Chương Thứ Hai
Phẩm Phương Tiện
(Inconceivable Skill in Liberative Technique)
Đây là phẩm Phương tiện, vậy
thế nào là phương tiện? Phương là phương pháp và tiện là tiện
dụng. Theo tiếng Phạn, phương tiện là Upaya, có nghĩa là những
phương pháp đem ra ứng dụng tùy theo căn cơ, hoàn cảnh xã hội và
trình độ của mọi chúng sinh để thiết lập và giải quyết tạm thời
mà đưa chúng sinh vào con đường giải thoát giác ngộ tức là chứng
hiểu Chân lý. Mà Chân lý chỉ có thể thực chứng chớ không thể
diễn bày bằng ngôn ngữ hay kinh điển vì thế giáo lý nhà Phật
không có mục đích trình bày Chân lý mà chỉ muốn dùng phương tiện
để hướng dẫn người tu hành sáng suốt để tự mình đạt đến cứu cánh
tối thượng là chứng được Chân lý. Một phương tiện cho dù thiện
xảo tới đâu cũng không thể nào áp dụng cho tất cả mọi trường hợp
và cho tất cả mọi người vì thế mà Đức Thế Tôn mới chế ra 84 ngàn
pháp môn tức là 84 ngàn phương tiện và cũng là 84 ngàn cánh cửa
để đi vào căn nhà giác ngộ. Chúng ta tham thiền, niệm Phật, trì
chú, tu theo Tứ Diệu đế, Thập nhị Nhân Duyên hay Lục độ
ba-la-mật, tu nhà, tu chợ, tu chùa …tất cả đều là phương tiện.
Quý vị có thấy trong thế gian nầy có một viên thuốc nào có thể
trị bá bệnh cho dù đó là viên thần dược? Ngày xưa những vị đạo
sĩ của Lão giáo đã luyện thuốc trường sinh bất tử cho vua Tần
Thủy Hoàng, nhưng tại sao vua nhà Tần vẫn chết? Ví cũng như khi
tuổi về già, chúng ta phải uống thuốc chống áp huyết cao, thuốc
làm giảm lượng mở trong máu, thuốc trị bệnh tiểu đường, thuốc
cảm, thuốc đau nhức khớp xương, thuốc ăn không tiêu... Muốn thân
được an thì phải uống thuốc. Người ít bệnh thì uống ít thuốc còn
người nhiều biến chứng thì phải uống nhiều có khi năm bảy loại
thuốc là thường. Phật Pháp thì cũng thế, con người nếu vỏ vô
mình càng dày tức là bệnh nặng thì cần phải dùng nhiều loại
thuốc cho nên có lúc chúng ta tham thiền, tư duy quán chiếu để
thấy được bản Thể chân thật, có lúc thì kinh hành niệm Phật để
tâm được an tịnh, có khi thì trì tụng thần chú vì đây là cánh
cửa giao thông giữa con người và chư Phật. Khi hết bệnh tức là
thức tỉnh giác ngộ thì uống thuốc để làm gì? Vì thế tất cả những
phương pháp tu trên thế gian nầy chỉ là phương tiện, những liều
thuốc nhiệm mầu giúp chúng sinh phá tan màng vô minh hắc ám mà
thấy được ánh sáng Chân Lý. Nhưng phương tiện không phải là cứu
cánh. Phương tiện là nhân mà cứu cánh mới là quả. Phương tiện là
giả mà cứu cánh là thật. Cái vô minh lớn nhất của con người là
chấp phương tiện với cứu cánh. Vì thế người tu Phật chỉ nương
theo phương tiện để đạt cứu cánh, nương theo ngón tay để thấy
mặt trăng. Nhưng đừng lầm phương tiện là cứu cánh, đừng nhìn
ngón tay mà quên đi mặt trăng và đừng chấp kinh điển là Chân lý.
Đừng nhìn vào ngón tay chỉ mặt trăng mà quên đi luồng ánh sáng
tuyệt vời phát xuất từ mặt trăng. Do đó khi đạt được cứu cánh
thì phải bỏ phương tiện, hết bệnh thì bỏ thuốc, tới bờ thì phải
bỏ chiếc bè để lên bờ giác ngộ chớ đừng vác bè lên vai mà thêm
nặng nhọc khổ đau. Tại sao lại gọi đây là phẩm phương tiện? Vì
muốn tạo cơ duyên để hoằng pháp độ sanh nên Trưởng giả Duy Ma
Cật mượn cớ bị bệnh để tạo cơ hội thuyết pháp cho chúng sinh.
Đây là phương tiện về việc làm.
Bấy giờ ở trong thành Tỳ Xá Ly có ông Trưởng giả tên là Duy
Ma Cật. Trưởng giả Duy Ma Cật là người đã từng cúng dường vô
lượng chư Phật, gốc rễ lành trồng sâu cho nên ông được vô sanh
pháp nhẫn. Trong hàng Bồ-tát, Duy Ma Cật là vị Bồ-tát biện tài
vô ngại. Du hí thần thông. Hàng phục các ma được vô sở úy. Vào
sâu trong các pháp môn khéo nơi trí mà độ người. Thông suốt
phương tiện. Biết rõ tâm tưởng của chúng sinh, phân biệt độn
căn, lợi căn của đối tượng. Ở lâu trong Phật đạo, đã thuần thục
thâm tín đại thừa. Việc làm vững chãi, suy nghĩ chín chắn, Trụ ở
oai nghi Phật. Tâm rộng như biển cả. Chư Phật khen ngợi, hàng
Trời cung kính. Vì muốn độ người, Trưởng giả Duy Ma Cật phương
tiện ở thành Tỳ Xá Ly.
Cúng dường vô lượng Phật là đem của báu thế gian để dâng lên
Đấng giác ngộ mà mong được sự giác ngộ cũng như Phật. Nhưng Phật
đã vượt ra ngoài tam giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới thì
đâu có cần hưởng những của báu thế gian? Vậy cúng dường vô lượng
Phật phải được hiểu là xa lìa mọi lạc thú, bỏ đi những của cải
vật chất quý báu giả tạm của thế gian để phát huy tăng trưởng
lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả ngỏ hầu có được tâm thanh tịnh và trí tuệ
sáng suốt.
Cúng dường vô lượng Phật cũng còn có một ý nghĩa khác là quên
mình mà làm lợi ích cho chúng sinh bởi vì Phật là Phật đã thành
còn chúng sinh là Phật sẽ thành. Hơn nữa, trong tất cả mọi chúng
sinh ai ai cũng đều có Phật tánh như nhau tức có khả năng thành
Phật. Thật vậy, tâm Phật và tâm của chúng sinh thật ra không hề
khác nhau. Tâm của Phật ví như mặt nước hồ thu yên tĩnh mà trên
đó mặt trăng Chân lý có thể phản chiếu một cách toàn vẹn. Trong
khi tâm của chúng sinh thì giống như mặt nước đang bị các làn
sóng vô minh khuấy động làm cho ánh trăng chân lý bị lu mờ,
không cách nào phản chiếu được. Do đó nếu chúng sinh có thể đánh
tan những làn sóng vô minh thì ánh trăng Chân lý sẽ hiện bày tức
là thành Phật.
Đối với người Phật tử thì phải thấu hiểu sâu xa ý nghĩa của sự
cúng dường lễ Phật.
1) Ngã mạn lễ: Những người giàu có thế lực trong xả hội muốn bỏ
ra số tiền lớn để xây chùa hay tạo tượng Phật, Bồ-tát nên đến
ngày khánh thành thì họ phải là người cắt băng hay dành riêng
cho họ dâng nhang nghi lễ trước nhất.
2) Cầu danh lễ: Cúng dường để được người biết tên tuổi mà mưu
lợi chớ không thật tâm vì Phật pháp.
3) Cung kính lễ: Ngày nay chúng ta thấy có rất nhiều tông phái
chế ra những pháp lễ lạy, hay màu sắc áo tràng khác nhau để đề
cao tông phái của mình.
Ngã mạn, cầu danh và cung kính lễ tức là Sự lễ là những lễ nghi
hình thức bề ngoài có giá trị rất thấp trong Phật giáo. Ngược
lại giáo lý liễu nghĩa đại thừa thì chú trọng Phật tánh tức là
tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mỗi chúng sinh. Đó là:
1) Pháp trí thanh tịnh lễ: Chúng sinh phải nhìn thấy cho được sự
thanh tịnh của nội tâm để kiểm tra tư tưởng của mình. Tâm thức
tức là tư tưởng thì biến chuyển không ngừng cho nên chúng sinh
phải biết nó đang nghĩ gì, nó đang nói gì và nó đang muốn làm
gì. Nếu ý thiện thì lấy còn ý xấu, ý ác thì bỏ ngay.
2) Chánh quán tâm thành lễ: Hằng ngày trong mọi uy nghi như đi,
đứng, nằm, ngồi chúng sinh đều có thể suy tư quán chiếu hay gọi
là hành thiền, tọa thiền hay ngọa thiền để xoay tâm mình trở về
với chánh đạo và tránh xa tà kiến.
3) Biến nhập pháp giới lễ: Biến tâm mình trở thành rỗng rang để
hòa nhập vào vủ trụ bao la mà không cần một đối tượng để không
còn vui buồn, hờn giận, thương ghét, nhân ngã bỉ thử…Tâm hồn con
người hoàn toàn rỗng rang thanh tịnh được xem như hòa tan vào
trong hư không vô tận để buông bỏ tất cả. Trạng thái sống như
vậy trong thời gian đó là biến nhập pháp giới lễ vậy.
4) Thực tướng bình đẳng lễ: Chúng sinh phải thấy cho được tính
cách vô tướng của vạn pháp vì thật tướng là vô tướng. Tất cả các
pháp là do duyên sanh nên không có chủ tể hay tự tánh nên không
có vật gì là vĩnh viễn tồn tại, bền chắc vì thế chúng sinh dễ
buông xả tất cả. Vì vạn pháp giai không duyên sanh như huyễn nên
con người có thể coi thường cả sinh, lão, bệnh, tử của mình, coi
thường cả sự thành, trụ, hoại, không của vủ trụ và coi thường
ngay cả sinh, trụ, dị, diệt của cuộc đời nên lúc nào cũng an vui
tự tại.
