CÚNG DƯỜNG PHÁP
(Antecedents and Transmission of the Holy Dharma)
Bấy giờ Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn, trước đại chúng đứng lên
bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con dù theo Phật và Văn Thù Sư Lợi từ lâu, đã
nghe trăm ngàn kinh điển, nhưng chưa từng nghe kinh điển “Quyết
định thực tướng, bất khả tư nghì tự tại thần thông” như vậy.
Theo sự hiểu biết của con, qua ý nghĩ và mục đích của Phật dạy:
Nếu chúng con nghe theo kinh pháp này tin hiểu, thọ trì đọc
tụng, tu hành đúng như kinh dạy, thì người đó đã đóng bít cửa ác
thú, khai thông đại lộ Niết bàn. Người này thường được chư Phật
hộ niệm, hàng phục được ngoại đạo, đánh đuổi được ma quân, tăng
trưởng quả Bồ-đề, vững ngồi nơi đạo tràng, bước theo dấu chân
Phật mà đi.
Bạch Thế Tôn! Nếu có người thọ trì đọc tụng đúng theo lời kinh
mà tu hành, con cùng các quyến thuộc, sẽ cúng dường mọi sự và ở
xóm làng thành thị, núi rừng chỗ nào có kinh này, quyến thuộc
chư Thiên chúng con đến đó, nghe pháp và tu học, chúng con bằng
mọi phương tiện khiến cho những ai chưa tin, phát khởi lòng tin.
Người đã tin sẽ giữ gìn hộ pháp.
Cúng dường là lối nói thanh cao của chữ Cung dưỡng. Cung là cung
cấp còn dưỡng là dưỡng nuôi. Thí dụ như trong gia đình thì con
cái cung dưỡng cho cha mẹ tức là cung cấp tiền bạc, vật thực để
dưỡng nuôi cha mẹ. Còn đối với các bậc chân tu, đạo cao đức
trọng thì để lòng cung kính, người Phật tử tuy cũng đem vật thực
cung cấp, nuôi dưỡng họ nhưng lại dùng chữ cúng dường thay vì
cung dưỡng. Khi cho tiền bạc, đồ ăn cho người nghèo khổ thì
chúng ta gọi là bố thí. Còn những người tu hành thì chúng ta gọi
hành động này là cúng dường. Cúng dường có hai cách:
1) Tài cúng dường: là đem tiền bạc, vật thực, áo quần, thuốc
men… để đem lại sự an lạc cho thân.
2) Pháp cúng dường: là in kinh, dịch sách, làm CD, in DVD, thọ
trì, đọc tụng, giảng thuyết tu hành, ngồi thiền, niệm Phật, trì
chú, giữ gìn Chánh Pháp… để đem lại lợi ích cho tâm.
Nói một cách rộng rãi là sống và làm theo lời Phật dạy để mang
lại lợi ích cho mình và cho tất cả chúng sinh, hy sinh buông xả
tất cả để đạt tới Chân lý và đem những Chân lý vừa đạt được để
cứu giúp chúng sinh vượt thoát ra khỏi biển khổ sông mê, làm
lành tránh dữ, giữ tâm thanh tịnh thì đây là cách cúng dường cao
thượng nhất.
Phật dạy: - Tốt lằm! Thiên Đế! Như Lai rất bằng lòng thiện ý của ông.
Kinh này nói rõ về những sự kiện bất khả tư nghì Vô thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Thế
cho nên, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì đọc tụng giảng
thuyết cúng dường kinh, tức là cúng dường chư Phật quá khứ, hiện
tại và vị lai.
Thiên đế! Giả sử ba ngàn đại thiên thế giới chư Phật ở trong đó
nhiều như số tre nứa, lau sậy, lúa bắp, cây cỏ lùm rừng. Nếu có
người thiện nam, thiện nữ đem trọn đời mình tôn trọng cung kính
tán thán, cúng dường đầy đủ mọi thứ cần dùng. Cúng dường cho đến
khi chư Phật diệt độ. Rồi lấy xá lợi của toàn thân Phật xây tháp
bằng thất bảo rộng bốn lần quả địa cầu, cao tột cõi Phạm Thiên,
dùng tất cả hương hoa, anh lạc, tràng phan, kỷ nhạc hay đẹp nhất
đời, hiến trọn kiếp sống để cúng dường phục vụ chư Phật đông
nhiều như thế.
