Chương Thứ
Mười
Phẩm PHẬT HƯƠNG TÍCH
(Fragrance Accumulation Buddha)
Bấy giờ ông Xá Lợi Phất
nghĩ rằng: giờ ngọ trai sắp đến, rồi đây chư Bồ-tát sẽ thọ thực
bằng cái gì?
Đối với hàng Thanh văn hay các tu sĩ Tiểu thừa thì họ còn phân
biệt thời gian cho nên sắp đến giờ ngọ là họ nghĩ đến việc ăn
trưa. Vì mỗi ngày chỉ ăn một bửa trước giờ ngọ nên nếu lỡ quá
ngọ mà chưa ăn thì họ phải nhịn ăn ngày đó. Trong khi đó những
tu sĩ theo phái Đại thừa thì uyển chuyển hơn, không chấp, không
phân biệt nên giờ nào ăn cũng được, một hay hai bữa cũng xong
miễn sao ăn để sống, nuôi thân mà tu đạo.
Trưởng giả Duy Ma Cật biết được thâm ý của ông Xá Lợi Phất,
bèn bảo rằng:
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Đức Phật dạy tám môn giải thoát ngài
lãnh thọ thi hành. Há để xem tạp ý nghĩ về ăn trong lúc nghe
pháp vậy sao? Nếu muốn ăn thì hãy đợi giây lát. Ngài sẽ được
thức ăn chưa từng có.
Ông Duy Ma Cật liền nhập định, vận dụng sức thần thông khiến cho
đại chúng thấy rõ, ở thượng phương thế giới trải qua bốn mươi
hai hằng hà sa cõi Phật có quốc độ tên gọi là Chúng Hương. Hiện
tại Đức Phật Hương Tích là giáo chủ.
Nước Chúng Hương có thứ hương thơm kỳ diệu, so với mùi thơm của
các thế giới nhơn thiên. Các cõi nước chư Phật trong mười phương
cũng không có thứ hương nào sánh được. Cõi nước đó, không có
Thanh văn và Bích Chi Phật, chỉ có chúng đại Bồ-tat thanh tịnh.
Đức Phật Hương Tích thường truyền pháp giáo hóa cho hàng đại
Bồ-tát này. Thế giới Chúng Hương thường sử dụng toàn hương. Lầu
các kiến tạo bằng hương. Đi kinh hành trên đất hương, vườn tược
hoa cảnh cũng hương. Hơi hương là thức ăn của Phật, Bồ-tát ở
quốc độ nầy. Hương nầy lan tỏa ngát thơm khắp vô lượng thế giới
mười phương.
Lúc bấy giờ Đức Phật và chư Bồ-tát cùng ngồi thọ thực. Các Thiên
tử cùng có hiệu Hương Nghiêm, những Thiên tử này đều đã phát tâm
vô thượng Bồ-đề. Họ dâng thức ăn Hương để cúng dường Phật và
Bồ-tát.
Tất cả đại chúng trong hải hội đều trông thấy sự kiện nầy.
Trong chương thứ nhất, kinh giới thiệu một chân lý là cõi tịnh
độ nằm trong cõi uế độ Ta bà nầy nghĩa là tịnh và uế tuy hình
tướng có khác nhau nhưng cùng một Bản Thể. Khi chúng sinh có tâm
thanh tịnh thì thế giới chung quanh ta sẽ được thanh tịnh như
cõi Phật tịnh độ. Đó là câu: “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh”.
Bây giờ trong phẩm nầy, kinh lại giới thiệu một cõi tịnh độ tên
là Chúng Hương cách xa thế giới Ta bà bốn mươi hai hằng hà sa
cõi Phật. Tại sao lại nói bốn mươi hai mà không phải bốn mươi
mốt hoặc bốn mươi ba? Tại vì từ địa vị phàm phu đến quả vị vô
thượng Bồ-đề phải trải qua bốn mươi hai đẳng cấp. Dựa theo Thập
Huyền Duyên Khởi thì Chư Pháp Tương Tức nghĩa là thế giới này
cũng là thế giới kia, Nhất Đa Tương Dung nghĩa là thế giới Chúng
Hương và thế giới Ta bà tuy hai nhưng mà một vì tuy có hai thế
giới, gọi hai tên khác nhau nhưng tất cả vẫn cùng chung trong
“Nhất Chân Pháp Giới” nghĩa là tất cả là Một. Tại sao? Nếu thế
giới Chúng Hương mà xa xôi vời vợi thì làm sao đại chúng thấy rõ
được và chư Bồ-tát đi qua lại trong nháy mắt. Nếu không thấu
hiểu thì dễ dàng nghĩ rằng đây là chuyện thần thoại hoang đường.
Nói đến thế giới Chúng Hương nghĩa là có Đức Phật Hương Tích, có
cơm thơm, có chư Bồ-tát và không có Thanh văn hay Bích chi Phật
là kinh muốn ám chỉ các vị trong hàng Thanh văn cần chuyển tâm
hẹp hòi, chấp trước của mình thành tâm Bồ-đề, rộng rãi như
Bồ-tát cũng như bỏ cơm thường mà được cơm thơm, bỏ bàn ghế chật
hẹp để được ngồi trên tòa sư tử, bỏ tâm ích kỷ mong cầu tịch
diệt Niết bàn cho riêng mình mà phát tâm Bồ-đề cầu Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác và hành Bồ-tát đạo làm lợi ích cho chúng
sinh. Cõi Ta bà có Thanh văn, Bích chi Phật trong khi thế giới
Chúng Hương không có là muốn so sánh để các vị Thanh văn chuyển
tâm mà quay về với Nhất Thừa Phật đạo. Kinh muốn nhắn nhủ rằng
ngay cả hàng Thanh văn, Duyên giác thì con đường để viên thành
Phật đạo vẫn còn xa, không nên tự mãn.
Khi giới thiệu cõi Chúng Hương thì kinh muốn nới rộng về sự ứng
dụng của Lục Trần vì thật ra không nhất thiết chỉ có “nghe” hay
“thấy” tức là “sắc trần” và “thanh trần” mới hoằng pháp, mới làm
Phật sự được. Thí dụ như ăn cơm thì cơm làm bằng gạo lúa tức là
sắc. Nhà cửa, cây cối, đất cát đều là sắc. Còn thuyết pháp thì
Đức Phật Thích Ca dùng âm thanh tức là “Thanh Trần” để giảng dạy
cho đệ tử nên những người tu theo âm thanh mà chứng quả thì gọi
là hàng Thanh văn. Ở đây kinh giới thiệu một lối giảng dạy khác
mà chúng sinh chưa quen thuộc nhưng rất thông dụng ở thế giới
Chúng Hương nghĩa là tất cả đều là mùi hương. Đó là “Hương Trần”
nghĩa là Đức Phật Hương Tích chỉ dùng mùi hương mà giáo hóa
chúng sinh thay vì lời nói. Nói một cách khác chúng sinh ở thế
giới Ta bà dùng “Nhĩ căn” để nghe pháp, học pháp, hành pháp và
chứng đạo quả Niết bàn. Trong khi đó chúng Bồ-tát ở cõi Chúng
Hương thì sử dụng “Tỷ căn” để ngửi mùi đạo, học đạo, hành đạo và
chứng thánh đạo. Đức Phật Thích Ca dùng lời nói thuyết pháp lan
tỏa mười phương thế giới thì Đức Phật Hương Tích dùng hương
truyền pháp cũng lan tỏa trong khắp vô lượng thế giới mười
phương. Thế thì phương tiện giáo hóa tuy có khác, nhưng cứu cánh
độ chúng sinh, độ Bồ-tát đâu có khác gì nhau. Nói một cách khác
hiện tượng tuy có khác, nhưng Bản Thể vẫn là Một.
