Phẩm Chứng Nhập Pháp Môn Không
Hai nầy chính là trọng yếu của Kinh Duy Ma Cật và cũng là trung
tâm điểm của giáo lý Đại thừa nhằm dạy cho người đệ tử Phật biết
quay về sống với Căn Bản Trí nghĩa là trí Vô Phân Biệt vốn đã có
sẳn trong tất cả mọi chúng sinh mà đại trí Văn Thù Sự Lợi Bồ-tát
là đại biểu cho Căn Bản Trí nầy. Chính Pháp Môn Không Hai (Bất
Nhị) hướng dẫn tất cả Phật tử đừng nhìn trên những hiện tượng
của vạn pháp mà phải nhìn thấu triệt về Bản Thể, về chân lý của
vạn pháp. Vì thế lời nói đầu tiên của Đức Phật khi Ngài vừa
thành đạo dưới cội Bồ-đề và cũng là tinh yếu của Phật giáo là:
“Thật kỳ diệu thay trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có
Phật tánh như nhau…”. Phật tánh chính là tự tánh thanh tịnh bản
nhiên trong sáng do đó nếu chúng sinh sống với cái tự tánh thanh
tịnh nầy thì họ đang sống với Căn Bản Trí của họ nghĩa là họ
không còn tâm phân biệt đối đãi nhị nguyên. Khi chúng sinh chạy
theo vọng trần là họ tự hủy hoại cái tánh trong sáng, thanh
tịnh, hồn nhiên, thanh thoát của mình thì Căn Bản Trí biến mất
và thay bằng Hậu Đắc Trí tức là Phân Biệt Trí. Hậu đắc trí là
cái trí vốn không có sẳn trong ta mà do sự tác động của sáu căn,
sáu trần và sáu thức mà tạo thành nên mới gọi là hậu đắc tức là
có được sau và nó khác với căn bản trí là cái trí vô phân biệt
vốn đã sẳn có từ vô thỉ đến vô chung, lúc nào cũng thanh tịnh.
Khi tâm có sự phân biệt là con người có khổ vì phân biệt trí là
cái trí của phàm nhân luôn chạy theo tham dục, phiền não vô minh
nên khó mà nhận thức được chân lý. Vì chúng sinh nhận thức thấy
biết vạn pháp có Hai tức là có đối đãi cho nên Hai là nguyên
nhân gây ra bao nhiêu đau khổ tan thương cho con người. Do đó
muốn hết khổ và đánh tan những vọng thức mê lầm để trở về sống
lại với Vô Phân Biệt Trí tức là sống với tự tánh thanh tịnh
trong sáng của mình thì chúng sinh phải hồi đầu thị ngạn mà
Chứng Nhập Pháp Môn Không Hai.
Vậy thế nào là Không Hai?
Danh từ Không Hai (Bất Nhị) có nghĩa là không phải là hai. Chữ
Hai ở đây không phải là chữ “2” ở số lượng như 1, 2, 3, 4….và
cũng không phải chữ Hai ở số thứ tự như: thứ hai, thứ ba, thứ
tư…Vậy Hai phải chăng chỉ cho sự đối đãi nhị nguyên của những
luồng tư tưởng? Khi chúng sinh nhận thức, thấy biết có Hai tức
là có đối đãi thì con người sẽ sử dụng cái trí phân biệt của
mình để thấy có thương có ghét, có tốt có xấu, có cao có thấp,
có hơn có thua, có thiện có ác, có thân có sơ… Đây chính là
nguyên nhân làm phát sinh phiền não khổ đau cho tất cả mọi
người. Thí dụ vì thấy biết sự khác nhau giữa giàu và nghèo nên
con người chạy theo người giàu mà xa lánh kẻ nghèo. Thấy có tốt
xấu nên thích nhà to, xe đẹp và buồn chán khi không có nó. Thấy
có thân sơ nên chỉ giúp đở người thân mà lạnh lùng với người xa
lạ. Vì có tâm phân biệt nên chỉ thích ăn món ngon, vật lạ và
chán ghét những món tâm thường, không khoái khẩu. Nói một cách
khác là con người còn phân biệt là còn đau khổ, phân biệt ít thì
ít khổ đau mà phân biệt nhiều thì đau khổ triền miên mãi mãi.
Thí dụ như có người tánh tình khó khăn quá nghe ai nói câu
chuyện xa xa gần gần ở đâu đó mà nghĩ rằng như ai đang nói dèm
pha mình vậy. Càng nhạy bén phân biệt thì càng khổ cho mình
chẳng lợi ích gì. Tiếng thị phi, khen chê chính là sản phẩm của
“Hai” đó. Ngày nay
Phật giáo có nhiều pháp môn như Tịnh độ, Thiền, Mật, Giáo… nhưng
cứu cánh vẫn là nhận chứng được chân tâm, Phật tánh của chính
mình. Trong phẩm nầy có ba mươi mốt vị Bồ-tát trình bày ba mươi
mốt phương cách khác nhau, ba mươi mốt phương tiện khác nhau
nhưng tựu trung cũng quy về để chứng nhập Pháp Môn Không Hai mà
thôi. Vì thế cho dù chúng sinh hiện tại có tu theo bất cứ pháp
môn nào (Thiền, Tịnh, Mật, Giáo…) thì Pháp Môn Không Hai nầy sẽ
là ngọn đèn sáng để đưa chúng sinh thoát khỏi mê lầm, đánh tan
vô minh vọng thức mà có được tâm thanh tịnh. Đây là vũ khí sắc
bén nhất để giúp chúng sinh quay về sống với Căn Bản Trí hay Vô
Phân Biệt Trí, với tự tánh thanh tịnh bản nhiên sẳn có vĩnh hằng
trong tất cả mọi người. Chứng nhập Pháp Môn Không Hai thì thương
ghét không còn, tốt xấu tan biến, giàu nghèo là một, cao thấp
như nhau, sinh tử tức Niết bàn và phiền não là Bồ-đề. Từ đây con
người sẽ sống vô cùng an vui tự tại.
Phẩm nầy có thể được chia làm ba phần:
1) Ba mươi mốt vị Bồ-tát trình bày ba mươi mốt phương cách khác
nhau để cùng chứng nhập pháp môn không hai nghĩa là trăm sông
cùng đổ về biển lớn.
2) Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi trình bày theo ý ngài thế nào là chứng
nhập Pháp Môn Không Hai.
3) Sau cùng là tư tưởng nhập Pháp Môn Không Hai của ông Duy Ma
Cật.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật long trọng nói với các Bồ-tát rằng:
Thưa chư nhân giả! Tôi xin trân trọng đề nghị: chư vị Bồ-tát
trong hội nầy, mỗi người tự trình bày sự chứng đắc và thể nhập
PHÁP MÔN KHÔNG HAI của một Bồ-tát như thế nào?
Trước hết vị Bồ-tát hiệu là Pháp Tự Tại trình bày:
- Thưa chư nhân giả! SANH và DIỆT là hai. Vạn pháp xưa không
sanh, nay không diệt. Tỏ ngộ được pháp nhẫn vô sanh đó, tôi thể
nhập Pháp Môn Không Hai.
Vạn pháp từ vô thỉ đến vô chung không hề sanh diệt vì tất cả chỉ
là hiện tượng duyên khởi. Nếu bất biến tùy duyên thì vạn pháp từ
tự tánh thanh tịnh bất sanh bất diệt mà duyên khởi tạo thành con
người, cây cỏ, mặt trăng, mặt trời, động vật, thực vật, khoáng
vật hay nhân sinh vũ trụ. Rồi tùy duyên bất biến nghĩa là một
ngày nào đó khi duyên tan rã thì tất cả nhân sinh vũ trụ tan rã
quay về với tự tánh bất sanh bất diệt ban đầu nghĩa là đất về
lại với đất, nước về lại với nước… Vì thế không có cái gì thật
sanh hay cái gì thật diệt cả. Thí dụ như ra biển chúng ta thấy
nếu có gió lớn tạo thành những làn sóng nhấp nhô, chập chùng thì
gọi là sóng sanh. Nhưng thật ra đâu có làn sóng nào sanh hay
diệt đâu, chỉ vì khi duyên kết tức là có gió lớn thì có sóng và
khi duyên tan nghĩa là gió ngừng thì mất sóng mà trở về với Thể
nước phẳng lặng êm đềm ban đầu vậy thôi. Vì tỏ ngộ chân lý không
còn phân biệt có sanh có diệt nữa mà Bồ-tát Pháp Tự Tại được
pháp nhẫn vô sanh và chứng nhập Pháp Môn Không Hai. Cũng như
“Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh” nghĩa là mỗi chúng sinh là một
đóa sen, khi sen nở thì thấy được Phật tức là không còn sinh tử.
Bồ-tát Đức Thủ nói:
- NGÃ và NGÃ SỞ là hai. Vì có ngã cho nên có ngã sở. Tôi nhận
thức rằng: nếu không có ngã thì không có ngã sở. Do duyên cớ đó,
tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Ngã là ta và ngã sở là những cái gì thuộc về ta. Con người vì
còn chấp ngã nghĩa là thấy mình là thật có nên từ đó mới tạo tác
những sở hữu cho ta được sung sướng. Thí dụ như cái nhà của ta,
cái xe của ta, con cái của ta, cái chùa của ta… Vì thấy là của
mình, của ta nên con người phải lo bảo vệ, cưng chiều cái ta và
những sở hữu của ta, nhưng cuối cùng rồi cái ta cũng mất và
những sở hữu của ta cũng phải bỏ lại cho thế gian. Người nào cái
ngã càng cao thì càng khổ sở triền miên, bất tận vì họ có cống
cao ngã mạn, tự tôn tự đại, nhìn con người, trời đất thế gian
như cỏ rát nên thường bị cô đơn, chịu cảnh lạnh lùng và không
bao giờ an vui được. Càng chấp ngã và ngã sở nhiều thì con người
càng đau khổ vì không một ai thoát ra khỏi sinh, già, bệnh, chết
hay vô thường vô ngã được. Bây giờ nếu xả bỏ được tâm cố chấp vì
biết rằng ngã và ngã sở đều là Không, là giả huyễn, không thật
có thì tâm sẽ an vui tự tại. Bởi vì nếu là không thật thì lòng
không lo lắng, quyến luyến nhiều cho nên được không vui và mất
cũng không buồn. Theo Phật giáo thì muốn viên thành Phật đạo thì
phải diệt bản ngã nghĩa là cái ngã còn thì con đường đạt đến vô
thượng Bồ-đề vẫn còn xa. Nói một cách khác cái ngã càng thấp thì
sự an lạc, sự giải thoát càng cao đến khi cái ngã hoàn toàn tan
biến thì vô thượng Bồ-đề sẽ hiện bày. Đức Phật sau khi thành đạo
lúc nào cũng có trên ngàn đệ tử đi theo mà Ngài lúc nào cũng
vậy. Chính Ngài là một vị khất sĩ tức là người đi xin ăn, không
phải là Ngài không có đệ tử dâng cơm cúng nước nếu Ngài muốn,
nhưng Ngài tự luyện cho mình trở thành một người hoàn toàn xóa
đi bản ngã vì người ăn xin thì còn tự cao tự đại với ai? Cạo đầu
cũng là một hình thức phụ vào việc phá ngã vì người tu hành
không còn quan tâm đến hình tướng đẹp xấu của thế gian. Ngay cả
áo cà sa cũng vậy. Ngày xưa vào thời Đức Phật còn tại thế tại Ấn
độ thì màu vàng là màu mà người thế gian không tôn trọng, ưa
thích nên Thế Tôn mới chọn màu vàng làm áo cà sa. Chẳng những
thế mà Ngài còn chọn những mãnh vải rách, những tấm vải dơ dùng
để quấn tử thi mà khâu lại thành y để chống lạnh. Nói tóm lại
Đức Phật vì muốn phá hoàn toàn cái bản ngã nên đối với Ngài nhà
cửa cũng không, uy quyền cũng không, tiền bạc cũng không
vì thế Ngài mới có được vô thượng Niết bàn, vô thượng Bồ-đề.
