Phẩm
AN LẠC HẠNH
Phẩm này là một trong những phẩm được người
đời sau thêm vào vì tính kỳ thị nữ giới và có những đoạn diễn
đạt tư tưởng rất tầm thường không thuộc về Pháp Hoa, là hệ
tư tưởng tối thượng thừa của Phật giáo Đại thừa.
Các hàng Bồ Tát ở phẩm trên đã phát nguyện
sau khi Phật nhập Niết bàn sẽ đem kinh Pháp Hoa giáo hóa cho
người đời sau cho dù có gặp chướng ngại các ngài vẫn không thoái
chuyển. Hạnh Bồ Tát là những công hạnh to lớn đòi hỏi Bồ Tát
phải có sức kiên trì, lòng dũng mãnh để đối đầu với những chúng
sinh kiên cường khó giáo hóa. Ngược lại chẳng những Bồ Tát không
độ được đời mà có thể bị đời độ lại nghĩa là bị đời lôi cuốn
nhận chìm trong bể ái sông mê rồi gánh chịu bao phiền não khổ
đau. Do đó An Lạc Hạnh là phương pháp hộ trì Pháp Hoa để cứu độ
chúng sinh và đem lại cho mọi người sự an vui trong cuộc sống.
Bởi vì thanh tịnh Niết bàn ở tại tâm chớ không phải là một cảnh
giới xa xôi nào khác. Vì vậy chủ yếu của phẩm này là Phật dạy
cho Bồ Tát hay cho những ai phát tâm truyền bá, giảng nói, xiễn
dương kinh Pháp Hoa những phương pháp để đem lại sự an lạc vừa
cho mình và vừa cho người nghe. Thật vậy, học Phật và tu Phật là
để có an lạc vì thế trong tiến trình tu học Chánh pháp mà không
có an lạc, phiền não luôn dấy khởi nghĩa là hành giả không áp
dụng, thực hành đúng những gì mình đã học, cần phải sửa lại.
Bấy giờ, Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật:
-Thế Tôn! Các vị Bồ-tát này làm việc khó
có là phát nguyện hộ trì, đọc nói kinh Pháp Hoa trong đời ác
trược về sau. Thế Tôn! Làm thế nào mà các vị Bồ-tát này nói được
kinh Pháp Hoa trong đời ác trược?
- Tuy kinh nói trong đời ác trược về sau,
nhưng thật ra bất cứ ở đâu và bất lúc nào hễ có con người là có
tranh giành, chấp thủ, lợi mình hại người. Người tranh với
người, nhà này tranh chấp với nhà kia, nước này tranh với nước
nọ, thế giới này tranh với thế giới kia không bao giờ ngừng
nghĩ. Hãy nhìn ngược lại dòng lịch sử nhân
loại, hễ hết bình thì tới loạn. Con người cũng vì tham vọng mà
đưa đến bao nhiêu cuộc chiến tranh, tàn sát giết hại lẫn nhau.
Vì thế Phật mới ví thế giới này là nhà lửa bởi vì hằng ngày lửa
tham đắm, lửa hận thù, lửa si mê ái dục ầm ỉ cháy trong tâm của
tất cả mọi người. Do đó muốn vào nhà lửa mà không bị cháy, Bồ
Tát phải mặc đồ chống lửa thì mới có thể viên thành hạnh Bồ Tát
được.
Phật bảo Văn Thù:
-Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát, ở đời ác
trược, muốn nói kinh này thì nên an trú vào 4 pháp sau đây:
1)
Hành Xứ: Bồ-tát hành
xứ là đứng vững trên đất nhẫn nhục, diệu hoà,
thuận thảo mà không nóng nảy, tâm cũng chẳng sợ sệt, lại ở trong
muôn vật mà lòng không xao xuyến, xem muôn vật trống không như
“thật tướng”, không nghĩ ngợi gì mà cũng không phân biệt.
Nhẫn nhục là để đối trị với sân hận, giận
hờn. Đây là đức tính tốt đẹp được tán thán nhiều nhất trong hầu
hết các kinh sách Phật giáo. Con người có sự bất mãn hay sung
sướng là do sự đánh giá sự vật qua cái nhìn sai lầm mà cái Ta là
chủ động chính. Thiếu kiên nhẫn và kém chịu đựng chính là do tâm
Sân mà ra. Khi chúng sinh thấu hiểu luật nhân quả và lý duyên
khởi thì họ sẽ tránh gây ra nghiệp cho mình khi nghịch cảnh đến.
Nếu hành xử theo luật con người là lấy oán báo oán thì hận thù
càng ngày càng chồng chất biết đến bao giờ. Khi tu hạnh nhẫn
nhục là tránh gây tạo nghiệp cho mình thì chúng sinh mặc dù
không trả thù báo oán mà vẫn an nhiên tự tại vì luật nhân quả sẽ
trói chặt kẻ đó rồi đâu cần họ phải ra tay. Do đó muốn thực hành
hạnh nhẫn nhục cho hữu hiệu chúng sinh cần cảnh giác để nhận
biết sự phản ứng sinh khởi của mình khi đối diện với cảnh trái ý
nghịch lòng. Đối với:
v
*Thân nhẫn:
Con người khi đối diện với nắng mưa, đói khát, đau ốm bệnh tật
hoặc bị người đánh đập hành hạ mà vẫn cam chịu, không phàn nàn
hay chống cự lại tức là tu theo thân nhẫn.
v
*Khẩu nhẫn:
Cho dù thân đã nhẫn không chống lại người khi bị hành hạ đánh
đập và trước những lời nhục mạ mắng nhiếc chua cay mà miệng cũng
không thốt ra những lời nguyền rủa độc ác thì đây chính là tu
theo khẩu nhẫn.
v
*Ý nhẫn:
Cái khó và quan trọng nhất là tu nhẫn trong tâm.
Khi tâm hồn không còn căm hờn, oán hận thì tâm sẽ trong sáng và
an nhiên tự tại để loại bỏ đi những tư tưởng hắc ám khiến con
người tạo nghiệp. Vì thế kinh Hoa Nghiêm có câu: "Nhất
niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai"
tức là một niệm sân hận nổi lên thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng
đều mở ra.
