Phẩm
DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT BỔN SỰ
Phật
giáo Đại thừa có tất cả mười hai thể loại kinh được phân biệt
theo hình thức trình bày và nội dung giáo pháp như sau:
v
1)
Khế kinh:
Còn được gọi là Trường hàng tức là thể loại văn xuôi, trực tiếp
ghi chép giáo thuyết của Phật.
v
2)
Trùng
tụng:
Tức phần kệ tụng giải thích lại giáo thuyết mà khế kinh đã nói.
v
3)
Thọ ký:
Vốn là các đoạn văn giải thích về giáo nghĩa , đời sau đặc biệt
chỉ cho lời ấn chứng trước của Phật đối với việc làm ở vị lai
của các đệ tử.
v
4)
Phúng
tụng hay Cô khởi:
Tức là phần kệ tụng độc lập, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của
đức Phật mà không lập lại ý của văn trường hàng trước đó.
v
5)
Tự
thuyết hay Vô vấn:
Đức Phật không đợi có người hỏi pháp mà tự khai thị giáo thuyết.
v
6)
Nhân
duyên:
Ghi chép nhân duyên thuyết pháp giáo hóa của Phật, như phẩm Tựa
của kinh này.
v
7)
Thí dụ:
Dùng thí dụ để giảng nói pháp nghĩa như phẩm này.
v
8)
Bổn sự:
Các bản kinh nói về hành nghi ở đời quá khứ của Phật và đệ tử.
Những kinh mở đầu bằng câu:
“Phật như thị thuyết” cũng thuộc loại Bổn sự.
v
9)
Bổn sanh:
Thể loại kinh nói về các hạnh đại bi mà đức Phật tu hành vào
thời quá khứ.
v
10)
Phương
quảng:
Các kinh giảng nói giáo nghĩa rộng lớn sâu xa.
v
11)
Vị tằng
hữu:
Dùng những cảnh giới siêu hình để diễn tả những triết lý sâu xa
mà ngôn ngữ con người không thể giải thích được. Đạo Phật dứt
khoát không nói chuyện hoang đường, cũng không nói chuyện thần
thoại mà chỉ dùng những hình ảnh có vẻ như hoàng đường, thần
thoại, nhưng để chứa đựng một triết lý giáo dục bên trong.
o
Khi đức
Phật còn tại thế, một hôm Tỳ kheo Man Đồng Tử đặt ra những
câu hỏi siêu hình để hỏi Thế Tôn rằng :
o
Bạch Thế
Tôn! Thế giới thường hằng hay không thường hằng, hữu hạn hay vô
hạn, linh hồn với thân xác là một hay là khác. Chính Như Lai tồn
tại hay không tồn tại sau khi chết?
o
Khác với
những triết gia Long Thọ, Vô Trước
và
Thế Thân cố tìm ra những triết lý, luận thuyết để giải thích
những hiện tượng về thế giới siêu hình, ở đây Đức Phật vẫn điềm
nhiên im lặng không trả lời cho Tỳ kheo Man Ðồng Tử. Không phải
là Ngài không biết, không thể trả lời, nhưng đó không phải là
cứu cánh,
cứu cánh
của đạo
Phật
là nhổ mủi tên khổ đau của nhân loại. Điều đó xác định rằng kinh
điển của đức Phật không nói chuyện siêu hình, những gì không thể
kiểm chứng. Nếu đã không thể kiểm chứng được thì cho dù đức Phật
có giải thích cách mấy thì chẳng ai nhận thức, hiểu hay thực
hành được. Tệ hại hơn nữa là không biết, không hiểu mà cứ nhắm
mắt tin theo thì sẽ trở thành một thứ si mê tăm tối, đi ngược
lại tôn chỉ của đạo Phật là đạo giải thoát, đạo trí tuệ.
v
12)
Luận
nghị:
Đức Phật luận nghị, phân biệt thể tính các pháp, làm sáng tỏ các
pháp.
Trong
12 thể loại kinh ở trên thì chỉ có Đại thừa là có đủ 12 loại.
Còn Tiểu thừa chỉ có 9 loại nghĩa là kinh điển Tiểu thừa không
có thể loại Thọ ký, Tự thuyết và Phương quảng.
-Thọ
ký chỉ có trong kinh Pháp Hoa bởi vì Phật dựa vào tư tưởng “mọi
chúng sinh đều có Phật tánh, tri kiến Phật nên Phật mới thọ ký
vào vô lượng kiếp về sau sẽ thành Phật.
-Tự
thuyết là Phật tự ý nói chớ không phải do đệ tử hỏi. Đó là những
kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ. Thể loại Tự thuyết không có
trong Phật giáo Nguyên thủy vì Phật thuyết là do nhân duyên, do
sự thưa thỉnh của đệ tử, của đại chúng về đề tài liên quan đến
hoàn cảnh, tâm trạng và thời điểm lúc bấy giờ. Vì thế đức Phật A
Di Đà hay chư Bồ tát không hề có trong giáo lý Nguyên thủy là
như vậy.
-Phương quảng hay còn gọi là phương đẳng là các kinh nói về
nghĩa bình đẳng, rộng lớn sâu xa. Đó là các bộ Bảo Tích và Đại
Tập. Phương đẳng chia làm hai phần là Phương đẳng Hiển thuyết và
Phương đẳng Mật chú. Hiển thuyết gồm có các kinh như Bảo Tích và
Mật chú kinh thì có kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng
Liễu Nghĩa Chư Bồ tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm và Mật chú Nghi
quỹ gồm các kinh Kim Cương Đảnh Nhất Thiết Như Lai Chân Thật
Nhiếp Đại Thừa Hiển Chứng Đại Giáo Vương.
Thế thì Bổn
Sự là thể loại kinh nói về hành nghi ở đời quá khứ của Phật và
chư đệ tử. Nhưng tại sao lại phải nói về chuyện quá khứ? Bởi vì
quá khứ là nền tảng xây dựng cho hiện tại và tương lai. Tư tưởng
Tây phương có câu “Lịch sử là một cái gì tái diễn” cho nên trải
suốt chiều dài lịch sử của con người từ đông qua tây từ cổ đến
kim, lịch sử luôn tái diễn, lập lại. Hiện tượng và hoàn cảnh xã
hội tuy có khác nhau, nhưng tình tiết, nội dung và kết quả
không bao giờ sai khác. Ngày xưa có các vị thánh hiền thì ngày
nay cũng có các vị thánh hiền. Ngày xưa có bạo chúa thì ngày nay
bạo chúa cũng xuất hiện khắp nơi cho nên cổ nhân có câu “Luận cổ
suy kim” để lấy bài học người xưa làm bài học cho người
đời nay. Vì vậy Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự là nói về những việc
làm xưa của Bồ Tát Dược Vương. Phẩm này cũng giống như phẩm
Thường Bất Khinh Bồ Tát nói về thực hành tức là việc làm. Thường
Bất Khinh Bồ Tát là một vị sứ giả Như Lai đã truyền bá một thông
điệp duy nhất đến với mọi người là các ông, các bà, các anh, các
chị đều sẽ thành Phật. Tuy Ngài là vị sứ giả Như Lai, nhưng Ngài
không cần ủy nhiệm thư mà chỉ có một niềm tin thật vững chắc
rằng tất cả chúng sinh sẽ thành Phật. Vị sứ giả đó đã thành
công, thông điệp của Ngài lan rộng đến mọi người và kết quả là
Ngài đã thành Phật và vị Phật đó chính là đức Thích Ca Mâu Ni.
Thường Bất Khinh Bồ Tát đã thực hành một phận sự thì ở đây Dược
Vương Bồ Tát lại thực hành một phận sự khác.
Dược Vương là ông vua về thuốc, thế thì vị Bồ Tát này sẽ cho
chúng ta thuốc gì và để trị bệnh gì? Chúng sinh vì sống trong vô
minh bất giác nên dễ lâm vào những bệnh nan y như bệnh chấp Ngã,
chấp Pháp.
Bản ngã và ngã sở hữu là cội gốc của vô minh và từ đó nó phát
sinh đâm chồi nẫy nhánh tạo thành ba thứ vô mình căn bản
tham-sân-si.Và từ cái tam độc này nẫy sinh ra tham đắm về tài,
sắc, danh, thực, thùy còn được gọi là đam mê theo ngũ dục lạc.