Thiên đế! Ông nghĩ thế nào? Người vun trồng cội phước như thế
phước đức có nhiều chăng?
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Phước đức đó dù đem trọn kiếp, nói
cũng không sao hết được. Thiên đế đáp.
Phật bảo rằng: - Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe kinh điển bất khả
tư nghì giải thoát này, tin hiểu, thọ trì đọc tụng, tu hành thì
phước đức còn nhiều hơn người cúng dường vật chất cho chư Phật
kia. Bởi vì Bồ-đề của chư Phật đều từ kinh này mà sanh ra mà
tướng Bồ-đề thì vô hạn lượng. Thế cho nên phước đức cũng vô hạn
lượng.
Trời Đế Thích nói rằng đây là kinh Bất Tư Nghì giải thoát nghĩa
là kinh diễn tả về Thật Tướng, Bản Thể, Chân Lý một cách cao
siêu không thể nghĩ bàn cho nên chúng sinh nếu chịu tu học và
thực hành đúng theo ý kinh thì chính họ sẽ được giải thoát ngay
trong cõi đời nầy. Vì thế kinh nầy thuộc loại viên đốn Đại thừa
tức là được giải thoát nhanh. Kinh này do ông Duy Ma Cật là
Người Bất Tư Nghì, nói Kinh Bất Tư Nghì, biểu diển nhiều lần Bất
Tư Nghì Cảnh để khai thị và giúp chúng sinh tu theo Pháp Bất Tư
Nghì ngỏ hầu thành tựu Bất Tư Nghì Trí Tuệ và sau cùng giải
thoát Bất Tư Nghì Vô thượng Chánh Biến Tri Giác ngang hàng quả
vị chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai.
Cho dù cúng dường hằng hà sa số mười phương chư Phật, xây tháp
thất bảo mà thờ Xá lợi thì tất cả những phước đức nầy cũng không
bằng thọ trì, đọc tụng và phát tâm tu hành. Vì tài cúng dường
cho dù có lớn lao cách mấy thì cũng chỉ đem lại phước báo hữu
lậu trong cõi Trời hay cõi người, nhưng đến khi phước cạn thì
vẫn rơi rớt trong vòng luân hồi sinh tử, chịu cảnh khổ đau như
thường. Còn pháp cúng dường phát sinh công đức vô lậu và những
chủng tử nầy sẽ đưa chúng sinh đến chỗ giải thoát giác ngộ. Vì
thế Kinh cũng có câu: “Giả linh cúng dường hằng sa Thánh, bất
như kiên dũng cầu Chánh giác” nghĩa là cho dù có cúng dường chư
Phật nhiều như cát sông Hằng cũng không bằng quyết tâm dũng mãnh
cầu thành Phật. Ngày xưa khi Tổ Bồ-đề Đạt Ma vào yết kiến vua
Lương Võ Đế, nhà vua rất tự hào đã xây trên 480 ngôi chùa và độ
không biết bao nhiêu Tăng Ni nên khoe với Tổ: “Công đức của tôi
có lớn không? Tổ đáp: “Không có công đức gì hết”. Vì tất cả việc
làm tốt của nhà vua chỉ là phước đức hữu lậu trong thế gian, còn
công đức thì chính nhà vua phải tu, phải chứng mới có chớ không
thể lấy tiền của dân làm công đức cho riêng mình được.
Vì tầm quan trọng của kinh cho nên người thọ trì, biên chép, đọc
tụng, giảng thuyết tu hành theo kinh này thì có phước đức to lớn
vô cùng không thể nghĩ bàn và cũng là cách cúng dường chư Phật
ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai vậy.
Phật dạy tiếp:
- Thiên đế! Thưở quá khứ cách nay vô lượng vô biên A tăng kỳ
kiếp, lúc bấy giờ có Đức Phật hiệu Dược Vương Như Lai, Ứng cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô
thượng sĩ, Điều ngự Trượng phu, Thiên Nhơn sư, Phật, Thế Tôn.
Thế Giới của Đức Phật đó tên Đại Trang Nghiêm, kiếp tên Trang
Nghiêm. Phật thọ mạng hai mươi tiểu kiếp. Chúng đệ tử Thanh văn
ba mươi sáu ức na do tha. Bồ-tát tăng có mười hai ức.
