Đức Phật ngồi tham thiền
nhập định dưới cội Bồ-đề suốt 49 ngày đêm và lời nói đầu tiên mà
chính Ngài đã thốt ra sau khi chứng nghiệm chân lý là: “Cái mà
chính ta đã khổ công tìm kiếm ròng rã suốt mười một năm chính là
cái mà tất cả chúng sinh đã có sẳn trong họ. Đó chính là Chơn
tâm, là Phật tánh sáng suốt vĩnh hằng, là tự tánh thanh tịnh bản
nhiên mà đã bị cái vỏ cứng của vô minh che phủ nên chúng sinh
không nhận biết mà mãi tiềm kiếm những ảo giác bên ngoài nên
cuộc sống còn lặn hụp trong phiền não khổ đau”.
Do đó cho dù Đức Phật có thuyết bao trăm hội, có nói bao nhiêu
bộ kinh thì nội dung vẫn không ngoài mục đích dẫn dắt chúng sinh
tự mình ngộ nhập chân lý hay chứng nhập Phật Tri Kiến. Tất cả
kinh điển, pháp môn tu tập trên thế gian này chỉ là phương tiện,
là ngón tay, là chiếc thuyền để giúp mỗi chúng sinh tùy theo căn
cơ, hoàn cảnh và trình độ mà tự mình chứng nghiệm chân lý. Con
người lúc nào cũng chạy theo tham đắm vật dục, làm nô lệ cho tư
kỷ cá nhân nên xa dần với Phật tánh thanh tịnh mà sống trong
điên đảo khổ đau.
Giáo lý của Đức Phật là chiếc thuyền nan vững chắc giúp chúng
sinh chống lại bao sóng gió chập chùng trên biển trầm luân và
quay về với bến bờ thanh tịnh bình yên để có cuộc sống an vui tự
tại. Có hồi đầu thị ngạn, có đến được bờ giải thoát giác ngộ thì
mới thấy được ánh sáng thiêng liêng huyền diệu của chân lý mà
sống với con người thật của chính chính mình mà nhà Phật gọi là
bản lai diện mục, là chân nhân, là tự tánh thanh tịnh mà chúng
ta đã bỏ quên nó đi.
Kinh Duy Ma Cật được xuất hiện vào thời Phật nói kinh Phương
Đẳng cũng không ngoài mục đích dùng bao thí dụ, phương cách để
giúp chúng sinh thấy được Chơn tâm, Phật tánh của chính mình.
Kinh giới thiệu trưởng giả Duy Ma Cật là một thương gia, phú hộ,
giàu sang phú quý, có địa vị trong xã hội như trăm ngàn chúng
sinh khác trong thế giới nầy, nhưng cho dù sống trong nhung gấm
lụa là, tiền rừng bạc biển, vợ con tôi tớ đầy nhà mà ông ta
không hề bị những thứ nầy làm tâm ô nhiễm. Ông luôn nói chánh
pháp, lấy chánh pháp làm phương châm cho hành động và sau cùng
là sống đúng với chánh pháp mà không cần phải cạo đầu hay đắp y
mà chỉ thể hiện qua hình tướng của một trưởng giả, một cư sĩ mà
thôi.
Vì chủ yếu của kinh là giúp chúng sinh không còn quan trọng hình
tướng bên ngoài mà phải quay về để thấy và sống với thật tướng
tức là chơn tâm, là Phật tánh của chính mình nên ông Duy Ma Cật
tuy bề ngoài là một người thường, nhưng bên trong ông có tâm hồn
và đạo hạnh của một vị đại Bồ-tát. Triết lý Tây phương có câu
rằng: “Chiếc áo không làm nên người tu sĩ” thì chân lý về thật
tướng trong kinh Duy Ma Cật quả thật là siêu việt, tuyệt vời để
giúp chúng sinh tránh xa những ảo tưởng và tùy thuộc vào những
nhận xét sai lầm từ hình dáng bên ngoài. Toàn bộ của kinh là
chuyển Tâm chớ không chuyển Cảnh bởi vì một khi tâm thay đổi thì
cảnh sẽ chuyển theo. Một người có tâm thanh tịnh, không chạy
theo tham đắm lợi danh thì dầu cho hoàn cảnh xã hội có thay đổi
như thế nào thì tâm người đó cũng không bao giờ bị ô nhiễm.