Ngày nào con người còn lặn hụp trong tài sắc danh lợi ăn ngon
ngủ kỷ này thì cuộc đời không bao giờ có được an vui, tự tại.
Đến đây có người thắc mắc rằng có tiền nhiều, danh vọng lớn, ăn
ngon, mặc đẹp thì nếu đây không phải là hạnh phúc, là những cứu
cánh của cuộc đời thì còn là gì? Thật vậy, Phật giáo không phủ
nhận những hạnh phúc giả tạm nầy, nhưng nếu quán chiếu lại thì
sẽ thấy rằng tất cả những hạnh phúc ở trên đều phải có điều
kiện. Mà hễ bất cứ cái gì trên thế gian mà có điều kiện thì cái
đó bị ràng buộc. Hạnh phúc nhỏ thì ràng buộc ít còn hạnh phúc
càng nhiều thì chắc chắn sự ràng buộc càng to lớn hơn. Nói cách
khác hễ có ràng buộc dầu ít hay nhiều thì vẫn là cội nguồn cho
những nỗi khổ sau này
tức là trong cái hạnh phúc đó đã ngầm chứa mầm mống khổ đau rồi.
Trong
các phẩm trước đức Phật đã
khai, thị để chúng sinh
ngộ cái Tri Kiến Phật. Đến phẩm này thuộc về
phần thực hành nên kinh giới thiệu Bồ Tát Dược Vương để giúp
chúng sinh thực hành tức là
hội nhập cái Trí Tuệ Phật đó.
Lúc bấy giờ Bồ-tát Tú Vương Hoa bạch Phật:
-Thế
Tôn ! Làm thế nào mà Bồ-tát Dược Vương du hành tự tại nơi thế
giới Ta-bà? Bồ-tát Dược Vương có bao nhiêu ngàn muôn ức hạnh khổ
khó làm? Nguyện Thế Tôn giải nói một ít cho Thiên Long, Bát Bộ,
cho các hàng Bồ-tát từ nước khác đến cùng hàng Thanh Văn ở đây
nghe, để tất cả đều được vui mừng.
Để mở
đầu cho phẩm này kinh giới thiệu Bồ Tát Tú Vương Hoa. Tú Vương
Hoa là vua của các loài hoa đẹp. Vì trải thân làm biết bao hạnh
Bồ Tát trong nhiều đời nhiều kiếp mà ngài có thân đẹp như thế và
có tên là loài hoa đẹp nhất trong số những loài hoa. Vậy làm thế
nào Bồ Tát Dược Vương có thể dạo chơi trong thế giới Ta Bà này?
Nhưng thế nào là dạo chơi? Dạo chơi là đi chơi ở một nơi nào đó
mà không cần suy nghĩ, tính toán, không hấp tấp vội vàng mà rất
thảnh thơi tư tại. Mà muốn đạt đến những trình độ đó thì hành
giả phải thoát ra khỏi mọi trói buộc, không còn dính mắc tức là
có giải thoát. Thế giới Ta Bà đầy dẫy bất bình, bất mãn nhiều sự
khổ đau nghĩa là con người tràn ngập khổ đau thế mà Bồ Tát Dược
Vương lại du hành tự tại ở cõi Ta Bà. Vậy ngài tu theo pháp môn
gì?
Thông
thường, Ta Bà là thế giới mà chúng ta đang sống có năm châu bốn
bể, có nhiều giống dân nào là da vàng, da đen, da trắng hay da
đỏ và có mặt trăng với chị Hằng chú Cuội…nhưng kinh điển Đại
thừa khi nói về cõi Ta Bà không phải muốn đề cập đến những ý
nghĩa này. Mà cõi Ta Bà ở đây là thế giới mà trong đó tâm con
người còn chìm đắm trong tài sắc, danh lợi. Còn bị tham, sân, si
sai sử và còn chìm trong sông mê, bể ái. Còn bị vô minh phiền
não triền miên thì họ đang ở trong thế giới Ta Bà. Tuy những
người đó ở trong cõi Ta Bà này mà mặt đất trở thành Ta Bà, bằng
chứng là ngày xưa đức Phật và biết bao đệ tử của Ngài cũng ở
trên mặt trái đất này mà họ rất thanh tịnh, tâm hằng tự tại Niết
bàn chớ họ đâu có ở Tây phương cực lạc. Vì thế khi tâm mình
thanh tịnh, không còn bị ái dục nhận chìm, ra ngoài quỷ đạo của
tham sân si thì người đó ở đâu, thế giới đó trở thành thanh tịnh
cực lạc Niết bàn. Kinh Duy Ma Cật đã khẳng định rằng “Tùy kỳ tâm
tịnh tắc Phật độ tịnh” là vậy.
Đức Phật đáp rằng:
-Trong
quá khứ cách nay vô lượng hằng sa kiếp, có Phật hiệu Nhật Nguyệt
Tịnh Minh Đức. Ngài có 80 ức đại Bồ-tát, 70 hằng sa đại Thanh
Văn, thọ 42 ngàn kiếp, chư Bồ-tát cũng sống lâu như thế. Trong
nước của đức Phật ấy không có đàn bà, địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, a-tu-la… cũng chẳng có các khổ nạn. Đất bằng lưu ly, mặt
phẳng như bàn tay, có trồng cây báu trên có màn báu bao trùm,
tràng phan, hoa báu buông thòng. Khắp nước, bình báu, lò hương
dẫy đầy. Cách mỗi cây khoảng một lằn tên có một đài bằng bảy
báu. Dưới những cội cây ấy, có chư Bồ-tát, Thanh Văn ngồi. Trên
mỗi đài trăm ức chư Thiên trỗi nhạc trời, hát múa cúng dường
Phật.
Những
gì đức Phật dạy phát xuất từ đời sống kinh nghiệm và chứng đắc
của bản thân vì thế Ngài dạy chúng sinh những ý chí sắc đá, trí
tuệ cao siêu, đức sống vị tha, sự thoát ly và đặc biệt là sống
đời gương mẫu làm lợi ích cho mình, cho người. Con người vĩ đại
đó, tấm lòng đại từ đại bi đại trí tuệ đó, phương pháp giáo dục
siêu việt đó của đức Phật đã làm cho thế giới kính phục Ngài như
một đạo sư siêu việt nhất trong lịch sử nhân loại. Đạo Phật là
đạo thực hành nên đức Phật không dạy chúng sinh những giáo lý ảo
tưởng, hoang đường mà Ngài dạy những phương trình, những công
thức rất thực dụng để chúng sinh tùy theo căn cơ, sở nguyện của
mỗi người mà áp dụng để có thực chứng. Càng loại bỏ các lậu
hoặc, các tập khí con người càng an lạc mà không cần phải cầu
nguyện, cúng tế
chi cả.
Nhật
Nguyệt Tịnh Minh là bầu trời tinh tú mà chúng ta đang ở và ý
nghĩa của đoạn kinh này là muốn nói về công hạnh tu hành của
những Bồ Tát trong vô lượng hằng sa kiếp trước, vô cùng vô tận
cũng giống như sự rộng lớn của mặt trời mặt trăng mà ta đang
thấy để người đời sau nương theo đó mà tu theo. Lúc bấy giờ có
vị Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai và
trong thế giới đó có rất nhiều Bồ Tát, Thanh Văn. Vì Phật lúc
nào cũng hiện hữu, tồn tại trong không gian cho nên nếu chúng
sinh sống đúng với chân lý, sống hợp với chân lý, sống tùy thuận
chân lý thì lúc nào cũng có Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức ở bên
ta.