- Này Thiên đế! Khi bấy giờ có vị Chuyển Luân Thánh Vương tên là
Bảo Cái có đầy đủ thất bảo, làm chủ tứ thiên hạ. Vua có một ngàn
người con đoan chính dũng kiện, có khả năng chinh phục mọi kẻ
địch thù. Thưở ấy, đức vua cùng quyến thuộc hết lòng cung kính
cúng dường Đức Dược Vương Như Lai mọi thứ cần dùng trải thời
gian dài năm kiếp. Qua năm kiếp rồi, nhà vua dạy các con: Các
con hãy kế tục theo hạnh của cha đã làm. Phải đem hết thâm tâm
mà cúng dường Đức Phật. Một ngàn người con đều hoan hỉ vâng lãnh
lời dạy của vua cha thành tâm cúng dường Đức Dược Vương Như Lai
trải năm trăm kiếp nữa. Trong đó có một vương tử tên Nguyệt Cái,
thiền tọa tư duy:
“Đáng tiếc thay! Ta chưa hiểu được, chẳng biết còn cách cúng
dường nào khác, tôn quý hơn cách cúng dường này chăng?
Do sức thần Phật, trong không gian có tiếng vọng: “Thiện Nam tử!
Cúng dường pháp ưu việt hơn tất cả mọi cúng dường”.
Vương tử bèn hỏi:
- Cúng dường pháp là thế nào?
- Tiếng vọng: “Ngươi nên hỏi Đức Dược Vương Như Lai, ngươi sẽ
biết thế nào là cúng dường pháp”.
Vương tử Nguyệt Cái bèn đến chỗ Dược Vương Như Lai, cúi đầu làm
lễ dưới chân Phật, đứng nép một bên thưa:
- Bạch Thế Tôn! trong tất cả sự cúng dường, cúng dường pháp ưu
việt hơn hết, con chưa hiểu ý nghĩa cúng dường pháp là thế nào?
Kính mong Thế Tôn vì con dạy bảo.
Mỗi vị Phật đều có đủ mười trí lực là Ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Như Lai và Thế Tôn. Do đó nếu
muốn gọi Phật là Thế Tôn, Như Lai hay Chánh Biến Tri đều được
cả.
Tiếng vọng trong không gian không có nghĩa là tiếng vọng của
đấng thần thánh gì cả mà đây chính là tiếng nói của Chơn tâm.
Khi chúng ta nghĩ đúng, làm lành và thành tâm thì chơn tâm hiển
bày do đó tiếng nói của Chơn tâm lan tỏa cũng như ánh sáng huyền
diệu lóe lên trong tâm thức lúc bấy giờ. Trong tất cả phương
cách cúng dường thì pháp cúng dường là cao quý nhất vì đó chính
là con đường duy nhất đưa đến giải thoát giác ngộ.
Đức Phật dạy:
- Này thiện nam tử! Ngươi hãy lắng nghe Như Lai sẽ vì ngươi nói
rộng về ý nghĩa, người cúng dướng pháp phải làm gì.
Người cúng dường pháp là người có khả năng nghe những kinh điển
giáo lý sâu xa của chư Phật nói ra mà những người thế gian khó
tin, khó hiểu, khó tiếp thọ, vì quá ư vi diệu, thanh tịnh tuyệt
trần, vô nhiễm, vô vi, vượt ngoài tư duy phân biệt của người
thường. Những kinh nhiếp thuộc về pháp tạng của Bồ-tát là dấu ấn
của Đà-la-ni. Những thứ kinh đưa con người đến địa vị bất thối
chuyển, hoàn thành lục độ, thuận với pháp Bồ-đề, trên hết trong
các kinh.
Kinh điển Đại thừa là kinh dạy chúng sinh về giáo lý liễu nghĩa
tức là giáo lý giải thoát giác ngộ vì thế nếu chúng sinh không
có chủng Tánh Đại thừa thì sẽ khó nghe, khó tin và dĩ nhiên
không thể thực hành theo kinh được. Ngày xưa khi Đức Thế Tôn
thuyết giảng về Nhất thừa Phật đạo trong Kinh Pháp Hoa thì có
trên năm ngàn đệ tử bỏ Phật. Ngược lại nếu chúng sinh chịu tu
học thì sẽ mang lại lợi ích vô cùng vô tận không thể nghĩ bàn và
có tâm bất thối chuyển tức là tâm không bỏ cuộc vì kinh này có
giá trị cao nhất.
