Chương Thứ
Tư
Phẩm BỒ TÁT
(The Reluctance of the Bodhisattvas)
Trưởng giả tử Thiện Đức
Hội Đại Thí.
Bấy giờ Phật gọi trưởng giả
Thiện Đức bảo:
- Thiện Đức! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma
Cật.
Thiện Đức thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm
bệnh ông Duy Ma Cật. Vì trước đây, lúc ở tại nhà của thân phụ,
con có thiết lập một hội đại thí, kỳ hạn bảy ngày cúng dường các
sa môn, Bà la môn, ngoại đạo và bố thí cho tất cả những người
nghèo khó, cho những kẻ ăn xin. Khi bấy giờ, ông Duy Ma Cật đến
nói với con rằng:
- Thưa trưởng giả tử! Hội đại thí lập như vậy chưa đúng.
Ngài lập hội tài thí trong bảy ngày, những người được thọ thí đở
khổ trong bảy ngày. Sau bảy ngày họ không còn gì nương cậy. Ngài
nên lập hội pháp thí mới đem lại lợi ích lâu dài cho người thọ
thí.
Con hỏi:
- Hội pháp thí là thế nào?
Ông Duy Ma Cật nói:
- Hội pháp thí không phải chỉ có lợi cho thời gian trước
hay thời gian sau, trong một thời cúng dường cho tất cả chúng
sinh.
- Thế nghĩa là sao? Thưa cư sĩ, con hỏi.
- Nghĩa là vì Vô thượng Bồ-đề, khởi từ tâm. Vì cứu độ
chúng sinh, khởi bi tâm. Vì hộ trì chánh pháp , khởi hỉ tâm. Vì
sự nghiệp trí tuệ, khởi xả tâm. Vì hóa độ tâm tham, khởi bố thí
Ba la mật. Vì hóa độ phạm giới, khởi trì giới Ba la mật. Vì biết
rõ tánh vô ngã của các pháp, khởi nhẫn nhục Ba la mật. Vì biết
rõ thân tâm như huyễn, khởi tinh tấn Ba la mật. Vì Bồ-đề, khởi
thiền định Ba la mật. Vì nhất thiết chủng trí, khởi bát nhã Ba
la mật. Vì giáo hóa chúng sinh, khởi quán vạn pháp giai không.
Nhằm trực diện với các pháp hữu vi, khởi quán chư tướng vô
tướng. Thị hiện thọ sanh, mà khởi quán không, vô tác. Nhằm
truyền bá chánh pháp, khởi nhiều phương tiện. Nhằm hóa độ chúng
sinh, thực hành pháp tứ nhiếp. Vì cung kính tất cả, khởi trừ tâm
ngã mạn. Vì biết rõ thân mệnh tài như huyễn, khởi ái mộ pháp
thân, bát nhã và giải thoát. Đối với lục niệm, thường khởi tưởng
niệm. Đối với pháp lục hòa, khởi tâm chất trực. Dùng tâm hoan
hỉ, khởi ý gần gủi thánh hiền. Khởi tâm điều phục, không ghét
người ác. Với pháp xuất gia, khởi tâm kính mộ. Vì tri hành không
lệch lạc, khởi ý chí đa văn. Nhằm tránh mọi ràng buộc, khởi ý
đặt mình như ở chỗ cô tịch. Nhằm đạt đến Phật tuệ, khởi chí tọa
thiền. Ví ái mộ cõi Phật thanh tịnh, khởi làm việc phước đức.
Thế đấy! Thiện nam tử! Nếu Bồ-tát lập hội pháp thí như thế, thì
vừa là đại thí chủ vừa là phước điền cho tất cả chúng sinh.
Trong phẩm Bồ-tát này thì ba vị đầu là Bồ-tát Di lặc, Quang
Nghiêm Đồng tử và Bồ-tát Trì Thế là Bồ-tát xuất gia. Còn vị thứ
tư là Trưởng giả tử Thiện Đức là Bồ-tát tại gia nên có rất nhiều
tiến bạc của cải mà lập hội đại thí để bố thí cúng dường cho bá
tánh. Thiện Đức là người chuyên làm nhiều việc lành việc thiện
để vun bồi nhiều phước báo công đức. Trong Lục độ Ba la mật thì
bố thí cúng dường là hạnh thứ nhất với mục đích là để đoạn diệt
lòng tham mà phát triển tâm từ để tiến về giải thoát giác ngộ.
Bố thí thì có tài thí, pháp thí và vô úy thí.
1) Tài thí: Nếu bố thí ngoại tài là đem của cải, tiền bạc, áo
quần, thuốc men, nhà cửa, xe cộ… ra cúng dường kẻ tu hành và cứu
giúp người nghèo khó. Người càng thực hành nhiều tài thí thì sẽ
càng hưởng nhiều phước báu và những quả tốt lành ở đời nầy và
mãi mãi về sau. Còn bố thí nội tài là ra tay giúp đỡ người già
cả, chăm sóc người bệnh hoạn, tàn tật hoặc chăm sóc các em trong
viện mồ côi. Đôi khi bố thí nội tài là hy sinh cúng dường một
phần thân thể như cho máu, cho xương tủy, cho thận hay cả tánh
mạng của mình cho kẻ khác. Đây là cơ hội để thử thách lòng tham
sống sợ chết và trau dồi đức tính lợi tha.