Quốc
độ của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức là một thế giới cực lạc vì
trong quốc độ đó rất thanh tịnh và trang nghiêm cao quý, không
hề có điều ác và khổ. Nhưng tại sao thế giới của Ngài không có
đàn bà? Không lẽ thế giới của Phật là thế giới bình đẳng mà còn
kỳ thị nam nữ? Ngày xưa đức Phật Thích Ca cho phép người nữ được
xuất gia và rất nhiều vị trở thành A la hán. Đức Phật là vị giáo
chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã xóa tan biên giới nam nữ
vì theo Ngài thì ai cũng đều có máu đỏ và nước mắt cùng mặn như
nhau. Chính tư tưởng bình đẳng chẳng những áp dụng cho nam nữ mà
còn cho giai cấp trong xã hội,
là một cái gai lớn đối với Bà la môn giáo vì trong xã hội Ấn độ
lúc bấy giờ có quá nhiều kỳ thị về giai cấp. Tuy thế giới ngày
nay tiến bộ rất xa so với ngày xưa, thời phong kiến, nhưng vai
trò của người nữ vẫn chưa được hoàn toàn bình đẳng trong mọi
phương diện. Thế thì thế giới của Phật Thích Ca có người nữ
trong khi cõi Phật của Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai lại
không có nữ nhân. Dưới cái nhìn của khoa học thì không có một
thế giới nào muốn sinh tồn và phát triễn mà không có đủ lưỡng
giới tính nam và nữ. Thuyết “Duyên Khởi” của đạo Phật cũng xác
định là bất cứ hiện tượng tinh thần hay vật chất nào cũng đều do
duyên khởi mà thành. Mà đã là do duyên khởi thì phải có lưỡng
tính. Vậy ý của kinh không có người nữ là thế nào?
Kinh
nói không có người nữ không phải thế giới đó không có sự hiện
diện của người đàn bà mà ý kinh muốn nói thế giới đó không có
gian, dâm, tật đố, thị phi nhân ngã… nghĩa là kinh nói về “Lý”
chớ không phải về “Sự”. Nói thế không có nghĩa là bất cứ người
nữ nào cũng có những thói hư tất xấu đó, nhưng kinh muốn nhấn
mạnh những yếu tố rất căn bản đưa con người đến chỗ trầm luân.
Ngay cả trong thân thể của chúng ta, nếu muốn sống yên ổn thì
phải biết ăn uống, hít thở quân bình theo thịnh khí âm dương,
còn nếu nghiêng về một bên tức là dương thịnh âm suy hay ngược
lại thì chắc chắn sẽ có bệnh. Khi nói có nam, có nữ, có tốt, có
xấu là nói về chân lý tục đế. Còn nói rằng tất cả chúng sinh đều
sẽ thành Phật là chân lý chân đế không phân biệt nam nữ, già
trẻ, bé lớn. Vì thế một ý nghĩa khác cho không có người nữ là
không còn những phạm trù phân biệt đối đãi nhị nguyên, là nguyên
nhân tạo ra những nỗi đau khổ, phiền muộn, bất toại ý của con
người.
Thuở
ấy ở thành Vương-xá, có một người đàn-ông bị vợ ngoại-tình. Anh
ta rất xấu-hổ với mọi người, nên chẳng dám
đến gần đám đông. Bẵng đi một thời-gian rất lâu, anh chẳng đi
chùa. Một hôm vào tối ngày rằm, anh đến tịnh-xá Trúc-lâm. Đức
Phật hỏi, sao lâu quá chẳng thấy anh đến nghe pháp. Anh thuật
gia-cảnh của mình cho Đức Phật nghe. Đức Phật an-ủi: "Nầy
thiện-nam-tử, những người đàn-bà trắc-nết cũng như dòng sông
nước chảy, cũng như con đường đất để người đi qua, cũng như cửa
tiệm bán rượu, cũng như một quán-trọ trong đêm tối, cũng như lu
nước để ngoài sân cho khách bộ-hành đỡ khát, họ giao-du với tất
cả mọi hạng người chẳng kể tốt xấu. Tà-hạnh quả thật là một
nguyên-nhơn sa-đoạ của phụ-nữ."
Rồi Đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:
·
Tà hạnh
là vết nhơ phụ nữ,
·
Xan tham
là uế trược người cho,
·
Điều tệ
ác quả là cấu uế
·
Trong
đời này và các đời kế.
(Kệ số 242-kinh Pháp Cú)
·
Trong
các mối bẩn nhơ vừa điểm
·
Vô minh
là ô uế cực hiểm
·
Này này,
hởi các vị Tỳ kheo
·
Mau rửa
sạch, theo hàng Vô nhiễm
(Kệ số 243-kinh Pháp Cú)
Tại
sao trong nước đó không có địa ngục, ngạ quỷ súc sanh? Khi con
người không sống với chánh niệm, chánh tư duy,
mà
chạy
theo tham đắm dục tình thì tâm của họ biến thành ngạ quỷ, địa
ngục A tỳ và thế giới họ đang sống sẽ biến thành thế giới Tà Bà
tức là thế giới phiền não khổ đau. Ngược lại, nếu họ biết sống
trong tỉnh thức chánh niệm khiến tâm được khinh an tự tại thì
chắc chắn trong cõi nước đó không bao giờ có ngạ quỷ, súc sanh
hay địa ngục A tỳ cả.
Đặc
biệt tất cả những cây cối trong nước đều làm bằng đài bảy báu mà
mỗi đài đều có một vị Bồ Tát hay Thanh Văn ngồi dưới thiền định
yên lặng và mỗi cây các nhau một trăm mét. Hình ảnh quen thuộc
này giống như ngày xưa trên đỉnh núi Linh Thứu, đức Phật và các
vị A la hán mỗi người ở một hang đá nhỏ để tinh tâm mà ngày nay
nếu ai có duyên hành hương qua xứ Phật sẽ được chứng kiến tận
mắt. Đức Phật xiễn dương lối tu độc cư tức là mỗi vị tu sĩ ở
riêng biệt trong một hang động nhỏ để tham thiền cho đến khi
chứng ngộ.
Kinh
điển Phật giáo Đại thừa thường diễn tả những cảnh giới rực rỡ
huy hoàng, nhưng đây không phải là cảnh thật mà dùng để diễn
giải một triết lý ở bên trong tức là “văn dĩ tải đạo”. Đó là Tứ
Tất Đàn tức là bốn phạm trù mà đức Phật dùng để hóa đạo khắp
chúng sinh.
Dựa
theo Luận Đại Trí Độ của Long Thọ thì giáo pháp của đức Phật có
nhiều loại sai biệt, mới nhìn vào dường như mâu thuẫn, nhưng nếu
kết hợp giáo thuyết ấy thì có bốn Tất đàn khác nhau đều là thật
nghĩa chớ không chống trái nhau.
v
1)Thế
giới tất đàn: Tùy thuận pháp thế gian mà nói
pháp nghĩa là dùng các sự vật thông thường ở thế gian như ngôn
ngữ, tư tưởng, quan niệm để thuyết minh chân lý duyên khởi khiến
cho mọi căn cơ ai cũng nghe, cũng hiểu được.
v
2)Vị
nhân tất đàn: Tùy theo căn cơ và năng lực khác
nhau của mỗi chúng sinh mà nói các pháp khiến chúng sinh khởi
thiện căn.
v
3)Đối
trị tất đàn: Nhằm đối trị các bệnh phiền não
tham, sân, si của chúng sinh, tùy bệnh mà cho thuốc pháp. Đây là
giáo pháp để diệt trừ phiền não và ác nghiệp của chúng sinh vì
đối trị
tất đàn có công năng đoạn trừ các điều ác nên còn gọi là đoạn ác
tất đàn.
v
4)Đệ
nhất nghĩa tất đàn: Phá trừ tất cả luận nghị
ngôn ngữ vì đệ nhất nghĩa là nói về chân lý tuyệt đối tức là
giáo lý thật tướng cho người căn cơ cao.
Vì
thế kinh có nói cảnh giới huy hoàng thế này, lộng lẫy thế kia là
nói theo thể loại “thế giới tất đàn” làm cho chúng sinh ái mộ
cho rằng cảnh Phật phải tuyệt vời, phước đức như thế để nương
theo đó mà tu. Đây là vấn đề tâm lý vì đức Phật biết tâm chúng
sinh lúc nào cũng chạy theo tham đắm ngay cả tu hành cũng muốn
sung sướng, giàu sang hơn những gì mình đang có nên đức Phật
mượn những thứ mà con người cho là đẹp đẻ, sang trọng để nói thế
thôi. Còn dưới tuệ nhãn của bậc giác ngộ thì cho dù là trân
châu, bảo ngọc, kim cương, hột xoàn thì cũng là những thứ hoại
diệt, vô thường, nay có mai không. Chính kinh Kim Cang có bài kệ
rằng:
·
Tất cả
pháp hữu vi,
·
Như
mộng, như huyễn, như bọt, như bóng,
·
Như
sương, như điện chớp,
·
Nên quán
tưởng như thế.
