Chương
Thứ Bảy
Phẩm Quán Chúng
Sinh
(Observing Living Beings)
Lúc bấy
giờ Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng:
- Đối với chúng sinh, Bồ-tát quán chiếu và thấy như thế
nào?
Ông Duy Ma Cật nói:
- Bồ-tát quán thấy chúng sinh như nhà huyễn thuật thấy người
huyễn do huyễn thuật hóa ra. Lại ví như người trí thấy trăng
trong nước, như bóng trong gương, như sóng nắng lúc trời nóng
gắt của ngày hè, như vang của tiếng, như mây trong không, như
bọt trên mặt nước, như bong bóng dưới cơn mưa, như sự bền chắc
của cây chuối, như sự dừng lâu của tia chớp lưng trời, như đại
thứ tám, như ấm thứ sáu, như nhập thứ mười ba, như giới thứ mười
chín.
Bồ-tát quán thấy chúng sinh như thế ấy.
Lại nữa, Bồ-tát quán thấy chúng sinh: như sắc chất trong cõi vô
sắc, như mầm của thóc rang, như thân kiến của người được quả Tu
Đà Hoàn, như sự nhập thai của người được quả A La Hán, như
tham-sân-si của Bồ-tát được chứng pháp nhẫn vô sanh, như phiền
não tập khí của Phật, như sự thấy màu sắc của người mù, như dấu
chim trong hư không, như con của thạch nữ, như phiền não của
huyễn nhân, như chiêm bao lúc thức, như lửa không khói.
Bồ-tát quán thấy chúng sinh như thế đấy. Thưa ngài Văn Thù Sư
Lợi!
Quán trong kinh nầy hàm nghĩa quán chiếu tức là cái thấy mà
không cần phải nhìn ở nơi sự vật, đối tượng. Quán chiếu là cái
thấy, biết bằng trí tuệ chớ không bằng nhục nhãn. Chúng sinh ở
đây thì bao gồm tất cả muôn loài có sự sống như hữu tình và vô
tình. Hữu tình chúng sinh là động vật còn vô tình chúng sinh là
thực vật, khoáng vật đã lăn lộn lên xuống trong sáu nẻo sinh tử
luân hồi. Bồ-tát quán chiếu thấy biết chúng sinh chỉ là giả
huyễn như trăng dưới nước, như bong bóng dưới cơn mưa. Qua tuệ
nhãn của Bồ-tát thì chúng sinh không thật có vì nó không trường
cữu, không bền không chắc mà tất cả chỉ là hiện tượng trong vô
vàn hiện tượng vạn pháp mà thôi. Chủ yếu của phẩm nầy là thuyết
minh về sự sinh diệt giả huyễn để phá cho được chúng sinh tướng
mà quay về với Bản Thể bất sanh bất diệt vĩnh hằng trong tất cả
mọi chúng sinh.
Bồ-tát Văn Thù hỏi:
- Bồ-tát đã khởi quán chúng sinh như vậy, thế còn hạnh từ bi
Bồ-tát phải thực hiện hạnh từ bi của mình đối với chúng sinh
bằng cách nào?
Ông Duy Ma Cật nói:
- Bồ-tát khởi quán như thế rồi tự nghĩ rằng ta sẽ vì chúng sinh
mà nói pháp như thế đó là Hạnh Chơn Thật Từ.
Tiếp đến, Bồ-tát vận dụng:
- Hành tịch diệt từ biết rõ các pháp vốn không sanh.
- Hành bất diệt từ không để cho phiền não sanh khởi trong lòng.
- Hành bình đẳng từ với quá khứ, hiện tại và vị lai thời nào tâm
cũng bình đẳng.
- Hành vô tránh từ không khởi ý tranh cải thị phi.
- Hành bất nhị từ cắt đứt ý phân biệt ngoại cảnh, nội tâm.
- Hành bất hoại từ biết rõ tánh rốt ráo không của các pháp.
- Hành kiên cố từ tâm thâm tín chánh pháp không gì lay động nổi.
- Hành thanh tịnh từ biết rõ tánh của vạn pháp vốn thanh tịnh.
- Hành vô biên từ tâm rỗng lặng cởi mở như hư không.
- Hành La hán từ đề cao cảnh giác hóa giải hết những phiền não
kiết sử.
- Hành Bồ-tát từ sẳn sàng đem lại mọi an ổn hạnh phúc cho chúng
sinh.
- Hành Như lai từ thể nhập cái tướng Như của vạn pháp.
- Hành Phật đà từ đem hết cuộc đời mình truyền bá tư tưởng tỉnh
thức giác ngộ cho chúng sinh.
- Hành tự nhiên từ biết rõ quả sở chứng không hề có đắc.
- Hành Bồ-đề từ biết rõ tất cả giáo pháp Phật chỉ có một vị đó
là vị giải thoát.
- Hành vô đẳng từ cắt đứt trọn vẹn các ái tưởng nhiễm tâm.
- Hành đại bi từ dắt dẫn mọi người vào đại thừa đạo.
- Hành vô yểm từ tâm luôn luôn trụ trong quán trí: vô ngã và
không.
- Hành pháp thí từ không giấu giếm chúng sinh về sự hiểu biết
chánh pháp của mình.
- Hành trì giới từ sẳn sàng giúp đở, cảm hóa những ai phạm giới.
- Hành nhẫn nhục từ giúp đở người khác như giúp đở cho chính ta.
- Hành tinh tấn từ gánh vác trọng trách giáo hóa chúng sinh.
- Hành thiền định từ không đam mê vị khinh an của thiền định.
- Hành trí tuệ từ luôn luôn biết việc, biết thời, biết tà biết
chánh.
- Hành phương tiện từ tất cả thi vi hành động đều là việc làm
của Thị Hiện.
- Hành vô ẩn từ tâm lúc nào cũng Trực và luôn luôn thanh tịnh.
- Hành thâm tâm từ dù hành các hạnh mà không có tạp hạnh.
- Hành vô cuống từ không làm những gì có tánh dối gạt phỉnh phờ.
- Hành an lạc từ bằng mọi cách khiến cho mọi người thọ dụng được
cái vui của Phật đạo.