Ngược lại một người tâm bất tịnh thì chắc chắn sẽ thay tâm đổi
tánh khi đối diện với lục dục thất tình.
Kinh mở đầu bằng cách giới thiệu một lối nhìn mới về Chơn tâm.
Một khi chúng sinh biết quay về sống với trực tâm, thâm tâm và
Bồ-đề tâm của chính mình thì sẽ có tâm thanh tịnh. Tâm thanh
tịnh có nghĩa là tâm bình đẳng giữa tất cả chúng sinh. Vì có sự
bình đẳng nên không có sự phân biệt giữa ta và người,
vì người và ta vốn là một. Thật vậy, chúng ta đều là những giọt
nước trong đại dương của sự sống, tuy là một thành phần nhỏ bé
nhưng chúng ta vẫn có thể kinh nghiệm được toàn thể sự sống của
đại dương.
Con người lúc nào cũng ảo tưởng những gì mình không thể nắm bắt
được cho nên khi đối diện với thực tế thì đâm ra thất vọng. Đức
Phật sống trong thế giới Ta bà mà chúng ta gọi là thế giới tội
lỗi xấu xa bất toàn ô trược, nhưng dưới nhãn thức của Ngài thì
thế giới này đâu có khác gì những cõi Tịnh độ của chư Phật trong
mười phương không khác. Tại sao? Bởi vì thế gian đối với người
còn vô minh phiền não thì bất tịnh tội lỗi xấu xa, còn kẻ được
giải thoát, tâm hồn hoàn toàn thanh tịnh thì lúc nào cũng ung
dung tự tại, thanh thoát an nhàn. Vì thế tôn chỉ của kinh là:
“Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh” và “Dục tịnh Phật độ tiên
tịnh kỳ tâm” nghĩa là nếu tâm mình thật thanh tịnh, không còn vô
minh phiền não quấy phá thì thế giới này chính là cõi Phật thanh
tịnh chớ không cần tìm cõi tịnh độ ở đâu xa.
Cõi Phật không ở trên cao cũng chẳng ở xa mà chính là ở ngay
trong tâm của con người. Một khi chúng sinh đoạn hết vô minh
phiền não để trở thành sáng suốt giác ngộ chân lý thì tâm đó
chính là tâm Phật, thế giới này chính là cõi tịnh độ vậy. Do đó
cốt tủy của kinh là khẳng định cho người Phật tử xuất gia hay
tại gia là ở đâu tu cũng được vì tu là tu tâm chớ không tu cảnh
cho nên ở nhà, ở chợ và ngay trong sở làm thì nơi nào cũng là
đạo tràng thanh tịnh cả.
Kinh giới thiệu ba lần cảnh Tịnh độ để giúp chúng sinh thấu hiểu
rằng hễ có tâm tịnh thì có cõi Phật tịnh.
Lần thứ nhất Đức Phật Thích Ca muốn khai thị cho tôn giả Xá Lợi
Phất thấy rằng thế giới Ta bà này cũng chính là cõi Phật thanh
tịnh như bao cõi Tịnh độ của mười phương chư Phật bằng cách lấy
ngón chân nhấn xuống đất. Khi con người biết kiềm chế
tham-sân-si mạn nghi tà kiến để có tâm thanh tịnh thì cho dù họ
sống trong bất cứ xã hội nào thì thế giới đó chính là cõi Phật
thanh tịnh. Cái thế giới Ta bà mà con người cho rằng có nhiều
tội lỗi, xấu xa, đầy phiền não khổ đau, nhưng chính Đức Phật
cũng sống ở đây mà tâm Ngài rất tự tại, rất thanh tịnh, không hề
có phiền não khổ đau thì Ta
bà chính là cõi Tịnh độ vậy.