Bấy giờ Trưởng giả Duy Ma Cật hỏi các chúng Bồ-tát trong hải
hội rằng:
- Thưa chư nhơn giả! Trong đây ai có thể qua đến cõi Phật Hương
Tích để có thể thỉnh một ít cơm thơm?
Do thần lực của Bồ-tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi, cả hải hội chư
Bồ-tát đều im lặng.
Ông Duy Ma Cật nói:
- Cả đại chúng trong hải hội đều im lặng cả! Không đáng xấu hổ
lắm sao?
Văn Thù Sư Lợi nói:
- Theo lời Phật dạy: “Không nên
xem thường người chưa học”.
Ông Duy Ma Cật ngồi tại bản tòa, ở trước đại chúng, hóa hiện một
Bồ-tát tướng hảo quang minh, uy đức hơn hẳn mọi người và sai
bảo:
- Ông qua thượng phương vượt đây khoảng bốn mươi hai hằng hà sa
cõi Phật, có một quốc hiệu tên gọi là Chúng Hương. Đức Phật cõi
đó hiệu là Hương Tích. Phật và Bồ-tát đang cùng ngồi thọ thực.
Ông hãy đến đó nói đúng như lời tôi rằng:
- Duy Ma Cật đê đầu đảnh lễ dưới chân Thế Tôn trọng kính vô vàn,
gởi đến lời thăm hỏi Đức Thế Tôn ít bệnh, ít não chăng? Mong Thế
Tôn cho một ít cơm thừa đem về cõi Ta bà làm Phật sự khiến cho
những người ưa pháp Tiểu thừa được mở mang trí tuệ phát chí Đại
thừa, đi theo đại đạo và cũng khiến cho thanh danh của Như Lai
được nhiều người nghe biết khắp cùng.
Lãnh hội lời dặn dò, ở trước đại chúng, vị hóa thân Bồ-tát liền
bay lên thượng phương, trước sự chứng kiến của đại chúng. Đến
thế giới Chúng Hương, hóa thân Bồ-tát lễ dưới chân Phật. Vào lúc
này tất cả đại chúng ở cõi Ta bà đều nghe rõ lời bạch.
Các đại sĩ ở nước Chúng Hương trông thấy đức hóa thân Bồ-tát đều
rất kính mộ và tán thán, đây là việc chưa từng có. Bậc thượng
nhân này từ đâu đến. Ta bà thế giới cách đây bao xa. Sao gọi là
những người ham ưa tiểu pháp. Bao nhiêu nghi vấn đặt ra và đem
những việc đó thưa hỏi Đức Phật.
Đức Hương Tích Phật nói với chư Bồ-tát rằng ở hạ phương cách bốn
mươi hai hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên Ta bà. Hiện nay
đức Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ. Ta bà là cõi đời nhơ xấu
năm trược hoành hành. Đức Phật Thích Ca vì chúng sinh ưa pháp
Tiểu thừa, mở mang chuyển hóa khiến cho họ phá chí Đại thừa. Đức
Phật có một Bồ-tát tên Duy Ma Cật hằng trụ trong cảnh giới giải
thoát Bất Khả Tư Nghì, vì các Bồ-tát nói pháp. Vì thế, sai vị
hóa thân Bồ-tát đến cõi này, nhằm xưng dương danh hiệu của ta và
khen ngợi quốc độ Chúng Hương này, khiến cho Bồ-tát ở cõi Ta bà
được tăng phần công đức.
Ông Duy Ma Cật là vị đại Bồ-tát thần thông quảng đại lại lẻ nào
đi khinh chê đại chúng mà phải cần Bồ-tát Văn Thù nhắc nhở:
“Không nên xem thường người chưa học”. Đây chỉ là cách đóng
tuồng để vừa nhắc nhở mà cũng vừa an ủi mà không phật lòng ai.
Nhắc lại khi Phật nói kinh Pháp Hoa để quy tam thừa về một là
Nhất thừa Phật đạo thì có trên năm ngàn đệ tử bỏ đi cho nên kinh
điển Đại thừa rất khó nghe, mà nếu nghe và thấm thấu thì mới
liễu ngộ được giáo lý tối thượng đại thừa. Đoạn kinh nầy muốn
nhắn nhủ rằng Bồ-tát phải làm những việc khó làm mà người khác
làm không được. Ông Duy Ma Cật tự hiện thân thành một Bồ-tát
khác, đến quốc độ Chúng Hương, bạch với Phật Hương Tích, xin bát
cơm thơm rồi đem về. Tuy hiện tượng nhiều như thế nhưng chỉ xảy
ra trong khoảnh khắc trước mắt mọi người. Điều này một lần nữa
chứng minh rằng Ta bà là Chúng Hương và Chúng Hương chính là Ta
bà tức là ứng dụng Nhất Đa Tương Dung vậy.
Ở đây kinh lại dùng một phương tiện khác để xác định chân lý:
Tịnh, Uế là do tâm tạo. Cũng như ở chương một thì kinh nhấn mạnh
: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”. Ở chương nầy kinh lại
giới thiệu một cõi Tịnh độ, nhưng thật ra cõi Tịnh độ nằm trong
thế giới Ta bà này chứ không tìm đâu xa cả. Vì nếu xa thì làm
sao những lời nói của hóa thân Bồ-tát với Phật Hương Tích mà đại
chúng ở cõi Ta bà lại nghe rõ được. Như thế thì kinh muốn nói
gì? Cho dù chúng sinh ở đâu, sống trong bất cứ thế giới nào mà
không còn bị ràng buộc bởi Tham-Sân-Si, vô minh phiền não thì
nơi đó, thế giới đó chính là cõi cực lạc, cõi Tịnh độ vậy. Nói
rộng ra thì nếu chúng sinh có tư duy quán chiếu để tâm được hoàn
toàn thanh tịnh thì ngồi đâu, đứng đâu cũng như nghe Pháp, nghe
tiếng gì cũng nhẹ nhàng thanh thoát như tiếng chim Anh Vỏ, Bạch
Hạc và nhìn cảnh giới nào cũng là cảnh thanh tịnh u nhàn cả.
Các Bồ-tát Chúng Hương hỏi Phật :
- Duy Ma Cật là người thế nào mà có thể hóa ra một Bồ-tát oai
đức tròn đầy, thần thông quảng đại thế kia?
Phật đáp:
- Rất lớn! Chẳng những hóa một Bồ-tát mà còn có thể hóa vô số
Bồ-tát đi đến vô số cõi nước trong mười phương để thi tác Phật
sự lợi ích chúng sinh.