2) Pháp thí: là đem những giáo lý huyền diệu của Như Lai mà giúp
cho chúng sinh thấu hiểu để tu tâm dưỡng tánh và hướng về giải
thoát giác ngộ. Biếu tặng kinh sách và cúng dường để in kinh đều
là pháp thí cả.
3) Vô úy thí: Con người đời sống hàng ngày đã khổ, lại càng khổ
thêm vì sợ cho nên nếu làm cho họ hết sợ thì chúng ta đã cứu cho
họ bớt đi quá nửa nỗi khổ đau trong kiếp sống nầy. Khi đã biết
vạn pháp giai không duyên sanh như huyễn thì còn cái gì để sợ.
Bởi vì nếu chúng ta không tham lam tiền của thì không sợ mất,
không màn danh lợi thì không sợ thất vọng, thân nầy là giả huyễn
thì không sợ mất. Thật ra bố thí vô úy là một phần của pháp thí
vì có thấu hiểu Phật pháp thì con người sẽ dùng trí tuệ sáng
suốt để cứu giúp đời. Do đó an ủi người đau khổ, cảnh tỉnh người
tham đắm nóng giận, khuyên can kẻ mê mờ độc ác cũng đều là pháp
thí cả. Có người lo sợ vì ngày xưa lỡ tạo ra tội nghiệp hay làm
tổn thương người khác… Đối với đạo Phật thì nghiệp tánh bổn
không tức là con người có thể chuyển nghiệp của mình được vì
nghiệp tự tánh là không nên không cứng ngắt cố định. Thí dụ
nghiệp ác như nước màu đen đựng trong ly. Nếu bây giờ chúng ta
đem ly nước màu đen nầy pha với vài thùng nước tốt khác thì nước
bây giờ đâu còn thấy màu đen. Nghiệp con người thì cũng thế. Nếu
trong quá khứ chúng ta lỡ tạo ra vài nghiệp bất thiện nhưng bây
giờ thấu hiểu Phật pháp nên tránh xa ác nghiệp và tiếp tục vun
bồi thiện nghiệp thì nghiệp ác biến đi đâu còn nữa. Biết như vậy
thì hết lo sợ.
Phần lớn tài thí giúp cho người “đở ngặt” chớ không giúp được
“đở nghèo”. Thí dụ khi chúng ta cho một người ăn xin số tiền nào
đó thì với số tiền nầy họ có thể mua thức ăn được vài ngày. Vài
ngày sau thì họ vẫn đói như thường. Có vài trường hợp đặc biệt
thì tài thí chẳng những vừa giúp đở ngặt mà còn giúp đở nghèo
nhưng vẫn không thể nào giúp cho đở khổ được. Thí dụ nếu ở Hoa
kỳ chúng ta làm ăn thành công phát tài thì có thể cho bà con bên
Việt Nam một số tiền để làm ăn buôn bán. Nhờ sự giúp đở tài
chánh nầy mà người bà con có cuộc sống thịnh vượng tức là hết
nghèo. Nhưng ngày xưa nghèo thì khổ vì đói cơm thiếu áo, còn bây
giờ có nhiều tiền thì khổ vì phải làm, phải giữ gia sản của
mình. Cho nên bất cứ một ai trên đời nầy không phân biệt giai
cấp, địa vị xã hội, nam nữ, da trắng, da vàng hay da đen đều cưu
mang nỗi khổ như thường. Mà đạo Phật là đạo diệt khổ và Pháp thí
là phương tiện tốt nhất để giúp chúng sinh thoát khổ. Khi con
người biết thức tỉnh, không còn sống trong mê mờ điên đảo thì
cuộc sống chắc chắn sẽ an vui tự tại. Cái an vui nầy chẳng những
họ có được trong đời nầy mà còn ảnh hưởng tốt cho những đời mai
sau.
Có sự khác biệt sâu xa giữa bác ái của những tôn giáo khác và từ
bi của đạo Phật. Bác ái là tình thương phát xuất từ con tim để
cứu giúp con người trong nhất thời. Mà tình thương từ con tim
tức là cảm tình thì có lúc đúng, có lúc sai, có lúc mê có lúc
tỉnh. Nay thương mai ghét không nhất định vì con tim có những lý
lẽ mà lý trí không thể hiểu được. Khi thấy có nạn nhân bảo lụt
thì đem áo quần tiền của đến giúp đở. Giúp đở người mà còn bắt
người lệ thuộc vào đoàn thể nầy, tôn giáo nọ thì làm sao gọi là
từ thiện tức là thi ơn mà cầu báo vậy. Ngược lại từ bi của Phật
giáo là tình thương phát xuất từ trí tuệ. Trí tuệ thì lúc nào
cũng sáng suốt, không mê muội. Giúp người theo tôn chỉ thi ân
bất cầu báo tức là bố thí vô tướng và độ sanh vô ngã thì làm gì
có sự ràng buộc. Thêm nữa, từ bi chẳng những giúp người diệt trừ
mọi nỗi khổ mà còn mang lại niềm an vui tự tại trong tâm của tất
cả mọi loài. Vì tầm quan trọng của Pháp thí nên Kinh Phật có dạy
rằng: “Cho dù bạn có đem của báu chất đầy
ba ngàn đại thiên thế giới ra bố thí cúng dường cũng không bằng
Pháp cúng dường”. Tại sao? Của báu thế gian như kim cương, vàng
bạc, tiền của, nhà cửa, xe cộ… cho dù có nhiều đến đâu cũng là
vô thường, là giả huyễn, là pháp hữu vi sinh diệt. Có nhiều thì
phải lo phải giữ có nghĩa là càng chuốc thêm nhiều hệ lụy khổ
đau. Ngược lại Pháp thí đem lại sự an vui tự tại, tâm thanh tịnh
Niết bàn tức là pháp vô lậu. Lợi người, lợi mình vì cả hai cùng
tiến về giải thoát giác ngộ.
