Chương Thứ
Ba
Phẩm Đệ Tử
(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)
Hàng Thanh Văn
Tôn giả A Nan
(Ananda):
Nói về Như Lai Bệnh
A Nan là anh em cô cậu với Đức
Phật. Ông là con của Bạch Phạn Vương (Amitodana) là em của vua
Tịnh Phạn. Vì ngày ông sinh ra đem lại niềm hoan hỷ nên được đặt
tên là Khánh Hỷ (A Nan). Sau khi thành đạo, Đức Phật về lại cung
thành Ca Tỳ La Vệ thăm lại gia đình và cảm hóa và khuyến khích
những người trong dòng họ Thích Ca xuất gia tu đạo. Khi nhân
duyên đã đến, A Nan cùng anh ruột là Đề Bà Đạt Đa và năm vị
vương tử khác là A Na Luật, Kiếp Tân Na, Bà Sa, Bạt Đề, Nan Đề
đồng lén bỏ nhà mà xuất gia theo Phật và ông là người trẻ tuổi
nhất trong số những vị nầy. A Nan là người có tướng mạo trang
nghiêm và trí nhớ phi thường ngay cả Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát còn
phải khen ngợi ngài như sau:
Tướng như trăng thu đầy
Mắt biết tợ sen xanh
Phật pháp rộng như bể
Đều rót vào tâm A Nan.
Khi nói về A Nan thì không ai quên được câu chuyện nàng Ma Đăng
Già trong Kinh Lăng Nghiêm. Vì có tướng mạo thanh tú nên nàng Ma
Đăng Già đem lòng yêu thương mà dùng tà thuật mê hoặc. Đức Phật
biết được bèn sai Văn Thù Bồ-tát đem bài thần chú Thủ Lăng
Nghiêm đến giải nạn cho A Nan. Nội dung Kinh Lăng Nghiêm là Phật
chỉ dạy cho chúng sinh ngộ được Chơn tâm. Trước khi dạy về Chơn
tâm, Phật gạn hỏi A Nan bảy lần về nơi trụ của tâm. Vì tâm quá
khứ đã diệt, tâm tương lai chưa đến còn tâm hiện tại thì quay
cuồng thì làm sao tìm tâm cho được. Mà tâm quay cuồng tức là tâm
điên đảo, mê lầm, vọng thức tức là vọng tâm. Khi vọng tâm biến
mất thì chơn tâm mới hiện bày cũng như mây tan thì trời sáng vậy
thôi. Có chơn tâm thì tâm được thanh tịnh tức là Phật tánh, là
Bản Lai Diện Mục, là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, là Tri Kiến
Phật vậy.
A Nan thỉnh cầu Phật nhiều lần để cho phép phái nữ được xuất gia
vì thế dưỡng mẫu Ma Ha Ba Xà Ba, công chúa Da Du Đà La và nhiều
mệnh phụ phu nhân khác là những Ni cô đầu tiên trong tăng đoàn
của Đức Phật.
Cả đời A Nan bị rắc rối cũng vì đàn bà con gái cho nên trước khi
nhập diệt Đức Phật có dặn rằng: “Nếu bắt buộc phải tiếp xúc với
nữ phái thì nên xem người già như mẹ, người lớn như chị và người
nhỏ như em thì ông sẽ giữ được chánh niệm’.
Khi Phật được 55 tuổi, các đệ tử Tỳ Kheo thấy sức khỏe của Ngài
càng ngày càng yếu nên quyết định chọn một thị giả túc trực lo
cho Đức Phật. Mặc dù có rất nhiều người tình nguyện, nhưng Đức
Phật dành việc nầy cho A Nan. Vì có liên hệ họ hàng với Phật nên
ông muốn tránh sự dị nghị được Phật ưu đãi mà đối xử đặc biệt
với mình nên ông xin nhận trách nhiệm với tám điều thỉnh cầu:
1) Đức Phật không ban cho ông những bộ y do thí chủ cúng cho
Phật.
2) Đức Phật không ban cho ông những đồ ăn do thí chủ cúng cho
Phật.
3) Đức Phật không cho phép ông cùng ở trong một tịnh thất.
4) Đức Phật không cho phép ông đến nơi nào mà thí chủ thỉnh
Phật.
5) Đức Phật sẽ hoan hỷ đến nơi nào mà thí chủ thỉnh ông.
6) Đức Phật cho phép ông tiến dẫn khách đến yết kiến Phật.
7) Đức Phật cho phép ông bạch hỏi mỗi khi có điều gì nghi ngại.
8) Đức Phật sẽ hoan hỷ giảng giải lại những bài Pháp mà Phật
giảng trong lúc ông không có mặt tại đó.
Nhờ nhân duyên nầy mà A Nan trong suốt 25 năm làm thị giả đã
được học rộng nghe nhiều và là người duy nhất có thể nhớ lại
84,000 bài kinh mà trước đây Đức Phật đã thuyết giảng. Vì thế
trong hàng Thanh Văn ông nổi tiếng là đệ nhất đa văn.
Mặc dù học rộng, nghe nhiều, nhớ dai nhưng A Nan chưa chứng
Thánh quả trong lúc Đức Phật còn sanh tiền. Mãi ba tháng sau khi
Đức Phật nhập diệt, trong lần kết tập kinh điển lần thứ nhất,
ông không được mời tham dự vì chưa chứng quả A La Hán. Ngay
chiều hôm ấy, A Nan nỗ lực tu tập, trầm tư mặc tưởng, buông bỏ
tận cùng và đến nửa đêm thì khai ngộ, chứng quả. Ông bay thẳng
vào đại hội và được đề cử đọc Kinh Tạng. Những kinh như Trường A
Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhứt A Hàm và Kinh Pháp Cú đều
do chính tôn giả tụng lại. Tôn giả nhập diệt lúc 120 tuổi.