Đối với Bồ-tát không những làm được một việc khó làm mà Bồ-tát
phải làm tất cả những việc khó làm để cứu giúp chúng sinh. Trong
Phẩm Con Đường Phật, Bồ-tát chứng minh rằng vì muốn cứu giúp
chúng sinh, họ sẳn sàng làm bất cứ việc gì và bất cứ ở đâu ngay
cả những việc phi đạo. Các ngài thị hiện làm kẻ tham-sân-si, ham
mê sắc dục, làm kẻ phá giới, làm người gian ác để làm gương cho
chúng sinh thấy đó mà xa lánh. Đó chính là: “Bồ-tát hành phi đạo
thị vi thông đạt Phật đạo” vậy.
Đức Hương Tích Như Lai lấy bình bát Chúng Hương đựng đầy một
bát cơm hương và ban cho hóa thân Bồ-tát.
Lúc bấy giờ có chín trăm vạn Bồ-tát đồng thanh nói:
- Chúng tôi muốn đến thế giới Ta bà để cúng dường đức Phật Thích
Ca Mâu Ni và muốn hội kiến với ông Duy Ma Cật và chúng Bồ-tát ở
cõi Ta bà.
Đức Phật nói:
- Các Bồ-tát có thể đi, nhưng phải thu nhiếp hương thơm từ
thân các ông. Đừng để cho các chúng sinh cõi kia sanh tâm đam mê
nhiễm ái. Lại còn phải đổi thân hình vốn có của các Bồ-tát cõi
nầy, đừng để cho chư Bồ-tát cõi Ta bà có mặc cảm tư ti. Lại nữa,
khi diện kiến các ông không nên có trong lòng ý tưởng khinh
thường mà dấy lên tư tưởng trở ngại không nên. Tại sao? Vì mười
phương quốc độ đều như hư không. Chẳng qua, chư Phật vì giáo hóa
những chúng sinh ham ưa tiểu pháp mà không hiện trọn vẹn cõi
nước thanh tịnh đấy thôi.
Dưới mắt của người có tâm tham-sân-si, vô minh phiền não thì Ta
bà này là cõi uế độ, là cảnh bất toàn, nhưng đối với người có
tâm thanh tịnh cho dù họ ở đâu thì cảnh đó, thế giới đó đều trở
thành thanh tịnh. Cũng trong thế giới Ta bà nầy mà chính Đức
Phật Thích Ca và biết bao đại đệ tử của Ngài vẫn có được Niết
bàn, vẫn sống an vui tự tại. Thế thì Tịnh, Uế là do tâm chớ
không phải do cảnh. Do đó mười phương quốc độ đều là hư không,
là thanh tịnh nếu chúng ta có tâm thanh tịnh. Chúng sinh vì dùng
nhục nhãn mà nhìn thế gian nên thấy có phân biệt, hơn thua, tốt
xấu, có ngã và ngã sở rồi sanh ra chấp pháp cho nên có phiền não
khổ đau. Ngược lại chư Bồ-tát dùng tuệ nhãn mà hành thâm bát nhã
ba-la-mật đa thì thấy tất cả là Không vì tất cả là huyễn hóa, là
do duyên khởi tạo thành nên không chấp cái hình tướng bên ngoài
nên không có tâm phân biệt tốt xấu cho nên không còn đau khổ,
diệt hết mọi ưu phiền. Vì thế cõi nước của Bồ-tát được thanh
tịnh là vậy.
Có ba điều kiện của Phật Hương Tích cho chín trăm vạn Bồ-tát khi
họ đến viếng thế giới Ta bà:
1) Phải thu nhiếp thân hương để tránh chúng sinh ở cõi Ta bà mê
đắm. Vì công đức tu hành thành tựu nên các vị Bồ-tát có hương
thơm tỏa ngát thân người khác với chúng sinh ở cõi Ta bà nhơ
nhớp, tội lổi, xấu xa. Nhưng nếu không thu nhiếp thân hương làm
chúng sinh có tâm phân biệt thì không đúng lẽ của Bồ-tát.
2) Phải thu thân tướng to lớn trang nghiêm. Muốn đến cõi Ta bà
mà đem nguyên thân hình đồ sộ to lớn thì làm sao hòa nhập được.
Chúng sinh chẳng những không kính phục mà còn sợ hãi xa lánh thì
cũng trái với Bồ-tát đạo.
3) Thế giới Ta bà không thanh tịnh trang nghiêm thì cũng không
khởi tâm khinh thường vì Bồ-tát thì không có tâm phân biệt thiện
ác, tốt xấu, thanh tịnh ô nhiễm.
Ba điều trên là muốn nhắc nhở các vị Thanh văn về vai trò của
Bồ-tát. Họ làm những việc khó làm, không chấp phương tiện, không
có tâm phân biệt và sau cùng Tịnh hay Uế là do tâm của chúng
sinh chớ không phải do quốc độ.
Bấy giờ hóa thân Bồ-tát cung kính tiếp nhận bát cơm cùng chín
trăm vạn Bồ-tát, nương sức oai thần Phật, chư Bồ-tát thốt nhiên
không còn hiện diện ở thế giới Chúng Hương…
trong khoảnh khắc sau, tất cả cùng có mặt ở trong tịnh thất của
ngài Duy Ma Cật.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật hóa ra chín trăm vạn chiếc tòa sư tử cao
rộng đẹp đẽ. Chư Bồ-tát trong hải hội đều ngồi lên bảo tòa…
Một lần nữa, áp dụng Chư Pháp Tương Túc và Nhất Đa Tương Dung
vào trong trường hợp nầy thì cõi Chúng Hương chính là cõi Ta bà
cho nên chỉ trong khoảnh khắc là chư Bồ-tát có mặt ở cõi Ta bà
ngay. Nếu ở thế giới xa xôi vời vợi thì làm sao đến nhanh được
như thế! Bây giờ ứng dụng Đồng Thời Cụ Túc thì quán trí thấy
được Bản Thể dung thông vô ngại và vượt qua mọi hình tướng vật
chất nên không có lớn nhỏ, rộng chật gì cả. Vì thế ông Duy Ma
Cật tuy có hóa ra chín trăm vạn tòa sư tử to lớn, nhưng tất cả
chỉ là tư tưởng, hình ảnh của những tòa sư tử mà thôi chớ không
phải bằng vật chất. Thí dụ nếu chúng ta nhìn tòa nhà cao nhất
thế giới thì toàn bộ hình ảnh của cái nhà cao lớn nầy hiện ra
trong tâm thức của chúng ta mà không bị ngăn ngại gì cả bởi vì
hình ảnh thì dung thông vô ngại, không chật không hẹp. Một thí
dụ khác là khi chúng ta nghĩ đến vạn lý trường thành ở Trung
quốc thì hình ảnh của cái thành dài thăm thẳm nầy nằm gọn trong
tâm thức của chúng ta, đâu có chật hẹp gì. Nếu không thấu hiểu
thì sẽ biến thành mê tín, thần thoại hoang đường.
Bấy giờ Hóa thân Bồ-tát đem bát cơm đầy ngào ngạt hương thơm
dâng lên Bồ-tát Duy Ma Cật. Hơi thơm của cơm xông ngát thành Tỳ
Xá Ly, lan tỏa khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới.