Thế
thì đền vàng, điện ngọc là quan trọng đối với phàm nhân, còn đối
với những bậc giác ngộ một khi tâm đã thanh tịnh thì bất cứ thế
giới nào họ đang sống cũng trở thành thanh tịnh Niết bàn, cõi
Phật lộng lẫy uy nga mà không cần kim cương, vàng bạc, trân châu
mã nảo chi cả. Ngày xưa đức Phật đi chân đất, đầu trần, mình chỉ
có chiếc y, ngày ăn một bửa, đêm ngủ gốc cây chớ làm gì có đền
vàng, điện ngọc. Nhưng nếu còn tham đắm vào những thứ vật chất
này thì Ngài cứ ở lại cung vàng để hưởng thụ chớ đâu cần phải
xuất gia đi tìm chân lý cứu khổ cho chúng sinh. Ngay cả sau khi
thành đạo trở về thăm lại gia đình, vua cha Tịnh Phạn cố khuyên
Ngài nên ở lại cung thành Ca tỳ la vệ vừa làm vua vừa làm Phật
(giống các vị Lạt Ma Tây Tạng), nhưng Ngài từ chối vì những thứ
hạnh phúc giả tạm đó ngầm chứa biết bao nỗi khổ bên trong để đưa
con người đến chốn trầm luân. Tại vì có thì phải chấp thủ rồi
sinh ra tranh chấp và vô minh phiền não cũng từ đó mà phát sinh
mạnh. Vì thế đức Phật Thích Ca thành Phật rồi, nhưng Ngài đâu có
bỏ thế giới xám xịt đầy gò nổng đất đá này để về thế giới tịnh
độ làm toàn bằng lưu ly xà xừ kim cương hột xoàn. Bởi vì khi tâm
đã hoàn toàn thanh tịnh thì cho dù người đó ở bất cứ chỗ nào thì
nơi đó sẽ trở thành cực lạc Niết bàn do đó chúng sinh đừng hoài
công đi tìm cõi tịnh độ nào trong càn khôn vũ trụ này trong khi
tâm mình còn chất đầy phiền não vô minh.
Lúc bấy
giờ, đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức nói kinh Pháp Hoa cho
Bồ-tát Nhất-thiết Chúng-sanh Hỉ-kiến cùng các hàng Bồ-tát, Thanh
Văn nghe.
Bồ-tát
Hỉ-kiến ưa tu tập khổ hạnh, trong pháp của Phật Tịnh Minh Đức
tinh tấn kinh hành, một lòng cầu thành Phật, mà mãn 12.000 năm,
được chánh định “ Hiện nhất thiết sắc thân”. Bồ-tát mới tự nói
trong lòng: “Được chánh định này là nhờ nghe kinh Pháp Hoa. Vậy
ta nên cúng dường Phật Tinh Minh Đức và kinh Pháp Hoa”. Tức thời
Bồ-tát nhập định, trong hư không rưới các thứ hoa hương cõi trời
cúng dường Phật.
Bồ
Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến là tiền thân của Dược Vương Bồ
Tát và cũng là vị Bồ Tát mà ai thấy cũng vui mừng, hoan hỷ. Khi
con người nở một nụ cười là biểu hiện tâm trạng khinh an nhẹ
nhàng thanh thoát. Ngược lại mặt không có nụ cười là người đó
mang nặng tâm trạng lo lắng, ưu tư, sầu muộn. Vì thế khi tâm
không còn dính mắc, ra khỏi mọi sự ràng buộc thì lúc nào trên
môi người đó cũng nở một nụ cười và đây là món quà vô giá để
tặng cho mọi người để lòng họ cũng được khinh an, tự tại
như mình.
Ngài
chuyên tu khổ hạnh, sống đời đơn giản, tri túc thiểu dục trong
12.000 năm và sau khi nghe kinh Pháp Hoa trong pháp hội của Phật
Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức thì ngài vào chánh định (tam
muội) “Hiện Nhất Thiết Sắc Thân” nghĩa là muốn thành sắc thân
nào thì ngài có thể hiện ra thành sắc thân đó vì tất cả đều là
giả huyễn nên sắc thân là không thật. Tu 12.000 năm không có
nghĩa là cuộc đời của Bố Tát lúc đó sống rất dài so với con
người bây giờ, mà nói tu 12.000 năm là kinh muốn nhắn nhủ rằng
bất cứ việc tu hành nào cũng đòi hỏi một quá trình lâu dài bởi
việc dời sông dời biển tuy khó nhưng dễ làm, còn tu tâm dưỡng
tánh là việc dễ nói nhưng khó làm vì những tập khí tham sân si
đã ăn sâu, đâm chồi mọc nhánh trong tiềm thức của con người
không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp nên không dễ gì đốn
sạch tận gốc một sớm một chiều được. Vì thế muốn hướng về đạo
quả Bồ Đề, chúng sinh phải luôn bồi dưỡng phước đức, công đức và
trí tuệ bền bỉ, không ngừng nghĩ thì sẽ có ngày chứng được đạo.
Vào
chánh định Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tức là vào tam muội để thấy
biết rõ ràng đúng như thật sắc thân này. Vậy chúng ta thấy sắc
thân mình như thế nào? Một khi đã vào được Chánh định tức là chi
thứ tám của Bát Chánh Đạo là giai đoạn mà hành giả đã an trú tâm
vào các tầng thiền na để trực nhận Chân lý. Thế thì người vào
được Chánh định là người đang sống với Tri Kiến Phật thanh tịnh
thì thấy rõ biết sắc thân tứ đại là giả huyễn chẳng khác gì giọt
sương mai đọng trên cành lá buổi sáng, như bong bóng nổi chìm
trên mặt biển chẳng có chi là bền chắc. Vì biết mình là huyễn,
thế gian là huyễn nên Bồ Tát tự tại vô ngại, không dính mắc,
không bị thế trần làm ô nhiễm. Nhờ nghe kinh Pháp Hoa nên Bồ Tát
ngộ nhập được Tri Kiến Phật nên thấy tất cả mọi chúng sinh đã
thành Phật, đang thành Phật và sẽ thành Phật nên trong ngài tất
cả những phạm trù phân biệt đối đãi nhị nguyên biến mất và sống
bằng tâm bình đẳng vị tha vô ngã. Vì sự huyền diệu của kinh Pháp
Hoa nên Bồ Tát Hỷ Kiến phát tâm cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Đức. Ngài liền nhập tam muội và ở giữa hư không và rưới
những thứ hoa thơm tho nhất để cúng dường Phật. Hoa thơm kinh
nói ở đây không phải là những loài hoa quý hiếm, đắc giá nhất
trên đời mà là hoa phát xuất từ trong tâm hồn của mình, nở ra
trí tuệ làm con người thức tỉnh nhận biết thật tướng của vạn
pháp và chân lý của cuộc đời. Thí dụ như khi sống trong bất giác
mê lầm cho dù mình có trang hoàng nhà cửa bằng những loại hoa
hiếm quý, đắc tiền thì vẫn không nhìn thấy hay thưởng thức được
vẻ đẹp của nó thế thì có hoa mà cũng như không có hoa. Ngược lại
khi sống trong tỉnh thức chánh niệm, tâm hằng thanh tịnh thì
nhìn những loài hoa dại bên đường vẫn thấy nét đẹp tự nhiên của
nó vì hoa đã nở trong lòng trước rồi.
Cúng
dường xong, Bồ-tát xuất định và tự nói trong lòng: “ Tuy ta đã
dùng thần lực cúng dường Phật, nhưng sao bằng lấy thân cúng
dường”. Bồ-tát liền uống các chất thơm, kế uống dầu làm bằng các
thứ hoa thơm mãn 1.200 năm, rồi lấy dầu thơm thoa thân, dùng áo
báu cõi trời quấn mình trước đức Phật Tịnh Minh Đức, rưới các
thứ dầu thơm lên áo và dùng sức nguyện thần thông mà tự đốt
thân. Ánh sáng tỏa soi 80 ức hằng sa thế giới. Trong ánh sáng
ấy, chư Phật đồng thời đều khen: “ Lành thay ! Lành thay ! Như
vậy mới thật là tinh tấn, mới thật là cúng dường Pháp. Các lối
cúng dường khác bằng hương hoa, chuỗi ngọc… đều chẳng bằng, thậm
chí đem cả một nước thành quách, vợ con mà bố thí cũng chẳng
bằng. Trong các lối bố thí, bố thí thân là bậc nhất”.
