Chúc là phó chúc, dặn dò một
cách thân thiết vì tính cách quan trọng của bộ kinh. Lụy là gánh
vác việc khó khăn, nặng nhọc. Do đó chúc lụy là dặn dò người sau
tiếp tục gánh vác một việc làm khó khăn, nặng nhọc. Đây là kinh
Bất khả tư nghì, là Pháp bảo giúp chúng sinh giải thoát giác ngộ
trong một đời này nên Đức Phật mới dặn dò những đệ tử phải giử
gìn kinh cẩn thận và đem ra truyền bá cho những đời sau vì tài
bảo mất thì dễ kiếm lại nhưng Pháp bảo mất thì chúng sinh phải
sống trong phiền não khổ đau biết đến bao giờ.
Đức Phật gọi Bồ-tát Di Lặc bảo:
- Này Di Lặc! Nay ta đem pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
mà ta từng tu tập chứa nhóm trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp phó
chúc cho ông. Những kinh điển như thế, sau Phật diệt độ, ở hậu
thế các ông hãy nổ lực truyền bá rộng rãi ở chốn nhơn gian đừng
để cho giáo lý tối thượng thừa mai một. Vì sao? Bởi trong đời vị
lai vẫn có kẻ thiện nam, người thiện nữ và thiên long, quỷ thần,
Càn thát bà, La sát… có khả năng
ham mộ pháp đại thừa phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Giả sử mà họ không được nghe những kinh điển thượng thừa liễu
nghĩa như thế thì thiệt thòi quá lớn lao. Ngược lại họ được nghe
kinh liễu nghĩa thậm thâm này, phát khởi tín tâm sâu sắc lãnh
thọ, hành trì, đối với chúng sinh hữu duyên có khả năng tiếp thụ
quảng bá tuyên truyền làm cho nhiều người cùng được lợi ích.
Đức Phật Thích Ca thọ ký cho Bồ-tát Di Lặc một đời nữa sẽ thành
Phật. Vậy một đời dài khoảng bao lâu?
Một đời nữa là ám chỉ tiểu kiếp thứ mười mà mỗi tiểu kiếp có 16
triệu năm. Hai mươi lần tiểu kiếp mới thành một trung kiếp tức
là 320 triệu năm và sau cùng bốn lần trung kiếp mới thành một
đại kiếp. Do đó một đại kiếp là một tỷ hai trăm tám chục triệu
năm (1,280,000,000). Khoa học ngày chứng minh là con người xuất
hiện trên trái đất khoảng bốn tỷ rưỡi năm tức gần bốn đại kiếp
của nhà Phật và thế giới vũ trụ chỉ xuất hiện khoảng 13.7 tỷ năm
mà thôi. (Dựa theo the Big Bang theory).
Dựa theo Kinh Phật Thuyết Di Lặc Đại Thành Phật và Kinh Di Lặc
thượng sanh, vào lúc Đức Thích Ca sinh tiền thì con người sống
thọ khoảng 100 tuổi. Một tiểu kiếp là một lần giảm và một lần
tăng. Hiện tại chúng ta đang ở trong thời kỳ giảm. Cứ giảm hay
tăng một tuổi thọ thì phải mất 100 năm. Do đó từ khi Đức Phật
nhập diệt đến nay trên 25 thế kỷ thì tuổi thọ con người giảm
xuống còn 75 tuổi. Nói một cách khác là 25 thế kỷ về trước con
người trung bình sống tới 100 tuổi, nhưng ngày nay chỉ sống tới
75 tuổi mà thôi. Khi giảm tới 10 tuổi thì bắt đầu tăng nghĩa là
cần tới 6500 nữa lúc ấy con người chỉ thọ khoảng 10 tuổi thì chu
kỳ tăng bắt đầu. Chu kỳ tăng nầy tiếp tục cho đến khi tuổi thọ
con người là tám vạn tư tức là con người sống hoài cho đến
84,000 tuổi mới chết thì chu kỳ bắt đầu giảm. Chu kỳ bắt đầu
giảm dần cho đến khi con người chỉ còn sống đến 48,000 năm thì
Bồ-tát Di Lặc mới giáng sinh mà thành đạo dưới gốc cây Long Hoa.
Như thế thì cần đến trên tám triệu năm nữa mới có Phật Di Lặc ra
đời.
Dựa theo văn minh khoa học của con người ngày nay thì phẩm chất
cuộc sống của nhân loại càng ngày càng sút giảm. Thí dụ như ở
Hoa Kỳ bốn mươi năm về trước dân số chỉ có khoảng hai trăm triệu
mà năm 2008 đã vượt qua ba trăm triệu. Còn ở Việt Nam năm 1975
có khoảng ba, bốn chục triệu dân, năm 2008 đã tăng trưởng gần
trăm triệu. Khắp nơi trên thế giới cũng như vậy, Trung Hoa có
trên một tỷ ba trăm triệu dân. Đất đai của địa cầu không tăng,
mà dân số cứ tăng vùn vụt thì làm sao nhân loại có đủ thức ăn,
vật dụng, nhà cửa để cung ứng cho nhu cầu. Vì thế mà thực phẩm
biến chế là cách thức thỏa mản nhu cầu trong tương lai. Nhưng
con người càng tùy thuộc hóa chất thì sức khỏe sẽ bị giảm dần.
