Văn Thù Sư Lợi cũng được gọi là Mạn
Thù Thất Lợi có nghĩa là Diệu Đức tức là mọi đức đều tròn đầy.
Vì có đủ ba đức lớn là Tín, Hạnh, Trí nên kinh điển thường gọi
Ngài là Đại Trí Văn Thù. Ngài Văn Thù đã chứng được Hậu Đắc Trí
tức là đã loại bỏ tất cả mọi phiền não vô minh nên có trí tuệ
thông suốt và giác ngộ hoàn toàn. Dựa theo Duy Thức Luận thì
Ngài có thể chuyển tám thức: A Lại Da Thức thành Đại Viên Cảnh
Trí tức là trí sáng như tấm gương lớn và tròn đầy, Mạt Na Thức
thành Bình Đẳng Cảnh Trí tức là trí có năng lực nhận thức tính
bình đẳng và vô ngã của vạn pháp, Ý Thức thành Diệu Quan Sát Trí
tức là trí có năng lực quan sát vạn pháp rất thâm diệu và Nhãn
Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức thành ra Thành Sở
Tác Trí tức là trí có năng lực nhận thức cùng khắp và rất thần
diệu. Ngoài ra Ngài thấu hiểu Phật tánh bao gồm cả ba đức là
Pháp thân, Bát nhã và Giải thoát cho nên trong hàng Bồ-tát Ngài
là thượng thủ. Văn Thù Sư Lợi xuất hiện hầu như trong tất cả các
kinh điển của Phật giáo Đại thừa: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Thủ Lăng
Nghiêm, Duy Ma Cật…như là một nhân vật thân cận nhất của Đức
Phật Thích Ca.
Là vị Bồ-tát tiêu biểu cho trí tuệ, Văn Thù Sư Lợi thường được
miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ
đoàn bằng hoa sen. Biểu tượng đặc thù của Ngài là trên tay phải,
dương cao lên khỏi đầu, là một lưỡi gươm đang bốc lửa. Chính
lưỡi gươm vàng trí tuệ nầy sẽ chặt đứt tất cả những xiềng xích
trói buộc của vô minh phiền não đã cột chặt con người vào những
khổ đau và bất hạnh của vòng sinh tử luân hồi bất tận và đưa con
người đến trí tuệ viên mãn. Trong khi đó, tay trái của Ngài đang
cầm giữ cuốn kinh Bát Nhã trong tư thế như ôm ấp vào giữa trái
tim. Đây là biểu trưng cho Tỉnh thức Giác ngộ. Đôi khi chúng ta
cũng thấy tay trái của Ngài cầm hoa sen xanh có nghĩa là dùng
trí tuệ để dứt sạch mọi nhiễm ô tham ái cũng như hoa sen ở trong
bùn mà không nhiễm mùi bùn.
Bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Văn Thù Sự Lợi:
- Văn Thù! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.
Bồ-tát Văn Thù thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bậc thượng nhân kia khó đối đáp với ông khi đàm
dạo. Ông đã quán triệt sâu sắc thực tướng. Thuyết pháp rất giỏi.
Biện tài vô ngại, trí tuệ siêu thường. Ông biết hết pháp thức
của Bồ-tát. Thâm nhập kho tàng bí mật của chư Phật. Hàng phục ma
quân. Thần thông du hí. Trí tuệ, phương tiện đáng làm thầy
người. Dù vậy, vâng lời Phật, con sẽ đi thăm bệnh trưởng giả Duy
Ma Cật.
Đây là cuộc tranh luận về giáo pháp của hai nhân vật kiệt xuất
đã chứng ngộ Phật tánh, chuyển Thức thành Trí và rời Sự Tướng
sinh diệt bên ngoài mà nhập Thể Tánh thanh tịnh bất sanh bất
diệt bên trong.
Các Bồ-tát, Thanh văn, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên vương
cùng có ý niệm:
- Nay hai vị đại sĩ Văn Thù Sư Lợi và Duy Ma Cật đàm đạo,
chắc sẽ nói những pháp mầu nhiệm sâu xa. Chúng hội cả mấy ngàn
người đều muốn tháp tùng.
Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi cùng đại chúng tùy tùng hàng hàng lớp lớp
nghiêm trang cung kính đi vào thành Tỳ Xá Ly để thăm bệnh trưởng
giả Duy Ma Cật.
Ông Duy Ma Cật biết Bồ-tát Văn Thù và đại chúng sắp đến. Ông cho
dẹp hết các vật sở hữu chỉ để tịnh thất trống. Không có thị giả
và độc nhất có một cái giường mà bệnh nhân là ông Duy Ma Cật nằm
choán hết.
Tuy đoạn kinh nầy nói về bệnh của thân, nhưng thật ra muốn ám
chỉ về tâm bệnh của con người. Khi dẹp bỏ hết tất cả các vật sở
hữu như bàn ghế, tranh ảnh, vật dụng trong nhà ngay cả người hầu
hạ là ám chỉ ông Duy Ma Cật đã dẹp bỏ hết mọi phiền não của thế
gian. Ngay cả những tư tưởng thiện (thị giả) cũng không còn. Tâm
ông bây giờ hoàn toàn thanh tịnh. Đây là muốn xiển dương Chân lý
Nhất Như hay Nhất Chân Pháp Giới. Bởi vì có nghĩ thiện, nghĩ ác
là còn tâm phân biệt tức là còn kẹt trong vòng nhị nguyên. Còn
phân biệt tức là còn chấp trước thì không bao giờ tâm được thanh
tịnh. Chân lý Nhất Như có nghĩa là thiện ác là một, tốt xấu là
một, sanh tử là Niết Bàn hay phiền não là Bồ-đề. Vì thế Tâm Kinh
có câu:
“Sắc chẳng khác
Không, Không chẳng khác sắc; Sắc tức là Không, Không tức là
Sắc”.
Một thân nằm trên một giường có nghĩa là pháp thân không thể lìa
huyễn thân hay huyễn thân ở trong pháp thân tức là huyễn hóa
không thân tức pháp thân.
Bồ-tát Văn Thù vào thất thấy sự kiện có vẻ lạ thường chưa hỏi
han được gì thì trưởng giả Duy Ma Cật cất tiếng:
- Quý hóa thay! Ngài Văn Thù Sư Lợi đến mà không có tướng
đến. Thấy mà không có tướng thấy.
Văn Thù đáp:
- Đúng vậy, thưa cư sĩ! Nếu đến thì lại chẳng đến. Nếu đi
thì lại chẳng đi. Bởi vì đến không chỗ “Từ đâu”. Đi không chỗ
“Tới nơi nào”. Gọi là “Thấy” kỳ thật chẳng thấy gì.
Vừa gặp gở cư sĩ Duy Ma Cật đã mời khách nếm ngay Pháp vị. Tướng
là giả, Tánh là thật nhưng Tánh không thể rời Tướng được. Dựa
theo Pháp Nhĩ Như Thị của nhà Phật thì thấy mà không có tướng
thấy tức là thấy cũng như không thấy và không thấy cũng như
thấy. Đây chính là Có cũng như Không và Không cũng như Có vì
kinh Kim Cang đã xác định rằng Thật tướng của các Pháp là vô
tướng. Đã là vô tướng thì làm sao thấy được! Vì Tướng và Tánh là
một tức là không thể tách rời nhau vì thế cho dù Tánh là vô
tướng nên không thấy, không đi, không đến nhưng Tướng là hữu
hình, là vô ngã nên có thấy, có đi, có đến là vậy. Nói một cách
khác nếu đứng về Tướng thì có thân người nên có mắt thấy, chân
đi, miệng nói, có người có ta nhưng đứng về Thể Tánh thì tất cả
là Chân Không bao trùm khắp cả, bất sinh bất diệt nên cái Chân
Không nầy không lệ thuộc vào thời gian tức là sinh lão bệnh tử
của luật vô thường hay không gian to nhỏ, nặng nhẹ, màu sắc… bởi
vì tất cả đều là Một.