Nói
xong, chư Phật im lặng. Lửa thân Bồ-tát cháy trót 1.200 năm mới
tắt.
Tuy
đã cúng dường hương hoa cho Phật rồi mà Bồ Tát Hỷ Kiến vẫn chưa
mãn nguyện, ngài liền ướp các loại dầu thơm rồi châm lửa đốt
thân để cúng dường Phật. Ánh sáng cháy phát ra tỏa khắp 80 ức
hằng sa thế giới và được chư Phật mười phương ngợi khen. Trong
Phật giáo có hai loại bố thí là ngoại tài và nội tài. Bố thí
ngoại tài là biếu tặng những thứ như tiền bạc, nhà cửa, xe cộ,
áo quần, cơm ăn, nước uống…Tuy giá trị, nhưng bố thí ngoại tài
có giới hạn nên phước báu cũng giới hạn. Bố thí nội tài là hiến
máu, cho xương tủy (bone marrow), cho thận, tim, gan hay bất cứ
bộ phận nào trong thân thể hay toàn thân thể của mình cho kẻ
khác. Thứ bố thí này tương đối khó làm và ít người muốn làm nên
có giá trị cao quý hơn. Nhưng đem thân đốt để cúng dường Phật
thì công đức vô lượng bất khả tư nghì.
Phải
hiểu rằng Phật là đấng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả nên không
có một vị Phật nào ngồi đó nhìn bất cứ ai đốt thân mình để cúng
dường cho chư Phật cả mà không ngăn cản cho đến khi thân xác
cháy thanh tro rồi phát lời tán thán khen ngợi. Vậy ý kinh như
thế nào? Dựa theo tinh thần Pháp Hoa là khi hành giả “nhập” Tri
Kiến Phật thì người đó phải có đủ trí tuệ để phá ngũ uẩn mà sắc
uẩn tức là thân xác của con người. Có phá được sắc uẩn thì mới
hy vọng phá được thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Vì
vậy đốt thân để cúng dường Phật là phá sắc uẩn rồi tiếp tục phá
luôn các uẫn còn lại để tiến thẳng về quả vị Vô thượng Chánh
Đẳng Chánh giác tức là thành Phật chớ không phải đốt cái xác
thân tứ đại. Đốt thân là để xả kiến chấp,
ngã
chấp
nơi thân sắc uẩn nên không còn xem thân này là
Ta hay là của Ta nữa. Thân xác tức là sắc uẩn là do tứ đại kết
hợp mà thành nên sắc uẩn không có tự thể, không phải là của Ta
mà là của tứ đại thiên nhiên vì thế nếu không chấp Ngã thì mọi
tương quan đến thân như thất tình, lục dục, tham-sân-si, mạn,
nghi sẽ không có cơ hội phát tác.
Thế
thì ngộ đạo hay giải ngộ tức là kiến tánh dựa theo Phật giáo Đại
thừa chỉ là bước đầu trong tiến trình tu Phật. Kinh Pháp Hoa xác
định rằng “Khai,
thị, ngộ, nhập Tri Kiến Phật” nghĩa là “ngộ”
rồi mới tinh tấn tiếp tục tiến tu đến khi “nhập” mới thôi. Vì
thế “đốn
ngộ” hay “kiến
tánh” đã là rất khó, nhưng nó mới chỉ là Chánh
kiến trong Bát Chánh Đạo,
mà “thâm
nhập” tức là “thực
hành” cho đến khi liễu ngộ tức là chứng ngộ thì
mới được hoàn toàn giải thoát sinh tử luân hồi.
Tâm
kinh dạy rằng “Ngũ uẩn giai không” nên sắc thân tuy là có mà
thực chất nó là không nên tâm không còn dính mắc. Tấm thân tứ
đại do cha mẹ sinh ra là huyễn, tuy có nhưng thật chất vẫn là
không nên người nhập Tri Kiến Phật không chấp thân là của Ta nên
không quý trọng thân và không làm nô lệ cho thân mà chỉ dùng
thân như là chiếc thuyền để sang sông và dùng thân để truyền bá
Chánh pháp và làm lợi ích cho mọi người. Biết và thực hành như
vậy là đốt thân để cúng dường chư Phật. Nên nhớ, không có kinh
điển Phật giáo nào dạy chúng sinh phải đốt thân để cúng dường
cho Phật vì chư Phật đâu cần những thứ này mà thâm ý của đốt
thân là diệt sắc uẫn với mục đích phá chấp ngã về thân.
Nói
cách khác thân là tiêu biểu cho bản ngã vì bất cứ ai sống trong
thế gian này cũng đều chấp ngã. Nhưng một khi chấp bản ngã thì
thấy người khác không phải là ta thì nhân tướng nổi lên và sau
đó chúng sinh tướng và thọ giả tướng liên tục tiếp nối phát khởi
làm cho cuộc sống đầy sóng gió khổ đau. Người nào chấp về bản
ngã nặng thì dễ bị tổn thương tự ái. Nếu tự ái đúng chỗ, đúng
lúc thì con người trở thành tự trọng nên tránh những điều sai
trái vì làm sai sẽ khiến họ xấu hổ. Ngược lại nếu tự ái không
đúng chỗ thì trở thành cố chấp nên dễ giận hờn, bắt bẻ, khó chịu
bởi vì bất cứ hành động hay lời nói nào của ai thì họ cũng cho
là trái ý ta và trái ý của ta.
Phá
chấp ngã về thân là một phần của việc thực hành thiền Tứ Niệm Xứ
bởi vì mục đích tối thượng của thiền Tứ Niệm Xứ là đưa hành giả
dần dần vào các tầng thiền định và thiền na để sau cùng trí tuệ
bừng sáng mà nhận chân rằng:
ü
-Thân
thể này không phải là tôi, là của tôi.
ü
-Những
cảm thọ sướng khổ cũng chẳng liên quan gì đến cái tôi.
ü
-Cái tâm
đang quán sát cũng không phải là linh hồn của tôi.
ü
-Và tất
cả những đối tượng của tâm như ý thức và hành thức cũng không
phải là của tôi.
Chính
đức Phật dạy rằng:
-Này các Tỳ kheo, đối với bất cứ những gì
là thân
xác,
là cảm giác, thuộc về nhận thức, thói quen thường nhật, là
tri thức dù thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, thuộc
nội tâm hay bên ngoài, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay
tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì
phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để
tự nhủ rằng :
"Đấy không phải là của tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng
không phải là cái Ngã của tôi".
Vì
thế một khi đã thực sự nhận biết rốt ráo rõ ràng rằng trong ta
không hề có “Cái Ta” hay “Cái của Ta” thì lúc đó hành giả sẽ
khám phá một Chân lý tuyệt vời độc nhất vô nhị, là tinh hoa cốt
tủy của Phật giáo mà ngày xưa chính đức Phật đã chứng dưới cội
Bồ Đề là
Chân lý Vô Ngã.
Tuy
căn bản của phiền não là Kiến hoặc, Tư hoặc, nhưng cái gốc để
tạo ra những phiền não đó chính là chấp Ngã. Vì thế nếu diệt
được chấp Ngã thì tất cả vô minh phiền não cũng tan biến.
Diệu
Pháp Liên Hoa là kinh thật sâu sắc, khó nghe, khó tin, khó hiểu,
khó hành mà nghe được, tin được, hiểu được và hành được kinh để
nhận biết tất cả mọi chúng sinh đều sẽ thành Phật và sau đó hủy
hoại ý niệm chấp Ngã của mình thì người đó cúng dường pháp chân
thật nhất. Khi đốt thân thì ánh sáng tỏa khắp tám mưới ức hằng
sa thế giới nghĩa là một khi đã phá được chấp Ngã thì người đó
có giải thoát giác ngộ và đem ánh sáng giác ngộ đó của mình soi
chiếu chung quanh để mọi người cùng thấy tức là cùng giác ngộ
như mình. Ở đây Bồ Tát Hỷ Kiến dùng lửa tam muội tức là Chánh
định để đốt lửa tham, lửa sân, lửa si vì tham, sân, si không có
hình tướng thì lấy lửa nào của thế gian mà đốt được.