Đức Phật gọi ông A Nan và bảo:
- Này A Nan! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma
Cật.
Ông A Nan thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm
trưởng giả. Bởi vì trước đây, có lần Như Lai trong người hơi có
chút bệnh, phải cần dùng sửa. Con mang bình bát đến trước nhà
của một đại Bà La Môn để xin.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có ba thân là Pháp thân, Báo thân và
Ứng thân.
1) Pháp thân (Dharmakaya) là pháp giới thanh tịnh của các Đức
Như Lai lan tỏa trong khắp không gian làm sở y bình đẳng cho Báo
thân và Ứng thân. Pháp thân thì luôn thường trụ, bất sinh bất
diệt cũng được gọi là Pháp giới tánh, Như Lai Tạng… Phật lấy
Pháp Tánh Chân Như làm thân nên gọi là Pháp thân. Pháp thân là
chỗ sở y chứa tất cả công đức trong Pháp giới. Vì Pháp thân là
thường trụ nên Pháp thân ở khắp mọi nơi. Cho dù Phật nhập thế
cứu độ chúng sinh thì Pháp thân cũng không tăng hay Phật có xuất
thế thì nó cũng không giảm, lúc nào cũng vậy mà thôi. Cái Pháp
thân nầy Phật và chúng sinh đều có như nhau, nhưng ở Phật thì nó
sáng suốt chiếu soi rực rỡ còn ở chúng sinh thì nó bị vô minh
che mờ nên không hiễn lộ. Pháp thân chính là cái mà con người sẽ
trở về sau khi diệt hết vô minh phiền não để phát huy trí tuệ
sẳn có của mình. Vậy Pháp thân chính là cội nguồn, là Bản Thể
của tất cả muôn sinh vạn vật. Đây chính là Bản Lai Diện Mục, là
Phật tánh có sẳn trong tất cả mọi người.
2) Báo thân (Sambhogakaya) là thân tốt đẹp do công phu tu hành
trãi qua bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp mà có. Vì thế mà Đức Phật
có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp rực rỡ là vậy. Báo thân còn được
gọi là tự thọ dụng thân.
Nếu chúng sinh đoạn trừ mọi vô minh phiền não thì tâm được hoàn
toàn thanh tịnh. Cái thanh tịnh an lạc tự tại nầy chỉ có người
đó biết và hưởng được còn người khác không hề cảm nhận hay san
sẻ được thì cái quả thanh tịnh an nhàn nầy là tự thọ dụng thân.
Cũng như uống một tách trà thơm ngon thì chỉ người uống trà mới
biết được hương vị thơm ngon như thế nào mà thôi. Do đó nếu
chúng ta bớt được một phần vô minh phiền não thì có được một
phần thanh tịnh tức là có được một phần tự thọ dụng thân.
Còn Báo thân của chúng sinh thì gọi là Karmakaya tức là thân nầy
là do quả nghiệp của tiền kiếp tạo thành. Muốn có thân thể khỏe
mạnh sống lâu thì đừng bao giờ sát sinh. Muốn có giọng nói thanh
tao trong trẻo thì đừng nên vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan
trang, đẹp đẻ thì đừng nghĩ tới tà dâm. Muốn gia đình được ấm no
hạnh phúc thì đừng trộm cướp gian tham.
3) Ứng thân hay biến hóa thân (Nirmanakaya) Chư Phật do trí
thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ
của chúng sinh mà hóa độ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ứng thân
của Phật trong cõi Ta bà nầy. Vì Ứng thân là thân thị hiện nên
phải ảnh hưởng bởi luật vô thường là sinh lão bệnh tử. Ứng thân
cũng được gọi là tha thọ dụng thân.
Đối với Phật giáo thì báo thân hay tự thọ dụng thân có giá trị
tuyệt đối vì chỉ có người được thức tỉnh giác ngộ mới hưởng được
cái hương vị thanh tịnh an vui tự tại của giải thoát giác ngộ mà
không một người nào khác có thể biết được. Khi chư Phật hay
Bồ-tát thị hiện để hoằng dương đạo pháp thì chúng sinh có cơ hội
học hỏi, tu sửa và sống theo Chân lý để tự mình giải thoát giác
ngộ thì ứng thân để cứu độ chúng sinh ra khỏi bể khổ sông mê gọi
là tha thọ dụng thân.
Tóm lại ba thân của Đức Phật là: Pháp thân là Thể, Báo thân là
Tướng và Ứng thân là Dụng. Tuy nói ba mà là một, tuy một mà ba
tức là một là tất cả và tất cả là một.
Ngài Thiền sư Xuyên Lão cũng có bài kệ rằng:
Ba Phật hình nghi chẳng phải chân
Con người trong mắt trước mặt xem
Nếu hay biết được trong nhà báu
Hoa núi chiêm kêu một dáng xuân
Ứng Phật, Hóa Phật đều không thật
Bóng hình muôn thử thảy là quyền
Cái gì có tướng đều hư vọng
Chân Phật không hình vốn tự nhiên.
Bấy giờ, trưởng giả Duy Ma Cật đến nói với con rằng:
- Thưa ngài A Nan! Ngài làm gì mang bình bát đến đứng đây sớm
thế?
- Thưa cư sĩ! Như Lai trong người hơi có bệnh, cần phải dùng sữa
nên tôi đến đây hóa duyên xin sữa cho Như Lai.
Ông Duy Ma Cật nói:
- Thôi! Thôi! A Nan! Ngài đừng nói như vậy. Thân Như Lai
là thân Kim Cương, các xấu ác đã hết, các cái thiện đã đầy đủ,
còn có bệnh gì, còn có não gì?