Vì có ngã mới sinh ngã sở tức là có Hai nên Bồ-tát Đức Thủ mới
quán tu vô ngã để trở về với Căn Bản Trí của mình mà chứng nhập
Pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Bất Thuần nói:
- THỌ và BẤT THỌ là hai. Nếu đối với các pháp mà không thọ thì
không có cái được. Vì không có cái được cho nên không có lấy,
không có bỏ, không tạo tác, không hành vi. Do nhận thức như vậy,
mà tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Thọ là cảm nhận và bất thọ là không cảm nhận. Mà cảm nhận cái
gì? Được ai khen thì vui, bị chê thì buồn, đó là có thọ. Ngược
lại khen mà không vui, chê cũng chẳng buồn là bất thọ. Khởi niệm
thương, khởi niệm ghét là thọ. Còn không ghét không thương là
bất thọ. Con người thường thích nghe tiếng khen, tâng bốc và
không thích lời chỉ trích, chê bai. Nhưng nghĩ lại lời khen,
tiếng chê chỉ là đầu môi chót lưỡi hoặc có ý đồ gạt gẩm thì có
gì là thật đâu. Ăn mà còn chê ngon chê dở là còn thọ, trái lại
ăn để sống chớ không phải sống để ăn là bất thọ. Mình giữ giới
mà còn thấy có người phá giới luật là thọ. Miệng ăn chay mà tâm
vọng thịt cá nghĩa là món chay mà gọi tên mặn là thọ, ngược lại
ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ miệng nhai thịt mà tâm nhai đậu hủ là
bất thọ. Có tiền của nhiều thì vui và nghèo đói thì buồn phiền
là thọ, còn có nhiều thêm một chút cũng vậy mà lỡ có mất cũng
không buồn là bất thọ. Thấy cảnh trái ý nghịch lòng mà không
quan tâm đến là bất thọ, người khen kẻ chê cũng chẳng ăn nhằm gì
là bất thọ. Làm việc vì lợi ích cho chúng sinh chớ không phải
cho riêng mình là bất thọ.
Vì thế nếu không có cái thọ thì không ý nghĩ lấy bỏ, không có ý
nghĩ thương ghét, không có ý nghĩ khen chê cho nên Bồ-tát mới
chứng nhập Pháp Môn Không Hai nghĩa là quay về với Căn Bản
Trí vốn thanh tịnh hay trở về với Vô Phân Biệt Trí nên không có
vấn đề thọ hay không thọ. Không có thọ hay không thọ tức là
không Hai thì thương ghét cũng chẳng còn, khen chê biến mất,
không vui cũng chẳng buồn vì thế cuộc sống của con người sẽ vô
cùng an vui tự tại.
Bồ-tát Đức Đảnh nói:
- CẤU và TỊNH là hai. Thấy được thực tánh của cấu thì không có
tướng tịnh. Đồng thời tùy thuận với tướng diệt của vạn pháp. Do
tỏ ngộ chân lý đó, tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Cấu là chỉ cho những thứ phiền não, khách trần tác động hoành
hành làm cho con người đau khổ chớ không phải là dơ dáy, đất
bùn, bụi bặm. Nếu nhìn về Tướng thì thì có phiền não, có khổ đau
nhưng nếu nhìn sâu vào thực Tánh của vô minh phiền não là Phật
tánh. Mà Phật tánh là bất cấu, bất tịnh, bất sinh, bất diệt… Do
đó thật tánh của cấu, của vô minh phiền não là trong sáng, là
thanh tịnh nghĩa là tự nó không có cấu, không có vô minh phiền
não. Không có cấu thì cần gì phải có tịnh vì thế mới nói thực
tánh của cấu là Không nghĩa là trong thực tánh không có tướng
cấu và cũng không có tướng tịnh. Thí dụ nhìn lên trời thì thấy
trời xanh trong sáng, nhưng vì con mắt của ta bị nhặm nên thấy
có hoa đóm trên không. Do đó hoa đóm là không thật thì hoa đóm
đâu có ảnh hưởng gì đến trời xanh trong sáng đâu. Nói một cách
khác tịnh là vì có cấu, nay tánh của cấu vốn trong sáng, thanh
tịnh thì tịnh còn dùng vào đâu được mà nói cấu với tịnh. Không
cấu, không tịnh thì không còn đối đãi, không có nhị nguyên tức
là không Hai vậy.
Bồ-tát Thiện Tú nói:
- ĐỘNG TÂM và NIỆM TƯỞNG là hai. Nếu không động tâm thì
không có niệm tưởng. Không có niệm tưởng thì không có phân biệt.
Tôi thông suốt được chân lý ấy mà thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Khi ra phố thấy có người ăn xin bên lìa đường thật tội nghiệp.
Khi mắt thấy một hình ảnh, một cảnh tượng đáng thương hay ưu ái
làm cho tâm bị giao động thì gọi là động tâm. Sau khi về nhà
chúng ta nhớ lại hình ảnh của người ăn xin đáng thương kia thì
cái nhớ lại đó gọi là niệm tưởng. Vì thế niệm tưởng chỉ có khi
nào có động tâm nghĩa là nếu không thấy người ăn xin thì không
bao giờ có kỷ niệm để nhớ lại. Do đó khi niệm tưởng khởi dậy thì
tâm bắt đầu phân biệt thiện ác, tốt xấu, nghèo giàu… tức là có
Hai. Muốn thể nhập pháp môn không hai thì Bồ-tát Thiện Tú phải
bỏ tâm phân biệt, mà muốn không còn phân biệt thì đừng tưởng nhớ
và sau cùng muốn dứt hẳn cái tưởng nhớ thì đừng có động tâm. Tóm
lại nếu muốn quay về sống với Căn Bản Trí, Vô Phân Biệt Trí thì
đừng cho tâm mình bị giao động trước bất cứ hoàn cảnh nào. Tâm
như như bất động là tâm Bồ-tát, là tâm thanh tịnh và chính là
chơn tâm, Phật tánh vậy. Ngày xưa khi vua Lưu Ly xua quân tiêu
diệt cung thành Ca Tỳ La Vệ giết chết trên mấy trăm ngàn người
dòng họ Thích Ca, trước cảnh đau thương tan tóc mà Đức Phật vẫn
điềm nhiên vì Ngài nhìn cái nhân bất thiện của những người thân
thích trong khi chúng sinh thì cứ nhìn cái quả nên thấy cảnh tan
da nát thịt mà đau lòng, xót dạ.
Bồ-tát Thiện Nhãn nói:
- Tướng NHẤT và tướng VÔ là hai. Nếu biết rõ tướng nhất
tức là tướng vô. Bấy giờ thể nhập tánh bình đẳng. Do quá trình
nhận thức như vậy, tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Có cái một là do từ nơi không có cái gì hết nghĩa là ban đầu
không có cái gì cho nên cái đầu tiên thì gọi là cái một. Thí dụ
như trong một căn phòng trống không, nếu bây giờ chúng ta đặt
một bình hoa thì cái bình hoa nầy là cái một. Chúng ta gọi bình
hoa là cái một (tướng nhất) bởi vì trong phòng trước đây không
có bình hoa cho nên cái một là do cái không (tướng vô) mà có.
Tướng nhất tức là tướng vô nghĩa là chính cái nầy là do cái đối
đãi của cái không mà gọi cái nầy là có. Cho nên nếu không có cái
không thì không bao giờ có cái một. Tóm lại tất cả vạn pháp đều
là do đối đãi cả nghĩa là nếu chúng ta gọi cái nầy là một là do
có cái không hay nói ngược lại có cái không là vì do cái một. Do
đó cái một cũng chẳng thật một và cái không cũng chẳng thật
không. Vì nhận thức vạn pháp duyên sanh tương quan với nhau
nghĩa là cái nầy tương quan với cái kia hay cái một tức là cái
không thì thể nhập tánh bình đẳng, không còn đối đãi, phân biệt
và sau cùng chứng nhập Pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Diệu Tý nói:
- Tâm BỒ-TÁT và tâm THANH VĂN là hai. Quán tướng của tâm rỗng
không như huyễn hóa, cho nên tôi còn không thấy tâm Bồ-tát, tâm
Thanh văn. Do triệt tiêu tánh chấp, tôi thể nhập Pháp Môn Không
Hai.
Tâm Bồ-tát là người làm những điều lành, việc thiện lợi ích cho
chúng sinh. Còn tâm Thanh văn là người thấy đời đầy ô nhiễm nên
xa lánh thế gian tìm nơi u tịch tu hành để thể chứng được sự an
lạc của Niết bàn cho riêng mình. Nhưng thật ra hai cái tâm nầy
không hề khác nhau, cùng một bản thể. Vì con người còn chấp
trước, còn phân biệt nên mới thấy có sự khác biệt chớ thật ra
tâm không sai khác. Thí dụ nếu có tâm phân biệt thì chúng ta
thấy có người Tàu, người Tây hay người Mỹ, nhưng thật ra tất cả
đều là con người, cùng chung giọt nước mắt mặn hay máu cùng đỏ
như nhau. Còn phân biệt là còn kỳ thị, còn đau khổ và còn tranh
chấp đưa tới chiến tranh giết hại lẫn nhau. Khi hết phân biệt
thì có tâm bình đẳng và chấm dứt phiền não khổ đau.
Bồ-tát Phất Sa nói:
- THIỆN và BẤT THIỆN là hai. Không khởi ý niệm thiện và
bất thiện, nhận thức thấu suốt ngằn mé vô tướng của các pháp. Do
vậy, tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Trên thế gian thì Thiện và Bất thiện rất khó mà phân biệt. Cùng
một hành động mà có người cho là thiện trong khi người khác cho
là bất thiện. Thí dụ như ở Hoa Kỳ các bậc cha mẹ nếu muốn con
cái nên người, học hành có tương lai thì cũng có lúc quở trách
la rầy. Hành động nầy hiện tại thì có vẻ như bất thiện, nhưng
khi con nên người thì việc la mắng con cái là việc tốt. Một thí
dụ khác là việc cứu tế xả hội. Ở Hoa kỳ hằng năm có rất nhiều
người được chánh phủ cho tiền eo phe. Đây dĩ nhiên là việc
thiện, nhưng những người lãnh tiền nầy càng ngày càng lười
biếng, lấy eo phe làm căn bản cho cuộc sống mà không chịu học
hành tiến thân gây thâm thủng ngân quỷ quốc gia và phát sinh
những tệ đoan cho xả hội cho nên việc tốt, việc thiện đã bị con
người lợi dụng mà biến thành bất thiện. Vì vậy khi con người
không còn tâm phân biệt, luôn giữ tâm thanh tịnh thì sẽ không
còn bị thiện ác chi phối vì mọi việc làm đều là lợi ích cho tất
cả chúng sinh. Một khi đã sống với thể tánh thanh tịnh của mình
thì những danh từ đối đãi thiện hay bất thiện chỉ là giả huyễn
trống rỗng mà thôi.
Bồ-tát Sư Tử nói:
- TỘI và PHƯỚC là hai. Hiểu rõ tánh của tội và phước không khác.
Dùng trí tuệ kim cương quyết đoán một cách dứt khoát trong mọi
hoàn cảnh. Cho nên không thấy có ràng buộc và cũng không thấy có
giải thoát. Do vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Trong bài sám hối có câu: “Tội tánh bổn không, do tâm tạo. Tâm
nhược diệt thời, tội diệt vong” nghĩa là tự tánh của tội là
Không nhưng do vô mình điên đảo bên ngoài mà tạo ra tội. Do đó
khi không còn vô minh vọng thức nghĩa là tâm biết ăn năn, sửa
đổi thì tội cũng tan biến theo. Thí dụ như có ngọn đèn đang cháy
trên bàn. Nếu nóng giận, la hét quơ tay quơ chân làm tắt ngọn
đèn. Bây giờ đèn tắt tối thui làm cơn giận tan biến nên đi kiếm
cái hộp quẹt để đốt đèn sáng trở lại. Do đó nếu trong thời điểm
con người làm sai với Căn Bản Trí của mình thì gọi là tội, nhưng
nếu biết sửa sai làm đúng trở lại thì tội hết ngay.
Thêm nữa, tội phước nằm trong vòng tương đối của thế gian. Thí
dụ như Tổng thống Bush đem quân sang đánh Iraq giết hại bao
nhiêu người là có tội, nhưng loại bỏ được nhà độc tài Sadam
Hussen và mang lại dân chủ cho người dân Iraq là phước. Vì thế
cùng một hiện tượng mà có người nói tội kẻ khác nói phước. Do đó
nếu dùng trí tuệ Bát nhã để soi thấu thật tánh của vạn pháp thì
tội phước là Không nghĩa là không còn trói buộc và dĩ nhiện cũng
không cần giải thoát. Vì thấy không có Hai, không còn phân biệt
nên Bồ-tát Sư Tử chứng nhập Pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Sư Tử Ý nói:
- HỮU LẬU và VÔ LẬU là hai. Có được tâm bình đẳng với các pháp
thì không khởi tưởng hữu lậu và vô lậu. Không dính mắc ở pháp
tướng cũng không trụ chấp pháp tướng. Do vậy, tôi thể nhập Pháp
môn không hai.