Thưa ngài Đại Trí Văn Thù! Thực hiện hạnh từ của Bồ-tát là như
thế đấy.
Bồ-tát Văn Thù hỏi:
- Thưa cư sĩ! Thế nào là Bi tâm của Bồ-tát?
Ông Duy Ma Cật đáp:
- Tất cả công đức của Bồ-tát làm đều cho chúng sinh hết.
- Hỉ tâm của Bồ-tát thế nào?
- Chúng sinh được những lợi lạc gì, Bồ-tát đều tán thán vui mừng
không có hối tiếc.
- Xả tâm của Bồ-tát thế nào?
- Bồ-tát làm bao nhiêu việc phước đức, cứu độ cho chúng sinh
được những gì không có niệm ta là kẻ thi ân và đặt hy vọng chờ
ngày đền trả.
Mặc dù chúng sinh là không thật có, là giả huyễn không bền chắc,
nhưng Bồ-tát vẫn thực hành tứ
vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỉ, Xả) dùng pháp huyễn để độ chúng sinh
huyễn mà chứng đắc quả vị huyễn. Nếu đứng về Chân đế mà nói thì
tất cả là giả huyễn, là sinh diệt còn dựa theo Tục đế thì có thế
gian, có người, có ta, có phương pháp tu hành và dĩ nhiên có quả
vị để chứng cho nên các vị Bồ-tát còn phải vào đời để cứu giúp
chúng sinh. Vì tướng trạng của thế gian vũ trụ là sinh diệt nên
khi Bồ-tát thực hành tâm từ thì các ngài thấu suốt những chân lý
của thế giới tương đối là Vô thường, Vô ngã, Không và Khổ để
chẳng những mang lại an vui hạnh phúc cho chúng sinh mà còn giúp
họ phát huy ánh sáng trí tuệ hằng sáng trong họ. Tâm từ của đạo
Phật không nhất thiết chỉ thu gọn bằng một chữ làm lành mà có
thể được nới rộng như: Tịch diệt từ, Vô tránh từ, Bất hoại từ,
Kiên cố từ, Thanh tịnh từ, Vô biên từ, La hán từ, Bồ-tát từ, Như
Lai từ, Phật đà từ, Tự nhiên từ, Bồ-đề từ, Vô đẳng từ, Đại bi
từ, Vô yểm từ, Pháp thí từ, Trì giới từ, Nhẫn nhục từ, Tịnh tâm
từ, Thiền định từ, trí tuệ từ, Phương tiện từ, Vô ẩn từ, Thâm
tâm từ, Vô cuống từ và An lạc từ. Lòng bi của một Bồ-tát là khi
Bồ-tát làm được bao nhiêu công đức lành đều cho hết cho chúng
sinh. Thấy chúng sinh được lợi lạc, được vui thì Bồ-tát cùng
vui, cùng nhau hoan hỷ nếu sự lợi lạc nầy không xây dựng trên tư
tưởng lợi mình hại người. Sau cùng tâm xả là khi Bồ-tát làm tất
cả việc lợi ích cho chúng sinh mà không thấy mình là kẻ thi ân
và không mong cầu hy vọng ở sự đền ơn đáp nghĩa. Bồ-tát làm xong
thì quên, buông xả hết. Thí dụ nếu chúng ta giúp ai một việc gì
mà tâm không chịu buông xả cứ nhớ hoài vì còn mong sự đền đáp
của người. Đây chính là con đường dẫn đến phiền não khổ đau bởi
vì thói thường con người hay quên ơn bội nghĩa cho nên cái gì
cho mình vì mình thì nhớ hoài không quên còn cái gì cho người
thì quên không cần nhớ. Do đó làm rồi quên đi thì không còn thất
vọng và dĩ nhiên phiền não cũng tan biến. Nên nhớ bất cứ việc
làm nào của chúng ta dù thiện hay ác thì cũng đã được ghi nhận
lại trong A-Lại-Da thức cho nên chúng ta có mong đợi hay không
thì cái quả kia một ngày nào đó khi gặp duyên sẽ hiễn hiện ra.
Vì thế việc làm của chúng ta đã có kết quả rồi đâu cần phải mong
chờ kẻ đền ơn người đáp nghĩa.
Bây giờ Bồ-tát Văn Thù lại hỏi:
- Đường sanh tử rất đáng sợ, Bồ-tát phải nương tựa nơi gì để
được an ổn?
Ông Duy Ma Cật đáp:
- Nương tựa nơi nghị lực và công đức Như Lai.
- Bồ-tát muốn nương tựa nghị lực và công đức Như Lai cần phải
trụ tâm ở nơi nào?
- Trụ ở nơi tâm độ thoát tất cả chúng sinh.
- Muốn độ thoát tất cả chúng sinh, Bồ-tát phải trừ bỏ những gì?
- Phải trừ bỏ tất cả những phiền não.
- Muốn trừ bỏ phiền não, Bồ-tát phải thực hành những gì?
- Phải thực hành chánh niệm.
- Thực hành chánh niệm phải làm sao?
- Muốn thực hành chánh niệm phải hành bất sanh, bất diệt.
- Pháp nào bất sanh, pháp nào bất diệt?
- Pháp bất thiện bất sanh, pháp thiện bất diệt.
- Pháp thiện và bất thiện lấy gì làm gốc?
- Thân là gốc.
- Thân lấy gì làm gốc?
- Tham dục làm gốc.
- Tham dục lấy gì làm gốc?
- Hư vọng phân biệt làm gốc.
- Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc?
- Tưởng điên đảo làm gốc.
- Tưởng điên đảo lấy gì làm gốc?
- Vô trụ làm gốc.
- Vô trụ lấy gì làm gốc?
- Vô trụ thì không có gốc.
Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Ông Duy Ma Cật nói:
- Từ chỗ VÔ TRỤ mà an lập tất cả pháp.