Những kinh nghĩa dạy cho người tu hành thể nhập đại từ bi, xa
lìa các ma sự và các tà kiến. Nghe kinh nghĩa như thế không nghi
ngờ sợ hãi, như thuyết tu hành, gọi là cúng dường pháp. Lại nữa,
người cúng dường pháp là người có khả năng nhận thức chân lý,
tùy thuận pháp nhơn duyên sanh, tỏ ngộ chân lý vô ngã, vô nhân,
vô chúng sinh, vô thọ mạng. Thấu triệt nghĩa không, vô tướng, vô
tác, vô khởi của vạn pháp, có thể khiến cho chúng sinh ngồi đạo
tràng mà chuyển pháp luân. Chư Thiên, Long thần…
tán thán. Có thể khiến cho chúng sinh thể nhập kho tàng pháp bảo
của Phật, nắm trọn hết trí tuệ của hiền thánh, nói rõ những đạo
lý của Bồ-tát làm, y cứ vào nghĩa thật tướng của các pháp. Tuyên
rõ nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã và tịch diệt, để cứu hộ
những chúng sinh sai phạm cấm giới và những ngoại đạo ma quân,
những người nặng nghiệp tham, sân, si sợ sệt răn chừa. Những
kinh điển chư Phật khen ngợi, trái đường sinh tử, chỉ nẻo Niết
bàn, mười phương chư Phật hộ niệm và nói ra. Nghe kinh điển như
thế mà tin sâu, hiểu kỹ, thọ trì, đọc tụng vì các chúng sinh
phân biệt giải nói rõ ràng và giữ gìn kinh pháp đó. Làm được
những điều như thế, gọi đó là cúng dường pháp.
Thế nào là ma sự và tà kiến?
Ngày nay mỗi khi trong nhà có người chết thì người Phật tử
thường mời chư Tăng đến cầu siêu, bắt ấn, rãi nước cam lồ để
vong linh được vãng sanh về nơi Cực Lạc. Đây là tục lệ xưa bày
nay làm cho nó ấm cúng và để chứng tỏ cho người đời là con cháu
có hiếu, biết lo cho ông bà cha mẹ được vãng sanh về cõi Tây
phương Cực lạc vậy thôi. Hay là làm cho người sống được rạng rỡ
mặt mày chớ người chết thật ra không có kết quả gì hết. Bởi vì
dựa theo giáo lý nhân quả thì làm sao thành tựu được! Cả đời
người thì không lo tu hành, sống sa hầm sụp hố, chạy theo tham
đắm lợi danh, làm nô lệ cho vô minh phiền não đến khi chết thì
tất cả nghiệp báo hiện về để quyết định sự tái sinh của thần
thức, như thế thì làm sao chư Tăng cải đổi số mạng cho mình
được? Chính Đức Phật còn không làm nổi thì phàm Tăng ai dám bảo
đảm có thể chuyển nghiệp cho kẻ khác? Nhân nào thì quả nấy,
trồng khế chua thì ăn quả chua, ngược lại trồng quít ngọt thì
hưởng quả ngọt. Khi đã thấu hiểu giáo lý tối thượng Đại thừa thì
nên loại bỏ những tư tưởng đen tối nầy mà nhắm thẳng vào những
tư tưởng vô thường, vô ngã, vô tác, vô tướng, vô khởi của vạn
pháp mà tu hành để có tâm thanh tịnh mà có được sự giải thoát
thật sự. Đời nầy chính mình có giải thoát thì còn lo gì tương
lai không có giải thoát! Ngược lại nếu đời nầy mình làm nô lệ
cho vô minh phiền não thì kiếp sau phải chịu sa hầm sụp hố vậy
thôi. Nên nhớ chủ trương của đạo Phật là ông tu ông chứng, bà tu
bà đắc do đó không có chuyện ông tu mà bà đắc được. Ma sự và tà
kiến là người Phật tử chưa thoát hẳn vọng chấp mê lầm mà đi
ngược hoàn toàn giáo lý của Đức Phật. Chủ trương và tôn chỉ của
đạo Phật là độ sanh chớ không phải là độ tử.