Khi bấy giờ các Bà-la-môn, cư sĩ…
nghe mùi hương thân tâm thanh thoát nhẹ nhàng và đồng khen ngợi
là sự kiện nhiệm mầu xưa nay chưa từng có.
Bấy giờ, có vị trưởng giả tên Nguyệt Cái cùng với đoàn tùy tùng
84,000 người đi đến tịnh thất ông Duy Ma Cật. Khi đến tịnh thất
mọi người trông thấy chúng đại Bồ-tát rất đông. Các tòa sư tử
cao rộng rang nghiêm lộng lẫy. Tất cả mọi người vô cùng hoan hỉ
lễ bái chư Bồ-tát chúng và các hàng đệ tử Thanh văn. Lễ xong,
lui ra cùng đứng sang một phía. các địa
thần, hư không thần, chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc nghe mùi hương
cũng đến tịnh thất và xin được vào nghe pháp.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật nói với ông Xá Lợi Phất và các hàng đại
Thanh văn rằng:
- Chư nhơn giả! Các vị sẽ được ăn cơm vị cam lồ của Như Lai. Cơm
nầy do huân tập vô lượng đại bi mà có. Khi ăn không nên dùng tâm
ý hạn hẹp suy lường mà làm cơm không tiêu hóa.
Bấy giờ, có vị Thanh văn chợt nghĩ rằng:
- Cơm ít mà đại chúng quá đông. Rồi đây mọi người sẽ ăn, rồi ai
ăn ai nhịn?
Nhằm hóa giải mối nghi trong lòng đại chúng, hóa thân Bồ-tát
tuyên bố:
- Thưa chư nhơn giả! Các ngài không nên dùng tiểu đức tiểu trí
của Thanh văn mà cân lường phước đức trí tuệ của Như Lai. Nước
bốn biển còn có thể hết chứ cơm nầy không thể hết. Giả sử mỗi
người ăn một khối to bằng núi Tu Di, ăn trọn kiếp cũng không hết
được. Vì đây là thức ăn thừa của đấng đầy đủ công đức giới,
định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến vô tận, làm sao hết
được. Một bát cơm này, no lòng cho bao nhiêu đại chúng trong hội
này hãy còn quá dư thừa. Vả lại, Bồ-tát, Thanh văn, nhơn thiên
ăn cơm này rồi thân tâm thư thái, vui vẻ an nhiên giống như
Bồ-tát ở cõi nước Nhất Thiết Lạc Trang Nghiêm. Lại nữa, sau khi
ăn cơm này, từng lỗ chân lông sẽ tiết ra hương thơm kỳ diệu
giống như mùi hương của các rừng cây thơm ở quốc độ Chúng Hương.
Nguyệt Cái nghĩa là cái lọng hình tròn như mặt trăng dùng để che
mưa đở nắng của các vị tôn quý ngày xưa. Cơm hương ở đây không
phải là cơm vật chất làm bằng lúa gạo như ở cõi Ta bà mà cơm là
hương vị thì làm sao lấy bát mà đựng. Do đó cơm hương là muốn ám
chỉ cho phước đức trí tuệ hương. Vậy hương ở đây chính là giới,
định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến hương cho nên nếu đem
hương nầy phân chia cho toàn thế giới thì cũng không bao giờ
hết. Vì thế chỉ có một bát cơm hương mà bao nhiêu người ăn cũng
không hết là như vậy. Ngửi thấy mùi hương là thâm nhập giới định
tuệ hương nên có giải thoát làm cho thân tâm được thanh thoát
nhẹ nhàng. Khi mình đã có đủ giới định tuệ, giải thoát và giải
thoát tri kiến hương thì chính mình đã có được sự an vui tự tại
thanh thoát trong cuộc đời cũng như từng lỗ chân lông tiết ra
mùi hương vậy. Mình có cuộc sống an vui thì chúng sinh sẽ bắt
chước lối tu hành tốt đẹp này để có cuộc sống an lạc cho chính
họ. Vì vậy hương thơm này lan tỏa vô cùng vô tận cũng như ngọn
đèn Vô Tận Đăng tỏa ánh sáng chân lý huyền diệu không bao giờ
tắt. Cơm hương mà đại chúng hưởng trong tịnh thất ông Duy Ma Cật
chính là món ăn tinh thần để nuôi dưỡng phần tâm linh, là Pháp
thực để nuôi Huệ mạng, là ngọn hải đăng để đưa con thuyền Bát
nhã về bến giác ngộ.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật hỏi các Bồ-tát Chúng Hương rằng:
- Thưa chư đại sĩ! Đức Hương Tích Như Lai ở nước Chúng
Hương giáo hóa chúng Bồ-tát bằng cách nào?
- Hương Tích Như Lai cõi nước chúng tôi không dùng ngôn ngữ văn
tự thuyết mà chỉ lấy Hương, khiến cho nhơn thiên được đi vào
luật hạnh. Các Bồ-tát thì ngồi dưới cội cây Hương nghe mùi hương
vi diệu mà được Tam muội Nhất thiết Đức Tàng. Bồ-tát được
tam muội ấy rồi tự có đầy đủ công đức.
Các Bồ-tát Chúng Hương hỏi lại:
- Thưa! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn thuyết pháp bằng cách nào?
Bồ-tát Duy Ma Cật đáp:
- Cõi Ta bà chúng sinh cang cường khó giáo hóa, cho nên
Đức Phật của chúng tôi phải thuyết những ngôn ngữ cang cường để
mà điều phục. Phải nói địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ. Phải nói:
đấy là chỗ khốn nạn, đấy là chỗ những người ngu si thọ sanh.
Phải nói đó là việc làm sai quấy của thân. Đó là lời sai trái
của khẩu. Đó là quả báo của lời sai trái của khẩu. Đó là ý nghĩ
tội lỗi của ý. Đó là quả báo của ý nghĩ tội lỗi của ý. Đấy là
sát sinh, đấy là quả báo của sát sinh. Đấy là không cho mà lấy.
Đấy là quả báo của việc không cho mà lấy. Đó là tà dâm. Đó là
quả báo của tà dâm. Đó là vọng ngữ. Đó là quả báo của vọng ngữ.
Đó là lưỡi hai chiều. Đó là quả báo của lưỡi hai chiều. Đó là ác
khẩu. Đó là quả báo của ác khẩu. Đó là lời vô nghĩa. Đó là lời
quả báo của lời vô nghĩa. Đó là tham lam. Đó là quả báo của tham
lam. Đó là sầu não. Đó là quả báo của sầu não. Đó là tà kiến. Đó
là quả báo của tà kiến. Đó là xan lẩn. Đó là quả báo của xan
lẩn. Đó là hủy phạm giới. Đó là quả báo của hủy phạm giới. Đó là
giải đải. Đó là quả báo của giải đãi. Đó là loạn ý. Đó là quả
báo của loạn ý. Đó là ngu si. đó là quả báo của ngu si. Đó là
trì giới. Đó là phạm giới. Đó là việc nên làm. Đó là việc không
nên làm. Đó là chướng ngại. Đó là không chướng ngại. Đó là đắc
tội. Đó là tiêu tội. Đó là tịnh. Đó là cấu. Đó là hữu lậu. Đó là
vô lậu. Đó là tà đạo. Đó là chánh đạo. Đó là hữu vi. Đó là vô
vi. Đó là thế gian. Đó là Niết bàn.
