Chương Thứ
Tám
Phẩm
Phật Đạo
CON ĐƯỜNG PHẬT
(The Family of the Tathagatas)
Bồ-tát
Văn Thù Sư Lợi nói:
- Thưa ngài Duy Ma Cật! Bồ-tát phải làm gì để con đường Phật
được thông suốt.
Ông Duy Ma Cật đáp:
- Bồ-tát muốn con đường Phật được thông suốt, phải đi con đường
ngược lại. Đi con đường ngược thì con đường Phật sẽ thông suốt.
Bồ-tát Văn Thù hỏi:
- Đi con đường ngược, Bồ-tát phải đi như thế nào?
Ông Duy Ma Cật đáp:
- Bồ-tát đi vào ngũ vô gián mà không buồn rầu giận dữ. Vào địa
ngục mà tự tâm không có tội lỗi cấu uế. Đến với súc sanh mà
không có vô minh, kiêu mạn. Đến với ngạ quỷ mà đầy đủ công đức
lành. Đi vào con đường dục giới, sắc giới, chẳng cho đó là được
may mắn hơn.
Giả đi vào con đường tham dục mà xa lìa các sự đắm nhiễm dính
mắc.
Giả đi vào con đường sân nhuế mà đối với chúng sinh không giận
dữ thù hằn.
Giả đi
vào ngu si mà thường dùng trí tuệ điều phục tâm mình.
Giả đi vào con đường xan tham mà xả bỏ thân tâm, của cải cho đến
thân mạng cũng không lẫn tiếc.
Giả đi vào đường phạm giới mà tâm an trụ tịnh hạnh, dù tội lỗi
nhỏ cũng răn sợ không cho sai phạm.
Giả đi vào con đường giải đải mà hằng siêng tu công đức thiện.
Giả đi vào đường loạn ý mà thường nghiếp niệm định tâm.
Giả đi vào con đường ngu si mà thông hiểu hết việc thế gian và
xuất thế gian một cách đứng đắn.
Giả đi vào con đường siểm trá mà khi kết quả thì đúng với ý
nghĩa kinh, hợp lời Phật.
Giả đi vào con đường kiêu mạn mà thực chất là làm cầu đường
chuyên chở chúng sinh.
Giả đi vào con đường phiền não mà tâm thường thanh tịnh trong
sáng.
Giả đi vào con đường ma mà thuận theo trí tuệ Phật không nghe
theo sự cám dỗ của bọn ma.
Giả đi vào đường Thanh văn mà giáo hóa chúng sinh bằng pháp đại
thừa.
Giả đi vào đường Bích chi Phật mà đi truyền đạt cho chúng sinh
tư tưởng đại bi của Phật.
Giả đi vào hàng nghèo khó mà của báu công đức trong tay vô tận.
Giả đi vào đường trau dồi trang điểm sắc diện như người thường
mà đầy đủ các tướng hảo tự trang nghiêm thân.
Giả đi vào đường hạ tiện mà thực chất sanh trong giòng Phật, bên
trong có đầy đủ công đức.
Giả đi vào đường của hạng người quê mùa, yếu đuối mà thực chất
được thân tráng kiện na la diên, chúng sinh đều rất ưa nhìn.
Giả đi vào đường lão bệnh mà dứt hẳn bệnh căn, vượt ra sự sợ sệt
chết chóc.
Giả đi vào đường kinh doanh sinh sống mà hằng quán vô thường,
không để lòng tham luyến.
Giả có thê thiếp mà thường viễn ly bùn lầy ngũ dục.
Giả hiện như người đần độn mà biện tài vô ngại, nhớ ghi không
sót.
Giả đứng phe tà mà lấy chánh lý giúp hộ chúng sinh.
Giả hiện đi vào các luân hồi mà đoạn hết nguyên nhân sanh tử, ưu
bi khổ não.
Giả hiện ở Niết bàn mà không dứt hết hạt giống sanh tử.
Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Nếu Bồ-tát đi vào con đường trái ngược
như thế, Bồ-tát sẽ đi một cách thông suốt con đường Phật.
Bồ-tát phải làm gì để đi con đường Phật được thông suốt, không
bị trở ngại? Đó là “Bồ-tát hành phi đạo thị vi thông đạt Phật
đạo” nghĩa là nếu muốn đi theo con đường Phật được thông suốt
thì Bồ-tát phải đi ngược lại con đường chúng sinh đi. Phật đạo
là con đường dẫn dắt chúng sinh đến chỗ giải thoát giác ngộ. Còn
đường của chúng sinh là thuận lưu sanh tử tức là xuôi theo dòng
sanh tử mà đi. Vì thế nếu muốn đi con đường Phật viên mãn thì
Bồ-tát phải đi ngược dòng sinh tử nầy. Thông thường thì dòng
sinh tử là khuyến khích con người làm lành, lánh dữ, bỏ ác phục
thiện. Bây giờ phi đạo tức là trái đạo hay đi ngược lại dòng
sinh tử nghĩa là con đường xấu ác, tội lổi, bất thiện… Vậy tư
tưởng của ông Duy Ma Cật có mâu thuẩn với Phật pháp chăng?