Một
ngày kia, tôn giả Xá Lợi Phất đang ngồi thiền trong một khu rừng
gần thành Vương Xá, trong lúc chuẩn bị để nhập chánh định thì
bỗng nhiên ngài nghe tiếng Tỳ kheo ni Ưu Ba Tiên Na gọi ngài
trong lúc bà ta đang ngồi thiền từ trong hang động đối diện. Mặc
dù ngài là bậc trưởng lão đã chứng thánh quả, Ngài cũng tôn
trọng những ni cô tu hành đắc đạo. Khi ngài vừa bước đến thì Ưu
Ba Tiên Na nói:
-Thưa tôn giả! Khi tôi đang tọa thiền, trên thân mình bỗng chạm
nhằm vật gì. Ban đầu tôi không lưu ý, nhưng sau mới biết là đụng
phải loài rắn độc. Tôi đã bị nó cắn, thế nào cũng chết. Bây giờ
thừa lúc nọc độc chưa hoành hành, xin ngài từ bi vì tôi tìm cách
mời đại chúng đến cho tôi được cáo biệt.
Khi
nói câu nói ấy, Ưu Ba Tiên Na không tỏ một chút gì kinh sợ và tư
chất của bà rất tự nhiên như chẳng có việc gì xảy ra.
Xá
Lợi Phất hỏi:
-Ở đây vừa xảy ra việc đó sao? Ta xem sắc mặt cô không có gì
biến đổi. Nếu như bị rắn cắn thì nhất định cô sẽ biến sắc.
Mới
nhìn Xá Lợi Phất cho là không có việc gì nên mới nói như thế,
nhưng Ư Ba Tiên Na trầm tĩnh đáp:
-Bạch tôn giả! Thân người là do tứ đại, ngũ uẩn hư vọng mà
thành, không có chủ tể, vốn là vô thường, vốn là “không”.
Tôi đã chứng ngộ được đạo lý ấy thành ra độc xà làm sao cắn được
cái không?
Xá
Lợi Phất khen:
-Cô nói rất đúng. Cô đã đến trình độ thoát mọi đau đớn của thân
thể. Cô dùng huệ mạng của mình mà giữ gìn sắc mặt không biến
đổi.
Xá
Lợi Phất khen ngợi Ưu Bà Tiên Na và thông tri cho tất cả các vị
tỳ kheo, tỳ kheo ni tu tập gần đó. Họ đem Ưu Ba Tiên Na ra khỏi
động thì lúc ấy nọc độc mới dần dần xâm nhập khắp người. Một lác
sau Ưu Ba Tiên Na bình thản mà nhập diệt. Tất cả đại chúng thấy
một bậc thánh được giải thoát như vậy thì ai ai cũng tán thán.
Xá Lợi Phất nói thêm:
-Người tu hành điều tâm, chủ động mà nhập diệt, đối với cái chết
của thân mình coi như bỏ cái bát độc, như bệnh nặng được lành.
Có cầu ắt có báo đáp, có chí nguyện thì nhất định sẽ thành. Đối
với họ sắp chết mà không đổi sắc, đó là dùng mắt trí huệ mà xem
tướng thế gian cũng như ra khỏi nhà lửa tam giới. Thật là đẹp đẽ
vô cùng.
Lửa thân của Bồ Tát Hỷ Kiến cháy đến 1.200 năm mới tắt là ý nói
đốt thì phải đốt lâu dài tức là trị bệnh chấp Ngã cũng cần thời
gian lâu dài để tu tập hóa giải cho hết chấp Ngã chớ không thể
nào xóa bỏ hoàn toàn ý niệm chấp Ngã một sớm một chiều được.
Cúng
dường Pháp xong và sau khi mạng chung, Bồ-tát Hỉ Kiến phục
sanh trong nước Phật Tịnh Minh Đức, tại nhà vua Tịnh Đức, phục
sanh một cách bỗng nhiên, trong trạng thái ngồi kiết già.
Đốt
thân chết đi để rồi phục sinh trở lại không có nghĩa là Bồ Tát
Hỷ Kiến tự thiêu chết đi rồi sau đó tái sinh vào làm con vua
Tịnh Đức. Mà đốt ở đây là xóa đi, hóa giải hết những căn bản bất
thiện trong tâm chớ không có đốt thiệt. Trong Phật giáo có hai
loại sinh tử:
v
1)
Phần đoạn sinh tử tức là chết thật nghĩa là đời này chết đi rồi
tái sinh sang đời kế tiếp.
v
2)
Bất tư nghì biến dịch sanh tử: nghĩa là đốt chết thân này rồi
liền phục sanh sang thân khác.
Vì
thế chết mà kinh muốn nói ở đây không phải là chết thiệt mà đốt
chết rồi sinh trở lại liền là bất tư nghì biến dịch sanh tử
nghĩa là đốt chết tất cả những thói hư tật xấu, những căn bản
tham, sân, si, những những giai đoạn làm ác xấu, những chấp ngã
chấp pháp làm ô nhiễm tâm thức của con người. Bây giờ thấu biết
chân lý nên không đi vào con đường củ nữa, không sa vào hố tội
lỗi đau thương mà sống đời sống mới lương thiện hơn, trong
sáng hơn, thánh thiện hơn thì chính mình đã sống lại tức là phục
sinh. Quá khứ không tốt đẹp nên đốt đi tức là chết để chuyển
sang đời sống hiện tại thanh cao thánh thiện hơn tức là phục
sinh vậy.
Thí dụ: Nàng Vương Thúy Kiều ngày xưa sau khi thoát khỏi lầu
xanh đã về ở với Thúc Sinh suốt 1 năm ròng và vẫn luôn khuyên
Thúc Sinh về thăm vợ cả Hoạn Thư. Họ vẫn chưa có con chung sau
nhiều năm sống cùng nhau. Sau chuyến đi thăm và quay trở lại gặp
Kiều, Thúc Sinh không ngờ rằng Hoạn Thư đã sai gia nhân đi tắt
đường biển để bắt Thuý Kiều về tra hỏi. Thuý Kiều bị tưới thuốc
mê bắt mang đi, còn mọi người trong nhà lúc đó cứ ngỡ cô bị chết
cháy sau trận hỏa hoạn. Kiều trở thành thị tỳ nhà Hoạn Thư với
cái tên là Hoa Nô. Lúc Thúc Sinh về nhà, nhìn thấy Thuý Kiều bị
bắt ra chào mình, "phách lạc hồn xiêu", chàng nhận ra rằng mình
mắc lừa của vợ cả. Hoạn Thư đã bắt Kiều phải hầu hạ, đánh đàn
cho bữa tiệc của hai vợ chồng. Đánh đàn mà tâm trạng của Kiều
đau đớn:
-
Bốn dây
như khóc như than
-
Khiến
người trong tiệc cũng tan nát lòng
-
Cũng
trong một tiếng tơ đồng
-
Người
ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
Thế
rồi, do thấy Kiều khóc nhiều, Hoạn Thư bảo Thúc Sinh tra khảo vì
lý do gì. Thúy Kiều viết tờ khai nói rằng vì cha bị oan khiên,
phải bán mình và bị lừa vào lầu xanh, sau đó có người chuộc ra
làm vợ, rồi chồng đi vắng, nàng bị bắt đưa vào cửa nhà quan...
rất tủi nhục, bây giờ chỉ mong được vào chùa tu cho thoát nợ
trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn Thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Âm
các sau vườn để tu hành.
-
Sẵn Quan
Âm các vuờn ta
-
Có cây
trăm thước, có hoa bốn mùa
-
Có cổ
thụ, có sơn hồ
-
Cho nàng
ra đó giữ chùa tụng kinh
-
Tâng
tâng, trời mới bình minh
-
Hương
hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường
-
Đưa nàng
đến trước Phật đường
-
Tam quy,
ngũ giới, cho nàng xuất gia
-
Áo xanh
đổi lấy cà sa
-
Pháp
danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
-
………
-
Cho hay
giọt nước cành dương
-
Lửa lòng
tưới tắt mọi đường trần duyên.
Nàng
Thúy Kiều cũng đốt thân ô trược, đốt cháy hết những đau thương,
vết nhơ của cuộc đời và phục sinh trở thành người tu sĩ, sống
đời thanh cao, dùng nước cành dương tưới tắt mọi tan thương, đau
khổ, phiền muộn trước kia.