Thấy biết sanh tử, ưu bi, khổ não là việc đáng sợ, người trí
phải tìm cho mình một con đường mà y theo nghị lực và công đức
của Như Lai để cứu độ chúng sinh thoát khổ. Muốn độ chúng sinh
trước hết chính mình phải dũng mãnh trừ bỏ phiền não, thực hành
chánh niệm để biết rằng thân là vô thường, vô ngã, do tham dục,
phân biệt, mộng tưởng điên đảo tạo thành. Mà mộng tưởng điên đảo
là do vô trụ làm gốc, nhưng sau cùng thì vô trụ cũng không có
gốc. Không có gốc ở đây có nghĩa là chẳng có gì mà sanh ra tất
cả các pháp. Do đó vạn pháp gốc của nó là chẳng có gì nghĩa là
Không. Nói một cách khác bản chất của vạn pháp là giai không.
Chơn Không mà sinh ra tất cả nghĩa là bất biến mà tùy duyên tức
là Chơn Không mà sinh ra Diệu Hữu vậy.
Bấy giờ trong tịnh thất của ngài Duy Ma Cật có vị Thiên nữ.
Thấy hàng nhân thiên nghe pháp, Thiên nữ bèn hiện thân và dùng
hoa cõi trời tung rãi trên các hàng Bồ-tát và đại đệ tử Thanh
văn cúng dường. Hoa rơi đến các Bồ-tát, rớt xuống bình thường.
Những hoa rơi nhằm các đại đệ tử thì dính trên người không rớt.
Các đại đệ tử dùng hết thần lực phủi bỏ những hoa kia nhưng phủi
mãi mà hoa không rớt được.
Thiên nữ hỏi ông Xá Lợi Phất:
- Vì sao ngài Xá Lợi Phất lại phủi hoa như thế?
- Vì hoa nầy không đúng pháp đối với một tu sĩ như chúng
tôi.
Thiên nữ nói:
- Đừng cho rằng hoa nầy không đúng pháp. Vì sao? Vì hoa
không có phân biệt, tại vì Xá Lợi Phất ngài có cái tưỡng phân
biệt đấy thôi. Ở trong Phật pháp, xuất gia mà còn có phân biệt
đó là không đúng pháp. Nếu không phân biệt thế mới là đúng pháp.
Xá Lợi Phất! Ngài hãy xem kia, các Bồ-tát hoa không dính các
ngài vì Bồ-tát đã dứt hết tưởng phân biệt. Ví như người hay sợ
thì quỷ mị có dịp khuấy phá khủng bố. Các hàng đệ tử Thanh văn
sợ sanh tử cho nên sắc, thanh, hương, vị, xúc trở thành đối
tượng nhiễu loạn cõi lòng. Nếu đã ly sự sợ hãi thì ngũ dục không
làm gì được. Chỉ vì tập khí kiết sử của ngài chưa hết cho nên
hoa dính mắc vào thân, khi nào tập khí hết hoa sẽ không còn dính
nữa.
Trong đoạn kinh nầy hoa cõi trời mà Thiên nữ tung rãi cúng dường
là tượng trưng cho chánh Pháp của Đức Phật. Tuy là đại đệ tử của
Phật, nhưng tất cả các vị trong hàng Thanh văn vì chưa phát tâm
Bồ-tát nên họ vẫn còn tâm phân biệt, chấp trước nên hoa dính
trên người không rớt. Tâm phân biệt nên họ thấy có khổ vui, đẹp
xấu, khen chê, trong sạch ô nhiễm… cho dù thấy hoa vừa thơm vừa
đẹp mà không dám thưởng thức vì họ sợ rằng mình bị phạm giới
tham hoa đắm sắc. Tâm còn chấp pháp nên họ thấy có pháp môn để
tu, có Niết bàn để chứng và có quả vị Bồ-đề để thành nên lòng
trông cầu mong đợi chưa xả được. Vì tâm còn phân biệt, chấp
trước nên các vị A La Hán lòng còn thương ghét, sợ sinh tử và
cầu chứng Niết bàn nghĩa là tâm vẫn còn trụ tức là dính mắc.
Ngược lại các vị Bồ-tát thực hành tâm vô phân biệt đến chỗ vô
trụ tức là thấy biết vạn pháp giai không duyên sanh như huyễn mà
đạt được tâm thanh tịnh. Không còn phân biệt thì không còn sự
đối đãi của nhị nguyên là tốt xấu, cao thấp, khen chê, giàu
nghèo, thương ghét.. vì tất cả chỉ là một. Thanh văn có Thức
phân biệt nên còn thương người nầy ghét kẻ nọ, thích món nầy chê
món khác… trong khi đó Bồ-tát chuyển Thức thành Trí nghĩa là tuy
thấy biết sự khác biệt nhưng tâm vẫn như như bất động thì lòng
không còn thương ghét, nế m mùi vị thức ăn nhưng không chê dở
thích món ngon, thấy nhà to xe đẹp nhưng không tham muốn. Tâm vô
trụ nên Bồ-tát thong dong vào chốn nhiễm ô ngay cả những nơi trà
đình tửu điếm để độ chúng sinh mà không hề bị tham đắm trong khi
các vị A La Hán tránh xa cảnh trái ý nghịch lòng, lánh xa trần
thế và không dám lăn lộn vào chốn bụi trần để độ chúng sinh vì
họ chưa đủ dũng mãnh, chưa hàng phục và an trụ được tâm mình. Do
đó cho dù Thiên nữ có rãi hoa trời, màu sắc tuyệt đẹp và hương
hoa thơm ngát thì các vị Bồ-tát vẫn như như bất động, có xem hoa
cũng như không. Đó chính là: “Kiến sắc phi can sắc, văn hương
bất nhiễm hương” vậy.
Ông Xá Lợi Phất hỏi:
- Thiên nữ ở tại tịnh thất nầy đã lâu rồi chứ?
Tôi ở tại tịnh thất nầy như sự giải thoát của bậc kỳ cựu cao
niên.
- Vậy có lâu chưa?
- Sự giải thoát của bậc lỳ cựu cao niên hà cũng có lâu sao?
Ông Xá Lợi Phất lặng thinh không biết phải nói gì.
Thiên nữ nói:
- Bậc kỳ cựu đại trí như ngài Xá Lợi Phất sao lại lặng
thinh?