Hữu lậu là do con người chạy theo trần, chạy theo cảnh nghĩa là
chạy theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh ra chấp ngã,
chấp pháp. Có chấp ngã, chấp pháp là có Hai và cũng là nguyên
nhân làm tác động phát sinh ra vô minh vọng thức dẫn tới
tham-sân-si làm cho con người đau khổ. Có vô minh vọng thức, có
đau khổ tức là có hữu lậu. Bây giờ nếu chúng sinh biết dùng trí
tuệ làm cho lục căn thường sáng tỏ nghĩa là đừng cho lục trần
quyến rủ lục căn thì con người sẽ có tâm thanh tịnh tức là vô
lậu bởi vì chính lục căn, lục trần tự nó thanh tịnh, không ô
nhiễm và không phải là nguyên nhân của tội lổi. Do đó hữu lậu
thì do ta và vô lậu thì cũng do ta vì chúng nó không có tự thể
cố định. Vì thế nếu không còn thấy có hữu lậu hay vô lậu thì có
tâm bình đẳng tức là tâm vô phân biệt nên Bồ-tát Sư Tử Ý chứng
nhập pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Tịnh Giải nói:
- HỮU VI và VÔ VI là hai. Xa lìa tất cả số thì tâm rỗng lặng như
hư không. Dùng tuệ thanh tịnh mà nhìn vạn pháp cho nên không còn
có sự trở ngại nào. Do vậy, mà tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Tất cả các hiện tượng vạn pháp là do nhân duyên sanh khởi nên
gọi là hữu vi. Đó là con người, súc vật, chim bay cá lặn, cây
cỏ, núi sông, mặt trăng, mặt trời… Nói chung bất cứ cái gì mà có
hình, có tướng đều là hữu vi cả. Ngược lại vô vi không phải là
do nhân duyên kết tạo và chính là tự tánh của hư không vũ trụ.
Nói một cách khác bất cứ cái gì trên thế gian nầy mà con người
thấy biết được là có (hữu) và không thấy biết được thì gọi là
không (vô). Khi có sự phân biệt cái có với cái không thì có và
không dĩ nhiên là đối đãi, là Hai. Nhưng thật ra cái có (hữu)
chính là không (vô) bởi vì cái có tự nó không có tự tánh nên nó
là không. Còn cái không (vô) lại là có (hữu) vì bất biến tùy
duyên nghĩa là từ cái không mà duyên khởi sinh ra cái có. Tóm
lại có tức là không và không tức là có cho nên có và không là
không Hai tức là trở về với cái trí vô phân biệt, với căn bản
trí của mình. Khi đã hiểu chân lý nầy thì hữu và vô là không Hai
nên Bồ-tát Tịnh Giải chứng nhập Pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Na La Diên nói:
- THẾ GIAN và XUẤT THẾ GIAN là hai. Tánh của thế gian rỗng
không, cho nên thế gian cũng tức là xuất thế gian. Trong đó
không có tướng đi vào, đi ra, không có tràn đầy, không có vơi
cạn. Do nhận thức đó, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Thông thường con người thường hay có cái nhìn sai lầm về thế
gian chẳng hạn như thế gian tràn đầy đau khổ, đâu đâu cũng là ô
nhiễm, bất toàn nên mới hướng về cảnh giới tốt đẹp hơn là xuất
thế gian. Nhưng thật ra ngoại trần là sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp tự nó không có xấu xa tội lổi gì cả. Thí dụ như hoa có
mê hoặc ai đâu? Mê sắc là tại người chớ đâu phải tại hoa. Rượu
có làm ai say đâu? Thế mà con người chết lên chết xuống cũng vì
rượu. Ngay cả chất độc hại là Á Phiện. Các bác sĩ và bệnh viện
khắp nơi trên thế giới dùng Á Phiện để trị đau và nó chính là
chất thuốc tê hiệu nghiệm nhất. Ngược lại nếu con người say mê
nó thì tán gia bại sản, nhà tan cửa nát. Còn nội căn là mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý thì cũng chẳng có tội lổi xấu xa gì
bởi vì tự nó là thanh tịnh, không ô nhiễm. Thí dụ như con mắt
thì không ô nhiễm, nhưng khi mắt thấy nhà sang, xe đẹp thì tâm
liền phân biệt ý niệm tham muốn làm cho con người dấn thân vào
chỗ khổ. Do đó con người, vạn vật, thế gian thì tự tánh không có
xấu xa tội lổi gì cả mà tất cả những ô nhiễm, tội lổi xấu xa đều
phát xuất từ vọng niệm sai lầm. Vì thế khi tự tánh thế gian
không có gì ô nhiễm thì thế gian và xuất thế gian có khác gì
nhau. Con người vì bị vô minh che lấp nên thân khẩu ý không được
thanh tịnh mới thấy thế gian là xấu xa tội lổi, bây giờ quay về
xé tan màn vô minh hắc ám mà sống với tự tánh thanh tịnh bản
nhiên thì ở đâu cũng là cực lạc và bất cứ lúc nào cũng có Niết
bàn an lạc. Thí dụ như các vị đại A La Hán như Xá Lợi Phất, Mục
Kiền Liên, Phú Lâu Na hay Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đoạn trừ
tất cả mọi phiền não khổ đau, có được Niết bàn nghĩa là họ sống
trong cảnh giới xuất thế gian mà hằng ngày họ vẫn đi, đứng nằm
ngồi trong thế gian Ta bà tội lổi xấu xa nầy. Vậy khi có tâm
xuất thế gian thì ở đâu cũng là xuất thế gian cả, ngược lại tánh
tham, tật đố vẫn còn, lòng còn giận còn hờn, còn chấp trước thì
cho dù có ở bên cạnh Phật A Di Đà thì cũng là cảnh đau khổ của
thế gian chớ không phải là cõi Tịnh độ. Đó chính là tùy kỳ
tâm tịnh tắc Phật độ tịnh vậy. Do đó toàn bộ giáo lý của Thế Tôn
không ngoài mục đích dạy chúng sinh phải chuyển tâm chớ không
chuyển cảnh nghĩa là tâm tịnh thì có cảnh tịnh. Khi biết như thế
thì thế gian cũng là xuất thế gian tức là không Hai vậy.
Bồ-tát Thiện Ý nói:
- SANH TỬ và NIẾT BÀN là hai. Thấy được tánh của sanh tử thì
không có sanh tử gì cả, cũng không có cột, không có mở, không có
sanh, không có diệt. Nhận thức rõ như thế, tôi thể nhập Pháp môn
không hai.
Dưới cái nhìn của phàm phu thì sanh tử là khổ não, là đau thương
vì phải xa lìa tất cả những gì mà con người yêu thương lưu
luyến. Cũng vì có bản ngã và ngã sở nên chúng sinh thấy mình,
người và vũ trụ là thật, là chắc chắn, là của mình nên khi phải
lìa xa nó thì dĩ nhiên sẽ đau khổ vô cùng. Khi đã biết rõ những
khổ đau, bất toàn như thế thì con người cố tu luyện để lìa xa
thế gian tội lỗi nầy mà có được sự an vui tịch diệt của Niết
bàn. Do đó sinh tử và Niết bàn là Hai nghĩa là một bên là khổ
đau còn bên kia là an vui tự tại. Nhưng thật ra sinh tử và Niết
bàn là không Hai. Tại sao? Một khi con người lìa Tướng trạng mà
thấy được thật Tánh của mình thì sinh tử là Không và ngay cả
Niết bàn cũng là Không bởi vì cuộc đời là giả huyễn, là không
thật nên sinh là không, tử là không và Niết bàn cũng là không
nghĩa là không có ràng buộc thì cũng không cần giải thoát và
không sanh thì không có diệt. Thêm nữa, vì quán biết sinh tử là
không nên sinh không tham cầu và dĩ nhiên không sợ cái chết. Vô
thường và bệnh chết nó đến với mọi người bất cứ lúc nào và bất
cứ ở đâu cho nên người học Phật đã biết nó như thế thì không sợ
vô thường và coi thường bệnh chết. Vì thế cổ nhân cũng có câu:
“Mạc đãi lão lai phương niệm Phật, cô phần đa thị thiếu niên
nhân” nghĩa là cái bệnh chết nó đến bất cứ lúc nào và bất cứ ai
cho nên không phải già mới chết mà tuổi trẻ đầu xanh vẫn chết
như thường vì thế chúng sinh cần tu tâm niệm Phật ngay bây giờ
chớ đừng đợi đến lúc già, lúc gần chết mới tu. Khi không còn
chấp ngã thì không quan trọng cho cái thân giả huyễn nầy, sống
thì an vui tự tại, không chạy theo tham đắm ái dục và lúc ra đi
cũng an nhiên tự tại không lo không sợ, không buồn không tiếc.
Tâm tự tại là tâm thanh tịnh tức là tâm không còn phân biệt thì
con người sẽ trở về với căn bản trí của mình để chứng nhập Pháp
Môn Không Hai.
Bồ-tát Thiện Kiến nói:
- TẬN và BẤT TẬN là hai. Vạn pháp hoặc rốt ráo tận hoặc rốt ráo
bất tận đều là tướng vô tận. Tướng vô tận tức là không. Không
thì không có tướng tận hay vô tận. Tỏ ngộ chân lý ấy, tôi thể
nhập Pháp môn không hai.
Nhìn thế gian, vạn pháp thì thấy có ít có nhiều. Cái đếm được,
biết được, có giới hạn thì gọi là TẬN như hiện nay số người trên
thế giới là bảy tỷ, trong khu phố có năm trăm ngàn căn nhà, trái
đất có bốn đại lục và năm biển… Còn những vật thể không thể đếm
được thì gọi là BẤT TẬN hay vô tận. Thí dụ như nhìn lên không
trung có ai đếm được có bao nhiêu vì sao đâu? Mặc dù trái đất có
năm biển nhưng có ai đo được năm biển chứa bao nhiêu nước đâu?
Tuy đếm được hay không thì vạn pháp đều cùng chung Bản Thể, đó
là Không. Nói một cách khác là vạn pháp tuy có ít có nhiều, có
to có lớn, hình tướng thay đổi, số lượng thay đổi, nhưng tự Thể
vẫn như nhau, không to không lớn, không ít không nhiều mà bao
trùm khắp cả. Khi không còn thấy có sự khác biệt về số lượng mà
chỉ còn một Bản Thể chân không thì tất cả sẽ không có Hai tức là
Bất Nhị vậy.
Bồ-tát Phổ Thủ nói:
- NGÃ và VÔ NGÃ là hai. Ngã hãy còn không có, vô ngã càng không
thể có. Thấy được thật tướng của ngã thì không còn khởi niệm
hai. Do vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Sống trong vô minh nên con người tin thân mình là thật nên trong
ta chắc chắn có một cái ta và vì muốn bảo vệ cái ta nầy mà tạo
ra biết bao tội nghiệp. Nhưng thân là do ngũ uẩn duyên khởi tạo
thành nên thân không có tự tánh là vô ngã tức là không. Con
người vì chấp ngã nên chạy theo sinh tử khổ đau nên chấp ngã là
sai. Nhưng nếu con người bỏ chấp ngã mà quay về chấp vô ngã tức
là chấp không thì cũng không đúng với trí tuệ bát nhã ba-la-mật
vì vẫn còn kẹt trong cái chấp cho dù đó là chấp có hay chấp
không. Cái ngã vốn không có thì cái vô ngã làm sao có thật. Nếu
thấy được thật Tánh của vạn pháp là bất sinh bất diệt, bất cấu
bất tịnh, bất tăng bất giảm nghĩa là thật Tánh của Ngã là không
có Ngã nên không còn chấp có ngã hay vô ngã nghĩa là không còn
chấp có hay chấp không tức là không còn có cái Hai. Thấu hiểu
như vậy nên Bồ-tát Phổ Thủ chứng nhập Pháp Môn Không Hai vậy.
Bồ-tát Điển Thiên nói:
- MINH và VÔ MINH là hai. Thật tánh của vô minh là minh. Minh
cũng không chấp thủ. Ly tất cả số. Trụ tâm trong bình đẳng không
có ý niệm hai. Do vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Vô minh là sự mê mờ không sáng suốt của tâm thức ví như màn mây
đen phủ lên tâm trí con người từ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp và
nó chính là động lực chính làm cho con người có cái nhìn sai lạc
về bản chất thật của nhân sinh vũ trụ. Con người có lý luận sai
lầm là khi tu học Phật thì chúng sinh cố diệt vô minh và mong
cầu sẽ có được cái trí tuệ sáng suốt tức là minh. Lý luận nầy là
dựa theo Tục đế của văn tự, ngôn ngữ, của sự đối đãi loài người.