Thực hành được như thế thì tuy không lễ lạy trước Đức Phật mà
chính chúng ta đã lễ lạy rồi vậy. Nếu chúng sinh không nhận thức
được Phật tâm của mình để sống với cái tự tánh thanh tịnh bản
nhiên để có an vui tự tại mà cầu Phật tướng bên ngoài thì chỉ
gởi gắm tâm hồn vào nơi vô định. Tu hành theo hình tướng bề
ngoài thì dĩ nhiên không có kết quả.
Gốc rễ lành trồng sâu có nghĩa là đã vun bồi vô lượng công đức
trãi qua nhiều đời nhiều kiếp. Biện tài vô ngại là có tài nói
năng, biện thuyết lưu lót và hợp với Chân lý nhưng chỉ với mục
đích lợi lạc cho chúng sinh và làm cho thính chúng thấu hiểu
giáo lý mà hoan hỷ tin theo chớ không dùng bạo quyền để áp chế
người.
Du hí thần thông. Du là chơi, hí là vui còn thần thông là lối
viết tắt của Thần Túc Thông có nghĩa là có phép biến hóa thay
hình đổi dạng, biến chỗ nầy hiện chỗ kia, bay đi qua lại các
cõi, ung dung tự tại. Vậy du hí thần thông là có đủ phép thuật
để thiên biến vạn hóa, di sơn đảo hải mà luôn lấy sự hóa độ
chúng sinh làm vui. Khác với những phép lạ của ngoại đạo là do
công phu tu luyện và lòng mong cầu mà được tức là thực hành với
mục đích tự lợi nên còn bị ngăn ngại trong khi Thần túc thông là
do trí tuệ sáng suốt, chứng ngộ Chân tánh, không cầu mà được nên
rất tự tại vô ngại tức là phép thuật thần thông xuất quỷ nhập
thần mà không bị vật chất ngăn trở.
Hàng phục các ma. Ma tiếng Phạn là Marat có nghĩa là Ma Vương
chuyên quấy phá làm chướng ngại người tu hành. Ma thì có nội ma
và ngoại ma.
1) Nội ma: là những chướng ngại phát xuất từ thân và tâm của con
người làm cho tâm thức bất an và bấn loạn. Đây chính là Phiền
não ma, Ngũ uẩn ma, Pháp hành ma và Tứ diệt ma.
- Phiền não ma: Lục dục, bất mãn, đói khác, ái dục, uể
oải, buồn ngủ, sợ hãi, hoài nghi, phỉ báng, cố chấp, danh lợi và
tự cao là những động lực phát sinh những thói hư tật xấu, thú
tính thấp hèn làm cho những chủng tử Tham-Sân-Si có cơ hội phát
khởi. Đây là những chướng ngại rất thông thường làm cản trở mọi
tiến bộ phát triển của tâm linh.
- Ngũ uẩn ma: Vì lầm tưởng thân nầy là thật nên con người
mới cung phụng, bảo vệ cho thân mà gây ra tội nghiệp. Mà còn
nghiệp tức là còn sinh tử luân hồi. Nhưng Tâm kinh xác định
rằng: “Ngũ uẩn giai không” tức thân nầy không thật.
- Pháp hành ma: Vì không thông hiểu Phật pháp nên không
kiềm chế làm cho Thân, Khẩu, Ý tác tạo mà gây ra nghiệp để phải
chịu quả báo đời đời.
- Tứ diệt ma: Sắc thân là vô thường nên không ai thoát ra
khỏi cảnh sinh lão bệnh tử. Có thân là có hoại vì thế nếu thấy
mình già đi hay nay đau mai yếu thì sanh lòng buồn khổ, đau
thương. Còn buồn khổ là còn chướng ngại cho người tu hành.
2) Ngoại ma: là những ma cảnh từ bên ngoài thường
lôi cuốn con người vào đường tối tăm tội lỗi làm cho tâm bất
tịnh. Danh vọng, tiền tài, sắc dục, ăn sang, mặc sướng là những
miếng mồi làm cho tâm trí con người không còn sáng suốt. Đây là
những cạm bẩy của thế gian để cột chặt chúng sinh vào vòng sinh
tử luân hồi. Con người càng si mê say đắm theo vật dục thì chân
họ càng lún sâu vào vũng bùn tội lỗi đau thương. Cái đà của tham
dục cũng giống như cái đà của một chiếc xe đang xuống dốc. Càng
xuống dốc thì xe chạy càng nhanh cũng như con người càng say đắm
thì càng đắm say không bao giờ biết đủ cả. Ngoài ra còn có những
hương linh vì chưa đủ nhân duyên để đi tái sinh nên thường ẩn
hiện làm con người kinh sợ nên gọi là ma.
Nhắc lại ngày xưa lúc Đức Phật ngồi tham thiền nhập định 49 ngày
đêm dưới cội Bồ-đề, Ngài không ngừng chiến đấu với bọn Ma Vương.
Trong thì có nội ma và ngoài thì có ngoại ma nhưng chiến đấu với
ngoại ma thì không đáng ngại bằng các nội ma ở trong tâm. Cho
nên khi thành đạo Đức Phật đã dạy rằng: “Dù chiến thắng vạn quân
ở chiến trường không bằng chiến thắng chính mình, vì đó là chiến
thắng cao thượng nhất”.
Vô sở úy là không còn lo sợ. Thử nghĩ trong thế gian nầy cái lo,
cái sợ đã chiếm quá nửa cuộc đời con người. Chúng ta sợ nghèo,
sợ đói, sợ bệnh, sợ già, sợ xấu, sợ khổ, sợ ma, sợ thi rớt, sợ
không có việc làm, sợ thua sút bạn bè, sợ thiếu công danh, sợ ly
tán, sợ không có tình yêu… và cuối cùng là sợ chết. Trong các
thứ bố thí thì vô úy thí là quý nhất bởi vì làm cho chúng sinh
không còn sợ hãi. Nếu giúp chúng sinh thấu hiểu thông suốt luật
vô thường, lý vô ngã, thuyết nhân quả, tính duyên khởi của vạn
pháp… thì họ sẽ không còn sợ hãi. Mà hết lo sợ thì tâm sẽ an
định, chấm dứt mộng tưởng điên đảo và cảm ứng được sự thanh tịnh
an lạc của Niết bàn.
Vào sâu trong các pháp môn. Pháp môn có nghĩa là phương pháp tu
hành. Giáo lý đạo Phật có 84 ngàn pháp môn tức là có 84 ngàn
cánh cửa để vào căn nhà giác ngộ. Tại sao lại có nhiều thế? Chân
lý của Phật giáo thì chỉ có một là giác ngộ nhưng con
đường dẫn tới chân lý thì có rất nhiều tùy theo căn cơ, hoàn
cảnh, ý thích và sở nguyện của chúng sinh. Tu thiền, tu tịnh, tu
mật, tu giới, tu tâm... chỉ là phương tiện tức là nhân nhưng
đừng quên quả mới là cứu cánh tức là minh tâm kiến tánh, nhất
tâm bất loạn, đại khai viên giải… mới là giải thoát giác ngộ.
Nhưng ở đây trưởng giả Duy Ma Cật vào sâu có nghĩa là thấy biết
rõ ràng phương pháp sâu kín nhiệm mầu tức là thâm nhập Chân lý,
chứng ngộ lý Không, đạt tới tuyệt đối và tâm trí bừng sáng tức
là minh tâm kiến tánh.
Khéo như trí mà độ người. Trí là trí tuệ và độ là vượt sang bờ
bên kia. Vậy khéo như trí mà độ người là người tu đã khai mở trí
tuệ sẳn có của mình để giúp người vượt qua sông mê biển khổ mà
đến bờ bên kia tức là bờ giải thoát giác ngộ. Theo Phật giáo
tiểu thừa thì chúng sinh vì bị vô minh che lấp Chân tánh,
Tham-Sân-Si tác tạo nên sống trong điên đảo khổ đau ở bờ bên
nầy. Nếu tu theo Tứ diệu đế để diệt sạch phiền não thì vượt qua
sông mê bể khổ trầm luân mà đến được bờ an vui, giải thoát. Hết
sinh tử luân hồi thì chứng đắc an lạc Niết bàn. Tư tưởng Phật
giáo đại thừa thì không có đôi bờ bên nầy hay bên kia. Từ đó
cũng không có dòng sông sinh tử, biển khổ sông mê làm ngăn cách.
Tại sao? Vì sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, câu nói đầu tiên
của Đức Phật là trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có
Phật tính tức là có khả năng thành Phật. Ngay cả Lục Tổ Huệ Năng
cũng thốt rằng không ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ, vốn tự thanh
tịnh, vốn không sinh diệt… Đây chính là tánh giác, là Phật tính,
là tự tánh thanh tịnh của con người. Nhưng con người vì luôn
sống trong mê muội, thiếu sáng suốt nên mới thấy mình ở bờ bên
nầy còn bờ bên kia thì nghìn trùng xa cách. Đến khi thức tĩnh
quay về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình tức là
bản lai diện mục thì biển khổ cũng tan sông mê cũng cạn, lấy gì
để phân chia đôi bờ? Không có dòng sông thì làm gì có bờ? Còn
thấy có bờ bên nầy bờ bên kia hay có mê có ngộ tức là còn đối
đãi, còn vướng vào vòng nhị nguyên. Nhưng mê ngộ chẳng phải hai
tức là Bất nhị. Thật vậy, Phật và chúng sinh chỉ khác nhau ở chỗ
mê và giác. Mê là chúng sinh mà giác là Phật. Tâm niệm xấu ác là
chúng sinh còn tâm niệm từ bi là Phật. Nếu con người biết chuyển
ác thành thiện, chuyển tâm mê thành giác thì từ chúng sinh thành
Phật chỉ trong một sát na. Vì thế kinh Phật mới có câu tu muôn
kiếp nhưng ngộ một giây là vậy.
Biết rõ tâm tưởng của chúng sinh. Biết rõ tâm mình thì đã khó mà
muốn biết rõ tâm người lại càng khó khăn hơn. Vì thế cổ nhân mới
có câu: “Tri nhân tri diện bất tri tâm”. Do đó chỉ có những
người tu chứng đắc đạo, trí tuệ sáng suốt, thấu rõ Chân tánh để
được tâm ý dung thông thì mới cảm ứng được những tâm niệm sở cầu
của chúng sinh mà nhà Phật gọi là Tha Tâm Thông.
