Chương Thứ Ba
Phẩm Đệ Tử
(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)
Hàng
Thanh Văn
Tôn giả Tu Bồ Đề
(Subhoti): Trở Lại Vấn Đề
Khất Thực.
Trong số những đại đệ tử của Phật chỉ có
tôn giả Tu Bồ Đề được tôn xưng là đệ nhất giải “không”, có nghĩa
là trong hàng Thanh văn tôn giả là người duy nhất thấu hiểu lý
Không của Bát Nhã. Do sự thưa thỉnh của tôn giả mà Phật nói Kinh
Kim Cang ở tịnh xá Kỳ Viên. Vì lòng từ bi muốn cứu độ chúng sinh
nên tôn giả thỉnh Phật nói về ba nội dung. Đó là làm thế nào để
phát Bồ-đề tâm, làm thế nào để hàng phục vọng tâm và làm thế nào
để an trụ chơn tâm. Cũng trong kinh nầy Đức Phật gọi ông mà
giảng luận ý nghĩa thâm sâu huyền diệu của lý Không tức là của
đại trí tuệ Ma Ha Bát Nhã mà rất ít người có thể hiểu nổi.
Đức Phật gọi tôn giả Tu Bồ Đề mà bảo
rằng:
- Hiện giờ trưởng giả Duy Ma Cật đang bị bệnh. Tu Bồ Đề! Ông
hãy đi thăm bệnh ông ấy.
Tu Bồ Đề thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh ông
Duy Ma Cật. Bởi vì trước đây, có lần đi khất thực con ghé nơi
nhà Ông, lúc bấy giờ Ông lấy bình bát của con sớt đầy một bát
cơm và nói với con rằng:
- Thưa ngài Tu Bồ Đề! người khất thực ở nơi vật thực có tâm bình
đẳng, ở nơi các pháp có tâm bình đẳng. Ngược lại, ở nơi các pháp
có tâm bình đẳng, ở nơi vật thực cũng có tâm bình đẳng. Khất
thực được như thế, người khất thực mới xứng đáng nhận lấy vật
thực của người thí chủ cúng dường.
Khác với tôn giả Đại Ca Diếp là chỉ khất
thực nhà nghèo, tôn giả Tu Bồ Đề chỉ đến nhà giàu để khất thực.
Tôn giả nghĩ rằng nhà giàu dù có bố thí chút ít thức ăn cũng
chẳng hao tốn bao nhiêu còn đối với người nghèo tuy họ lòng có
dư mà sức không đủ. Về sau Đức Phật biết được nên quở trách hai
vị là cả hai không áp dụng đúng tinh thần bình đẳng của Phật
giáo vì tâm còn chấp tướng, còn phân biệt giàu nghèo mà phải
thực hành pháp khất thực một cách đứng đắng là không chọn lựa
giàu nghèo, không chê dơ sạch và oai nghi nghiêm túc thứ tự mà
hành khất ngỏ hầu hóa độ chúng sinh. Vì thế bỏ nhà giàu tìm nhà
nghèo là sai mà bỏ nhà nghèo để tìm nhà giàu lại càng không đúng
vì còn thiên vị bên nầy bên kia tức là chưa đạt được tâm bình
đẳng của Bồ-tát và của chư Phật. Bỏ phân biệt là đi vào con
đường Trung đạo, là noi theo dấu chân của Phật mà tiến về giải
thoát giác ngộ.
Pháp hiểu theo nghĩa thông thường là kinh
sách và các pháp môn để tu hành. Kinh sách và những pháp môn tu
hành là những phương tiện cần thiết để giúp chúng sinh đạt được
cứu cánh thì chúng là bình đẳng. Tại sao? Phật pháp thì không
cao không thấp, không cạn không sâu nhưng vì căn cơ của chúng
sinh có sai khác nên mới có nhiều pháp môn nhưng tất cả cũng
nhằm vào một cứu cánh duy nhất là giải thoát giác ngộ. Cũng như
chúng sinh có nhiều thứ bệnh thì Phật cho nhiều thứ thuốc khác
nhau nhưng tựu trung là làm cho chúng sinh được khỏe mạnh. Thuốc
tuy có nhiều loại nhưng cùng hướng về một mục đích nên chúng
bình đẳng. Kinh điển, pháp tu tuy có nhiều nhưng tất cả chỉ là
những phương tiện để đưa con người đến chỗ giác ngộ thì pháp là
bình đẳng. Còn nếu nới rộng thì pháp là tất cả mọi vật, mọi sự
trên thế gian và siêu thế gian cho nên chúng cũng đều bình đẳng
vì tất cả phải bị chi phối bởi luật vô thường và lý vô ngã.