Trưởng giả tử Thiện Đức lập hội bố thí cúng dường bảy ngày cho
Sa môn, Bà la môn và những người nghèo khổ, ăn xin… thì sự bố
thí nầy có phân biệt, có giới hạn. Còn phân biệt, còn sống trong
biên giới của nhị nguyên là chưa giải thoát, chưa tự tại. Như
thế theo Bồ-tát Thiện Đức thì người nghèo mới khổ còn người giàu
có, quyền uy thế lực không khổ sao? Ai dám bảo nhà tỷ phú Bill
Gate hay tổng thống Bush không khổ? Hiện tại thống kê mới nhất
tại Hoa kỳ có tới 60% bác sĩ và 30% luật sư giải nghệ. Nếu
làm bác sĩ, luật sư được nhiều tiền, lắm của, danh vọng cao sang
thì tại sao lại bỏ nghề? Thật là:
Rằng hay thì thật là hay
Nghe qua ngậm đắng nuốt cay thế nào.
Ngược lại ông Duy Ma Cật chủ trương nên hội pháp thí thì mới cứu
khổ cho tất cả mọi người và mọi giai cấp trong xả hội. Lợi ích
của pháp thí thì không có phân biệt, không có biên giới bởi vì
từ thiên tử đến chí dân ai ai cũng đều có khổ. Hoàn cảnh và môi
trường tuy có khác nhưng cái khổ đâu có tha cho một ai vì khổ
không có ranh giới quá khứ, hiện tại và vị lai. Khi đem những
chân lý như tứ vô lượng tâm là Từ, Bi, Hỷ, Xả; lục độ Ba la mật
là Bố thí, Trì Giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ;
luật Vô thường; lý Nhân duyên, thuyết Vô sinh, Vô tác, Không
tướng, Thật tướng… giúp cho chúng sinh thấu hiểu mà thực hành để
cải thiện cuộc đời của họ là cách Pháp thí hữu hiệu nhất.
Quý vị có biết tại sao hằng ngày chúng ta làm việc gì cũng thấy
khổ còn Bồ-tát thì làm bất cứ việc gì họ cũng vui? Họ có những
bí quyết gì mà chúng ta không có? Bồ-tát thì họ làm việc mà tâm
rất bình đẳng, không phân biệt thân sơ. Họ cũng làm việc như
chúng sinh nhưng không chấp việc mình làm. Làm xong thì quên
không ghi nhớ trong lòng nên tâm lúc nào cũng thanh tịnh, không
dính mắc. Còn chúng ta là phàm phu thì làm việc vì mình, vì lợi
ích cho mình và cho gia đình của mình trước. Làm xong việc thì
chẳng những không quên mà còn nhắc đi nhắc lại làm tăng tập khí
ngã mạn và lòng luôn mong cầu đền đáp cho nên phiền não khổ đau
cũng vì thế mà phát sinh. Nếu muốn thực hành Bồ-tát đạo viên mãn
thì con người cũng nên bắt đầu thực tập con đường vi diệu của
Bồ-tát để tâm được thanh tịnh và thoát ra khỏi mọi phiền não khổ
đau.
Bạch Thế Tôn! Trưởng giả tử Thiện Đức thưa. Ông Duy Ma Cật
thuyết thời pháp ấy, có hai trăm Bà la môn phát tâm Vô thượng
Bồ-đề. Riêng con cảm thấy tâm mình được cởi mở nhẹ nhàng thanh
thoát. Con đảnh lễ dưới chân Ông và cởi xâu chuổi anh lạc giá
trị trăm ngàn vàng dâng cúng; nhưng Ông Duy Ma Cật không nhận.
Sau lời thỉnh cầu hiến dâng thành khẩn của con, Ông Duy Ma Cật
nhận lấy và liền chia làm hai phần. Một phần, bố thí cho người
hành khất tối hạ cơ cực nhất. Một phần ông dâng cúng Đức Nan
Thắng Như Lai. Khi bấy giờ cả chúng hội đều thấy cõi nước trang
nghiêm của Đức Nan Thắng. Đồng thời thấy chuỗi anh lạc biến
thành bốn trụ cột của một bảo đài. Bốn mặt dài đẹp đẽ trang
nghiêm và trong suốt không chướng ngại nhau.
