Phần Giới
Thiệu
Kinh Duy Ma Cật là bộ kinh
thuộc hệ thống tư tưởng Đại thừa viên đốn tức là giáo lý mãn tự.
Viên là viên mãn và đốn là nhanh. Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai
thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là
ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minh và
phiền não thì sẽ thành Phật. Kinh Duy Ma Cật khẳng định
rằng:”Quả vô thượng Bồ-đề không phải là cái hứa hẹn để cho mọi
người mỏi mòn ước mơ trông đợi. Mà trong tất cả chúng sinh ai ai
cũng có khả năng đạt đến bằng nghị lực và trí tuệ của mình”.
Nguyên nhân tại sao kinh Duy Ma Cật được ra đời?
Lịch sử truyền bá chân lý của Đức Phật được diễn tiến qua ba
thời kỳ:
1) Thời Phật giáo nguyên thủy hay là thời kỳ Đức Phật còn tại
thế. Trong suốt 49 năm hoằng pháp, chính Đức Phật cùng chư tăng
đã đem ánh đạo vàng đến cho mọi người từ thôn quê đến thành thị,
từ Nam đến Bắc, từ Đông qua Tây không phân biệt nam nữ, giàu
nghèo. Ngài đã gieo giống từ bi và đem Pháp mầu giáo hóa chúng
sinh. Biết bao người đã được giải thoát giác ngộ vì đã thực hành
chân lý huyền diệu nầy. Chính Đức Phật và chư đệ tử đã hoạt động
rất tích cực, không ngừng nghĩ cho đến khi Ngài nhập diệt dưới
hai cây Sa-La song thọ. Ngài luôn chủ trương rằng đạo Phật phải
nhập thế vào đời để cứu vớt chúng sinh còn đang lặn hụp trong
vòng sinh tử triền miên. Lúc Đức Phật còn tại thế Ngài và chư đệ
tử thường tu tập và tĩnh dưỡng tại núi Linh Thứu (Kỳ Xà Quật)
(Grdhra-Kùta) vì khí hậu nơi đây luôn luôn mát mẻ, nhưng hàng
ngày Ngài vẫn xuống thành Vương Xá (Rajagrha) để khất thực và
thuyết pháp độ sanh cho Phật tử tại gia và khi lên đỉnh Thứu-sơn
thì thuyết pháp cho chúng xuất gia.
2) Thời các bộ phái tức là thời kỳ Tiểu thừa hay Nam Tông: Sau
khi Đức Phật nhập diệt và các đại đệ tử của Phật như Đại Ca
Diếp, Phú Lâu Na, A Nan…đều lần lượt qua đời, tinh thần nhập thế
cứu độ chúng sinh không còn tích cực thi hành như trước mà các
vị tăng sĩ Phật giáo bây giờ lại ẩn tránh tận rừng sâu núi thẳm
để tìm đường giải thoát cho riêng mình và chỉ đề cao công đức
xuất gia. Khoảng 100 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn, Phật
giáo được chia thành nhiều bộ phái và mỗi bộ phái giảng giải lời
Phật và giới điều theo ý của các vị trưởng lão cầm đầu bộ phái.
Tuy là nhiều nhưng phần lớn các bộ phái được chia làm hai nhóm:
*Nhóm bảo thủ: Đây là nhóm Tăng sĩ hợp ở thành Vaisaly với chủ
trương rằng: “không nên sửa đổi những điều luật của Phật truyền
dạy, mặc dù Đức Thế Tôn đã có di huấn là nếu chư Tăng đồng ý
cùng nhau nếu thấy điều luật nào của Như Lai đã chế định là ít
quan trọng thì được phép sửa chửa”. Đây là chủ trương bảo thủ
dựa theo quan niệm của tôn giả Đại Ca Diếp khi ngài còn sống và
nhóm nầy được gọi là Thượng tọa bộ.
*Nhóm cấp tiến: nhóm nầy chủ trương sửa đổi mười điều luật của
Phật sau khi nhóm hợp ở thành Vajji cho hợp với hoàn cảnh xã hội
thời bấy giờ. Đây là nhóm Đại chúng bộ rất đông đảo gồm Tăng ni
và Phật tử tại gia, mở đầu cho sự canh tân của Phật giáo. Cải
cách và bảo thủ luôn luôn là hai thái cực đối chọi nhau tạo
thành những xung đột không thể tránh được trong tăng đoàn.
Mặc dù có sự mâu thuẩn lớn giữa hai nhóm bảo thủ và cấp tiến
nhưng chí hướng tu hành của các vị Tăng sĩ Phật giáo trong thời
kỳ nầy vẫn là tự lợi, tự giác và xa lánh cuộc đời tội lỗi xấu xa
để mưu cầu giải thoát cho riêng mình mà cứu cánh tột đỉnh là
chứng đạt quả vị A La hán. Vì đã ra khỏi tam giới tức là không
còn vướng bận sinh tử luân hồi nên họ luôn hưởng sự an lạc của
Niết Bàn mà quên mất biết bao chúng sinh còn đang trôi nổi trong
biển trầm luân. Còn chủ yếu hành đạo của người Phật tử tại gia
chỉ là bố thí, cầu phước mà thôi. Phật tử tại gia được khuyên
chỉ nên làm lành tránh dữ và đem tài sản, sở hữu của mình cung
cấp cúng dường cho chúng xuất gia. Bố thí cho kẻ khốn cùng cho
người nghèo khổ sẽ được phước báo sinh lên cõi Trời, nhưng Phật
tử tại gia không có cơ hội tu học thấu triệt những chân lý cao
siêu huyền diệu để được thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi.
3) Thời phát triển của Đại Thừa hay là Phật giáo Bắc Tông.
Khoảng 500 năm sau ngày Đức Phật nhập diệt tức là vào thế kỷ thứ
nhất trước Tây lịch, phong trào vận động Đại thừa bắt đầu xuất
hiện. Đây là thời kỳ đánh dấu một khúc quanh mới cho lịch sử
canh tân Phật giáo. Mặc dù tư tưởng Đại thừa là tư tưởng mới,
nhưng nó không hề tách rời tư tưởng đạo Phật nguyên thủy, mà chỉ
triển khai cho phù hợp với tinh thần và bản ý của Đức Phật. Cũng
nên nhấn mạnh rằng sau mấy trăm năm tranh giành ảnh hưởng, các
bộ phái Tiểu thừa đã đưa Phật giáo đi quá xa tinh thần đạo Phật
nguyên thủy. Tệ hại hơn nửa, các bộ phái đã chấp chặt vào kinh
điển làm cho đạo Phật bị cứng ngắt. Vì thế đạo Phật theo họ lui
dần vào tận chốn sơn lâm cùng cốc, xa lánh xã hội con người làm
cho sinh khí Phật giáo không còn hoạt động tích cực như thời Đức
Phật còn tại thế.