Không có một vật gì trên thế gian mà tự nó có thể sinh tồn nếu
không có sự trợ giúp của những nhân duyên khác vì thế tất cả vật
thể là vô ngã. Vì là vô ngã nên tất cả sự vật phải chịu sự thoái
hóa của luật vô thường. Đó là hễ có sinh tất có diệt. Nói một
cách khác tất cả các pháp đều là huyễn hóa, không có tự tánh, là
vô ngã tức là Không. Nói về Tướng thì có muôn sai vạn biệt nhưng
Thể Tánh thì chỉ có một cho nên chúng là bình đẳng. Thức ăn thì
cũng thế: nào là chua, cay, mặn, ngọt; nào là chiên, xào, luộc,
nướng. Mỗi quốc gia có hàng trăm món ăn khác nhau nhưng tựu
trung tất cả thức ăn cùng quy về một Thể là bồi dưỡng, nuôi sống
xác thân mà thôi. Do đó vật thực là bình đẳng. Vì là phàm nhân
nên con người có sự phân biệt. Chẳng hạn như khi có món ăn đưa
tới con người không những chỉ ăn cái miệng mà năm căn còn lại
cũng ăn cho nên sự phân biệt chạy tới chạy lui và vọng thức cũng
vì thế mà sinh khởi dữ dội. Thí dụ như có người bưng đến một đỉa
rau xào. Mắt nhìn để phân biệt đỉa rau là xào hay luộc, có hấp
dẫn hay không tức là mắt ăn trước. Rồi đến mũi ngửi hương vị có
thơm ngon không. Sau đó tay mới gắp để đưa vào miệng mà tay là
hành động của thân. Miệng bắt đầu nhai và tai nghe âm thanh khác
nhau để phân biệt cứng hay mềm. Trong khi nhai thì lưỡi cho biết
là món ăn ngon hay dở và sau cùng tất cả những sự phân biệt của
năm căn được chuyển về thức. Nếu là món ngon thì thức sẽ phát
sinh ý niệm tham muốn ăn nữa. Còn món ăn dở thì thức sẽ phát
sinh ý niệm chán ghét, đánh đổ nó đi. Vì còn sự phân biệt, chạy
theo tham cầu dục vọng, tâm chất đầy vọng tưởng nên con người
không an và còn đau khổ. Ngược lại, người tu hành đi khất thực
ai cúng dường gì thì nhận lấy, khi đầy bát thì trộn lẫn thức ăn
với nhau thành một món duy nhất để không còn phân biệt mùi vị,
không còn phân biệt món nào của ai cho rồi mới ăn. Đó là tinh
thần bình đẳng vô phân biệt.
Vì tôn giả Tu Bồ Đề là người thông hiểu lý
Không cho nên trưởng giả Duy Ma Cật muốn đem tất cả vạn pháp
trong vũ trụ mà so sánh với những thức ăn trong bình bát của tôn
giả để chứng minh rằng tất cả đều là huyễn hóa, là giả, là không
thật vì chúng không có tự tánh, là vô ngã tức là Không. Tuy bề
ngoài hình tướng có sai biệt nhưng tất cả đều cùng một Pháp tánh
bình đẳng, không sai không khác. Trưởng giả Duy Ma Cật muốn chỉ
cho ông Tu Bồ Đề thấy sự huyền diệu về chữ Không. Đối với hàng
Thanh văn thì Không có nghĩa là cái không đối với cái có trong
thế giới hữu hình nầy. Còn đối với Bồ-tát thì Không có nghĩa là
giả huyễn, không thật Có. Không tức là Thể Tánh Chân Không Diệu
Hữu, là cội nguồn để sinh ra tất cả nhân sinh vũ trụ, là “Bất
Biến mà Tùy Duyên” có nghĩa là từ cái Bản Thể Chân Như mà sinh
ra muôn sinh vạn vật.