Lời chào của cư sĩ Duy Ma Cật là dựa vào Thể Tánh chân như bất
sanh bất diệt nên làm gì có tướng đến tướng đi trong khi câu đáp
lại của Văn Thù Bồ-tát cũng dựa vào Thể Tánh là chân không vô
cùng vô tận nên không có chỗ đến và chẳng có chỗ về. Đây chính
là ý nghĩa của chữ Như Lai vậy.
- Thôi! Chúng ta gác lại chuyện ấy. Xin hỏi bệnh của cư
sĩ có được đỡ chưa! Trị liệu có bớt không? Thế Tôn ân cần thăm
hỏi và lo lắng lắm đó.
- Do nguyên nhân gì cư sĩ phát sanh bệnh như thế? Bệnh đã
bao lâu rồi và phải làm sao cho hết?
Ông Duy Ma Cật nói:
- Vì có si mê ái nhiễm mà bệnh của tôi sanh. Vì tất cả chúng
sinh bệnh nên tôi bệnh. Nếu tất cả chúng sinh không bệnh thì
bệnh của tôi lành. Bởi vì Bồ-tát vì chúng sinh cho nên vào trong
sanh tử. Có sanh tử thì có bệnh. Ví như vị trưởng giả có một đứa
con, đứa con bệnh cha mẹ cũng bệnh theo. Nếu bệnh của con lành
thì bệnh của cha mẹ cũng lành. Bồ-tát cũng vậy. Với chúng sinh
thương như con một. Chúng sinh bệnh thì Bồ-tát bệnh. Chúng sinh
lành thì bệnh của Bồ-tát cũng lành.
Ngài hỏi: Do nguyên nhân gì, bệnh của tôi phát sinh.
Xin thưa:
- Bệnh của Bồ-tát phát sinh do tâm đại bi.
Bồ-tát thương tất cả chúng sinh với tâm vô phân biệt như cha mẹ
thương đứa con duy nhất của mình nên khi thấy chúng sinh còn
bệnh thì làm sao Bồ-tát an vui tự tại riêng mình cho được. Dẫu
biết rằng thân là tướng, là huyễn hóa nên phải chịu sanh lão
bệnh tử của luật vô thường thì đau yếu bệnh hoạn đâu có gì quan
trọng, nhưng ông trưởng giả nầy đâu có thật bệnh mà chỉ dùng cái
cớ để xuyển dương Thật tướng, giải bày Pháp tánh và giới thiệu
Pháp thân để giúp chúng sinh có cái nhìn sâu xa về một thế giới
vĩnh hằng bất sinh bất diệt mà không hề bị ái nhiễm của cuộc đời
làm ô uế. Vì con người tin chắc là sắc thân tứ đại của họ là
thật nên lòng tham si, ái nhiễm phát sinh mà hành hạ họ. Ngược
lại khi đã biết ngũ uẩn là Không thì con người sẽ không còn bị
vướng mắc vào cuộc sống ô tạp nầy mà chú tâm vào bản Thể bất
sinh bất diệt bên trong thì tâm sẽ được thanh tịnh mà không còn
gây ra nghiệp để phải chịu quay cuồng trong sinh tử luân hồi. Vì
thương chúng sinh nên Bồ-tát mới thị hiện trong thế gian mà nhận
lấy sắc thân tứ đại và phải chịu cảnh sanh, già, bệnh, chết cũng
như mọi người để cứu độ chúng sinh. Vì có đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu thì mới cảm thông được mọi nổi khổ đau, bất
hạnh của thế nhân mà cứu giúp họ được. Không đau, không bệnh thì
làm sao biết bệnh tật khổ đau như thế nào? Đây chính là tâm đại
bi của Bồ-tát.
Bồ-tát Văn Thù hỏi:
- Vì sao thất của Ngài trống không và không có thị giả?
Ông Duy Ma Cật đáp:
- Cõi nước của chư Phật cũng không như vậy.
- Do đâu mà biết không? - Do trống không cho nên biết không.
- Dùng không để không cái gì?
- Dùng không để không phân biệt.
- Đã không thì phân biệt được gì?
- Phân biệt cũng không.
- Tìm cái không ở đâu, dựa vào đâu để nhận biết?
- Dựa vào 62 thứ kiến chấp của ngoại đạo.
- 62 thứ kiến chấp phải tìm ở đâu?
- Tìm trong đức giải thoát của chư Phật.
- Đức giải thoát của chư Phật phải tìm ở đâu?
- Tìm nơi tâm tánh của tất cả chúng sinh.
Nhà trống không, không có thị giả ngay cả cõi Phật cũng không
nhằm khai thị đạo lý chân không của Bát nhã mà trong Tâm kinh có
câu:“Hành thâm Bát nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai không…”
Quán chiếu thân mình là không thật, không có nghĩa là thân nầy
không thật có, không hiện hữu. Không thật theo giáo lý nhà Phật
là không bền, không chắc nên kinh điển mới ám chỉ thân nầy là
giả huyễn, như ánh chớp, như khói, như sương vì mới thấy đó thì
đã mất. Cuộc đời bảy, tám chục tuổi trôi qua nhanh như một làn
khói. Sanh ra, lớn lên, cố gắng tạo sự nghiệp, đào tạo con cái
rồi khi quay nhìn lại thì tóc đã bạc trắng rồi. Nhưng cái Không
không thể rời cái Có tức là Thể và Tướng là một vì thế khi hiểu
đạo thì cái Không là ở ngay trong cái Có nghĩa là con người có
thể tìm thấy cái Bản Thể thanh tịnh của mình ở ngay trong cái
thân Tướng có sinh có diệt nầy.
- Thưa Ngài Văn Thù! Ngài hỏi vì sao tôi không có thị giả. Thưa
Ngài: Tất cả ma quân và các ngoại đạo là thị giả của tôi. Bởi vì
ma quân rất ưa sanh tử, mà Bồ-tát thì ở trong sanh tử không xa
rời. Ngoại đạo ưa kiến chấp, Bồ-tát thì ở trong kiến chấp mà
không động.
Văn Thù hỏi:
- Bệnh của cư sĩ trạng huống ra sao?
- Bệnh của tôi không hình trạng không thấy được.
- Bệnh của Ngài thuộc thân hay thuộc tâm?
- Không phải thuộc thân vì tôi đã ly cái tướng thân. Cũng không
phải thuộc tâm vì tâm như huyễn.
- Địa, thủy, hỏa, phong, trong tứ đại, Ngài bệnh đại nào?
- Bệnh của tôi không phải đại địa, nhưng không rời đại địa.
Không phải thủy, hỏa, phong cũng không rời thủy, hỏa, phong.
Bệnh của chúng sinh phát từ tứ đại. Chúng sinh bệnh cho nên tôi
bệnh.
Ma là những chúng sinh đắm mê sắc dục, không sợ sinh tử và
thường làm chướng ngại cho kẻ tu hành. Ngoại đạo là những người
đi tìm Chân lý ở ngoài tâm vì họ có rất nhiều kiến chấp và vọng
tưởng. Thông thường con người rất sợ chướng duyên. Chẳng hạn như
người vợ muốn đi chùa, ăn chay, niệm Phật thì người chồng thích
ca nhạc, ăn chơi, nhậu nhẹt. Vì tư tưởng bất đồng nên đời sống
lứa đôi thường có lúc không vui. Nhưng thật ra chướng duyên mới
là Phật duyên. Tại sao? Bây giờ chúng ta hãy trở về với kinh thì
sẽ rõ. Nếu không biết say đắm thì làm sao biết đắm say là sa
ngã, là trụy lạc? Nếu không có kẻ ác thì làm sao biết giá trị
của người thiện? Nếu không có kẻ nóng giận, phẩn nộ thì làm sao
biết tính nhẫn nhục là hay? Nếu không có người bần tiện, bỏn xẻn
thì làm sao biết việc bố thí, cúng dường là mở rộng từ tâm? Nếu
không có kẻ loạn tâm thì làm sao biết giá trị của thiền định hay
niệm Phật? Do đó chúng ma, ngoại đạo bây giờ không còn là chướng
duyên mà chính là những trợ duyên rất cần thiết cho con người
làm đối tượng mà sống. Cũng như có chúng sinh, có phiền não mới
có Bồ-tát. Đối với giáo lý đại thừa, một khi con người làm chủ
được tâm của mình thì những hiện tượng ở bên ngoài không thể nào
lay động được thanh tâm của họ. Nói một cách khác là nếu mình
làm chủ được tâm của mình tức là tâm không động thì những dục
lạc, kiến chấp của thế gian không cách nào lôi kéo chúng ta
được.