- Sự giải thoát vượt ra ngoài ngôn thuyết văn tự cho nên
tôi không biết phải nói gì.
- Văn tự ngôn thuyết là tướng giải thoát đấy chứ! Vì sao?
Vì giải thoát không ở trong, không ở ngoài, không ở trung gian.
Văn tự cũng không ở trong, không ở ngoài, cũng không ở trung
gian.
Thế cho nên không rời văn tự mà nói giải thoát thưa ngài Xá Lợi
Phất! Bởi vì sao? Vì tất cả các pháp là tướng giải thoát.
- Không xa lìa dâm nộ si vẫn được giải thoát sao?
- Đúng vậy. Phật vì hạng người tăng thượng mạn nói: Phật
xa lìa dâm nộ si để được giải thoát. Nếu không phải hạng tăng
thượng mạn, Phật nói tánh của dâm nộ si là tánh giải thoát.
Ông Xá Lợi Phất là hàng Tiểu thừa nên chấp tướng sinh diệt bên
ngoài mà thấy có mới có cũ, có lâu có mau, có già có trẻ. Nhưng
thật ra đâu có cái móc thời gian thì lấy gì làm tiêu chuẩn để đo
lường. Một ngày trên cung trăng nhanh gấp mấy lần một ngày trên
trái đất. Bây giờ là ngày trên đất Mỹ lại là đêm tại Việt nam.
Người già 70 tuổi nầy đâu có giống người già 70 tuổi khác. Hai
cây trồng ba năm như nhau mà có cây cao cây thấp. Vì thế triết
lý đại thừa khẳng định là bất cứ một đời nào cũng đã ngầm chứa
ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai cho nên chúng sinh chỉ cần
sống an vui tự tại trong giây phút nầy mà đừng quan tâm đến quá
khứ và cũng đừng lo lắng cho tương lai. Các vị A La Hán thì sợ
dâm nộ si vì nó là cội nguồn của sự sa đọa, nhưng đây là lối
nhìn của những người thiếu bản lĩnh, tâm còn chấp tướng sinh
diệt bên ngoài. Ngược lại các vị Bồ-tát đã lìa Tướng sinh diệt
mà nhập Bản Thể thanh tịnh nên tâm vô cùng tự tại cho dù họ có
vào trong trà đình tửu điếm, chốn phong trần ô nhiễm thì không
gì làm hại họ được. Các ngài vào nơi tội lỗi xấu xa để cứu vớt
và đưa chúng sinh thoát vòng chìm đắm, khổ nạn mà không hề bị
tham đắm. Vì thế đối với hàng Thanh văn thì sợ dâm nộ sát còn
các vị Bồ-tát thì dâm nộ sát mới chính là giải thoát vậy.
Người tăng thượng mạn là những người kiêu căng tự phụ, có ít nói
nhiều, chưa chứng nói chứng, chứng ít nói nhiều để thỏa mãn bản
ngã của mình. Vì chạy theo bản ngã nên những người nầy khi gặp
dâm nộ sát thì bị chìm đắm sa đọa ngay nên Phật mới khuyên họ
nên tránh xa những thứ nầy. Ngược lại nếu người không còn chấp
ngã, chấp pháp, tâm hằng tự tại thì dâm nộ sát sẽ là phương tiện
rốt ráo đi đến giải thoát giác ngộ.
Ông Xá Lợi Phất tán thán: Quý hóa thay! Quý hóa thay! Thiên
nữ! Cô đắc gì? Cô chứng được gì? Mà cô có được sức biện tài như
thế?
- Tôi không đắc gì hết cũng không chứng gì hết nên tôi mới có
được biện tài như thế. Vì sao? Bởi vì có chứng có đắc ở trong
Phật pháp là người tăng thượng mạn.
Thói thường thì con người lấy bằng cấp, chứng đắc để định giá
trị trong nhân quần xả hội hay nhiều người nghĩ rằng phải có
chứng đắc mới có thần thông, trí tuệ, biện tài nhưng trong giáo
lý Đại thừa thì khẳng định rằng vì không có chứng đắc gì cả nên
mới có được những thứ như thần thông, trí tuệ và biện tài vô
ngại. Tại sao? Bởi vì khi chúng sinh đạt đến đỉnh cao của trí
tuệ mà con người gọi là chứng đắc thì thật ra chẳng có chứng đắc
gì cả vì con người chẳng qua là quay về với cái tự tánh thanh
tịnh bản nhiên của mình đã có vậy thôi tức là “bản lai diện
mục”, trở về với Như Lai Viên Giác Diệu Tâm vốn trong sáng mầu
nhiệm của mình chớ không phải nó có từ bên ngoài hay là do bất
cứ một ai tặng cho mà được. Vì quả vị Phật là “vô tại vô bất
tại” nghĩa là nó ở đâu cũng có mà ở đâu cũng chẳng có. Nếu con
người biết dẹp tan vọng thức mê lầm, phiền não vô minh thì Bồ-đề
hiễn hiện trong tâm của chúng ta ngay. Do đó người tu hành không
hề mong cầu bất cứ điều gì ngay cả việc chứng đắc, vì còn mong
cầu là tâm còn tham tức là còn khổ và dễ bị sa ngã. Trong thời
mạc pháp ngày nay, có rất nhiều người tự xưng mình là chứng đắc
thế nầy, có hào quang sáng chói thế kia hay tự cho mình là Phật
sống, Bồ-tát hay Quán Thế Âm… Theo Phật giáo thì họ đều là những
người lừa đảo bịp bợm, thật đáng thương xót cũng chỉ vì mù quáng
chạy theo danh văn lợi dưỡng nhất thời. Còn những người nhẹ dạ
tin vào những người bịp kia để được ân sủng thì cũng là những
người đáng thương xót. Ngày xưa Đức Phật xuất thân là vị Thái tử
danh vọng cao sang trong xả hội, nhưng khi xuất gia thì Ngài đã
trở thành người khất sĩ. Khất sĩ là người phải đi xin cơm hằng
ngày của tín chúng. Do đó triết lý cao thượng của đạo Phật là đi
ngược lại với cuộc sống của thế gian. Cái mà thế gian xem là cao
quý thì nhà Phật coi như cỏ rát, còn cái mà thế nhân không thể
thực hành thì nhà Phật mới cho là cao quý. Thí dụ ngày nay có
nhiều vị sư khoe mình có bằng Tiến sĩ nầy hay Thạc sĩ nọ để đề
cao cái trí thức của mình. Rõ ràng đây là người tăng thượng mạn
vì trí thức càng cao thì khó phát triển trí tuệ vì sự phân biệt
tư tưởng trong tâm thức của họ còn quá nhiều. Tất cả bằng cấp,
chứng chỉ là chuyện thế gian nằm trong vòng lẩn quẩn của vô
minh, là sinh diệt, là vô thường vô ngã. Còn chân lý của Phật là
xuất thế gian, là chơn tâm, là Phật tánh thì có dính dáng gì tới
bằng Tiến sĩ đâu. Dầu cho có bằng Tiến sĩ mà không làm khất sĩ
được nghĩa là không buông bỏ, tâm còn dính mắc thì có ích gì!