Bồ-tát tự nguyện thị hiện vào đời để cứu giúp chúng sinh thì
chắc chắn phải đối diện với thuận hay nghịch cảnh. Nếu gặp thuận
cảnh, gặp người hiền lành chất phát siêng năng chăm chỉ tu hành
thì việc độ sanh tương đối dễ dàng cũng như chiếc tàu buồm nương
theo chiều gió mà thánh thoát lướt tới. Nhưng thế gian là biển
khổ trầm luân, con người lặn hụp trong cõi đời ô trược, lấy khổ
làm vui vì thế Bồ-tát dám thị hiện vào trong nghịch cảnh để làm
những việc khó làm, vào những chỗ tội lổi xấu xa như trà đình
tửu điếm, đầu trộm đuôi cướp để giáo hóa cứu độ chúng sinh đưa
họ thoát ra khỏi chốn bùn lầy tanh hôi dơ dáy. Các ngài thị hiện
làm kẻ tham-sân-si, ham mê sắc dục, làm kẻ phá giới, làm người
gian ác để làm gương cho chúng sinh thấy đó mà xa lánh. Các ngài
hiện thân ngay cả vào địa ngục, làm ngạ quỷ hay súc sanh nhưng
vẫn an nhiên và không vướng mắt sinh tử luân hồi. Với tâm đại
từ, đại bi, đại hùng, đại lực các ngài thương tất cả chúng sinh,
người tốt cũng thương mà người xấu ác lại càng thương hơn. Vì
thế các ngài thị hiện tùy theo căn tánh của chúng sinh mà cứu
vớt họ, khuyên nhủ họ lánh xa tội lổi, tu tâm dưởng tánh và trở
về với chánh đạo. Dù hiện thân là gì đi chăng nũa, tâm Bồ-tát
lúc nào cũng như như bất động vì vậy cho dù các ngài có vào
những nơi nhiều cám dỗ hưởng thụ dục lạc mà tâm không hề khởi
vọng niệm, không phân biệt chấp trước nên lúc nào cũng an nhiên
tự tại không bị ô nhiễm. Có đồng thanh tương ứng, đồng khí tương
cầu thì Bồ-tát mới gần gũi, thân cận và cảm thông được với hoàn
cảnh của chúng sinh mà tạo cơ hội cứu giúp họ. Nên nhớ muốn làm
những chuyện khó làm thì chính mình phải có đủ bản lãnh nếu
không thì việc mình độ đời hóa ra mình bị đời độ lại nghĩa là
chẳng những không cứu giúp được ai mà chính mình cũng bị sa vào
vòng đọa lạc. Không biết bơi thì đừng làm anh hùng nhảy xuống
sông cứu người đang chết đuối hoặc là thuyền mình nhỏ bé thì
đừng mạo hiểm đi vào chốn biển to sóng lớn.
Dựa theo tư tưởng của Phật giáo Mật tông Tây Tạng thì họ chuyển
hóa tất cả lạc thú thành kinh nghiệm siêu việt. Đó là thay vì
tránh xa lạc thú thế tục, mật tông Tây tạng khuyên con người cứ
tự nhiên hưởng lạc, nhưng chuyển cái năng lượng của lạc thú
thành con đường hiệu nghiệm đưa đến sự
toại ý và giác ngộ hoàn toàn. Khoái lạc tự chúng không là vấn đề
mà vấn đề chính là sự bám víu chấp thủ vào khoái lạc. Do đó con
người tha hồ vui thú mà không bị những rắc rối kèm theo sự tìm
kiếm khoái lạc. Thật ra tư tưởng nầy không có gì mới lạ đối với
giáo lý Phật giáo đại thừa vì sáu căn và sáu trần tự chúng là
bản nhiên thanh tịnh không bị ô nhiễm. Nhưng khi sáu căn đối
diện với dục lạc, tâm liền phân biệt mà phát hiện ý niệm ham
muốn mà bám víu, chấp thủ lấy dục lạc. Vì thế Phật giáo Đại thừa
rất cẩn thận mà dạy chúng sinh kiềm chế tâm tham dục thay vì tha
hồ chạy theo tham dục. Chúng ta là phàm nhân chớ đâu phải là
Bồ-tát, không mặc áo quần chống lửa thì đừng chạy vào nhà đang
cháy để cứu người.
Khác với các vị Bồ-tát giả hiện vào cảnh xấu, làm các việc xấu
nhưng tâm vẫn an nhiên tự tại, không bị bụi trần làm ô nhiễm,
các vị A La Hán trong hàng Thanh văn thì cố chấp không dám làm
những chuyện phi đạo. Thấy nhà cháy mà không dám vào cứu cô gái
đẹp vì sợ phải ẳm bồng. Cũng như ông Xá Lợi Phất thấy hoa trời
xinh đẹp, thơm ngát mà không dám ngữi vì sợ phạm giới. Đối với
hàng tu theo nhị thừa như Thanh văn, Duyên giác thì cứu cánh vẫn
là thoát ly sanh tử luân hồi, lánh xa thế tục để tâm được thanh
tịnh mà chứng đắc Niết bàn. Đây là con đường tự giác mà họ không
tha thiết nghĩ gì đến phần giác tha là cứu giúp tất cả chúng
sinh vẫn còn lặn hụp trong biển sinh tử trầm luân khổ não. Vì
thế Bồ-tát lại thị hiện làm thân A La Hán hay Bích Chi Phật để
tiến tu, phát Bồ-đề tâm mà viên thành Phật đạo để làm gương cho
họ tu theo. Có tự độ rồi độ tha hay tự giác rồi giác tha thì đạo
Phật mới tồn tại, chánh Pháp mới được lưu truyền và dĩ nhiên
chúng sinh mới có cơ hội quay về với chánh đạo. Nếu tự giác mà
không giác tha thì đạo Phật sẽ chết, ai cũng xa lánh chốn bụi
trần vào tận rừng sâu u tịch mà tu thì chân lý huyền diệu nhiệm
mầu của Như Lai cũng theo hàng Thanh văn biến mất vào nơi cực
lạc, Niết bàn. Vì thế phải có những vị Bồ-tát thị hiện vào những
nơi tội lổi xấu xa, làm những việc khó làm để làm gương cảnh
tỉnh chúng sinh và giúp đở cho họ tu hành thì tất cả những việc
phi đạo mới chính là Phật đạo vậy.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật hỏi Văn Thù Sư Lợi rằng:
- Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Xin ngài cho biết những gì là hạt
giống Như Lai?