Trong ba thứ nhẫn nầy thì ý nhẫn là khó thực
hành nhất bởi vì đôi khi thân có thể chịu đựng được cực hình,
nhưng miệng vẫn lẩm bẩm lời nguyền rủa. Mà miệng có nói cũng là
do tư tưởng chuyển đến mà thôi. Có người tuy miệng không thốt ra
lời nguyền rủa nhưng tâm thì tức giận bừng cháy cả tim gan. Thế
thì con người muốn kiềm chế để tu theo hạnh nhẫn nhục viên mãn
thì phải kiềm chế tư tưởng được trong lành. Có như thế thì ý
nhẫn mới kiềm chế khẩu nhẫn và
sau cùng họ mới thành công với thân nhẫn.
Vì ý là nhân mà thân, khẩu là quả của nó. Thêm nữa người tu theo
hạnh nhẫn nhục sẽ có đủ trí tuệ để áp dụng Từ-Bi-Hỷ-Xả vào trong
cuộc sống. Chính trí tuệ nầy sẽ đối trị và làm tiêu tan sự bất
mãn và tâm sân hận.
Ngày xưa Đức Phật đã trải qua biết bao chông
gai cực khổ trước khi Ngài chứng quả Bồ-đề. Nếu không tu
theo hạnh nhẫn nhục thì làm sao Ngài thành Phật được? Thời
gian tu hành đối với phàm nhân để viên thành Phật đạo kéo dài
gần như là vô tận vì thế nếu không có đức tính kiên nhẫn phi
thường thì không thể nào thành công được. Các vị Bồ tát tu hạnh
nhẫn nhục để tâm không bị phiền nhiễu bởi những bất trắc xảy ra
trong cuộc đời. Các Ngài không phiền hà khi người khác nói những
lời thô lổ, nói dối hay mắng nhiếc nhục mạ họ. Thậm chí Bồ tát
vẫn kiên trì chịu đựng khi thân thể bị hành hạ, bị tra tấn và
ngay cả đến cái chết các Ngài vẫn an nhiên tự tại.
2)Thân Cận Xứ: Bồ-tát không gần
gũi:
o
-Hạng người quyền thế (
vua, con vua, quan lớn, quan nhỏ)
o
-Hạng người tu theo
ngoại đạo ( Phạm-chí, Ni-kiền-tử…)
o
-Hạng văn nhân, thi sĩ của
thế tục
o
-Các phái Lộ-già-da-đà,
Nghịch-lộ già-da-đà.
o
-Hạng người chơi hung, lấy
sự đâm chém, đánh đá làm thích.
o
-Bọn Na-la quen chơi với
sự tà thuật biến hoá.
o
-Bọn Chiên-đà-la.
o
-Hạng người làm sai giới
luật như nuôi heo, dê, gà, chó, đi săn, chài lưới
Những người trong các giới ấy, nếu có
lúc họ đến với mình, thì Bồ-tát phải vì họ mà giảng dạy cho họ
nghe, lòng đừng hy vọng mong cầu một điều gì.
Khi nói về cầu thân với người quyền thế thì
Bồ Tát Di Lặc là một thí dụ điển hình. Tuy xuất gia nhưng ngài
Di Lặc không chú tâm tu hành mà muốn kết thân, cầu danh với
những hàng danh gia vọng tộc, quan quyền, giàu có. Đây là bài
học điển hình cho các tu sĩ còn ham chuộng danh lợi, chạy theo
uy quyền, tham gia chính trị, phế bỏ cả đời tu của mình. Người
tu sĩ mà thích kết thân, giao du và dựa hơi với hạng quan quyền,
người giàu có mà cho đó là phước đức, danh vọng, địa vị của mình
là thiếu đức hạnh. Đối với người tu sĩ chân chính là phải tách
mình ra khỏi xã hội, không chạy theo danh văn lợi dưỡng, không
nhiễm ô tham đắm thế tình mà phải luôn bồi dưỡng trí tuệ thì mới
là sống đúng theo chánh pháp để có thể diệt được cái bản ngã tối
tăm.
Thuở ấy, có vị tỳ-kheo Hạt-tha-ca thường hay
tranh-luận với các du-sĩ ngoại-đạo, nhưng vì đuối lý nên chẳng
thắng được họ. Tỳ-kheo Hạt liền hẹn với họ, sẽ gặp nhau lại ở
một nơi khác. Đến gần giờ hẹn, ông Hạt liền đến sớm, chưa thấy
các du-sĩ tới nơi, mới vênh-váo bảo mọi người là bọn ngoại-đạo
đã chịu thua tài biện-luận của mình, nên chẳng đến nơi hẹn.
Mánh-lới nầy đến tai Đức Phật. Ngài liền cho gọi tỳ-kheo
Hạt-tha-ca đến và bảo: "Nầy tỳ-kheo Hạt-tha-ca, tại sao ông lại
có thái-độ giả-dối như thế? Chẳng phải cạo trọc đầu mà có được
danh-nghĩa Sa-môn. Kẻ đã dứt trừ xong mọi ác-ý mới là
Sa-môn."
Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:
ü
Cạo đầu chưa hẳn là Sa-môn,
ü
Nếu hay nói dối, thiếu
giới-hạnh,
ü
Tham-dục, luyến-ái vẫn còn
mạnh,
ü
Sao được xứng-danh là
Sa-môn.
(Kệ số 264-kinh Pháp Cú)
ü
Ai khắc-phục, hoàn-toàn lìa
bỏ,
ü
Hành-động ác, cả lớn lẫn
nhỏ,
ü
Đã vượt qua hết các điều
tà,
ü
Mới xứng-danh là bực
Sa-môn.
(Kệ số 265-kinh Pháp Cú)
Trong phẩm "Tịnh Lự" trong "Pháp Uẩn Túc
Luận" đề cập đến bốn hạng người xuất gia như sau:
a. Thân xuất gia mà tâm không xuất
gia
"Có một loại người đối với những dục cảnh,
thân người ấy tuy đã xa lìa những dục cảnh, nhưng tâm vẫn còn
đắm trước. Như có người cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca sa, chánh tín
xuất gia, người ấy tuy thân tướng là xuất gia, nhưng tâm vị ấy
vẫn còn tham luyến nhớ nghĩ về những dục cảnh mà người ấy đã
được cảm thọ trước đây. Những người này, gọi là thân xuất gia mà
tâm chưa xuất gia".