Phân biệt độn căn, lợi căn của đối tượng. Độn căn là chậm chạp,
chậm hiểu, thiếu căn bản. Lợi căn là căn tánh lanh lẹ, thông
minh sáng suốt, nói một hiểu mười. Phật pháp thì có cao có thấp.
Cao thì vô cùng vô tận, thâm sâu huyền diệu còn cạn thì dễ thấy
dễ biết, dễ tìm. Vì thế Trưởng giả Duy Ma Cật đã cảm ứng được
những tâm niệm sở cầu của chúng sinh để có thể phân biệt rõ ràng
ai là người thông minh lanh lẹ và người nào là kẻ thiếu thông
minh, chậm chạp mà tùy cơ dạy bảo đúng với trí thông minh, sức
hấp thụ, lòng mong cầu và sở thích của họ.
Ở lâu trong Phật đạo là công phu tinh tấn tu hành trãi qua nhiều
kiếp mới thấm nhuần Phật Pháp và kiến tạo đạo tâm bền vững.
Đã thuần thục thâm tín đại thừa là tâm đã thanh tịnh, chín chắn,
thành thạo và thông suốt Chánh pháp làm ánh sáng chỉ đạo thì sẽ
không còn lầm đường lạc lối. Cũng như Lục Tổ Huệ Năng ngày xưa
chỉ cầu thành Phật, phát nguyện tâm Đại thừa để cầu đạo Bồ-đề mà
thành Phật. Thực hành Bồ-tát đạo rốt ráo để quên mình mà phục vụ
và làm lợi ích cho chúng sinh chớ không mong cầu những quả vị
của hàng Thanh văn, Duyên giác hay cầu phước báo để được làm
người hay Trời. Vì cho dù có thành A-la-hán thì mới phá được
chấp Ngã mà chấp Tướng vẫn còn, đoạn diệt được phiền não nhưng
trí tuệ chưa phát sinh tức là vô minh còn thì chưa thấy được
Chân lý.
Việc làm vững chãi. Là phàm nhân nên con người có khuynh hướng
chạy theo lục dục thất tình làm cho ba cánh cửa Thân-Khẩu-Ý tác
tạo mà gây ra nghiệp. Khi thông hiểu Chánh Pháp, con người có
cái nhìn khác hơn về nhân sinh vũ trụ, về cái thật, cái giả thì
họ sẽ cẩn thận, cân nhắc từng ý nghĩ, từng lời nói và hành động
để mang sự an vui đến cho mọi người. Thân-Khẩu-Ý bây giờ trở nên
thanh tịnh nên từ lời nói đến mọi việc làm đều thích ứng với
lòng mong cầu sở nguyện của chúng sinh khiến họ hoan hỷ mà tìm
về với Chơn đạo. Khi Bồ-tát tu hành chứng đắc thì họ chuyển thức
thứ sáu là Ý Thức thành ra Diệu Quan Sát Trí để có đủ trí tuệ và
năng lực mà quan sát rõ ràng tất cả những tâm niệm của chúng
sinh rồi tùy theo đó mà hành động cho khéo léo, hợp căn cơ và
đúng với Chân lý.
Trụ ở oai nghi Phật. Trong Phật giáo khi đã thâm nhập Chánh Pháp
và thọ trì giới luật nghiêm chỉnh thì bốn oai nghi là đi, đứng,
nằm, ngồi được thể hiện một cách rất khoan thai thư thái, chậm
rãi nhưng không kém uy nghi vì bốn đức tính Từ, Bi, Hỷ, Xả hiện
bày trên chân tướng làm cho chúng sinh kính phục. Vì tâm được
thanh tịnh nên hành vi của họ rất từ tốn, thanh nhã, không vội
vàng hấp tấp và đó chính là trong ngoài tương trợ cho nhau làm
cho mọi người kính mến.
Tâm rộng như biển cả. Ngày nào còn chúng sinh lặn hụp trong biển
khổ thì còn Bồ-tát vào đời cứu độ. Họ quên thân mình mà làm việc
lợi ích vì chúng sinh cho đến khi nào chúng sinh được an vui tự
tại thì họ mới viên thành Phật đạo. Bồ-tát làm việc với tinh
thần vô cầu vô chứng đắc. Tâm không còn chấp ngã chấp pháp nên
họ rất an nhiên tự tại. Tâm bình đẳng nên Bô-tát không còn phân
biệt thân sơ, kẻ lành người xấu vì tất cả đều là chúng sinh và
Bồ-tát thương tất cả chúng sinh với tấm lòng bao la, vô cùng vô
tận, không bờ không bến.
Chư Phật khen ngợi, hàng Trời cung kính. Trưởng giả Duy Ma Cật
đã làm mọi việc lành và đúng theo Chánh Pháp cũng vì lợi ích cho
chúng sinh. Tất cả những công đức được thành tựu mà không thể
nghĩ bàn nầy khiến cho chư Phật tán thán và các chư Thiên kính
phục. Vì thế ông Duy Ma Cật có một địa vị cao quý vô cùng chỉ
thua chư Phật và chắc chắn Trời, người không ai bì kịp. Trong
kinh điển Phật giáo thì trời Đế Thích xuất hiện nhiều nhất trong
các pháp hội cũng như để tán thán công đức tu hành của các bậc
thánh chẳng hạn như tôn giả Tu Bồ Đề trong kinh Kim Cang. Trời
Đế Thích, tiếng Phạn là Sakya Devanam Indra, là vị trời cai quản
cung trời Đạo lợi trên chót núi Tu Di thuộc Dục giới mà ngày xưa
Đức Phật lên đó ba tháng để thuyết pháp cho Hoàng hậu Ma-Da.
Ngoài ra cũng còn có trời Phạm Thiên, tiếng Phạn là Brahma, là
vua cõi trời Sơ thiền thuộc Sắc giới.
Trưởng giả Duy Ma Cật dùng phương tiện thị hiện làm thân ông
trưởng giả ở thành Tỳ Xá Ly để cứu độ chúng sinh. Thị là chỉ bày
còn hiện là cho thấy. Do đó thị hiện là hiện ra cho thấy rõ ràng
làm gương sáng cho mọi người noi theo. Dựa theo tư tưởng đại
thừa thì Đức Phật Thích Ca đã thành Phật trong quá khứ nhưng vì
muốn cứu độ chúng sinh nên thị hiện tại Ấn Độ, sanh vào một gia
đình vương gia quý tộc, sống trong dục lạc của thế gian rồi xã
bỏ, lìa xa tất cả mà đi tìm Chân lý để đưa con người ra khỏi
biển khổ sông mê. Đây chính là phương tiện thiện xảo để khai thị
cho chúng sinh thấy con đường sáng mà noi theo và Đức Phật chính
là tấm gương sáng chói cho tất cả mọi người nhưng đặc biệt là
cho chúng xuất gia. Còn vai trò của trưởng giả Duy Ma Cật thì
cũng thế. Ông là một vị đại Bồ-tát chứng đắc ở thế giới Diệu Hỷ
nhưng vì muốn cứu độ chúng sinh nên thị hiện tại thành Tỳ Xá Ly
làm thân cư sĩ, lớn lên có vợ con, thân bằng quyến thuộc như tất
cả mọi người. Phương tiện ở đây là ông thực hành Lục độ vạn hạnh
viên mãn, tuy là cư sĩ nhưng có nếp sống thanh tịnh, có đại lực
thần thông, không dính mắc lục trần nên tâm rất tự tại. Ông là
tấm gương sáng chói cho hàng Phật tử tại gia còn nhiều dính mắc
thế tục. Tuy có hai phương tiện nhưng cùng đến một cứu cánh là
đưa con người đến chỗ giải thoát giác ngộ, viên thành Phật đạo.
Giải thoát giác ngộ vốn không hai tức là Bất nhị.
Vì muốn cảm hóa những người nghèo, ông Duy Ma cật bố thí rất
nhiều của cải. Để cảm hóa người phạm giới, Ngài trì giới thanh
tịnh. Để cảm hóa người nóng nảy, Ngài biểu lộ hạnh kiên nhẫn ôn
hòa. Để độ người giải đải, Ngài thực hành tinh tấn. Để cảm hóa
người loạn tâm, Ngài thiền định nhất tâm. Để cảm hóa người vô
trí, Ngài hướng dẫn phát huy trí tuệ.
Đây chính là Lục độ Ba-la-mật gồm có Bố thí, Trì giới, Nhẫn
nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ. Lục độ là những phương
pháp tu hành của các Bồ-tát hay cho tất cả chúng sinh đã phát
tâm vô thượng Bồ-đề, thọ Bồ-tát giới, tu theo Bồ-tát hạnh để phá
chấp ngã, chấp pháp quên mình mà làm việc lợi ích cho chúng
sinh.
Sống trong bất cứ xã hội nào thì người nghèo vẫn chiếm đa phần
đặc biệt tại Ấn Độ thời Đức Phật còn tại thế và ngay cả thời bây
giờ thì đâu đâu cũng có nhiều người nghèo khổ, làm điều bất
thiện, thường hay giận dữ, tánh tình lười biếng và tâm ý bấn
loạn. Vì thế ông Duy Ma Cật dùng thuốc Lục độ để trị bịnh cho
người. Kẻ nghèo, người đói thì ông bố thí. Nhưng bố thí ở đây là
bố thí ba-la-mật chớ không nhất thiết chỉ là cho tiền, cho cơm,
cho gạo để sống qua ngày mà còn phải pháp thí và vô úy thí để
giúp cho họ thấy con đường sáng mà tự cứu lấy đời mình và thông
hiểu Chánh Pháp thì sẽ không còn sợ hãi. Vì Bồ-tát đã phá được
chấp ngã, chấp pháp nên khi bố thí thì họ thực hành câu: “Bố thí
vô tướng và độ sanh vô ngã”. Người tà tâm, làm điều bất thiện
thì dạy giới để họ tự sửa mình, cải thiện lại đời sống bất an.