Chúng sinh vì tâm chưa thanh tịnh nên còn phân biệt. Tâm phân
biệt là tâm còn chấp có thiện có ác, có tốt có xấu, có sanh có
tử… Còn Bồ-tát vì không còn chấp trước, phân biệt nên t&hiền não
tức Bồ-đề. Khi tâm động thì phiền não hiện ra còn tâm tịnh thì
phiền não biến đi, Bồ-đề xuất hiện. Do đó muốn quay về với cái
Không thì chúng sinh phải biết buông xả, tâm không còn phân
biệt, loại trừ chấp ngã chấp pháp thì tâm sẽ hoàn toàn thanh
tịnh mà thấy được cái Bản Thể Chân Không Thật tướng của mình.
Chúng sinh vì si mê ái dục mà có bệnh trong khi Bồ-tát vì thương
chúng sinh, vì lòng đại bi nên bệnh theo chớ đối với các Ngài
thì thân, tâm là huyễn hóa, là giả tạm nên họ đã ly cách nó từ
lâu. Cũng như Địa Tạng Vương Bồ-tát phát lời thệ nguyện là khi
nào còn chúng sinh trong chốn U minh, địa ngục thì Ngài sẽ không
thành Phật. Ngài độ hết thảy chúng sinh trong ba đường dữ rồi
mới chứng đạo Bồ-đề. Vì thế nếu chúng sinh bệnh thì Bồ-tát còn
bệnh và khi nào chúng sinh hết bệnh thì bệnh của Bồ-tát tức khắc
lành ngay. Tóm lại tư tưởng đại thừa của Bồ-tát là Chân lý Nhất
như tức là tất cả là một. Vì có chúng sinh nên mới có Bồ-tát do
đó nếu không có chúng sinh thì Bồ-tát làm sao thực hành tâm đại
bi của mình. Do đó trong nước đục mà vẫn có nước trong, trong
phiền não mà vẫn tìm thấy Bồ-đề hay trong sinh tử mà vẫn có Niết
bàn. Vì thế chúng sinh không cần phải đi đâu xa để tìm giải
thoát giác ngộ mà chỉ cần quay về với tâm hạnh của mình thì có
giải thoát giác ngộ ngay. Phật dạy khi mê là chúng sinh còn biết
thức tỉnh là giác, là Phật.
Văn Thù hỏi:
- Khi một Bồ-tát nhuốm bệnh, vị Bồ-tát đi thăm bệnh phải thăm
hỏi thế nào, nói những gì?
Ông Duy Ma Cật đáp:
- Bồ-tát đi thăm bệnh nên nói: Rằng thân vô thường, nhưng không
bảo phải chán bỏ thân. Rằng thân là khổ, nhưng không khuyên nhận
cái vui Niết bàn. Rằng thân là vô ngã, mà khuyến khích tích cực
giáo hóa chúng sinh. Rằng thân rỗng lặng như hư không, nhưng
không nói vĩnh viễn không như sừng thỏ, lông rùa. Rằng nên ăn
năn tội trước, nhưng không nên ôm ấp những lỗi đã qua. Hãy quán
xét bệnh của mình mà thương xót người đang có bệnh. Phải tự thức
tỉnh rằng: ta đã từng khổ đau trong nhiều đời kiếp, mà đừng quên
nghĩ đến việc lợi lạc chúng sinh. Nhớ làm phước đức, luôn nghĩ
tưởng đời sống trong sạch. Không nên sanh tâm buồn rầu, thường
khởi tâm tinh tấn. Ta phải làm vị đại y vương để trị bệnh cho
tất cả chúng sinh.
- Bồ-tát đi thăm bệnh phải hỏi như thế, an ủi như thế khiến cho
Bồ-tát có bệnh phát khởi hoan hỷ.
Đoạn kinh nầy muốn đề cao con đường trung đạo của đạo Phật. Cũng
như lên sợi dây đàn, nếu căng quá thì dây đàn sẽ đứt, còn dùn
thì không đúng âm thanh. Cái nhìn về thân thì cũng thế. Tuy biết
thân là vô ngã, vô thường, là không, là bất tịnh, là nguồn gốc
của khổ đau nhưng không vì thế mà sanh ra nhàm chán, ghét bỏ
thân mình. Ngược lại cũng không quá quý trọng cái thân giả huyễn
mà tạo ra nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời. Con đường trung
đạo ở đây là chúng sinh chỉ xem tấm thân như là chiếc bè dùng để
qua sông tức là nhờ tấm thân vô thường nầy mà thấy được Pháp
thân thường trụ của mình. Biết thân là vô thường thì phải tinh
tấn tu hành để được giải thoát chớ chán thân, chán đời càng làm
cuộc đời thêm khổ chẳng ích lợi gì. Biết thân là vô ngã mà vẫn
dùng thân làm phương tiện để làm lợi ích chúng sinh, quên mình
vì người noi theo Bồ-tát đạo. Biết thân là Không nhưng vẫn tích
cực hoạt động làm lợi ích cho người, nương theo thân giả huyễn
để thấy được Pháp thân chân thật của mình. Biết thân là bất
tịnh, là nguồn gốc của khổ đau nhưng trong thân vẫn có tánh
thanh tịnh, tịch diệt, an vui của Niết Bàn.
Con người của chúng ta chẳng qua là kết quả của biết bao nghiệp
nhân mà chúng ta đã tạo nên. Ngoài những bậc đã chứng Thánh quả,
kẻ phàm phu không biết được trong những kiếp quá khứ mình đã tạo
những tội nghiệp gì. Nhưng nếu chúng ta cứ mãi lo sầu, quan tâm
về những tội nghiệp kiếp xưa nầy thì chỉ làm tâm thêm lo lắng,
bất an, không ích lợi gì cho đời mình cả. Đối với Bồ-tát thì quá
khứ đã qua đi, không bao giờ có thể nắm bắt lại được nên họ quên
nó đi vì nếu để quá khứ ám ảnh, tội lỗi ray rứt thì hối hận đau
khổ sẽ theo ta hoài, khó mà dứt được. Tội nghiệp cũng ví như một
ly thuốc độc. Nếu ta uống ly thuốc độc nầy thì chắc chắn sẽ
chết. Nhưng bây giờ nếu đem ly thuốc độc nầy hòa tan vào trong
cái hồ thật lớn rồi múc một ly lên uống thì không hề hần gì. Vẫn
biết tội tánh vốn Không, chẳng có Thật tướng, do tâm sinh thì
lại do tâm diệt cho nên không cần biết trong đời quá khứ mình đã
lở tạo những nghiệp nhân gì, chỉ cần trong đời nầy chúng sinh
vun bồi thật nhiều thiện nghiệp, kiến tạo rất nhiều công đức và
phước đức thì cũng như nước trong hồ lớn kia vẫn thơm ngon tinh
khiết như thường, cứ uống có gì phải sợ. Đó là cách lấy công
chuộc tội thực tế nhất.