Thêm nữa, đạo Phật nguyên thủy chủ trương rằng chỉ có người xuất
gia đã từ bỏ gia đình thế tục, không vợ không con, không tài sản
mới có thể tích cực tu tập thiền định để chứng đạt Niết Bàn. Còn
Phật tử tại gia vì vướng bận thê nhi, tài sản và dục lạc khó mà
tu tập và dĩ nhiên nếu không thể đi sâu vào thiền định thì vĩnh
viễn không chứng đạt được chân lý. Vì thế vai trò của cư sĩ tại
gia chỉ là hộ pháp mà thôi. Do đó pháp môn cao nhất của hàng
Phật tử tại gia là tu tập Bát quan trai giới mà thôi.
Chủ trương như vậy không có gì sai, nhưng đây không phải là bản
ý của Đức Phật vì tôn chỉ của Phật giáo là tự độ, độ tha và tự
giác, giác tha như chính Đức Phật đã nhiều lần khẳng định người
tại gia nếu đoạn trừ các lậu để tâm được hoàn toàn thanh tịnh
thì vẫn được giải thoát. Tuy nhiên, các bộ phái Tiểu thừa đã
đóng chặt cánh cửa cơ hội giải thoát của Phật tử tại gia và đạo
Phật chỉ dành riêng cho thiểu số Tăng sĩ mà thôi. Đây là con
đường đưa đạo Phật vào chỗ bế tắc vì mục đích và cứu cánh của
đạo Phật là cứu độ tất cả chúng sinh thoát khổ.
Trong Đại thừa, vai trò của Bồ tát và Bồ tát đạo dựa trên nền
tảng của Bát nhã. Thí dụ bố thí theo quan niệm Tiểu thừa chỉ có
mục đích tạo phước sinh thiên. Nhưng dựa trên tư tưởng Bát nhã
thì bố thí bây giờ không chỉ là sự ban phát của cải vật chất mà
là phương tiện dẫn đến tự tánh thanh tịnh bản nhiên. Sự bố thí
ấy không nhằm mục đích sinh thiên nữa mà nhằm thẳng đến cứu cánh
thành Phật. Bố thí theo tư tưởng Đại thừa không chỉ nhắm vào của
cải vật chất mà bao hàm cả ba phương diện: Tài thí, Pháp thí và
Vô úy thí. Muốn thực hành viên mãn tài thí, Bồ-tát phải giàu có.
Muốn thực hành Pháp thí viên dung, Bồ-tát phải có kiến thức và
sau cùng muốn thành tựu pháp môn vô úy thí, Bồ-tát cần có nghị
lực và dũng cảm. Do đó, ba đức tính Bi-Trí-Dũng là phương châm
hành đạo của Bồ-tát.
Đại thừa là cỗ xe của Bồ-tát vì thế tư tưởng đại thừa thì phải
thương và gánh vác tất cả chúng sinh. Chủ yếu của tư tưởng đại
thừa là phục hưng tinh thần hoạt động của Phật giáo Nguyên thủy.
Đó là đề cao và khuyến khích phong trào học Phật và tu Phật cho
cả hai giới xuất gia và tại gia. Tư tưởng cấp tiến nầy đã mang
một luồng sinh khí mới cho đạo Phật làm cho mọi người có cơ hội
thực hành Bồ-tát đạo và đem Phật pháp vào thế gian để tìm sự
giải thoát giác ngộ ở ngay trong cuộc đời nầy. Cứu cánh tối hậu
bây giờ của người xuất gia và Phật tử tại gia là tự độ rồi độ
tha và tự giác rồi giác tha. Chính lý tưởng tự giác rồi giác tha
sẽ đem con người gần với nhau bởi vì tất cả chúng sinh đều có
liên hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời được. Đó là tất
cả là Một và đây chính là chân lý Nhất như hay Nhất Chân Pháp
Giới vì chính Đức Phật đã khẳng định rằng trong tất cả mọi chúng
sinh đều có Phật tính như nhau, tức là có khả năng thành Phật.
Chân lý của đạo Phật là sống trong thế gian mà không hề rời nhân
thế vì thế nếu đem đạo Phật vào thế gian, người tu hành vẫn có
thể tìm thấy giải thoát giác ngộ mà không cần lìa nhân thế. Đó
là tại sao mà Bồ-tát thấy chúng sinh đau khổ nên các Ngài tự
nguyện vào đời để tìm cách cứu độ mà không hưởng cảnh an vui
tịch diệt Niết Bàn cho riêng mình.
Ngược lại với tư tưởng của các bộ phái Tiểu thừa là chỉ mong tự
lợi, tự giác nên họ không dám vào đời vì sợ ô nhiễm làm động tâm
nên họ chỉ rút tận vào rừng sâu tu tập để mong chứng đạt Niết
Bàn trong khi tư tưởng kinh Duy Ma Cật chủ trương nhập thế, tích
cực vào đời hoạt động mà không hề bị ô nhiễm. Vì thế Đức Phật
mới dạy rằng: “Này các Tỳ kheo!
Người biết sống một mình không phải là người xa lánh đám đông mà
là người biết giữ được chánh niệm, biết sống với giây phút hiện
tại giữa đám đông, nhận biết mọi sự vật chúng quanh một cách rõ
ràng, sâu sắc mà không bị những sự vật đó chi phối. Người biết
sống một mình là người biết an trú trong từng hơi thở hiện tại,
không quay tìm quá khứ, không đuổi bắt tương lai. Người như thế,
dù sống giữa đám đông vẫn là người sống một mình với bản tâm
thanh tịnh”. Cốt tủy của kinh Duy Ma Cật là khẳng định
cho người Phật tử xuất gia hay tại gia là ở đâu tu cũng được. Ở
chùa, ở nhà, ở chợ, hay ở trong công sở thì nơi nào cũng là đạo
tràng thanh tịnh cả. Vì thế kinh nầy xác định rằng: “Tùy kỳ tâm
tịnh, tắc Phật độ tịnh” có nghĩa là khi tâm của chúng sinh đã
tịnh thì có cõi Phật thanh tịnh. Do đó trong phẩm Phật quốc,
kinh Duy Ma Cật đã giới thiệu một khi tâm thanh tịnh thì chắc
chắn có quốc độ tịnh. Tịnh độ là một trong những chủ đề cốt lõi
của kinh và quan niệm về Tịnh độ nầy trong kinh Duy Ma Cật cũng
là quan điểm chung của các kinh điển Đại thừa như Bát Nhã, Hoa
Nghiêm…Trong kinh Hoa Nghiêm có câu: “Ưng quán pháp giới tính,
nhất thiết duy tâm tạo” có nghĩa là mức độ thanh tịnh của tâm
đến đâu thì thế giới được biểu hiện thanh tịnh tới đó. Vì thế
người Phật tử không kể già trẻ, trai gái, giàu nghèo…ai ai cũng
có thể tu để được giải thoát. Đây chính là con đường Bồ-tát rộng
thênh thang giúp con người phát huy được lòng vị tha vô ngã để
tiến về Phật quả mà Phật tử tại gia là những người còn nhiều
dính mắc thế tục lại được tán thán nhiều hơn.