Hãy im lặng và đi đi! Ngài nói như vậy là phỉ báng Như Lai đó.
Đừng để cho người ngoài họ nghe được những lời bất kính đó! Đừng
để cho các hàng chư Thiên đại oai đức và các Bồ-tát ở các cõi
Tịnh độ khác nghe được những lời ấy!
Thưa ngài A Nan! Chuyển Luân Thánh Vương chỉ có chút ít phước
đức mà còn không bệnh, huống chi Như Lai là thân Kim Cương hội
tụ vô lượng phước đức!
Hãy đi đi, ngài A Nan! Đừng để chúng tôi phải chịu sự xấu hổ đó!
Hàng ngoại đạo Phạm Chí họ nghe được những điều đó, họ sẽ nghĩ
gì về một bậc thầy của chúng ta!
Bản thân một vị thầy có bệnh mà không thể tự cứu thì làm sao cứu
bệnh cho ai? Ngài hãy âm thầm đi nhanh đi. Đừng để lộ ra cho
người ngoài nghe biết!
A Nan! Ngài nên biết rằng: Thân của Như Lai là pháp thân, không
phải thân do tư dục. Phật là bậc Thế Tôn vượt ngoài tam giới.
Thân Phật vô lậu, vì các lậu đã hết. Thân Phật vô vi, không mắc
vào các số lượng. Thân như thế thì còn có bệnh gì?
Khi tôn giả A Nan nói thân Như Lai hơi có bệnh là ông muốn nói
về Ứng thân, tha thọ dụng thân hay biến hóa thân là thân có 32
tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Thân nầy là thân vô thường nên phải chịu
sinh lão bệnh tử như tất cả mọi chúng sinh. Còn trưởng giả Duy
Ma Cật lại nói về Pháp thân, là thân Kim Cương, bất sinh bất
diệt thì làm sao có bệnh được. Ứng thân là thân sinh diệt thuộc
về pháp hữu vi nên mới có bệnh. Còn Pháp thân là Chơn Không Diệu
Tánh, là pháp vô vi, là vô lậu thì làm sao có bệnh tật được.
Con người sống trong thế gian gánh chịu trăm nổi phiền não khổ
đau vì thế Phật mới thị hiện để khai thị cho chúng sinh ngộ nhập
Phật Tri Kiến. Đức Phật đã dùng vô lượng phương tiện để trị vô
lượng bệnh phiền não của chúng sinh vì thế mà Ngài được tôn xưng
là Vô thượng Y Vương. Nhưng Vô thượng Y Vương là để trị tâm bệnh
còn thân bệnh thì phải trị bằng thuốc men. Ông A Nan nói Như Lai
có bệnh là ám chỉ Ứng thân. Mà Ứng thân thì do tứ đại hợp thành.
Khi tứ đại hòa hợp thì yên ổn an vui còn khi tứ đại bất hòa thì
sanh ra bệnh tật. Trong khi ông Duy Ma Cật nói thân của Đức Phật
là Pháp thân chớ không phải là thân tư dục tức là thân mà không
do tư tưởng ái dục duyên hợp mà thành.
Thân Phật vô lậu vì Đức Phật luôn làm việc thiện, không còn tạo
nghiệp nên khỏi phải rơi rớt trong lục đạo luân hồi. Thân Phật
vô vi vì tâm Đức Phật thường trụ Niết bàn nên cho dù không làm,
không tạo tác mà vẫn an nhiên, tự tại bất sinh bất diệt. Thân
Phật không mắc vào số lượng tức là không bị hạn chế bởi không
gian và thời gian. Nếu là Ứng thân thì Đức Phật chỉ thọ có 80
tuổi và sống tại Ấn độ. Còn nói về Pháp thân thì thọ mạng bây
giờ là vô cùng vô hạn. Vì Pháp thân bao trùm khắp mọi nơi và bất
sanh bất diệt thì làm gì có tuổi mà nói. Không có thỉ mà cũng
chẳng có chung, vô cùng vô tận. Vì thế nếu chúng sinh cảm nhận
Pháp thân Phật thì ở đâu cũng có Phật và bất cứ lúc nào cũng có
Phật trong tâm của chúng ta. Đây chính là Pháp thân Tỳ Lô Giá
Na. Đức Phật A Di Đà có tuổi thọ dài vô lượng là ám chỉ Pháp
thân vậy.
Nói về Sự Tướng tức là pháp hữu vi có sinh có diệt thì ông A Nan
nói đúng vì thân của Đức Phật là Ứng thân. Còn nói về Bản Thể,
là pháp vô vi bất sinh bất diệt, thanh tịnh bản nhiên thì ông
Duy Ma Cật nói đúng vì thân Đức Phật bây giờ không còn là Ứng
thân sinh diệt, có đau có bệnh mà là Pháp thân thanh tịnh bất
sinh bất diệt thì làm gì có đau có bệnh.
Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Lúc đó con rất là xấu hổ. Nghĩ
rằng con được hầu bên Phật há lại nghe lầm ư? Liền đó, con tự
nghe có tiếng trong không trung vọng đến: A Nan! Lời cư sĩ như
thế là đúng, nhưng vì Phật xuất hiện trong đời ngũ trược ác thế,
thị hiện ra việc làm như vậy nhằm giáo hóa độ chúng sinh. A Nan!
Ông hãy đi xin sữa, đừng có hổ thẹn!