Kẻ giận dữ thì dùng hạnh nhu hòa nhẫn nhục để biến cuộc đời sóng
gió trở nên an tịnh, thanh bình. Người lười biếng thì giúp họ
thấy được ý nghĩa của cuộc đời để họ cố gắng nổ lực hạnh trì mà
tăng thêm phước báo. Kẻ loạn tâm thì dùng thiền định tức là tư
duy quán chiếu để loại bỏ vọng thức mà quay về sống với tự tánh
thanh tịnh của mình. Còn người ngu dốt thì chỉ họ phương pháp tu
hành để phát sinh trí tuệ và đạt đến cứu cánh giác ngộ viên
thành.
Mặc dù Lục độ là những thần dược để trị tâm bệnh của chúng sinh,
nhưng muốn thực hành Lục độ đến chỗ viên mãn thì Bồ-tát phải phá
tất cả các chấp có nghĩa là khi thấy việc cần làm thì ra tay mà
không thấy mình làm và cũng không thấy có chúng sinh được độ bởi
vì Bồ-tát một khi làm xong là quên, là xả hết cho nên tâm không
dính mắc, không dao động và lúc nào cũng an nhiên tự tại. Làm
việc với tâm vô ngã, vô cầu, vô chứng, vô đắc thì mới thật là
tâm Bồ-tát.
Bạch y là áo trắng, tượng trưng cho sự tinh khiết trong sạch và
để chỉ cho Phật tử tại gia trong khi người xuất gia thì mặc màu
vàng.
Phụng trì luật là chấp hành những giới luật của Phật rất nghiêm
chỉnh để tâm được an định. Thí dụ Phật tử tại gia thì có năm
giới, tám giới hay 58 Bồ-tát giới. Hàng xuất gia thì Sa di có
mười giới, Tỳ kheo có 250 giới và Tỳ kheo ni có 348 giới. Khi đã
thọ giới thì suốt đời không được phạm một giới nào thì
Thân-Khẩu-Ý mới thanh tịnh. Người phạm giới không phải là họ
phạm tội với Trời hay Phật gì cả mà chính họ đã gây ra nghiệp
bất thiện để cột chặc họ vào vòng sinh tử luân hồi vậy thôi.
Muốn liễu sanh thoát tử thì phải tránh xa sợi dây oan nghiệp
nầy.
Dù Ngài là bạch y mà phụng trì luật của Sa môn. Dù ở tại gia mà
không lưu luyến tam giới. Thị hiện có vợ con mà thường tu phạm
hạnh. Hiện có quyến thuộc mà thường thích viễn ly. Dù mặc đồ quý
báu mà dùng tướng tốt để nghiêm thân. Dù có ăn uống như thế gian
mà dùng thiền duyệt làm mùi vị.
Sa Môn tiếng Phạn là Samana có nghĩa là người chuyên làm việc
thiện, tránh xa việc ác và cũng là vị khất sĩ. Khất sĩ là người
đi xin ăn, giữ phận nghèo, không giữ tiền. Xin ăn là để khỏi nấu
nướng chớ không phải là lười biếng mà dùng nhiều thời giờ vào
việc tu học để tư duy quán chiếu mà tự độ và hóa độ chúng sinh.
Hiện nay tại các nước còn theo Tiểu thừa như Thái lan, Miến
Điện, Tích Lan, Ấn Độ thì hình ảnh các Tăng sĩ đi khất thực trên
các đường xá, làng mạc đã trở thành một nét đặc thù quen thuộc.
Vì các tăng sĩ đều đi khất thực nên chùa chiền xứ Thái không hề
có nhà bếp. Sau khi đi khất thực, các Tăng sĩ mang thức ăn về
chùa và ăn ngay tại chánh điện trong khi tại các nước theo Bắc
tông thì chánh điện là nơi tôn kính trang nghiêm, được giữ gìn
sạch sẽ, ít ai dám nói lớn hay có những cử chỉ thiếu trang
nghiêm tại đây. Riêng tại Thái Lan, chánh điện vừa là nơi hành
lễ, vừa là chốn hội hợp, mọi người thản nhiên ăn uống, cười nói
một cách thoải mái.
Ông Duy Ma Cật tuy thị hiện làm thân cư sĩ nhưng lại thọ giới
của hàng xuất gia có nghĩa là tuy ở hàng cư sĩ mà tâm vẫn
giải thoát.
Tam giới là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Dục giới là cõi
chúng sinh còn tình dục, thực dục, nhơ uế, ô trược như cõi Ta bà
nầy. Trong dục giới có tất cả sáu loài chúng sinh là Trời, Thần,
người, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Sắc giới là cõi chúng sinh
đã thanh tịnh hơn không còn tình dục và thực dục, nhưng còn hình
sắc. Vô sắc giới là cõi chúng sinh không còn hình sắc mà chỉ còn
tư tưởng tức là tâm thức. Chúng sinh trong ba cõi cho dù có đến
cõi cao nhất là Trời cũng vẫn chưa ra khỏi vòng sinh tử luân hồi
nên còn phải chịu sự tái sinh nhiều đời nhiều kiếp. Trưởng giả
Duy Ma Cật là cư sĩ tại gia tức là sống trong vòng thế tục đầy
dẫy nhiễm ô. Tiền tài, sắc đẹp, công danh, phú quý, nhà cao, cửa
rộng… lúc nào cũng có những ma lực thu hút con người sa đọa vào
vòng tội lổi, đau thương nhưng ông không hề bị dính mắc, lưu
luyến. Ngay cả những cõi vô sắc hay vô sắc giới cũng không mê
hoặc tâm ông được. Vì thế sống trong trần thế, có vợ con, có
thân bằng quyến thuộc nhưng ông không hề bị ô nhiễm, thường tu
phạm hạnh, tâm thanh tịnh tức là tâm giác ngộ vậy.
Tướng tốt là ám chỉ Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Những
tướng tốt, vẻ đẹp của Phật không phải là dùng vàng ngọc châu báu
để trang nghiêm nhưng chính là do tất cả công đức tu hành mà
được. Chẳng hạn như Phật có lưỡi rộng dài là vì ba đời Ngài
không nói dối. Vì thế tuy trưởng giả Duy Ma Cật có nhiều đồ
trang sức, áo quần đẹp đẽ cao sang nhưng ông không thấy đó là
quan trọng mà chỉ dùng 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp mà trang nghiêm
thân mình.
Thiền duyệt là vui trong lúc tọa thiền. Khi ngồi thiền thì tâm
định và thân được nhẹ nhàng thảnh thơi. Cho nên dù ông Duy Ma
Cật có ăn uống cao lương mỹ vị của thế gian mà không có thiền
duyệt thì cũng như nấu đồ ăn mà quên nêm mắm muối, gia vị. Do đó
ngồi thiền là an nhàn, là thảnh thơi cho nên ông Duy Ma Cật tuy
có ăn mâm cao cổ đầy, nhưng những thứ đó đối với ông không quan
trọng mà ông chỉ lấy thiền duyệt làm mùi vị cho thức ăn.
Theo Phật giáo, mục đích của thiền định không phải đi vào một
trạng thái vô thức, an tĩnh hay bất động mà thật ra thiền định
là là một sự chuyển hóa để ý thức cho thật rõ ràng mọi hiện
tượng trong thế gian vũ trụ nầy. Do đó thiền định là cốt quay
vào bên trong để nghe rõ tiếng nói của Tâm. Mà con người chỉ có
thể nghe được những âm thanh huyền diệu nầy khi thân và tâm được
thanh tịnh và lúc đó sẽ không còn những vọng niệm của
tham-sân-si nữa. Khi chúng sinh nghe được những âm thanh chân
thật nầy thì tâm đã có định và từ đó trí tuệ bát nhã ba la mật
sẽ phát sinh. Một khi đã có trí tuệ sáng suốt rồi thì chúng sinh
sẽ không còn thấy mình và tất cả vạn vật có sự khác biệt nữa.
Thời điểm nầy mình và chúng sinh đều là một và đã là một thì ắt
phải nghe tiếng cầu cứu đang lặn hụp trong biển khổ của chúng
sinh. Và từ đây phải quay về thế gian để cứu đời, độ đời và làm
việc quên mình để hy sinh và thực hành Bồ-tát đạo đúng với tinh
thần lợi tha, vô ngã. Nên nhớ nguyên nhân của sự đau khổ bắt
nguồn từ bản ngã vốn có khuynh hướng phân biệt và từ đó nẩy sinh
các tham vọng, ái dục.
Nếu khi đến chỗ cờ bạc, xướng hát thì ông lợi dụng cơ hội để độ
người. Dù thọ các Pháp ngoại đạo nhưng chẳng tổn hại lòng chánh
tín. Đọc hiểu suốt sách vở thế gian mà thường vui với giáo pháp
Phật. Nhằm cảm hóa mọi người mà giữ gìn chánh pháp. Kinh doanh
được tiền của nhưng chẳng lấy đó làm vui. Dạo chơi khắp phố
phường để làm điều lợi ích chúng sinh. Có lúc tham gia trị chánh
nhằm để cứu độ quốc dân. Có khi tham dự các diễn đàn hội thảo mà
cốt lèo lái hướng dẫn mọi người đi vào đường chánh đạo đại thừa.
Vào học đường nhằm để dẫn dắt tuổi thơ. Có lúc đến thanh lâu
nhằm chỉ rõ cho mọi người tai họa của ái dục. Vào quán rượu như
mọi người nhằm để nêu gương tự chủ.