Thêm nữa, Bồ-tát không còn tạo nghiệp bởi vì các Ngài biết
nghiêm trì sáu căn. Đó là giữ cho Mắt, Tai, Lưỡi, Mũi, Thân và Ý
đừng bị ô nhiễm, dính mắc nơi sáu trần: Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp làm cho Thân-Khẩu-Ý được thanh tịnh. Các Ngài không
làm việc ác mà chỉ toàn làm việc thiện và đem tất cả công đức
hồi hướng cho mọi loài chúng sinh thì các nghiệp cũ tan đi, mọi
bệnh khổ được tiêu trừ. Các Ngài nguyện làm những vị thầy thuốc
giỏi, phát chí làm đại y vương để chửa tâm bệnh và thân bệnh cho
tất cả chúng sinh. Bồ-tát tuy thị hiện cũng mang thân bệnh như
chúng sinh nhưng các Ngài vẫn ung dung tự tại, không buồn rầu,
than trách mà luôn tinh tấn cứu giúp chúng sinh với tâm Bồ-đề
lợi tha, vô ngã. Đây là những lời an ủi, thăm hỏi của Bồ-tát
không bệnh làm cho Bồ-tát có bệnh phát khởi hoan hỷ vậy.
Văn Thù hỏi:
- Thưa cư sĩ! Bồ-tát có bệnh phải điều phục tâm mình như thế
nào?
Trưởng giả Duy Ma Cật đáp:
- Bồ-tát có bệnh nên quán chiếu và tư duy rằng, bệnh của ta hôm
nay là do phiền não vọng tưởng điên đảo đời này, đời trước mà
sanh ra. Nó là pháp không thật thì ai là người thọ bệnh.
Thân nầy là kết quả của sự tổ hợp, nương gá tứ đại mà thành. Tứ
đại không có chủ tể thì thân nầy là vật vô ngã. Bệnh sanh khởi
là do chấp ngã. Vì vậy, đối với bản ngã không nên sanh tâm luyến
ái chấp mắc.
Thân của con người là do đất, nước, gió. lửa hòa hợp mà thành.
Mà đã là do tứ đại tạo thành thì đâu phải là của Ta. Nếu thân là
của Ta thì chúng ta đâu có cần ăn, uống, hít thở…mà vẫn sống
phây phây. Vì thế một khi thân còn tùy thuộc vào những vật chất
bên ngoài thì thân không có chủ thể,
có hợp có tan, có thành có hoại, không có tự tánh, là vô ngã tức
là Không. Nhưng con người không chấp nhận như thế, đi ngược lại
với định luật sinh tồn của nhân sinh vũ trụ nên chấp thân nầy là
thật, là của Ta nên cố bám víu, bảo vệ, vun bồi những sở hữu cho
cái Ta nầy. Đây chính là chấp Ngã vậy. Vì chạy theo bản Ngã mà
con người nếm mùi khổ đau. Lo bảo vệ cái bản Ngã nên con người
cứ mãi tạo nghiệp cho nên đời nầy tan thì đời khác đến nối đuôi
chồng chất mãi không thôi. Càng tạo nghiệp thì con người càng
lún sâu vào vòng sinh tử khổ đau. Biết thân là không thật, là
giả huyễn thì con người không còn luyến ái bởi vì ái thân tức là
ái ngã mà chúng sinh tạo ra nghiệp. Vì thấy Ta là thật và thấy
nhân sinh vũ trụ cũng là thật nên có chấp ngã, chấp pháp. Mà có
chấp là có điên đảo và dĩ nhiên bệnh khổ vẫn còn. Người nặng
chấp ngã thì dễ bị tự ái và mang tính tự đại. Hễ ai đụng tới cái
ngã là bừng bừng nổi giận. Còn ai tâng bốc cái ngã thì ưa, thì
thích. Khi đã biết thân nầy là không thật thì ái ngã sẽ không
còn, những ý niệm như tham lam, giận hờn, si mê cũng vì thế mà
tan biến. Từ đây chúng sinh mới có được sự an lạc trong tâm thức
của mình.
Ông Duy Ma Cật nói tiếp:
Đã biết nguồn gốc của bệnh, cần phải trừ bỏ quan niệm “chấp ngã”
và “chúng sinh”. Chỉ lưu lại ý tưởng về “pháp”. Do các pháp hợp
lại mà thành thân. Sanh chỉ là pháp sanh; diệt chỉ là pháp diệt.
Pháp thì chẳng biết gì nhau. Khi sanh chẳng nói ta sanh. Khi
diệt chẳng nói ta diệt. Tư duy như vậy, Bồ-tát có bệnh trừ diệt
quan niệm về “pháp”. Lại tư duy rằng: quan niệm về “pháp” cũng
là một thứ điên đảo. Điên đảo còn thì còn khổ não, còn bệnh
hoạn. Thế nên Bồ-tát khởi ý tưởng “Ly”.
- Ly là thế nào?
- Ly ngã và ngã sở.
- Ly ngã, ngã sở là sao?
- Ly cả hai pháp.
- Ly cả hai pháp là thế nào?
- Ly nội tâm, ly ngoại cảnh, thể hiện tánh bình đẳng.
- Bình đẳng như thế nào?
- Bình đẳng về ý niệm ngã và bình đẳng về ý niệm Niết bàn. Nhận
thức rõ ràng: Ngã vốn không, Niết bàn cũng chẳng có. Ngã và Niết
bàn đều không.
- Do gì mà biết đó là không?
- Tư duy rằng chúng chỉ dựa trên văn tự mà giả lập. Chúng không
có tính quyết định. Hiểu được tính bình đẳng đó thì không còn
bệnh nào khác, chỉ có bệnh “không”. Cuối cùng “không” cũng
không. bấy giờ Bồ-tát có bệnh sử dụng vô sở thọ mà thọ cái thọ.
Khi nào Phật pháp chưa đầy đủ, cũng không diệt thọ để nhận lấy
quả sở chứng. Giả sử thân có khổ, nhớ nghĩ chúng sinh trong ác
thú phải khởi lòng đại bi: rằng ta đã điều phục cũng sẽ điều
phục cho chúng sinh. Vì vậy, chỉ trừ bỏ bệnh chấp mà không trừ
bỏ “pháp”. Vì muốn trị dứt gốc bệnh của chúng sinh mà giáo hóa
họ.
Vì chúng sinh tin chắc thân mình là thật, là chắc chắn, là của
Ta nên mới phát sinh ra chấp ngã. Có chấp ngã thì dĩ nhiên phải
có ngã sở là tạo tác những vật thể để cung phụng cho cái Ta.
Cũng vì nhầm lẫn cái gì cũng là của riêng mình, cho mình và vĩnh
viễn thuộc về mình nên những tính bất thiện như ích kỷ, đố kỵ,
tham lam, giận hờn, mạn nghi, tà kiến cũng từ đó mà đua nhau
sinh khởi. Cái bản ngã càng cao thì vô minh càng lớn và dĩ nhiên
trí tuệ càng bị lu mờ nên con người không bao giờ sáng suốt. Bây
giờ nếu tư duy quán chiếu thì thấy rằng thân mình không thật vì
nếu thân là thật của riêng mình thì khi chết tại sao con người
không mang nó đi theo? Mình không thật thì chúng sinh, vạn vật
cũng không thật. Mà bệnh là ở do thân vì có thân mới có bệnh.