Nhưng trong thật Tánh của vô minh là minh thì lúc nào cũng có
sẳn trong chúng ta. Khi mê thì thấy có vô minh phiền não còn
tỉnh thức thì vô minh biến mất, phiền não tiêu trừ. Vì thế chúng
sinh không cần phải đi tìm minh ở đâu xa mà chỉ cần sống trong
tỉnh thức, tâm luôn giữ chánh niệm để có tâm thanh tịnh thì sẽ
không bao giờ có vô minh phiền não. Ngược lại nếu sống trong sô
bồ sô bộn, chạy theo tham-sân-si thì vô minh khởi dậy, sa hầm
sập hố vậy thôi. Thật tánh thì lúc nào cũng thanh tịnh, bất sanh
bất diệt thì làm gì có vô minh. Hiểu như thế thì vô minh và minh
là không Hai tức là chứng nhập Pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Hỉ Kiến nói:
- SẮC và KHÔNG là hai. Sắc tức là không. Không phải sắc diệt mới
không. Tánh của sắc tự không. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng như
vậy. Thức là tức không. Không phải thức diệt mới không. Tánh của
thức tự không. Do quán triệt chân lý đó, tôi thể nhập Pháp môn
không hai.
Đây là phần lập lại của Tâm Kinh: “Sắc tức là Không và Không tức
là Sắc; Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng đều như vậy”. Tất cả vạn pháp trên thế gian nầy
kể cả cái thân tứ đại của chúng ta là Sắc đều là do nhân duyên
hòa hợp tạo thành nên chúng không có chủ thể, tự tánh vì thế Sắc
là vô ngã tức là Không. Vì là vô ngã nên Sắc là vô thường nghĩa
là Sắc là sinh diệt, nay có mai không nên đừng chấp vào nó.
Nhưng tự Tánh của Sắc là Không nghĩa là không cần phải hủy hoại
Sắc mới có không mà tự chúng đã là không rồi. Ý của đoạn kinh
nầy là mặc dầu thế gian vũ trụ nầy vẫn còn, vẫn có trước mắt,
nhưng con người đừng chấp cái có của nó, đừng tham mê luyến ái
nó thì mặc dù là có nhưng nó vẫn như không. Đó chính là thấy mà
như không thấy vậy. Ngày xưa lúc Đức Phật còn tại thế thì thế
gian, vũ trụ vẫn còn sờ sờ ở đó thế mà dưới mắt của Ngài thì tất
cả là không. Không ở đây là không phải đem đập đổ, nghiền nát
tất cả mà không chính là không chấp thủ, bám víu, tham đắm, si
mê nó. Những vị hiền nhân trên thế giới như Đức Phật, Đức Khổng
Tử, Chúa Jesus…đều là những người nghèo. Tất cả đều xem thường
vinh hoa phú quý, xa lánh tham đắm thế tục nghĩa là thấy có mà
như không tức là Sắc tức thị Không nên nhân loại mới kính phục.
Còn những kẻ tham đắm như vua Kiệt, Trụ thì thế gian nguyền rủa
đến muôn đời. Thí dụ cái bình hoa rất quý, rất đẹp và đắt tiền
chưng trong phòng khách. Nếu chấp thủ mà xem bình hoa là có thì
chúng ta phải cưng chìu, lo lắng, bảo vệ, chăm sóc cái bình hoa
hơn cả bản thân của mình. Lỡ ai làm bể thì chưỡi bới, la hét,
than khóc mà tự tạo bao phiền não khổ đau cho mình. Bây giờ thấy
bình hoa là không vì cho dù chúng ta có giữ gìn cách mấy thì một
ngày nào đó nó cũng hư hại, tan biến thì cuộc sống sẽ vô cùng
nhẹ nhàng, thanh thoát. Không buộc thì cần gì phải cởi trói. Có
càng nhiều thì lo càng to, khổ càng lớn. Công danh, phú quý cũng
như đeo ách trên vai, công danh càng cao, uy quyền càng lớn thì
ách càng nặng chớ có sướng ích gì.
Vì Sắc là không nên Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng là không. Nói
một cách tổng quát là vạn pháp là không nên không còn dính mắc,
không còn tham đắm, lo âu, phiền não vì tất cả là không Hai.
Bồ-tát Minh Tướng nói:
- Sự sai khác của TỨ ĐẠI và sự sai khác của KHÔNG ĐẠI là hai.
Tánh của tứ đại tức là tánh của không đại. Bởi vì thời gian
trước và thời gian sau đều không, cho nên thời gian khoảng giữa
cũng không. Hiểu biết được như thế, cũng tức là nhận thức rõ
tánh của các đại. Do vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Tứ đại là đất, nước, gió, lửa là bốn nguyên tố căn bản tạo thành
con người, thế gian và vũ trụ. Đối ngược với tứ đại là không
đại. Nhưng tự tánh của tứ đại là không tức là không đại ngay cả
trong tự tánh cũng không có thời gian trước sau hay chính giữa.
Tại sao? Nếu đứng về phương diện Tục đế thì có trước, có sau, có
đối đãi tức là có sinh diệt. Còn đứng về phương diện Chân đế thì
tất cả là không, là bất sinh bất diệt nên không có sự đối đãi
tức là không có Hai.
Bồ-tát Diệu Ý nói;
- NHÃN CĂN và SẮC TRẦN là hai. Biết rõ tánh của nhãn căn và tánh
của sắc trần ở giữa cắt đứt sự ái nhiễm. Thế là không còn tham,
không còn sân, không còn si. Đó là trạng thái tịch diệt. Nhĩ đối
thanh, Tỷ đối hương, Thiệt đối vị, Thân đối xúc. Ý đối với pháp
cũng như vậy. Biết rõ tánh của ý căn và tánh của pháp trần, đoạn
trừ sự ái nhiễm tham, sân, si. Đạt đến trạng thái tịch diệt. An
trụ trong tỉnh giác như vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Đoạn kinh nầy cũng chính là chủ yếu của Kinh Lăng Nghiêm dạy
chúng sinh kiểm soát, làm chủ sáu căn khi tiếp xúc với sáu trần
để phát sinh ra ý niệm phân biệt của sáu thức. Nên biết rằng sáu
căn của con người tự nó thanh tịnh, không ô nhiễm, nhưng khi
tiếp xúc với sáu trần liền bị sức quyến rũ của sáu trần mà phát
sinh ra ý niệm tham-sân-si để dẫn dắt con người vào vòng sa đọa.
Thí dụ bình thường thì tự thể của con mắt đâu có tội lổi xấu xa
gì, nhưng khi mắt thấy gái đẹp, nhà sang, xe tốt, tiền nhiều…
thì tâm phát sinh ý niệm tham đắm mà xúi con người làm bất cứ
điều gì để đạt được những thứ nầy. Năm căn còn lại thì cũng thế.
Tai nghe lời dịu ngọt thì mê, nghe ai chữi thì giận, nghe lời
thị phi thì thích. Mũi ngữi đồ ăn thơm thì tham ăn, ngữi không
thơm thì đánh đổ. Lưỡi nếm mùi vị thơm ngon thì tham đắm, còn
nếm mùi cay đắng thì buồn phiền…
Do đó cho dù sáu căn có tha hồ tiếp xúc với sáu trần, nhưng Tánh
của sáu căn và sáu trần vốn tự thanh tịnh, không ô nhiễm nên sáu
thức không phát sinh ý niệm phân biệt tham đắm. Đây chính là cái
nhìn, cái nghe, cái ngữi… của người vô tâm nghĩa là trong cái
thấy không có nhãn thức giới tức là không có cái biết của sự
thấy. Các căn còn lại thì cũng thế, đó là không có Nhĩ thức
giới, Tỷ thức giới, Thiệt thức giới, Thân thức giới và Ý thức
giới. Thí dụ như khi đi chợ thì trong chợ có hàng vạn các món
hàng khác nhau. Nếu chúng ta có tâm phân biệt tức là có cái biết
của sự thấy, nghe, ngữi… thì món nào cũng thích, cái gì cũng
muốn mua. Còn bây giờ thấy thì cái gì cũng thấy mà chẳng quan
tâm cái gì cả vì trong cái thấy không có cái biết, cái phân biệt
của sự thấy nên món nào cũng vậy. Nhà cần món nào thì mua món
đó, vừa tiết kiệm thời giờ, vừa tiết kiệm tiền bạc và vừa giảm
bớt lòng tham đắm, si mê.
Bồ-tát Vô Tận Ý nói:
- BỐ THÍ và HỒI HƯỚNG NHẤT THIẾT TRÍ là hai. Tánh bố thí tức là
tánh hồi hướng nhất thiết trí. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định và trí tuệ cũng như vậy. Tánh trí tuệ tức là tánh Hồi
Hướng Nhất Thiết Trí. Ở trong đó hội nhập tướng Nhất. Do vậy,
tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Khi bố thí, làm phước, làm việc thiện, việc lành thì chúng ta
thường hay hồi hướng những phước đức nầy để thành tựu nhất thiết
trí nghĩa là có trí tuệ Bồ-đề hay viên thành Phật đạo cho nên bố
thí và hồi hướng là Hai. Nhưng Tánh bố thí cũng là Tánh hồi
hướng nhất thiết trí nghĩa là bố thí bất trụ tướng hay còn gọi
là bố thí vô tướng của Kinh Kim Cang tức là bố thí mà không chấp
mắc việc làm tốt, hành động giúp người của mình nghĩa là thi ân
bất cầu báo thì phước đức, công đức kia mới lan tỏa vô cùng vô
tận. Thêm nữa, bố thí là để bớt tánh tham, nhưng trong tự tánh
thanh tịnh làm gì có tánh tham. Do đó khi bố thí làm việc thiện
thì chúng ta không cần phải hồi hướng vì Tánh bố thí tức là Tánh
hồi hướng nghĩa là khi làm việc thiện thì tự nó đã có ảnh hưởng
lan rộng tốt cho chúng ta rồi. Thí dụ như chúng ta nguyện cúng
dường xây một cảnh chùa cho bá tánh thập phương có nơi tu học
Phật pháp. Việc làm tốt nầy đã làm cho tâm của chúng ta hân hoan
khoan khoái. Cái hân hoan khoan khoái nầy chính là giúp chúng ta
quay về sống gần với chân Tánh của mình thì chính mình ngay bây
giờ đã có lợi lạc rồi đâu cần gì phải hồi hướng cho mai sau. Nói
một cách khác hằng ngày con người vì bản năng ích kỷ, không chịu
bố thí giúp người nên cuộc sống xa dần với chân Tánh của mình.
Mà càng xa chân Tánh thì càng gần với vô minh phiền não vì thế
hành động bố thí là đưa con người trở về với tự tánh thanh tịnh
bản nhiên của mình thì tự mình đã có công đức rồi. Vì thế bố thí
và hồi hướng nhất thiết trí là không Hai.
Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ thì cũng
thế. Khi con người bị vô minh phiền não che lấp nên phải
chịu sinh tử luân hồi cho nên trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục,
thiền định và trí tuệ là những phương tiện giúp chúng sinh phá
tan màn vô minh hắc ám để trở về với tự tánh thanh tịnh bản
nhiên của mình. Nói một cách khác con người còn phiền não khổ
đau là vì họ sống ngược với chân Tánh tức là Tánh chân thật vốn
có của mình. Do đó khi trì giới, nhẫn nhục... là mình đến gần
hơn với chân Tánh, với tâm thanh tịnh của chính mình nên Tánh
của trì giới tức là Tánh hồi hướng rồi vậy. Thí dụ như người giữ
giới phẩm hạnh thì chính họ đã có khinh an, giải thoát, tự tại
nên mặc dù không hồi hướng gì nhưng thật chất tự nó đã có hồi
hướng rồi. Chính Đức Phật độ vô số chúng sinh mà không hề thấy
có chúng sinh mình độ, Đức Phật làm tất cả việc làm mà không
thấy có công đức mình làm và Đức Phật chứng vô thượng Bồ-đề, vô
thượng Niết bàn mà không bao giờ nói mình chứng đắc gì cả. Đó
chính là tu vô tu tu, hành vô hành hạnh và chứng vô chứng chứng.
