoặc tại gia (tu phước) nghe đến kinh này, mà sanh lòng tin thọ,
thì biết người này đã trồng căn lành (đã tu), không phải mới bốn
năm đời Phật, mà đã nhiều kiếp tu hành, từ vô lượng vô số chư
Phật đến nay
LƯỢC GIẢI
Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Không biết chúng sanh nghe đến kinh này,
có tin được không?". Đây là lần thứ nhứt hỏi về việc tín thọ.
Phật vì những hàng Đại thừa Bồ Tát, nói kinh Kim Cang Bát Nhã,
dạy các vị Bồ Tát, dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ các vô minh
vọng chấp ngã, pháp, để trở về với bản tâm thanh tịnh là tánh
Bát Nhã chơn không, vô trụ vô tướng.
Ông Tu Bồ Đề lo ngại cho chúng sanh căn cơ thấp kém, sợ e không
hiểu và không tin, nên ông hỏi Phật: "Không biết chúng sanh nghe
đến kinh này, có tin được không?".
Đại ý, Phật dạy: không những hiện tại ở đời Chánh pháp, có chúng
sanh hiểu và tin được kinh này, mà vị lai, sau khi Phật nhập
diệt 500 năm, trong đời Tượng pháp hoặc Mạt pháp, cũng có chúng
sanh hiểu và tin được kinh này. Nhưng, những chúng sanh đời
Tượng pháp hoặc Mạt pháp tin được kinh này, là do họ đã nhiều
kiếp có tu hành, trồng căn lành từ vô lượng Ðức Phật về trước
(như Ngài Huệ Năng chỉ nghe một câu "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm" trong kinh này mà được tỏ ngộ), chứ không phải mới tu
từ bốn năm đời Đức Phật trở lại đây.
9. NGƯỜI THỌ TRÌ KINH NẦY
CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG
Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề! Như Lai thấy rõ ràng và biết chắc
chắn: Nếu có chúng sanh nào nghe đến kinh này, sanh tâm tin thọ,
cho đến trong thời gian rất ngắn, chỉ nhứt niệm, thì chúng sanh
đó sẽ được phước đức vô lượng vô biên.
Tại sao vậy"_ Vì chúng sanh này không còn chấp tướng ngã tướng
nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tướng phải pháp và tướng
không phải pháp".
LƯỢC GIẢI
Phật khuyên người tin và thật hành theo kinh này, sẽ được công
đức vô lượng. Đây là lần khuyên thứ nhứt.
Người có cái khiếu về âm nhạc, mới nhận được cái hay và ưa thích
về âm nhạc. Người có cái khiếu về hội hoạ mới thấy được cái đẹp
và ưa thích về hội hoạ. Người có cái khiếu về văn chương mới
thấy cái hay và ưa thích về văn chương.
Cũng thế, người có cái khiếu về Bát Nhã, hay nói theo danh từ
Duy thức là "hạt giống Bát Nhã", mới hiểu và tin được kinh Bát
Nhã.
Người đã có hạt giống Bát Nhã, tất nhiên không còn chấp các
tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, tướng phải pháp (Phật
pháp) và tướng không phải pháp (tà pháp). Người này
đuợc nghe thêm kinh Bát Nhã làm cho hạt giống Bát Nhã của mình
được sanh trưởng, sẽ mau đặng quả Bồ Đề. Bởi thế nên phật dạy:
"ta thấy rõ ràng và biết chắc chắn: chúng sanh nào nghe hiểu và
tin được kinh này, thì sẽ được phước đức vô lượng vô biên".
10. GIÁO PHÁP CỦA PHẬT CŨNG
NHƯ CHIẾC THUYỀN ĐƯA NGƯỜI QUA BỂ KHỒ
Phật dạy: "Nếu các ông còn chấp các tướng, hoặc chấp "tướng
chánh pháp" hay chấp "tướng phi chánh pháp" thì cũng đều bị dính
mắc nơi bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Bởi thế nên
không được chấp "tướng chánh pháp" hay chấp "tướng phi chánh
pháp".
Cũng vì lẽ đó, nên Như Lai thường dạy: "Các thầy Tỳ kheo phải
biết: giáo pháp của ta cũng như chiếc đò, đưa người qua sông;
các ông không nên trụ chấp nơi giáo pháp.
"Chánh pháp" còn không nên trụ chấp huống chi là "phi pháp".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ cái chấp "chánh
pháp" và chấp "phi chánh pháp".