Thấu hiểu chân lý vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh và vô thọ mạng
nghĩa là không có mình, không có người, không có chúng sinh và
không có tuổi thọ tức là phá được cái chấp về Ta, phá tan tập
khí ngã mạn, không còn phân biệt có Ta, có người. Mình cũng
không thì người cũng không nghĩa là phá chấp ngã và phá được
chấp pháp. Vạn pháp là không thì làm gì có vật gì bền chắc,
trường tồn vĩnh cửu nên tâm không còn mê đắm, đó là phá được vô
thọ mạng. Nếu phá được bốn món nầy thì sẽ có tâm thanh tịnh và
đây là chủ yếu của kinh Kim Cang.
Vạn pháp là Không,
vì vạn pháp không có chủ thể, không có tự tánh nên vạn pháp là
vô ngã tức là Không. Tuy vạn pháp hình tướng có khác nhau, nhưng
Bản Thể thì bất biến là tướng Không. Vì thế Không Tướng mới
chính là Thật Tướng của vạn pháp. Đối với nhân sinh vũ trụ thì
khi hữu duyên thì Bản Thể duyên khởi mà sinh ra vạn pháp. Ngược
lại khi duyên hết thì vạn pháp trở lại với Bản Thể ban đầu. Tất
cả những hiện tượng nầy là do duyên khởi chớ không có ai là tác
giả cho nên mới gọi là vô tác, vô khởi.
Nghe kinh, hiểu kinh và hành theo kinh mới là cúng dường cao quý
nhất.
Lại nữa, người cúng dường pháp là người đối với các pháp đúng
như lời dạy của kinh mà tu hành, tùy thuận pháp nhân duyên, xa
lìa tà kiến, chứng nhập pháp nhẫn vô sanh, thể nhập sâu sắc diệu
lý vô ngã, vô chúng sinh. Đối với chân lý nhân duyên, nhân quả
không nghi ngờ chống trái, xa lìa tất cả ngã sở hữu. Trên đường
học đạo tiến tu ý nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, y liễu
nghĩa kinh bất y liễu nghĩa kinh, y pháp bất y nhân. Người cúng
dường pháp còn là người tùy thuận pháp tướng. Đối với các pháp
không có tướng sở nhập cũng không có chỗ sở qui. Vì hiểu rằng:
vô minh rốt ráo tịch diệt, các hành cũng rốt ráo tịch diệt. Cho
đến sanh cũng rốt ráo tịch diệt nên lão tử cũng rốt ráo tịch
diệt. Khởi quán như thế, nhận thấy rõ ràng: Mười hai nhân duyên
không có tướng tận chung cũng không có tướng khởi thỉ. Học pháp
như thế, hành những pháp như thế gọi đó là người cúng dường pháp
tối thượng.
Thể nhập diệu lý vô ngã, vô chúng sinh tức là không chấp có mình
và người tức là phá cho được cái bản ngã. Tu hành là đi ngược
lại với thế trần nghĩa là người thế gian thì đề cao bản ngã để
được quyền cao chức trong, mọi người tôn quý. Ngược lại người tu
Phật thì phải diệt cho hết bản ngã để tâm được thanh tịnh mà
giải thoát. Phải thấu hiểu Tứ y pháp: Y nghĩa bất y ngữ: Văn tự
lời nói là không thật nên đừng quan trọng mà chỉ nên chú ý đến ý
nghĩa của kinh mà thôi. Thí dụ như chúng ta tụng một hồi kinh
Pháp Hoa hay Tâm Kinh thuộc lòng mà không thấu hiểu ý nghĩa của
kinh thì không thực hành đúng y nghĩa bất y ngữ bởi vì Chân lý
của Phật không có ngôn ngữ nào diễn tả hết. Y trí bất y thức:
Trí là trí tuệ còn thức là cảm tình cho nên chúng sinh nên lấy
lý trí sáng suốt mà hành sự chớ đừng vì cảm tình theo chùa nầy,
tin thầy kia thì hỏng một đời tu hành của mình. Trí tuệ là bất
cứ ai nói đúng Chánh Pháp thì ta nghe, hành đúng Chánh Pháp thì
ta theo. Y liễu nghĩa bất y liễu nghĩa: Liễu nghĩa là giải thoát
ra khỏi sinh tử luân hồi cho nên chúng sinh không nên quan trọng
những vật chất của thế gian vì của thế gian phải trả lại cho thế
gian. Y pháp bất y nhân: Pháp là kinh điển là lời dạy của Phật,
là kim chỉ Nam đưa đến giải thoát giác ngộ. Ngày nay có rất
nhiều giáo hội, tông phái làm cho Phật giáo suy đồi. Vì thế Y
Pháp là chỉ nghe lời Phật dạy chớ đừng nghe theo ông nầy bà nọ
hay không dựa vào sắc diện của ai mà không nói và thực hành đúng
Chánh Pháp.