Sau bao năm làm thị giả A Nan rất hiểu ý Đức Phật vì thế khi
nghe Phật nói hơi có bệnh thì A Nan biết mình không nghe lầm. Vì
biết Phật có chút bệnh nên A Nan mới đi xin sữa mà sửa thì chưa
có nhưng chỉ nghe ông Duy Ma Cật đuổi về thì làm sao A Nan không
khỏi tủi thân, xấu hổ. Lúc A Nan còn đang phân vân là có nghe
lầm không thì ông tự nghe có tiếng trong không trung vọng đến.
Đây là lối diễn tả rất tinh xảo của Kinh Duy Ma Cật vì nếu không
hiểu rõ thì dễ dàng rơi vào mê tín dị đoan. Câu: “tự nghe có
tiếng trong không trung vọng đến” không thể hiểu là tiếng nói
của các vị Trời, các vị Bồ-tát hay ngay cả chư Phật mà hai chữ
“tự nghe” nói lên sự thức tỉnh, bừng sáng từ trong tâm thức của
ông A Nan. Vậy A Nan thức tỉnh cái gì?
Đối với A Nan là vị thị giả của Phật mà chưa chứng quả A La Hán
thì chấp ngã, chấp pháp vẫn còn. Vì thế cái nhìn của A Nan đối
với Đức Phật Thích Ca là thật, là Ứng thân thì phải có
bệnh. Khác với thế giới Hiện Tượng hữu hình, có sinh có diệt, có
bệnh tật, có đau khổ bất tịnh thì bây giờ ông Duy Ma Cật mới
giới thiệu cho A Nan một thế giới về Bản Thể vô vi thanh tịnh,
không sanh không diệt, vô cùng vô tận là thế giới của Pháp thân.
Cho nên chữ “tự nghe” ở đây chính là sự thức tỉnh, là ánh đuốc
chợt bừng sáng để soi chiếu tự tâm ông A Nan và cũng là chiếc
cầu nối giúp ông chuyển từ hệ thống giáo lý phương tiện Tiểu
thừa chật hẹp sang tư tưởng Liễu nghĩa thượng thừa rộng lớn.
Pháp thân mới chính là lý tưởng cứu cánh, là Bản Lai Diện Mục,
là con người thật của mình vậy.
“Tiếng vọng trong không trung” cũng có thể hiểu là “tiếng lòng”
nói lên sự phản tỉnh của ông A Nan qua những giây phút tiếp nhận
những dòng tư tưởng ấm cúng của ánh lửa Đại thừa mà Ông Duy Ma
Cật chính là người đã khơi dậy ngọn lửa trong đống to tàn. Và
cũng chính “tiếng lòng” đã nhắc nhở ông A Nan sự khác biệt giữa
Ứng thân và Pháp thân. Pháp thân là Bản Thể thanh tịnh nên không
bệnh. Còn Ứng thân là nhục thân thị hiện nên vẫn còn bị ảnh
hưởng bởi sanh, lão, bệnh, tử như tất cả mọi chúng sinh. Tuy Ứng
thân Đức Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, nhưng Ngài vẫn có
bệnh như mọi người. Vì thế khi thân có bệnh cần có sữa để chửa
trị thì cứ đi lấy, không e ngại chi cả.
Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Ông Duy Ma Cật có sức trí tuệ
biện tài vô ngại như thế, con không dám lãnh trách nhiệm đến
thăm bệnh.
Ngoài mười vị đại đệ tử Thanh Văn nầy, còn có năm trăm vị nữa
ở trước Phật đến trình bày duyên cớ đã từng gặp ông Duy Ma cật
trước kia.
Tất cả đồng xưng tán Trưởng giả Duy Ma Cật và đồng thưa lên Phật
rằng không dám đi thăm bệnh.
Đây là một đoạn kinh rất hay vì đã phản ảnh rõ ràng sự thấy biết
khác nhau giữa hàng Thanh văn và Bồ-tát. Ông A Nan tuy là đệ
nhất đa văn nhưng vẫn còn nằm trong hàng Thanh văn nên cái thấy
biết của ông là Pháp nhãn có nghĩa là ông nhìn vạn pháp chỉ thấy
được Pháp Tướng tức là Hiện Tượng sinh diệt bên ngoài. Ngược lại
ông Duy Ma Cật là vị đại Bồ-tát có trí tuệ sáng suốt và biện tài
vô ngại nên cái thấy biết của ông chính là Pháp Tánh tức là Bản
Thể thanh tịnh bất sanh bất diệt bên trong. Thấy Pháp Tướng thì
nhìn Phật cũng chỉ thấy Phật Tướng. Do đó thấy Pháp Tướng thì rõ
ràng là Phật có bệnh nên cần phải đi xin sữa. Ông Duy Ma Cật
không nhìn Phật bằng Pháp Nhãn như ông A Nan mà nhìn bằng Tuệ
Nhãn cho nên thay vì thấy Phật Tướng sinh diệt vô thường thì ông
thấy Phật bằng Pháp Thân thanh tịnh bất sanh bất diệt. Cái hay
cái tuyệt của đoạn kinh nầy không những chỉ cho chúng sinh thấy
rõ sự khác nhau giữa Pháp Tướng và Pháp Tánh hay Hiện Tượng và
Bản Thể mà nó còn dung hòa mọi tư tưởng, quy ba thân làm một.
Khi đứng về Tướng và Dụng thì Ứng thân có bệnh. Còn đứng về Thể
và Tánh thì Pháp thân là Thật Tướng, bất sinh bất diệt, bất cấu
bất tịnh. Do đó tuy nói là có Tướng, Dụng, Thể, Tánh hay Tiểu
thừa, Đại thừa nhưng tất cả cùng quy về một mối là Nhất Thừa
Phật Đạo, Sự Lý nhất như.