Hạng người thứ nhất này, thân thể tuy là hình
tướng của người xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo càsa, nhưng tâm
tánh của người ấy chưa xuất gia vì tham ái ngũ dục lục, tìm cầu
lợi dưỡng. Ðứng trên phương diện tu tập trong Phật giáo, người
này không phải là hạng người chân chánh xuất gia.
b. Tâm xuất gia mà thân chưa xuất gia
"Có một hạng người, đối các những dục cảnh,
tâm tuy đã xa lìa mà thân vẫn chưa xa lìa. Như có người, tuy có
vợ con, ruộng vườn, nhà cửa, trang sức châu báu, xoa ướp hương
thơm, ăn uống những thứ thượng diệu, có người hầu hạ v.v...
nhưng người ấy đối với các dục cảnh, tâm không sanh nhiễm trước,
tham ái. Người ấy, thân tuy là tại gia mà tâm đã xuất gia, người
này gọi là tâm xuất gia mà thân chưa xuất gia".
Hạng người thứ 2 này, thân thể người ấy
tuy còn hình tướng là người tại gia,
nhưng tâm đã xuất gia, không còn tham luyến ngũ dục của thế
gian. Ðối với hạng người này hình tướng tuy chưa xuất gia nhưng
tâm đã dược an lạc, giải thoát như Ngài Duy Ma Cật.
c. Thân và tâm đều xuất gia
"Có hạng người đối với những dục cảnh. Như có
người, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, chánh tín xuất gia. Người
ấy đối với những dục cảnh tâm không tưởng nhớ, luyến ái những
dục cảnh trước đây đã thọ dụng, tâm vị ấy thường ăn năn sám hối
những lỗi lầm, sống trong chánh niệm. Người ấy được gọi là thân
và tâm điều xuất gia".
d. Thân và tâm không xuất gia
Có một hạng người, đối với các dục cảnh. Như
người có vợ con, ruộng vườn, nhà cửa, châu báu, trang sức vàng
ngọc, xoa ướp hương thơm, an uống thượng diệu, có người hầu hạ
v.v... đối với các dục cảnh, người ấy sanh tâm tham luyến. Người
này được gọi là thân và tâm không xuất gia".
Hạng người thứ 4 này, đức Phật muốn ám chỉ
người thế tục, không hiểu và tu theo Phật Pháp.
Theo quan điểm Phật giáo, đức Phật chỉ đề cao
khen ngợi hạng người thứ 3 là "Thân xuất gia và tâm xuất gia" và
hạng người thứ 2 là "Tâm xuất gia mà thân chưa xuất gia". Vì hai
hạng người này, tâm của họ đã thật sự xa rời không còn tham ái
đối với ngũ dục lạc, do vì không còn tham luyến đối với ngũ dục,
cho nên tất cả những sầu, bi, khổ, não không còn nữa, tâm vị ấy
đã thật sự giải thoát. Hai hạng người này là đệ tử chân chính
của đức Phật, một đại diện cho người xuất gia và một đại diện
cho người tại gia, là hai hạng người đến với đức Phật với mục
đích mong cầu giải thoát, không phải vì
lợi dưỡng hay địa vị. Hai hạng người còn lại là hạng người thứ
nhất và thứ tư bị Phật chê trách, vì cuộc sống của họ không
hướng đến mục đích tối thượng là sự giải thoát. Hạng người thứ
nhất tuy thân đã xuất gia nhưng tâm vẫn còn tham đắm 5 thứ dục
lạc là: 1. tiền tài, 2. sắc đẹp, 3. địa vị, 4. ăn uống, 5. ngủ
nghĩ. Vì theo Phật giáo 5 thứ này là những thứ làm chướng ngại
con đường tiến tu đạo nghiệp, do đó Phật khuyên mọi người nhất
là hạng người xuất gia tránh xa ngũ dục. Do vậy, đối với những
người tuy đã cạo bỏ râu tóc, mặt áo của
người xuất gia, nhưng tâm vẫn chưa rời ngũ dục, người ấy
chắc chắn không gặt hái kết quả tốt nào mà đạo Phật mang đến,
như người vào rừng trầm hương để nhặt trầm hương, nhưng khi
người ấy vào rừng, chỉ mang về một số cỏ gai, chùm gởi mà thôi.
Sự thật, hạng người thứ nhất này, xưa cũng như hiện nay không
phải là không có trong Tăng già. Là người Phật tử chân chính
chúng ta cần có thái độ thận trọng, đến với đạo Phật là đến với
mục đích mong cầu giải thoát, và phục vụ chung, không phục vụ
cho tư lợi, bất cứ cá nhân nào và riêng ai.
Phải biết rằng :
v
Niệm mà không chấp có niệm, đó là
chánh niệm.
v
Hành mà không chấp có hành, đó là
chánh tinh tấn.
v
Độ mà không chấp có độ, đó là
chánh tư duy.
v
Tu mà không chấp có tu, đó là
chánh kiến.
Còn người tu sĩ mà có uy quyền ghê gớm, danh
vọng ghê gớm, đạo đức ghê gớm, tiền của ghê gớm thì người này là
đệ tử của đạo “sự nghiệp uy quyền” chớ đâu phải đệ tử của Phật
Thích Ca là đạo giải thoát giác ngộ. Nhưng nếu muốn có sự nghiệp
uy quyền thì cứ hoàn tục trở về với gia đình mà tha hồ thỏa chí
bình sinh, sống đời vinh thân phì da chớ đừng núp dưới cội Bồ-đề
mà làm ô uế cửa thiền.
Ngày xưa đức Phật và biết bao đệ tử của Ngài
từ bỏ giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng để xuất gia cầu
đạo và sống đời thanh bần an lạc mà hoằng pháp lợi sanh. Ngày
nay người đệ tử Phật thì ngược lại muốn xuất gia để có được
quyền uy, danh vọng, ăn trên ngồi trước, giàu sang phú quý. Như
thế đủ biết tinh thần : ”Xã phú cầu bần xã thân cầu đạo”
chỉ còn là kỷ niệm, là cái bóng của quá khứ.
Người tu hành cần tìm nơi thanh vắng để tỉnh
tâm vì thế những điều ở trên chẳng qua chỉ là nhắc lại để Bồ Tát
đừng dính mắc nơi thế trần. Ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng nhiều lần
được vua Vỏ Tắc Thiên thỉnh vào cung, nhưng ngài đều từ chối.