Nhưng cũng cần phân biệt Tịnh độ tha lực và Tịnh độ Bồ-tát. Tịnh
độ tha lực nhằm mục đích giải thoát khỏi thế giới Ta-bà được coi
là nhơ bẩn tội lỗi nầy để sinh về một thế giới thanh tịnh hơn
được hiểu là Tây phương Cực lạc của Phật A Di Đà. Tịnh độ Bồ-tát
là thế giới lý tưởng mà chính Bồ-tát tự xây dựng. Trước hết
Bồ-tát sinh ra trong một thế giới xấu xa, thoái hóa. Nhưng bằng
ý chí sắc đá và hành động tích cực và không ngừng nghĩ, các Ngài
đã biến đổi thế giới ô trược nầy thành cõi Tịnh độ. Bởi vì tự
trong bản chất tất cả các pháp vốn thanh tịnh.
Kinh Duy Ma Cật chủ trương chuyển
Tâm chứ không chuyển Cảnh bởi vì khi tâm hoàn toàn thanh tịnh
thì cả thế giới chung quanh sẽ thanh tịnh theo. Nội dung tư
tưởng kinh Duy Ma Cật lấy tư tưởng Bát Nhã, tức là tư tưởng tánh
Không, làm nền tảng và mang sắc thái của nguyên lý Nhất như, tức
là tất cả là một và một là tất cả bởi vì các pháp vốn thanh
tịnh, không sanh không diệt, bình đẳng bất nhị.
Kinh Duy Ma Cật là kinh bất tư nghì mang tư tưởng bất tư nghì
giải thoát bởi vì tất cả những gì được biểu hiện trên cõi đời
nầy đều là biểu hiện của Thể tánh thanh tịnh cho nên chúng là
mầu nhiệm không thể nghĩ bàn, tức là bất khả tư nghì. Đây chính
là biểu hiện của hiện tượng duyên khởi dựa trên nền tảng Tánh
Không. Vì thế kinh nầy còn có tên là Bất tư nghì giải thoát
kinh.
Vậy kinh Duy Ma Cật xuất hiện vào thời kỳ nào?
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, Đức Phật đã thuyết pháp ròng
rã 49 năm và được chia làm 5 thời kỳ:
1) Thời Phật nói kinh Hoa Nghiêm: Sau khi thành đạo, Ngài nói
trong thiền định bộ kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày về giáo lý tối
thượng Đại thừa để dẫn dắt các vị Bồ-tát lên địa vị Đẳng giác và
Diệu giác. Các hàng Thanh Văn, Duyên Giác và sơ cơ không thể
hiểu được.
2) Thời Phật nói kinh A Hàm: Đức Phật đã thuyết giảng 12 năm cho
hàng Tiểu thừa cũng còn gọi là Nguyên Thủy hay Nam Tông về triết
lý căn bản của Phật giáo.
3) Thời Phật nói kinh Phương Đẳng: Đây là giai đoạn chuyển tiếp
từ Tiểu thừa sang Đại thừa và Đức Phật đã dùng 8 năm để giảng
dạy phương pháp tự giác ngộ cho chính bản thân ta đến giác tha,
tức là giúp chúng sinh cùng đến chỗ giác ngộ như mình. Kinh Duy
Ma Cật được ra đời vào thời kỳ nầy.
4) Thời Phật nói kinh Bát Nhã: Đức Phật đã thuyết giảng 22 năm
về tư tưởng của hệ Bát Nhã ngõ hầu giúp chúng sinh phá được chấp
ngã, chấp pháp để hiện lộ lý Không và sống với cái tự tánh thạnh
tịnh của mình.
5) Thời Phật nói kinh Pháp Hoa và Niết Bàn: Trong 8 năm còn lại
trước khi Đức Phật nhập diệt, Ngài đã nêu rõ nguyên nhân tại sao
Ngài thị hiện trên thế gian nầy: “Khai thị chúng sinh ngộ nhập
Phật tri kiến”. Sau cùng Đức Phật đã quy tam thừa về Nhất thừa
Phật giáo hay Phật thừa, đó là đừng chấp vào phương tiện mà cố
gắng đạt đến cứu cánh là giải thoát giác ngộ có nghĩa là đừng
chấp ngón tay là mặt trăng.
Như thế kinh Duy Ma Cật được xuất hiện vào thời Phật nói kinh
Phương Đẳng tức là bước chuyển tiếp giửa Tiểu thừa sang Đại thừa
với mục đích phá các chấp Pháp của Tướng tức là pháp hữu vi để
bước sang thời Bát Nhã tức là cái Thể, cái thật tướng bên trong
hay là thế giới vô vi thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật đã chứng minh
một cách hung hồn rằng tất cả những giáo pháp như Tứ Diệu Đế,
Thập Nhị Nhân duyên…mà hàng Thanh văn đã thực hành và chứng
nghiệm chỉ là những phương tiện tạm dùng trong buổi sơ cơ. Nay
đã đến lúc cần phải chuyển sang một hệ thống tư tưởng mới đó là
phải lìa Tướng nhập Tánh, lìa Tương đối chứng ngộ Tuyệt đối, bỏ
Ngả chấp và chấp Pháp mà tiến tu theo con đường Bồ-tát để có thể
quên mình mà cứu độ chúng sinh. Vì thế người tu sẽ không còn
kiến chấp hẹp hòi, thô thiển mà sẽ khai thông trí tuệ để được tự
giác và giác tha và sau cùng đạt tới giác hạnh viên mãn. Trí tuệ
Bát Nhã sẽ cho con người thấy rằng tất cả nhân sinh vũ trụ chẳng
qua là kết quả của những hiện tượng duyên khởi có nghĩa là từ
cái Không mà sinh ra tất cả và cũng từ tất cả trở về với bản thể
thanh tịnh ban đầu tức là Một là tất cả và tất cả chính là Một.
Nguyên lý bất nhị hay Pháp môn không Hai là tư tưởng nòng cốt
trong kinh Duy Ma Cật. Bất nhị tức là không Hai chứ không
phải một. Tại sao? Vì nếu nói Một cũng không đúng. Chúng ta nói
Một là chỉ tạm gọi thôi vì nếu nói Một là ám chỉ phải có cái
khác là hai, là ba, là bốn…Mới nghe chúng ta nghĩ đây là lối
chơi chữ nhưng thật ra đó là phương cách diễn đạt con đường
buông xả đầy diệu dụng. Vì thế mới gọi bất tư nghì là vậy.
Trong thế giới tương đối thì con người lúc nào cũng nhận thức
vạn pháp qua lăng kính nhị nguyên. Đó là nếu có trong phải có
ngoài, có thiện có ác, có tốt có xấu, có ta có người, có trên có
dưới…Đối với tư tưởng của thuyết nhị nguyên nếu không có hai tức
là không có đối tượng thì thế giới không tồn tại. Ngược lại
nguyên lý bất nhị trong kinh Duy Ma Cật cho rằng cái hai ấy
không phải là hai vì chúng là song lập, cùng tồn tại bất khả
phân ly. Nói một cách khác cái hai ấy tồn tại trong thể duyên
khởi. Do đó chúng ta không thể nhìn riêng bất cứ pháp nào mà
nhìn với cái nhìn toàn diện của một pháp. Bất nhị là đúc kết lý
thuyết chân không diệu hữu mà trong kinh Bát Nhã và Hoa Nghiêm
đã triển khai. Đó là:”Sắc và Không là hai nhưng Sắc chính là
Không và Không tức là Sắc, không phải Sắc diệt mới Không mà là
Sắc tánh tự Không…” Như thế thì tư tưởng Bất nhị mang sắc thái
nguyên lý Nhất Như. Đó là Một là tất cả và tất cả là Một.