Khi Đức Phật đạt tới chỗ thân khẩu ý thanh tịnh thì tự nó không
có vô minh, không có phiền não khổ đau, không có sinh tử luân
hồi thì gọi là chứng vô thượng Bồ-đề, vô thượng Niết bàn chớ
thật ra không có chứng đắc gì hết bởi vì hết vô minh phiền não
là con người trở về với chân Tánh của mình, là sống với tự tánh
thanh tịnh bản nhiên của mình vậy thôi. Đây chính là bản lai
diện mục đã có sẳn chớ đâu phải khi thành Phật mới có.
Bồ-tát Thâm Tuệ nói:
- KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ TÁC là hai. Không tức là vô tướng, vô
tướng tức là vô tác. Hiểu rõ không tức là vô tướng. Vô tướng là
vô tác thì tâm, ý và thức bấy giờ công dụng trở thành một. Bấy
giờ một giải thoát môn tức là ba giải thoát môn. Quán triệt chân
lý đó, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Đừng nghĩ rằng Không, Vô Tướng, Vô Tác là ba bởi vì ba là theo
thứ tự của con số, là văn tự của con người. Nhưng ở đây Bồ-tát
Thâm Tuệ nói Không, Vô Tướng, Vô Tác là Hai là ám chỉ sự đối đãi
của tâm và cảnh hay giữa con người và pháp tu quán chớ không
phải thứ tự hay văn tự ngôn ngữ gì cả. Tất cả vạn pháp trên thế
gian nầy từ con người cho đến động vật, thực vật hay khoáng vật
là do nhân duyên tác tạo mà thành chớ tự nó không thể phát triển
hay tồn tại được vì thế vạn pháp là vô ngã tức là Không. Vì vô
ngã nên vạn pháp phải chịu vô thường nghĩa là có sinh tất có
hoại do đó không một ai sống đời mà không chết hay chẳng có
người nào trẻ mãi mà không già, không bệnh. Nhưng trong chân
Không thì vạn pháp bất sanh bất diệt, vô hình vô tướng cho nên
thật tướng của vạn pháp chính là Vô Tướng. Vạn pháp duyên khởi
với nhau mà tạo ra muôn sinh vạn vật do đó Vô Tác là không có ai
làm nên, không có ai là tác giả cho nên vô tác là thật tướng, là
vô tướng của vạn pháp. Tóm lại, trong chân Không thì thật tướng
là vô tướng và vô tác cũng là vô tướng cho nên Không là vô tướng
và vô tướng cũng là vô tác. Chẳng phải ba mà cũng chẳng phải một
nên đây là Bất Nhị tức là không còn đối đãi, là không Hai.
Cùng lý luận nầy áp dụng cho tâm, ý và thức. Nếu thấy có tâm, ý
và thức là còn thấy có ba, nhưng thật ra thức là cái biết thì
phải cần có ý niệm sanh khởi để tạo thành cái biết và muốn có ý
niệm thì phải có tâm phát khởi những ý niệm nầy nghĩa là tâm tức
là ý và ý tức là thức vậy. Vì thế tuy nói tâm, ý, thức là ba
nhưng Bản Thể Chân Như thì thấy không ba, mà cũng không thấy
một. Chẳng phải là ba, chẳng phải là một thì đây chính là Bất
Nhị tức là không Hai.
Bồ-tát Tịnh Căn nói:
- PHẬT, PHÁP và TĂNG là hai. Phật tức là Pháp, Pháp tức Tăng.
Tam bảo đều là tướng vô vi, đồng như hư không. Tất cả pháp cũng
vậy. Tùy thuận theo chân lý đó, thi vi hành sự. Do vậy, tôi thể
nhập Pháp môn không hai.
Khi người Phật tử nhập môn theo đạo Phật thì được truyền thọ tam
quy, đó là quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng. Tam bảo ở đây
chính là thế gian trụ trì Tam Bảo tức là Tam bảo dựa theo hình
tướng sinh diệt bên ngoài. Đối với những người sơ cơ chưa biết
Phật pháp thì họ nghĩ rằng tượng Phật bằng đồng, bằng xi măng là
Phật bảo, Pháp là kinh sách trong tủ hay những vị Tăng trong
chùa là đại diện cho Tam Bảo. Do đó nếu người Phật tử không chịu
tu học để thể nhận được chân lý mà cứ ôm lạy tượng Phật xi bằng
vàng từ Đài Loan hoặc lạy cúng kinh sách trên bàn thờ hay phàm
Tăng thời mạc pháp nói gì nghe theo nấy thì uổng phí cả cuộc đời
tu hành của mình. Một khi đã thấu hiểu Phật pháp thì bây giờ
người Phật tử tự quy y lấy và được gọi là
Nhất Thể Tam Bảo bởi vì trong Bản Thể thì Tam Bảo Phật, Pháp,
Tăng tuy ba nhưng mà Một nghĩa là Phật tức là Pháp và Pháp tức
là Tăng. Nói một cách khác Phật Tánh tức là Pháp Tánh và Pháp
Tánh tức là Tăng Tánh. Phật Tánh là Tánh thanh tịnh bản nhiên
không có vô minh phiền não của mình, của con người. Còn Pháp
Tánh là Tánh thanh tịnh bản nhiên của vạn pháp như cây cỏ, núi
sông, xe cộ, nhà cửa, bông hoa… Thí dụ như núi cao sông đẹp đâu
có lôi cuốn quyến rủ ai đâu? Đó là sự thanh tịnh của thiên nhiên
vũ trụ, nhưng nếu con người bị vô minh tham dục che lấp thì thấy
cảnh liền mê. Do đó mê cảnh là tại người chớ đâu phải tại cảnh.
Vì thế khi con người sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của
mình không có vô minh tham dục thì Phật Tánh tức là Pháp Tánh vì
cả hai cùng có tánh thanh tịnh như nhau. Bây giờ Tăng Tánh là
Tánh hòa hợp của Phật Tánh và Pháp Tánh mà Phật Tánh là Pháp
Tánh cho nên Phật Tánh, Pháp Tánh chính là Tăng Tánh. Nói một
cách khác khi quy y Nhất Thể Tam Bảo thì quy y Phật tức là quy y
Pháp tức là quy y Tăng rồi vậy. Vậy Phật, Pháp, Tăng là không
Hai.
Tóm lại khi người Phật tử tu theo hình thức bên ngoài thì dễ bị
ngoại cảnh làm thối chuyển tâm Bồ-đề của mình vì hình tướng là
sinh diệt, là thay đổi. Ngược lại nếu người Phật tử thấu hiểu
Phật pháp mà thấy được bản thể thanh tịnh của mình thì sẽ có tâm
bất thối chuyển nghĩa là khi đã biết Phật tức tâm thì ở đâu cũng
có Phật và bất cứ lúc nào cũng có Phật ở trong tâm của chúng ta
cho nên con người luôn thức tỉnh và không dám làm điều bất
thiện. Mà không có nghiệp thì không còn sanh tử luân hồi tức là
chứng được vô sanh pháp nhẫn. Đây mới là chân lý giải thoát giác
ngộ vậy.
Bồ-tát Tâm Vô Ngại nói:
- THÂN và THÂN DIỆT là hai. Thân tức là thân diệt. Thấy được
thật tướng của thân thì không còn khởi chấp thân và sự hoại diệt
của thân. Thân và sự hoại diệt của thân không khởi ý phân biệt
là hai. Vì vậy, thân sinh tồn hay hoại diệt, không kinh hãi,
không lo lắng sợ sệt. Tỏ ngộ chân lý đó, tôi thể nhập Pháp môn
không hai.
Thân là do bốn nhân duyên đất, nước, gió, lửa tạo thành nên thân
là vô ngã, vô thường. Vì vô thường nên một ngày nào đó thân sẽ
bị hoại và sáu căn sẽ không còn sắc bén như khi còn khỏe mạnh
thì gọi là thân diệt. Hiện tượng nầy là cho tất cả chúng sinh
chớ không sót một ai vì thế bệnh, già, chết là chuyện thông
thường không có gì lo sợ. Kinh có câu: “Dược y bất tử bệnh, Phật
hóa hữu duyên nhơn” nghĩa là thuốc là để trị bệnh không chết chớ
còn bệnh chết thì không có thuốc chửa. Cũng như Phật chỉ hóa độ
chúng sinh là những người có duyên còn những người vô duyên thì
Phật cũng không hóa độ được. Khi biết được thật tướng của thân
hay của vạn pháp là không tướng thì con người sẽ không còn lo
lắng về sinh, lão, bệnh, tử nữa. Vì trong tướng không thì vạn
pháp không sanh, không diệt, không tăng, không giảm thì làm gì
phải lo có thân hay sợ thân diệt. Vì chấp ngã nên con người sống
mà luôn sợ bệnh, sợ chết, nhưng có lo, có sợ mà con người vẫn bị
bệnh, vẫn chết như thường cho nên người biết quán vô thường thì
họ coi bệnh hay chết như trò chơi chả có gì quan tâm, kinh hãi.
Biết như thế thì thân và thân diệt là Bất Nhị, là không Hai.
Bồ-tát Thượng Thiện nói:
- THÂN, KHẨU, Ý là hai. Ba nghiệp đều là tướng vô tác. Tướng vô
tác của thân tức là tướng vô tác của khẩu. Tướng vô tác của khẩu
tức là tướng vô tác của ý. Tam nghiệp là tướng vô tác. Tất cả
pháp cũng là tướng vô tác. Dùng tuệ vô tác nhận thức chân lý và
tùy thuận chân lý ấy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Dựa theo văn tự ngôn ngữ thì thân khẩu ý phải là ba, nhưng ở đây
Bồ tát Thượng Thiện nói thân khẩu ý là Hai là muốn ám chỉ cho sự
đối đãi. Đó là chính mình là mình và thân khẩu ý là của mình nên
có Hai, có sự đối đãi. Mà ba nghiệp là thân nghiệp, khẩu nghiệp
và ý nghiệp đều là tướng vô tác nghĩa là không có ai là tác giả.
Thân là tướng vô tác thì khẩu và ý nương tựa vào thân thì chắc
chắn khẩu và ý cũng là tướng vô tác. Mà tướng vô tác chính là
thật tướng, là vô tướng của vạn pháp. Nếu đã là vô tướng, thật
tướng thì tướng vô tác của thân là tướng vô tác của khẩu và cũng
là tướng vô tác của ý, tuy ba nhưng mà Một, không còn phân biệt
đối đãi tức là không Hai. Một khi tam nghiệp, thân khẩu ý là
tướng vô tác thì tất cả các pháp cũng đều là vô tướng, là thật
tướng và đều là tướng vô tác cả.
Bồ-tát Phước Điền nói:
- LÀM PHƯỚC LÀM TỘI, LÀM KHÔNG PHƯỚC KHÔNG TỘI là hai. Thật tánh
của ba việc là vắng lặng rỗng không. Không thì không thấy có làm
phước, không thấy có làm tội, không thấy có làm không phước
không tội. Không khởi ý niệm chấp mắc ở ba việc làm. Do vậy, tôi
thể nhập Pháp môn không hai.
Thế nào là làm phước? Phải chăng đó là chúng ta làm bất cứ việc
gì mà không trái lại với tự tánh thanh tịnh bản nhiên hay chân
Tánh của mình vậy thôi. Nói một cách khác nếu chúng ta cả đời
không làm gì sai trái với chân Tánh thì chính mình trở về với
sống cái tự tánh thanh tịnh ban đầu mà con người gọi là thành
Phật. Do đó làm phước thật sự không có cái gì thêm hay bớt cả mà
cũng chỉ là vắng lặng trống không. Cũng như nói tu hành là để
chứng đắc vô thượng Niết bàn hay vô thượng Bồ-đề. Đây chỉ là
cách nói của văn tự ngôn ngữ con người, nhưng thật ra không có
cái gì gọi là chứng đắc cả. Một khi chúng sinh biết lau sạch bụi
vô minh phiền não thì cái gương được sáng, nhưng trước khi có
bụi bặm thì cái gương rất trong sáng đâu có dơ? Vậy trước khi bị
vô minh phiền não thì chúng sinh đều là Phật, nhưng lần theo
thời gian cái bụi bặm vô minh phiền não phủ lên trí tuệ trong
sáng làm cho con người sống xa với chân Tánh của mình nên mới
chịu quay cuồng trong sinh tử khổ đau. Còn làm tội là làm đau
khổ cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh. Mà tánh của
tội cũng rỗng không. Nếu tội là cố định, cứng ngắt thì làm sao
con người có thể tu hành, sám hối mà trở thành toàn thiện được?