Lần thứ hai trưởng giả Duy Ma Cật sử dụng khả năng bất khả tư
nghì khiến ba mươi hai ngàn tòa sư tử to lớn lộng lẫy trang
nghiêm của thế giới Tu Di Tưởng vào trong tịnh thất của ông. Tuy
cảnh Tịnh độ xa xôi 42 ức hằng hà sa thế giới như thế mà có thể
đem về trong khoảnh khắc là thâm ý của kinh muốn nhắn nhủ chúng
sinh đừng mong cầu ở cõi Tịnh độ xa xôi vời vợi nào khác mà chỉ
cần giữ tâm mình được thanh tịnh thì cảnh Tịnh độ xa xôi kia sẽ
hiển hiện trong tâm thức của mình tức thì. Tuy trong vủ trụ bao
la có rất nhiều cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm khác, nhưng
Nhất Chân Pháp Giới khẳng định rằng thế giới thanh tịnh này cũng
chính là thế giới thanh tịnh kia, không sai không khác.
Lần thứ ba ông Duy Ma Cật vào chánh định, vận dụng thần thông
lấy tay mặt cắt thế giới Diệu Hỉ đem sáp nhập vào cõi Ta bà mà
không chật hẹp, không thêm không bớt. Tất cả vạn pháp trong
“Nhất Chân Pháp Giới” thì lúc nào cũng tương ứng, tương tức,
tương nhập, tương dung, lý vô ngại, sự vô ngại, lý sự vô ngại và
sự sự vô ngại nên Bản Thể của các pháp dung thông vô ngại và
vượt qua mọi hình tướng vật chất nên không có lớn nhỏ, rộng chật
mà chỉ có Tâm Thể hòa hợp làm một. Một lần nữa, ông Duy Ma Cật
muốn giới thiệu một cõi Tịnh độ ở ngoài thế giới Ta bà, nhưng
muốn đạt đến cảnh giới thanh tịnh này thì chúng sinh phải giữ
tâm mình cho được thanh tịnh bằng cách phá tan tâm phân biệt ích
kỷ hẹp hòi chấp trước mà quay về sống với Tâm Vô Động. Đó chính
là Chơn tâm, là Bản Thể, là cội nguồn phát sinh ra tất cả.
Kinh đã dùng ba phương tiện, ba hình ảnh khác nhau để chứng minh
cho chúng sinh thấu hiểu một mục đích, một Chân lý tối thượng
trên con đường Vô thượng Bồ-đề là: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ
tịnh”.
Chủ yếu của kinh là đề cao tư tưởng Đại thừa bằng cách phục hưng
tinh thần hoạt động của Phật giáo nguyên thủy. Kinh khuyến khích
phong trào tu học Phật cho cả hai giới xuất gia và tại gia và
mang lại một luồng sinh khí mới cho đạo Phật làm cho mọi người
có cơ hội thực hành Bồ-tát đạo để tìm sự giải thoát giác ngộ
ngay trong cuộc đời này. Đó chính là tự độ rồi độ tha và tự giác
rồi giác tha. Chính tư tưởng tự giác rồi giác tha sẽ đem con
người gần với nhau hơn vì một khi lòng từ bi phát triển trọn
vẹn, con người sẽ không còn ao ước giải thoát cho riêng mình vì
họ thấy mình và chúng sinh là một không hề khác nhau cho nên nếu
chúng sinh còn vướng mắc trong vòng đau khổ thì làm sao họ có
thể giải thoát cho riêng mình được.