Tuy nhiên kinh Duy Ma Cật không ngừng lại ở triết lý siêu việt
mà đưa tư tưởng Bất Nhị vào đời sống để chúng sinh có thể suy
nghiệm rằng: Nhãn và Sắc là hai nhưng nếu biết Nhãn đối với Sắc
mà không phát khởi Tham-Sân-Si thì đó là tịch diệt tức là Niết
bàn.
Một điểm sáng chói khác của kinh là thu gồm các đường lối tu tập
khác nhau, các phe phái khác nhau trong Phật giáo trở thành Nhất
thừa Phật giáo như trăm sông đổ vào một biển và hòa tan trong đó
bởi vì tất cả các pháp đều là Phật pháp.
Trưởng giả Duy Ma Cật là người bất tư nghì, Ngài thuyết bất tư
nghì pháp, biểu hiện bất tư nghì cảnh, tập họp bất tư nghì đại
chúng làm cho mọi người phát bất tư nghì tâm nhưng chung quy vẫn
là tán thán bất tư nghì công đức của Phật để hướng dẫn cho mọi
người đạt đến quả vô thượng Bồ-đề là thành Phật.
Nhân vật chính trong kinh nầy là một cư sĩ tại gia tên là
VIMALAKIRTI được dịch là Duy Ma La Cật Lị Đế, gọi tắt là Duy Ma
Cật. Duy Ma Cật là chữ Phạn và dịch sang tiếng Trung Hoa là Tịnh
Danh có nghĩa là Vô Cấu. Duy Ma La là Tịnh và Cật Lị Đế là Danh.
Nói về Tướng tức là về phương diện vật chất thì Tịnh là trong
sạch, không nhiễm bụi trần. Còn nói về Thể tức là về phương diện
tâm linh thì Tịnh là vắng lặng, an nhiên tự tại và tâm không
vọng động. Danh là phần tâm linh của chúng sinh. Trong thập nhị
Nhân Duyên thì Danh là chỉ cho phần tinh thần, là tâm còn Sắc là
cho phần vật chất. Vì thế Tịnh Danh có nghĩa là tâm thanh tịnh,
tâm trong sạch. Tại sao? Bởi vì cư sĩ Duy Ma Cật là một con
người, một ông Trưởng giả giàu có, thê thiếp đầy nhà, tiền bạc,
tôi tớ đầy đủ mà ông không hề dính mắc. Ông không mắc trong
danh, trong lợi, trong tài, trong sắc cho nên nói tâm ông trong
sạch, thanh tịnh là như vậy. Vô cấu là dịch ngược lại có nghĩa
là không nhơ, không nhớp. Ông Tịnh Danh hay cư sĩ Duy Ma Cật là
người đã lau sạch bụi trần, tâm hằng thanh tịnh và diệt hết
nhiễm ô. Thật ra khi dịch thì chữ Danh tức là Tâm ám chỉ Chân
tâm tức là tính thanh tịnh bản nhiên, bất cấu bất tịnh là đũ
không cần chữ Tịnh. Nhưng những vị cổ đức muốn cộng thêm chữ
Tịnh là có ý cho chúng sinh dễ dàng phân biệt Chân tâm với Vọng
tâm hay vọng thức nên mới thêm chữ Tịnh trước chữ Danh.
Vì muốn tạo cơ duyên để hoằng pháp lợi sanh, ông đã mượn cớ bị
bệnh để tạo cơ hội giảng giải giáo lý cho chúng sinh. Đức Phật
vì lòng từ bi mà lần lượt yêu cầu các đại đệ tử của mình từ hàng
Thanh Văn đến các đại Bồ-tát thay mặt Ngài đi vấn an ông Duy Ma
Cật. Tuy tất cả đều là hàng xuất gia chứng Thánh quả mà trong
quá khứ đã từng bị ông Duy Ma Cật chất vấn về tâm pháp và sở học
mà không một ai trả lời trôi chảy trước kiến thức Phật pháp uyên
thâm và biện tài vô ngại của ông. Đây là điều để nâng cao tinh
thần của vị cư sĩ tại gia bởi vì một khi cư sĩ tại gia tu hành
đã chứng đắc thì họ cũng có khả năng siêu việt mà hàng xuất gia
không thể vượt qua nổi. Và đó cũng chính là tinh thần bình đẳng
của nhà Phật vì giải thoát giác ngộ không chỉ dành riêng ưu đãi
cho thành phần xuất gia mà thôi. Có thể nói kinh Duy Ma Cật có
tánh cách như là một cuộc cách mạng của cư sĩ bởi vì từ xưa đến
nay chỉ có những người xuất gia mới chứng đạt được Thánh quả, mà
chưa ai nói đến người cư sĩ chẳng những chứng đắc Thánh quả mà
còn siêu xuất hơn cả người xuất gia nữa.
Đệ tử của Phật gia thì có hai hạng là xuất gia và tại gia.
1) Xuất gia: Dựa theo kinh Phật thì người Tăng sĩ
chỉ được gọi là người xuất gia nếu họ thật sự đã xuất ra được:
a) Phiền não chi gia: ra khỏi nhà phiền não, khổ đau.
b) Vô minh chi gia: ra khỏi nhà vô minh, tăm tối.
c) Tam giới chi gia: ra khỏi nhà ba cõi, đó là dục giới, sắc
giới và vô sắc giới.
d) Thế tục chi gia: ra khỏi nhà thế tục tức là rời bỏ gia đình,
vợ con, thân bằng quyến thuộc. Rời bỏ ngay cả những địa vị trong
xã hội để vào chùa, giữ giới trì trai, tiêu diệt phiền não, đập
phá vô minh, vượt qua tam giới để chứng đạt giải thoát giác ngộ.
Tuy xuất gia là cố thoát ra khỏi nhà tam giới, nhà phiền não,
tham, sân, si, mạn, nhưng mục đích tối hậu vẫn là chứng đạt quả
Bồ-đề và tâm thanh tịnh an lạc của vô thượng Niết bàn. Vì thế
xuất gia có thể được hiểu một cách rộng rãi như sau:
Ø
Thân xuất gia, tâm xuất gia tức là phải xuất gia theo Chánh pháp
và sống đúng với Chánh pháp.
Ø
Thân xuất gia, tâm không xuất gia tức là có hình tướng người
xuất gia mà sống không đúng với Chánh pháp.
Ø
Tâm xuất gia, thân không xuất gia: tuy vẫn còn gia đình, thế tục
tức làm thân cư sĩ mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì cũng xem như
xuất gia, thọ cụ túc giới và sống đúng Chánh pháp.
Ø
Tâm không xuất gia, thân cũng chẳng xuất gia thì trôi nổi trầm
luân trong lục đạo luân hồi, đời nầy qua thì đời khác đến không
tìm ra lối thoát.