Kinh lại dạy rằng: “tội tánh bổn không, do tâm tạo; tâm nhược
diệt thời, tội diệt vong” nghĩa là khi mê thì tội lổi chất
chồng, sống trong đau khổ triền miên, nhưng khi thức tỉnh, biết
sám hối, biết ăn năn thì tội lổi tan biến. Tội là do tâm vì tâm
mê nên có ý nghĩ, lời nói hay hành động điên đảo, nay tâm thức
tỉnh, biết sám hối thì tội diệt, tội đâu còn. Như vậy nếu nhìn
từ bên ngoài thì thấy có phước, có tội, có thiện, có ác tức là
sống với tâm sinh diệt, nhưng thật Tánh của phước, của tội là
rỗng không, là chân Không thì làm tội, làm phước hay ngay cả làm
không phước không tội là chẳng phải ba mà cũng chẳng phải một là
Bất Nhị tức là không Hai. Thí dụ như chúng ta cầm một ly thuốc
độc ví cũng như tội lổi. Nếu uống hết ly thuốc độc nầy chắc chắn
chúng ta phải chết, nhưng bây giờ nếu đem ly thuốc độc nầy hòa
tan vào trong cái ao nước trong thì cho dù có uống năm ly chúng
ta cũng chẳng hề hấn gì. Tổi lổi thì cũng thế. Nếu con người vì
vô minh mà tạo nhiều tội lổi, nhưng nay biết thức tỉnh, sám hối
và tạo rất nhiều việc thiện thì tội lổi xưa từ từ tan biến. Cái
khác nhau giữa Bồ-tát và phàm nhân là Bồ-tát thì làm bất cứ việc
gì có lợi cho chúng sinh mà làm xong là bỏ, là quên hết, thi ân
bất cầu báo. Ngược lại phàm nhân thì cái gì có lợi cho mình mới
làm và làm xong thì nhớ hoài, không quên vì tâm còn mong cầu đền
đáp. Vì thế khi thấu suốt thật Tánh của mọi hành động là Không,
là trống rỗng thì sẽ không còn chấp việc làm của mình nữa. Không
nhớ, không chấp thì làm mà không chán, không mệt mỏi, ngược lại
cho dù là làm việc thiện với tâm mong cầu thì một ngày nào đó
con người sẽ không còn thích thú, hăng say hoạt động như thưở
ban đầu.
Bồ-tát Hoa Nghiêm nói:
- Từ bản ngã khởi chấp hai là hai. Biết được thật tướng của bản
ngã không khởi chấp hai. Không khởi chấp hai thì không có cái
biết và đối tượng bị biết. Quán triệt chân lý đó, tôi thể nhập
Pháp môn không hai.
Bây giờ không còn hai hay ba đối tượng như những phần trên mà
chỉ còn là một, đó là bản ngã. Vậy Thế nào là bản ngã khởi chấp?
Khi nghĩ rằng cái nhà nầy là của tôi, cái xe đẹp kia là của tôi,
cái công ty đồ sộ cũng là của tôi, con cái của tôi thì thế nầy
thế kia… do đó từ một cái bản ngã mà bắt đầu khởi chấp là có sự
phân biệt, so sánh đối đãi tức là có Hai. Mà khởi chấp là do tâm
sinh diệt, tâm vọng tưởng sinh khởi tạo thành, nhưng thật Tướng
của bản ngã là không thì làm gì có cái chấp biết và đối tượng bị
biết. Khi lìa Tướng nhập Thể nghĩa là xa lánh cái tâm vọng
tưởng, biết kiểm soát sáu căn mà quay về sống với bản Thể thanh
tịnh của mình thì bản ngã đâu còn. Không còn bản ngã thì không
có cái Hai.
Bồ-tát Đức Tạng nói:
- Có tướng sở đắc là hai. Không sở đắc thì không có tham lấy,
không chê bỏ. Do trụ trong tâm bình đẳng không lấy bỏ, tôi thể
nhập Pháp môn không hai.
Kẻ tu hành mà thấy mình có chứng đắc là có Hai. Kinh Bát Nhã dạy
rằng: “Vô trí diệt vô đắc” nghĩa là không có cái trí tuệ hay cái
chứng đắc gì cả. Khi chúng sinh đoạn trừ hết vô minh phiền não
để có cuộc sống vô cùng an vui tự tại thì gọi là chứng đắc nầy
nọ, nhưng thật ra trước khi loại bỏ vô minh phiền não thì chúng
sinh đâu có vô minh phiền não. Vậy có an vui tự tại là cái đã có
chớ đâu phải cái chưa bao giờ có. Vì thế tu hành thì nhà Phật
gọi là hồi đầu thị ngạn nghĩa là biết thức tỉnh mà quay thuyền
trở lại bến xưa vậy thôi. Cho nên nếu thấy có chứng đắc thì vẫn
còn có tham tức là vẫn còn vô minh phiền não. Nói một cách khác
là thuyền chưa cập bến được.
Bồ-tát Nguyệt Thượng nói:
- TỐI và SÁNG là hai. Không tối không sáng thì không hai. Ví như
nhập định diệt thọ tưởng, không còn nhận thức tối sáng. Đối với
tất cả pháp tướng cũng như vậy. Hội nhập với tâm bình đẳng ấy,
tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Nếu có sự phân biệt đối đãi thì thấy có sự khác nhau như tối và
sáng, như trí tuệ với vô minh, như thiện với ác, như khổ và vui,
nhưng khi hội nhập với tâm bình đẳng tức là đang sống với căn
bản trí, vô phân biệt trí cũng như người nhập định diệt thọ
tưởng không còn thấy biết sự khác biệt của thế giới bên ngoài mà
tất cả chỉ hướng về nội tâm trong sáng ở trong nên tất cả là
không, là bình đẳng, là vô vi, là thanh tịnh. Như thế tối sáng
là của thế giới hữu hình, là Hai. Còn pháp Tướng của tất cả vạn
pháp là vô hình, là của thế giới vô vi thì làm gì còn có phân
biệt, có đối đãi nên không có Hai tức là Nất Nhị.
Bồ-tát Bảo Ấn Thủ nói:
- Ham mộ NIẾT BÀN, nhàm chán THẾ GIAN là hai. Không ham mộ Niết
bàn, không nhàm chán thế gian thì không hai. Vì sao? Vì rằng: Ai
có bị trói buộc mới mong cầu mở. Người không bị buộc trói còn hy
vọng mở cái gì? Không bị buộc, không cần mở, cũng không nhàm
chán, không có ham mộ. Thâm ngộ chân lý đó, tôi thể nhập Pháp
môn không hai.
Đây là diễn giải một chân lý siêu việt mà người tu Phật nên thấu
suốt. Nói theo lẽ thông thường thì bất cứ ai tu Phật cũng đều
nhàm chán cảnh thế gian dẫy đầy tội lổi xấu xa mà tìm về cảnh
giới an vui tịch diệt của Niết bàn. Nếu nghĩ như thế thì nhàm
chán thế gian và ham thích Niết bàn chắc chắn là Hai. Bây giờ tự
hỏi tại sao lại phải nhàm chán thế gian? Phải chăng những người
đó đang bị thế gian hoành hành, gánh chịu trăm điều phiền não
khổ đau? Nhưng tại sao lại cũng cái thế gian nầy mà có rất nhiều
người gọi nó là tội lổi xấu xa lại cũng có nhiều người sống an
vui tự tại chẳng hạn như Đức Phật, các vị A La Hán hay và biết
bao người khác nữa. Vậy đâu là chân lý? Hãy quay về nhìn lại có
cái gì là tội lổi xấu xa trong thế gian nầy chăng? Cây cỏ, núi
sông, nhà cửa, xe cộ, hảng xưởng, thức ăn, thức uống đâu có cái
gì tự nó là xấu xa tội lội đâu? Cái mà con người cho rằng xấu xa
tội lổi là do cái nhìn có vô minh phiền não, tham đắm của mình
mà ra. Khi tâm chất đầy tham-sân-si, ái dục thì nhìn cái gì cũng
mê, cũng thích, cũng muốn chiếm hữu và đây chính là những vẩn
đục đeo trước con mắt của họ khiến họ nhìn thế gian là bất toàn,
khổ não. Nhưng bây giờ nếu lấy cái vẩn đục kia đi và cũng nhìn
cái thế gian đó với tâm trong sáng, thanh tịnh, không còn vô
minh phiền não thì cái tội lổi khổ đau biến mất và thế giới nầy
trở thành cực lạc. Vậy ai cột trói mình? Chính mình tự cột trói
lấy mình, tự mình chuốc lấy bao hệ lụy của phiền não khổ đau,
chính mình chạy theo tham-sân-si, mạn nghi, tà kiến chớ đâu phải
thế gian. Nếu mình tự trói buộc mình thì chính mình tự cởi trói
lấy. Còn nếu sống an vui tự tại, tâm hằng thanh tịnh nghĩa là tự
mình không trói mình thì cần gì phải cởi trói.
Tóm lại nếu không buộc thì không cần mở, không nhàm chán thế
gian thì chẳng cầu mong ham mộ Niết bàn nghĩa là không còn vô
minh phiền não tức là có Niết bàn rồi cần gì phải cầu với mong,
chứng với đắc cho nên thế gian, Niết bàn là không Hai tức là Bất
Nhị.
Bồ-tát Châu Đảnh nói:
- CHÁNH ĐẠO và TÀ ĐẠO là hai. Trụ ở chánh đạo thì không phân
biệt tà hay chánh. Do ly cái tướng hai, tôi thể nhập Pháp môn
không hai.
Tuy đạo Phật là đạo của từ bi, nhưng không vì thế mà người nào
cũng được Đức Phật độ. Từ khi Đức Phật Thích Ca thành đạo đến
nay thì đạo Phật chỉ độ cho những ai có duyên với Phật pháp và
không thể nào độ cho người vô duyên được. Vì thế nếu theo học
với chánh pháp, sống với chánh pháp thì người đó là chánh đạo.
Ngược lại có người theo những tôn giáo khác thì gọi là ngoại đạo
và nếu là những tôn giáo cực đoan thì gọi là tà đạo. Nếu đứng về
hình tướng thì thấy có chánh có tà, có tốt có xấu vì chúng ta
còn tâm phân biệt, nhưng đứng về Thể Tánh, Thật Tướng thì tất cả
chúng sinh nào có khác gì nhau, cùng có Phật Tánh cho dù là
người tà đạo. Do đó nếu nhìn thấu suốt qua hình tướng để vào Bản
Thể Chân Như thì không thấy có chánh có tà nghĩa là chẳng phải
Hai mà cũng chẳng phải một tức là Bất Nhị, là không Hai. Mặc dù
Phật giáo không những có trước những tôn giáo khác trên năm sáu
trăm năm mà còn có thể phát triển và duy trì mà không bao giờ
dùng đến bạo lực và không hề bị hoen ố bởi những cuộc chiến
tranh tôn giáo và thánh chiến. Ngày nay có những tôn giáo rất
cực đoan đã và đang tàn sát những tôn giáo khác. Họ có những
niềm tin rất điên cuồng phát sinh từ tính độc tôn đố kỵ làm cho
nhân loại phải sống trong khổ đau như thế giới hiện nay. Cho dù
thế gian có xoay vần thế nào đi chăng nữa, Phật giáo luôn khuyên
người tu Phật luôn trụ nơi chánh đạo thì không còn phân biệt
chánh hay tà. Nói một cách khác khi trụ nơi chánh đạo là trụ nơi
thật Tướng thì vạn pháp là không. Không còn thấy tướng thì không
có phân biệt đối đãi mà sống với căn bản trí hay vô phân biệt
trí thì chẳng còn thấy chánh và cũng chẳng thấy tà tức là Bất
Nhị. Vì thế thay vì ghét hay kỳ thị tà đạo, người trụ ở chánh
đạo là người đang sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình
luôn dùng tâm từ bi mà đối xử tốt với họ vì họ là những người
đáng thương, là những chúng sinh đi lầm đường lạc lối cũng vì bị
vô minh che lấp. Nên nhớ đây là giáo lý liễu nghĩa thượng thừa
để đưa người tu viên thành Phật quả. Còn giáo lý nhân thừa hay
giáo lý hữu vi, giáo lý tục đế thì người Phật tử có biểu tình,
có đấu tranh, có chết chóc, có ta có người, có tốt có xấu tức là
có Hai. Do đó Bất Nhị là thanh tịnh, là an vui tự tại. Còn có
Hai là còn đau khổ chập chồng.
Bồ-tát Nhạo Thật nói:
- THẬT và KHÔNG THẬT là hai. Thật thấy hãy còn không thấy thật
huống hồ không phải thật. Vì sao? Vì cái thấy của nhục nhãn
không thể thấy đúng chân lý. Chỉ có tuệ nhãn mới thấy đúng chân
lý. Tuệ nhãn không thấy gì hết nhưng không có gì
là không thấy. Do tỏ ngộ chân lý đó, tôi thể
nhập Pháp môn không hai.