Khác với tăng sĩ tu theo Tiểu thừa thì họ chẳng những không dám
đến những nơi cờ bạc, rượu chè mà họ còn không dám đến những chỗ
đông người, ồn ào náo nhiệt vì sợ tâm bị dao động, ngược lại
trưởng giả Duy Ma Cật an nhiên tự tại đi vào những nơi ô uế như
sòng bạc, nhà hát, thanh lâu, quán rượu… mà không hề sợ bị ô
nhiễm vì tâm ông đã Định và trí tuệ luôn sáng suốt. Đây là ứng
dụng câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang
vậy. Khi tâm thanh tịnh tức là tâm không còn dính mắc đó là lục
căn tuy có tiếp xúc với lục trần mà cho dù lục trần có hấp dẫn,
thu hút cách mấy cũng không thể nào lay động hay cám dỗ được
thanh tâm của chúng ta. Tại sao? Bởi vì Bồ-tát thấy là để thấy
vậy thôi nhưng trong cái thấy đó không có nhãn thức giới tức là
không có cái biết của sự thấy nên không có sự phân biệt tốt xấu,
thiện ác… Không phân biệt là tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh, tâm
Bồ-tát vậy. Ông Duy Ma Cật đi vào những nơi trà đình tửu điếm để
cứu độ chúng sinh chớ không phải vì ham mê sắc dục. Vào quán
rượu thì mới thân cận để giáo hóa cho họ biết rượu là tai hại mà
lập chí bỏ rượu. Vào sòng bạc để chỉ cho họ thấy sự si mê, cám
dỗ làm cho nhà tan cửa nát, gia đình mất hạnh phúc cũng bởi từ
gốc Si nhỏ sang thành Tham lớn làm cho gia đình tan vở. Có nhận
thức được sự tai hại thì con người mới dám từ bỏ. Bồ-tát phải
hòa đồng thân mật sát cánh với mọi người thì họ mới thông cảm,
quý mến và nghe theo. Đây chính là Bô-tát dùng phương tiện thân
cận để độ chúng sinh.
Mặc dù có trí tuệ sáng suốt nhưng ông Duy Ma Cật không có tinh
thần bảo thủ cho rằng chỉ có chánh Pháp của ta là cao quý, là vô
địch mà ông còn học hỏi những sách vở thế tục và kinh điển của
ngoại đạo để mở mang kiến thức vì trong thế gian nầy tuy tôn
giáo có nhiều hình thức khác nhau nhưng chung quy vẫn đều suy
tìm Chân Lý. Đó là tìm về với cội nguồn bản thể, với bản lai
diện mục, với Chân tánh để phát huy trí tuệ và hòa nhập với Chân
Như. Vì thế đọc là để thấy, để biết nhưng ông không hề hủy hoại
chánh tín, luôn cung kính, giữ gìn chánh Pháp và cúng dường Tam
Bảo.
Vì thị hiện làm thân trưởng giả, có gia đình vợ con nên phải làm
ăn buôn bán, nhưng ông làm thương mãi không phải vì mục đích
kiếm tiền cho riêng mình mà dùng tiền của như là phương tiện để
bố thí cho người nghèo khổ, gieo duyên lành cho họ tu học Phật
Pháp. Pháp Đại Thừa là con đường tu hành của Bồ-tát với tôn chỉ
làm lợi ích cho chúng sinh. Tâm Bồ-tát thì bình đẳng vì dưới mắt
của họ ai ai cũng là chúng sinh, không phân biệt già trẻ, sang
nghèo, đẹp xấu… và ai ai cũng đều có Phật tính cả. Ngay cả trẻ
thơ ông cũng gieo duyên mặc dù chúng chưa có đủ trí tuệ để hiểu
biết Phật Pháp cao thâm huyền diệu nhưng ông vẫn gieo những
chủng tử lành vào trong tâm thức của chúng. Đây chính là những
hạt giống tốt để mai sau khi đủ duyên thì chúng sẽ nẩy mầm, đơm
hoa và kết quả.
Vì thế Kinh Hoa Nghiêm có nói:
Chẳng phải tự mình cầu khoái lạc
Quyết vì cứu độ cả quần sanh
Nếu ông ở trong hàng trưởng giả thì trưởng giả tôn kính vì
ông nói Pháp thù thắng. Nếu ở trong hàng cư sĩ thì họ cung kính
vì ông mà họ đoạn trừ tâm tham trước. Nếu ông ở trong dòng Sát
Đế Lợi thì họ cung kính vì ông dạy họ pháp nhẫn nhục.
Sát Đế Lợi là dòng võ tướng, lên ngựa cầm
binh ra trận cho nên đối với những dũng tướng can cường nóng
tính thì ông dạy hạnh nhẫn nhục. Nếu ở trong dòng Bà La Môn thì
được họ tôn trọng vì ông dạy họ trừ hết tâm ngã mạn. Trong xã
hội Ấn Độ thời bấy giờ có bốn giai cấp là Bà La Môn, Sát Đế Lợi,
Tỳ xá và Thủ Đà La mà Bà La Môn là giai cấp cao nhất, họ tu hạnh
trong sạch và thờ trời Đại Phạm Thiên nên họ sinh tâm ngã mạn
khinh khi những giai cấp thấp hơn.
Nếu ở trong Đại thần thì Đại thần tôn
kính và thọ Chánh Pháp. Nếu ở trong hàng vương tử thì họ tôn
kính vì ông dạy họ đạo nghĩa hiếu trung. Nếu ở trong nội cung
thì nội cung cung kính vì ông dạy họ làm người cung nữ chân
chính. Nếu ở chỗ thứ dân thì thứ dân tôn trọng vì ông dạy họ làm
những điều phước lành. Nếu ở chỗ Phạm Thiên thì được các bậc
trời cung kính vì ông dạy họ trí tuệ thù thắng. Nếu ở hàng Đế
Thích thì được trong hàng Đế Thích tôn trọng vì ông thị hiện
cảnh vô thường.
Tại sao lại chỉ thị hiện cảnh vô thường cho
hàng trời Đế Thích mà không dạy cái gì khác? Bởi vì Đế Thích
đang ở cõi trời, thừa hưởng ngũ dục lạc nên dễ bị mê. Người giàu
sang sung sướng thì họ không chịu tu ví cũng như người cột đá
vào thân nhảy xuống nước thì làm sao bơi nổi? Nay ông Duy Ma Cật
thị hiện cảnh vô thường như là sinh lão bệnh tử, có sanh tất có
diệt cho dù thọ mạng trên trời có dài hơn dưới trần gian nhưng
vẫn có ngày tận. Phước báo hết thì sẽ bị đọa nếu không tu tâm
dưỡng tánh và dùng phước đức hiện tại để tạo thêm phước đức cho
ngày mai.
Phần trên là để giới thiệu và diễn tả tất cả những sự việc đã
làm nổi bật tư cách cao quý của ông Duy Ma Cật. Ông có đủ những
đức tính từ bi, trí tuệ, biện tài vô ngại, phương tiện thiện xảo
của chư Phật. Vì thấy chúng sinh sống trong cảnh khổ mà không
biết khổ lại cứ say mê chạy theo lục dục thất tình mà gây ra
nghiệp để phải chịu sinh tử luân hồi nên mặc dù là một đại
Bồ-tát, ông vẫn thị hiện làm thân cư sĩ dùng vô số phương tiện
cứu độ chúng sinh. Thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ là những giá trị đạo đức của người lảnh đạo
để đưa đất nước đến chỗ phú cường thì ở đây trưởng giả Duy Ma
Cật dù ở trong giai cấp nào ông vẫn là tấm gương cho giai cấp đó
vì tất cả việc làm dù ở hoàn cảnh hay ở trường hợp nào ông cũng
nhắm thẳng cái lợi ích cho người mà ông ở trong cảnh đó chớ
không phải vì thụ hưởng, vì an vui riêng cho mình. Như vậy ở
trong cảnh giàu, ở trong cảnh quan quyền hay ở trong cảnh dòng
họ cao quý đều là vì muốn thức tỉnh, muốn cảnh giác họ chớ không
vì thụ hưởng cho bản thân mình. Có thế thì chúng sinh mới nghe,
mới tin, mới phục và lý tưởng cũng như mục đích cứu độ của
Bồ-tát mới được thực hiện viên mãn và tồn tại mãi mãi trong lòng
chúng sinh.
Con người thường hay có quan niệm sai lầm về Bồ-tát. Họ nghĩ
rằng Bồ-tát thì phải có hào quang sáng chói, đi mây về gió, hiện
thần thông biến hóa, ngàn tay ngàn mắt… nhưng thật ra Bồ-tát
thường sống lẫn lộn với người đời mà không ai hay biết. Sau năm
1975 khi làn sóng người Việt vượt biển ra đi tìm tự do trên
những chiếc tàu đánh cá rất nhỏ, lênh đênh không định hướng,
thiếu lương thực. Nếu may mắn họ được những tàu lớn cứu vớt thì
ông hạm trưởng cùng thủy thủ đoàn không là những vị Bô-tát thì
là gì? Có một thuyền trưởng người Đại Hàn sau khi thấy một chiếc
tàu đánh cá rất nhỏ chở trên trăm người sắp bị chết đuối làm cho
ông ta động tâm muốn cứu, nhưng thượng cấp không cho. Sau khi đi
một đoạn đường ông quyết định quay tàu trở lại cứu hết những
người tị nạn và đưa họ vào bờ an toàn mặc dầu ông biết sau đó sẽ
bị cách chức. Khi thấy một căn nhà cháy mà có người mạnh dạn
chạy vào cứu đem những người già hay trẻ em chạy ra, một người
nhảy xuống sông cứu một người đang chết đuối, làm việc từ thiện
giúp đỡ viện mồ côi che chở kẻ khốn cùng hoạn nạn mà lòng không
mong cầu, dùng lời nói hòa diệu để an ủi kẻ khốn khổ đau thương,
ngay cả dắt một người già đi qua đường… đều là hành vi của
Bồ-tát bởi vì họ làm việc quên mình mà chỉ cần lợi ích cho chúng
sinh đôi khi có thể hy sinh cả mạng sống của mình. Vì thế chư
Bồ-tát hiện thân hay con người hành Bồ-tát đạo đều như nhau cả.
Trưởng giả Duy Ma Cật vận dụng vô số phương tiện để đem lại lợi
lạc cho chúng sinh và hôm nay ông lại hiện thân có bệnh.
Nghe ông bị bệnh, Quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ,
Bà-la-môn, các vương tử và các thân thuộc cả mấy ngàn người lần
lượt đến tịnh thất của trưởng giả mà vấn an. Nhân cơ hội có
nhiều người đến thăm bệnh, ông Duy Ma Cật thừa cơ thuyết Chánh
Pháp.
Thưa các nhân giả: Cái huyễn thân nầy thật là vô thường,
không mạnh, không dai, không bền, không chắc. Nó là cái thứ mau
mục nát, dễ rệu rã chẳng đáng tin cậy. Nó là cái khối chứa nhóm
các khổ đau, buồn phiền và nhiều bệnh tật.