2) Tại gia: Đệ tử tại gia thường được hiểu là những người còn ở
trong nhà thế tục. Họ có gia đình, vợ chồng, con cái và còn liên
hệ với cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc… Họ làm ăn buôn
bán, hòa nhập và xây dựng xã hội. Vì bận rộn việc đời nên phần
lớn những đệ tử tại gia không có cơ hội tu hành rốt ráo nên tâm
còn nhiều phiền não, trí tuệ khó phát sinh và rất khó mà xuất ra
khỏi nhà tam giới.
Trong đạo Phật danh từ Phật tử được phổ biến rất rộng rãi và
chúng ta thường tự nhận mình là Phật tử tức là con Phật, nhưng
chính mình có phải là một Phật tử thuận thành không? Kinh Phật
có câu: “Tòng Phật khẩu sinh, tòng Pháp hóa sinh, đắc Phật Pháp
phần, cố danh Phật tử” có nghĩa là theo miệng Phật mà sinh ra,
theo Chánh Pháp mà hóa ra, được vài phần Phật Pháp nên được gọi
là Phật tử tức là con Phật. Nếu chúng sinh nghe theo lời Phật
dạy, ngoài trì tam quy giữ ngũ giới còn phải tu tâm dưỡng tánh,
cải tà quy chánh, bỏ ác phục thiện, tu nhân tích đức, thân tâm
thanh tịnh để phát huy trí tuệ thì mới xứng danh là Phật tử. Nếu
chưa được hoàn toàn thì cũng được vài phần chớ đừng nghĩ mình
vào chùa quy y để có pháp danh và ở nhà cũng lập bàn thờ Phật
nhưng thân tâm không tu sửa, không học theo Chánh Pháp mà tin
theo tà pháp mê tín dị đoan như xin xăm bói quẻ cầu an cầu siêu,
Tham-Sân-Si không bớt, dâm sát đạo không chừa, hay nghĩ mình là
con cầu tự nên tự xưng là con Phật thì chỉ là Phật tử bề ngoài.
Nhưng đây chỉ là cái nhìn của phàm phu vì tâm chúng ta còn phân
biệt còn đối với Phật và chư Bồ-tát thì các Ngài không phân biệt
ai là Phật tử, ai là không Phật tử vì lòng từ bi các Ngài chỉ
thấy tất cả là chúng sinh đáng thương xót như nhau, tâm bình
đẳng vốn không hai tức là bất nhị.
Trong kinh nầy nhân vật chính là cư sĩ Duy Ma Cật. Danh từ cư sĩ
là dành để gọi một đệ tử Phật tu tại gia, có gia đình vợ con, có
địa vị và bổn phận trong nhân quần xã hội, nhưng giữ tròn ngũ
giới hoặc 58 Bồ-tát giới, tinh tấn tu hành các lời Phật dạy,
thực hành Bồ-tát đạo để quên mình mà làm lợi ích cho chúng sinh.
Tuy thân còn lẫn lộn trong chốn bụi trần nhưng tâm hoàn toàn
thanh tịnh không bị nhiễm ô. Vì thế cư sĩ là những vị đã thanh
tịnh tu hành tiến xa trên con đường đạo. Các ưu-bà-tắc, ưu-bà-di
tức là thiện nam, tín nữ là những người thân cận với Tam bảo để
phụng sự, cúng dường và tu học chỉ là Phật tử tại gia. Cư sĩ Duy
Ma Cật là trường hợp đặc biệt vì tuy là một cư sĩ tại gia nhưng
ông ta đã chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, thoát ra khỏi vòng sinh
tử luân hồi, trí tuệ vô song nhưng dùng phương tiện thị hiện
trong cõi Ta bà ô trược nầy làm ông trưởng giả để hoằng pháp cứu
độ chúng sinh. Vì thế ông chính là:
Thân tuy ở cõi Ta bà
Mà lòng đã gởi bên tòa hoa sen.
Kinh Duy Ma Cật là do Đức Thích Ca nói ở thành Tỳ Xá Ly, Phạn âm
là Veiseli, Hán dịch là Thành Quảng Nghiêm. Tôn giả A Nan được
nghe và thuật lại. Đây là bộ kinh Đại thừa do Đức Phật nói
cho hàng Bồ-tát và các đệ tử phát Bồ-đề tâm nghe để diễn tả rõ
ràng cảnh giới của các Bồ-tát chứng nhập. Đây là một
triết lý diễn tả một cái gì hết sức huyền diệu nhiệm mầu cao tột
mà không thể dùng trí thức phàm phu hiểu được. Muốn có vài ý
niệm về ý nghĩa huyền diệu nầy con người phải cố gắng bỏ qua
những hình tướng bề ngoài để thấy cái Thể bên trong tức là bỏ
Tướng để nhập Tánh, bỏ cái phân biệt của phàm phu để hòa nhập
vào đại trí tuệ Bát Nhã. Vì thế kinh nầy còn có tên là: “Bất Khả
Tư Nghì Giải Thoát Kinh” tức là sự giải thoát không thể nghĩ
bàn.
Trước hết thế nào là bất khả tư nghì?
Bất khả tư nghì là vượt ra ngoài những khái niệm suy tư phân
biệt của tất cả những sự hiểu biết thông thường của con người.
Nói một cách khác là sự kiện bất tư nghì cũng được hiểu là những
hiện tượng xưa nay chưa từng xảy ra mà nay có.
Khi chúng ta uống một tách trà vừa nóng vừa thơm ngon. Hương vị
của trà và độ nóng làm chúng ta thích thú. Cái biết của sự thích
thú nầy chỉ có ta biết cho dù chúng ta cố gắng giải thích cho
người ngồi kế bên là trà nóng và thơm ngon như thế nào thì người
kế bên cũng không tự mình biết được. Vậy cái biết nầy không thể
nghĩ bàn hay nói được thì gọi là bất khả tư nghì.
Ngày xưa khi con người chưa đặt chân lên mặt trăng thì mỗi lần
nói về mặt trăng các nhà văn thơ thường dùng những cảnh tượng
đẹp đẽ, hoa thơm cỏ lạ, núi cao rừng thẳm của địa cầu để diễn tả
và so sánh với mặt trăng. Nào là chú cuội, chị Hằng…nào là mặt
trăng cũng giống như địa cầu chỉ khác là nhỏ hơn địa cầu mà
thôi. Đây là mượn những đối tượng cụ thể để diễn tả một vật có
hình có tướng mà còn khó khăn đến mức nào mới hình dung ra được.
Bây giờ nếu mượn một vật có hình có tướng để diễn tả một cái gì
vô hình vô tướng, chân không diệu hữu thì chắc chắn sẽ khó khăn
muôn ngàn lần hơn.
Thêm nữa nếu thật sự muốn hiểu thấu suốt pháp môn bất nhị nầy
thì con người không thể nào dùng lời nói hay văn tự mà diễn đạt
được bởi vì bất cứ cái gì có thể nói hay viết được thì chỉ là
trong tính tương đối còn cái không nói, không viết được thì mới
là chân lý tuyệt đối. Bởi vì chân Không thì không hình, không
tướng, không kích thước, nặng nhẹ thì làm sao mà diễn tả bằng
ngôn ngữ hay văn tự của con người.