Trước hết hãy tìm hiểu thế nào là thật thấy và thấy thật. Khi mở
mắt hằng ngày chúng ta thấy tất cả vạn pháp như con người, xe
cộ, nhà cửa, vật dụng, máy bay, cây cỏ, núi sông, mặt trời, mặt
trăng… thì tin chắc là thật thấy những hiện tượng nầy. Thí dụ
như nhìn chiếc xe thì biết chắc rằng đó là chiếc xe vì nó là
chiếc xe chớ không phải cái nhà. Vật thể là của thiên nhiên,
nhưng con người đặt cho nó cái tên rồi tin chắc nó là cái tên mà
họ đã đặt cho. Thí dụ như một người khi còn ở Việt Nam có tên là
Sơn, nhưng khi qua định cư ở Mỹ liền đổi lại thành Sam như thế
thì tên nào là tên thật của anh ta? Chẳng có cái tên nào là tên
thật cả. Nếu là tên thật thì không bao giờ có thể gọi được vì là
vô hình vô tướng thì làm sao đặt tên được do đó hôm nay gọi là
Sam, ngày mai nổi hứng gọi là Jimmy hay John cũng vậy thôi. Cái
mà con người tin chắc là thật thấy thì thật ra chỉ là giả thấy
mà thôi. Thí dụ như ra sau vườn thì thấy một đóa hoa rất xinh
đẹp vừa mới nở. Do đó ai dám bảo thấy đóa hoa là không thật
thấy. Nhưng một tuần sau thì cũng nơi đó mà đóa hoa tan tả biến
mất. Thế thì cái thật thấy nầy chỉ là cái thấy của sự biến đổi
sinh diệt của nhân sinh vũ trụ chớ không có gì là thật thấy cả.
Vì ngay trong thời điểm chúng ta thấy vật đó thì chính nó đang
tự hủy hoại rồi. Còn thấy thật thì như thế nào? Tất cả vạn pháp
trên thế gian vũ trụ nầy là do duyên sanh mà thành chớ không có
vật gì tự nó có thể phát triển hay tồn tại được nên tất cả vạn
pháp là vô ngã, là sinh diệt tức là Không. Khi thấy rằng thật
tướng của vạn pháp là không tướng tức là tướng không sanh, không
diệt thì cái thấy nầy mới gọi là thấy thật. Cái thật tướng nầy
là tướng vô, là không có hình tướng thì mắt thường làm sao thấy
được. Nhưng cũng chính cái tướng vô nầy mà do nhân duyên hòa hợp
lại tạo thành tất cả. Do đó muốn thấy thật cái tướng vô nầy thì
phải dùng con mắt trí tuệ (tuệ nhãn) để tư duy, quán chiếu mà
nhận biết nó thì cái thấy biết nầy mới là thấy thật vậy. Khác
với nhục nhãn là thấy biết những hiện tượng sinh diệt, tuệ nhãn
có thể thấy biết không tướng, thật tướng của vạn pháp. Vì là
không tướng, không hình không sắc nên không thấy gì hết, nhưng
chính cái không tướng nầy là chân Không bao trùm khắp vũ trụ nên
mặc dù không thấy nhưng đây mới chính là thấy tất cả. Các vị
Phật và Bồ-tát thì các Ngài đâu có mở mắt lớn như phàm nhân mà
họ thấy tất cả, thấy thấu suốt cả tam thiên đại thiên thế giới
cũng vì các Ngài dùng tuệ nhãn và Phật nhãn. Còn chúng sinh thì
lúc nào mắt cũng mở to mà thấy biết lầm lẩn, cái thấy là thấy
bởi vô minh vọng thức nên mặc dù chúng sinh có thấy thật nhưng
không thật thấy. Nói tóm lại mọi vật thể trên thế gian là giả
tạm, là sinh diệt, là mong manh nên mất đi rất dễ dàng vì thế
con người thật thấy hình tướng diện mạo của nó mà thật ra là
không thấy thật. Chỉ khi nào con người thấy được chân Không,
thật Tướng của vạn pháp thì bây giờ mới gọi là thấy thật, thấy
đúng chân lý, thấy không có phân biệt đối đãi là Bất Nhị tức
không Hai.
Các Bồ-tát mỗi mỗi đều trình bày pháp môn sở ngộ và kết quả
đều cùng đến một mục đích: thể nhập Pháp môn không hai.
Trên đây là ba mươi mốt cái nhìn về sự đối đãi, phân biệt, là
Hai của ba mươi mốt vị Bồ-tát. Thật ra hiện tượng của thế gian
là vô cùng vô tận, nhưng đại để ba mươi mốt thí dụ trên giúp
chúng sinh phản tỉnh hồi đầu để thấy rằng thấy có Hai chính là
nguyên nhân của tất cả vô minh phiền não khổ đau mà con người đã
gánh chịu bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp. Thí dụ thấy có ta và
những người khác không phải là ta là thấy có Hai. Vì thấy có
mình có người nên con người làm mọi cách để bảo vệ mình ngay cả
lợi mình mà hại người họ cũng làm. Con người có thói quen tin
tưởng vào những giác quan và ý thức tầm thường mà phân biệt mọi
vật có hình tướng khác nhau như lớn nhỏ, đẹp xấu, thiện ác,
trong ngoài, thật giả, tối sáng… mà tin chắc cái thế giới hữu
hình, vô ngã, vô thường, sinh diệt nầy là bền chắc, là trường
tồn bất biến mà chạy theo cái tốt, cái đẹp làm cho cuộc sống
thiếu thăng bằng. Bây giờ nếu chúng sinh biết thức tỉnh không
nhìn thế gian bằng nhục nhãn mà bằng tuệ nhãn để nhìn thấu suốt
qua hình tướng sinh diệt bên ngoài mà vào thẳng vào Thể Tánh,
Thật Tướng của vạn pháp, vào Bản Thể Chân Như thì không thấy hai
và cũng không thấy một mà chỉ thấy tất cả là Không. Đó chính là
chẳng phải hai, chẳng phải một mà là Bất Nhị tức không Hai. Khi
tâm không còn phân biệt đối đãi, không còn có Hai thì con người
đang sống với căn bản trí hay vô phân biệt trí của mình. Đây
chính là sống với chơn tâm, với tự tánh thanh tịnh bản nhiên,
với tâm bình đẳng không còn thấy mình và chúng sinh có sự khác
biệt, không còn thấy sự sai khác của vạn pháp vì hình tướng bề
ngoài tuy khác biệt nhưng Thể Tánh bên trong vẫn là một nghĩa là
Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc để thương yêu hết tất cả
mọi người và biến cuộc đời xấu xa tội lổi nầy thành cảnh giới an
vui tự tại.
Bây giờ trưởng giả Duy Ma Cật nói:
Các Bồ-tát trong hội này đã nói hết rồi. Vậy xin Bồ-tát Văn Thù
Sư Lợi phát biểu phương pháp thể nhập Pháp môn không hai của một
Bồ-tát.
Bồ-tát Văn Thù nói:
- Theo ý tôi, tất cả pháp không nói được hết, không bàn tột
được, không chỉ đúng được, không giải thích trọn vẹn được. Vì
vượt ra ngoài những câu vấn đáp của ngữ ngôn văn tự. Khế hội
chân lý đó thì đó là yếu tố thể nhập Pháp môn không hai.
Ba mươi mốt vị Bồ-tát lần lượt trình bày về phương pháp chứng
nhập pháp môn không Hai. Tất cả đều dùng ngôn ngữ, văn tự để
diễn tả về cách thể nhập pháp môn không Hai nầy dựa theo kinh
nghiệm riêng của họ. Đến lượt Bồ-tát Văn Thù là vị đại Bồ-tát,
có trí tuệ lớn nhất trong các hàng Bồ-tát thì nói rằng muốn thể
nhập pháp môn không Hai thì phải lìa xa tất cả vô ngôn, vô
thuyết, vô thị vô thức, lìa cả nơi vấn đáp. Nói một cách khác
chính mình phải trải qua kinh nghiệm sống và phải tự chứng mới
biết được rõ ràng cái thực Thể bất sanh bất diệt tiềm ẩn trong
tất cả mọi chúng sinh. Thí dụ như có người đang uống một tách
trà nóng rất thơm ngon thì chỉ có người đó là biết cái nóng và
vị thơm ngon của trà như thế nào mà thôi cho nên cổ nhân mới có
câu: “Như nhơn ẩm thủy, lãnh noãn tự tri” là vậy. Khi thưởng
thức cái hương vị trà nóng nầy phát sinh những cảm giác khoái
lạc rung động trong tâm thức và không một ai kể cả người nầy có
thể diễn tả được cái cảm giác thật đó được. Vì thế cái biết thật
thì không thể diễn tả được còn cái có thể diễn tả được thì chắc
chắn không phải là cái biết thật. Đó là lý do tại sao sau bốn
mươi chín năm ròng thuyết pháp độ sinh mà chính Đức Phật nói
rằng: “Ta chưa hề nói một chữ” là vậy. Không riêng gì Đức Phật
thể nhập pháp môn Bất Nhị, ngay cả Đức Lảo Tử cũng viết trong
Đạo Đức Kinh như sau: “Đạo khả đạo phi thường đạo; danh khả danh
phi thường danh” nghĩa là đạo mà nói ra được thì không phải đạo
và tên mà nói ra được thì không phải là tên. Tuy Bồ-tát Văn Thù
biết phải lìa xa ngôn tự, vấn đáp mới thể nhập pháp môn Bất Nhị,
nhưng chính Ngài cũng dùng ngôn ngữ, lời nói để nói, để trả lời
về cái mà ngôn ngữ, lời nói không thể diễn tả được.
Bấy giờ Bồ-tát Văn Thù hỏi ông Duy Ma Cật:
- Thưa cư sĩ! Chư Bồ-tát đã trình bày xong. Giờ đây, xin nhơn
giả cho biết cao kiến của ngài về phương pháp thể nhập Pháp môn
không hai của một Bồ-tát?
Ông Duy Ma Cật lúc bấy giờ điềm nhiên an tọa. Đại chúng cả hội
trường như nín thở trông chờ…
Ông Duy Ma Cật vẫn im lặng và im lặng…
Tại sao lại phải im lặng? Vì cái mà ông thật biết thì không thể
nói, không thể diễn tả được. Làm sao có thể diễn tả được Thể
Tánh Chân Như? Làm sao có thể dùng ngôn ngữ hạn hẹp của thế giới
hữu vi mà diễn tả cái vô vi thanh tịnh vô cùng vô tận của thế
giới vô vi? Vì chân lý vượt ra ngoài ngôn ngữ thì làm sao dùng
ngôn ngữ, văn tự để diễn tả chân lý cho được. Vì thế cổ nhân
cũng có câu: “tri giả bất ngôn” nghĩa là người biết thì không
nói vì nói không được, ngược lại: “ngôn giả bất tri” nghĩa là
người nói nhiều là người không biết.
Ở trên hội Linh Sơn, khi ông đại phạm Thiên Vương đem hoa sen
cúng Phật, Đức Thế Tôn bèn cầm cành hoa sen đưa lên thì toàn
chúng hội đều ngơ ngác, yên lặng chỉ có tôn giả Đại Ca Diếp là
chúm chím mỉm cười. Vì chỉ có tôn giả mới am hiểu thâm ý của
Phật. Đó là Phật muốn chỉ cái Tánh thấy, Tánh nghe, Tánh biết
thường có trong tất cả mọi chúng sinh mà con người bỏ quên nó để
chạy theo cái trí thức phân biệt sinh diệt giả tạm bên ngoài.
Nhưng tự Tánh là chân không, là vô hình tướng thì biết mà không
nói, không diễn tả được nên tôn giả chỉ mỉm cười.
Khi Tổ Bồ-đề Đạt Ma vào Trung Hoa vào thời vua Lương Võ Đế. Sau
khi được diện kiến nhà vua và thăm hỏi chư Tăng, Ni cùng Phật tử
về phương cách tu học để được giải thoát giác ngộ thì Ngài rất
thất vọng vì vào chùa nào và vị Tăng nào cũng đều đem kinh điển,
tụng niệm ra khoe với Tổ. Quá thất vọng Tổ vào chùa Thiếu Lâm
ngồi xoay mặt vào tường tham thiền nhập định suốt chín năm. Cái
mà Tổ không thể nói được là muốn dạy người tu Phật phải quay về
sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình để có an lạc, có
giải thoát chớ đừng nhầm lẩn kinh điển, tụng niệm là giải thoát
vì nó chỉ là những phương tiện, là ngón tay chớ không phải là
ánh sáng huyền diệu của mặt trăng. Mãi hai trăm năm sau, chính
Lục Tổ Huệ Năng chứng minh những điều Tổ dạy là chân lý mà người
đời vì chấp mà không tin theo.