Văn Thù đáp:
- Thân là hạt giống Như Lai. Vô minh, ái là hạt giống Như Lai.
- Tham, sân, si là hạt giống Như Lai.
- Tứ đảo, ngũ cái, lục nhập, thất tình, cữu não, thập bất thiện
nghiệp là hạt giống Như Lai.
- Nói tóm lại, 62 kiến chấp và tất cả phiền não đều là hạt giống
Như Lai.
Nói thế nghĩa là thế nào?
- Nghĩa là những tâm và tâm sở pháp có tánh chất phiền não, vô
minh đó là hạt giống Như Lai Phật. Ngược lại, nếu người tỏ ngộ
vô vi, chứng nhập chánh vị thì không thể phát tâm hướng đến vô
thượng Bồ-đề. Ví như cao nguyên và đất gò, sen không thể mọc
được thì còn mong gì trổ được hoa. Chỉ có đất thấp, bùn lầy, hoa
sen mới sanh trưởng. Cũng như vậy, người ngộ vô vi pháp, chứng
nhập chánh vị không cần sinh hoạt ở trong Phật pháp nữa. Chỉ có
chúng sinh ở trong bùn lầy phiền não, mới phát khởi lòng mong
cầu Phật pháp mà thôi. Cũng như trồng cây trong hư không, cây
không thể sanh trưởng. Phải trồng ở chỗ có đất phân, cây mới
tươi tốt sum suê. Cũng vậy người chứng nhập vô vi chánh vị không
còn điều kiện để sanh trong Phật pháp. Thế cho nên phải biết
rằng: Tất cả phiền não là hạt giống Như Lai. Ví như không lặn
xuống biển sâu, không thể có được bảo châu vô giá. Không vào
biển lớn phiền não, không thể có nhất thiết trí vô giá Như Lai.
Các vị A La Hán vì chưa thâm nhập triết lý đại thừa nên thấy thế
gian là khổ, chúng sinh cang cường khó dạy, trần thế đầy dẫy tội
lổi đau thương nên họ xa lánh chốn bụi trần mà rút tận vào rừng
sâu cố tu mong để chứng đắc Niết bàn và thoát vòng sinh tử luân
hồi.
Khi chúng sinh đã đoạn trừ hết kiến hoặc, tư hoặc và vi tế hoặc
thì họ chứng đắc quả vị A La Hán. Đến đây có hai con đường: nếu
họ thỏa chí với quả vị A La Hán mà không chịu tiến tu thì họ là
Định Tánh A La Hán. Còn hạng thứ hai có trí tuệ và muốn tiến lên
trí tuệ Đại thừa để hoàn thành Phật đạo thì gọi là Tuệ Tánh A La
Hán. Chỉ có hạng Định Tánh A La Hán mà kinh nầy gọi là nhập vô
vi chánh vị tức là chỉ muốn an hưởng một thứ Niết bàn an tịnh mà
không chịu tiến tu, không phát tâm Bồ-đề nên Đức Phật luôn quở
trách hạng nầy. Phật gọi họ là mầm thối, là hạt giống bị đốt
cháy.
Nhưng hoa sen đâu có mọc trên núi cao mà nở hoa tươi thắm ở nơi
bùn tanh hôi hám. Thế thì chốn bụi trần chính là đạo tràng tốt
nhất, là hạt giống Như Lai để chúng sinh vươn lên mà trổ hoa
thơm ngát. Muốn đánh tan tư tưởng cố chấp nhị nguyên của hàng
Thanh văn, người học Phật phải thấu suốt chân lý nhất như hay
nhất chân pháp giới của đại thừa.
Thuyết nhị nguyên của thế gian thường dẫn dắt con người suy
nghiệm sai lầm về nhân sinh vũ trụ. Thí dụ như tốt thì phải có
xấu, sáng phải có tối, thiện đi đôi với ác, trong thì có ngoài…
nhưng Nhất chân pháp giới hay nguyên lý bất nhị đại thừa của nhà
Phật xác định là tất cả là một nghĩa là trong tối có sáng, trong
thiện có ác… cho nên phiền não tức Bồ-đề hay sinh tử tức Niết
bàn. Vì vậy con người không cần phải tìm Niết bàn hay Bồ-đề ở
đâu xa cả mà nó chính là ở trong cảnh phiền não sinh tử mà ra.
Con người vì mê lầm nên luôn tìm cái giác ở ngoài cái mê, nhưng
thật ra giác và mê vẫn là một bởi vì hết mê thì thấy giác, hết
đau khổ thì có an vui chớ không tìm thấy an vui ở đâu xa. Chúng
sinh vì bị vô minh che lấp nên cuộc sống đầy dẫy phiền não khổ
đau. Cái nhức đầu nó không tha cho một ai cả, nghèo có nhức đầu,
đau khổ của kẻ nghèo, còn người càng giàu sang phú quý thì càng
thêm phiền não lo âu. Bây giờ nếu con người thấu hiểu Phật pháp
và sống theo chánh pháp thì biết rằng phiền não vô minh dấy khởi
làm che lấp Bồ-đề cho nên một khi chúng sinh biết làm cho phiền
não lắng xuống thì Bồ-đề sẽ hiện ra. Nói một cách khác nếu con
người ôm một bụng phiền não mà chạy tìm Bồ-đề thì cho dù chạy
tìm đến muôn đời cũng không bao giờ thấy nó được. Do đó nếu
không diệt hết vô minh phiền não thì cho dù chúng sinh có qua
tận Ấn độ, tham thiền niệm Phật dưới cội Bồ-đề thì Bồ-đề cũng
không bao giờ hiễn hiện. Niết bàn thì cũng thế. Niết là không,
bàn là tham do đó hết tham là có Niết bàn. Niết là không, bàn là
sân cho nên nếu không còn giận hờn tức tối, không còn chấp lời
khen chê thị phi thì có Niết bàn. Niết là không, bàn là si vì
vậy khi không còn ham muốn, đòi hỏi hay mù quáng chạy dục vọng
thái quá là có Niết bàn ngay.