Khi đã thấy rõ sự khác nhau giữa Phật Tướng và Phật Tánh thì
chúng ta có thể áp dụng chân lý nầy ngay vào trong đời sống của
chính mình.
Lúc mới vào đạo Phật thì chúng ta đến chùa quy y Tam Bảo và được
đặt cho một pháp danh thì đây là quy y thế gian trụ trì Tam Bảo.
Phật bây giờ là những hình tượng trên bàn thờ tức là Phật Tướng
để nhắc nhở chúng sinh những hình ảnh sống động lúc Phật còn tại
thế khiến con người có cảm tưởng như được đối diện với Đức Thế
Tôn. Pháp được hiểu là tam tạng kinh điển và Tăng là Tăng đoàn.
Quy y nầy chỉ là tạo duyên để học Phật mà thôi vì đây là Hiện
Tượng tức là pháp hữu vi sinh diệt bên ngoài vì tượng Phật, tam
tạng kinh điển ngay cả chư Tăng đều nằm trong luật vô thường
sinh diệt.
Khi đã biết đạo rồi thì chúng sinh phải quay về với Nhất Thể Tam
Bảo vì đây mới là Bản Thể, là pháp vô vi bất sinh bất diệt, là
tính thanh tịnh bản nhiên có sẳn trong tất cả mọi người. Vì Bản
Thể là Chân Không, là Pháp Tánh, là Pháp thân thì không hình
không tướng, không kích thước nặng nhẹ, không sinh không diệt,
không dơ không sạch, vô ngôn vô thuyết thì đâu có ngôn ngữ nào
diễn tả cho được mà đặt pháp danh.
Một hôm Lục Tổ ra giữa đại chúng mà hỏi:
- Ta có một vật không đầu, không đuôi, không tên, không
họ, không lưng, không mặt. Vậy các ông biết là vật gì chăng?
Ngài Thần Hội lúc đó khoảng mười hai mười ba tuổi bèn lanh lẹ
bước ra nói:
- Dạ đó là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần
Hội.
Tổ quở:
- Đã nói là không tên, không họ mà ông lại kêu là bản
nguyên, là Phật tánh thì cũng như lấy tranh che đầu mà thôi.
Có nhiều người hiểu lầm cho rằng Kinh Bát Nhã nói cái gì cũng
không. Không Phật, không Niết Bàn vậy tu để làm gì? Kinh Kim
Cang có câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” tức là Phật dạy
chúng sinh dùng trí tuệ Bát nhã phá trừ tất cả là cốt cho chúng
ta không có chỗ bám. Vì nếu chúng sinh còn bám vào một giả danh
hay giả tướng nào là còn kẹt trong vòng sanh diệt đối đãi và sẽ
không thấy cái chơn thật nơi mình.
Một hôm có quan Đại phu họ Mã đến hỏi ngài Triệu Châu, một cao
Tăng đời nhà Đường:
- Hòa thượng gần đây có tu hành gì không?
- Nếu nói tu hành là họa.
- Nếu ngài nói tu hành là họa, tại sao ngài dạy đại chúng
tu?
Ngài cười.
Đây là đứng về mặt bất biến tức là Bản Thể mà nói. Vì Thể Tánh
vốn nhất như nên không còn tu bởi vì nếu khởi tu tức là động. Mà
động là còn sanh diệt tức là tai họa chớ là gì? Nhưng nếu đứng
về mặt tùy duyên tức là Sự Tướng thì còn phải tu vì có tu mới có
giải thoát. Phật pháp là tùy duyên cho nên nếu duyên phàm thì
thành phàm còn duyên Thánh thì trở thành Thánh vì thế mà nói có
tu, không tu là vậy. Do đó nếu không thông suốt sự khác biệt
giữa Bản Thể và Sự Tướng mà chỉ hiểu một chiều thì vô cùng tai
hại.
Nhất Thể Tam Bảo gồm có Phật tánh, Pháp tánh và Tăng tánh.
1) Phật tánh: Trong tất cả chúng ta không phân biệt là người
Việt, người Tàu, người Tây hay người Mỹ đều có sẳn cái Phật tánh
thanh tịnh bản nhiên. Cái Phật tánh nầy chính là Pháp thân mà ở
Phật cũng không tăng và ở chúng sinh cũng không giảm. Phật tánh
hay Pháp thân thì lúc nào cũng thanh tịnh, nhưng vô minh vọng
chấp che lấp Phật tánh khiến con người sống trong điên đảo, khổ
đau. Thí dụ như sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thì tự
nó luôn luôn thanh tịnh. Nhưng khi tiếp xúc với ngoại trần liền
bị đắm nhiễm. Cũng như con mắt thì tự nó thanh tịnh, không ô
nhiễm nhưng khi mắt nhìn thấy cái nhà đẹp, cành hoa xinh, chiếc
xe tốt thì tâm liền phân biệt tạo thành ý niệm ham muốn. Ham
muốn là tham tức là ô nhiễm. Ngay cả lục trần tức là sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp tự nó cũng có bản nhiên thanh tịnh, không ô
nhiễm. Thí dụ như cành hoa đâu có mê hoặc ai đâu? Mê sắc là tại
người chớ đâu phải tại hoa. Ngay cả rượu có làm ai say đâu? Thế
mà con người chết lên chết xuống cũng vì rượu. Do đó nếu con
người biết lìa vọng chấp, sáu căn thường sáng tỏ, không dính mắc
nơi sáu trần thì tâm được thanh tịnh tức là thấy được Pháp thân
hay Phật tánh hiện bày.
Ngày xưa ngài Huệ Tịch tới chỗ Thiền sư Trung Ấp thưa rằng:
- Bạch Hòa thượng! Thế nào là Phật tánh?