Vì những người khó giáo hóa, tâm như vượn, ý như ngựa cho nên
Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn phải dùng nhiều ngôn từ phương tiện
thuyết pháp để chế ngự tâm họ. Sau đó mới điều phục được. Ví như
ngựa bất kham, voi cuồng bạo khó huấn luyện, phải sử dụng roi,
dùi, đánh, chích thì mới điều phục được. Cũng như thế, chúng
sinh cang cường nan hóa, phải dùng những lời khổ thiết như thế
mới có thể đưa khép họ vào luật hạnh.
Đức Phật Hương Tích ở thế giới Chúng Hương thì dùng “Hương trần”
để giáo hóa chúng Bồ-tát, trong khi đó ở cõi Ta bà này Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni lại sử dụng “Thanh trần” để giáo hóa chúng sinh.
Đoạn kinh muốn mở rộng tầm nhìn cho chúng sinh về lục trần thay
về cố định, cứng ngắt ở nơi Thanh trần.
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm có hai mươi lăm vị Thánh đệ tử dựa
trên hai mươi lăm phương pháp khác nhau mà chứng đắc viên thông.
Đó là sáu căn, sáu trần, sáu thức, và thất đại. Thí dụ ông Kiều
Trần Như thì nhờ tu theo Thanh Trần tức là đi sâu vào bản tính
nhiệm mầu của âm thanh mà chứng quả A La Hán. Ông Ưu-ba-ni-sa-đà
tu theo Sắc tướng mà viên thông đạt đạo. Ông Bạt-đà-bà-là tu
theo Xúc Trần mà được thánh quả. Ông A Na Luật tu theo Nhãn Căn
mà đạt đạo và có được thiên nhãn. Ông Đại Ca Diếp tu theo Pháp
Trần mà chứng quả A La Hán. Bồ-tát Phổ hiền tu theo Nhĩ Thức mà
thành Bồ-tát. Ông Mục Kiền Liên tu theo Ý Thức mà chứng được
diệu chân như tính. Ngài Trì-Địa Bồ-tát tu chứng về đại Địa.
Ngài Nguyệt quang đồng tử viên thông về Thủy đại. Ngài Lưu ly
quang Pháp vương tử tu theo Phong đại mà được viên thông. Ngài
Đại Thế Chí tu theo Kiến đại mà thành Bồ-tát. Ngài Di Lặc tu
theo Thức đại mà được viên thông vô ngại…
Thêm nửa, trong phẩm nguyên lý Bất Nhị có ba mươi mốt vị Bồ-tát
sử dụng ba mươi mốt phương cách khác nhau, nhưng tất cả cùng đến
chung một mục đích là chứng nhập pháp môn không Hai.
Cho dù sử dụng “Thanh Trần” như Đức Thích Ca để chúng sinh tiếp
nhận bằng “Nhĩ căn” hay “Hương Trần” như Phật Hương Tích để chư
Bồ-tát tiếp thọ bằng “Tỷ căn” thì phương tiện, cảnh giới tuy có
khác nhưng cứu cánh vẫn là giải thoát giác ngộ.
Chúng sinh ở cõi Chúng Hương nghiệp nhẹ nên chỉ cần ngửi mùi
hương là phát tâm tu hành “bất thối chuyển” trên đường vô thượng
Bồ-đề.
Còn chúng sinh ở thế giới Ta bà thì phước mỏng nghiệp dày, cang
cường khó giáo hóa nên Phật Thích Ca phải dùng lời nói cứng rắn
để giáo hóa, điều phục họ.
Đối với bậc thượng căn lợi trí thì Đức Phật dùng phương pháp nhẹ
nhàng, chỉ nói cho họ về phước đức, công đức, trí tuệ và giải
thoát Niết bàn khiến họ phát tâm bất thối chuyển. Còn đối với
bậc hạ trí độn căn, nghiệp chướng sâu dày, cang cường khó giáo
hóa thì Phật bất đắc dĩ phải đem những cảnh tượng địa ngục hãi
hùng, kiếp súc sanh khổ sở làm cho họ kinh sợ, thức tỉnh mà quay
về với chánh đạo.
Đức Phật chỉ cho họ thấy cái quả dữ rồi mới giáo huấn, chỉ dạy
phương cách để tạo nhân lành. Dạy họ kiềm chế sáu căn để điều
phục tam nghiệp thân khẩu ý cho được thanh tịnh. Dạy họ quán
cuộc đời bất tịnh phiền não khổ đau để được giải thoát tịch diệt
của Niết bàn.
Trong Phật giáo không có địa ngục thật và dĩ nhiên không bao giờ
có cảnh súc sanh, ngạ quỷ địa ngục cho những người không có tâm
tham-sân-si, mà địa ngục là chỉ do Nghiệp Thức biến hiện. Khi
người mới chết thì thần thức thấy những hình tượng đầy vẻ ma
quái rùng rợn như muốn nhảy tới phanh thây, nhai nuốt người
chết. Tất cả những hiện tượng kinh hoàng đó thật ra đều do
nghiệp lực mà chiêu cảm nhưng Thần thức không biết nên tin là
thật. Do đó địa ngục là do tâm biến hiện chớ không do đấng
thiêng liêng nào kiến tạo sẳn để trừng trị tội hồn. (Xin đọc
Luân Hồi trong sách Phá Mê Khai Ngộ cùng tác giả để hiểu thêm).
Các Bồ-tát Chúng Hương đồng tán thán rằng:
- Đức Thích Ca mâu Ni thế Tôn làm việc khó làm, dấu đi sức tự
tại vô lượng của mình mà vui lấy pháp khó khăn độ thoát chúng
sinh. Các Bồ-tát cõi Ta bà đây cũng hết sức nhọc nhằn khiêm tốn,
do lòng đại bi vô lượng mới nguyện sanh ở cõi Phật này.
Ông Duy Ma Cật nói:
- Đúng như chư đại sĩ nói, Bồ-tát cõi Ta bà, đối với chúng sinh
lòng đại bi rất kiên cố, nhưng được cái ưu việt là làm lợi ích
chúng sinh trong một đời công đức nhiều hơn trăm ngàn đời làm
lợi ích chúng sinh ở cõi nước của các ngài. Vì sao? Vì thế giới
Ta bà có mười việc thiện pháp mà các cõi Tịnh độ khác không có.
1) Lấy bố thí đem giúp đỡ kẻ
nghèo.
Cõi Ta bà chúng sinh thiếu phước báo nên nghèo khổ, cần sự giúp
đỡ, bố thí. Còn ở Tịnh độ thì Bồ-tát có đầy phước báu nên không
cần bố thí.
2) Lấy trì giới đem gương mẫu
cho người phạm giới.
Cõi Ta bà chúng sinh chạy theo tham
đắm dục tình nên trì giới giúp họ lánh xa tham dục mà được tâm
thanh tịnh. Ngược lại ở Tịnh độ chư Bồ-tát luôn giữ giới hạnh,
tâm thanh tịnh thì làm gì có trì giới.