Vì thế tất cả những thứ như tham-sân-si, vô minh, ái dục chính
là hạt giống Như Lai, là bùn lầy tanh hôi dơ dáy, là nguyên liệu
cần thiết để hoa sen đâm chồi nức rễ. Chính nơi bùn tanh hôi hám
nầy mà sen Bồ-đề mới nở hoa thơm ngát và loan tỏa sự an lạc
thanh tịnh của Niết bàn.
Hàng Thanh văn vì tỏ ngộ vô vi nghĩa là chứng được ngã Không tức
là thấy mình là không và chúng sinh, vạn pháp cũng là Không vì
tất cả là vô thường vô ngã, sinh sinh diệt diệt nên họ xa lánh
cuộc đời, chán chường nhân thế, sống trong tiêu cực và không
phát tâm Bồ-đề để cứu giúp chúng sinh. Ngược lại các vị Bồ-tát
cũng hành thâm ngũ uẫn là Không, nhưng cái Không lại hiện ra cái
Có tức là Chân Không mà Diệu Hữu nên Bồ-tát không lìa chúng sinh
vì Bồ-tát, chúng sinh vốn là một. Các ngài thị hiện nhiều thân
hình khác nhau, làm những việc khó làm để cứu độ chúng sinh
trong cuộc đời đầy dẫy tội lỗi phiền não khổ đau nầy.
Tóm lại trước tuệ nhãn của Bồ-tát Văn Thù thì tất cả phiền não
là hạt giống Như Lai. Chúng sinh muốn thành Phật thì phải dựa
trên vô minh phiền não mà từ từ cải tạo chuyển hóa, bớt một phần
vô minh thì có một phần Bồ-đề, bớt một phần phiền não thì có một
phần Niết bàn cho đến khi vô minh tan biến, phiền não tiêu trừ
thì Niết bàn, Bồ-đề hiễn hiện. Thật vậy không xuống biển sâu thì
không thể có được bảo châu vô giá, không có vô minh phiền não
thì không bao giờ có được Nhất Thiết Chủng Trí Như Lai (trí tuệ
Phật) vô giá được.
Bấy giờ ông Đại Ca Diếp tán thán rằng: Ôi! Tuyệt diệu hay!
Tuyệt diệu thay! Tuyệt diệu thay! Những lời của ngài Đại Trí Văn
Thù Sư Lợi! Thật đúng vậy! Bè lũ phiền não là hạt giống Như Lai.
Hàng Thanh văn chúng tôi không kham nổi việc phát tâm vô thượng
Bồ-đề. Đến như người thọ tội ngũ vô gián hãy còn có thể phát tâm
sanh trong Phật pháp. Nay chúng tôi lại mất hẳn ý chí cầu vô
thượng đạo. Ví như người thui chột các căn, đối với ngũ dục
chẳng còn tương quan tiếp thọ được gì. Hàng Thanh văn đoạn hết
phiền não kiết sử, trong Phật pháp hết đường nhờ cậy, vì chí
nguyện đã dứt mất hẳn rồi. Thế cho nên, thưa ngài Văn Thù Sư
Lợi! Người bạc địa phàm phu đối với Phật pháp còn có cơ may trở
lại, mà hàng Thanh văn thì đã tuyệt phần. Bởi vì, phàm phu nghe
Phật pháp, có thể phát khởi vô thượng đạo tâm, chứ hàng Thanh
văn dù có nghe Phật pháp trọn đời, vĩnh viễn không thể phát
triển ý hướng về vô thượng đạo!
Nếu có người làm ăn rất thành công, tiền bạc dồi dào và đời sống
đang xuôi buồm thuận gió, giàu sang sung sướng thì những người
nầy ít khi nào thích nghe kinh, học Pháp. Trái lại, khi con
người đối diện với phiền não khổ đau như công danh thất bại,
tiền của mất mát, tình yêu bẻ bàng, gia đình bất ổn, tai nạn xảy
ra hay gặp bệnh tật… thì họ mới hồi đầu thị ngạn để nghe kinh
học Pháp mà tỏ ngộ chân lý. Vì thế bè lũ phiền não chính là hạt
giống Phật, là mầm của Như Lai, là giải thoát giác ngộ. Thật ra
những người quá nghèo khổ, cơ hàn thì cũng rất khó mà tu hành vì
cũng đối diện với phiền não khổ đau, nhưng họ mãi quần quật với
cuộc sống nên không tìm thấy ánh sáng của chân đạo.
Tiếc thay trí tuệ hạn hẹp của hàng tiểu thừa đối với giáo lý Vô
thượng thậm thâm vi diệu pháp của Đại thừa ngay cả ông Xá Lợi
Phất cũng tự trách mình và hàng Thanh văn không làm lợi ích, cứu
giúp cho chúng sinh. Đối với hạng bạc địa phàm phu còn có cơ hội
phát tâm cầu vô thượng Bồ-đề trong khi hàng Định Tánh Thanh văn
đối với quả vô thượng Bồ-đề thì vô phương cứu chửa, không còn hy
vọng cũng như người tàn phế cả ngũ căn mặc dù ngũ trần còn đó mà
chẳng hề hay biết.
Bấy giờ trong pháp hội có Bồ-tát tên Phổ Hiện Sắc Thân, hỏi
ông Duy Ma Cật:
- Thưa cư sĩ! Cha mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc, bạn
lành tri thức của ngài là những ai? Nô tì, đồng bộc, ngựa, voi,
xe, kiệu ngài để ở chỗ nào?