Đây là lần đầu tiên trưởng giả Duy Ma Cật lên tiếng trong bộ
kinh nầy vì những phần trước là lời của Phật và chư Bồ-tát nói
ra để giới thiệu và tán thán ông Duy Ma Cật. Vì hiện thân có
bệnh nên trước hết ông nói về thân. Phàm là con người thì ai
cũng quý cái xác thân của mình. Hễ thân kêu đói thì cho ăn, thân
lạnh thì mặc áo ấm mở máy sưởi, thân kêu nóng thì lo gắn máy
lạnh, muốn thân mạnh khỏe thì phải lo tẩm bổ bồi dưỡng và khi
thân đau yếu thì lo chạy thuốc thang. Muốn thân đẹp thì trang
điểm và muốn thân hạnh phúc thì mua nhà cao, xe mới, nấu thức ăn
ngon cho thân dùng. Tranh công đoạt chức để cho thân hãnh diện…
Vì vậy con người có làm bao nhiêu điều tội lỗi, gây ra lắm
nghiệp căn để phải chịu quả khổ đời đời cũng vì cưng chiều xác
thân quá đáng. Nhưng thân có thật chăng? Chúng ta là phàm nhân
thì tin chắc thân nầy là thật, là bền, là chắc, là của riêng ta,
nhưng ông Duy Ma Cật nói thân nầy là huyễn tức là giả, là không
thật, không bền, không chắc vì thân là vô thường, biến đổi. Tại
sao? Ngày nay chúng ta ngồi đây xem kinh nầy, nhưng có ai bảo
đảm ngày mai chúng ta cũng được như vậy đâu? Một luồng gió độc,
một mạch máu não bể hay một viên đạn xuyên qua là mất mạng. Ngày
xưa chúng ta mạnh khỏe tráng kiện bao nhiêu mà ngày nay tay mỏi,
lưng còng, da nhăn, má hóp thì luật vô thường đâu có thương xót
một ai. Có ai trẻ mãi mà không già hoặc có người nào sống đời mà
không chết? Khoa học ngày nay đã chứng minh cứ mỗi bảy năm thì
các tế bào trong thân thể con người hoàn toàn thay đổi và chính
sự thay đổi nầy làm con người chóng lớn, chóng già và chóng
chết. Tất cả cũng chỉ nằm trong luật vô thường là sinh, trụ, dị,
diệt mà thôi.
Thưa các nhân giả:
- Người trí không tin cậy ở thân vì nó là khổ não thì làm
sao tin cậy vào nó được.
- Thân như bọt nước không thể nắm bắt cũng ví như khi ra biển
chúng ta thấy sóng nước tạo ra vô số bọt biển nhưng có ai bắt
được nó đâu? Đây là để diễn tả về không gian vô thường, có tan
có hợp.
- Thân nầy như bong bóng không được bền lâu bởi vì dầu trời mưa
có tạo thành hàng loạt bong bóng. Nhưng khi bong bóng vừa nổi
lên liền tan vở, biến mất. Đó là hiện thân của thời gian vô
thường. Cũng như chúng ta mới ngày nào còn là thanh niên nữ tú,
da dẻ hồng hào, tráng kiện, minh mẫn mà ngày nay lưng mỏi, gối
run, da khô, mắt kém, nhớ trước, quên sau…
- Thân nầy như cây chuối do bẹ hợp lại thành cây trong đó
không có cái nào rắng chắc vì cây chuối là do từng bẹ tạo thành.
Nếu tách từng bẹ ra thì không có thân cây chắc ở bên trong.
- Thân nầy như huyễn từ điên đảo khởi sanh. Cũng ví như
nhà ảo thật Chist Angel làm cho con người bay bổng lên không mà
ai ai cũng tin là thật.
- Thân nầy như mộng do cái thấy hư dối mà thành. Khi nằm
chiêm bao, chúng ta thấy đang ở trong một căn nhà đang cháy nên
hốt hoảng tìm lối chạy ra. Vừa chạy vừa la, lo sợ đến toát mồ
hôi nhưng khi tỉnh giấc biết mình nằm mộng thì cháy nhà cũng
tan, lo sợ cũng hết. Dựa theo Phật giáo, con người đang sống
trong một giấc mộng dài vì tất cả chúng sinh đang nằm chiêm bao
trong suốt chiều dài của cuộc đời họ. Sự sung sướng, khổ đau,
tiền tài, danh vọng chỉ là giả tạm, sinh diệt mà con người cố
bám vào đó vì họ cho đó là thật, là của họ. Nếu thức tỉnh, con
người sẽ thấy rằng tiền tài, danh vọng, của cải vật chất, gia
đình quyến thuộc đều là giả, sinh diệt vì tất cả đều do tâm vọng
thức tạo ra. Vì thế mà kinh Lăng Nghiêm mới dạy rằng chỉ khi nào
chúng sinh giác ngộ được Chơn tâm thì vọng thức sẽ tan biến. Ngộ
được chơn tâm như người thức giấc mộng, không ngộ được chơn tâm
như người còn ngủ chiêm bao.
- Thân nầy như cái bóng từ nơi nghiệp duyên mà hiện.
Đây là nói về luật nhân quả nghiệp báo. Con
người có được là do nghiệp báo tạo tác từ vô lượng kiếp mà
thành. Quả theo nhân cũng như bóng theo hình vì thế có hình thì
có bóng cho nên nếu không muốn chịu quả báo thì tránh gây ra
nhân.
Trong Kinh A Hàm có câu chuyện kể rằng:
Một hôm có vị Bà La Môn hỏi Phật:
- Thưa Ngài Cù Đàm! đệ tử của Ngài chết, Ngài có thể cầu
nguyện cho họ lên thiên đường được không?
Phật không đáp mà hỏi lại:
- Nếu đệ tử của các ông chết, các ông có thể cầu nguyện
cho họ lên thiên đường được không?
Người Bà La Môn đáp:
- Được.
Phật liền đưa ra một thí dụ:
- Giả sử có người đem một tảng đá lớn để trên miệng giếng,
rồi thỉnh hai ba chục vị Bà La Môn đứng xung quanh cầu nguyện
cho vị ấy xô tảng đá xuống giếng để tảng đá nổi không chìm. Quý
vị Bà La Môn có cầu nguyện được không?
- Cầu không được.
Phật hỏi:
- Tại sao?
Người Bà La Môn đáp:
- Vì đá nặng, rớt xuống nước là chìm dầu cho hàng triệu
người cầu nguyện nó cũng không nổi được.
Phật lại hỏi tiếp:
- Giả sử có người đem dầu đổ xuống giếng, rồi mời các vị
Bà La Môn cầu nguyện cho dầu đừng nổi mà chìm dưới đáy giếng.
Các vị có cầu được không?
Người Bà La Môn đáp:
- Không được.
- Tại sao?
- Vì dầu nhẹ nên nổi ở trên mặt nước, không thể chìm dưới
đáy giếng được.
Bây giờ Phật mới nói:
- Cũng vậy, nếu người tạo thập ác là cái nhân đọa vào
đường ác thì làm sao cầu nguyện cho họ lên thiên đường. Ngược
lại người tu thập thiện dù có người ác ý muốn cầu cho họ xuống
địa ngục thì họ vẫn lên thiên đường như thường.
Ngày nay đa số Phật tử không chịu tu mà cứ chạy theo tài sắc
danh lợi để gây ra nghiệp. Đến khi gần chết, sợ quá nên thỉnh
chư Tăng cầu nguyện để được lên thiên đường hoặc về Tây phương
cực lạc. Dựa theo thí dụ trên thì cầu nguyện có thành tựu không?
Chắc chắn là không được. Chân lý của đạo Phật là tự độ, tự giác
nên chỉ có ta mới có thể giải thoát cho ta mà thôi. Đừng ỷ lại
vào người khác hoặc hy vọng vào sự cầu nguyện thì có ngày sẽ hối
hận vì tự tác hoàn tự thọ nghĩa là ta làm thì ta phải chịu. Toàn
bộ giáo lý của Đức Phật là độ sanh tức là tu sửa cái nhân để
giúp con người đạt được tâm thanh tịnh mà được giải thoát giác
ngộ. Rất tiếc ngày nay Phật giáo chỉ quan tâm đến độ tử tức là
cái quả. Chuyển nghiệp tức là tu nhân còn quả là nghiệp báo thì
làm sao sửa được. Đây là tà kiến tiền mất tật còn vậy. Nên nhớ
không có tha nhân nào có thể cầu nguyện cho người khác về Tây
phương cực lạc được.
Người Việt Nam có cái tật là cất nhà phải lựa chỗ hàm rồng để
sau nầy con cháu làm ăn phát đạt. Hay khi chôn ông bà cũng lựa
chỗ hàm rồng để sau nầy con cháu phát quan. Thế thì chúng ta
chọn chỗ tốt để chuyển con người thành tốt. Vậy chuyển có được
không? Giả sử nếu chuyển được thì gia đình con cháu các ông địa
lý đã thành giàu sang phát quan hết rồi vì đương nhiên các ông
phải lựa chỗ tốt cho gia đình của họ trước rồi còn lại mới lựa
cho mình sau. Nhưng tại sao chính bản thân của các ông và con
cháu của các ông không làm quan làm vua mà các ông vẫn cứ làm
thầy địa lý? Giàu có, quan quyền là do phước đức nhà mình chớ
không phải do ông thầy địa lý. Nếu lựa chỗ chôn cha mẹ để được
phát quan trong khi mình là kẻ bất tài thiếu phước thì làm sao
phát quan được. Ngược lại nếu chúng ta thật có tài có đức thì
công danh phú quý sẽ đến mau hay chậm mà thôi.
Thêm nửa, đạo Phật không thừa nhận linh hồn mà cho rằng con
người có thức chuyển biến và thức ấy chính là cái biết phân
biệt. Cái biết phân biệt nầy là một dòng chuyển biến không dừng.
Khi ta còn bé thì sự hiểu biết phân biệt theo trẻ con. Đến khi
lớn lên thì sự hiểu biết phân biệt cũng theo thời gian mà phát
triển. Thí dụ nếu có duyên học cao hiểu rộng thì trí phân biệt
càng sâu xa. Do đó tâm thức con người luôn luôn biến đổi không
ngừng. Còn linh hồn thì cố định. Vì linh hồn cố định nên có học
cũng không giỏi, không học cũng chẳng ngu và dĩ nhiên tu hành
cũng không tiến bộ.