Thí dụ có một ông nhà giàu, công danh thành đạt, tiền dư bạc để,
vợ đẹp con xinh. Nhưng sau khi thâm nhập Phật pháp mới biết rằng
đây là những chướng ngại để đưa con người lún sâu vào vòng sinh
tử luân hồi nên ông ta quyết chí xả bỏ hết tất cả để vào chùa
quy y tu Phật. Khi vào chùa tinh tấn thanh tịnh tu hành và không
còn ước mơ những dục lạc của thế gian giúp ông ta được giải
thoát giác ngộ. Sự giác ngộ nầy thì có thể nói được tức là tư
nghì vì dám từ bỏ thì sẽ được giải thoát. Trong khi đó cư sĩ Duy
Ma Cật là một nhà trưởng giả giàu sang phú quý, vợ đẹp con xinh,
tiền rừng bạc biển mà nói giải thoát thì làm sao tin được? Bởi
vì thường tình nếu có vợ có con, có tiền có của, có tôi có tớ
thì còn dính liền với phiền não khổ đau. Nhưng ông Duy Ma Cật
tuy sống trong những cảnh dẫy đầy ô nhiễm đó mà tâm không hề
dính mắc, ông thực hành tất cả Phật sự mà không chướng ngại thì
cái giải thoát nầy làm sao có thể nghĩ bàn cho được. Vì thế mới
gọi bất khả tư nghì giải thoát là vậy. Duy Ma Cật là người bất
tư nghì. Ông thuyết bất tư nghì pháp cho bất tư nghì đại chúng
để khởi động bất tư nghì tâm. Ông dùng trí tuệ và thần thông vi
diệu qua sự trình diễn bất khả tư nghì cảnh để xiển dương Phật
pháp và xưng tán Đại thừa.
Cũng như cả đời Đức Phật luôn thuyết pháp độ sanh mà sau cùng
Ngài nói: “Ta không nói một chữ” cũng bởi vì có bỏ qua văn tự,
lời nói thì mới thể nghiệm được Bản Thể Chân Như. Do đó mới có
câu: “tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri” có nghĩa là người đã
biết, đã tu chứng thì không chịu nói vì nói không được còn chúng
ta thì nói rất nhiều cũng bởi vì chưa thấy biết được chân lý.
Trong thế gian, chư Phật và chư Bồ-tát thường dùng mọi thân hình
thị hiện để cứu độ chúng sinh. Các Ngài sống chung đụng với thế
gian, có khi hiện thân làm quan, làm dân, làm kẻ giàu sang, cũng
có lúc làm kẻ tật nguyền… để giáo hóa và cứu độ chúng sinh mà
không bao giờ tiết lộ tung tích của mình. Đôi khi các Bồ-tát thị
hiện làm người tham ăn, tham sắc, lười biếng, tội lỗi bị đời
khinh rẻ, ruồng bỏ rồi sau đó hối hận sửa đổi và trở thành người
tốt để giáo hóa, làm gương cho chúng sinh thấy biết rằng những
người xấu như vậy mà nếu chuyên tâm tu sửa thì ai cũng có thể tu
sửa được. Có khi Bồ-tát thị hiện làm ăn buôn bán kiếm lời nhưng
không tham đắm, lời không vui, lỗ không buồn, chỉ làm trợ duyên
cho người khác có phương tiện tu hành. Các Ngài tự nguyện vào
đời bằng cách dùng một thân bình thường như mọi chúng sinh khác
để khuyến khích chúng sinh tinh tấn tu hành chứ không hiện thần
thông bay trên trời hay chiếu hào quang rực rỡ. Khi rời bỏ xác
phàm, có lúc các Ngài để lại một bài kệ thì mọi người mới biết
đó là Phật hay Bồ-tát giáng trần thị hiện để cứu độ chúng sinh.
Dựa theo kinh điển, chúng ta đã biết Đức Phật Thích Ca và các
đại đệ tử của Ngài như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, A
Nan, Đại Ca Diếp… là những nhân vật lịch sử có thật. Họ là những
người bằng xương bằng thịt, sống ở Ấn độ cách đây trên 2500 năm.
Họ sinh ra ở đâu, con cái của ai, vì nhân duyên gì mà quy y theo
Phật đã được kinh điển ghi chép rõ ràng và khi nhập diệt có để
lại những di vật hay Xá lợi được cất giữ cho đến ngày nay. Còn
Đức Phật A Di Đà, Đức Phật Dược Sư, chư Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền, Địa Tạng… không phải là những
nhân vật lịch sử bằng xương bằng thịt. Sở dĩ chúng ta biết được
các Ngài là do Đức Phật Thích Ca nói cho biết.
Kinh Duy Ma Cật thuộc loại “quyền giáo” có nghĩa là Đức Phật
dùng những thí dụ để diễn tả Chân lý cao siêu huyền diệu mà
không thể nào diễn đạt được bằng những danh từ, ngôn ngữ của con
người. Thí dụ như Đức Phật, muốn khuyên con người hiếu thảo với
cha mẹ, nên Ngài mới kể câu chuyện:
- Có một đời, ta hành hạnh Bồ-tát, làm con chim Anh Võ.
Khi đó mẹ ta bịnh nằm trong ổ, ta phải đi tha mồi về nuôi mẹ,
rồi có người đánh lưới bắt được ta, ta cất tiếng van xin họ…
Mới nghe, chúng ta đâm ra nghi ngờ rằng sao Phật nói nghe hoang
đường mê tín quá! Nếu tin câu chuyện là thật thì chúng ta bị mắc
kẹt vì cho “Quyền” là “Thật”. Chủ yếu của Đức phật là muốn dạy
con người phải hiếu thảo với cha mẹ nên Ngài mới đưa ra một câu
chuyện để dạy chúng sinh. Đó là dùng quyền nói lên cái thật.
Chúng ta phải biết đoạn kinh nào thuộc về quyền và đừng chấp nơi
quyền mà tìm ra lẽ thật. Đó mới là người biết nghe kinh và biết
học kinh. Vì thế khi Phật Thích Ca nói có Đức Phật A Di Đà ở cõi
Tây phương Cực Lạc thì chúng ta tin Phật nói không sai. Nhưng
dựa theo kinh điển đại thừa thì có lúc Phật nói thật, có lúc
Phật nói quyền. Vậy đừng lấy quyền làm thật, đừng chấp mặt trăng
là địa cầu mà cần suy tư quán chiếu tìm ra sự thật qua các thí
dụ thì chân lý mới hiện bày.
Vì là bất khả tư nghì nên có nhiều giả thuyết về thân phận của
ông Duy Ma Cật. Vậy cư sĩ Duy Ma Cật có phải là một nhân vật
lịch sử không?
Có hai lý luận về thân phận của ông Duy Ma Cật:
1) Cư sĩ Duy Ma Cật là người có thật: Ông là một trưởng giả ở
thành Tỳ Xá Ly bên Ấn độ, có gia đình vợ con và sống cùng thời
với Đức Phật Thích Ca. Chính Đức Phật đã chứng minh cư sĩ Duy Ma
Cật là một đại Bồ-tát, tu hành chứng đắc, được vô sanh pháp
nhẫn, biện tài vô ngại, du hí thần thông, được chư Phật khen
ngợi và Trời người kính trọng. Vì muốn độ người nên ông dùng
phương tiện khéo thị hiện làm thân trưởng giả để độ chúng sinh.