Vì thế trình độ hiểu biết của ông Xá Lợi Phất cũng chưa vượt ra
cái lẽ thông thường đó.
Ông Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ:
- Ở trong ba thừa cô cầu thừa nào?
- Khi cần pháp Thanh văn giáo hóa chúng sinh tôi cầu Thanh
văn thừa. Khi cần pháp nhân duyên giáo hóa chúng sinh tôi cầu
Bích chi Phật thừa. Khi cần pháp Đại bi giáo hóa chúng sinh tôi
cầu Đại thừa.
- Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Vì như người vào rừng chiêm bặc
chỉ ngửi hương chiêm bặc, không ngửi hương khác. Cũng vậy, nếu
người vào tịnh thất nầy chỉ nghe hương công đức của Phật, không
ưa nghe hương công đức của Bích Chi Phật, của Thanh văn.
Một lần nữa, ông Xá Lợi Phất lại cố chấp có thừa nầy, thừa nọ
tức là chấp phương tiện. Với trí tuệ Đại thừa thì không chấp
phương tiện mà chỉ cần cứu cánh. Tuy có Thanh văn, Duyên giác,
hay Đại thừa thì đây cũng chỉ là phương tiện để giáo hóa cứu độ
chúng sinh. Ví cũng như trăm sông cùng đổ về biển lớn cho nên
tất cả cũng chỉ là Nhất thừa Phật đạo. Thí dụ như lúc bình
thường thì các người tu hành nên theo Thanh văn là tránh xa đàn
bà con gái giữ gìn giới hạnh, nhưng khi thấy nhà cháy mà có cô
gái ở bên trong thì bây giờ không chấp luật nữa mà sử dụng tâm
đại bi của Đại thừa mà nhảy vào trong nhà ẳm cô gái chạy ra. Nếu
chấp theo giáo luật thì cô gái kia chắc sẽ bị chết cháy và thấy
chết mà không cứu thì tu hành để làm gì? Do đó cái huyền diệu
của giáo lý Đại thừa là tùy duyên, tùy cảnh mà áp dụng, mà tu
hành. Không cố chấp, cứng ngắt, giam mình trong một khuông khổ
cố định nào. Không chấp ngã và chấp pháp thì làm việc gì cũng
thanh tịnh, không dính mắc, làm xong là bỏ.
Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ở tịnh thất nầy, thỉnh thoảng có Đế
Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương, Chư Thiên Long, quỷ thần vào
và nghe Duy Ma Cật thượng nhân thuyết chánh pháp. Tất cả đều vui
ưa hương công đức Phật phát tâm rồi đi.
Ngài Xá Lợi Phất này! Tôi ở tại tịnh thất nầy đã mười hai năm.
Ngay từ ban đầu, không bao giờ nghe thuyết pháp Thanh văn, Bích
chi Phật, tôi chỉ nghe pháp đại từ, đại bi của Bồ-tát
và pháp bất tư nghì của Phật.
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tịnh thất nầy thường hiện tám
pháp chưa từng có và khó được:
1) Tịnh thất nầy thường dùng ánh sáng sắc vàng soi sáng ngày
cũng như đêm mà không cần đến ánh sáng của mặt trời, mặt trăng
vì mặt trời chỉ chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sáng ban
đêm còn ánh sáng vàng là ánh sáng của trí tuệ thì lúc nào cũng
chiếu soi phá tan màn vô minh hắc ám.
2) Người vào tịnh thất nầy không bị các sự cấu uế làm não loạn
thân tâm, giữ tâm thanh tịnh, không còn ô nhiễm tham-sân-si.
3) Tịnh thất này thường có Đế Thích, Phạm Vương và chư Bồ-tát ở
phương khác đến nhóm hợp thường xuyên. Các vị trời tu phước, còn
Bồ-tát tu huệ nên lúc nào cũng có phước huệ song tu.
4) Ở tịnh thất này thường có thuyết giảng về lục ba-la-mật và
những pháp bất thối chuyển để làm lợi ích chúng sinh vì người
quên mình ngay cả nghịch cảnh trái lòng cũng không thoái bước.
5) Ở tịnh thất nầy thường ngân vang những pháp âm vi diệu, tác
động cho nhơn thiên tiếp nhận tiếng nói của tâm thanh tịnh vi
diệu nhiệm mầu khiến người nghe tin hiểu mà thực hành.
6) Ở tịnh thất này có kho tàng tứ đại chứa đầy các báu vật. Đó
chính là tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỉ, Xả) có khả năng ban vui
cứu khổ và giúp chúng sinh được giải thoát giác ngộ.
7) Ở tịnh thất này khi Duy Ma Cật thượng nhân khởi tưởng niệm
thì Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật A Súc, Phật Bảo
Đức, Phật Bảo Viêm, Phật Bảo Nguyệt, Phật Bảo Nghiêm, Phật Nan
Thắng, Phật Sư Tử Hướng, Phật Nhất Thiết Lợi Thành… vô lượng chư
Phật trong mười phương cùng đến nói hết những pháp yếu bí tàng
của chư Phật. Nói xong rồi, chư Phật trở về bản quốc.