Nay biết thân không thật nên phá được chấp ngã. Chấp ngã không
còn thì ngã sở cũng tan biến. Bây giờ con người nhìn tất cả mọi
vật trên thế gian nầy chỉ là phương tiện để sống, không xem nó
quan trọng thì chúng ta sẽ không còn lệ thuộc vào nó. Có phá
được chấp ngã, chấp pháp thì mới có trí tuệ sáng suốt để nhìn
thấy thật tướng của nhân sinh vũ trụ mà phát huy tinh thần bình
đẳng. Mặc dầu tất cả nhân sinh vũ trụ bề ngoài tuy có hình tướng
khác nhau, nhưng tất cả đều cùng có một Bản Thể thanh tịnh như
nhau, không hai không khác. Vì thế nếu chưa có trí tuệ Bát nhã
thì thấy còn có Ta, có người, có vạn vật. Cũng vì sự thấy biết
phân biệt nầy mà con người mới có sự chia rẽ, đố kỵ, thù oán,
tranh chấp để bảo vệ cái Ta của mình mà tạo nghiệp. Bây giờ với
trí tuệ Bát Nhã thì chúng ta không quan tâm đến những hình tướng
sinh diệt bên ngoài mà chỉ nhìn thấu suốt vào cái Bản Thể Chân
Như thanh tịnh, bất sanh bất diệt bên trong thì ai cũng như
nhau. Phật và người ăn mày có khác gì đâu vì cả hai cùng đều có
Phật tánh như nhau. Nhìn đâu đâu cũng là thân bằng quyến thuộc,
ai ai cũng đáng thương xót để nuôi dưỡng và tăng trưởng lòng từ
bi. Tâm không còn phân biệt thì không còn chê dở khen ngon, chê
xấu khen tốt, chê nghèo khen giàu… Tất cả những hiện tượng của
thế gian không làm tâm dao động thì đây chính là tâm thanh tịnh
vậy. Khi tâm đã được an vui tự tại thì Niết bàn còn dùng vào đâu
mà cầu chứng với đắc!
- Thế nào là gốc bệnh?
- Gốc bệnh có vì có tâm phan duyên. Chừng nào còn có tâm phan
duyên thì gốc bệnh còn.(Phan duyên là tâm không an, bất tịnh,
ngồi nơi nầy mà nghĩ nơi khác).
- Đối tượng phan duyên là gì?
- Đối tượng phan duyên là tam giới.
- Làm sao đoạn được phan duyên?
- Muốn đoạn phan duyên phải vô sở đắc. Vô sở đắc thì hết phan
duyên.
- Sao gọi là vô sở đắc?
- Vô sở đắc có nghĩa là phải viễn ly hai thứ kiến chấp.
- Hai thứ kiến chấp là gì?
- Là nội kiến và ngoại kiến. Nội kiến là chấp bản ngã của tự
thân. Ngoại kiến là chấp hiện tượng vạn pháp bên ngoài.
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Đây là những điều Bồ-tát có bệnh
cần phải điều phục tâm mình. Nhằm đoạn trừ các khổ, lão, bệnh,
tử. Đó là Bồ-đề của Bồ-tát. Nếu không như thế thì việc tu sửa
của mình sẽ không có được trí tuệ sắc bén. Ví như có chiến thắng
đối thủ ngoan cường thì mới gọi là chàng dũng sĩ! Được vậy,
Bồ-tát gọi đó là chiến sĩ tiêu trừ bọn giặc cướp: lão, bệnh, tử.
- Bồ-tát có bệnh quán chiếu tư duy rằng: Bệnh của ta đây không
thật có. Bệnh của chúng sinh cũng không thật có. Quán chiếu tư
duy như thế đối với chúng sinh. Nếu sanh khởi lòng đại bi ái
kiến thì cần phải xả ly. Bởi vì Bồ-tát nhằm đoạn trừ khách trần
phiền não mà phát khởi lòng đại từ bi. Nếu lòng đại bi còn có
tâm ái kiến thì ở trong sanh tử sẽ có lúc mỏi mệt mà thoái thoát
đạo tâm. Xa lìa đại bi ái kiến thì hóa độ chúng sinh đời nầy,
kiếp khác cùng không có chán nản mỏi mệt. Người không bị ràng
buộc. Đang bị ràng buộc mà dạy cách mở ràng buộc cho người khác
là chuyện không thể có. Mình không bị ràng buộc, mở ràng buộc
giúp cho người khác là việc dễ dàng! Thế nên Bồ-tát không nên
làm những điều gì khiến cho mình bị ràng buộc.
Bồ-tát vào đời là muốn cứu giúp chúng sinh, dạy dỗ chúng sinh
phá trừ vô minh, vọng thức đã làm cho tâm điên trí đảo mà sanh
ra phiền não khổ đau để tạo nghiệp. Hễ có nghiệp là có tái sinh,
là còn sinh tử, là nguồn gốc của bệnh, già và chết. Do đó nếu
muốn trừ cái gốc của khổ đau đã cột chặt con người vào tam giới
thì phải biết tư duy quán chiếu để thấu hiểu rằng vạn pháp vô sở
đắc tức là tất cả mọi vật thể trong thế gian nầy không có gì là
được cả. Tại sao? Bởi vì trong thế gian nầy, không có cái gì là
thật có cả. Vạn pháp trong thế giới hữu hình nầy chẳng qua là
kết quả của những duyên khởi tức là ngày nay nếu duyên kết là
có, ngày mai duyên tan là mất, là hoại. Vì thế mới có câu:”Vạn
pháp giai không, duyên sanh như huyễn” là vậy. Thế giới vũ trụ,
kể cả con người cũng là giả huyễn, là hư vọng thì lục căn, lục
trần, lục thức đều là hư huyễn, là ảo ảnh, là sương mai, là điện
chớp, là phù du mà thôi. Có ai bắt được làn khói đâu? Con người
vì bị vô minh che lấp nên nghĩ rằng cái gì trong đời nầy cũng
thật, cũng bền chắc nên cố tạo tác, giữ gìn để tạo ra nghiệp đến
khi buông tay nhắm mắt mới biết tất cả cũng như những làn khói
lam chiều mà thôi. Khi biết được như thế thì con người sẽ không
còn bám giữ tức là phá được chấp ngã và chấp pháp rồi. Khi thực
hành được như vậy thì bên trong tâm không hề bị dao động và bên
ngoài không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi thăng trầm của tạo hóa.
Được như thế thì tâm chắc chắn sẽ thanh tịnh tức là chúng ta
đang sống với chân tâm, với thật tánh, với ông Phật của chính
mình vậy.
Ngay cả Bồ-tát mà còn phải sợ chấp ngã, chấp pháp sao? Vì còn
chấp ngã nên thấy có Ta và chấp pháp nên thấy có người và vạn
pháp. Có Ta nên Ta bệnh mà thương chúng sinh bệnh, đó là ái
kiến. Tại sao? Vì thấy có Ta nên tuy là làm lợi ích cho chúng
sinh, nhưng làm lâu thì sẽ mệt mỏi, làm hoài thì sẽ nhàm chán.
Còn thấy có người nên thấy chúng sinh đau khổ thì mình thương,
mình giúp đở và thấy chúng sinh xấu ác thì mình ghét, mình xa
lánh. Chính vì có Ta và có người mà tâm có sự phân biệt, bất
bình đẳng làm tổn thương lòng từ bi, đánh mất tánh vô tư, chánh
trực. Bây giờ nếu không còn chấp ngã, chấp pháp thì Bồ-tát khi
làm mọi việc mà không còn thấy mình làm, không còn thấy chúng
sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt
thì đây chính là làm việc trong tinh thần vô ngã, vị tha của nhà
Phật. Thí dụ có một ni cô làm việc thiện trong một viện mồ côi.