Ông Duy Ma Cật nói với đại chúng rằng:
- Một thí chủ bố thí cho người hành khất tối hạ bằng tấm
lòng bình đẳng y như cúng dường Đấng Như Lai phước điền tối
thượng. Cúng dường và bố thí phát xuất từ một bi tâm. Không hy
vọng trả ơn và không mong cầu phước báu.
Đó là mô hình của hội pháp thí viên mãn nhất.
Bạch Thế Tôn! trưởng giả tử Thiện Đức thưa:
- Những người hành khất tối hạ thấy thần lực của Ông Duy
Ma Cật và nghe thuyết những pháp thậm thâm như thế, họ đều phát
tâm hướng về Vô thượng Bồ-đề. Vì duyên cớ đó, con không kham
lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.
Nhiều vị Bồ-tát ở trước Phật cùng trình bày những trường hợp bị
khiển trách của mình. Tất cả đều từ khước không dám đi thăm bệnh
trưởng giả Duy Ma Cật.
Nan Thắng là khó thắng. Sống trong thế gian, con người có thói
quen chạy theo ý thức vọng niệm nên tâm có sự phân biệt cao
thấp, nghèo giàu, sang hèn, tốt xấu… mà đạo Phật dạy con người
muốn có tâm thanh tịnh thì phải bỏ tâm phân biệt và sống với
tinh thần vị tha bình đẳng. Ngày xưa chưa học đạo thì thấy có
ông bác sĩ bà kỹ sư, ông tỷ phú người ăn mày, ông đại tướng
người lính quèn nên mới khinh bần trọng phú, chuộng cao bỏ thấp.
Bây giờ giáo lý liễu nghĩa thượng thừa dạy con người bỏ hình
Tướng bên ngoài mà nhập Thể Tánh thanh tịnh bên trong thì ai ai
cũng thế. Con người còn theo Tướng thì còn theo sự thay đổi sinh
diệt vô thường tức là còn đeo mang cái khổ. Người Việt Nam thì
có ai quên được cuộc đổi đời năm 1975, biết bao người có tiền
rừng bạc biển, ruộng vườn cò bay thẳng cánh, danh vọng cao sang
quyền quý mà bây giờ cũng chạy cơm ngày hai bữa mà thôi. Còn nói
về đơn vị nhỏ là gia đình. Ở Việt Nam rất nhiều gia đình có năm,
sáu đứa con. Thử hỏi có cha mẹ nào thương tất cả các con của
mình đồng nhau chưa? Có nhà thì thương con trai út nhiều, có gia
đình thì thương con trai đầu lòng hơn. Cha thì thương con gái
còn mẹ thì lo cho con trai… Con thì như thế đến phần cháu thì
cháu nội mới là cháu của dòng họ mình còn cháu ngoại là cháu của
người ta. Tư tưởng Khổng Mạnh quân sư phụ, tam cương ngũ thường
đã gieo vào trong tâm thức của con người biết bao sự phân biệt
kỳ thị từ trong gia đình cho đến xã hội, trọng nam khinh nữ,
trên đội dưới đạp. Con người vì có tâm phân biệt như thế nên khổ
cả cuộc đời và đến chết cũng chưa hết khổ. Trong khi Phật và
Bồ-tát với tâm đại bi bình đẳng cho nên họ thương tất cả chúng
sinh không phân biệt nam nữ, da vàng, da trắng, da đen hay da
đỏ, nghèo hay giàu, ông tướng hay phó thường dân cũng như con
một của họ nên tâm họ hằng thanh tịnh và thường trụ Niết bàn. Vì
thế khi cố gắng để dần dần bỏ hết tâm phân biệt là việc khó làm,
nhưng khó mà làm được mới là quý, là cao cả. Người không làm mà
ta làm được mới là hay, là giỏi. Thí dụ như thấy một đóa hoa.
Nếu chúng ta khởi niệm phân biệt hoa đẹp xấu… thì đây là Thức.
Còn không khởi niệm phân biệt hoa đẹp xấu là Trí. Do đó Thức cạn
mà Trí mới sâu. Bây giờ nếu biết chuyển ý thức thành trí tuệ
sáng suốt vô phân biệt để tâm được thanh tịnh thì chúng ta đã
chiến thắng chính mình rồi. Chiến thắng chính mình là con người
phải biết làm chủ sáu căn của mình. Không cho sáu căn chạy theo
sáu trần thì sáu thức không sanh nghĩa là không có những ý niệm
phân biệt, chạy theo ngũ dục, lục tình khiến tâm bị ô nhiễm. Khó
thắng mà thắng được mới là quý và đây chính là ẩn nghĩa của chữ
Nan Thắng vậy. Vì thế chiến thắng được mình tức là điều phục
được tâm mình là làm chủ tất cả và là chiến thắng cao thượng
nhất.
Ông Duy Ma Cật đem chuỗi anh lạc, một phần cúng dường cho Phật
và phần còn lại bố thí cho người ăn xin chứng tỏ tâm đại bi bình
đẳng, không phân biệt vì Phật và người ăn xin cũng đều có Phật
tánh, Bản Thể thanh tịnh như nhau. Ngược lại phàm phu thì kính
trọng chư Phật mà lại khinh thường người nghèo khổ cũng tại vì
còn tâm phân biệt. Vì thế một trong mười hạnh nguyện của Phổ
Hiền Bồ-tát có câu: “Lễ kính chư Phật” nghĩa là trong tất cả mọi
chúng sinh đều có Phật tánh như nhau tức là sẽ thành Phật cho
nên chư Phật ở đây là muốn ám chỉ cho tất cả chúng sinh vậy.