Kinh điển Đại thừa, mỗi khi giới thiệu tên một vị Phật hay
Bồ-tát thì kinh thường ám chỉ một ý nghĩa thâm sâu huyền diệu
chẳng hạn như Nan Thắng Như Lai, Tu Di Đăng Vương Như Lai… Trong
phẩm nầy khi giới thiệu Phổ Hiện Sắc Thân Bồ-tát thì cũng không
ngoài ngoại lệ đó. Phổ là rộng, Hiện là cho thấy cho nên Phổ
Hiện Sắc Thân là thị hiện thành nhiều thân hình và làm những
việc khó làm để chúng sinh dựa theo đó mà quay về với chánh đạo.
Thưở Đức Phật còn tại thế thì Ngài chỉ dùng khẩu thuyết chớ
không có văn tự để hoằng pháp. Vì thế sau mỗi bài pháp thoại thì
Ngài thường tóm gọn những tư tưởng chính vào thành một bài kệ để
đại chúng dễ nhớ, dễ tu học.
Ông Duy Ma Cật đáp lời qua bài kệ:
Trí độ mẹ Bồ-tát
Phương tiện ấy làm cha
Tất cả các đạo sư
Đều do đó sanh ra.
Pháp hỷ chính là vợ
Tâm từ bi là gái,
Tâm thánh thật là trai,
Rỗng lặng là nhà thường trú.
Trần lao là đệ tử,
Sai khiến theo ý muốn,
Đạo phẩm là thiện tri thức
Do đấy thành chánh giác.
Lục độ pháp là bạn bè
Pháp tứ nhiếp là kỹ nữ
Ca ngâm tụng lời pháp,
Lấy đó làm âm nhạc.
Hoa viên là tổng trì
Rừng cây là pháp vô lậu,
Giác ý là hoa tịnh diệu
Trái là giải thoát trí tuệ.
Bát giải (thoát) là ao tắm,
Nước định lóng trong đầy
Để tắm ngời không nhơ.
Ngũ thông, voi, ngựa chạy,
Đại thừa là xe cộ,
Cầm cương là nhất tâm,
Dạo chơi đường Bát chánh.
Tướng hảo để đẹp người
Đức tốt làm trang sức
Tâm quý làm xiêm áo
Thân tâm làm tràng hoa
Bảy của báu là sự nghiệp
Giáo hóa làm lợi tức
Việc làm đúng như lời nói
Hồi hướng là lợi lớn
Tứ thiền làm giường ngồi
Từ tịnh mệnh sanh ra,
Học rộng tăng trí tuệ,
Trí tuệ là tiếng cõi lòng
Thức ăn là pháp cam lồ,
Nước uống là vị giải thoát,
Tắm rửa sạch tịnh tâm,
Hương thoa là giới phẩm.
Đánh tan giặc phiền não
Mạnh mẽ không ai hơn.
Hàng phục bốn giống ma
Dựng cờ đại chiến thắng
Tuy biết không sanh diệt,
Vì dạy dỗ thị hiện có sanh
Xuất hiện khắp cõi nước
Như mặt trời tỏa sáng trong không
Cúng dường mười phương quốc độ
Vô lượng ức Như Lai.
Chư Phật và thân mình
Không có tưởng phân biệt
Dù biết các cõi Phật
Với chúng sinh đều không
Mà thường tu Tịnh độ
Giáo hóa hết quần sanh
Bao nhiêu loại chúng sinh
Hình thành và cử chỉ
Lực vô úy của Bồ-tát
Một thời đều hiện đủ.
Biết rõ các việc ma
Mà hiện theo hạnh nó
Dùng trí phương tiện khéo
Hiện theo ý bọn ma
Hoặc hiện già, bệnh, chết
Giáo hóa các quần sanh
Rõ biết như huyễn hóa
Việc làm không trở ngại.
Hoặc hiện kiếp cháy tan
Trời đất đều trống rỗng
Mọi người có tưởng thường
Khiến biết được vô thường
Vô số ức chúng sanh
Đồng đến mời Bồ-tát
Cùng một lúc đến nhà
Dạy họ về Phật đạo.
Kinh sách, chú thuật tà
Các nghề nghiệp khéo léo,
Đều hiện làm việc ấy,
Vì lợi ích chúng sinh.
Các đạo pháp thế gian
Nương đấy mà xuất gia,
Để chỉ rõ chỗ sai
Khiến khỏi rơi tà kiến.
Có lúc làm nhật nguyệt
Làm Thế chủ, Phạm vương
Có lúc làm đất nước,
Có khi làm gió lửa.
Trong đời có đói kém
Thân hiện các thức ăn
Cứu đói khát cho người
Sau đem Phật pháp dạy.
Đời sắp nổ binh đao,
Đem đạo từ bi thuyết,
Giáo hóa cho chúng sinh,
Xóa bỏ lòng tranh chấp.
Nếu chiến tranh bùng nổ,
Đứng giữa thế cân bằng,
Hiện uy thế Bồ-tát,
Thuyết phục khiến yên hòa.
Trong tất cả quốc độ,
Chỗ nào có địa ngục,
Liền đến vào nơi đó,
Giúp họ khỏi khổ đau.
Trong tất cả cõi nước,
Súc sanh ăn nuốt nhau,
Hiện sanh vào trong đó,
Làm cho họ được lợi lành.
Giả bằng lòng ngũ dục,
Lại biểu hiện hành thiền,
Khiến tâm ma rối loạn,
Không dễ khuấy lung lay.
Hoa sen sanh trong lửa,
Chuyện hi hữu trên đời,
Trong cõi dục mà tu thiền,
Ít có cũng như thế.
Hoặc hiện làm dâm nữ,
Dụ những người háo sắc,
Trước lấy dục dụ người,
Sau khiến vào Phật trí.
Hoặc làm người quốc trưởng,
Hoặc là chủ thương thuyền,
Quốc sư Đại thần tốt
Để giúp ích chúng sinh.