Trong viện mồ côi nầy có hàng trăm trẻ em, lớn có, nhỏ có, thông
minh có, khờ dại có, xinh có, xấu có… Vị ni cô nầy vì thương
chúng sinh mà giúp đời, nhưng nếu gần gủi lâu ngày với các em
thì sẽ thích em nầy hơn, thấy em kia dễ thương hơn, bực mình vì
em nọ khó dạy quá… thì tâm từ bi sẽ biến thành ái kiến từ bi tức
là từ bi mà còn thiên vị. Một yếu tố chính của độ sanh vô ngã là
Bồ-tát, hay chúng sinh khi làm việc lợi ích cho người thì đừng
nên nhớ việc làm của mình. Làm rồi thì quên vì nhớ là còn mong
đợi người đền đáp hoặc kể công để khoe khoang chỉ làm tăng
trưởng cái bản ngã của mình. Không còn bị ái kiến che lấp Chân
Tánh thì sẽ không còn bị ràng buộc. Mình không bị ràng buộc tức
là tự độ thì mới có thể giúp người cởi trói cho họ tức là độ
tha. Khi không còn chấp ngã, chấp pháp nghĩa là mình cũng Không,
người cũng Không và sợi dây trói cũng không thật thì cần gì phải
cởi trói mà vẫn ung dung tự tại giải thoát như thường.
- Thế nào là bị ràng buộc. Thế nào là được mở ràng buộc?
Đam mê thiền vị là Bồ-tát bị ràng buộc. Sử dụng các phương tiện
trong sinh hoạt là Bồ-tát không bị ràng buộc.
Lại nữa Bồ-tát không phương tiện, không trí tuệ là bị ràng buộc.
Có phương tiện có trí tuệ là Bồ-tát được mở ràng buộc.
- Thế nào là không phương tiện, không trí tuệ. Bồ-tát bị ràng
buộc?
- Nghĩa là Bồ-tát dùng tâm ái kiến mà trang nghiêm cõi Phật hóa
độ chúng sinh. Dùng “không”, “vô tướng”, “vô tác” mà điều phục
tâm mình. Đó là Bồ-tát không phương tiện, không trí tuệ. Bồ-tát
bị ràng buộc.
Có trí tuệ, có phương tiện, Bồ-tát được mở ràng buộc là thế nào?
- Nghĩa là Bồ-tát lìa xa các tham dục, sân nhuế tà kiến, các
phiền não mà trồng cội phước, hồi hướng thẳng Vô thượng Bồ-đề.
Đó là có trí tuệ, có phương tiện, Bồ-tát được mở ràng buộc.
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ-tát có bệnh phải nên quán các
pháp như thế.
Khi làm việc lợi ích để cứu giúp chúng sinh cần phải áp dụng
phương tiện và trí tuệ một cách sáng suốt nếu không thì giải
thoát sẽ biến thành ràng buộc. Chẳng hạn như khi về Việt Nam làm
từ thiện. Nếu tùy theo khả năng, hoàn cảnh mà giúp người thì sẽ
mang lại sự an lạc, thanh thoảng trong tâm khi làm việc thiện.
Đây là giải thoát. Còn nếu sức mình ít mà muốn phô trương làm
lớn để lấy tiếng khiến cho thân tâm bị mệt mỏi, đau buồn thì đây
là ràng buộc. Trong cuộc sống nếu chúng sinh biết điều hòa tâm ý
thì tất cả mọi hành động sẽ là giải thoát. Ngược lại nếu chúng
ta miễn cưởng, làm việc không thích hợp với mình, làm việc với
tinh thần uể oải thì dĩ nhiên giải thoát sẽ biến thành ràng
buộc. Ngay cả Bồ-tát mà vẫn còn đam mê vào thiền định, vào lục
độ ba-la-mật, vào đạo quả Bồ-đề hay chứng đắc Niết bàn thì vẫn
còn ràng buộc, không được tự tại. Mà Bồ-tát phải luôn luôn dùng
trí tuệ, luôn luôn vận dụng phương tiện trong việc độ sanh là
Bồ-tát cởi mở ràng buộc tức là được giải thoát.
Sống trong thế gian nầy thì không ai giống ai cả. Có người thích
nghe nhạc, có người thích đọc sách, có người thích chơi thể
thao, có người thích đánh cờ, có người thích được yên tỉnh để
trầm tư suy nghĩ, có người thích ồn ào náo nhiệt. Các cô, các
bà thích đi shopping còn các ông thì thích đi xem đá bóng hay
chơi bi da… Vì thế cổ nhân mới có câu: “ Nhân sinh quý thích
chí” nghĩa là con người sinh ra mỗi người có sở thích khác nhau.
Nói chung cho dù con người có sở thích riêng là gì đi chăng nữa,
nhưng nếu bất cứ những việc gì làm cho tham-sân-si của họ giảm
là giải thoát. Ngược lại những gì làm cho tham-sân-si của họ
tăng là ràng buộc. Vì thế khi Bồ-tát vào đời để cứu độ chúng
sinh phải biết tùy thời, tùy duyên thì sự cứu độ mới thật sự
viên mãn. Đối với Bồ-tát thì họ dùng trí tuệ để hóa độ chúng
sinh cho dù đó là thuận hay nghịch duyên. Họ là tấm gương cho
chúng sinh noi theo. Thí dụ như muốn khuyên người không nên say
mê cờ bạc thì họ không chơi cờ bạc và hướng dẫn sự tai hại của
việc chơi cờ bạc. Chính mình không uống rượu, ăn gian, nói dối
thì mới khuyên người tránh xa những thói hư tật xấu nầy. Muốn
khuyên chúng sinh thấy sự lợi ích của việc tu hành thì họ phải
tránh xa tâm tham, tật đố, không còn phiền giận khổ đau để có
cuộc sống an lạc. Có tự độ mới độ tha tức là cởi trói cho mình
trước rồi hãy cởi trói cho người.
- Lại nữa, quán thân vô thường, khổ, không, vô ngã. Đó là trí
tuệ. Thân dù có bệnh mà thường ở trong sanh tử làm lợi ích cho
chúng sinh không chán nản, mỏi mệt. Đó là có phương tiện.
- Lại quán về thân. Thân không rời bệnh, bệnh không rời thân.
Thân ấy, bệnh ấy không phải mới, không phải cũ gọi đó là trí
tuệ. Thân dù có bệnh mà không diệt thân, gọi đó là phương tiện.
Bồ-tát vào thế gian cũng mang thân sanh tử như chúng sinh nhưng
họ biết tư duy quán chiếu để thấy thân là vô thường, có sanh có
diệt. Thân nầy là cội nguồn của muôn sự khổ đau, là sự kết hợp
của tứ đại nên thân không có chủ thể, không có tự tánh, là vô
ngã tức là Không. Vì có trí tuệ nên họ biết thân nầy là giả
huyễn cho nên không bám víu vào nó mà chỉ dùng nó như là chiếc
bè, là phương tiện để cứu giúp chúng sinh với tấm lòng kiên trì,
không mệt mõi. Họ thi ân mà bất cầu báo nên cho dù gặp hoàn cảnh
nào, thuận hay nghịch, họ vẫn không sờn lòng, lùi bước. Thân là
do sự kết hợp của đất, nước, gió, lửa. Nếu tứ đại hòa hợp thì
thân yên ổn, bằng ngược lại thì thân bất an, bệnh tật. Đã biết
thân là vô thường thì đau yếu, bệnh tật có gì phải quan tâm.
Biết như thế là người có trí tuệ. Mặc dù hễ có thân là có bệnh,
nhưng không vì thế mà nhàm chán và muốn hủy hoại nó đi. Ngày nào
còn mang thân ngũ uẩn thì còn dùng nó làm phương tiện để cứu
giúp chúng sinh. Ngay cả khi thân bệnh mà cũng có thể dùng làm
phương tiện để tiến tu đạo hạnh, bồi dưỡng trí tuệ. Đó là biết
tư duy quán chiếu để thấy thân là vô thường, vô ngã, không và
bất tịnh. Có như thế thì tuy biết thân là giả huyễn, nhưng con
người vẫn dùng nó như là những phương tiện thiện xảo trước là độ
cho mình và sau độ cho người. Cho dù có gặp nghịch duyên chướng
ngại vẫn không lùi chân thoái bước mà tinh tấn vượt qua mọi sóng
gió chông gai để viên thành Bồ-tát đạo.