Ngài Phổ Hiền muốn khuyên con người bỏ chấp tướng hình thức bên
ngoài mà cung kính tất cả chúng sinh như cung kính chư Phật thì
tâm sẽ hoàn toàn thanh tịnh vì chúng sinh bổn nguyên là Phật.
Cúng dường, bố thí với tâm vô cầu, vô đắc, phá bỏ mọi chấp trước
thì đây mới là chân Pháp thí vậy. Cho dù chúng ta cúng dường ít
nhưng với bản tâm thanh tịnh thì trong cái quả phước báo đã có
sự an lạc rồi. Ngược lại nếu tiền của có được bằng cách làm ăn
bất chánh cho dù có cúng dường nhiều đi chăng nửa với cái tâm
mong cầu, phân biệt thì cũng không có kết quả gì. Kinh Phật dạy
rằng: “Bố thí cho chúng sinh cũng như cúng dường mười phương chư
Phật” bởi vì trong tất cả chúng sinh ai ai cũng đều có Phật tánh
và ai ai cũng sẽ thành Phật. Do đó tâm vô phân biệt là người ăn
xin và Phật đồng một Thể. Bởi vì Phật với chúng sinh chỉ có một
cái tâm và cái tâm nầy vốn không sai biệt. Cái tâm ấy từ đời vô
thỉ đến nay vẫn không hình không tướng, chẳng sanh chẳng diệt,
ví như hư không, không bờ không bến. Cái tâm nầy chính là Phật
tánh vậy. Thêm nữa, Phật với chúng sinh vốn không sai khác nhưng
chúng sinh vì chấp sự Tướng nên cầu ở ngoài. Mà càng cầu thì
càng mất nên mãi mãi lặn hụp trong biển sinh tử luân hồi.
Dựa theo giáo lý phương tiện tức là giáo lý tiểu thừa thì bố thí
là cốt để tạo phước nhưng giáo lý liễu nghĩa thượng thừa thì bố
thí là nhằm phát triển trí tuệ, tăng trưởng lòng từ bi và phát
huy chánh pháp để cùng hướng về đạo quả Bồ-đề. Bởi vì nếu người
xin gì, mong gì mình cho nấy mà không giúp họ phát triển trí tuệ
thì chỉ làm tăng thêm lòng tham dục của họ mà thôi. Mà lòng tham
vô đáy thì biết chừng nào cho vừa cho đủ… Bố thí như vậy là
không đúng với chánh pháp. Ngược lại nếu chúng ta có trí tuệ
sáng suốt, thông hiểu Phật pháp thì đem những ánh sáng huyền
diệu nầy ra bố thí cho chúng sinh vì Pháp thí giúp họ phát triển
trí tuệ sáng suốt mà lìa xa tham mê ngũ dục và sau cùng tiến về
chỗ giải thoát giác ngộ. Con đường duy nhất để có trí tuệ là
phải xóa bỏ chấp ngã chấp pháp, không còn tâm phân biệt thân sơ,
tốt xấu, giàu nghèo, trên dưới và tâm hằng thanh tịnh bình đẳng
như ánh sáng mặt trời rọi chiếu khắp mọi nơi không phân biệt là
cây cao hay ngọn cỏ. Cũng như ánh sáng của mặt trăng chiếu sáng
cùng khắp đâu có phân biệt là cung vua phủ chúa hay mái tranh
nghèo của người nông dân. Vì thế cổ nhân mới có câu: “Nhựt
nguyệt tri minh nan chiếu phúc bồn chi hạ” nghĩa là tuy mặt trời
mặt trăng lúc nào cũng chiếu sáng nhưng cái chậu bị úp thì
bên trong vẫn tối như thường. Do đó chỉ cần lật ngửa cái chậu
thì sẽ có ánh sáng ngay. Như thế Pháp thí vừa lợi cho mình và
lợi cho người vì cả hai cùng hướng về Vô thượng Bồ-đề. Ông Duy
Ma Cật cúng dường Phật và người ăn xin với tâm hoan hỷ bình
đẳng, vô cầu, vô đắc, thi ân bất cầu báo và dập tắt mọi chấp
trước thì mới thực hành bố thí đúng với ý nghĩa vậy. Đây
là điểm đặc thù của Phật giáo vì dưới ánh mắt sáng suốt trí tuệ
của ông Duy Ma Cật thì Đức Nan Thắng Như Lai đã thành Phật còn
vị ăn mày sẽ thành Phật vì tuy hình Tướng sinh diệt họ không
giống nhau nhưng Bản Thể Chân Như tức là Phật Tánh thì Phật và
kẻ ăn mày có khác gì nhau.