Đến khi số người quá đông, tranh giành giết hại nhau để sống thì
tai họa thật lớn sẽ xảy ra để quét sạch phần lớn con người trên
mặt quả địa cầu này. Lúc đó tuổi thọ của con người là 10 tuổi.
Những người có phước đức còn sống sót thì bắt đầu sống an bình
trong thế giới mới với không khí, cảnh vật trong lành tinh khiết
hơn. Nhờ đó mà tuổi thọ tăng dần cho đến khi họ sống tới 84,000
tuổi thì chu kỳ giảm bắt đầu. Chu kỳ giảm tiếp tục cho đến khi
con người chỉ còn sống khoảng 48,000 năm thì Phật Di Lặc ra đời.
Do đó một tiểu kiếp là tăng tám triệu năm rồi giảm tám triệu năm
tổng cộng thành 16 triệu năm là vậy.
Di Lặc! Ông nên biết, Bồ-tát có hai dạng: Một, ham thích văn
từ bóng bẩy, ngôn ngữ khách sáo chuốt trau. Hai, không khiếp sợ
những kinh nghĩa sâu xa, đúng như thật tướng mà thể nhập. Hạng
ham văn tự bóng bẩy, ngôn ngữ khách sáo…
Phải biết! Đó là hạng tân học Bồ-tát. Hạng người ngôn từ khách
sáo gác bỏ ngoài tai, văn tự chuốt trau, nghi lễ rườm rà khử bỏ.
Đối với kinh điển đại thừa liễu nghĩa thậm thâm, không có lòng
sợ sệt, có khả năng thể nhập như thuyết tu hành, thọ trì đọc
tụng, nghe rồi tâm thanh tịnh an vui. Phải biết, đó là hạng
người Bồ-tát trau dồi đạo hạnh đã lâu đời rồi.
Di Lặc! này! Lại còn có hạng người cũng thuộc làng tân học: Một,
từ trước, họ chưa được nghe kinh điển thậm thâm liễu nghĩa, nay
nghe họ sanh tâm sợ sệt nghi ngờ, không tùy thuận nổi, lại còn
hủy báng không tin, thốt lên những lời bảo thủ rằng: Hồi nào giờ
tôi chưa từng nghe những giáo lý như thế. Sao nay lại nói như
vậy, kinh đó từ đâu mà có, đó là thứ kinh gì? Hai, có hạng người
vẫn thọ trì, giải quyết thâm nghĩa của kinh, nhưng không chịu
thân cận cúng dường, cung kính tôn trọng. Có lúc lại còn phê
phán chỉ trích ý kinh.
Hai hạng người như thế, phải biết! Đó là những hàng Bồ-tát tân
học. Họ là những người tự hủy hoại phước đức trí tuệ của mình.
Họ không thể hấp thụ được những kinh nghĩa thậm thâm để điều
phục lấy tâm mình.
Bồ-tát có hai hạng:
1) Hạng thứ nhất là Bồ-tát ham thích văn từ bóng bẩy, ngôn ngữ
khách sáo thì đây là những Bồ-tát tân học nên chưa thâm nhập
Bồ-tát đạo vì thế mà trí tuệ căn lành chưa phát triển bao nhiêu.
2) Hạng thứ hai là Bồ-tát tu hành cao, căn cơ đã thuần thục nên
không đắm nhiễm vào văn tự ngôn ngữ, không sợ sệt, không nghi
ngờ cho dù đó là kinh điển thậm thâm vi diệu. Họ ham mộ, tư duy
quán chiếu và phấn chí đúng như lời kinh mà tu hành thì đây là
những Bồ-tát đã trồng sâu căn lành rất nhiều đời nhiều kiếp. Đó
chính là thực hành đúng “Y nghĩa bất y ngữ” vậy. Thật vậy, không
có văn từ, ngôn ngữ nào có thể chuyên chở hết tư tưởng của Chân
lý vì thế mà khi con người cảm chứng được sự thanh tịnh giải
thoát thì chỉ có riêng họ biết mà thôi mặc dù họ vẫn sống quây
quần với nhân sinh xã hội. Họ nhận chứng sự an vui thanh tịnh
tịch diệt Niết bàn trong khi chúng sinh vẫn còn điên đầu với
phiền não khổ đau. Vì sự vi diệu này mà kinh nói là bất khả tư
nghì là vậy.