Thế
là:
·
“Cổi
thanh y con xin khoát áo nâu sầm
·
Xin đức
Phật nhận con làm đệ tử
·
Vương
Thúy Kiều đã chết rồi trong ô trược
·
Pháp
danh Trạc Tuyền con xin đổi từ đây”.
Như
vậy Thúy Kiều đâu có chết mà chỉ chết cái ô trược, cái dơ bẩn
lúc còn ở trong thanh lâu, cái đau khổ lúc làm nô lệ và cái tủi
hờn khi làm vợ thứ cho người. Cũng Thúy Kiều đó, nhưng bây giờ
nàng sống với cuộc đời mới, thánh thiện hơn nên gọi là phục
sinh.
Hoá sanh
xong bèn vì cha đọc bài kệ:
ü
Đại
Vương nay nên biết
ü
Nhờ kinh
hành nơi ấy
ü
Tức thời
đặng tất cả
ü
Chánh
định trong các thân
ü
Sau cần
cố gắng hơn
ü
Nên bỏ
thân yêu mến
ü
Dâng
cúng dường Thế Tôn
ü
Để cầu
tuệ Vô Thượng
Nói
xong, thưa với vua cha:
-Trước
cúng dường Phật Tịnh Minh Đức, tôi “ giải được tất cả đà-la-ni
của tiếng nói chúng sanh”, kế lại nghe vô số kệ của Kinh Pháp
Hoa. Nay Phật Tịnh Minh Đức vẫn còn, tôi xin cúng dường nữa. Bồ
tát bèn ngồi lên đài bảy báu, bay lên hư không, qua đến chỗ Phật
Tịnh Minh Đức, làm lễ và đọc một bài kệ khen Phật:
Sau
khi đốt thân chuyển đời và có một đời sống giải thoát giác ngộ
xa lìa mọi dính mắc ràng buộc thì Bồ Tát Hỷ Kiến bây giờ bay đến
chỗ Phật Minh Đức. Bay là vì thân tâm quá nhẹ nhàng vì đã gột
rữa hết những dính mắc ràng buộc của thế trần.
ü
Lạ lùng
thay dung nhan
ü
Mười
phương soi ánh sáng
ü
Tôi đã
từng cúng dường
ü
Nay lại
còn thân kiến
Nói kệ
xong, Bồ-tát Hỉ Kiến bạch Phật Tịnh Minh Đức rằng:
-Thế Tôn
còn trụ thế chứ?”
Đức Phật
bảo:
-Giờ
diệt độ đã đến, ngươi nên sắp đặt gường đi, ta trong đêm nay sẽ
nhập Niết Bàn.
Phật lại
nói thêm:
-Ta nay
giao phó Phật-Pháp và Vô Thượng Giác cho ngươi, cho các Bồ-tát
và các Đại Đệ Tử. Ta cũng giao cho ngươi ba ngàn đại thiên thế
giới, bảy báu, các cây báu, đài báu và chư thiên hầu hạ. Sau khi
ta diệt độ, ta cũng giao cho ngươi tất cả xá lợi của ta, ngươi
nên lưu bố khắp nơi để cho đông người được xây nhiều tháp cúng
dường.
Đến cuối
đêm, Phật Tịnh Minh Đức nhập Niết Bàn.
Khi
biết Bồ Tát Hỷ Kiến xả thân cúng dường tức là biết nương theo
Phật pháp mà tu hành để chuyển hóa hết những dính mắc, ràng
buộc, những phiền muộn khổ đau, những vô minh bất giác làm trở
ngại trên con đường tiến đến Vô thượng Bồ Đề thì Phật Nhật
Nguyệt Tịnh Minh Đức bây giờ tin tưởng và giáo phó tất cả cho Bồ
Tát để vào Niết bàn. Trọng trách nắm giữ vai trò hoằng pháp rất
to lớn cho nên Phật chỉ phó thác cho người nào có thể thay thế
Ngài để gánh vác bảo trì Phật pháp.
Bồ-tát
Hỉ Kiến đã dùng gỗ chiên-đàn làm giàn hoả thiêu, thâu xá lợi
đựng vào 84.000 bình báu, xây 84.000 ngọn tháp cao ba thế giới.
Thật
ra đâu có xá lợi của vị Phật nào mà có thể nhiều đến độ có thể
chứa hết vào trong 84.000 bình báu. Và dĩ nhiên không có ai có
thể xây đến 84.000 tháp cao đến ba thế giới được. Nhưng ý nghĩa
ở đây là muốn nói lên một chân lý là bất cứ vị Phật nào cũng đều
giáng sinh trụ thế và nhập Niết bàn chớ không có ông Phật nào
sống hoài cả. Đó là ý nghĩa của định luật vô thường sinh, trụ,
dị, diệt của tạo hóa mà ngay cả đức Phật là bậc giải thoát giác
ngộ mà vẫn không thoát khỏi định luật này. Thế thì sinh tử là
chuyện thường, hễ có sinh tất có ngày hoại diệt cho nên người đệ
tử Phật xem chuyện sống chết chẳng có gì quan trọng vì nó là
chân lý nên không lo sợ buồn phiền. Một lần nữa chứng minh rằng:
“Tất
cả pháp hữu vi, như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng,
như sương, như điện chớp” chẳng có gì là bền
chắc muôn đời cả. Thế thì dưới ánh mắt của người học Phật thì
thế gian là vô thường, vô ngã nên cuộc đời luôn dính liền với
đau khổ và bất tịnh nghĩa là không bao giờ được an ổn tự tại. Vì
thế khi quán về xá lợi Phật nghĩa là quán về sự vô thường, vô
ngã của vạn pháp để tìm về sống với tánh chân thường chân ngã
thanh tịnh an lạc của chính mình. Biết như thế thì sinh thuận tử
an vậy. Người đệ tử Phật đừng nghĩ đây là chuyện hoang đường mà
chỉ là văn dĩ tải đạo chở triết lý sâu xa trong đó cho nên nói
xây tháp nhưng thật ra đâu có xây tháp gì. Còn nói về thất bảo
cũng không thật vì cho dù là vàng bạc, kim cương thì cũng là
loại hữu vi hoại diệt chẳng có gì quan trọng.
Bây giờ,
Bồ-tát lại tự nghĩ: Cúng dường xá lợi như thế chưa đủ. Bèn ở
trước 84.000 ngọn tháp, đốt 2 cánh tay được trang nghiêm bằng
trăm phước, suốt 72.000 năm, khiến vô số hạng cầu quả Thanh Văn
và vô lượng người phát tâm cầu Vô thượng giác đều đứng vững
trong chánh định “Hiện nhất thiết sắc thân”.
Bồ
Tát Hỷ Kiến xây 84.000 ngọn tháp cao ba thế giới để cúng dường
chư Phật mà vẫn chưa đủ vì tháp báu là vật chất thuộc thế giới
hữu vi sinh diệt nên chưa phải là chánh nhân để thành Vô thượng
Bồ Đề được. Mà muốn thành Phật thì phải tu trí tuệ thuộc về thế
giới vô lậu bất khả tư nghì mới thành tựu được.
Bồ
Tát Hỷ Kiến sau khi đốt thân để cúng dường Phật nghĩa là ngài đã
xả kiến chấp về chấp ngã nơi thân. Bây giờ ngài nguyện đốt luôn
hai cánh tay để cúng dường tháp Phật. Đốt thân là để phá kiến
chấp ngã nơi thân và đốt hai cánh tay là để phá nốt mọi kiến
chấp nơi tâm.
Nhưng
tại sao lại đốt hai cánh tay?
Hai
cánh tay là muốn ám chỉ cho sự phân biệt đối đãi nhị nguyên tức
là có chủ thể và đối tượng. Thông thường con người có hai cái
chấp là chấp ngã và chấp pháp tức là hai phạm trù đối đãi. Vì
thế Bồ Tát Hỷ Kiến đốt hay cánh tay ở đây là muốn đốt hết tâm
phân biệt phải trái hai bên.