3) Lấy nhẫn nhục đem dạy khuyên
người hung bạo.
Người thế gian vì sống trong vô minh đen tối nên tâm tánh thô
lỗ, hung bạo, dễ giận hờn nên nhẫn nhục đem lại cho họ sự an
lành tự tại. Trong thế giới tịnh độ thì ai ai cũng hòa khí, từ
bi hỉ xả thì nhẫn nhục còn dùng vào đâu được.
4) Lấy tinh tấn đem gương mẫu
cho kẻ biếng lười.
Người thế gian thì lười biếng, làm ít mà muốn hưởng nhiều, không
tu mà muốn thành chánh quả, sợ khó nhọc mà chùn bước nên tinh
tấn giúp họ tăng trưởng thêm ý chí, lòng dũng mãnh. Thế giới
tịnh độ thì mọi người đều siêng năng tu tập, phát tâm cầu vô
thượng Bồ-đề thì đâu cần nhắc đến tinh tấn.
5) Lấy thiền định đem dạy người
loạn ý.
Chúng sinh ở cõi Ta bà thì
suy nghĩ quay cuồng, “tâm viên mã ý” làm cho cuộc sống thêm điên
đảo cho nên thiền định làm tâm an định, tiêu trừ vọng tưởng.
Ngược lại thế giới tịnh độ thì lúc nào cũng an lành thì thiền
định đâu còn cần thiết.
6) Lấy trí tuệ đem giáo hóa
người ngu si.
Chúng sinh vì tham đắm lục dục thất
tình mà tâm bị si mê cho nên trí tuệ sẽ đánh tan vô minh hắc ám
làm cho tâm trí được trong sáng. Cõi tịnh độ thì làm gì có si
mê, tâm thanh tịnh thì trí tuệ lúc nào cũng chiếu sáng.
Đây chính là lục độ của Bồ-tát để đối khán với lục tệ của phàm
nhân trong cõi Ta bà này.
7) Nói pháp trừ nạn hóa độ
người bát nạn.
Chúng sinh vì sống trong vô minh điên đảo nên tự mình tạo ra
biết bao hoạn nạn cho nên Bồ-tát mới đem chánh dạo mà giáo hóa
giúp họ phá trừ vô minh vọng chấp thì hoạn nạn tất phải tiêu
trừ. Trong khi đó Bồ-tát sống trong cõi tịnh độ có tâm hồn trong
sáng, không còn điên đảo khổ đau thì đâu cần học pháp.
8) Lấy pháp đại thừa đem hóa độ
người yêu thích tiểu thừa.
Cõi Ta bà có Tiểu thừa nên mới cần Bồ-tát hướng dẫn tu theo Đại
thừa mà viên thành Phật đạo. Còn ở cõi tịnh độ thì không có Tiểu
thừa, không có ngoại đạo thì Bồ-tát không có mục tiêu giáo hóa,
không có duyên lành làm việc lợi tha.
9) Lấy pháp thiện căn khuyến
hóa người vô đức.
Chúng sinh ở thế giới Ta bà phước mỏng nghiệp dày nên cần phải
tu để vun bồi thiện phước, ngược lại Bồ-tát ở cõi tịnh độ thì dĩ
nhiên có phước đức tràn đầy.
10) Thường lấy pháp tứ nhiếp
dẫn dụ giáo hóa chúng sinh.
Nguyên nhân của sự hổn loạn xấu xa trong bất cứ xã hội nào cũng
bắt đầu từ lòng ích kỷ. Nhân loại đang quằn quại khổ đau, nồi da
xáo thịt cũng vì lòng tham lam ích kỷ mà ra. Vậy người Phật tử
muốn theo dấu chân Phật thì phải mở lòng từ bi, xả bỏ tánh ích
kỷ, không nên quá chú trọng đến mình mà quên người, không nên
chỉ lo giác ngộ cho mình mà không tìm cách giúp người cùng giác
ngộ vì thật ra mình và chúng sinh là một khối, không thể phân
chia ra được. Vì vậy nếu biết áp dụng tứ nhiếp pháp tức là biết
bố thí, biết nói lời an ủi, khuyên lơn, biết làm lợi ích cho
người và sau cùng là biết hòa mình vào cuộc sống của chúng sinh
để cứu giúp họ thì cuộc đời nầy sẽ bớt đau thương và mang lại
biết bao niềm vui, nụ cười cho những người kém may mắn. Trong
khi đó ở cõi tịnh độ thì mọi người sống trong hòa bình, thân ái
với nhau thì tứ nhiếp pháp đâu còn cần thiết nữa.
Đây là sự khác nhau giữa hai cõi Tịnh độ và Uế độ. Ở cõi Tịnh độ
thì các vị Bồ-tát thuần phục nên Phật Hương Tích chỉ cần dùng
hương cũng đủ giáo hóa. Trong khi đó thì chúng sinh ở cõi Ta bà
cang cường khó điều phục. Chúng sinh với cái vỏ cứng vô minh quá
dày, lòng tham đắm quá sâu và đâu đâu cũng đều có chấp cho nên
Đức Phật Thích Ca cùng chư Bồ-tát với lòng đại bi vô lượng, đức
kiên cố vô cùng làm những việc khó làm để độ tất cả chúng sinh
giúp họ quay về với chánh đạo. Thí dụ như ở Hoa Kỳ, dân trí cao,
người công dân rất tuân phục luật pháp cho nên ngoài đường phố
không cần phải có nhiều cảnh sát mà vẫn an ninh trật tự. Trong
khi đó ở Mễ Tây Cơ thì dân trí thấp kém, nghèo đói nên luật pháp
không được tôn trọng vì thế trộm cướp, băng đảng hoành hành khắp
mọi nơi. Người cảnh sát ở Mỹ thì rảnh rỗi trong khi ông cảnh sát
ở Mễ thì bận rộn tối ngày mà còn sợ bị bắn chết.
Chúng sinh trong cõi Ta bà phước mỏng nghiệp dày nên bị trầm
luân khổ não cho nên thế giới Ta bà có mười thiện pháp mà cõi
Tịnh độ không có được. Vì sự khổ nhọc chuyên cần làm lợi ích cho
chúng sinh nên Bồ-tát trong cõi Ta bà này tuy tạo công đức chỉ
trong một đời mà còn nhiều hơn trăm ngàn kiếp tu hành trong
những thế giới khác. Một thí dụ điển hình là ở Việt Nam, Thái
Lan, hay Miến Điện người Phật tử phần lớn là nghèo, cuộc sống
khó khăn nên họ dễ hòa nhập với Phật pháp. Họ đi chùa, tụng kinh
niệm Phật là việc thường vì họ muốn có cuộc sống tốt hơn ở mai
sau. Trong khi đó ở Hoa kỳ hay những nước văn minh tân tiến thì
người dân có mức sống khá cao, đẩy đủ và quá bận rộn nên họ
không chú trọng về vấn đề tâm linh. Do đó vấn đề hoằng pháp ở Mỹ
phải khó hơn ở Việt Nam.