Ngài Trung Ấp nói:
- Ta không nói thẳng được nhưng dùng thí dụ nầy cho ông
tạm hiểu: Như có con khỉ nhốt trong lồng có sáu cánh cửa. Bên
ngoài một con khỉ khác tới kêu “Chéo! Chéo” thì con khỉ trong
cũng đáp lại: “Chéo! Chéo” . Cứ như vậy con khỉ bên ngoài tới
cửa nào cũng kêu thì con khỉ bên trong đều đáp lại hết.
Ngài Huệ Tịch liền hỏi lại:
- Bạch Hòa thượng! Nếu con khỉ bên trong ngủ thì sao?
Thiền sư Trung Ấp từ trên tòa bước xuống nắm lấy vai Huệ Tịch mà
nói:
- Chúng ta thấy nhau rồi.
Khi lục căn tiếp xúc với lúc trần thì sanh vọng thức mê lầm. Còn
lục căn yên lặng không bị lục trần quyến rủ thì có tâm thanh
tịnh. Tâm thanh tịnh là chơn tâm, là Phật tánh vậy.
Trong Kinh A Di Đà, Phật dạy rằng:
- Hoặc một ngày cho đến bảy ngày niệm mà không niệm đến
chỗ nhất tâm bất loạn thì Phật hiện tiền. Cũng như đi, đứng,
nằm, ngồi mà tâm hằng thanh tịnh, không một chút vọng niệm khởi
thì Phật tánh hiện tiền.
Phật tánh tức là tự tánh A Di Đà. Bởi vì Phật A Di Đà là Phật có
vô lượng thọ và vô lượng quang. Mà tuổi thọ vô lượng là chỉ cho
cái bất sinh bất diệt và vô lượng quang là ánh sáng trùm khắp vô
cùng vô tận mà Kinh Lăng Nghiêm gọi là Chơn Tâm, Kinh Pháp Hoa
gọi là Tri Kiến Phật, Kinh Niết Bàn gọi là Phật Tánh, Kinh Hoa
Nghiêm gọi là Trí Huệ Phật, Kinh Viên Giác gọi là Như Lai Viên
Giác Diệu Tâm. Đây chính là tự tánh thanh tịnh sẳn có nơi mỗi
chúng ta mà lâu nay con người cứ lầm lẫn cho nó ở ngoài mình nên
mãi rong ruỗi tìm cầu. Tu Thiền hay tu Tịnh độ thì cứu cánh
không khác chỉ vì chúng sinh mắc kẹt trên hình thức nên thấy có
sự sai khác. Ở Ấn Độ tuy cũng có nhiều tông phái khác nhau mà
các Luận sư tuy nói khác nhau nhưng bản ý là cùng nhau hướng về
giải thoát giác ngộ. Trong khi ở Trung Hoa, Việt Nam thì môn đồ
của hai tông bài xích nhau chẳng khác cừu thù. Học Phật, tu Phật
như thế không thể chứng ngộ vì con người còn mắc phải quá nhiều
bệnh cố chấp.
Thật vậy con người có sự phân biệt tông nầy, phái nọ nhưng chân
lý Phật pháp vốn không sai biệt. Phải biết rằng một câu niệm
Phật hay câu trì chú chỉ là phương tiện chớ không phải là cứu
cánh. Người mới học Phật pháp lại phát sinh ra nhiều ý kiến,
phân chia tông nầy phái nọ, rồi khen mình chê người làm tổn hại
giá trị giáo hóa vi diệu của Phật pháp.
Có người hỏi rằng Thiền chú trọng về tự lực trong khi tịnh độ
thì chú trọng vào tha lực. Mà tự lực và tha lực thì làm sao
giống nhau?
Thật ra tâm Phật và tâm của chúng sinh không hề khác nhau. Tâm
Phật là Phật tánh thì từ vô thủy đến nay vốn không sinh diệt,
không hình tướng, không thuộc Có Không. Cái linh tri ấy có đủ
bốn đức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Bởi vì cái linh tri nầy không
sanh không diệt nên nói là Thường, lúc nào cũng an nhiên tự tại
nên gọi là Lạc, là chủ sinh ra muôn pháp nên gọi là Ngã và không
bị cấu nhiễm nên gọi là Tịnh. Chỉ vì chúng sinh cứ chấp vào
tướng nên đi tìm tâm ở bên ngoài nên Phật và chúng sinh mới xa
cách muôn trùng vì ta và tha nhân là hai thực thể khác nhau.
Nên biết rằng Tịnh độ không những chú trọng đến tha lực mà đòi
hỏi cả công phu về tự lực nữa. Nguyên tắc căn bản của Tịnh độ là
phải biết nghiêm trì sáu căn: mắt, tai, mũi. lưỡi, thân, ý và ba
nghiệp tức là thân, khẩu, ý cho thật thanh tịnh để lúc niệm Phật
được nhất tâm. Đó là phần tự lực. Do đó khi niệm hồng danh chư
Phật thì tâm không hề có vọng tưởng thì con người sẽ cảm thông
được với chơn tâm hay Phật tánh của chư Phật trong mười phương
pháp giới. Thật ra tâm Phật và chúng sinh vốn nào có khác đều
cùng một Bản Thể nhưng vì chúng sinh bị vô minh che lấp nên chưa
ý thức được điều nầy vì thế mới có sự phân biệt, xa cách. Chúng
sinh từ vô thỉ đến nay đã gây ra biết bao tội nghiệp. Cho dù
công phu tu tập đến đâu cũng khó trong một đời mà giải trừ được
hết nghiệp chướng nên phải nương nhờ oai lực ở câu niệm Phật để
tiêu trừ bớt nghiệp ngỏ hầu giúp cho tín căn và tín lực gia tăng
mà được vãng sanh. Đó là phần tha lực.