Ông Duy Ma Cật lại nói tiếp:
Thưa ngài Tu Bồ Đề! Không cần đoạn trừ dâm nộ si, mà cũng không
tùy thuận với dâm nộ si. Không cần hủy hoại thân nầy mà vẫn tùy
thuận tướng nhất (Nhất chân pháp giới), không cần diệt si
ái mà cũng có giải thoát. Ngay nơi tướng ngũ nghịch mà được giải
thoát. Không mở cũng không cột, không học hạnh Tứ diệu đế, không
phải không học hạnh Tứ diệu đế. Không quả đắc, không phải không
đắc quả. Không phải phàm phu, không phải xa rời pháp phàm phu.
Không phải Thánh nhân, không phải không Thánh nhân. Dù thành tựu
tất cả pháp mà rời ngoài cái tướng của tất cả pháp.
Được vậy, mới nên nhận lấy vật thực của người cúng dường.
Vì ông Tu Bồ Đề là A La Hán nên còn chấp có
bên nầy bên kia. Muốn thiện thì phải diệt ác, muốn đạt Thánh quả
thì phải tu theo Tứ diệu đế… Cái Không đối với ông là cái Không
tương đối của thế gian pháp tức là cái không đối với cái có. Bây
giờ ông Duy Ma Cật mới mở rộng tầm mắt cho ông ta thấy cái Không
tuyệt đối, không cùng không tận, là cội nguồn của tất cả. Vì tất
cả đều là huyễn hóa nên tất cả các pháp đều không thật Có. Nếu
áp dụng nguyên lý nhất như (Nhất chân pháp giới) thì trong phiền
não tức là Tham-Sân-Si mà vẫn có Bồ-đề, trong tướng ngũ nghịch
mà vẫn được giải thoát. Khi không còn thấy có bên nầy bên kia
tức là không còn có biên giới của nhị nguyên vì tất cả vốn không
hai tức là bất nhị thì con người sẽ tìm giải thoát trong
Tham-Sân-Si, loại phiền não để thấy được Bồ-đề. Một khi con
người đã được tâm thanh tịnh thì Tham-Sân-Si, tướng ngũ nghịch,
không mở, không cột… đều là giả huyễn, là không thật thì có gì
phải sợ. Mà nếu không sợ thì cần gì phải trừ bỏ cho phiền lòng.
Chẳng những không sợ mà con người có thể chuyển chúng thành
thiện, chuyển phiền não thành Bồ-đề thì đây chính là con đường
lợi tha của Bồ-tát vậy.
Ngày xưa ngài Đạo Tín lúc ấy mới mười bốn
tuổi tìm tới gặp Tổ Tăng Xán mà thưa rằng:
- Bạch Hòa thượng! Xin Hòa thượng dạy cho con pháp môn giải
thoát.
Tổ Tăng Xán bảo:
- Ai trói buộc ngươi?
- Không ai trói buộc con cả.
Tổ bảo:
- Không trói buộc thì cầu giải thoát để làm gì.
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn cũng có câu: “Khi
mê thì thầy độ, khi ngộ thì tự độ”. Do đó khi mê thì thấy mình
còn bị trói buộc, lúc thức tỉnh thì thấy tự tại giải thoát, đâu
có ai buộc mà phải cởi trói.
Một khi con người có sự sáng suốt triệt để
từ nội tâm thì họ sẽ không thấy có pháp Tứ diệu đế để tu và cũng
không có qủa vị để chứng đắc vì Tứ diệu đế hay quả vị cũng chỉ
là giả danh, không có chi là thật cả. Vì thế mà Tâm Kinh mới có
câu: Thị cố không trung, vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo” là vậy. Con
người thường hay lầm lẫn là cần pháp Tứ diệu đế làm phương tiện
để đạt đến cứu cánh giải thoát giác ngộ tức là chứng quả vị
Phật. Nhưng thật chất con người vốn đã giải thoát giác ngộ nhưng
chỉ vì mê vọng điên đảo mà lầm tưởng là trầm luân. Trong tất cả
chúng sinh vốn đã có Phật tính tức là Bản Thể Chân Như không
tăng không giảm, không dơ không sạch mà chúng ta quên mất nó đi
để cả cuộc đời đi tìm cái đã có sẳn. Cho nên một lần nữa Tâm
Kinh mới nói: “Dĩ vô sở đắc cố” tức là không có gì là chứng đắc
cả. Chỉ cần sống với tự tánh thanh tịnh thì Phật tính sẽ hiện ra
cũng như lau hết bụi thì gương chiếu sáng vậy thôi vì tánh sáng
cũng như Phật tính đã có từ lâu. Đó chính là bản lai diện mục
của tất cả chúng ta.