Các Bồ-tát Chúng Hương hỏi:
- Bồ-tát ở thế giới Ta bà thực hành những pháp gì không bị
thương tổn, không mắc mứu để có thể sanh sang ở tịnh độ.
Ông Duy Ma Cật đáp:
- Bồ-tát ở cõi này thành tựu được tám pháp thì không còn lầm lỗi
và được sanh về cõi Tịnh độ:
1) Làm lợi ích chúng sinh mà không
mong cầu đền đáp (vô cầu) .
Thi ân bất cầu báo nghĩa là
làm ơn mà không cầu đền ơn đáp nghĩa hay cho người vật gì mà
không tiếc nuối.
2) Thay tất cả chúng sinh, gánh
chịu những thiệt thòi khổ não (từ bi).
Thông thường khi con mình
bị đau bệnh hay chết chóc thì cha mẹ thường hay than thở muốn
gánh chịu nổi khổ đau của con mình. Cái tâm này chính là tâm
Bồ-tát khi thấy chúng sinh đau khổ, thiệt thòi. Đây là việc khó
làm mà làm được mới gọi là Bồ-tát.
3) Bao nhiêu công đức mình làm
đều ban hết cho tất cả chúng sinh (hỉ, xả, lợi tha).
Ngay cả việc tu hành, gây dựng công đức thì Bồ-tát cũng cho hết
tất cả chúng sinh. Gầy dựng công đức là việc khó làm mà có rồi
lại đem cho hết là việc rất khó làm vì thế Bồ-tát mới thong dong
tự tại là như vậy.
4) Dưới khiêm nhường chúng
sinh, trên cung kính Bồ-tát.
Cứ sống rất khiêm tốn, rất
tầm thường miển sao mình giữ được phẩm chất đạo đức của con
người thì sẽ không có tự ti hay tự phụ mà rất bình đẳng đối với
chúng sinh. Cung kính Bồ-tát không có nghĩa là vái lạy để cầu
xin điều nầy điều nọ. Mà cung kính là tán thán việc làm lợi ích
cho chúng sinh và nguyện sẽ đi vào con đường mà Bồ-tát đã và
đang làm.
5) Cầu học những điều chưa
biết, không nghi ngờ.
Phật pháp có cạn có sâu vì
căn cơ chúng sinh cao thấp không đều cho nên rất nhiều kinh điển
liễu nghĩa thượng thừa thì người sơ cơ khó thấu hiểu. Không hiểu
không có nghĩa là kinh điển nói sai mà khả năng thu nhận của
mình còn thấp. Ngày xưa khi Phật nói Kinh Pháp Hoa thì có trên
năm ngàn đệ tử bỏ đi vì không đồng ý với lời Phật dạy.
6) Không chống trái với hàng Thanh văn
(không khinh chê người tu kém mà phải dùng phương tiện hay để
dẫn dắt họ tiến lên).
Toàn bộ triết lý Đại thừa
không ngoài mục đích khuyến khích hàng Thanh văn tiến tu mà hoàn
thành Phật đạo chớ đừng tự mãn ở địa vị A La Hán. Nói một cách
tổng quát là Bồ-tát luôn khuyến khích chúng sinh tiếp tục tu học
để phát triển trí tuệ mà tự giải thoát cho mình chớ đừng ham vui
ở những cảnh giả tạm của thế gian.
7) Không ganh ghét tật đố,
không khoe mình chê người.
Đây là muốn nhắc nhở chúng
sinh phá chấp ngã, chấp pháp để mở rộng tâm Bồ-đề.
8) Thường xét lỗi mình, không
nói đến lỗi của người, hằng nhất tâm cầu công đức.
Ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng cũng nói rằng: “Nếu là người tu đạo
chân thật thì không thấy lỗi lầm của người khác trong thế gian”.
Cái khó trong thế gian là lúc nào con người cũng thấy lỗi của
người mà không nhìn lại lỗi của mình. Luật nhân quả đã khẳng
định là cho dù người khác có làm lỗi lầm gì chăng nửa thì chính
họ phải nhận chịu quả nghiệp sau nầy. Nhân quả của người khác
thì chúng ta không thể nhận chịu thay thế cho họ mà quan trọng
nhất là chú ý đến nhân quả của mình. Không thấy lỗi của người mà
luôn xét lỗi của mình để tu tâm dưỡng tánh thì công đức mới được
vun bồi.
Nếu Bồ-tát thực hành đứng đắn tám phương thức ở trên hay nói một
cách rộng rãi là cho tất cả những ai muốn tu theo hạnh Bồ-tát
Đại thừa thì chính họ đã phá được chấp ngã, chấp pháp, phát
triển tâm từ bi hỉ xả mà làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Không còn tánh tham tật đố, dưới cứu giúp chúng sinh trên mong
viên thành Phật đạo. Không tán kỷ hủy tha, khen mình chê người.
Chỉ nhìn lỗi mình mà không thấy lỗi người. Làm mà không chấp
việc mình làm và nếu có được chút ít công đức gì thì ban hết cho
chúng sinh cùng thành Phật đạo.
Khi thành tựu tám pháp ở trên thì Bồ-tát được sanh về cõi Tịnh
độ, nhưng thật ra nếu Bồ-tát hay bất cứ chúng sinh nào thành tựu
tám pháp ở trên thì chính họ đã được giải thoát rồi. Chính họ
đang sống trong cõi Tịnh độ thế gian rồi chứ đâu cần phải sanh
về cõi nào nữa. Đây chính là thâm ý của kinh vậy. Ngược lại nếu
chúng sinh còn chấp ngã, chấp pháp, tánh tham tật đố không chừa
thì cho dù có vào được cõi Tịnh độ thì cũng vẫn sống trong điên
đảo khổ đau như thường. Nhắc lại muốn được vãng sanh về cõi Tịnh
độ của Phật A Di Đà thì chúng sinh phải niệm Phật đến chỗ Nhất
Tâm Bất Loạn thì mới được Phật đến rước. Nhất tâm là tâm không
còn vọng tưởng, không còn tạp niệm, tâm rỗng rang thì cái tâm
nầy chính là Chơn tâm, là tự tánh thanh tịnh bản nhiên, là Phật
tánh của tất cả mọi người. Có được cái tâm nầy thì chính mình
đang sống trong cõi Tịnh độ rồi chớ còn tìm Tịnh độ ở nơi nào
nữa. Đây mới là giáo lý tối thắng Đại thừa vậy.
Tới đây một số Phật tử vẫn còn thắc mắc về cảnh giới Tịnh
độ Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà, chúng tôi xin đăng
nguyên văn một đoạn trong Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng
để quý vị tư duy quán chiếu:
Vị Sứ Quân đảnh lễ rồi nói:
- Đệ tử thấy Tăng chúng, đạo, tục, thường niệm A Di Đà và nguyện
vãng sanh Tây phương. Xin hòa Thượng giải thích rõ cho đệ tử xem
người ta có thật sự vãng sanh ở đó được không, ngỏ hầu để dẹp
tan mối nghi ngờ của đệ tử?