Ngày nay có người cúng dường xây cất chùa chiền mà nếu không
được mời đặt viên đá đầu tiên, cắt băng khánh thành hay không
làm hội trưởng là lòng không vui. Nhiều Phật tử có lòng muốn
cúng dường tượng Phật, hay tượng các Bồ-tát mà đòi hỏi chùa phải
khắc tên của gia đình mình phía dưới bức tượng. Một ông bác sĩ
đến chùa mà không được vị trụ trì nhiệt tình chào đón thì cũng
không hài lòng. Một Phật tử có công giúp xây dựng ngôi chùa muốn
di ảnh của thân phụ mình lớn hơn những di ảnh khác. Nếu vị trụ
trì không chìu theo thì không bao giờ đến chùa đó nữa. Bố thí,
cúng dường như vậy là vì bản ngã chớ đâu phải là cho Tam Bảo,
cho Phật pháp nên không có kết quả vì thi ân mà mong cầu quá
nhiều quả báo.
Chuỗi anh lạc trên tay Đức Nan Thắng Như Lai biến thành bốn trụ
cột của một bảo đài. Cũng như một khi chúng sinh có thể lìa
Tướng nhập Thể để thấy được Pháp Thân thanh tịnh của mình thì có
được bốn tính thanh tịnh của Niết Bàn là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh
và đây chính là bốn cột trụ vững chắc để bảo vệ tòa Pháp bảo
đài. Thường là không bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào
cũng vậy, không lên bổng xuống trầm, không còn già trẻ, sống
chết đổi thay. Lạc là không còn khổ não, lo buồn, lúc nào cũng
an vui tự tại. Ngã là được hoàn toàn tự chủ và không bị nội tâm
hay ngoại cảnh chi phối. Tịnh là không còn ô nhiễm, luôn luôn
thanh tịnh trong sáng. Nói về Tướng thì chấp có tu, có pháp môn
để tu và có chứng đắc. Nhưng đứng về Thể Tánh thì chẳng có khổ
vui, không còn chấp ngã chấp pháp nên chẳng có pháp môn để tu.
Ta cũng không mà người cũng không nên không có gì ngăn ngại và
có trí tuệ sáng suốt cũng như bốn mặt đều đẹp đẻ trang nghiêm và
trong suốt không chướng ngại nhau.
Tăng sĩ dựa theo tinh thần Phật giáo là người Khất sĩ. Vì trên
thì họ xin giáo Pháp của chư Phật, còn dưới thì xin vật thực của
đàn na thí chủ. Chính Đức Phật cũng là một khất sĩ và tất cả đại
đệ tử của Ngài đều là khất sĩ cả. Bởi vì khất sĩ có mục đích tối
thượng là phá trừ tánh ngã mạn hay tăng thượng mạn của mình. Khi
đã đi xin cơm người thì tìm đâu ra tiền của mà tài thí cho chúng
sinh? Trong những năm gần đây có những thiên tai rất lớn xảy ra
khắp thế giới. Thấy chúng sinh bị tai trời ách nước thì ai lại
không thương xót. Nhưng việc cứu tế xã hội là do hội từ thiện,
chính quyền, hay những người thiện tâm đảm trách. Nếu chúng ta
quyên tiền cho các vị Tăng sĩ Phật giáo để lo cứu trợ thì lợi ít
mà hại nhiều. Tại sao? Tu hành là nên tránh xa ái dục, nay nếu
cầm trong tay quá nhiều tiền lòng tham nổi dậy thì dễ dàng làm
việc bất chánh. Họ có tiền là do chúng ta cúng dường cho nên họ
tạo nghiệp thì chúng ta cũng gánh theo. Vì chúng ta thiếu sáng
suốt tạo phương tiện để lòng tham của họ nổi dậy mà hoang phí cả
đời tu thì lổi tại ai? Người tu hành mà còn chú tâm đến tài thí
là đi ngược lại với chánh pháp vì Pháp thí mới là điều họ đáng
quan tâm.
Ngày nay nhiều vị Hòa thượng tu theo Bắc tông đại thừa có quan
niệm sai lầm là chỉ có những người tu theo Nam tông tức là Phật
giáo nguyên thủy mới là khất sĩ bởi vì họ nghĩ rằng hằng
ngày họ không cầm bình bát đi khất thực. Thật ra ở Hoa kỳ ngày
nay tu theo Nam Tông hay Bắc tông đâu có vị Tăng nào đi khất
thực đâu? Không nhất thiết là tay cầm bình bát đến tận nhà thí
chủ để nhận vật thực thì mới gọi là khất sĩ. Nếu vị Tăng không
đi làm mà nhận tiền hay vật thực cúng dường của thí chủ đem đến
chùa nếu không là khất sĩ thì là gì? Nếu cho rằng khất sĩ là xấu
thì tại sao chính Đức Phật là khất sĩ mà được mọi người tôn
xưng? Vì Ngài không còn tánh ngã mạn và trong Ngài không còn
tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh và tướng thọ giả. Phải
chăng Đức Phật là người nghèo nhất thế gian? Tuy chỉ có tam y
nhất bát và có lẻ là người nghèo nhất nhưng lại là người an lạc
nhất trên trần thế nầy vì tâm Phật lúc nào cũng thường trụ Niết
bàn. Nếu cho rằng xin ăn không phải là phương cách để diệt bản
ngã thì con đường giải thoát vẫn còn xa vô tận.