Chư Phật là muốn ám chỉ
Phật tánh của chúng sinh. Khi chúng sinh nghĩ thiện, làm lành
thì Phật tánh hiện còn chúng sinh làm dữ nghĩ ác thì Phật tánh
biến mất.
8) Ở tịnh thất này tất cả cung điện lộng lẫy, đẹp đẽ của chư
Thiên và các Tịnh độ của chư Phật đều hiển hiện ở tịnh thất nầy.
Cung điện của các vị trời là phước báu, cõi tịnh độ của chư Phật
là công đức. Vì thế tâm thanh tịnh chứa đầy cả công đức và phước
đức cũng như bao hàm cả thế gian và xuất thế gian.
Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tịnh thất này thường hiện tám pháp chưa
từng có, khó được như vậy. Ai đã thấy biết những việc bất tư
nghì như thế mà lại còn ưa thích những pháp Thanh văn?
Mới nghe đoạn kinh nầy chúng ta nghĩ rằng khi một người tu hành
chứng đắc thanh tịnh như cư sĩ Duy Ma Cật thì dĩ nhiên sẽ có
nhiều vị Trời, quỷ thần… đến thăm viếng và nghe pháp. Nhưng thật
ra tất cả các vị trời Đế Thích, Thiên Long hay quỷ thần chẳng
qua là ám chỉ cho tâm của chúng ta. Nếu chúng ta có tâm thiện
thì nó khởi ý thiện đưa đến lời nói thiện và hành động thiện thì
cũng như có người, Trời, Thanh văn, Bồ-tát hay chư Phật xuất
hiện trong ta rồi. Tại sao? Bởi vì nếu chúng ta luôn có chánh
niệm, chánh định thì sẽ có tâm giải thoát, an lạc và hân hoan
như đang nói chuyện với Thanh văn, Bồ-tát hay chư Phật vậy. Khi
chúng sinh có tâm niệm lành, tu theo thập thiện thì tâm mình sẽ
cảm thông với tâm của các vị Trời. Nếu chúng ta tu theo Bát
chánh đạo, Tứ Diệu Đế thì tâm của chúng ta sẽ cảm thông với tâm
các vị Thanh văn. Nếu sống an vui theo sáu pháp lục độ thì cũng
như chúng ta đang nói chuyện với Bồ-tát hay chư Phật. Ngược lại
nếu tâm của chúng ta cực tham, cực sân, cực si thì cái tâm của
ta ví cũng như cái nhà của ta ở sẽ được thăm viếng bằng ngạ quỷ,
súc sanh hay địa ngục. Do đó cái tịnh thất của ông Duy Ma Cật
hay cái nhà của chúng ta được thăm viếng bởi Thiên Long bát bộ
hay ngạ quỷ súc sanh địa ngục là đều do tâm của chúng ta biến
hiện. Chính Kinh Hoa Nghiêm cũng xác định: “Vạn pháp duy tâm
tạo” là như vậy.
Ông Xá Lợi Phất hỏi:
- Tại sao Thiên nữ không chuyển đổi nữ thân?
Thiên nữ nói:
- Từ mười hai năm, tôi tìm cái tướng nữ thân không có. Tôi
biết phải chuyển gì? Ví như huyễn sư hóa làm người nữ huyễn. Nếu
có người hỏi: “Vì sao không chuyển nữ thân”. Câu hỏi đó có đúng
lý không?
Ông Xá Lợi Phất đáp:
- Không đúng. Đã huyễn thì không có tướng cố định. Biết chuyển
cái gì.
Thiên nữ nói:
- Tất cả các pháp cũng như vậy. Không có tướng cố định.
Thế tại sao ngài hỏi tôi: “Vì sao không chuyển đổi nữ thân?”
Liền đó, thiên nữ dùng sức thần thông biến ông Xá Lợi Phất y như
Thiên nữ. Thiên nữ hóa mình y như ông Xá Lợi Phất và hỏi: “Vì
sao ngài Xá Lợi Phất không chuyển nữ thân?”
Trong dáng mạo Thiên nữ, ông Xá Lợi Phất đáp:
- Tôi không biết chuyển thế nào mà biến làm thân nữ như
vầy.
Thiên nữ nói:
- Ngài Xá Lợi Phất mà có thể chuyển ra thân nữ như thế thì
tất cả người nữ cũng sẽ có thể chuyển được. Ngài Xá Lợi Phất
không phải nữ mà hiện thân nữ thì tất cả người nữ không phải nam
lại cũng có thể hiện thân nam. Ngài Xá Lợi Phất dù hiện thân nữ
mà không phải nữ. Thế cho nên Phật nói: “Tất cả pháp phi nam phi
nữ”.
Ngay bây giờ, Thiên nữ thâu nhiếp thần lực, ông Xá Lợi Phất hoàn
hình như cũ.
Thiên nữ hỏi:
- Hình mạo nữ thân của ngài ở đâu?
- Hình mạo nữ thân của tôi không ở đâu, không đâu chẳng ở.
- Tất cả các pháp cũng lại như vậy. Không ở đâu, không đâu
chẳng ở.
Cái đạo lý: không ở đâu, không đâu chẳng ở là chân lý Đức Phật
đã nói ra.
Tại sao Thiên nữ lại dùng con số mười hai năm thay vì mười năm
hay mười lăm năm? Mười hai năm ở đây là muốn ám chỉ cho thuyết
Thập nhị nhân duyên. Đó là Vô minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục
nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão-Tử. Chúng sinh vị bị cái
màn vô minh đen tối phủ lên tâm trí bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp
nên không thấu biết chân lý mà sống trong lầm lẩn, lấy khổ làm
vui. Họ nghĩ rằng thân họ là chắc thật, tài sản vật chất chung
quanh cũng chắc thật nên cuộc sống mới trở thành sô bồ điên đảo.
Cũng vì thế mà nguyên nhân của phiền não là Ái, Thủ, Hữu mới tha
hồ sinh khởi mà phải chịu trầm luân trong sinh tử luân hồi.