Trong lời từ chối, có câu “Tôi nguyện được trọn đời ở chốn núi
rừng”. Tứ Tổ Đạo Tín cũng được vua Đường Thái Tông thỉnh vào
cung, nhưng ngài cũng cự tuyệt. Thế thì những vị tu chứng, đạo
cao đức trọng lúc nào cũng hành xử giống nhau. Ngược lại, những
người khác thì cầu mong được làm quốc sư, tăng thống, thân cận
với vua quan, chạy theo vinh hoa phú quý, dấn thân làm chính trị
như Thiền sư Thích Mật Thể. Đến khi thức tỉnh biết mình lầm
đường thì chính trị quay lại giết chết ông. Đạo Phật dưới đời
nhà Trần mang nặng tinh thần nhập thế tích cực qua hệ tư tưởng
“Cư Trần Lạc Đạo”. Đó là các Thiền sư công khai bàn luận chính
trị, đề xuất nguyên lý trị quốc theo kiểu Quốc sư Viên Thông đời
Lý (1080-1151). Hệ tư tưởng này còn được gọi là “Phật giáo
thế sự”. Không lẽ nhân tài, hiền đức trong xã hội
biến mất hết rồi hay sao mà phải cần những vị “xuất
gia” tham gia việc trị quốc an dân?
Ngày xưa chính đức Phật đã khuyên Đề Bà Đạt Đa nên hoàn tục vì
tuy là người xuất gia, nhưng “tâm không vào đạo”
nên ông luôn nuôi dưỡng những tư tưởng bất thiện, cố tranh giành
thế lực, chia rẽ Tăng đoàn để mưu lợi riêng cho mình. Đối với
Tăng đoàn, Đề Bà Đạt Đa muốn chiếm ngôi vị của Phật, còn đối với
thế sự ông xuối vua A Xà Thế giết cha, hại mẹ, làm chuyện vô
luân. Màn vô minh hắc ám che lấp tâm tánh thuần lương khiến ông
làm việc phản sư, phạm giáo mà phải bị đọa vào địa ngục A tỳ.
Phật giáo muôn đời vẫn là Phật giáo, người đệ tử Phật không thể
vì “tham vọng chính trị” mà biến thể đạo Phật
dưới bất cứ hình thức nào.
Sau khi đức Phật thành đạo, Ngài trở về cung
thành Ca tỳ la vệ thăm lại vua cha và gia đình. Vua Tịnh Phạn
thương nhớ con nên đề nghị đức Phật ở lại hoàng cung vừa làm
Phật vừa làm vua. Đức Phật từ chối vì Ngài không còn vấn vương
đến thế tục, không còn dính mắc bụi trần mà chỉ muốn làm người
khất sĩ, tâm tự tại, thanh tịnh, an lạc Niết bàn. Xứ Tây Tạng từ
khi Phật giáo nắm được chính quyền thì các vị Đạt Lai Lạt Ma vừa
là lãnh tụ của quốc gia vừa là lãnh tụ của Phật giáo. Mà làm
lãnh tụ quốc gia thì phải đối đầu với trăm điều phiền não, giặc
trong giặc ngoài, bày binh bố trận chớ đâu có dễ dàng như ngồi
trong thiền đường để có những giây phút tỉnh tâm. Vì chính quyền
là những tu sĩ Phật giáo nên hệ thống quốc phòng nước Tây Tạng
càng ngày càng suy yếu đến khi Trung Cộng xua quân xâm chiếm Tây
Tạng năm 1950 mà không gặp một sự chống cự nào. Nói chung, hễ
không buông xuống còn chấp thủ quyền lực thì phải khổ bất chấp
người đó là ai. Giáo lý Phật Đà dạy rất rõ ràng cho dù con người
có lý luận hay cách mấy mà không diệt được khổ thì vĩnh viễn
không bao giờ có Niết bàn! Các vị Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng không
thực hành đúng lời dạy của đức Phật là buông xả, còn muốn làm
vua, còn chạy theo thế vị của cuộc đời nghĩa là nếu tay không
buông xuống thì “không bao giờ” có thanh tịnh Niết bàn. Đức Đạt
Lai Lạt Ma thứ 14 gần đây có tuyên bố chấm dứt hệ thống vua chúa
Tây Tạng và Ngài bây giờ trở thành một công dân Tây Tạng. Dân tỵ
nạn Tây Tạng cho bầu một vị Thủ tướng đại diện cho dân tỵ
nạn Tây Tạng ở Ấn Độ. Như vậy, chẳng những hệ thống quân chủ của
các vị Đạt Lai Lạt Ma sau bao nhiêu năm đã chấm dứt mà truyền
thống tuyển chọn người thừa kế cho các vị Đạt Lai Lạt Ma có lẽ
sẽ cáo chung một ngày rất gần đây. Truyền thống này do ngài Tông
Khách Ba vào thế kỷ thứ 14 đã lập hai vị đệ tử của mình làm Ban
Thiền Lạt Ma, đại diện cho trí tuệ và Đạt Lai Lạt Ma là biểu
tượng cho từ bi. Sau đó, bắt đầu vào thế kỷ thứ 15, Phật giáo
Tây Tạng tôn xưng và thần thánh hóa những vị thầy vì họ tin rằng
đây là những vị Bồ Tát hay những vị Tổ tái sinh. Vì thế chỉ có
Phật giáo Tây Tạng mới có quá nhiều truyền thuyết tái sinh tạo
thành một sự huyền bí mà có lẽ vượt ra ngoài khái niệm huyền bí
vốn có của Phật giáo Mật tông.
Nhắc lại, đạo Phật không có truyền thống thừa
kế vì đây là tư tưởng phong kiến, quân chủ, cha truyền con nối
mà đức Phật là người chống phong kiến, đập phá sự bất công, bất
bình đẳng trong xã hội. Vì thế sự xuất hiện của đức Phật là cái
gai trong mắt của người Bà la môn. Đức Phật dạy rằng ai ai cũng
đều có nước mắt cùng mặn và máu cùng đỏ như nhau cho nên ai cũng
đều có cơ hội và khả năng thành Phật vì thế trước khi nhập diệt
Ngài trả lời cho Tôn giả A Nan là sau khi Phật diệt độ thì hãy
lấy Giới làm thầy vì Giới giúp hành giả thành Phật, chớ Phật đâu
có truyền thừa cho Tôn giả Đại Ca Diếp thay mặt mình thống lãnh
(thầy) Tăng đoàn.