- Thân nầy như mộng do nhân duyên mà có. Đây là nói về lý
nhân duyên có nghĩa là con người và vũ trụ là một duyên khởi rất
lớn tức là các pháp làm nhân, làm duyên cho nhau để nương tựa,
tương phản dung thông mà thành lập ra con người và vũ trụ. Vì
pháp nầy dung thông với pháp kia để làm duyên khởi nên thân là
sinh diệt, tạm bợ, không bền, không chắc. Biết nhân sinh vũ trụ
luôn luôn biến đổi nên chúng ta sống tùy duyên và theo duyên.
Tạo duyên tốt thì thăng tiến còn tạo duyên xấu thì phải trầm
luân. Đủ duyên thì thân nầy có, hết duyên thì thân nầy tan. Như
vậy là quả theo nhân theo duyên mà có chớ không phải tự nhiên mà
thành.
- Thân nầy như mây nổi trong chốc lát liền biến diệt. Vì
thân là vô thường nên cơ thể con người biến đổi từng giây từng
phút. Mỗi ngày chúng ta già đi một chút và trong ta các tế bào
chết lần chết mòn chứ đâu phải xuôi tay nhắm mắt mới gọi là
chết.
- Thân nầy như làn điện chớp mỗi niệm nó không dừng. Khi
nói thân và tâm nhưng thật ra chúng chính là một. Vì thân là
hình tướng còn tâm là năng lực để hình tướng có thể hoạt động.
Do đó nếu tâm rời thân thì năng lực chẳng tồn tại còn thân không
nhờ tâm thì hình tướng không phát hiện được. Nhưng tâm thì thay
đổi không ngừng, mỗi phút có hàng ngàn ý niệm sinh khởi cho nên
thân cũng vì thế mà đổi thay theo. Càng biến đổi thì thân càng
dễ hoại cũng như chiếc xe nếu con người chạy nhiều thì nó sẽ mau
hư. Trong kinh Kim Cang cũng có bài kệ:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán.
Dịch là:
Tất cả pháp hữu vi
Như giấc mộng, như huyễn, như bọt nước, như hình bóng,
Như giọt sương, như ánh điện chớp,
Nên quán tưởng như thế.
- Thân nầy không chủ như là đất.
- Thân nầy không có ngã ví như lửa.
- Thân nầy không có thọ mạng ví như gió.
- Thân nầy không có người ví như nước.
- Thân nầy không thật vì là sự tổ hợp của tứ đại. Vì thân
là sự kết hợp của tứ đại : đất, nước, gió, lửa. Mà chính đất,
nước, gió, lửa là sự tổng hợp của biết bao nhân duyên khác nên
chúng là vô ngã tức Không. Hễ là vô ngã thì thân sẽ bị ảnh hưởng
của luật vô thường là thành, trụ, hoại, không tức là có sinh tất
có diệt.
- Thân nầy vốn không vì không có ngã và ngã sở.
- Thân nầy là vô tri như là cỏ cây, gạch ngói.
- Thân nầy vô tác giả vì do sức nghiệp chuyển sanh. Theo
Phật giáo thì con người cũng như vạn vật trong vũ trụ nầy là do
tự kỷ nhân quả mà thành chứ không phải là do một đấng thiêng
liêng nào tạo ra hay là do một phép mầu nhiệm nào kết cấu cả.
Cho nên trong Tạo-hóa-nhơn-tâm có bài kệ:
Nghiệp-Duyên bởi tại lòng
Ảnh-hưởng nào sai-chạy
Tạo-hóa vốn không làm
Quần-sanh tự tạo lấy.
Theo thuyết nghiệp cảm duyên khởi thì trong đời quá khứ con
người gây ra lắm nghiệp căn thì đời nầy phải thọ nhận những quả
báo nầy. Thân xác, tính tình, khổ vui, giàu sang hay nghèo
khó…đều là do quả báo tạo thành chớ không do ai tạo ra cả. Mỗi
một nghiệp mà con người vừa tác tạo chính là một vết mực để vẽ
cho bức tranh của đời họ ở đời sau. Đến khi thân mất thì chính
chúng ta đã vẽ xong bức tranh cuộc đời cho mình trong kiếp sau.
Vì thế nếu muốn có thân đẹp và cuộc sống được an vui thịnh vượng
thì bây giờ nên tạo nghiệp lành. Ngược lại thì thân xấu, cuộc
sống nhiều trắc trở, sóng gió và thiếu hạnh phúc.
- Thân nầy bất tịnh đầy dẫy uế trược xấu xa.
- Thân nầy tạm bợ, rỗng không dù có ăn mặt tắm rửa nhưng
cuối cùng cũng tiêu ma hoại diệt.
- Thân nầy là tai họa chứa nhóm một trăm lẻ một bệnh khổ
sầu đau.
- Thân nầy như giếng trên đất gò cao bị cái bệnh già nó
bức bách.
- Thân nầy không cố định vì không biết sẽ chết lúc nào.
- Thân nầy là rắn độc, là kẻ oán thù, cướp giựt, là xóm
rỗng do ngũ uẩn, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới gá hợp mà
hình thành.
Thân của con người thì bất tịnh, nhơ bẩn từ khi còn nằm trong
bụng mẹ đến khi lớn lên sự bất tịnh cũng tăng theo. Vì hằng ngày
phải hấp thụ biết bao vật chất từ bên ngoài để nuôi thân nên
thân phải tống ra bao đồ phế thải. Bên dưới lớp da tươi thắm,
xinh đẹp thì lục phủ ngũ tạng không bất tịnh thì là gì? Vì thân
là do sự kết hợp của nhân duyên ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành,
thức) nên thân là vô ngã, là giả Có tức là Không nên không bền,
không chắc. Duyên kết thì còn duyên tan thì hoại thế thôi. Sau
khi sanh thì lục nhập tức là sáu căn tiếp nhận sáu trần (mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp) mà tạo thành thập bát giới (sáu căn cộng với sáu trần
trở thành sáu giới của thức). Mà chính sáu căn, sáu trần, sáu
thức là vô ngã nên thân cũng là vô ngã, biến dịch và tan rã.
Lời nói đầu tiên của ông Duy Ma Cật là khai thị cho chúng sinh
thấy biết rõ ràng về thân để con người quay về nhìn lại mà chán
chê, chớ ham tiếc, cưng chiều cái thân vô thường tạm bợ, là cội
gốc của phiền não khổ đau và cũng là nguyên nhân đưa con người
lang thang lẩn thẩn trong vòng sinh tử luân hồi.
Đây chính là cái nhìn của hàng Tiểu thừa là thấy thân là vô
thường, vô ngã, đau khổ và bất tịnh. Nếu không lìa tướng mà tu
hành thì khó mà ngộ được cho dù chấp Có chấp Không cũng đều là
vọng chấp làm chướng ngại trên con đường giải thoát giác ngộ. Vì
thế cổ nhân có bài kệ như sau:
Bỏ chấp mới là thật
Bằng còn chấp tức là hư
Chẳng Không cũng chẳng Có
Chi thiếu lại chi thừa?
Đau, thuốc thang điều trị
Mạnh, phương pháp diệt trừ
Lý tam Không tỏ đặng
Xuất chúng nhập Vô-dư.
Bây giờ trưởng giả Duy Ma Cật mới bắt đầu chuyển cái nhìn, cái
thấy, cái biết, cái suy luận của hàng Tiểu thừa sang một thế
giới mới. Đó là thế giới của Đại thừa. Chỉ khi nào chúng sinh
nhận thấy được các đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của tất cả hiện
tượng vạn pháp thì con người mới chứng ngộ được Chân Lý.
Thưa các nhân giả:
Phải sanh tâm khinh rẻ cái thân nầy và sanh tâm ham mến thân
Phật. Vì thân Phật là Pháp thân. Thân Phật từ vô lượng công đức
trí tuệ sanh. Từ giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri
kiến sanh. Từ từ, bi, hỷ, xả sanh. Từ bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ sanh. Từ phương tiện sanh.
Từ lục thông sanh. Từ tam minh sanh, Từ ba mươi bảy phần trợ đạo
sanh. Từ chỉ quán sanh. Từ thập lục, tứ vô úy sanh, thập bát bất
cộng pháp sanh. Từ chỗ dứt hết tất cả các pháp bất thiện, chứa
nhóm tất cả thiện nghiệp sanh. Từ chân thật sanh. Từ vô lượng
pháp thanh tịnh như thế mà sanh thân Như Lai.
Đức Phật là giác giả và có ba thân là Pháp thân, Báo thân và Ứng
thân.
1) Pháp thân: Chữ Phạn là Dharmakaya chính là tự tánh thân, là
thân bất sinh bất diệt, thường trụ và lan tỏa trong khắp cả
không gian làm sở y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân. Phật lấy
Pháp Tánh Chân Như làm thân nên gọi là Pháp thân. Vì là Chơn
Như, Pháp Giới Tánh, Như Lai Tạng… nên Pháp thân hiện hữu ở khắp
nơi và cũng là bản thể của muôn loài chúng sanh. Thọ mệnh của
Pháp thân không có lúc ban đầu và cũng không có lúc cùng tận tức
là vô thỉ tới vô chung. Do đó chư Phật ngày nay lúc nào cũng
thường trụ trong tâm của tất cả chúng sinh và vĩnh hằng ở khắp
mọi nơi chính là Pháp thân Tỳ Lô Giá Na vậy. Phật và chúng sinh
đều có Pháp thân như nhau, không sai không khác, không cao không
thấp, nhưng ở Phật thì Pháp thân thường sáng suốt chiếu soi rực
rỡ. Còn ở chúng sinh thì bị màng vô minh che lấp nên không thể
hiện bày. Vì thế Pháp thân chính là nơi chúng sinh trở về sau
khi diệt hết vô minh phiền não khổ đau. Hết vô minh thì trí tuệ
bừng sáng và Pháp thân hiện bày. Do đó Pháp thân chính là nguồn
gốc, là Bản Thể của muôn sinh vạn vật và cũng là Bản Lai Diện
Mục, là Phật Tánh vĩnh hằng có sẳn trong tất cả muôn loài vậy.