Trong xã hội Ấn độ thời Đức Phật còn tại thế thì vai trò của
người nữ rất hạn chế. Còn đối với người Đông Phương vì chịu ảnh
hưởng nặng nề của phong kiến nên người nữ sống trong những quốc
gia như Trung Hoa, Nhật bản, Việt nam… cũng chẳng sáng sủa chút
nào. Trai năm thê bảy thiếp còn gái thì chính chuyên một chồng.
Để an ủi đạo lý Khổng Mạnh tặng cho họ huy chương “liệt nữ”. Đàn
ông thì được ăn trên ngồi trước và ngày nay người đàn bà Nhật
còn phải đi sau chồng họ ba bước. Ngay cả trong Phật giáo thì
mặc dầu Đức Phật lúc nào cũng chủ trương nam nữ bình đẳng vì ai
ai cũng đều có Phật tánh như nhau, nhưng các vị Ni phải giữ tròn
tám điều luật (Bát Kỉnh Pháp) cung kính đối với chư Tăng mà ngày
xưa khi dưỡng mẫu Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Đề được Đức Thế Tôn cho phép
nhập tăng đoàn. Lý do Đức Phật chế ra Bát Kỉnh Pháp là vì muốn
kiềm chế tập khí ngã mạn của dưỡng mẫu Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Đề cùng
các vị vương phi khác để giúp quý bà phá chấp ngã mà có cơ hội
chứng ngộ Thánh quả. Thí dụ dưỡng mẫu Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Đề vừa là
vợ vua vừa là mẹ của Phật thì bà ta dễ bị tình cảm riêng tư mà
làm rối loạn Tăng đoàn. Vì thế dựa theo luật trên thì một người
Ni cho dù xuất gia mấy chục năm vẫn phải tôn kính vị Tăng mới
thành Tỳ kheo. Theo quan niệm cổ xưa thì người nữ nặng nghiệp
hơn người nam vì thế trước khi được giải thoát giác ngộ thì họ
phải chuyển thân nữ thành nam.
Ông Xá Lợi Phất chấp hình tướng bên ngoài nên thấy có sự phân
biệt nam, nữ hay nói rộng rãi hơn là trọng nam khinh nữ. Vì còn
kẹt trong vòng phân biệt, chấp tướng nên ông chưa tự tại biến
hóa trong khi đó Thiên nữ tu theo Bồ-tát đạo nên tâm không còn
phân biệt chấp trước khiến cho có sức thần thông tự tại biến
hiện mọi thân hình. Nếu nhìn vạn pháp qua trí tuệ thì không có
tướng nữ, tướng nam vì chúng chỉ là do nhân duyên biến hiện. Mà
đã là do nhân duyên thì nam, hay nữ cũng đều là giả huyễn, là
sinh diệt, là vô thường vô ngã mà thôi.
Thiên nữ! Người chết ở cõi nầy rồi sẽ sanh ở đâu?
- Đức Phật hóa sanh thế nào, tôi cũng hóa sanh thế ấy..
- Sự sanh của Đức hóa Phật không có chết và cũng không có
sanh.
- Chúng sinh cũng vậy. Không có chết và cũng không có sanh.
Theo tướng trạng thì có sanh có tử, có già có chết, nhưng đứng
về bản thể thì bất sinh bất diệt, chỉ tùy duyên biến hiện tức là
bất biến mà tùy duyên. Theo giáo lý Đại thừa thì chẳng có ai gọi
là thật sinh hay thật chết cả mà chỉ hiện tượng trùng trùng
duyên khởi mà thôi. Khi duyên hết thì lục đại tan rã, thành phần
nào trở về với thành phần ấy. Thí dụ như đất, nước, gió, lửa và
không gian thì mỗi thứ trở về với trạng thái nguyên thủy ban
đầu. Và khi duyên hợp thì thần thức kết hợp với tứ đại mới để
tạo thành con người mới vậy thôi. Chu kỳ tái sinh nầy tiếp diễn
mãi không ngừng mà nhà Phật gọi là sinh tử luân hồi. Ngay như
Đức Phật Thích Ca cũng phải trải qua ba tăng kỳ kiếp sinh tử
luân hồi mới thành Phật được. Chỉ có những người có tâm thanh
tịnh, tâm tịch diệt Niết bàn thì mới thoát vòng sinh tử nghĩa là
họ không còn có sinh và dĩ nhiên sẽ không còn chết.
Ông Xá Lợi Phất hỏi:
- Chừng nào người được vô thượng Bồ-đề, thưa Thiên nữ?
- Chừng nào ngài Xá Lợi Phất trở lại làm phàm phu thì tôi
mới thành vô thượng Bồ-đề.
- Tôi không bao giờ trở lại làm phàm phu.
- Thì tôi cũng không bao giờ được quả vô thượng Bồ-đề. Vì
sao? Vì Bồ-đề “vô sở trụ”. Thế nên Bồ-đề không có cái “được”.
- Chư Phật đã được, đang được và sẽ được vô thượng Bồ-đề
nhiều như cát sông Hằng. Điều đó gọi là gì?
- Đó là dựa trên văn tự và số mục của thế gian tục đế mà
có ba đời, chứ không phải quả vô thượng Bồ-đề có quá khứ, hiện
tại, vị lai.
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ngài được quả A La Hán chứ?
- Không có được, mà được.
- Chư Phật và Bồ-tát cũng vậy. Không có được cho nên được.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật nói với ông Xá Lợi Phất:
- Thiên nữ này đã từng cúng dường chín mươi hai ức Đức
Phật, đã được thần thông du hí, đầy đủ sở nguyện Bồ-tát được vô
sanh nhẫn, trụ bất thối chuyển địa. Do giáo hóa chúng sinh, có
thể hiện thân tùy theo ý muốn.