Chân lý Đức Phật sáng tỏ và vượt ra khỏi đạo
thế gian và xuất thế gian.Người tăng thượng mạn là những người
kiêu căng tự phụ, có ít nói nhiều, chưa chứng nói chứng, chứng
ít nói nhiều để thỏa mãn bản ngã của mình. Vì chạy theo bản ngã
nên những người nầy khi gặp dâm, nộ,
sát thì bị chìm đắm sa đọa ngay nên Phật mới khuyên họ nên tránh
xa những thứ nầy. Ngược lại nếu người không còn chấp ngã, chấp
pháp, tâm hằng tự tại thì dâm nộ sát sẽ là phương tiện rốt ráo
đi đến giải thoát giác ngộ.
Cũng không nên làm thân với những
người cầu được làm Thanh Văn, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di, cũng không nên hỏi chuyện họ. Dầu ở trong phòng, dầu
lúc đang đi kinh hành, dầu lúc ở giảng đường, bất luận ở đâu,
không nên cùng họ đứng dừng một chỗ. Nếu gặp lúc họ đến với mình
thì tuỳ nghi mà thuyết pháp, lòng đừng hy vọng mong cầu một điều
gì.
Văn Thù Sư Lợi - Bồ-tát lại còn không
nên ngó thân người nữ mà sanh lòng ham muốn rồi nói pháp cho họ
nghe, cũng đừng ưa thấy nữ nhân. Khi vào nhà người, đừng
nói chuyện với trẻ gái nhỏ, con gái lớn và đàn bà goá. Cũng
không nên gần những người “bất nam”. Đừng một mình vào nhà
người. Nếu có duyên cớ cần phải vào nhà người một mình, thì phải
giữ một tâm niệm Phật.
Khi nói Pháp cho đàn bà, con gái
nghe, đừng cười hở răng, đừng bày hông, ngực. Thậm chí đối với
người vì pháp mà đến, cũng không nên gần gũi thân mật với họ, hà
huống là đối với những người đến vì chuyện khác.
Không nên thích nuôi những đệ tử ít
tuổi, những sa-di trẻ con. Cũng không nên ưa cùng chúng một thầy,
mà nên ưa ngồi thiền ở chỗ vắng lặng, sửa
nắm tâm mình.
Đó là “thân cận xứ” thứ nhất của
Bồ-tát
Lại nữa, Bồ-tát phải thấy muôn vật
đều “không” như “ thật tướng” không điên đảo, không động, không
thối, như hư không, thấy muôn vật không có thực tánh, chẳng
sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, vô danh, vô tướng, thực không có
gì cả, vô lượng vô biên, vô ngại, vô chướng: thấy những danh từ
lời nói dùng để chỉ vật này sự nọ, đều là trái với chân lý (ngữ
ngôn đạo đoạn), chỉ vì cái nguyên nhân
đảo điên nên mới thế này thế nọ. Phải vui xét
cái tướng của vạn vật là như thế.
Đó là “ Thân cận xứ” thứ nhì của bồ
tát.
Đoạn kinh trên dạy Bồ Tát nên cẩn thận khi
giao tiếp với phái nữ vì nếu tâm mình không vững chắc thì dễ bị
dục vọng lôi cuốn nhận chìm. Ở hải ngoại có rất nhiều câu chuyện
nói về nhiều nhà sư dính dáng với phụ nữ bị tòa án Hoa Kỳ phạt
vừa tù vừa đền tiền cho nạn nhân. Đó là chưa kề nhiều sư công
khai có vợ có con mà vẫn còn mặc cà sa thuyết pháp và tự xưng là
pháp sư.
Nhưng đây không phải là tư tưởng tối thượng
Đại thừa vì ngay cả kinh Duy Ma Cật dạy Bồ Tát phải làm những
việc khó làm thì mới là Bồ Tát. Thấy biết sanh tử, ưu bi, khổ
não là việc đáng sợ, người trí phải tìm cho mình một con đường
mà y theo nghị lực và công đức của Như Lai để cứu độ chúng sinh
thoát khổ. Muốn độ chúng sinh trước hết chính mình phải dũng
mãnh trừ bỏ phiền não, thực hành chánh niệm để biết rằng thân là
vô thường, vô ngã, do tham dục, phân biệt, mộng tưởng điên đảo
tạo thành. Mà mộng tưởng điên đảo là do vô trụ làm gốc, nhưng
sau cùng thì vô trụ cũng không có gốc. Không có gốc ở đây có
nghĩa là chẳng có gì mà sanh ra tất cả các pháp. Do đó vạn pháp
gốc của nó là chẳng có gì nghĩa là Không. Nói một cách khác bản
chất của vạn pháp là giai không. Chơn Không mà sinh ra tất cả
nghĩa là bất biến mà tùy duyên tức là Chơn Không mà sinh ra Diệu
Hữu vậy.
3)An Lạc Hạnh:
Phật nói tiếp:
-Sau Như Lai diệt độ, trong đời mạt
pháp muốn nói kinh nầy, Bồ-tát phải ở yên trong “ An lạc hạnh”.
Nghĩa là, khi nói cũng như khi đọc kinh này, chẳng nên vừa nói
đến sự sai quấy của người và của kinh điển, cũng chẳng nên có
lòng khinh rẻ, kiêu ngạo đối với các Pháp sư, chẳng nên nói đến
sự tốt xấu, hay dở của người khác, đối với hàng Thanh Văn, chẳng
nên kêu đích danh mà vạch sự sai lầm, gàn dở của họ, cũng không
nên kêu đích danh mà khen tặng cái hay của họ, lại cũng không
sanh tâm thù hiềm. Khéo sửa lòng cho được an lạc như vậy thì
không làm nghịch lý người nghe. Còn có ai vấn nạn thì đừng giải
đáp bằng pháp Tiểu Thừa mà bằng pháp Đại Thừa, để cho người hỏi
được Chánh Giác.