Với những người nghèo khó,
Hiện làm kho vô tận,
Nhân đó khuyến dạy người,
Phát khởi Bồ-đề tâm.
Với hạng người kiêu mạn,
Hiện làm đại lực sĩ,
Tiêu phục lòng cống cao,
Quay về đạo vô thượng.
Những người hay sợ sệt,
Đến nơi để an ủi,
Xua tan niềm sợ hãi
Sau khiến phát đạo tâm.
Hoặc hiện lìa dâm dục,
Làm ngũ thông tiên nhân,
Chỉ dạy cho chúng sinh,
Để được giới, nhẫn, từ.
Thấy ai cần hầu hạ,
Hiện làm người tôi tớ,
Phục vụ đẹp ý chủ,
Sau khuyến phát đạo tâm.
Dùng phương tiện khéo léo
Cung dưỡng mọi nhu cầu
Con đường đạo vô lượng
Việc làm không bến bờ.
Trí tuệ không hạng lượng,
Độ vô số chúng sinh,
Giả sử tất cả Phật,
Trong vô số ức kiếp,
Tán thán công đức kia,
Hãy còn không cùng tận.
Ai nghe pháp như thế,
Chẳng phát Bồ-đề tâm,
Trừ người mất giống Phật,
Ngu si không trí tuệ..
Kinh điển Đại thừa, mỗi khi giới thiệu tên một vị Phật hay
Bồ-tát thì kinh thường ám chỉ một ý nghĩa thâm sâu huyền diệu
chẳng hạn như Nan Thắng Như Lai, Tu Di Đăng Vương Như Lai… Trong
phẩm nầy khi giới thiệu Phổ Hiện Sắc Thân Bồ-tát thì cũng không
ngoài ngoại lệ đó. Phổ là rộng, Hiện là cho thấy cho nên Phổ
Hiện Sắc Thân là thị hiện thành nhiều thân hình và làm những
việc khó làm để chúng sinh dựa theo đó mà quay về với chánh đạo.
Trí độ là trí tuệ độ tức là Bát nhã độ hay Bát nhã ba-la-mật đa
nghĩa là trí tuệ rốt ráo, là cái sáng suốt triệt để có công năng
đưa người từ bờ mê sang bến giác. Vì thế trí tuệ là mẹ của
Bồ-tát và cũng là mẹ của ba đời chư Phật. Còn phương tiện ấy là
cha nghĩa là khi làm bất cứ việc gì miễn có lợi ích cho chúng
sinh và đưa họ quay về với Phật pháp thì Bồ-tát không bao giờ
chấp phương tiện cả. Nhắc lại khi ông Xá Lợi Phất hỏi cầu ở thừa
nào trong ba thừa thì Thiên nữ giải thích rằng tất cả trăm sông
đều cùng đổ về biển lớn nghĩa là tất cả đều là Nhất thừa Phật
đạo thì tại sao con người còn chấp cứng vào phương tiện? Thanh
văn, Duyên giác hay Bồ-tát cũng chỉ là phương tiện trên bước
đường hoàn thành Phật đạo. Người có trí tuệ sáng suốt thì không
chấp phương tiện. Nếu cần thì nghiêm trì giới luật cứng ngắt như
Thanh văn, nhưng khi hoàn cảnh thay đổi cần cứu giúp chúng sinh
thì họ uyển chuyển, thong dong mà thực hành Bồ-tát đạo mà tâm
vẫn tự tại thanh tịnh. Vì thế người có trí tuệ Bát nhã ba-la-mật
đa thì không bao giờ chấp phương tiện nghĩa là sợ tổn hại cho
phẩm hạnh, công đức tu hành của mình mà nhìn vào cứu cánh cứu độ
chúng sinh nghĩa là nếu chúng sinh thoát được hiễm nghèo, tai
ách thì Bồ-tát dầu có hy sinh ngay cả chính thân mạng của mình
cũng không màn. Do đó có trí tuệ sáng suốt và biết dùng phương
tiện thiện xảo thì đó cũng như là cha, mẹ của Bồ-tát vậy.
Đã là cư sĩ thì phải có vợ con, nhưng khác với phàm nhân thì
pháp hỷ nghĩa là niềm vui nơi Phật pháp mới chính là người vợ
của ông ta. Còn tâm từ bi thương xót tất cả chúng sinh là con
gái và tâm lành, tâm thiện mới chính là con trai. Là bậc thượng
nhân thì dĩ nhiên phải có đệ tử, nhưng đệ tử ở đây chính là trần
lao, khổ ách của chúng sinh. Bồ-tát không phải thấy chúng sinh
đau khổ thì chạy trốn, an hưởng cảnh tịch diệt Niết bàn cho
riêng mình như hàng Thanh văn mà phải xông vào trần thế để cứu
giúp tất cả mọi người. Sống trên đời thì ai cũng có bạn bè nhưng
bạn bè thiện tri thức ở đây là những đạo phẩm như 37 phẩm trợ
đạo, Tứ như ý túc, Thất giác chi, Bát chánh đạo, Lục độ
Ba-la-mật… để dẹp tan bọn giặc phiền não, sân hận.
Kỹ nữ của ông là Tứ nhiếp pháp. Đó là bố thí giúp đở chúng sinh
từ tài thí, pháp thí cho đến vô úy thí, ái ngữ là tùy theo căn
tánh chúng sinh mà nói năng an ủi, khuyên lơn, lợi hành là làm
lợi ích cho người bằng ý nghĩ lời nói hay hành động khiến cho
người cảm mến mà theo ta tu học, đồng sự
nhiếp là tuỳ theo căn cơ, hoài bão, địa vị, nghề nghiệp của
chúng sinh mà hòa nhập và cộng tác thân thiện làm cho họ cảm mến
mà quay về với chánh đạo. Tụng kinh, nghe Pháp là ca vịnh, là âm
nhạc. Hoa viên để dạo chơi chúng quanh tịnh thất là tổng trì
nghĩa là giữ cho tâm không còn tạp loạn. Rừng cây là pháp vô
lậu, còn hoa thì lúc nào cũng tỉnh giác và trái là trí tuệ giải
thoát.