Tóm lại, Tịnh độ bao gồm cả tha lực và tự lực, tuy giản dị nhưng
công năng vô cùng huyền diệu. Chúng sinh phải nắm vững những quy
tắc căn bản của Tịnh độ vì nếu không ý thức việc nghiêm trì sáu
căn và ba nghiệp mà chỉ trông nhờ vào tha lực tiếp dẫn mà thôi
là một thiếu sót rất lớn. Thiếu tự lực thì không có nhất tâm mà
không nhất tâm thì làm sao thông cảm được với chơn tâm của chư
Phật. Có một số người niệm Phật để cầu phước hay để xin xỏ việc
nầy việc nọ thì cũng là đi ngược lại với tông chỉ của Tịnh độ.
Khi thiếu tâm thành mà chỉ mong cầu nầy nọ là tham lam mà đã là
tham lam thì làm sao có kết quả được. Đối với người tu Tịnh độ
thì không cần xin gì ngoài việc vãng sanh về cõi Tây phương với
Phật A Di Đà.
Chúng ta bây giờ tự hỏi Tổ Bồ-đề Đạt Ma ngồi quay mặt vô tường
suốt chín năm để suy gẫm điều gì?
Phải chăng ngài gẫm thấy tâm tức là Phật, Phật tức là chúng
sinh. Khi mê thì có chúng sinh, có Phật nhưng khi ngộ thì Phật
và chúng sinh vốn nào có khác. Phật tánh, chơn tâm thì không
nhơ, không sạch, không sinh không diệt. Ở chúng sinh nó không
tăng mà ở Phật nó cũng không giảm cho nên Ngài vượt thoát ra
khỏi mọi phiền não khổ đau, ra khỏi sinh tử luân hồi mà đạt đến
Niết bàn giải thoát.
Có người lại thắc mắc rằng Tổ Bồ-đề không hề nói đến Phật A Di
Đà hay cõi Tây phương Cực lạc?
Thật vậy. Nhưng nghĩ lại là nếu có người dân quê hiền lành chất
phác đến nghe pháp mà Tổ lại giảng về lý Không, pháp Tánh, pháp
Tướng hay nguyên lý Bất nhị thì những điều nầy đâu có ý nghĩa gì
đối với họ. Phải chăng đó là những danh từ trừu tượng trống
rỗng, không thể hiểu và không có lợi ích gì? Nhưng nếu giảng cho
họ về Đức Phật A Di Đà và những hạnh nguyện tiếp dẫn của Ngài để
được về cõi Tây phương Cực lạc thì họ sẽ hiểu, sẽ tin và phát
tâm muốn được sanh về cõi đó. Nếu suốt ngày họ trì niệm danh
hiệu Phật A Di Đà, biết chú tâm vào hồng danh nầy khi làm ruộng,
lúc nghĩ ngơi, khi gặt lúa cho đến lúc nhất tâm bất loạn thì cái
ảo ảnh nhị nguyên của vô minh, cái tâm phân biệt, có chúng sinh
có Phật sẽ chấm dứt và họ sẽ chứng ngộ được thực tại mầu nhiệm
ngay. Dù chúng ta gọi nó là tha lực tiếp dẫn của Đức A Di Đà,
gọi là thiền, gọi là mật, gọi là giáo thì đâu có khác biệt gì
đâu? Cái khả năng giải thoát mà con người cho rằng vốn ở bên
ngoài tức là tha lực thật ra vẫn ở bên trong tức là tự lực thì
lúc nào vẫn sẳn có trong ta. Đó chính là cái tự tánh thanh tịnh
bản nhiên vĩnh hằng trong tất cả mọi chúng sinh. Như thế khi
hiểu rõ những chân lý nầy thì tùy theo ý thích của mỗi người mà
bàn về thiền hay tịnh độ. Thiền cũng tốt mà Tịnh cũng hay. Người
học Phật nếu đọc qua cuốn “Tông Cảnh Lục” và “Muôn Thiện đồng
quy” của Tổ Vĩnh Minh hay trong “Bồ-tát Đại Thế Chí niệm Phật
viên thông” thì Tịnh độ cũng phát xuất từ tự tánh, xả bỏ vọng
tưởng, quay về nguồn chân nên chớ hướng ngoại tìm cầu. Nếu chúng
sinh niệm danh hiệu Phật A Di Đà để dẹp trừ vọng tưởng, chấp
trước thì mỗi câu niệm sẽ quét sạch vọng tưởng làm tâm thanh
tịnh. Vì thế kinh mới có câu: “Duy tâm tịnh độ, tự tánh Di Đà”
là vậy. Như thế thì cái mà Tổ Bồ-đề Đạt Ma chứng trong lúc ngồi
thiền và người nông phu chất phác chứng ngộ trong khi niệm hồng
danh Phật A Di Đà có khác gì nhau. Thiền gọi nó là Minh Tâm Kiến
Tánh trong khi Tịnh gọi là Nhất Tâm Bất Loạn thì cùng một ý
nghĩa tức là họ đã thấy được Phật tánh, chơn tâm hay tự tánh
thanh tịnh bản nhiên của mình vậy thôi.