Bồ Tát muốn thuyết pháp phải giữ lòng
an vui, trong sạch, thân thể phải tắm rửa cho sạch, mặc y mới,
nói tóm là trong ngoài phải thanh tịnh, nhiên hậu mới lên ngồi
pháp tòa, tùy lời hỏi của người mà
giảng. Đối với người vì Đạo thì đem diệu nghĩa ra mà dạy, mặt
mày hoà nhã, đối với người vấn nạn, thì tùy nghĩa mà đáp, khi
thì dùng nhân duyên, khi thì dùng thí dụ mà diễn mà giải rạch
ròi, để lần hồi dắt dẫn họ vào đường sáng (Phật Đạo). Tự mình,
phải trừ mọi ý niệm ỷ lại, mọi tư tưởng lười biếng, xa lìa mọi
lo nghĩ, buồn rầu, mở rộng lòng từ, ngày đêm nói pháp để mở mắt
cho chúng sanh mà không bao giờ mong cầu sự cúng dường, chỉ một
lòng tưởng nhớ đến việc lấy pháp làm nhân duyên để thành Phật
đạo, khiến người nghe cũng cùng một tâm niệm.
Trong thời mạt pháp, Bồ tát nào thọ
trì, đọc tụng kinh này thì không nên chứa chấp sự ganh ghét, tà
bậy, khinh khi người học Phật, không làm cho hạng tu hành chán
nản, cũng không nên đem Đạo Pháp ra bàn chơi, tranh cãi. Phải:
v
-Đối với tất cả chúng
sanh, khởi lòng đại bi.
v
-Đối với Chư Như Lai, sanh
lòng kính trọng như Cha lành
v
-Đối với Bồ-tát, sanh lòng
tôn kính như Thầy.
v
-Đối với mười phương
Bồ-tát, sanh lòng cung kính cúng dường.
Thực hiện đầy đủ pháp “an lạc” thứ ba
này, thì khi thuyết kinh, không làm cho người nghe hoang mang,
được người cùng theo mình mà đọc tụng, còn đại chúng sẽ tới nghe
lãnh lời kinh, lãnh rồi nắm giữ, giữ rồi sẽ đọc, đọc rồi sẽ
thuyết, thuyết rồi sẽ chép và khiến người cùng chép.
Tư tưởng này cũng không phải của tối thượng
Đại thừa vì còn chấp quá nhiều vào sự tướng. Đối với Phật giáo
Đại thừa, chúng sinh là không thật có, là do duyên giả hợp,
nhưng Bồ-tát vẫn thực hành tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỉ, Xả) dùng
pháp huyễn để độ huyễn chúng sinh mà chứng đắc huyễn quả. Nếu
đứng về Chân đế mà nói thì tất cả là giả huyễn, là sinh diệt còn
dựa theo Tục đế thì có thế gian, có người, có ta, có phương pháp
tu hành và dĩ nhiên có quả vị để chứng cho nên các vị Bồ-tát còn
phải vào đời để cứu giúp chúng sinh. Vì tướng trạng của thế gian
vũ trụ là sinh diệt nên khi Bồ-tát thực hành tâm từ thì các ngài
thấu suốt những chân lý của thế giới tương đối là Vô thường, Vô
ngã, Không và Khổ để chẳng những mang lại an vui hạnh phúc cho
chúng sinh mà còn giúp họ phát huy ánh sáng trí tuệ hằng sáng
trong họ. Tâm từ của đạo Phật không nhất thiết chỉ thu gọn bằng
một chữ làm lành mà có thể được nới rộng như: Tịch diệt từ, Vô
tránh từ, Bất hoại từ, Kiên cố từ, Thanh tịnh từ, Vô biên từ, La
hán từ, Bồ-tát từ, Như Lai từ, Phật đà từ, Tự nhiên từ, Bồ-đề
từ, Vô đẳng từ, Đại bi từ, Vô yểm từ, Pháp thí từ, Trì giới từ,
Nhẫn nhục từ, Tịnh tâm từ, Thiền định từ, trí tuệ từ, Phương
tiện từ, Vô ẩn từ, Thâm tâm từ, Vô cuống từ và An lạc từ. Lòng
bi của một Bồ-tát là khi Bồ-tát làm được bao nhiêu công đức lành
đều cho hết cho chúng sinh. Thấy chúng sinh được lợi lạc, được
vui thì Bồ-tát cùng vui, cùng nhau hoan hỷ nếu sự lợi lạc nầy
không xây dựng trên tư tưởng lợi mình hại người. Sau cùng tâm xả
là khi Bồ-tát làm tất cả việc lợi ích cho chúng sinh mà không
thấy mình là kẻ thi ân và không mong cầu hy vọng ở sự đền ơn đáp
nghĩa. Bồ-tát làm xong thì quên, buông xả hết. Thí dụ nếu chúng
ta giúp ai một việc gì mà tâm không chịu buông xả cứ nhớ hoài vì
còn mong sự đền đáp của người. Đây chính là con đường dẫn đến
phiền não khổ đau bởi vì thói thường con người hay quên ơn bội
nghĩa cho nên cái gì cho mình vì mình thì nhớ hoài không quên
còn cái gì vì người
cho người thì quên không cần nhớ. Do đó làm rồi
quên đi thì không còn thất vọng và dĩ nhiên phiền não cũng tan
biến. Nên nhớ bất cứ việc làm nào của chúng ta dù thiện hay ác
thì cũng đã được ghi nhận lại trong A-Lại-Da thức cho nên chúng
ta có mong đợi hay không thì cái quả kia một ngày nào đó khi gặp
duyên sẽ hiễn hiện ra. Vì thế việc làm của chúng ta đã có kết
quả rồi đâu cần phải mong chờ kẻ đền ơn người đáp nghĩa.
4) Phát Đại Bi
Tâm
Lại nữa này Văn Thù! Trong đời mạt
pháp, ai là người muốn nắm giữ Kinh Pháp Hoa, phải sanh đại bi
tâm đối với hàng xuất gia và tại gia. Đối với người chẳng phải
là Bồ-tát (chưa tu hạnh vị tha), cũng phát đại bi tâm mà nghĩ
như vầy:
Như Lai phương tiện tuỳ nghi thuyết
pháp, mà họ lại chẳng nghe, chẳng biết, chẳng thỉnh,
chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng giữ, thật là bất lợi vô cùng.
Ngày nào ta được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sẽ dùng
thần lực trí lực mà dắt dẫn họ vào ở yên trong Đạo Pháp.
Đó là pháp “ An Lạc” thứ tư.