Các pháp không có tướng sở nhập là không có ai làm ra nó và các
pháp không có chỗ sở quy là cuối cúng nó chẳng về đâu cả. Khi
duyên hợp thì gọi là sanh và khi duyên tan rã thì mất chớ không
có ai tạo tác vì vạn pháp là trùng trùng duyên khởi. Tan rồi hợp
và hợp rồi tan, đó là tùy duyên bất biến và bất biến tùy duyên
chớ không có cái gì thật sanh hay thật mất. Cũng như tấm thân
thất đại của chúng ta, khi đủ duyên thì thân nầy còn, thất đại
sống. Đến khi duyên hết, thân hoại, thất đại tan rã. Cho nên
thân thất đại này là không có tướng sở nhập và không có chỗ sở
quy.
Nếu nói theo kinh bất liễu nghĩa mới có vô minh, có hành, có
thức, có sanh, có lão tử, nhưng kinh liễu nghĩa Đại thừa thì làm
gì có vô minh, làm gì có hành… Tại sao? Đố ai tìm trong mình mà
thấy được vô minh? Khi mê thì thấy có vô minh còn ngộ thì làm gì
có vô minh. Vì vô minh là loại khách và trần, là bên ngoài do đó
khi mình mê thì nó đến, nó tác động hoành hành. Còn khi thức
tỉnh, vô minh mất, khách trần tan biến. Thí dụ như khi thấy cảnh
chướng tai gai mắt làm cho lòng ta nóng giận. Thấy cảnh khó chịu
tức là khách trần bên ngoài chớ nó đâu phải của mình. Mình khó
chịu là vì mình mời khách vào trong nhà làm cho tâm điên đảo.
Nếu thức tỉnh thì đóng bít sáu cánh cửa để sống với tự tánh
thanh tịnh của mình thì khách trần làm sao vô nhà để quấy phá
mình được. Người hiểu đạo thì sanh tử là chuyện thường vì sống ở
chết về có gì phải sợ. Sống thì cũng như tạm trú trong khách trọ
chớ đâu là nhà của mình mà luyến tiếc. Hiểu đạo, hành đạo và
sống cho đạo là pháp cúng dường cao thượng nhất.
Đức Phật bảo:
- Thiên đế! Vương tử Nguyệt Cái theo Đức Phật Dược Vương,
nghe học pháp như thế được nhu thuận nhẫn, bèn cởi bảo y đang
mặc trên mình, dâng lên cúng dường Phật và bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn! sau Như Lai diệt độ, con sẽ thực hành cúng dường
pháp để thủ hộ chánh pháp. Kính mong Thế Tôn thương xót, dùng
oai thần vững mạnh khiến cho con đủ nghị lực hàng phục ma quân
tu Bồ-tát hạnh.
Đức Dược Vương Như Lai biết ý nghĩ từ thâm tâm của vương tử
Nguyệt Cái, bèn thọ ký:
- Nguyệt Cái! Đời sau ông sẽ truyền trì chánh pháp làm tường
thành hộ pháp khiến cho Phật pháp cửu trụ thế gian.
Vương tử Nguyệt Cái cởi áo và đồ trang sức cao quý mà cúng dường
Phật để tỏ lòng tôn kính và biết ơn. Thật ra Phật Dược Vương đâu
có cần dùng áo hay những đồ trang sức lộng lẫy này, nhưng ở đây
kinh muốn nói đến sự buông xả, dám hy sinh từ bỏ tất cả những gì
mà người đời cho là cao quý, tốt đẹp. Của cải vật chất quý báu
thế gian chính là sự ràng buộc vô hình làm cho tâm bất tịnh cho
nên Vương tử mới thức tỉnh mà đổi lấy Chánh Pháp của Phật để có
được sự an lạc thanh tịnh giải thoát mà không có của cải vật
chất thế gian nào sánh bằng. Pháp cúng dường giúp Tỳ kheo Nguyệt
Cái tăng trưởng nghị lực mà xa lìa mọi cám dỗ ham muốn ngũ dục
lạc của thế gian là tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ
nghỉ và phát tâm đại từ đại bi cứu giúp tất cả chúng sinh.