Đức Thế Tôn dùng giáo pháp mà bố thí tức là pháp thí bởi vì bên
trong thì Ngài diệt trừ hết mọi chấp trước còn bên ngoài thì lợi
ích cho tất cả chúng sinh.
Còn Bồ-tát thì bố thí mà tâm không trụ bởi vì các Ngài không
thấy có “ta” là người bố thí, không thấy có “người” là kẻ thọ
thí và cũng chẳng thấy có “vật” là của tín thí. Đối với bồ-tát
thì đây chính là thanh tịnh bố thí vì bồ-tát khi bố thí chẳng sợ
mình nghèo, chẳng mong trả ơn và không cần phước báo.
Ngược lại phàm phu khi bố thí thì quá mong cầu phước lợi mà nhà
Phật gọi là bố thí trụ tướng. Cho nên cổ nhân mới có câu:
Cầu phước nhơn, thiên mà bố thí
Như tên bắn bổng giữa hư không.
Muốn tâm không trụ thì Kinh Kim Cang khuyên con người nên lìa
bốn chấp tướng. Đó là:
1) Ngã tướng: là ỷ mình có danh vị, quyền thế, giàu có và tài
năng nên thích cầu thân cùng bậc cao sang mà khinh bỉ những
người hèn dốt. Nói một cách khác là làm việc vì lợi ích riêng
cho mình tức là chỉ nhìn vào bên trong làm tăng trưởng tánh tham
mà tạo nghiệp.
2) Nhơn tướng: là chấp lòng năng sở và tri giải tức là chưa
chứng ngộ mà nói chứng ngộ, ý mình giữ giới mà khinh kẻ phá
giới. Hiểu như thế là chấp theo bề ngoài vì còn tâm phân biệt có
người và ta nên tâm sân phát khởi để tạo ra nghiệp.
3) Chúng sinh tướng: là có cái lòng hy vọng hoặc nói chánh làm
tà, miệng lành lòng dữ và đây chính là tâm si đang bừng cháy
trong ta vì thế mà nghiệp dữ được tác tạo.
4) Thọ giả tướng: là trông mong cho được sống lâu và mong cầu sự
phước lợi. Đây chính là ái và cũng là cội nguồn để tạo nghiệp.
Nói tóm lại bố thí có mục đích chính là giảm trừ lòng tham lam
bỏn xẻn của con người. Khi đã thấu hiểu vạn pháp giai không tức
là của cải vật chất thế gian chỉ là giả tạm, phù du, không thật
nên lòng không tham đắm mà chia xẻ lại với đời. Không ôm giữ,
thâu góp cả thế giới vào tay mình rồi cuối cùng cũng buông tay
trả lại hết cho trời đất mà thôi. Ngay cả chánh pháp chúng ta
cũng không tham. Đối với người học Phật một khi đã thấu hiểu
Phật pháp, biết sống với chánh pháp và hòa nhập với thiên nhiên
vũ trụ để tâm được thanh tịnh thì cũng nên đem chánh pháp huyền
diệu nầy chia xẻ với tất cả mọi người. Đây gọi là pháp thí vậy.
Một khi chúng ta sống hoàn toàn tự tại, lòng không tham đắm,
tánh không si mê có nghĩa là thấy tiền của không tham, thấy nhà
cao cửa rộng không màng, không cầu danh vọng, không buồn không
giận… thì cho dù không bố thí nhưng thật ra đây mới chính là bố
thí chân thật nhất. Do đó nếu chúng sinh đạt được tâm thanh
tịnh, loại bỏ tâm tham tật đố thì cuộc sống an vui tự tại của
mình chính là sự bố thí cúng dường cao thượng nhất.
Phần Tóm lược Phẩm Bồ-tát.
Bốn vị Bồ-tát đại diện cho bốn lối tu hành khác nhau trong phẩm
Bồ-tát nầy, đó là:
1) Bồ-tát Di Lặc chuyên tu theo Duy thức nên còn tâm phân biệt
có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng và có đạo quả Bồ-đề để
thành. Vì thức là cái biết do sự phân biệt nên cần phải chuyển
thức thành trí thì mới có đầy đủ trí tuệ sáng suốt. Vì Bồ-đề
không phải là cái mà từ bên ngoài đưa đến hay cố gắng nỗ lực để
đạt được mà Bồ-đề đã có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh. Vì thế
nếu con người có Tịch diệt là có Bồ-đề, có Thuận là có Bồ-đề, có
Bất nhập là có Bồ-đề… Niết bàn thì cũng thế, nếu chúng sinh biết
loại bỏ tánh tham, tật đố, không giận không hờn, không vui không
buồn thì Niết bàn hiễn hiện ngay. Nhà Phật không quan trọng về
vui hay hạnh phúc bởi vì có vui thì sẽ có lúc buồn và hạnh phúc
thì sẽ biến thành đau khổ. Cái mà đạo Phật chú trọng nhất là sự
an lạc thanh tịnh từ trong nội tâm vì đó là sống với trí tuệ
sáng suốt triệt để, là chơn tâm, là tự tánh thanh tịnh của mình.