Trong thời mạt pháp, nếu có Bồ Tát muốn thọ
trì đọc tụng kinh Pháp Hoa cho dù là tại gia hay xuất gia thì Bồ
tát phải sinh tâm đại từ bi khiến cho họ hoan hỷ tin nhận. Thậm
chí đối với những người không tin Phật pháp, hủy báng Phật pháp
cũng sinh tâm đại từ bi. Bởi vì những người đó không nghe, không
biết, không hay, không hiểu Phật pháp là một thiệt thòi to lớn
mà họ không biết cho nên Bồ Tát phát nguyện khi thành Phật thì
sẽ dùng phương tiện dẫn dắt và khuyến khích giúp họ tu.
Như Lai diệt độ rồi, Bồ-tát nào thành
tựu được pháp thứ tư này thì khi thuyết Kinh Pháp Hoa, không bao
giờ có sự sai lầm, mất mát. Người thế gian từ vua tới dân, sẽ
cung kính cúng dường, trong hư không Chư Thiên sẽ luôn luôn hộ
vệ cho. Tại sao thế? Vì kinh nầy được tất cả chư Phật ba đời bảo
hộ. Này Văn Thù, trong vô lượng nước, nghe được tên kinh nầy còn
chưa có, hà huống được thấy, được thọ trì, đọc tụng. Thí như nhà
vua dẹp giặc xong, muốn thưởng công tướng sĩ, có thể cấp cho đất
cát, y phục, ngọc ngà, châu báu, xe ngựa, nô tỳ, nhưng không bao
giờ cho viên ngọc vô giá trên mão của vua. Như Lai cũng thế. Nhờ
sức mạnh của thiền định và trí tuệ, Như Lai làm vua “ nước
Pháp”, thống ngự ba cõi. Vì ma vương không hàng phục nên Như Lai
mới dùng Hiền Thánh làm tướng để đánh ma vương. Đối với các bậc
hữu công trong trận chiến này, Pháp vương Như Lai ban cho tiền
của thiền định, giải thoát, vô lậu, thành quách niết bàn, tạm
nói là diệt độ, để dẩn dắt tâm họ, khiến
mọi người hoan hỷ nhưng chưa vì họ mà nói Kinh Pháp Hoa. Nhưng
khi binh sĩ lập được công to, nhà vua sẽ cho viên ngọc vô
giá. Như Lai cũng thế, thấy đội quân Hiền Thánh đã lập được đại
công chiến thắng ngũ ấm ma, phiền não ma, tử ma, đã diệt ba độc,
ra khỏi ba cõi, phá lưới ma, nên ban cho
Kinh Pháp Hoa là lời thuyết cao cả nhất của Như Lai.
Trước khi kết thúc phẩm này, đức Phật dùng
một ví dụ để nói lên cái cao quý của kinh Pháp Hoa mà Phật phải
đợi đúng thời cơ mới truyền lại cho chúng sinh. Ví có một nhà
vua sau khi dẹp tan bọn giặc xâm lấn lãnh thổ nên nhà vua tùy
theo công trạng mà tưởng thưởng cho quan quân đánh giặc. Nhà vua
đem vàng bạc, châu báu, đất đai, y phục mà trao tặng cho tướng
sĩ, nhưng đối với vị tướng có công trạng nhiều nhất thì nhà vua
lấy viên ngọc vô giá trên mão của mình mà trao tặng. Ở đây đức
Phật cũng vậy, khi các bậc Hiền Thánh đã đoạn trừ tất cả các
lậu, chiến thắng ngũ uẩn ma, phiền não ma, tử ma, diệt sạch mầm
mống tham sân si, thoát ra khỏi nhà tam giới tức là các ngài đã
lập được đại công cho nên đức Phật mới đem bảo vật cao quý nhất
là kinh Pháp Hoa mà trao tặng.
Thế nào là ngũ uẩn ma?
Ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức là năm
thành tố kiến tạo ra con người nói riêng và vạn vật vũ trụ nói
chung. Ngũ uẩn là thân và tâm hay còn gọi là “con người”. Đây là
một cá thể do vật chất và tinh thần hợp thành. Nói một cách rộng
rãi hơn vật chất và tinh thần hợp thành vạn vật trong vũ trụ.
Nhưng con người thật, tức là “chân nhân”, không
phải chỉ là của xác thịt và tình cảm mà nó là những thứ bất
sanh, bất diệt, không tăng, không giảm, trước sau như một mà Bát
Nhã Tâm Kinh gọi cái đó là “Không” và những kinh khác gọi là
Chơn tâm, Diệu Hữu Chơn Không, Thực Tánh, Phật Tánh, Linh Quang…
Tất cả những phiền não, lo âu, khổ sở…của
chúng ta mà kinh Pháp Hoa gọi là ma đều do cái thân ngũ uẩn mà
ra. Thân kêu đói, chúng ta lầm tưởng là cái Ta thật đói, thân
muốn ăn ngon, chúng ta lầm tưởng là cái Ta đòi ăn. Ai mắng chửi,
mạt sát, chúng ta giận vì tin rằng họ đụng chạm tới cái Ta của
mình. Nhưng tất cả những phản ứng của cơ thể hoặc của thói quen,
quan niệm, hay thành kiến kia thật ra không dính dấp gì tới cái
Ta thật hết. Nếu nhận thấy ngũ uẩn là không, có nghĩa thân nầy
là giả Có thì chúng ta không còn quan tâm lo lắng
và phiền não nữa. Có ai nói nặng nhẹ thì mình cũng thản
nhiên vì thân không thật nên chúng ta quan tâm, bảo vệ cái không
thật để làm gì? Chúng ta ăn uống để sống cũng như dùng bè
để qua sông chớ không nên cung phụng, nô lệ cho cái thân giả
nầy. Có sơn son, thếp vàng cho cái bè thì cũng phải bỏ chiếc bè
khi qua sông mà thôi. Vì thế cho dù chúng ta có cưng chìu, nâng
niu cái thân giả nầy thì một ngày nào đó cũng phải để lại cho
cát bụi mà đi.
Đức Phật muốn cho chúng ta thấu hiểu tường
tận rằng con người có làm bao nhiêu điều tội lỗi, gây ra lắm
nghiệp căn để phải chịu quả báo khổ đời đời cũng tại vì nhận lầm
ngũ uẩn là thật Có. Chính cái lầm lẫn nầy mà tam độc, tức là
Tham-Sân-Si nẩy sinh ra để gánh chịu khổ
đau. Thật vậy vì ái thân, nên lòng tham phát khởi để cố gắng tạo
nhà thật sang, xe tuyệt đẹp, tiền dư bạc để, danh vọng cao sang.