Ông Duy Ma Cật khuyên tôn giả Tu Bồ Đề quay
về sống với nguyên lý Bất nhị tức là không còn phân biệt có bên
nầy bên kia mà phá chấp pháp để vào Pháp Tánh bình đẳng thì mới
nên nhận lấy vật thực cúng dường của thí chủ.
Còn nữa, thưa ngài Tu Bồ Đề! Không cần
tìm gặp Phật. Không cần nghe pháp Phật. Bọn lục sư ngoại đạo:
Phú Lan Na Ca Diếp, Mạc Già Lê Câu Xa Lê Tử, Xan Xà Gia Tỳ La
Chi Tử, A Kỳ Đa Xý Xá Khâm Bà La, Ca La Câu Đà Ca Chiên Diên, Ni
Kiền Đà Nhã Đề Tử… Bọn đó phải là thầy của ngài. Thưa ngài Tu Bồ
Đề! Ngài hãy y chỉ vào họ mà xuất gia. Họ đọa địa ngục Ngài cũng
đọa theo. Được như vậy mới xứng đáng thọ nhận vật thực của thí
chủ cúng dường.
Gặp Phật qua 32 tướng tốt hay gặp Phật qua
giọng thuyết pháp thì chưa phải là thấy được Như Lai. Vì Phật là
một Ứng Thân trong thế giới Ta bà và là thân sinh tử. Còn Pháp
Thân chính là Như Lai Viên giác Diệu Tâm mới thật là gặp được
Phật và mới nghe được pháp Phật.
Đoạn trên ông Duy Ma Cật khuyên ông Tu Bồ
Đề nên lìa hai bên, đứng chấp có bên nầy bên kia mà hãy quay về
với nguyên lý nhất như để thấy được Bản Thể Chân Như trong khi
đoạn nầy thì khuyên ông Tu Bồ Đề theo tà bỏ chánh. Tệ hại hơn
nữa là gọi bọn lục sư ngoại đạo là thầy. Tại sao có sự mâu thuẩn
như thế? Đối với người xuất gia thì phải quy y Tam Bảo chớ ai
lại theo bọn ngoại đạo và đi theo họ vào địa ngục? Vì sự mâu
thuẩn nầy mà tôn giả Tu Bồ Đề không sao hiểu được, tâm trí mờ
mịt mà để bình bát lại và muốn đi ra khỏi nhà.
Thật ra bọn lục sư ngoại đạo mà ông Duy Ma
Cật muốn ám chỉ ở trên chính sáu căn bởi vì con người lúc nào
cũng để sáu căn chạy theo sáu trần mà trần thì ở ngoài nên gọi
là ngoại trần hay ngoại đạo. Mà xuất gia là tháo gở đừng cho
dính mắc tức là kiểm soát sáu căn đừng cho dính mắc với sáu
trần. Một khi sáu căn không còn dính mắc thì cái chấp về dính
mắc cũng không còn nữa thì tâm sẽ thanh tịnh.
Còn nữa, thưa ngài Tu Bồ Đề! Cứ xông pha
trong các thứ tà kiến, không cần tránh né để đến Niết Bàn. Phải
ở ngay trong bát nạn, không được không nạn. Nhập cuộc với phiền
não, xa lìa pháp thanh tịnh đi. Ngài được Tam muội Vô tránh tam
muội, tất cả chúng sinh cũng được Tam muội đó. Người thí chủ của
ngài không được gọi là gieo giống phước điền, kẻ cúng dường ngài
đọa trong ba đường ác. Họ là một cánh tay của bọn ma khấy rối.
Ngài cùng các bọn ma và các trần lao không hơn kém. Đối với tất
cả chúng sinh phải có tâm oán. Chê báng Phật, hủy mạ pháp, không
làm Tăng và không cần Niết Bàn. Nếu ngài được như thế thì mới
xứng đáng nhận lấy vật thực cúng dường.