Phật dạy hành giả, không nên chấp một tướng gì cả; dù là "chánh
pháp" (hay Phật pháp) cũng không được chấp. Nếu còn trụ chấp,
bất luận một tướng gì, thì cũng đếu bị mắc vào bốn tướng: ngã,
nhơn, chúng sanh và thọ giả, hay nói gọn hơn là mắc vào tướng
ngã, pháp. Nếu còn chấp ngã, pháp thì phiền não vọng chấp đua
nhau sanh khởi. Phiền não vọng chấp sanh khởi, thì hành giả
không thể hàng phục được vọng tâm và an trụ chơn tâm.
Bởi thế nên Phật dạy: "Giáo pháp của Phật cũng như chiếc đò đưa
người qua sông". Khi đến bờ rồi hành giả phải bỏ chiếc đò, mà
lên bờ. Trái lại, nếu hành giả cứ khư khư chấp giữ chiếc đò, thì
không bao giờ lên bờ được. Người tu hành cũng thế, phải bỏ cái
"chấp", mới lên bờ giải thoát được.
Trong kinh Viên giác chép:"Tất cả kinh giáo của Phật, cũng như
ngón tay để chỉ mặt trăng. Người xem, phải nương ngón tay mới
thấy được mặt trăng. Nhưng nếu chấp ngón tay (chỉ xem ngón
tay) thì không bao giờ thấy được mặt trăng".
Tóm lại, Phật dạy: "chánh pháp" (Phật pháp) còn không nên chấp,
huống chi là "phi pháp".
Ngài Xuyên Thiền sư ngộ được lý vô trước của kinh Bát Nhã, nên
làm bài kệ rằng:
Nguyên văn (dịch âm):
- Đắc thọ phàn chi mạt túc kỳ
Huyền nhai tán thủ trượng phu nhi
Thuỷ hàn dạ lãnh ngư nan mích
Lưu đắc không thuyền tải nguyệt qui.
Dịch nghĩa:
- Níu nhánh chuyền cây chẳng
phải tài
Dốc đứng buông tay mới trượng phu
Gió lạnh đêm khuya câu chẳng có
Thuyền không chỉ chở bóng trăng thanh.
ĐẠI Ý
Câu thứ nhứt, nói về tiệm tu, phải lần hồi, còn chấp trụ nơi
danh tướng; cũng như người đi mà níu nhánh vịn cây, thì không có
gì hay cả.
Câu thứ hai, nói về đốn tu, không trụ chấp các tướng; cũng như
người đi lên dốc ngược, mà không níu vịn đâu hết, mới là bực đại
tài.
Câu thứ ba, nói về tâm cảnh đều vắng lặng, cũng như canh khuya
thanh vắng, bầu trời yên lặng, mặt nước phẳng lặng như tờ, cá
chim cũng đều lặng nghỉ, không hoạt động.
Câu thứ tư, nói về khi các vọng chấp các tướng ngã, pháp đã hết,
thì chỉ còn ánh Trí huệ Bát Nhã chơn không; cũng như chiếc
thuyền không (không chấp) chỉ chở bóng trăng thanh
(Trí huệ Bát Nhã).
11. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ
LAI CÓ THÀNH PHẬT VÀ THUYẾT PHÁP"
Phật hỏi ông Tu Bồ Đề:"Như Lai có thành Phật không? Và Như Lai
có thuyết pháp không?".
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! Như Lai không thành Phật và Như
Lai cũng không thuyết pháp. Tại sao vậy? Vì pháp của Như Lai,
không thể chấp thủ, nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm,
không phải chánh pháp, mà cũng không phải phi pháp.
Như thế thì làm sao, có cái gì quyết định là "thành Phật", và có
cái gì quyết định là "nói pháp".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "Như Lai
thật có thành Phật, và thật có nói pháp".
Trong Duy thức Tam thập tụng có chép:
- Hiện tiền lập thiểu vật
Vị thị Duy thức tánh
Dĩ hữu sở đắc cố
Phi thật trụ Duy thức
Nghĩa là: nếu hành giả hiện tiền còn phần nào chấp mình có chứng
Duy thức tánh, thì chưa phải thật chứng Duy thức tánh, vì còn
vọng chấp có "sở đắc" vậy.
Nếu Như Lai có thành Phật, tất nhiên phải có chúng sanh chưa
thành Phật, thế thì bốn tướng: ngã, nhơn v.v....đua nhau sanh
khởi. Nếu còn ngã, nhơn v.v...thì không phải là Phật.
Nếu Như Lai có nói pháp, tất nhiên phải có chúng sanh nghe pháp.
Nếu còn có kẻ nói người nghe, tức nhiên còn nhơn, ngã, bỉ, thứ.
Nếu còn ngã, nhơn thì không phải là thuyết Phật pháp. Bởi thế,
nên Phật thuyết pháp 49 năm, mà rốt cuộc Phật nói:"Ta không nói
một chữ".