Mà muốn thỏa mãn lòng tham nầy thì con người phải khổ. Hoặc nếu
không thỏa mãn được lòng tham thì tâm sân sẽ nổi lên để biến
cuộc đời đang an vui thành trăm điều phiền não. Một khi phiền
não quấy phá thì chúng ta đâu còn trí tuệ để xét đoán việc đời
bởi vì vô minh, tức là si mê đã che lấp đỉnh cao trí tuệ làm cho
tâm con người u ám, ngu si.
Do đó nếu biết thân nầy là giả Có, tức là
không thật Có thì chúng ta không làm nô lệ cho nó. Chúng ta chỉ
dùng nó như chiếc bè để qua sông. Khi ngồi trên bè thì chúng ta
lái nó chớ đừng cho giòng nước cuốn chiếc bè theo, tức là không
chạy theo lục dục thất tình. Ai khen, ai tâng bốc thì cũng không
màng vì thân nầy không thật. Ai chê, ai mắng thì cũng không
giận, không bất mãn vì thân nầy là giả Có. Ví dụ có người lổ
mãng nói xấu hay chửi mắng mà chúng ta vẫn tự nhiên. Không phải
là chúng ta lì hay chai mặt nhưng chúng ta tư duy quán chiếu
thân nầy là giả thì thắng thua để làm gì. Ngày xưa có người Bà
la môn đi theo chửi mắng đức Phật rất thậm tệ. Hắn càng chửi thì
đức Phật càng thản nhiên. Sau cùng hắn chạy theo la lớn:”Này Cù
Đàm! Ông có điếc không? Sao ta chửi mà ông không đáp lại? Đức
Phật ôn tồn đáp: “Nếu có người tặng quà mà người khác không nhận
thì món quà ấy thuộc về ai?” Ý Phật muốn nói là ông chửi thì ông
nghe vậy thôi. Ta chẳng hề quan tâm đến thì đâu có phiền não.
Nhìn thân mình là giả cũng không đủ mà phải nhìn tất cả chúng
sinh và vạn hữu cũng đều mang ngũ uẩn giai không thì tâm mới an
được.
Thân của ta là giả Có và tất cả vạn hữu chung
quanh của ta cũng là giả Có. Vì thế cho dù cuộc đời có thăng
trầm khi lên voi hay xuống chó thì tất cả cũng chỉ nằm trong
luật vô thường là thành, trụ, hoại, không mà thôi. Vì vậy nếu
được thì cũng thế mà nếu mất thì cũng không buồn bởi vì tất cả
là Không. Không giận, không hờn, không tham, không si thì tâm sẽ
an định, tức là Niết bàn và dĩ nhiên cuộc đời làm gì còn khổ
ách. Đây chính là con đường Quán tự Tại Bồ tát thoát khỏi khổ
ách để đạt Niết bàn.
Tóm lại, trong thế gian nầy, không có cái gì
là thật có cả. Vạn pháp trong thế giới hữu hình nầy chẳng qua là
kết quả của những duyên khởi tức là ngày nay nếu duyên kết là
có, ngày mai duyên tan là mất, là hoại. Vì thế mới có câu:”Vạn
pháp giai không, duyên sanh như huyễn” là vậy. Thế giới
vũ trụ, kể cả con người đều là giả huyễn, là hư vọng thì lục
căn, lục trần, lục thức cũng là hư huyễn, là ảo ảnh, là sương
mai, là điện chớp, là phù du mà thôi. Có ai bắt được làn khói
đâu? Con người vì bị vô minh che lấp nên nghĩ rằng cái gì trong
đời nầy cũng thật, cũng bền chắc nên cố tạo tác, giữ gìn, chấp
thủ và từ đó tạo ra nghiệp nhưng đến khi xuôi tay nhắm mắt mới
biết tất cả tan biến như những làn khói lam chiều. Khi biết được
như thế thì con người sẽ không còn bám giữ tức là trong phá được
chấp ngã và ngoài chấp pháp rồi. Khi thực hành được như vậy thì
bên trong tâm không hề bị dao động và bên ngoài không bị ảnh
hưởng bởi sự thay đổi thăng trầm của tạo hóa. Được như thế thì
tâm chắc chắn sẽ thanh tịnh tức là chúng ta đang sống với chơn
tâm, với Phật tánh, với Tri Kiến Phật của chính mình vậy.
Nói chung chúng ta đi chùa, lạy Phật, học đạo
cốt là để có an lạc, nhưng nhìn lại nếu thấy bản thân mình chưa
có an lạc, gia đình chưa có an lạc thì hoặc là mình tu chưa rốt
ráo hoặc là cái học và tu của mình chưa đúng Chánh pháp. Nếu
hành giả thực hành đúng Chánh pháp thì chắc chắn sẽ có an lạc,
nếu chưa được trọn vẹn thì ít ra cũng có an lạc từng phần. Bởi
vì những lời dạy của đức Phật là chân thật, đúng theo chân lý
nghĩa là sự thật như thế nào thì Ngài nói như thế ấy. Lời nói
của Phật nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người chớ
không bao giờ lợi mình hại người khác. Lời nói của Phật trước
sau như một luôn nhắc nhở tất cả chúng sinh đi trên con đường
giải thoát giác ngộ phải tinh tấn đạt đến cứu cánh tối thượng là
trí tuệ Bồ Đề và sau cùng lời dạy của Phật là chân chính, không
bao giờ lừa đảo. Con người trong thế gian sở dĩ có lừa đảo, gian
dối với nhau cũng vì quyền lợi, ngược lại đức Phật không có vì
một quyền lợi cá nhân nào. Chính Ngài có thể sẽ là một ông vua
quyền thế trong thiên hạ, nhưng Ngài chấp nhận bố thí hết cho
đời để trở thành người Khất sĩ ôm bình bát đi xin ăn mà giáo hóa
chúng sinh. Tiến trình giải thoát để có an lạc là Giới Định Tuệ
vì thế người nào giữ Giới nghiêm minh thì chắc chắn họ sẽ có an
vui tự tại. Giữ một phần Giới thì có một phần an lạc và cứ như
thế mà tiến tu.
∆ TOP
|
NEXT
|