Ao tắm của ông ta chính là bát giải thoát và nước định thì lúc
nào cũng đầy trong ao để ngâm ướp bông thất tịnh và tắm gội cho
người vô cấu. Khi đi đâu thì dùng cổ xe Đại thừa mà đi trên còn
đường Bát chánh đạo. Tướng đẹp đẻ để làm cho người vui chớ
Bồ-tát chẳng cần những thứ giả huyễn nầy cho nên Bồ-tát lấy đức
hạnh làm trang sức. Còn áo quần là tàm quý. Tàm nghĩa là bất cứ
từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động cho dù không hay biết đó là
của mình cũng không bao giờ làm tổn hại thương đau cho ai còn
quý là biết sửa đổi, sám hối lổi lầm. Tràng hoa đeo trên người
được kết bằng tâm thâm kín sâu sắc.
Gia tài sự sản của ông là Thất tài bảo hay Thất thánh tài. Đó là
Vàng tượng trưng cho Giới, Bạc tượng trưng cho Tín, Lưu ly tượng
trưng cho Văn (nghe), Xà cừ tượng trưng cho Tàm (xấu hổ), Xích
châu tượng trưng cho Tinh tấn, Mã não tượng trưng cho Trí tuệ và
San hô tượng trưng cho Xả (bỏ). Đối với Bồ-tát thì Thất tài bảo
chính là Giới, Tín, Văn, Tàm, Tinh tấn, Trí tuệ và Buông xả khác
với thất tài bảo sinh diệt của phàm nhân và cũng là cội nguồn
của phiền não khổ đau chính là vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, xích
châu, mã não và san hô. Còn giáo hóa, làm lợi ích cho chúng sinh
mới là lợi tức sống của Bồ-tát. Việc làm đúng như lời nói nghĩa
là “như thuyết mà tu hành” tức là nghe, học được pháp nào thì
phải áp dụng ngay vào trong cuộc sống thì mới có lợi ích.
Làm xong bất cứ việc gì thì nên hồi hướng, cho hết chúng sinh
thì mới lợi lạc.
Giường ngồi của ông Duy Ma Cật là tứ thiền nghĩa là lúc nào tâm
cũng thanh tịnh. Càng học hỏi, tư duy quán chiếu mới làm tăng
trưởng trí tuệ được. Trí tuệ là cõi lòng nghĩa là phải học và am
hiểu chánh đạo để mở mang trí tuệ. Thức ăn của ngài là nước cam
lộ mát mẽ và nước uống là hương vị giải thoát giác ngộ. Đối với
phàm nhân thì tắm gội cho thân thể được sạch còn cách tắm gội
của Bồ-tát là tịnh tâm cho tâm hồn yên tỉnh, trong sạch vì thế
chữ “cấu’ trong nhà Phật là phiền não vô minh. Tắm xong lấy giới
phẩm làm hương hoa. Mặc dầu giặc phiền não là khách trần, nhưng
người học Phật ví như những chiến sĩ gan lì thì mới đánh tan bọn
giặc phiền não bên ngoài nầy. Hàng phục bốn giống ma là phiền
não ma, ngũ uẩn ma, tử ma và thiên ma. Đó là những thói hư tật
xấu tiềm ẩn trong tâm của con người để xúi giúp họ gây ra phiền
não, tội lỗi đau thương và cũng chính là những chướng
ngại, cạm bẩy ngoài đời để thử thách công phu tu tập và đạo hạnh
của kẻ tu hành. Bồ-tát có đủ oai lực để chiến thắng, hàng phục
tất cả những ma chướng trên nên các ngài thị hiện nhiều thân để
dạy dỗ chúng sinh. Muốn chúng sinh thấu hiểu lý vô thường vô ngã
mà không tham đắm các pháp sinh diệt của thế gian, các ngài thị
hiện thân sinh, già, bịnh, chết. Dầu mang thân cư sĩ, ngồi trong
tịnh thất mà tâm thanh tịnh, nghĩ nhớ đến chánh pháp cũng như
chư Phật thường tới lui thăm viếng. Mặc dầu tất cả là Không
nhưng vẫn tu về Tịnh độ nghĩa là giai không là chân lý của vạn
pháp, là bản thể của vạn hữu mà duyên khởi thành ra hiện tượng
tạo thành tất cả. Đã có hiện tượng thì không thể nói là không có
mà cái có chỉ là do duyên khởi mà thôi. Bồ-tát biết rõ đó là ma
mà vẫn thị hiện tùy thuận dùng phương tiện khéo léo mà giáo hóa,
hành phục bọn ma nầy. Khi chúng sinh nghèo đói, túng quẩn thì
Bồ-tát phải đến để cứu bần, giúp họ qua cơn bỉ cực mà khỏi lún
sâu vào chốn tội lỗi thương đau.