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ-tát có bệnh nên như thế mà điều
phục tâm mình. Không trụ ở tâm điều phục, cũng không trụ ở tâm
bất điều phục. Vì trụ tâm bất điều phục là pháp của phàm phu.
Trụ ở tâm điều phục là pháp của Thanh văn. Thế nên, Bồ-tát không
trụ ở tâm điều phục và tâm bất điều phục. Ly được cả hai pháp
thì Bồ-tát làm việc ở sanh tử mà không bị nhiễm ô. Trụ ở Niết
bàn mà không diệt độ hẳn. Thế nên Bồ-tát hạnh không phải là hạnh
phàm phu cũng không phải hạnh hiền thánh. Bồ-tát hạnh, không
phải hạnh cấu, cũng không phải hạnh tịnh.
Bồ-tát không còn chấp vào việc điều phục hay không điều phục tâm
mình như phàm phu hay hàng Thanh văn mà đối với Bồ-tát đánh tan
mọi vọng thức để quay về với Chơn tâm, sống với Phật tánh thanh
tịnh bất sinh bất diệt mới là thực hành đầy đủ hạnh Bồ-tát. Tại
sao? Bởi vì phàm phu thì lúc nào cũng chấp đời là biển khổ, mà
muốn hết khổ thì phải diệt cho hết vọng thức điên đảo trong tâm.
Họ cố gắng theo con đường Giới, Định, Tuệ để tìm được ánh sáng
chân lý mà soi sáng tâm thức của mình ngỏ hầu tìm sự an lạc hạnh
phúc cho mình. Nhưng con đường dẫn tới chân lý gập ghềnh chông
gai làm họ thối chí nản lòng. Biết đời là khổ mà thoát ra chưa
được thì cuộc đời dưới con mắt của họ vẫn còn là chông gai trắc
trở, bất toại nguyện. Còn hàng Thanh Văn thì cũng nhìn đời là vô
thường, vô ngã, sinh diệt vô cùng vô tận nên họ lánh xa thế gian
để cố gắng tu tập mà đoạn trừ mọi phiền não khổ đau ngỏ hầu
chứng được sự an lạc thanh tịnh của Niết bàn cho riêng mình. Do
đó cả hai phương pháp nầy đều không đúng với hạnh Bồ-tát bởi vì
Bồ-tát không chấp đời là bể khổ, không chấp có Niết bàn an vui,
không chấp có vọng thức điên đảo cần phải điều phục. Đối với
Bồ-tát thì các Ngài đã lìa khổ vui, lìa vọng thức điên đảo vì
khi nhập thế độ sanh thì tâm các Ngài tịch mặc, không bị khổ vui
chi phối. Sáu căn thường sáng tỏ, không dính mắc, khéo tùy duyên
mà độ chúng sinh, không sợ nghịch cảnh xa lánh thế gian như hàng
Thanh Văn và dĩ nhiên không bị tham đắm trong dục lạc như phàm
phu. Phàm phu ăn thì chê ngon chê dở, làm thì chỉ cầu lợi cho
mình và tâm thì chìm trong ái dục cho nên sáu căn bị dính mắc
làm thân-khẩu-ý bất tịnh mà tạo ra nghiệp. Ngược lại Bồ-tát tuy
ở trong sinh tử mà không bị nhiễm ô. Khác với Thanh Văn là sợ ô
nhiễm, ái dục nên lánh xa trần thế mà cầu an lạc Niết bàn,
Bồ-tát lăng lộn chốn bụi trần, lấy chướng duyên, nghịch cảnh làm
đối tượng để độ đời. Không sợ dục lạc, ô nhiễm vì tâm các ngài
hằng thanh tịnh. Với tâm tỉnh giác hoàn toàn các ngài dùng đối
tượng của chướng duyên nghịch cảnh mà giáo hóa chúng sinh để
giúp họ quay về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình.
Chuyển ác thành thiện, chuyển xấu thành tốt, chuyển phiền não
khổ đau thành thanh tịnh an lành.
- Bồ-tát hạnh, dù vượt quá hạnh ma mà hiện hàng phục các ma.
Bồ-tát hạnh, cầu nhất thiết trí mà không cầu phi thời. Bồ-tát
hạnh, dù quán các pháp không sanh mà không vào chánh vị. Bồ-tát
hạnh, dù quán thập nhị nhân duyên mà tham nhập các tà kiến.
Bồ-tát hạnh, dù chinh phục tất cả chúng sinh mà không luyến ái.
Bồ-tát hạnh, dù ưa vui với hạnh viễn ly mà không có ý tưởng diệt
hết tướng thân tâm. Bồ-tát hạnh, dù sinh hoạt trong tam giới mà
không tổn hoại pháp tánh. Bồ-tát hạnh, dù không chấp ở việc làm
phước đức mà vẫn trồng các cội phước đức. Bồ-tát hạnh, dù thấy
tất cả vô tướng mà vẫn cứu độ chúng sinh. Bồ-tát hạnh, dù biết
vạn pháp vô tác mà vẫn hiện thọ thân. Bồ-tát hạnh, dù việc làm
vô khởi mà khởi các hạnh lành. Bồ-tát hạnh, dù thực hành lục độ
ba la mật mà phổ biến khắp đủ tâm và tâm sở pháp của chúng sinh.
Bồ-tát hạnh, dù thực hành tứ vô lượng tâm mà không tham đắm sanh
cõi Phạm thế. Bồ-tát hạnh, dù thực hành thiền định, giải thoát
tam muội mà không đắm nhiễm vị thiền. Bồ-tát hạnh, dù thực hành
tứ niệm xứ mà không vĩnh viễn xa lìa thân, thọ, tâm, pháp.
Bồ-tát hạnh, dù thực hành tứ chánh cần mà không rời bỏ sự tinh
tấn của thân tâm. Bồ-tát hạnh, dù thực hành tứ như ý túc mà được
tự tại thần thông. Bồ-tát hạnh, dù thực hành ngũ căn mà phân
biệt các căn lợi độn của chúng sinh. Bồ-tát hạnh, dù thực hành
ngũ lực mà ưa cầu thập lực. Bồ-tát hạnh, dù thực hành thất giác
chi mà phân biệt trí tuệ Phật. Bồ-tát hạnh, dù thực hành bát
chánh đạo mà ưa thực hành vô lượng Phật đạo. Bồ-tát hạnh, dù
thực hành pháp chỉ quán trợ đạo mà không bị rơi vào tịch diệt
hoàn toàn. Bồ-tát hạnh, dù biết rõ các pháp không sanh, không
diệt mà vẫn dùng tướng hảo trang nghiêm thân. Bồ-tát hạnh, dù
hiện oai nghi Thanh văn, Duyên giác mà không rời pháp Phật.
Bồ-tát hạnh, dù tùy thuận thật tướng mà vẫn tùy thuận chỗ hiện
thân cần thiết. Bồ-tát hạnh, dù quán đất nước chư Phật vắng lặng
như hư không mà hiện cảnh trí thanh tịnh của cõi Phật. Bồ-tát
hạnh, dù được thành Phật đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn mà
không rời bỏ đạo Bồ-tát.
Muốn thực hành đầy đủ hạnh Bồ-tát, các Ngài thị hiện vào nơi
sinh tử, sống chung đụng với say đắm sắc dục mà không hề bị
nhiễm ô. Tuy hóa độ mọi loài chúng sinh mà không hề bị dính mắc,
không biến tình thương rộng lớn thành từ bi ái kiến. Tuy biết
vạn pháp là Không, thế gian giả tạm mà các Ngài vẫn trồng các
cội lành công đức. Biết thân là vô ngã, vô thường, vô tướng các
Ngài vẫn cứu độ tất cả chúng sinh không bỏ sót một ai. Vẫn biết
thế gian vũ trụ là do duyên sinh phát khởi chớ không do ai tác
tạo mà các Ngài vẫn thị hiện làm các hạnh lành. Biết đời là vô
khởi tức là vô sanh mà lúc nào các Ngài cũng khởi sanh làm các
việc lành. Tuy biết tu hành là vô cầu vô chứng đắc, các Ngài vẫn
dìu dắt chúng sinh đến chỗ giải thoát giác ngộ để cùng hưởng
hương vị tịch diệt an lạc của Niết bàn.