2) Quang Nghiêm Đồng Tử còn chấp hình tướng bề ngoài, còn chấp
có chúng sinh cần phải độ, còn chấp có người xuất gia và có chùa
để tu, có quả vị để chứng và có công đức để trang nghiêm. Nếu
sống theo hình Tướng sinh diệt bên ngoài thì còn chấp phải vào
chùa mới tu, phải xuất gia mới là đi tu nhưng một khi chúng sinh
đã thấu nhập được Bản Thể bên trong thì họ không quan trọng cái
sinh diệt mà chỉ chú ý đến thật tánh thanh tịnh bất sinh bất
diệt thì ở đâu tu cũng được và ở đâu cũng là đạo tràng thanh
tịnh cả. Tu là tu tâm chớ không tu cảnh vì tâm chuyển thì cảnh
sẽ chuyển theo cho nên một khi tâm thanh tịnh thì đâu đâu cũng
là đạo tràng thanh tịnh và ai ai cũng đều có Phật tâm thanh tịnh
trang nghiêm cả.
3) Bồ-tát Trì Thế tuy thấu hiểu Phật pháp để cứu độ chúng sinh
nhưng chưa đủ trí tuệ để hóa độ nghịch duyên nên không dám dấn
thân vào chốn ô nhiễm, vào nơi xấu ác vì biết không thể điều
phục được tâm mình. Ở Việt Nam vào đời nhà Trần có ngài Tuệ
Trung Thượng sĩ là vị cư sĩ nổi tiếng. Một hôm vào cung thăm chị
là Thái hậu và được Thái hậu mở tiệc thịnh soạn tiếp đãi. Trong
bàn tiệc, Ngài gặp thịt vẫn ăn làm Thái hậu kinh ngạc mà hỏi:
- Anh tu thiền mà ăn thịt thì làm sao thành Phật?
Thượng sĩ cười đáp:
- Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật
cũng cũng chẳng cần làm anh. Thái hậu có nghe cổ đức nói: “Văn
Thù là Văn Thù, Giải thoát là giải thoát”
đó sao?...
Ý ngài Thượng sĩ là Phật là Phật tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng
thanh tịnh, không hề bị nhiễm ô. Còn Thượng sĩ là sắc thân giả
huyễn. Khi ăn là sắc thân ăn chớ tâm đâu có ăn thịt mà phải lo
sợ ô nhiễm. Miệng nhai thịt mà tâm không nhai thì thịt cũng như
đậu hủ mà thôi. Đây mới chính là thực hành thấu triệt câu “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” vậy. Câu chuyện nầy là cho người đắc
đạo, tâm thanh tịnh, không còn nhiễm ô trần cảnh. Còn chúng ta
là phàm nhân tâm còn phân biệt ý niệm tham muốn thì không nên
bắt chước ngài Thượng Sĩ. Nhắc lại ngày xưa lúc Đức Phật đi khất
thực thì Ngài thọ dụng bất cứ vật thực cúng dường chay có mặn
có. Ngài thọ dụng nhưng tâm không hề dính mắc và chấp trước nên
lúc nào tâm cũng thanh tịnh và thường trụ Niết bàn.
4) Trưởng giả Thiện Đức thực hành hạnh bố thí chưa rốt ráo vì
quá chú trọng tài thí mà bỏ quên pháp thí. Tài thí chỉ mang lại
lợi lạc, an lạc cho thân, nghĩa là sự lợi
ích có giới hạn nhất thời trong khi pháp thí thì mới đem lại lợi
ích và an lạc cho tâm tức là sự an vui tự tại mãi mãi về sau
không những cho một đời mà còn nhiều đời nữa.
Như trên kinh giới thiệu bốn phương cách tu khác nhau của bốn vị
Bồ-tát, không phải là nhằm chỉ vào chổ thiếu sót hay chổ tu chưa
rốt ráo của các vị Bồ-tát nầy. Nhưng thâm ý của kinh là muốn
dùng các vị Bồ-tát làm đối tượng để chỉ dạy cho chúng sinh những
khuyết điểm trên con đường hành đạo. Đó là đừng chấp và hình
tướng bề ngoài mà phải quay vào trong Tâm để kiểm soát và hoàn
chỉnh tâm thức của mình. Như thế thì ở đâu tu cũng được, tu chùa
cũng tốt, tu chợ cũng hay mà ở nhà cũng là đạo tràng sáng chói
trang nghiêm thanh tịnh để tu. Thuận duyên cũng tu, nghịch cảnh
cũng không thối chí. Chuyển tâm trước thì ngoại cảnh sẽ tự nó
chuyển theo. Vì thế đây là mới thực hành thâm sâu câu: “Tùy kỳ
tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” và “Dục tịnh Phật độ, tiên tịnh kỳ
tâm” nghĩa là một khi có tâm tịnh thì sẽ có cõi Phật tịnh mà
muốn có cõi Phật tịnh thì trước hết phải làm cho tâm mình thanh
tịnh trước. Vì thế các vị Bồ-tát thị hiện thế gian để làm gương
giáo hóa chúng sinh, các ngài làm là vì chúng sinh, cho chúng
sinh chớ không phải cho các ngài. Như thế chúng sinh học từ
Bồ-tát, thấy họ chuyển tâm thì mình cũng phải noi theo mà chuyển
tâm cho được thanh tịnh như Bồ-tát.
|
|