Hàng Thanh văn khi tu thì chỉ chú tâm tới tu mà không được làm
bất cứ cái gì như thủ công, kỷ nghệ, ngược lại Bồ-tát thì phải
thông suốt cả ngũ minh để có khả năng, kiến thức thích hợp với
xả hội mới thì việc hoằng pháp mới thực tiển. Đó là: 1) Nội minh
là người hoằng pháp phải có kiến thức sâu rộng về kinh điển
nghĩa là không biết chữ làm sao dạy ai hoặc không có tiền làm
sao bố thí. 2) Nhân minh: Am tường giáo lý cũng chưa đủ mà người
hoằng pháp phải dựa trên một phương pháp lý luận, một lập thuyết
vững vàng để đối phó với thiên ma ngoại đạo. 3) Thanh minh: Phải
thông thạo các ngôn ngữ, văn tự của các nước khác để truyền đạt
chánh pháp được lưu loát. Ngày nay người Việt định cư khắp nơi
trên thế giới như Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Thụy Điển… vì thế nếu Phật
giáo được phát triển thì cần phải chuyển giáo lý sang những ngôn
ngữ nầy chẳng những cho những thế hệ con cháu mà còn cho cả
người bản xứ. 4) Công xảo minh: người Phật tử lấy công nghệ và
kỷ nghệ phụng sự nhân loại dựa theo lòng vị tha và bác ái, không
vụ lợi ích kỷ. 5) Y phương minh: Phật pháp là thần dược để chửa
tâm bịnh, nhưng người Phật tử cũng cần học thêm y dược để điều
hòa thân bệnh cũng như Đức Dược sư Lưu Ly là một tấm gương sáng.
Chú thuật cũng ví như con dao hai lưỡi. Nếu biết chú thuật để
hàng phục tà ma ngoại đạo mà cứu giúp chúng sinh và hoằng dương
đạo pháp thì tốt, ngược lại dùng chú thuật cho tư lợi, lừa phỉnh
thế gian là vô cùng tai hại. Bồ-tát thấy người thiếu cơm, thiếu
áo thì cung cấp cho họ rồi sau mới dùng chánh pháp mà giáo hóa.
Ngay cả trong bất cứ cuộc chiến tranh, binh đao khói lửa nào thì
người có tâm Bồ-tát phải dùng thế trung dung, không thiên vị mà
giảng hòa tránh tai ương chết chóc cho chúng sinh. Bồ-tát làm
bất cứ việc khó làm nào, thị hiện làm bất cứ
thân hình nào cũng chỉ vì muốn cứu khổ chúng sinh. Bồ-tát làm
tất cả mọi chuyện, lành cũng có mà phi đạo cũng làm, nhưng làm
xong là bỏ, không chấp việc làm của mình, không mong cầu trông
đợi gì hết. Ngược lại phàm nhân thì làm vì tư lợi, làm xong thì
nhớ mãi không quên, tâm luôn mong cầu đền đáp. Châm ngôn của
người thế tục là bánh sáp trao đi thì bánh quy trao lại do đó
mất bánh sáp mà không thấy bánh quy thì tự mình chuốc lấy hệ lụy
khổ đau. Còn đối với Bồ-tát thì cho là hết, cám ơn cũng vậy mà
không cám ơn cũng chẳng mất chi nên tâm hằng thanh tịnh.
Tóm lại Bồ-tát làm tất cả mọi việc để cứu độ và dẫn dắt chúng
sinh về với Phật đạo. Các ngài không ngại nghịch cảnh, không
chấp phương tiện ngay cả làm những việc phi đạo, thuận theo lòng
nhân thế, phá tan thiên ma ngoại đạo, không quảng ngại gian lao,
không mong cầu đền đáp, thi ân bất cầu báo mà tâm hằng thanh
tịnh để chúng sinh noi theo đường sáng, quay về với chánh pháp
mà phát tâm Bồ-đề.
Phẩm nầy đề cao hạnh nguyện của Bồ-tát thị hiện vào đời để hóa
độ chúng sinh. Khác với hàng Thanh văn xa lánh cuộc đời nhiễm ô
xấu ác, rút tận vào chốn rừng sâu u tịch để mong cầu giải thoát
cho riêng mình thì các vị Bồ-tát đối với sinh tử không nhàm
chán, thấy khổ không sợ, thấy thế gian vạn pháp là Không mà vẫn
vào đời cứu độ, người tốt cũng thương mà kẻ ác cũng không chê
trách, làm mọi hạnh lành, không ngại phi đạo mà không hề bị cấu
nhiễm, tham đắm.
Bài kệ trên diễn tả rõ ràng về gia thế của cư sĩ Duy Ma Cật. Đây
không phải là một cư sĩ bình thường mà tâm hạnh chính là một vị
đại Bồ-tát, trí tuệ viên thông, biện tài vô ngại. Ông chính là
một người Bất tư nghì để trình diễn Phật sự Bất tư nghì nhằm
giáo hóa chúng sinh về Đại thừa Diệu Pháp Bất tư nghì vậy. Trí
tuệ của ông thì thâm sâu huyền diệu chỉ có những người xuất gia
thượng căn thượng trí mới mong sánh kịp. Vậy chủ yếu của kinh
Duy Ma Cật là gì? Phải chăng kinh nầy muốn nhắn nhủ với chúng
sinh là “chiếc áo không làm nên người thầy tu”. Tư tưởng Đại
thừa là không câu nệ trên hình thức trong khi giáo lý Tiểu thừa
thì chấp chặt vào nó.
Con người vì ham chuộng hình tướng bên ngoài, mủ cao áo rộng mà
quên đi thật tánh huyền diệu vô vi thanh tịnh bên trong nên mới
lao đầu vào trong hang hùm, nanh cọp. Nay nếu biết thức tỉnh để
thấy rằng chiếc áo lúc nào vẫn là chiếc áo, đừng bao giờ lầm lẫn
chiếc áo là những đức tính cao quý, tâm đạo đức, tánh vị tha vô
ngã của nhà tu chân chính. Đây là muốn nhắc nhở những người đệ
tử Phật muốn tiến trên con đường Niết bàn, vô thượng Bồ-đề thì
phải cảnh giác về chiếc áo. Nói một cách khác tu là chuyển tâm
tức là soi chiếu từ trong nội thể thì ở đâu tu cũng được và đây
chính là tâm xuất gia mà thân không xuất gia vậy. Càng nằm trong
bùn lầy tanh hôi dơ dáy thì sen càng nở hoa thơm bát ngát, càng
gặp nghịch cảnh chướng duyên thì càng nung nấu chí nguyện để sớm
viên thành Phật đạo.
|
|