Đức Phật dạy rằng: “Có cõi nước tên là Diệu Hỷ, Phật hiệu Vô
Động, ông Duy Ma Cật này ở nước đó chết rồi sinh nơi đây…” Để
xác định chuyện nầy Ngài Tam Tạng Trần Huyền Trang khi sang Ần
Độ vào năm 629 Tây lịch đã đến Tây Bắc cung thành Tỳ Xá Ly cách
năm sáu dặm có một già lam, cạnh già lam có một ngôi tháp. Đó là
chỗ xưa Đức Phật nói kinh Duy Ma Cật. Đông Bắc cách đó ba bốn
dặm cũng còn một ngôi tháp. Đó là nhà cũ của cư sĩ Duy Ma Cật.
Tuy là trải qua gần ngàn năm mà ngôi nhà đó hãy còn nhiều sự
linh dị. Cách ngôi nhà không xa có một phòng chất đá chung quanh
và đó là chỗ ông Duy Ma Cật hiện bịnh thuyết pháp. Bên cạnh đó
có nhà của cư sĩ Bảo Tích và nhà cũ của Yêm ma la nữ. Thêm nữa
ngài Thái Hư có ghi rằng: Đời Đường có Vương Huyền Sách từng đến
Ấn độ thì bấy giờ nhà của ông Duy Ma Cật vẫn còn. Trong kinh ông
nghe nói nhà này nhỏ nhưng có thể chứa được 900 vạn người và
32,000 tòa sư tử cao lớn. Vì tính hiếu kỳ nên khi đến nơi ông
lấy thước để đo chu vi nhà thì bốn phía đều chỉ được mười thước.
Do vậy mà ông tán thán thần lực của ông Duy Ma Cật. Khi ngài
Huyền Trang đến thấy cái nhà nhỏ, bụng nghi kinh nói không thật,
muốn viết lên vách nhà để tỏ ý mình. Nào ngờ khi sắp hạ bút thì
vách tường càng lúc càng xa, sờ cũng không thấu. Gần trọn ngày
mà không viết được chữ nào nên ngài gác bút tán thán rằng:”…di
tích mà còn thế, huống chi là thần lực ngày xưa”.
Thêm nữa, trong kinh Nguyệt thượng nữ có chép ngài Duy Ma Cật họ
Lôi, vợ là Kim Cơ, con trai là Thiện Tư, con gái là Nguyệt
Thượng. Như thế cư sĩ Duy Ma Cật là người có thật.
Những ghi chép trên đây chứng tỏ cư sĩ Duy Ma Cật không những là
một người thật và sống cùng thời với Đức Phật Thích Ca mà ông ta
còn là một vị đại Bồ-tát có thể gọi là Bồ-tát bất khả tư nghì.
Thật vậy, ông Duy Ma Cật chính là một vị đại Bồ-tát đã chứng
thánh quả, nhưng khéo hiện thân làm cư sĩ nhưng với tâm thanh
tịnh, không còn ô nhiễm chấp trước. Ông đã tận diệt Tham-Sân-Si
nên vào đời mà vẫn giữ tự tánh thanh tịnh, không tạo nghiệp và
nhập thế mà tâm thường trụ Niết bàn. Ông chứng minh rằng không
nhất thiết phải xuất gia mới đắc đạo mà một cư sĩ tại gia tu
hành chân chánh thì cũng được giác ngộ và giải thoát. Ông đề cao
vai trò của người Phật tử tại gia là tuy sống giữa chốn bụi trần
mà không hề bị ô nhiễm. Tuy ca tụng lối tu tại gia nhưng cư sĩ
Duy Ma Cật không hề chống đối xuất gia. Ông dạy chúng sinh là
đừng quan trọng hóa vấn đề tại gia hay xuất gia vì cả hai lối tu
đều hướng về một cứu cánh là giải thoát giác ngộ miễn là lúc nào
cũng giữ tâm thanh tịnh, trong ngoài như như bất động. Giữ giới
thì tâm định và trí tuệ sẽ phát sinh. Muốn tu Giới, Định, Tuệ
thì một khi vọng niệm khởi, phải biết nó là vọng, đừng cho tiếp
tục nổi lên thì vọng niệm sẽ dừng tức là ra khỏi nhà vô minh,
thì đây mới chính là chân xuất gia vậy. Muốn thực hiện được
những lý tưởng nầy thì ông phải là người bằng xương bằng thịt để
cho mọi người trông thấy, trò chuyện. Ông cũng thi thố oai lực
thần thông siêu việt khiến mọi người kính phục tin theo. Các đại
đệ tử của Phật như Đại Ca Diếp, Xá Lợi Phật, A Nan… cũng đã gặp
được ông. Ngay cả những vị Bồ tát như Di Lặc, Văn Thù… cũng đã
từng diện kiến ông. Đức Phật Thích Ca đã nói rõ như vậy thì tất
nhiên cư sĩ Duy Ma Cật là người có thật.
2) Cư sĩ Duy Ma Cật là một nhân vật huyền thoại: Đức Phật Thích
Ca đã sáng tạo ra nhân vật Duy Ma Cật để diễn tả chân lý cao
siêu tuyệt vời. Đó là nguyên lý Bất nhị và lý tưởng bất khả tư
nghì giải thoát. Chủ yếu của kinh vẫn là tâm thanh tịnh vì nếu
có tâm thanh tịnh thì thế giới sẽ được thanh tịnh và đây là con
đường đưa chúng sinh đến chỗ giải thoát giác ngộ. Phật nói kinh
Duy Ma Cật là muốn giới thiệu một phương cách tu hành viên mãn
để khai thị chúng sinh thấy con đường phá trừ chấp Có chấp
Không. Những nhân vật đã từng gặp ông Duy Ma Cật thì một phần là
nhân vật lịch sử như Đức Phật, các tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên, A Nan… cùng các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, đại chúng…và một
phần là những nhân vật ẩn mặt siêu hình như các Bồ-tát Di Lặc,
Văn Thù, Quán Thế Âm… chư Thiên Long Bát Bộ, Thiên Thần Hộ Pháp,
Địa Thần, Quỷ Thần… từ các cõi khác đến nghe Pháp thì cũng khó
mà kết luận ông Duy Ma Cật là người có thật.
Thêm nữa, cư sĩ Duy Ma Cật có thần thông biến hóa bất khả tư
nghì làm cho chư Phật khen ngợi và mọi người cung kính nghe theo
thì trong lịch sử loài người chưa có người nào được như vậy
ngoài Đức Phật Thích Ca.