Bạch Thế Tôn! ngài Tu Bồ Đề thưa: Khi
nghe những điều đó tâm trí con mờ mịt, không còn biết phải nói
lời gì và không biết phải đối đáp ra sao. Con bèn để bình bát
xuống và muốn mau được đi khỏi nhà ông Duy Ma Cật. Như đoán được
ý con, ông Duy Ma Cật nói tiếp:
- Thưa ngài Tu Bồ Đề! Ngài cứ nhận lấy
bát cơm đi, đừng sợ. Ngài nghĩ thế nào? Giả như Đức Như Lai hóa
hiện ra một người, đem những điều như thế đàm luận với ngài thì
ngài có sợ chăng?
- Không sợ. Bạch Thế Tôn! Con đáp như thế.
Đoạn trên đã khó nghe mà đoạn nầy lại càng
lạ lùng, khó hiểu. Ông Duy Ma Cật nói sao mà ngược ngạo quá vậy?
Nhập cuộc với phiền não mà xa lìa thanh tịnh? Còn kẻ thí chủ bị
đọa trong ba đường ác, rồi mình với ma giống hệt không khác. Tại
sao lại phải chê Phật, hủy pháp, không làm Tăng và chả cần Niết
bàn? Bây giờ hãy nghiệm đoạn kinh sau đây thì sẽ thấy được thâm
ý của ông Duy Ma Cật.
Ông Duy Ma Cật lại nói tiếp:
- Tất cả pháp như huyễn, như hóa, ngài không nên có ý sợ sệt.
Tất cả ngôn thuyết cũng là huyễn hóa. Bậc trí giả không dính mắc
văn tự cho nên không có gì, vì tánh của văn tự vốn Không. Hiểu
được rằng: “Văn tự vốn không có tánh” thì người đó được giải
thoát. Vì cái tướng giải thoát chính là tướng các pháp vậy.
Tôn giả Tu Bồ Đề là đệ nhất giải không nên
ông Duy Ma Cật một lần nữa đem Lý Không mà thử lòng đó thôi. Dựa
theo Lý Không thì trên đời nầy không có cái gì là thật cả vì
chúng không có tự tánh tức là vô ngã. Vì tất cả các pháp đều là
huyễn hóa thì lời nói cũng là huyễn hóa, không thật. Lời nói,
văn tự là pháp hữu lậu và tương đối do duyên khởi tạo thành nên
chính nó không có thật thể và dĩ nhiên không thể nào diễn tả
được chân lý Tuyệt đối vô lậu. Vì hàng Thanh văn còn có chấp,
ngay cả văn tự nên ông Duy Ma Cật khuyên nếu muốn đạt được trí
tuệ Bát Nhã của Bồ Tát thì ngay cả văn tự cũng bỏ luôn, không
nên chấp. Bởi vậy Kinh Kim Cang cũng có câu: “Phàm sở hữu tướng
giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng Phi Tướng tức kiến Như
Lai” có nghĩa là tất cả mọi vật mà có hình tướng đều là giả
huyễn, còn nếu thấy được cái Tướng Không của mọi sự vật thì mới
thấy được Chân Lý. Nói một cách khác cái gì mà có thể diễn tả
được, viết được, nói được thì cái đó không phải là Chân lý. Ngày
xưa chư Tổ cũng dạy rằng: “Chân Lý là Tuyệt đối không thể dùng
lời nói mà diễn tả được. Nếu còn dùng lời nói thì Chân Lý bị che
khuất, bị chôn vùi”.
Tất cả kinh điển mà chúng ta có được ngày
nay là do các vị đại A La Hán tụng thuật lại và được chuyển sang
Phạn âm, rồi Hán tự và sau cùng dịch sang tiếng Việt. Đoạn kinh
trên khai thị cho người tu Phật đừng quá chấp vào kinh điển vì
không có lời nói hay văn tự nào có thể diễn tả được Chân Lý cả
đó là chưa kể khi dịch kinh văn làm sao không có sự thêm bớt,
sai biệt. Vì thế trong Kinh Đại Niết Bàn, Đức Phật nói Tứ Y Pháp
mà trong đó y nghĩa bất y ngữ là như vậy. Cho nên kinh điển chỉ
là phương tiện, là ngón tay mà cứu cánh là Chân Lý, là sự sáng
suốt triệt để, là ánh sáng huyền diệu của mặt trăng.