Tôn chỉ của kinh là đề cao nguyên lý Bất Nhị hay vào Pháp Môn
Không Hai để gạn lọc tất cả những sự phân biết đối đãi trong tâm
thức mà chính là cội nguồn của phiền não khổ đau. Sống trong thế
giới tương đối, con người nhìn đâu, thấy đâu cũng có Hai,
nghĩa là còn thấy có cao có thấp, có tốt có xấu, có thiện có ác,
có giàu có nghèo, có mình có người, có xuất gia tại gia, có chùa
lớn chùa nhỏ, có Phật đứng Phật ngồi, có da trắng da đen… Ngược
lại nguyên lý Bất nhị cho rằng cái Hai ấy không phải là Hai vì
chúng là song lập, cùng tồn tại bất khả phân ly. Chân lý ở đây
không phải là không thấy có sự khác nhau về hình tướng của vạn
pháp mà là không chấp về sự khác biệt về hình tướng đó.
Kinh muốn dẫn dắt chúng sinh đừng nhìn cuộc đời bằng hai mặt đối
đãi vì đó chỉ là cái nhìn của nhục nhãn dựa theo hình tướng biến
đổi sinh diệt bên ngoài nên dễ bị sai lầm. Muốn có cái nhìn hoàn
hảo, chính xác thì con người phải dùng mắt trí tuệ để chiếu soi
mà nhận biết rằng tuy chúng sinh, vạn vật, ngay cả vủ trụ có
hình dáng khác nhau, tính nết khác nhau, nghiệp báo nặng nhẹ
khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một cái rất thiêng liêng,
cao cả mà ngôn ngữ không thể nào diễn tả được nên chính Đức Phật
tạm gọi nó là Chơn tâm trong kinh Lăng Nghiêm, là Tri Kiến Phật
trong kinh Pháp Hoa, là Phật Tánh trong kinh Đại Niết Bàn, là
Trí Huệ Phật trong kinh
Hoa Nghiêm,
là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm trong kinh Viên Giác.
Đây chính là tự tánh thanh tịnh bản nhiên tức là bản lai diện
mục có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh. Nếu có thể nói được,
diễn tả được thì Đức Phật chỉ gọi một tên là đủ chớ đâu cần phải
gọi bằng nhiều cái tên như thế. Tuy được gọi bằng nhiều tên khác
nhau mà không có cái tên nào là tên thật cả. Chỉ khi nào chúng
sinh tự mình thể chứng được sự thanh tịnh, tịch diệt của tâm
thức thì chính họ sẽ biết cái tên nào là tên thật.
Một điểm sáng chói của kinh là giúp chúng sinh phá cho được chấp
ngã, chấp pháp để có tâm thanh tịnh. Tuy Niết Bàn, Bồ-đề là an
vui tịch diệt, thanh tịnh giải thoát hoàn toàn, nhưng kinh
khuyên chúng sinh không để tâm trụ chấp vào đó. Bởi vì một khi
còn mong cầu cho dù đó là Niết Bàn thì đây cũng là ý niệm tham.
Nói một cách khác Vô vi thanh tịnh là cứu cánh tột đỉnh của
người còn đi trên con đường giải thoát giác ngộ, nhưng cho dù có
đạt được mục đích này cũng đừng khởi tâm “chấp trụ” và khởi ý
“đam mê”.
Bởi vì đam mê thì giải thoát trở thành ràng buộc và chấp trụ thì
tâm không còn thanh tịnh mà biến thành “sợ mất”. Nhưng càng lo
sợ thì mất mát sẽ đến nhanh hơn do đó cái lo bây giờ thành ra
cái khổ cho nên Niết bàn Bồ-đề bổng nhiên biến mất và dĩ nhiên
thanh tịnh biến thành phiền não khổ đau như lúc ban đầu. Vì thế
khi đã thấu biết Bồ-đề, Niết bàn chính là tự tánh thanh tịnh của
mình thì chúng sinh chỉ cần tự hóa giải tất cả phiền não vô minh
thì tự mình có được Bồ-đề Niết Bàn chớ đừng mong cầu trông đợi
nó ở bất cứ nơi nào hay do Phật hoặc Bồ-tát ban cho.