Đức Thích Ca dạy tiếp:
- Thiên đế! Vương tử Nguyệt Cái liền sau đó, con mắt chánh
pháp tỏ sáng và thanh tịnh. Nghe Dược Vương Như Lai thọ ký cho,
bèn đem hết tín tâm xuất gia, tinh tấn tu tập thiện pháp, không
bao lâu được năm thứ thần thông, đầy đủ đạo Bồ-tát, có sức tổng
trì biện tài vô đoạn. Sau Phật diệt độ đem sức tổng trì, thần
thông và biện tài đã được,
truyền bá chánh pháp của Dược Vương Như Lai, tùy cơ phân bổ,
tinh tấn giữ gìn trọn hai mươi tiểu kiếp. Nguyệt Cái tỳ kheo
giáo hóa trăm muôn ức người vững bước tiến trên đường vô thượng
Bồ-đề. Mười bốn na do tha người phát tâm sâu sắc đối với quả
Thanh văn, Bích chi Phật, vô lượng chúng sinh được phước quả cõi
Trời.
- Này Thiên đế! Vua Bảo Cái xưa kia, không phải là ai xa lạ,
chính là người được thành Phật hiệu Bảo Diệm Như Lai hiện nay.
Một ngàn vương tử xưa kia là một ngàn Phật trong hiện kiếp. Vị
Phật trước hết hiệu Ca La Cưu Tôn Đà Như Lai. Vị Phật sau rốt
hiệu là Lâu Chí Như Lai. Còn Tỳ kheo Nguyệt Cái chính là ta đây
vậy.
Như vậy đó Thiên đế! Đấy là điều trọng yếu. Phải biết! Hãy nên
đem pháp mà cúng dường. Cúng dường pháp tối ưu việt hơn tất cả
mọi cách cúng dường nào khác.
Thế cho nên Thiên đế! Hãy đem pháp cúng dường mà cúng dường chư
Phật.
Tỳ kheo Nguyệt Cái vì dám từ bỏ tất cả những tài sản quý báu,
những thú vui vật chất giả tạm của thế gian đã cột chặt con
người vào những hệ lụy của phiền não khổ đau và quyết tâm tinh
tấn tu hành, giữ gìn và truyền bá rộng rãi Chánh Pháp của Phật
cũng như giáo hóa vô lượng chúng sinh trải qua trọn hai mươi
tiểu kiếp nên ngày nay thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Vua Bảo Cái và một ngàn người con nhờ đem hết thâm tâm ra
cúng dường chư Phật trên năm trăm kiếp nay đều thành Phật. Duy
chỉ có Tỳ kheo Nguyệt Cái vì cúng dường Pháp nên thành Phật
trước và Ngài là vị Phật thứ tư trong tiểu kiếp thứ chín.
Sau cùng thực hành Pháp cúng dường không những chỉ in kinh, đọc
tụng, trì chú mà phải có khả năng nghe những kinh điển giáo lý
thâm sâu vi diệu mà người đời khó nghe, khó tin, khó hiểu, khó
hành rồi sanh tâm ham mộ, không có ý sợ hãi, nghi ngờ và phát
tâm dũng mãnh theo lời kinh dạy mà tu hành. Thực hành Pháp cúng
dường cũng là hy sinh những thứ quý báu của thế gian để được cái
kho tàng Pháp bảo xuất thế gian, bỏ phiền não sinh tử khổ đau để
đổi lấy sự an vui thanh tịnh Niết bàn, bỏ phước báu của Trời
người để được trí tuệ viên thông vô ngại của Hiền Thánh. Có thực
hành Pháp cúng dường thì có tâm thanh tịnh và từ đó mới có cõi
Phật thanh tịnh trang nghiêm. Được như thế thì con người sẽ kiến
tạo cho mình một thế giới vô cùng an lạc hay Tịnh độ của thế
gian vậy.