Phải biết rằng Thiền, Tịnh, Mật đều là những con đường khác
nhau, phương tiện khác nhau nhưng đều dẫn đến một mục đích là
giải thoát giác ngộ. Cũng như nếu nhìn từ đỉnh núi xuống thì có
vô số con đường dẫn lên núi nhưng nếu từ chân núi nhìn lên thì
chỉ có một đỉnh núi cao mà thôi. Tịnh độ tông hay niệm Phật A Di
Đà là phương pháp tập trung tư tưởng để trì niệm hồng danh chư
Phật cho đến chỗ nhất tâm bất loạn. Khi tâm không còn loạn động,
không còn phiền não và không còn điên đảo thì sẽ có trí tuệ sáng
suốt. Mật tông thì cũng thế, thay vì niệm hồng danh chư Phật thì
người tu trì thần chú, mật ngữ của chư Phật để đạt đến nhất tâm.
Khi biết phối hợp âm thanh (chú) với cử chỉ (ấn quyết) và tâm ý
(Tam Ma Địa) thì đạt được tam mật tương ưng tức Thân, Khẩu, Ý
được thanh tịnh.
Khi không còn vọng niệm, đạt đến trạng thái như như bất động thì
làm gì còn phiền não. Sau cùng Thiền là phương pháp sử dụng trí
tuệ bằng cách nhìn thẳng vào thực tánh của vạn pháp. Vì vạn pháp
giai không duyên sanh như huyễn nên trên đời nầy đâu có cái gì
thật đâu mà phải quan tâm, bận lòng. Khi tâm không loạn động thì
sẽ có Định. Mà có Định thì phiền não không còn, khổ đau tan
biến. Tóm lại về mặt hình thức tuy có khác nhưng tựu trung ba
phương pháp cũng đều quay về để diệt trừ vọng niệm, dứt sạch mọi
phiền não để chấm dứt khổ đau và giải thoát ra khỏi sinh tử luân
hồi. Đây chính là một là tất cả và tất cả là một vậy.
2) Pháp tánh: là cái nhận biết cho phù hợp với chân lý, đúng với
chân lý tức là có chánh tri chánh kiến để đưa con người đến chỗ
thanh tịnh, an vui và tự tại.
3) Tăng tánh: Phật tánh là tánh thanh tịnh bản nhiên ở trong ta
và Pháp tánh là cái trí tuệ của ta như thế Tăng tánh là tánh hòa
hợp của tánh thanh tịnh bản nhiên và trí tuệ sáng tỏ trong ta để
tránh xa mọi ô nhiễm bên ngoài.
Quy y Nhất Thể Tam Bảo mới chính thật là quay về để sống với con
người chân thật mà bấy lâu đã bị vô minh che lấp làm cho chúng
ta sống trong điên đảo khổ đau. Con người chân thật nầy không ai
khác hơn là Bản Lai Diện Mục, là Chơn tâm, là Như Lai Viên Giác
Diệu Tâm, là Phật tánh có sẳn trong tất cả mọi người.
Phần Tóm lược Phẩm Đệ Tử
Trong phẩm đệ tử nầy chúng ta có cơ hội học hỏi sự trao đổi kiến
thức của mười vị đại đệ tử của Phật với ông Duy Ma Cật, một vị
đại Bồ tát có trí tuệ vô song và biện tài vô ngại. Tuy hoàn cảnh
có khác, nhưng tựu trung cũng nhắm vào một đối tượng duy nhất là
viên thành Phật đạo. Mà con đường để đạt đến cứu cánh tột đỉnh
nầy là phải thấu suốt thật tướng của vạn pháp. Mà thật tướng
chính là Bản Thể, là Chơn Như, là Phật tánh, là tính thanh tịnh
bản nhiên có sẳn trong tất cả mọi người. Vì thế Kinh Kim Cang
mới có câu: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư
tướng phi tướng tức kiến Như Lai” nghĩa là tất cả những gì trong
thế gian vủ trụ nầy mà có hình tướng thì là giả huyễn, không
thật. Còn nếu thấy được thật tướng của vạn pháp thì thấy được
Chân Lý.
Tuy mười vị đại đệ tử của Phật đã phá được chấp ngã nên họ lìa
xa được phiền não khổ đau, nhưng chấp pháp vẫn còn. Đó là họ
thấy con người là thật, thế gian vủ trụ là thật nên muốn xa lánh
cuộc đời để không còn bị ô nhiễm và tinh tấn tu hành để được an
vui tịch diệt Niết bàn. Trưởng giả Duy Ma Cật là người đại diện
cho Phật giới thiệu cho họ con đường Đại thừa rộng lớn để phá
luôn chấp tướng thì mới viên thành Phật quả. Khi nói “vạn pháp
giai Không” thì ông Duy Ma Cật đã đưa họ vào một thế giới vô
cùng vô tận. Thế giới của Chân Không Diệu Tánh, không hình không
tướng, không phiền não khổ đau, không cầu không đắc, hoàn toàn
thanh tịnh. Chính ông Duy Ma Cật đã nắm tay đưa họ từ thế giới
vật chất hữu hình hữu hoại sang một thế giới vô vi thanh tịnh.
Khi đã biết và sống trong thế giới của Thường, Lạc, Ngã, Tịnh
thì con người sẽ không còn lo sợ, mộng tưởng điên đảo mà lúc nào
cũng an vui tự tại. Tâm Kinh dạy rằng: “Sắc
tức thị Không, Không tức thị Sắc” thì con người sẽ không còn
phân biệt Tiểu thừa hay Đại thừa, hữu vi hay vô vi mà tất cả đều
quy về Nhất thừa Phật đạo, lìa bỏ hai bên để nhập vào pháp môn
Bất Nhị. Vì sự huyền diệu của kinh nên chúng ta cần phải phát
tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, diệt trừ lòng mê mờ chấp
ngã chấp pháp ngỏ hầu phát huy trí tuệ sẳn có trong chúng ta mà
trực nhận Chân lý để được tự giác rồi giác tha và đạt đến cứu
cánh giải thoát hoàn toàn.
|
|