Ông Duy Ma Cật đưa ra hai tư tưởng đối lập nhau để chỉ cho tôn
giả Tu Bồ Đề đừng quá chấp vào lời nói văn tự vì chúng là huyễn
hóa, không thật. Nếu là huyễn hóa thì nói ngược cũng được mà nói
xuôi cũng chẳng sai. Vì chấp nên ông Tu Bồ Đề thấy lời nói trên
là thật nên hoảng hốt, sợ sệt, muốn ôm bình bát mà chạy. Bây giờ
ông Duy Ma Cật mới an ủi rằng nảy giờ là tôi nói đùa đấy vì lời
nói không có giá trị chi cả vậy ông hãy lấy cơm mà ăn đi.
Tất cả các pháp trên thế gian nầy đều là
huyễn hóa ngay cả lời nói văn tự. Nếu ngày nào con người còn
chấp vào ngôn ngữ văn tự là thật thì ngày đó còn phải đối diện
với phiền não khổ đau. Thói thường thì con người thích lời nói
khen, nói tốt và bất mãn, buồn phiền khi bị chỉ trích. Nếu chúng
ta chấp lời nói kia là thật thì lúc nào cũng ghi nhớ, gìn giữ
những lời nói đó vào lòng. Thuận duyên thì hạnh phúc tức là sống
trong mộng tưởng, điên đảo, còn nghịch duyên thì buồn phiền, bực
bội. Trưởng giả Duy Ma Cật muốn nhắn nhủ rằng người tu Phật cần
phải có trí tuệ để biết rằng tất cả ngôn ngữ, lời nói là không
thật thì đừng quan tâm, lưu nhớ vì chúng phát xuất từ bên ngoài
tức là ngoại trần mà cần phải giữ tâm thanh tịnh tức là sáu căn
không dính mắc nơi sáu trần. Mình thì không nói xấu người mà nếu
có ai dèm pha, thị phi thì luôn giữ chánh niệm và đừng cho tâm
vọng động để tiêu trừ khẩu nghiệp. Một khi con người có tự chủ
tức là không chấp lời nói xấu, tiếng dèm pha hay tiếng khen thì
cuộc sống sẽ rất an vui tự tại.
Bạch Thế Tôn! Ông Tu Bồ Đề thưa. Sau khi trưởng giả Duy Ma
Cật nói thời pháp ấy rồi, có hai trăm vị Thiên tử được pháp nhãn
thanh tịnh. Do vậy, con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh
ông Duy Ma Cật.
Thiên tử ở đây không phải là những ông vua
ở thế gian mà là những vị trời trong các cõi Dục giới, Sắc giới
và Vô sắc giới. Đó là các cõi trời Đạo Lợi, Dạ Ma, Đầu Xuất, Hóa
Lạc, Tha Hóa… Khi chúng sinh thấy rằng dục lạc thế gian không
bền chắc, tạm bợ, đáng chán và là cội nguồn tạo ra nghiệp để
chịu quả khổ về sau nên họ bỏ ác mà tu theo mười điều thiện và
khi chết sẽ được thọ sanh lên cõi trời để hưỡng phước lạc. Tuy
thọ mạng ỡ cõi trời rất dài nhưng vẫn còn nằm trong lục độ luân
hồi do đó nếu hưởng quá nhiều phước lạc sinh mê sẽ dễ bị đọa vào
tam ác đạo.
Các vị trời bình sanh được ăn ngon mặc đẹp, sống trong cung vàng
điện ngọc với đàn ca múa hát. Họ hưởng quá nhiều dục lạc nên bị
mê đến khi nghe được lời dạy của ông Duy Ma Cật thì mới biết tất
cả các pháp như thức ăn, áo quần, nhà cửa, đền đài, cung điện
ngay cả âm thanh, lời nói đều là huyễn, không thật có. Nhờ thấu
hiểu chân lý nầy mà các vị trời bừng tỉnh đôi mắt như người vừa
ra khỏi giấc chiêm bao nên mới gọi là Pháp nhãn thanh tịnh.
Khi nói về hạnh bố thí thì có người lý luận rằng nếu có người
làm ăn lương thiện đang sống trong cảnh bần hàn, mỗi ngày phải
chạy cơm nuôi gia đình còn không đủ thì tiền của đâu dư mà bố
thí để tạo phước đức cho đời sau? Đó là chưa kể khi gặp cảnh
túng quẩn, vợ bệnh con đau sanh ra trộm cướp thì đời sau càng
thê thảm.