Đức Lão Tử nói: Cái "đạo" mà có thể nói được, thì không phải
thật là đạo. Cái "tên mà có thể kêu gọi được, thì không phải
thật là "tên" (Đạo khả đạo, phi thường đạo giả, danh khả
danh, phi thường danh).
Kinh chép: "Một hôm, ông Tu Bồ Đề ngồi yên lặng dưới gốc cây.
Trời Đế Thích đến rưới hoa cúng dường. Ông Tu Bồ Đề hỏi: "Ai rãi
hoa và rãi hoa để làm gì?". Trời Đế Thích thưa: "Ngài nói
kinh Bát Nhã hay quá! Con đến rãi hoa cúng dường". Ông Tu Bồ Đề
nói: "Ta không nói kinh Bát Nhã". Trời Đế Thích thưa:"Ngài không
nói, con không nghe".
Kết luận:"Không nói Bát Nhã và không nghe Bát Nhã", như thế mới
thật là "nói Bát Nhã và nghe Bát Nhã".
Ông Tu Bồ Đề đã hiểu: "Phật pháp" không thể nghĩ bàn, không thể
chấp thủ, chẳng phải "có", chẳng phải "không", không phải "chánh
pháp" và cũng không phải "phi chánh pháp"; nên bạch Phật
rằng:"Như Lai không thành Phật và Như Lai cũng không thuyết
pháp".
Tóm lại, phải rời các vọng chấp, không còn dụng tâm suy nghĩ và
lời nói luận bàn, mới thật là "thành Phật" và "thuyết pháp".
12. PHẬT PHÁP KHÔNG CÓ SAI
KHÁC, DO TRÌNH ĐỘ CỦA CHÚNG SANH MÀ THẤY CÓ SAI KHÁC
Ông Tu Bồ Đề bạch Phật: "Phật pháp đã như thế, tại sao lại có
các quả thánh hiền cao thấp khác nhau?". Phật dạy: "Vì trình độ
của chúng sanh có sai khác, nên có các quả thánh hiền sai khác,
chứ không phải Phật pháp (vô vi) có sai khác".
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy phá cái chấp "Phật pháp có sai khác".
Đoạn trên đã nói: "Pháp của Như Lai, không thể chấp thủ, nói
năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, không phải chánh pháp và
cũng không phải phi pháp". Phật pháp đã cao siêu như vậy, vượt
ra ngoài nói năng và suy nghĩ, tại sao lại có các quả thánh hiền
cao thấp khác nhau?
Phật giải thích: "Vì trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có
các quả thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai
khác"
Trong kinh thường thí dụ: "Như ba con thú qua sông". Nghĩa là
Phật pháp như con sông, không cạn không sâu. Hành giả như ba con
thú lội qua sông: Con Dê thì lội ngập đầu (dụ cho Tiểu thừa);
con Nai thì lội ngập cổ (dụ cho Trung thừa); con Voi thì lội
ngập ống chân (dụ cho Đại thừa).
Phật pháp cao siêu huyền diệu, không thể nói năng và luận bàn,
nên Ngài Xuyên Thiền sư có làm bài tụng rằng:
Nguyên văn (dịch âm):
- Hư không cảnh giới khởi tư
lương
Đại đạo thanh u lý cánh trường
Đản đắc ngũ hồ phong nguyệt tại
Xuân lai y cựu bách hoa hương.
Dịch nghĩa:
- Hư không rộng rãi lớn bao la
Lý đạo lại càng quá thẩm xa
Trăng, gió, nước hồ thường tự tại
Chào xuân đua nở trăm nghìn hoa.
ĐẠI Ý
Hư không đã rộng lớn bao la không thể nghĩ bàn, Phật pháp lại
càng cao siêu huyền diệu rộng lớn hơn hư không. Cảnh vật thiên
nhiên của vũ trụ, như trăng thanh gió mát, nước hồ phẳng lặng,
xuân về trăm hoa đua nở v.v...đều nói lên tinh thần tự tại giải
thoát của Phật pháp.
Kinh chép: "Nhứt thế chư Pháp vô phi Phật pháp". Nghĩa là "Tất
cả các pháp thế gian cũng đều là Phật pháp". Nếu mê thì pháp thế
gian, còn ngộ là Phật pháp.
GIẢI DANH TỪ
Chấp thủ: nắm giữ
Chánh Pháp: Pháp chơn chánh
Phi Pháp: Pháp không chơn chánh
Vô vi: Pháp không bị tạo tác thi vi, không sanh diệt, tức là
chơn như hay Phật tánh
▲ Trở Lên
|
| |