Bồ-tát vì chúng sinh mà tu theo pháp Thập nhị nhân duyên, thực
hành Lục độ Ba-la-mật hay quán chiếu 37 phẩm trợ đạo mà tâm
không hề dính mắc các pháp sinh diệt của thế gian. Các Ngài dựa
theo các pháp tu để dìu dắt chúng sinh đến bờ giải thoát vì tất
cả các pháp chỉ là phương tiện, là ngón tay mà đạt được cứu cánh
là ánh sáng huyền diệu của mặt trăng, là Chân lý.
Tuy Bồ-tát đã thấu rõ Bản Thể bất sanh bất diệt là Chân tâm, là
Phật tánh thanh tịnh bên trong tức là Không, nhưng Không và Sắc
không thể rời nhau. Vì thế khi thị hiện mang thân ngũ uẩn tức là
Sắc thì các Ngài vẫn đeo chuỗi ngọc, tràng hoa, y phục lộng lẫy
mà trang nghiêm cho tướng hảo của mình để chúng sinh kính mến mà
quy theo còn các Ngài không hề đắm say những thứ sinh diệt kia.
Tuy hiện thân là Thanh văn, Duyên giác nhưng không quên nhắc nhở
chúng sinh mục đích tối hậu vẫn là viên thành Bồ-tát đạo. Đó là
tuy đã thành Phật nhưng vẫn vì chúng sinh mà thị hiện độ sanh
cứu khổ. Cũng như Đức Quán Thế Âm Bồ-tát vốn là một vị Cổ Phật
danh hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai đã thị hiện làm thị giả cho
Phật A Di Đà với danh hiệu đại từ đại bi và ứng hiện rất nhiều
thân để cứu khổ cứu nạn cho tất cả mọi loài chúng sinh trong cõi
Ta bà nầy.
Bồ-tát vào đời độ sinh cũng vì lợi ích cho chúng sinh. Họ thị
hiện làm người ác, làm người xấu để khai thị, giúp đở chúng sinh
bỏ ác phục thiện. Cũng giống như khi xem một tuồng hát thì kẻ
đóng vai ác, đóng vai tham-sân-si, bất cố liêm sĩ đâu phải là
vai dễ. Phải có tài diễn xuất để lột hết những tánh tham, tật
đố, hại người lợi mình… thì diễn viên đó mới thành công được. Ở
đây Bồ-tát khi thực hành các hạnh nguyện thì các Ngài cũng thế.
Các Ngài thị hiện tham-sân-si để làm Phật sự bởi vì tham để cảnh
tỉnh chúng sinh phát tâm bố thí, sân để giúp chúng sinh phát huy
tâm nhẫn nhục và si để dẫn dắt chúng sinh tịnh tâm bằng cách
niệm Phật hay tham thiền. Các Ngài giả bộ làm việc ác để chúng
sinh thấy đây là tội lổi mà xa lánh. Cũng như cha mẹ la rầy con
cái là muốn chúng chăm lo học hành. Vì thế đối với Bồ-tát thì họ
không chấp phương tiện mà chỉ quan tâm đến cứu cánh. Do đó nếu
thị hiện tham-sân-si để cảnh tỉnh người mà tâm hằng thanh tịnh
thì đó là Bồ-tát. Ngược lại tâm còn tham-sân-si thì vẫn là phàm
phu. Bồ-tát thì lúc nào cũng lấy từ bi và trí tuệ làm gốc. Bởi
vì từ bi là tình thương không phân biệt thân sơ và chính là tình
thương chân thật bình đẳng, nhưng từ bi mà không có trí tuệ thì
từ bi dễ bị tình cảm chi phối, thiếu sáng suốt và yếu đuối. Còn
trí tuệ mà thiếu từ bi thì thành trí tuệ khô tức là sự khôn
ngoan mánh lới chỉ làm lợi ích cho riêng mình, phát triển tánh
tham tật đố và tăng trưởng bản ngã mà thôi. Vì thế Bồ-tát luôn
luôn lấy Bi-Trí viên thông mà hành đạo. Vào đời nhập thế để cứu
giúp chúng sinh mà trí tuệ hằng sáng. Tuy đã chứng đắc quả Niết
bàn thanh tịnh nhưng không an hưởng cho riêng mình mà tự nguyện
nhập thế độ sanh cứu vớt chúng sinh còn trầm luân trong biển
sinh tử luân hồi. Vì hạnh Bồ-tát rộng lớn như thế mà Địa Tạng
Vương Bồ-tát đã phát lời thệ nguyện rằng: “Ngày nào còn chúng
sinh bị đọa vào tam ác đạo thì Ngài chưa thành Phật. Khi độ hết
chúng sinh thì Ngài mới thành Chánh giác”.
Sau khi trưởng giả Duy Ma Cật nói thời pháp ấy có tám ngàn Thiên
chúng tùy tùng phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Các vị trời nhờ tu thập thiện nên có nhiều phước báo mà được
hưởng rất nhiều dục lạc và chịu ít phiền não khổ đau. Nhưng
sướng thì dễ bị mê nên khi nghe ông Duy Ma Cật giảng giải về
những công hạnh lợi tha, vô ngã độ sanh của Bồ-tát đạo thì tất
cả như người mù được sáng, người mê chợt tỉnh nên đều phát tâm
vô thượng Bồ-đề với mục đích trong sáng là trên cầu sớm viên
thành Phật đạo và dưới mong độ tất cả chúng sinh. Dục lạc, phước
báu chỉ là cái vui tạm bợ, nhất thời và thường đưa đẩy chúng
sinh lún sâu vào vòng sinh tử triền miên. Khi đã thông hiểu tính
vị tha vô ngã thì các vị trời có thể khắc chế được tâm tham đắm
dục lạc, bớt lòng ích kỷ, hướng về cứu giúp chúng sinh để phát
triển Bồ-đề tâm mà được giải thoát giác ngộ.
Tóm lại, phẩm Văn Thù nầy muốn nhắn nhủ chúng sinh nguyên tắc
căn bản của đạo Phật là tự độ rồi mới độ tha. Vì thế gian đầy
dẫy chướng ngại và con người luôn tham đắm lợi danh, dục lạc cho
nên nếu chưa điều phục được tâm mình mà vội lo cứu người độ thế
thì khó lòng khắc phục những bất trắc của cuộc đời. Khi tâm mình
tịnh thì thấy thế giới chung quanh an lành, thanh tịnh cho dù có
gặp thuận hay nghịch duyên. Cũng như các vị Bồ-tát vào đời độ
sanh vô ngã, chúng sinh nên phát triển lòng từ bi của chính mình
với lòng vô cầu, vô ngã, vị tha. Không chấp phương tiện khó
khăn, nhọc nhằn, không phân biệt kẻ thân người sơ, người cao kẻ
thấp mà cứu giúp chúng sinh. Lấy nghịch cảnh làm thuận duyên mà
hành Bồ-tát đạo. Bồ-tát thì lúc nào cũng lấy câu: “Nội bất động
tâm, ngoại bất chấp tướng” làm phương châm hành động. Khi thấy
mình và chúng sinh không có sự khác biệt vì hình tướng bề ngoài
tuy khác nhau nhưng Thể Tánh bên trong vẫn là Một thì bất cứ sự
giúp đở nào cho chúng sinh chính là sự giúp đở cho chính mình
vậy.