2) Báo thân: Chữ Phạn là Sambhogakaya là cái thân tốt đẹp do
công phu tu hành trải qua nhiều đời nhiều kiếp mà đạt được. Vì
đây là thân của các Như Lai do thành tựu công đức tu hành nên
chỉ có chư Phật mới thấy còn phàm nhân thì không trông thấy.
Cũng ví như người niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất loạn thì được
vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà và thọ
báo thân trong hoa sen. Cho nên Tịnh độ thi có câu:
Mỗi niệm chỉ cần không thối chuyển
Ao vàng đã sẵn có liên hoa
Thân tàn về cõi báu
Sen nở thấy Di Đà.
Đối với chúng sinh thì báo thân mà Phạn ngữ gọi là Karmakaya có
nghĩa là con người phải thọ lãnh thân của mình tùy thuộc vào tất
cả nghiệp quả mà chính họ đã tạo ra trong đời quá khứ. Những
chủng tử của nghiệp là phần thần thức duy nhất còn lại sau khi
con người mất và nó sẽ quyết định thân của con người trong đời
nầy. Thân có đẹp, xấu hay cuộc đời có sướng, khổ chẳng qua chỉ
là quả báo mà thôi. Ngược lại chư Phật hay Bồ-tát tự nguyện vào
đời vì lòng từ bi muốn cứu độ chúng sinh chứ không phải bị
nghiệp lực chi phối.
3) Ứng thân: Chữ Phạn là Nirmanakaya còn được gọi là hóa thân
hay ứng hóa thân vì thân nầy có hình tướng mà con người thấy
được nên phải bị chi phối của luật vô thường là sinh lão bịnh
tử. Thí dụ như cách nay trên vài ngàn năm, Thái tử Tất Đạt Đa
ứng thân vào dòng họ vua Tịnh Phạn, lớn lên nổ lực tinh tấn tu
hành, thành Phật để hóa độ chúng sinh rồi nhập diệt giữa hai cây
Sa-la song thọ.
Ngoài ra trong cõi Ta bà nầy đôi khi có chư Phật hay Bồ-tát ứng
hiện ra nhiều hình tướng khác nhau để cứu độ chúng sinh trong
một thời gian hay trong một hoàn cảnh đặc biệt nào rồi biến mất.
Đối với người Việt tỵ nạn thì không ai lạ gì những câu chuyện về
Đức Quán Thế Âm hiện thân trên biển Thái Bình Dương để cứu vớt
nhiều con thuyền sắp bị đắm chìm rồi sau đó biến mất.
Thật ra ngày nay Phật giáo cũng chưa đồng nhất về ý nghĩa của
Báo thân và Ứng thân của Phật.
1) Dựa theo tư tưởng của Phật giáo Tiểu thừa thì Đức Phật khi
chưa thành Phật, Ngài là Thái tử mà đây chỉ là Báo thân cuối
cùng để Ngài trả hết những quả báo còn lại như bị Đề Bà Đạt Đa
làm hại, bị chảy máu… và sau cùng xóa bỏ Báo thân nhục thể mà
được Pháp thân chân thường của chư Phật.
2) Ngược lại với tư tưởng của Phật giáo Nam Tông thì Phật giáo
Đại thừa chủ trương rằng Đức Phật Thích Ca đã thành Phật từ vô
lượng kiếp và Ngài thị hiện trong cõi Ta-bà để độ chúng sinh mà
Thái tử Tất Đạt Đa chỉ là Ứng thân mà thôi.
Nói một cách khác, sự khác biệt giữa Nam Tông và Bắc Tông trong
việc thờ một hay nhiều vị Phật xuất phát từ hai quan niệm khác
nhau. Nam Tông cho rằng chỉ có một vị Phật duy nhất là Đức Thích
Ca Mâu Ni vì họ căn cứ vào những sự kiện lịch sử tức là nhìn vào
sự Tướng. Trong khi đó, Bắc tông quan niệm ngoài Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni còn có hằng hà sa số chư Phật giáo hóa chúng sinh ở
khắp mọi nơi trong vủ trụ. Bắc tông thì dựa vào kinh điển mà Đức
Phật đã thuyết. Tùy theo sở thích hay tâm niệm mà chúng sinh có
thể tin theo quan niệm nào cũng được. Thật ra điều nầy không có
gì quan trọng cho dù chúng ta theo Nam tông hay Bắc tông hay tin
có một vị Phật hay nhiều vị Phật thì điều quan trọng vẫn là tinh
tấn tu học theo lời Phật dạy. Hình thức, phương tiện tuy sai
khác nhưng cứu cánh vẫn là một. Do đó con người đừng chấp vào
phương tiện mà chính yếu là phải tự cất bước mà đi, tự nổ lực để
đạt đến cứu cánh giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi.
Khi nói về Pháp thân thì:
Đạo là tỏ-ngộ tánh bình thường
Đói phải ăn cơm, buồn phải ngũ.
Chẳng cần tìm Phật đâu xa
Tây phương tại đó Thích Ca nơi nầy
Hoặc là:
Đêm đêm với Phật nằm
Sáng sáng cùng đồng dậy
Tất gan chẳng cách-xa
Ảnh hưởng nào sai-chạy
Muốn biết Phật ở đâu,
Do nơi lời nói ấy.
Cũng ví như những làn sóng nhấp nhô của đại dương. Đợt sóng nầy
tan thì đợt sóng khác lại đến. Nước biển là Tướng, sóng biển là
Dụng còn tính nước yên tịnh dưới lòng đại dương là Thể của nước.
Cùng một ý nghĩa thì Pháp thân là Thể, Báo thân là Tướng và Ứng
thân là Dụng. Mặc dầu Thể, Tướng và Dụng tuy ba nhưng mà một tức
là Bất nhị có nghĩa là Thể, Tướng và Dụng cũng đều là do nước mà
ra. Vậy một ở đây chính là Bản Thể Chơn Như, là Chơn Tâm vậy.
Thưa các nhân giả:
Muốn được thân Phật, muốn vứt bỏ cái thân nhiều bệnh khổ của
chúng sanh thì phải phát tâm vô thượng Bồ-đề.
Vô Thượng Bồ-đề tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác có nghĩa
là sự giác ngộ sáng suốt hoàn toàn không gì hơn. Mà muốn đạt đến
trình độ để có được sự tỉnh thức giác ngộ chân chánh thì chúng
sinh phải phát tâm. Phát tâm theo tinh thần Phật giáo là Tri và
Hành phải hợp nhất. Nếu Tri mà không Hành thì chỉ là lý thuyết
suông tức là năng thuyết bất năng hành có nghĩa là lời nói không
đi đôi với hành động cũng như nhân viên ngân hàng suốt ngày đếm
tiền cho kẻ khác mà trong túi của mình không có một xu… Còn Hành
mà thiếu Tri thì cũng như người mù dẫn kẻ đui, sa hầm sụp hố,
không rõ đường đi dễ rơi vào tà đạo.
Phát tâm là hướng tâm đi về con đường giải thoát giác ngộ mà hai
cánh cửa chính là tam huệ học và tam vô lậu học. Tam Huệ học thì
có Văn huệ tức là học hỏi, tham vấn kinh điển của Phật để nhận
hiểu mà phát sinh trí tuệ. Tư huệ là suy tư quán chiếu những lời
Phật dạy để thấy được sự huyền diệu của kinh. Và sau cùng là tu
huệ có nghĩa là đem thực hành và thể nghiệm những giáo lý của
Phật để chứng được Chân lý mà giác ngộ. Sau khi đã mở được cánh
cửa Tam Huệ học thì cánh cửa sau cùng để vào căn nhà giác ngộ là
Tam Vô Lậu học. Chính Giới, Định, Tuệ là chiếc thuyền êm ái để
đưa chúng sinh từ bờ mê đến bến giác. Bởi vì có giữ Giới thì tâm
mới Định, mà có vào sâu vào Định thì trí tuệ Bát nhã mới phát
sinh. Chính cái trí tuệ Bát nhã nầy là cứu cánh của tất cả mọi
người.
Trưởng giả Duy Ma Cật vì những người đến thăm bệnh mà nói pháp
khiến cho vô số nghìn người phát tâm vô thượng Bồ-đề. Chư Phật
và Bồ-tát dùng mọi phương tiện thiện xảo để hóa độ chúng sinh.
Có khi các Ngài tạo duyên để đến với chúng sinh mà giáo hóa, có
lúc các Ngài tạo duyên làm cho chúng sinh đến với các Ngài.
Trong kinh nầy ông Duy Ma Cật dùng phương tiện có bệnh để chúng
sinh đến thăm ông và tùy duyên mà tỏ bày Chánh pháp khiến mọi
người phát tâm cầu quả vị Phật. Phát tâm là nhân, là bước đầu
trên con đường bỏ tà quy chánh, phá mê chuyển ngộ mà chứng ngộ
là bước sau cùng, là quả. Thật vậy, có đi mới có đến chỉ cần
chúng sinh tinh tấn chuyên cần lấy Chánh pháp làm bản đồ, lấy
Chánh niệm làm nhiên liệu để lái con tàu Giới Định Tuệ mà thấy
được ngọn hải đăng trí tuệ của bờ giác ngộ.
Một điểm sáng chói khác là tuy ông Duy Ma Cật đã chứng được vô
sanh pháp nhẫn nhưng ông không chủ trương xa lánh cuộc đời để
hưởng thú an vui tịch diệt của Niết bàn mà còn thị hiện dùng
phương tiện, tùy duyên tùy cảnh để giáo hóa chúng sinh và giúp
họ thay tâm đổi tánh và quay về với Chánh đạo. Bồ-tát vào đời
cũng vì lợi ích chúng sinh cho nên với tâm đại bi và trí vô phân
biệt, Bồ-tát thấy mình là chúng sinh, chúng sinh là mình, tuy
hai nhưng mà một tức là Bất nhị. Tâm bình đẳng thì không còn
thấy ta với người, không còn thân sơ, không còn cao thấp…và
không còn thấy giữa mình và chúng sinh có sự sai khác nữa mà chỉ
thấy tất cả là chúng sinh còn đang lặn hụp trong biển trầm luân
đau khổ và lang thang trong vòng sinh tử luân hồi.
|
|