Vấn đề cư sĩ Duy Ma Cật là người có thật hay chỉ là một nhân vật
thần thoại thì không quan trọng và tin hay không tin là tùy
khả năng am hiểu hay thấu triệt triết lý bất khả tư nghì của
chúng sinh. Nhưng chắc chắn điều quan trọng hơn là chúng ta phải
thấu biết, thâm nhập Lý kinh và biết đem nó ra áp dụng để lìa xa
chấp Có chấp Không và ngộ được Chân lý. Có ứng dụng nguyên lý
Bất nhị vào cuộc sống thì mới biết được sự diệu dụng siêu việt
của kinh. Vì đây là pháp môn giải thoát bất khả tư nghì nên
chúng ta không cần nghĩ bàn, tranh luận mà hảy tinh tấn tu hành,
cố gắng thực hành những lời dạy trong kinh để chuyển Tâm cho
được hoàn toàn thanh tịnh. Tâm có tịnh thì thế giới chung quanh
sẽ tịnh và khi đạt tới chỗ Bất Nhị thì chắc chắn chúng ta sẽ
biết cư sĩ Duy Ma Cật là người thật hay chỉ là một nhân vật thần
thoại.
Tóm lại người Phật tử muốn thấu hiểu huyền nghĩa của kinh Duy Ma
Cật thì phải vận dụng công phu trong việc “Tư Duy” tức là suy
nghĩ, quán chiếu sâu sắc thì mới thật thấy, thật biết và thật
chứng những đề tài vi diệu thậm thâm của kinh. Thiền của kinh
Duy Ma Cật là Đại thừa thiền. Thiền ở đây không phải là ngồi
kiết già mà thiền của Đại thừa chính là tư duy hay tĩnh lự tức
là suy nghĩ để tìm ra câu giải đáp cho một đối tượng của tâm
thức. Đó là thiền mà không cần trốn tránh trách nhiệm, không từ
chối bổn phận trong bất cứ việc làm nào có lợi ích cho chúng
sinh. Thêm nữa, tinh thần thiền của Duy Ma Cật đối với Tục đế là
người Phật tử không một việc gì lợi ích cho chúng sinh mà không
làm. Còn đối với Chân đế, cho dù đó là Niết bàn, hay quả vị Phật
thì cũng không cầu, không mong, không đợi. Đây chính là đúng với
tinh thần: “Bất Tận Hữu Vi, Bất Trụ Vô Vi” vậy. Tu học kinh Duy
Ma Cật là tu học pháp môn Bất tư nghì giải thoát cho nên người
tu sẽ được giải thoát ngay trong cuộc sống hiện tại, giải thoát
ngay trong thế giới Ta bà nầy mà kinh gọi là Cảnh Giới Bất Tư
Nghì Giải Thoát.
Riêng cho những người tu Tịnh Độ thì kinh Duy Ma Cật giúp họ
tăng thêm năng lực, ý chí và phương tiện thiện xảo để được vào
thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà. Tại sao? Đối với người tu
Tịnh độ thì chẳng những chú trọng đến tha lực (Phật lực A Di Đà)
mà công phu về tự lực cũng không kém quan trọng. Muốn nghiêm trì
sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý được viên mãn để cho ba
nghiệp: thân, khẩu, ý được thanh tịnh mà có được Nhất tâm tức là
phần tự lực thì người tu nên lìa Sự Tướng mà thấy được Bản Thể
thanh tịnh làm cho tham-sân-si tan biến và vọng niệm tiêu tan.
Kinh Duy Ma Cật sẽ là cổ xe chuyên chở người tu trên suốt lộ
trình tiến về mục đích ấy. Nếu đời nầy chúng sinh có được Niết
bàn, có tâm thanh tịnh thì chắc chắn chỉ cần một câu niệm Phật
sẽ đưa họ vào thế giới an vui cực lạc của Phật A Di Đà. Khi đã
bỏ được ngã chấp, pháp chấp, tâm phân biệt thì tâm Bồ-đề hiễn
hiện. Có tâm thanh tịnh tức là chúng sinh đang sống với chân tâm
của mình thì họ mới có thể thông cảm được với chân tâm của chư
Phật. Kinh Duy Ma Cật giúp chúng sinh giải thoát, sống an vui tự
tại trong đời nầy thì chắc chắc đời sau chúng sinh sẽ được giải
thoát. Quý Phật tử muốn nguyện về Tây phương Cực Lạc mà tâm chất
đầy vọng tưởng, tánh tham tật đố không chừa, lòng còn đầy chấp
trước, phân biệt thì làm sao có được Nhất tâm. Không đạt được
công phu Nhất tâm bất loạn tức là quý vị chưa sống được với chân
tâm, tâm thanh tịnh của mình thì làm sao thông cảm được với chân
tâm của Phật A Di Đà? Không thông cảm được với chân tâm của chư
Phật thì làm sao Phật cảm thông mà dẫn dắt chúng ta về cõi Cực
Lạc? Cũng như muốn gọi điện thoại cho ai thì chúng ta phải bấm
đúng số. Còn muốn Phật A Di Đà thông cảm thì chúng sinh và Phật
phải cùng tần số tức là cùng có chân tâm, Phật tánh như nhau. Mà
muốn bấm trúng số hay cùng tần số thì chúng sinh phải biết
nghiêm trì sáu căn và ba nghiệp cho được hoàn toàn thanh tịnh.
Đây là phần tự lực mà Tịnh độ gọi là Hạnh, rất quan trọng mà
phần lớn chúng ta bỏ quên đi. Nên nhớ nếu muốn Phật A Di Đà trả
lời điện thoại thì phải bấm trúng số tức là chúng sinh phải hoàn
thành phần tự lực của mình trước. Đó là có được tâm thanh tịnh
tức là chân tâm vậy. Khi có tâm thanh tịnh tức là bấm trúng số
thì bây giờ chúng sinh chỉ cần chí thành chí nguyện về cõi Tây
phương Cực Lạc thì Phật A Di Đà sẽ cấp chiếu khán ngay và khi
chết chắc chắn sẽ được vãng sanh.
Bộ kinh Duy Ma Cật từ Tây vực truyền sang Trung quốc trước sau
có sáu nhà dịch:
1) Đời nhà Hán (25-220 Tây lịch) có ngài Nghiêm Phật Điều dịch
với nhan đề là Cổ Duy Ma Kinh.
2) Đời nhà Ngô (220-280 Tây lịch) có cư sĩ Cung Minh Chi Khiêm
dịch với nhan đề là Duy Ma Cật Sở Thuyết Bất Tư Nghì Pháp Môn.
3) Đời Tây Tấn (265-317 Tây lịch) có ngài Trúc Pháp Hộ dịch lấy
tên là Duy Ma Cật Sở Thuyết Pháp Môn Kinh.
4) Ngài Trúc Pháp Lan dịch với nhan đề là Tỳ La Cật Kinh.
5) Đời Diêu Tần (344- 413 Tây lịch) có ngài Cưu Ma La Thập dịch
lấy tên là Duy Ma Cật Sở Thuyết Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát Pháp
Môn Kinh.
6) Đời Đường (603-678 Tây lịch) có ngài Huyền Trang dịch
với nhan đề là Phật Thuyết Vô Cấu Xưng Kinh.
Nội dung tư tưởng các bản dịch chung quy không khác nhau nhiều,
nhưng ý nhị uyên thâm thì có sâu có cạn. Nhưng bản dịch của ngài
Cưu Ma La Thập không những nổi tiếng về ý nghĩa mà còn sáng chói
về mặt văn chương do đó hầu hết các vị đại sư danh tiếng khi
phiên dịch từ Hán tự sang tiếng Việt đều chọn bản dịch của ngài.
|
|