Ngược lại có những người hiện tại rất giàu có, tiền rừng bạc
biển, cuộc đời hạnh phúc ấm no thì đối với họ bố thí chút ít
tiền của cũng chẳng ăn nhằm gì. Có thể họ dùng tiền của bất
lương mà bố thí cho nên dựa theo thuyết nhân quả chẳng những đời
nầy họ giàu sang phú quý mà đời sau họ càng hạnh phúc ấm no. Thế
thì hạnh bố thí của nhà Phật có bất công và độc ác như họ nghĩ
không?
Chữ bố thí trong nhà Phật không có nghĩa là đem tiền của ra phân
phát cho kẻ khác để tạo phước. Đây chỉ là nhìn về hình tướng bên
ngoài mà nói. Thật ra bố thí không nhất thiết phải là phân phát
tiền của mà còn phải pháp thí và vô úy thí. Đứng về Bản Thể mà
nói thì bố thí là để thanh lọc nội tâm của mình, làm giảm bớt
tính tham, tật đố. Tham-sân-si, mạn, nghi có bớt thì tâm thanh
tịnh mới hiện bày. Có dám bố thí chia xẻ bớt cho người thì tâm
mới bớt tham. Bố thí mà còn mong cầu đền đáp thì tâm tham không
giảm. Tham-sân-si chưa dứt thì làm sao đạt được tâm thanh tịnh.
Nếu kẻ giàu có bằng hành động bất chính thì chính họ đã tự tạo
cho mình bao nhiêu nhân bất thiện, cho dù họ có đem bao nhiêu
tiền của để bố thí cũng không cách nào xóa đi những nhân bất
thiện được. Vì thế kiếp sau làm sao họ có thể trở thành giàu
sang phú quý, an vui hạnh phúc được? Còn đối với những người
nghèo khổ, không đòi hỏi họ phải bố thí nhiều tiền của mà chỉ
cần họ bố thí với tấm lòng vị tha vô ngã thì cho dù họ chỉ bố
thí một đồng nhưng kết quả vẫn cao quý hơn những người giàu có
bất thiện.
Nhắc lại ngày xưa trong thời Đức Phật còn tại thế, có một bà già
đi ăn xin rất nghèo khổ. Tuy muốn cúng dường cho Phật ngặt nổi
trong túi không có một xu. Ngày đó mà đi xin được vài đồng, bà
nhịn ăn để mua một chút ít dầu đốt đèn và hân hoan đem cúng
dường cho Phật. Sau một đêm tất cả những ngọn đèn khác đều tắt
chỉ còn ngọn đèn của bà vẫn cháy sáng làm cho mọi người ngạc
nhiên thì Phật mới dạy rằng bố thí phát xuất từ tấm lòng chân
thành thì sẽ được vô lượng phước đức. Vì thế cho dù đời nầy mình
có gặp nhiều nghịch duyên, cuộc sống không được vừa ý thì đó là
chất liệu để tu tâm sửa tánh thì ngày sau chắc chắn sẽ tươi đẹp
hơn nhiều. Con người không thể oán Trời trách Phật làm cho mình
nghèo khổ. Nghèo khổ là do tự mình tạo ra quá nhiều nhân bất
thiện trong đời quá khứ, nếu muốn kiếp sau được hạnh phúc an vui
thì kiếp nầy tránh ác làm thiện là được ngay.
Phật dạy rằng:
Chư ác mạc tác
Chứng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo
Nghĩa là;
Tất cả các nghiệp ác chớ có làm
Nên làm tất cả các việc lành
Cố gắng làm cho tâm ý được thanh tịnh
Đó là lời dạy của chư Phật
Nên nhớ nghèo không phải là cái tội mà tạo nghiệp bất thiện mới
đưa con người lún sâu vào biển trầm luân đau khổ. Nghèo chưa
chắc đã khổ mà giàu chưa hẳn đã hạnh phúc vui tươi cho nên cổ
nhân có câu: “Thanh bần an lạc, trọc phú đa ưu” là vậy. Như thế
thì hạnh bố thí đâu có bất công đối với ai đâu và dĩ nhiên đầy
từ bi chớ làm gì có độc ác.
|
|