Lục Tổ đáp:
- Sứ quân lắng nghe, Huệ Năng tôi sẽ giải thích cho ông. Thế Tôn
lúc ở Xá Vệ quốc, thuyết giảng về Tây phương để dẫn hóa chúng
sinh. Kinh văn nói rõ ràng rằng:
“Tây phương cách đây không xa. Chỉ vì muốn dạy những người có
căn cơ thấp mới nói là xa, còn nói gần là để dạy người có trí
tuệ cao. Tuy con người có hai loại, Pháp chẳng hề có “bất đồng”.
Giữa mê và ngộ có sự khác biệt, cũng như kiến giải có mau có
chậm. Kẻ mê thì niệm Phật hy vọng vãng sanh Tây phương, người
ngộ chỉ thanh tịnh tâm mình. Cho nên Phật nói: “Tùy kỳ tâm tịnh,
tắc Phật độ tịnh”.
Sứ quân! người ở phương Đông (ám chỉ chúng sinh ở cõi Ta bà) nếu
chỉ cần tịnh tâm là lập tức hết tội chướng. Người ở Tây phương
Tịnh độ mà tâm không tịnh là lập tức có lỗi lầm. Kẻ mê nguyện
vãng sanh Đông phương hay Tây phương, còn người ngộ thì bất cứ ở
đâu cũng là Tịnh độ cả. Chỉ cần tâm không có bất tịnh thì cõi
Tây phương chẳng cách xa đây. Còn như tâm mà khởi bất tịnh thì
dù có niệm Phật để cầu vãng sanh cũng khó mà đạt được. Trừ được
mười điều ác tức là đi được mười vạn dặm, không có tám điều tà
là đã vượt qua được thêm tám ngàn dặm.
Song nếu tu hành Chơn tâm, mình sẽ thấy Tây phương trong nháy
mắt.
Sứ quân! chỉ nên lo tu thập thiện, cần gì phải nguyện vãng sanh.
Nếu như ông không đoạn cái tâm làm mười điều ác, Phật nào đến
đón ông đây? Nếu giác ngộ được giáo pháp
đốn ngộ vô sanh, chỉ trong sát na là ông thấy Tây phương. Nếu
như không ngộ giáo lý đốn ngộ của Đại thừa, con đường niệm Phật
để mong vãng sanh quá xa vời, làm sao mà đạt đến được?
Lục Tổ nói:
- Để Huệ Năng tôi trong một sát na (một giây) dời Tây phương đến
ngay trước mắt cho Sứ quân thấy. Sứ quân có muốn thấy chăng?
Sứ quân cúi lạy nói:
- Nếu như đệ tử có thể thấy Tây phương ở đây, còn cần gì phải
vãng sanh nữa. Xin Hòa Thượng từ bi làm cho Tây phương hiễn hiện
trước mắt đệ tử thì tốt lắm thay!
Lục Tổ dạy:
- Đại chúng! Xin hãy cẩn thận lắng nghe. Sắc thân của người đời
là một thành phố. Mắt, mũi, tai, lưỡi là cửa thành. Bên ngoài có
năm cửa, bên trong có cửa của ý thức. Tâm tức là đất, Tánh tức
là vua. Tánh còn thì vua còn, Tánh đi thì vua không còn. Tánh
còn thì thân tâm còn, Tánh đi thì thân tâm hoại. Phật là do tự
Tánh mà ra, chớ nên hướng ra ngoài thân mà cầu. Mê mờ tự Tánh
thì Phật là chúng sinh, giác ngộ tự Tánh thì chúng sinh tức là
Phật. Từ bi là Quán Thế Âm, hỷ xả là Đại Thế Chí, năng tịnh là
Thích Ca, bình đẳng chơn thực là Di Lặc, nhân ngã chấp là núi Tu
Di, tà tâm là biển lớn, phiền não là sóng, tâm độc là rồng dữ,
trần lao là cá rùa, hư vọng là thần quỷ, tam độc là địa ngục,
ngu si là súc sanh, thập thiện là thiên đường. Nếu không chấp
nhơn ngã, núi Tu Di tự lở, trừ tà tâm, nước biển lập tức cạn.
Không có phiền não, sóng tự nhiên hết. Trừ độc hại, cá rồng sẽ
hết. Hãy để giác Tánh Như Lai trên tâm địa của mình, phóng ánh
sáng trí tuệ lớn, chiếu sáng sáu cửa và bằng ánh sáng thanh tịnh
ấy chiếu phá sáu cõi trời của Dục giới. Nếu bên trong tự Tánh
chiếu sáng, tam độc sẽ bị trừ và địa ngục sẽ lập tức tiêu diệt.
Nếu trong ngoài gì đều trong sáng thấu suốt thì đây cũng chẳng
khác gì Tây phương. Nếu như không tu hành pháp môn này, làm thế
nào có thể đến bên ấy được?
Lục Tổ dạy thêm:
- Này các thiện tri thức! Nếu như muốn tu hành, tại gia cũng
được, không cần phải ở chùa. Nếu như ở chùa mà không tu thì có
khác chi những người ở Tây phương Tịnh độ mà tâm địa độc ác. Còn
ở tại gia mà tu hành thì cũng như người ở Đông phương mà tu
thiện pháp. Chỉ cần ở tại gia mà tu thanh tịnh thì đó tức là Tây
phương!
Ông Duy Ma Cật và Bồ-tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi ở giữa đại
chúng nói thời pháp ấy rồi, trăm ngàn trời, người phát tâm vô
thượng Bồ-đề. Mười ngàn Bồ-tát được vô sanh pháp nhẫn.
Tóm lại trong phẩm nầy ông Duy Ma Cật muốn mở rộng kiến thức cho
hàng Thanh văn hay cho tất cả đại chúng để họ thấy rằng sự hiểu
biết của họ vẫn còn nông cạn, vẫn còn chấp trước. Ông Duy Ma Cật
giới thiệu một cõi Tịnh độ Chúng Hương của Phật Hương Tích là
muốn nhắn nhủ với đại chúng là đừng chấp phương tiện mà hãy nhìn
xa vào cứu cánh. Thế giới Ta bà Phật Thích Ca dùng Thanh Trần mà
giáo hóa còn chúng sinh thì dùng Nhĩ Căn mà thọ nhiếp. Trong khi
đó ở cõi Chúng Hương Phật Hương Tích dùng Hương Trần mà hoằng
pháp trong khi chư Bồ-tát thì dùng Tỷ Căn mà tu và hành đạo.
Phương tiện có khác, thế giới có khác nhưng tựu trung vẫn là
giải thoát giác ngộ thì có khác gì nhau. Kinh này là “Quyền
giáo” nghĩa là những hiện tượng thần thông biến hóa chỉ là thí
dụ chớ đừng vội tin là “Thật”. Kinh ca ngợi tán thán công đức
của Phật Thích Ca và chư Bồ-tát ở cõi Ta bà nhiều phiền não khổ
đau nầy vì họ đã, đang và sẽ làm những việc rất khó làm. Cuối
cùng trọng tâm của kinh cũng không ngoài mục đích nhắn nhủ với
chúng sinh vẫn là “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là
bất cứ ở đâu mà có tâm tịnh thì cõi đó là Tịnh độ, ngược lại cho
dù có ở trong thế giới Tịnh độ mà tâm cấu thì Tịnh độ thành ra
cõi Ta bà.
|