Sau cùng kinh Duy Ma Cật dẫn dắt chúng sinh có được sự giải
thoát ngay trong đời này và ngay trong thế giới Ta bà này mà
không cần trông chờ mong đợi đến kiếp sau hay ở bất cứ cõi Tịnh
độ nào. Tuy bề ngoài họ vẫn sống, sinh hoạt bình thường như muôn
ngàn chúng sinh khác, nhưng bên trong họ có một sự giải thoát kỳ
lạ, an lành, thoải mái, thanh tịnh tự trong tâm hồn. Đây chính
là sự giải thoát không thể nghĩ bàn vì chỉ có người đó tự mình
thấu hiểu và tận hưởng sự thanh tịnh, tịch diệt của sự giải
thoát Niết Bàn mà người kế bên không hề hay biết.
Có thể nói kinh Duy Ma Cật có tánh cách như là cuộc cách mạng
của cư sĩ bởi vì từ xưa đến nay chỉ có những người xuất gia mới
chứng đạt được Thánh quả, mà chưa ai nói đến người cư sĩ chẳng
những chứng đắc Thánh quả mà còn siêu xuất hơn hơn cả người xuất
gia nữa. Thật ra đây cũng là tinh thần bình đẳng của nhà Phật vì
giải thoát giác ngộ không chỉ dành riêng ưu đãi cho thành phần
xuất gia mà thôi. Khi chúng sinh không còn xét đoán việc đời qua
hình tướng sinh diệt bên ngoài, mà quay về sống với thật tướng
bất sinh bất diệt, với chơn tâm, với Phật tánh vĩnh hằng thường
có trong ta thì hình tướng đầu tròn áo vuông hay xuất gia tại
gia đâu có gì khác biệt. Vì thế kinh Duy Ma Cật đã khẳng định
rằng: “Quả vô thượng Bồ-đề không phải là cái hứa hẹn để cho mọi
người mỏi mòn mơ ước trông đợi. Mà trong tất cả chúng sinh ai ai
cũng có khả năng đạt đến bằng nghị lực và trí tuệ của chính
mình”.
Kinh Duy Ma Cật chưa phải là chân lý, nhưng kinh đưa chúng sinh
đến để tự mình thể nghiệm chân lý. Vì đây là bất khả tư nghì
kinh nên chúng sinh không cần luận bàn suông mà hãy tinh tấn tu
học, thực hành những lời dạy trong kinh để vượt qua văn tự ngôn
ngữ mà thâm nhập Bản Thể Chân Như ngỏ hầu thấy được thật tướng
của vạn pháp mà có được tâm thanh tịnh để biến cuộc đời phiền
não khổ đau thành cảnh giới an vui tự tại, thanh thoát an nhàn
như cõi Tịnh độ của chư Phật trong mười phương thế giới vậy.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Lê Sỹ Minh Tùng
Hồi Hướng:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô biên thệ nguyện học
Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành.
Thâm ý của Lục Tổ Huệ Năng thì:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ không có nghĩa Phật hay Bồ-tát
độ chúng sinh mà chính mình phải tự độ cho mình vì ai ai cũng có
sẳn cái tự tánh thanh tịnh bản nhiên tức là Phật tánh trong ta
do đó chúng sinh chỉ cần diệt hết vô minh phiền não để khôi phục
cái Phật tánh này thì chính mình đã tự độ cho mình rồi.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn nghĩa là trừ hư vọng từ tự tâm
mình.
Pháp môn vô biên thệ nguyện học nghĩa là học Vô thượng Chánh
Pháp.
Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành là luôn luôn hành động khiêm
tốn, cung kính đối với tất cả, xa lìa mê chấp, giác tri Bát nhã.
Khi trừ hết mê vọng rồi, tức là tự ngộ thành Phật đạo và thực
hành thệ nguyện lực.