Hiện nay trong Phật giáo có Nam Tông và Bắc Tông. Nam Tông tức
Phật giáo Tiểu thừa hay Phật giáo nguyên thủy chỉ tin tưởng
những kinh điển mà Phật nói ra trước thời Bát nhã. Đó là Trường
A hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhứt A Hàm và kinh Pháp Cú…
Còn Phật giáo Đại thừa thì tin tưởng vào kinh Bát Nhã, kinh Pháp
Hoa, kinh Viên Giác, kinh Duy Ma Cật, kinh Đại Niết Bàn… Do đó
hạng Bồ-tát thứ nhất là muốn ám chỉ cho Phật giáo Nam Tông và
hạng Bồ-tát thứ hai là cho Phật giáo Đại thừa.
Lại nữa, Di Lặc! Còn có hai hạng Bồ-tát dù tin hiểu sâu đối
với kinh pháp này, nhưng vẫn còn tự làm tổn thương phước đức trí
tuệ, không chứng được vô sanh pháp nhẫn: Một, khinh thường các
hàng Bồ-tát tân học không dạy dỗ cho họ tiến lên. Hai, dù tự
mình hiểu sâu nghĩa thú của kinh, nhưng còn chấp mắc, phân biệt.
Mặc dù Phật giáo Nam Tông vẫn còn chấp trước, không công nhận
những kinh điển Đại thừa, nhưng đừng nên khinh chê mà cần khuyến
khích họ tiến lên tiếp thọ giáo lý Đại thừa để viên thành Phật
đạo. Thêm nữa, cho dù có thâm hiểu kinh điển vi diệu thì cũng
đừng có tâm phân biệt chấp có cao có thấp, “tán kỷ hủy tha” tức
là trọng mình khinh người. Phật Pháp không có cao có thấp, Chân
lý lúc nào cũng bình đẳng, Phật tánh thì ai ai cũng như nhau. Do
đó nếu chúng sinh bỏ hết tâm phân biệt, chấp trước, không thấy
có Tiểu thừa, Đại thừa, không còn phân biệt xuất gia, tại gia,
không còn quan trọng tu chùa hay tu nhà, không còn thấy khác
biệt khi còn tóc hay cạo đầu, áo thường hay áo thụng vì tất cả
đều là con Phật, cùng có chung một tôn chỉ và mục đích là giải
thoát giác ngộ thì đây chính là Nhất thừa Phật Đạo vậy.
Di Lặc Bồ-tát nghe nói thế liền bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Thật chưa từng có, theo lời Phật dạy, con sẽ
tránh xa những điều khuyết điểm mà Thế Tôn đã chỉ vẽ ra. Con sẽ
phụng trì pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà Như Lai
đã thực hiện và tích lũy trong vô lượng A tăng kỳ kiếp. Đời vị
lai, nếu có người thiện nam, thiện nữ cầu Đại thừa, con sẽ khiến
cho trong tay họ cầm được những kinh điển liễu nghĩa thậm thâm
như vậy và khiến cho họ thọ trì, đọc tụng truyền bá rộng cho
nhiều người cùng nghe hiểu tu hành. Phải biết đó là thần lực của
Di Lặc gia hộ kiến lập mà nên.
Phật khen:
- Lành thay! Di Lặc! Như ông đã phát nguyện, Như Lai rất vui
lòng và sẽ hỗ trợ thiện ý của ông.
Bấy giờ tất cả chư Bồ-tát đều chấp tay bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con cũng đem hết
sức mình truyền bá sâu rộng trong các cõi nước mười phương pháp
Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Như Lai đã dạy. Lại vận dụng
mọi phương tiện và khả năng hỗ trợ cho những người thuyết pháp,
truyền bá kinh này được thuận lợi thập phần viên mãn.
Bấy giờ Tứ Thiên Vương bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nơi nơi chốn chốn, thành ấp tụ lạc, núi rừng,
đồng nội, chỗ nào có người thọ trì đọc tụng, biên chép giảng
giải kinh này, con sẽ sai các quyến thuộc đến đó nghe pháp và
đến để bảo hộ phạm vi một trăm do tuần, khiến cho các thứ thiên
ma tà quái, cuồng tín, si mê đều không có cơ hội để khuấy phá
người truyền bá giảng thuyết kinh này.
Bấy giờ Đức Phật bảo:
- A Nan! Ông hãy thọ trì kinh này và truyền bá sâu rộng ở đời
sau.
Dạ! bạch Thế Tôn! Con xin vâng lời Phật. Con đã nắm vững
những phần cốt lõi thâm sâu rồi.
Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là chi? Ông A Nan hỏi?
Phật bảo:
- Kinh này tên là Duy Ma Cật Sở Thuyết. Cũng gọi là kinh BẤT
KHẢ TƯ NGHÌ GIẢI THOÁT PHÁP MÔN. Ông hãy NHƯ VẬY thọ trì.
Phật nói kinh này xong, Trưởng giả Duy Ma Cật, Đại trí Văn
Thù Sư Lợi, Xá Lợi Phất và hàng chư Thiên, người, A tu la cùng
tất cả đại chúng nghe rồi đều hoan hỉ tín thọ phụng hành.