Chứng đắc Niết bàn hay quả vị Bồ-đề là “vô tại vô bất tại” nghĩa
là ở đâu cũng có mà ở đâu cũng chẳng có. Nếu chúng sinh biết
diệt trừ tham sân si ái dục để tâm hằng thanh tịnh thì bất cứ ở
đâu và lúc nào cũng có Niết bàn, cũng có Bồ-đề. Ngược lại nếu
chúng sinh chạy theo tham đắm vô minh thì ở đâu và mãi mãi vẫn
trôi nổi trong sinh tử khổ đau. Nói chứng đắc là ngôn ngữ của
con người để diễn tả vậy thôi chứ thật ra đâu có ai cấp chứng
chỉ, cấp bằng cho ai đâu mà gọi là chứng với đắc. Ngày xưa các
vị trong hàng Thanh văn nói là chứng quả A La Hán, nhưng thật ra
Phật đâu có cấp bằng A La Hán cho ai đâu! A La Hán là danh từ
dùng để diễn tả những ai có khả năng đoạn diệt hết kiến hoặc và
tư hoặc ngay cả vi tế hoặc trong tâm thức của họ để không còn
phiền não khổ đau. Khi tâm mình không còn phiền não chi phối thì
chính mình có được cuộc sống an vui tự tại và cái an vui nầy chỉ
có mình biết mà thôi. Vì thế ngay cả tôn giả La Hầu La là con
của Phật mà cũng phải tự mình giải thoát chớ Phật ngồi kế bên
cũng không giúp gì được. Cái mà con người gọi là chứng đắc chẳng
qua là trở về với bản tánh cố hữu của mình tức là bản lai diện
mục vậy thôi. Thí dụ như khi sanh ra đâu có ai ghiền cà phê,
thuốc lá, cờ bạc rượu chè hay xì ke ma túy… Sau khi thấy nghiện
nhập là khổ đau, hành thân hoại xác, tan nhà nát cửa thì phản
tỉnh đi cai. Khi đã bỏ được cái thói hư tật xấu nầy thì chúng ta
vui mừng đi khoe với mọi người rằng bây giờ cuộc sống của tôi
rất ung dung tự tại, gia đình tràn đầy hạnh phúc. Nhưng nghĩ lại
cái ung dung tự tại hay tràn đầy hạnh phúc thì nó đã có sẳn
trước khi chúng ta bị ghiền chớ đâu phải sau khi cai nghiện mới
có. Cho nên nếu chúng sinh biết thức tỉnh, biết hồi đầu thị ngạn
tức là biết quay thuyền trở lại bến xưa thì có hạnh phúc vậy
thôi. Quả vị Bồ-đề thì cũng thế, nếu đứng về tướng thì có các
pháp môn để tu và có quả vị để chứng, nhưng đứng về Thể Tánh thì
tất cả là một, là Không, là Chân Như, là tự tánh thanh tịnh bản
nhiên có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh thì cái mà con người
gọi là chứng đắc chẳng qua là trở về với cái tánh giác sẳn có
của mình chớ có chứng đắc gì đâu. Chúng sinh vì sống trong trầm
luân vô minh mê muội như kẻ mang dây tự trói mình, nay biết thức
tỉnh, giác ngộ thì tự mình cởi trói thì gọi là giải thoát cũng
như người trở lại quê cũ làng xưa thế thôi.
Khi nói chư Phật đã được, đang được và sẽ được vô thượng Bồ-đề
nhiều như cát sông Hằng là dựa trên văn tự, ngôn ngữ của thời
gian tức là có quá khứ, hiện tại và vị lai. Nhưng Bồ-đề không có
quá khứ, hiện tại, vị lai nghĩa là Bồ-đề không tùy thuận thời
gian.
Thí dụ như khi trái đất quay trọn một vòng thì có 24 tiếng đồng
hồ tức là một ngày đêm, nhưng phi thuyền con thoi cũng bay chung
quanh quỷ đạo địa cầu chỉ mất có khoảng 16 phút thì thời gian
trên không gian và thời gian dưới trái đất đâu có giống nhau.
Vậy thời gian nào là thời gian thật? Vì thế thời gian nghĩa là
quá khứ, hiện tại, vị lai là do con người đặt ra vậy thôi chớ
không có cái gì là chân thật cả. Do đó kinh mới có câu: “Như Lai
giả vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ” nghĩa là Vô thượng Bồ-đề là
quả vị vô thỉ vô chung. Khi mê thì thấy có Phật, có Bồ-tát, có
chúng sinh, nhưng khi thức tỉnh giác ngộ thì thấy tất cả chúng
sinh đều là Phật bởi vì ai ai cũng đều có Phật tánh cả.
Quả vị A La Hán hay ngay cả quả Vô thượng Bồ-đề là vô thực mà vô
hư. Tại sao? Bởi vì cái quả vị A La Hán mà ông Xá Lợi Phất chứng
đắc hay quả vị Phật mà Như Lai thành tựu thì không có hình
tướng, không có màu sắc, không có văn tự ngôn ngữ diễn tả cho
nên cái chứng đắc nầy là không thật có, không tìm đâu ra. Nhưng
nếu không thật thì phải là hư? Thế mà cái chứng đắc trên lại là
vô hư! Tại sao? Mặc dù không ai thấy được hình tướng của sự
chứng đắc, nhưng Ông Xá Lợi Phất có được tâm thanh tịnh Niết bàn
nên không còn bị vô minh phiền não quấy phá. Thế thì quả chứng
đắc chính là vô hư tức là có thật. Đó chính là sắc tức là Không
và Không chính là sắc vậy.
Vô thượng Bồ-đề tức là Bản Thể Chân Như của vạn pháp. Vì thế nếu
chúng sinh sống đúng và hợp với chân lý của vạn pháp cũng như
người trở về nguyên quán, về lại Bảo Sở Chân Như mà mình lưu lạc
từ bấy lâu nay.
Tóm lại cho dù chúng sinh có mang thân nam, thân nữ hay dù chỉ
tu phước như các vị trời thì ai ai cũng có thể phát tâm tu hạnh
Bồ-tát để làm lợi ích chúng sinh với tâm vô cầu vô sở đắc thì
tâm sẽ được thanh tịnh tức là Phật tánh hiện bày. Cốt tủy của tu
hành là chuyển tâm chớ không chuyển cảnh vì thế khi tâm được
thanh tịnh thì hình tướng sinh diệt bên ngoài cũng như gió
thoảng mây bay thì tướng nam, nữ có gì phải bận lòng.
|
|