Trong dáng vẻ hân hoan, cảm thông được diệu ý, Bồ-tát Đại Trí
Văn Thù Sư Lợi nói:
- Siêu tuyệt thay! Siêu tuyệt! Pháp môn không hai siêu tuyệt !
Bặt cả văn tự ngữ ngôn!
Đấy mới là cách thể nhập Pháp môn không hai! Chí Chân! Chí
Thiện!
Tuy biết chứng nhập pháp môn không Hai là thể nghiệm cái mà
không thể nói, không thể diễn tả được, nhưng Văn Thù Bồ-tát vẫn
phải dùng ngôn ngữ để nói cái không thể nói được. Đây chỉ là
phương tiện để dẫn đến một cứu cánh huyền diệu tuyệt vời để mỗi
chúng sinh phải tự mình cảm nhận lấy cái nhiệm mầu nầy. Chính
pháp môn không Hai mới là cứu cánh giải thoát để đưa chúng sinh
xa lìa chấp ngã, chấp pháp, chấp có, chấp không mà hướng về sống
với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình. Đức Phật cũng phải
dùng phương tiện để diễn tả cái không thể diễn tả được nên chính
Ngài cũng tạm gọi nó là Chơn tâm trong Kinh Lăng Nghiêm, Tri
Kiến Phật trong Kinh Pháp Hoa, Phật Tánh trong Kinh Đại Niết
Bàn, Trí Huệ Phật trong Kinh Hoa Nghiêm hay Như Lai Viên Giác
Diệu Tâm trong Kinh Viên Giác. Cho dù có gọi nó là gì đi chăng
nữa thì chỉ khi nào chúng sinh diệt trừ hết mọi vô minh phiền
não, hết tâm phân biệt đối đãi thì tự mình cảm chứng thế nào là
Phật Tánh, là Chơn tâm mà thôi. Chân lý nầy mới là chí chân, chí
thiện vậy.
Sau khi trình bày những nguyên do và tâm đắc của mình trong quá
trình Thể Nhập Pháp Môn Không Hai của ba mươi mốt Bồ-tát. trong
số hội chúng có năm ngàn Bồ-tát tỏ ngộ vô sanh pháp nhẫn đồng
thể nhập Pháp môn không hai.
Phần Tổng Luận
Con người sống trong thế gian nầy luôn dính liền với phiền não
khổ đau, nhưng có khi nào chúng ta tự hỏi tại sao mình phải đeo
mang những hệ lụy nầy? Làm sao phá tan được cái ách của vô minh
phiền não để có cuộc sống an vui tự tại, cuộc sống vị tha vô
ngã? Thật ra cái ách mà con người đeo mang từ bao nhiêu kiếp
cũng chỉ vì chúng sinh có tâm phân biệt, đối đãi tức là có Hai
và từ đó mới sinh ra tính ích kỷ, đố kỵ, cố chấp và mở tung cánh
cửa tham-sân-si, mạn nghi, tà kiến để hứng chịu bao nhiêu gió
bụi trần làm cho cuộc đời thêm đau khổ. Vì con người nhìn đâu,
thấy đâu cũng có Hai nghĩa là còn thấy có cao có thấp, có tốt có
xấu, có xanh có đỏ, có trắng có đen, có thiện có ác, có giàu có
nghèo, có mình có người, có thân có sơ, có quen có lạ, có xuất
gia tại gia, có chùa lớn chùa nhỏ, có Phật đứng Phật ngồi, có
nước nầy nước kia, có da trắng da đen, có da vàng da đỏ là còn
có tâm phân biệt đối đãi của tất cả mọi hiện tượng của thế gian
pháp nên con người còn đau khổ dài dài. Chân lý ở đây không phải
là không thấy có sự khác nhau về hình tướng của vạn pháp mà là
không chấp vào sự khác biệt về hình tướng đó. Thí dụ như khi nếm
một món ăn thì dĩ nhiên ai ai cũng biết là món nầy ngon hay dở,
mặn hay lạt. Cái Tánh biết ban đầu không có gì tai hại cả, nhưng
sau khi tâm thức ghi nhận cái cảm giác ban đầu là món nầy ngon
hay món kia dở thì tâm mới phân biệt tạo thành ý niệm ham muốn
chạy theo món ngon mà chê bai món dở. Cái thích hay không thích
mới chính là cội nguồn của phiền não khổ đau vì nó là khởi niệm
của tham-sân-si. Do đó nếu nếm mà biết món nầy thì ngon vừa ăn,
còn món kia hơi mặn thì không có gì phiền não cả. Còn chê món
nấu hơi mặn mà thích ăn món thơm ngon là có khổ đau. Món mặn ăn
ít, món ngon ăn nhiều, không phàn nàn là có an lạc. Phải ý thức
thật rõ ràng rằng con người còn sống là phải có cảm giác, có ý
thức, nhưng đây chỉ là những Tánh thấy, Tánh biết, Tánh nghe thì
tự nó không có phân biệt đối đãi hay vô minh phiền não tức là
Hai. Nhưng nếu con người chạy theo những dục vọng của cảm giác
hay tham vọng của ý thức thì đây mới chính là Hai tức là có sự
phân biệt đối đãi. Thí dụ nhìn vườn hoa thì thấy nào là hoa
hồng, hoa cúc, hoa thược dược, hoa lan, hoa huệ, hoa dạ lý, là
trăm hoa đua nở thì cái thấy nầy là Tánh thấy nên không có phân
biệt đối đãi, không ô nhiễm. Tuy nhiên nếu thấy hoa hồng đẹp hơn
hoa cúc, hoa dạ lý thơm hơn hoa thược dược rồi đam mê thích thú
hoa hồng hay hoa dạ lý thì bây giờ cái thấy nầy mới có phân biệt
đối đãi, mới tai hại. Nên nhớ tất cả vạn pháp trong thế gian vũ
trụ nầy là do duyên khởi tạo thành nên có đủ muôn hình vạn
tướng. Do đó hình tướng, vật thể là của trời đất chớ đâu phải là
của ta cho nên mỗi thứ có mỗi đặc tính riêng biệt mà thứ khác
không có được. Vậy chê vật nầy, thích vật kia là đi ngược lại
với sự sinh tồn của trời đất và dĩ nhiên phiền não chắc phải đeo
mang.
Để dẫn dắt chúng sinh thấu hiểu nguyên lý Bất Nhị tức là chứng
nhập pháp môn không Hai trước hết ba mươi mốt vị Bồ-tát lần lượt
dùng ngôn ngữ mà diễn tả về ba mươi mốt phương cách khác nhau để
chứng nhập pháp môn không Hai. Đây là những thí dụ rất thực tế
mà chúng sinh thường đối diện trong cuộc sống hằng ngày. Khi đã
thấu hiểu thuần thục ba mươi mốt trường hợp đó thì chúng sinh sẽ
dễ dàng nhận biết và ứng dụng lối phân tích lìa Sự Tướng nhập
Bản Thể cho bất cứ trường hợp nào trên thế gian nầy. Để áp dụng
nguyên lý Bất Nhị vào trong cuộc sống được rốt ráo thì người tu
Phật đừng nhìn cuộc đời bằng hai mặt đối đãi như tốt xấu, thiện
ác, giàu nghèo, thân sơ, tại gia xuất gia… vì đó là cái nhìn
nhục nhãn dựa theo hình tướng biến đổi sinh diệt bên ngoài nên
chưa được hoàn hảo, dễ bị sai lầm. Muốn có cái nhìn chính xác,
hoàn mỹ thì con người phải dùng mắt trí tuệ để chiếu soi mà nhận
biết rằng tuy chúng sinh, vạn vật, vũ trụ có hình dáng khác
nhau, tính nết khác nhau, nghiệp báo nặng nhẹ khác nhau, nhưng
tất cả đều có chung một cái rất thiêng liêng, cao cả mà ngôn ngữ
không thể nào diễn tả được nên chính Đức Phật tạm gọi nó trong
Kinh Lăng Nghiêm là Chơn Tâm, Kinh Pháp Hoa là Tri Kiến Phật,
Kinh Đại Niết Bàn là Phật Tánh, Kinh Hoa Nghiêm là Trí Huệ Phật
và Kinh Viên Giác là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm. Đây chính là tự
tánh thanh tịnh bản nhiên tức là cái bản lai diện mục nghĩa là
gương mặt thật sẳn có muôn đời trong tất cả mọi chúng sinh. Nếu
có thể nói được, diễn tả được thì Đức Phật chỉ gọi một tên là đủ
chớ đâu cần phải nói nhiều cái tên như thế. Nói nhiều tên mà
không có cái tên nào là tên thật cả. Chỉ khi nào chúng sinh tự
mình thể chứng được sự thanh tịnh, tịch diệt của tâm thức thì
chính họ sẽ biết cái tên nào là tên thật. Ba mươi mốt vị Bồ-tát
thực hành chứng nhập pháp môn không Hai chỉ là phương tiện để
giúp chúng sinh phân tích mà tự mình nhận biết sự nhiệm mầu của
pháp môn không Hai. Cũng như kinh điển, tụng kinh, niệm Phật,
thiền quán chỉ là chiếc bè, là ngón tay, là phương tiện để giúp
chúng sinh tự mình nghiệm chứng sự huyền diệu trong thế giới vô
vi thanh tịnh của Niết bàn. Khi con người có tâm bình đẳng để
không còn thấy thế gian có sự khác nhau thì họ sẽ không còn thù
hận, không còn bất mãn, không chạy theo sang giàu bỏ người nghèo
khó, không mù quáng chạy theo tham dục mà quên đi sự an vui tự
tại của sự thanh nhàn. Không xét người qua chiếc áo mà thương
yêu chúng sinh vì lòng từ bi vô ngã bên trong. Không dùng xảo
ngôn để đánh bóng cuộc đời mà dùng lời chân thật để đối xử nhau.
Không tranh giành chiếm đoạt, hại người lợi mình mà gây ra
nghiệp. Đem hòa bình thay thế chiến tranh đau thương tan tóc.
Được như vậy thì sẽ không còn đau khổ, không còn tranh chấp,
không còn kỳ thị cũng như trăm sông cùng đổ về biển lớn nghĩa là
không còn nhìn thấy sự khác biệt đối đãi của hình Tướng mà nhìn
thẳng vào Bản Thể của vạn vật thì con người mới thể nhập nguyên
lý Bất Nhị được.
Ngay cả khi nói chứng nhập pháp môn không Hai thì chính nó đã có
đối đãi rồi vì nói chứng nhập thì phải có đối lại là không có
chứng nhập, vì thế ngôn ngữ văn tự chỉ là phương tiện cho nên
con người còn kẹt vào văn tự cho dù đó là áng văn gì hay viết
theo triết lý, văn chương bóng bẩy gì đi chăng nữa thì cũng
không bao giờ gột rửa chân lý của nó được. Trời đất thì muôn
sinh vạn biệt, nhưng pháp môn không Hai giúp chúng sinh dần dần
bỏ đi tính phân biệt, chấp trước. Càng bỏ nhiều chấp có, chấp
không, chấp ngã, chấp pháp thì càng có nhiều an vui tự tại. Sau
cùng lìa xa tất cả các chấp thì vĩnh viễn sẽ có được Niết bàn an
lạc. Một lần nữa câu: “tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” là
chân lý vĩnh hằng trong mọi cảnh, mọi người.
Một khi hành thâm bát nhã ba-la-mật-đa để soi thấy rằng vạn pháp
là không nghĩa các pháp thế gian và xuất thế gian đều là không
thì ông Duy Ma Cật còn gì phải nói. Tất cả là không nghĩa là
thật tướng của vạn pháp là vô tướng mà vô tướng, chân không thì
làm sao diễn tả. Hễ nói là xa chân lý vì thế tuy ông không nói
một lời nhưng đó mới là tiếng nói của Chơn tâm, của Phật tánh
thanh tịnh vĩnh hằng trong tất cả chúng ta.
Đến đây thì không còn ngôn ngữ để nói, văn tự để diễn tả mà chỉ
còn nghiệm chứng sự huyền diệu, thanh tịnh, an lạc trong tâm
thức mà thôi. Đây mới chính thật là chứng nhập pháp môn không
Hai vậy.