Trong
kinh Duy Ma Cật, phẩm Nhập Pháp Môn Không Hai (Nguyên Lý Bất
Nhị) diễn tả rất rõ ràng những cặp phạm trù đối đãi nhị nguyên
như sau:
Trước hết vị Bồ-tát hiệu là Pháp Tự Tại trình bày:
-
SANH và DIỆT là hai. Vạn pháp xưa không sanh, nay không diệt. Tỏ
ngộ được pháp nhẫn vô sanh đó, tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Vạn
pháp từ vô thỉ đến vô chung không hề sanh diệt vì tất cả chỉ là
hiện tượng duyên khởi. Nếu bất biến tùy duyên thì vạn pháp từ tự
tánh thanh tịnh bất sanh bất diệt mà duyên khởi tạo thành con
người, cây cỏ, mặt trăng, mặt trời, động vật, thực vật, khoáng
vật hay nhân sinh vũ trụ. Rồi tùy duyên bất biến nghĩa là một
ngày nào đó khi duyên tan rã thì tất cả nhân sinh vũ trụ tan rã
quay về với tự tánh bất sanh bất diệt ban đầu nghĩa là đất về
lại với đất, nước về lại với nước…Vì thế không có cái gì thật
sanh hay cái gì thật diệt cả. Thí dụ như ra biển chúng ta thấy
nếu có gió lớn tạo thành những làn sóng nhấp nhô, chập chùng thì
gọi là sóng sanh. Nhưng thật ra đâu có làn sóng nào sanh hay
diệt đâu, chỉ vì khi duyên kết tức là có gió lớn thì có sóng và
khi duyên tan nghĩa là gió ngừng thì mất sóng mà trở về với Thể
nước phẳng lặng êm đềm ban đầu vậy thôi. Vì tỏ ngộ chân lý không
còn phân biệt có sanh có diệt nữa mà Bồ-tát Pháp Tự Tại được
pháp nhẫn vô sanh và chứng nhập Pháp Môn Không Hai. Cũng như
“Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh” nghĩa là mỗi chúng sinh là một
đóa sen, khi sen nở thì thấy được Phật tức là không còn sinh tử.
Bồ-tát Đức Thủ nói:
-
NGÃ và NGÃ SỞ là hai. Vì có ngã cho nên có ngã sở. Tôi nhận thức
rằng: nếu không có ngã thì không có ngã sở. Do duyên cớ đó, tôi
thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Ngã
là ta và ngã sở là những cái gì thuộc về ta. Con người vì còn
chấp ngã nghĩa là thấy mình là thật có nên từ đó mới tạo tác
những sở hữu cho ta được sung sướng. Thí dụ như cái nhà của ta,
cái xe của ta, con cái của ta, cái chùa của ta…Vì thấy là của
mình, của ta nên con người phải lo bảo vệ, cưng chiều cái ta và
những sở hữu của ta, nhưng cuối cùng rồi cái ta cũng mất và
những sở hữu của ta cũng phải bỏ lại cho thế gian. Người nào cái
ngã càng cao thì càng khổ sở triền miên, bất tận vì họ có cấn
cao ngã mạn, tự tôn tự đại, nhìn con người, trời đất thế gian
như cỏ rát nên thường bị cô đơn, chịu cảnh lạnh lùng và không
bao giờ an vui được. Càng chấp ngã và ngã sở nhiều thì con người
càng đau khổ vì không một ai thoát ra khỏi sinh, già, bệnh, chết
hay vô thường vô ngã được. Bây giờ nếu xả bỏ được tâm cố chấp vì
biết rằng ngã và ngã sở đều là Không, là giả huyễn, không thật
có thì tâm sẽ an vui tự tại. Bởi vì nếu là không thật thì lòng
không lo lắng, quyến luyến nhiều cho nên được không vui và mất
cũng không buồn. Theo Phật giáo thì muốn viên thành Phật đạo thì
phải diệt bản ngã nghĩa là cái ngã còn thì con đường đạt đến vô
thượng Bồ-đề vẫn còn xa. Nói một cách khác cái ngã càng thấp thì
sự an lạc, sự giải thoát càng cao đến khi cái ngã hoàn toàn tan
biến thì vô thượng Bồ-đề sẽ hiện bày. Đức Phật sau khi thành đạo
lúc nào cũng có trên ngàn đệ tử đi theo mà Ngài lúc nào cũng
vậy. Chính Ngài là một vị khất sĩ tức là người đi xin ăn, không
phải là Ngài không có đệ tử dâng cơm cúng nước nếu Ngài muốn,
nhưng Ngài tự luyện cho mình trở thành một người hoàn toàn xóa
đi bản ngã vì người ăn xin thì còn tự cao tự đại với ai? Cạo đầu
cũng là một hình thức phụ vào việc phá ngã vì người tu hành
không còn quan tâm đến hình tướng đẹp xấu của thế gian. Ngay cả
áo cà sa cũng vậy. Ngày xưa vào thời Đức Phật còn tại thế tại Ấn
độ thì màu vàng là màu mà người thế gian không tôn trọng, ưa
thích nên Thế Tôn mới chọn màu vàng làm áo cà sa. Chẳng những
thế mà Ngài còn chọn những mãnh vải rách, những tấm vải dơ dùng
để quấn tử thi mà khâu lại thành y để chống lạnh. Nói tóm lại
Đức Phật vì muốn phá hoàn toàn cái bản ngã nên đối với Ngài nhà
cửa cũng không, uy quyền cũng không, tiền bạc cũng không vì thế
Ngài mới có được vô thượng Niết bàn, vô thượng Bồ-đề.
Vì có
ngã mới sinh ngã sở tức là có Hai nên Bồ-tát Đức Thủ mới quán tu
vô ngã để trở về với Căn Bản Trí của mình mà chứng nhập Pháp Môn
Không Hai.
Bồ-tát Bất Thuần nói:
-
THỌ và BẤT THỌ là hai. Nếu đối với các pháp mà không thọ thì
không có cái được. Vì không có cái được cho nên không có lấy,
không có bỏ, không tạo tác, không hành vi. Do nhận thức như vậy,
mà tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Thọ
là cảm nhận và bất thọ là không cảm nhận. Mà cảm nhận cái gì?
Được ai khen thì vui, bị chê thì buồn, đó là có thọ. Ngược lại
khen mà không vui, chê cũng chẳng buồn là bất thọ. Khởi niệm
thương, khởi niệm ghét là thọ. Còn không ghét không thương là
bất thọ. Con người thường thích nghe tiếng khen, tâng bốc và
không thích lời chỉ trích, chê bai. Nhưng nghĩ lại lời khen,
tiếng chê chỉ là đầu môi chót lưỡi hoặc có ý đồ gạt gẩm thì có
gì là thật đâu. Ăn mà còn chê ngon chê dở là còn thọ, trái lại
ăn để sống chớ không phải sống để ăn là bất thọ. Mình giữ giới
mà còn thấy có người phá giới luật là thọ. Miệng ăn chay mà tâm
vọng thịt cá nghĩa là món chay mà gọi tên mặn là thọ, ngược lại
ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ miệng nhai thịt mà tâm nhai đậu hủ là
bất thọ. Có tiền của nhiều thì vui và nghèo đói thì buồn phiền
là thọ, còn có nhiều thêm một chút cũng vậy mà lỡ có mất cũng
không buồn là bất thọ. Thấy cảnh trái ý nghịch lòng mà không
quan tâm đến là bất thọ, người khen kẻ chê cũng chẳng ăn nhằm gì
là bất thọ. Làm việc vì lợi ích cho chúng sinh chớ không phải
cho riêng mình là bất thọ.
Vì
thế nếu không có cái thọ thì không ý nghĩ lấy bỏ, không có ý
nghĩ thương ghét, không có ý nghĩ khen chê cho nên Bồ-tát mới
chứng nhập Pháp Môn Không Hai nghĩa là quay về với Căn Bản
Trí vốn thanh tịnh hay trở về với Vô Phân Biệt Trí nên không có
vấn đề thọ hay không thọ. Không có thọ hay không thọ tức là
không Hai thì thương ghét cũng chẳng còn, khen chê biến mất,
không vui cũng chẳng buồn vì thế cuộc sống của con người sẽ vô
cùng an vui tự tại.
Bồ-tát Đức Đảnh nói:
-
CẤU và TỊNH là hai. Thấy được thực tánh của cấu thì không có
tướng tịnh. Đồng thời tùy thuận với tướng diệt của vạn pháp. Do
tỏ ngộ chân lý đó, tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Cấu
là chỉ cho những thứ phiền não, khách trần tác động hoành hành
làm cho con người đau khổ chớ không phải là dơ dáy, đất bùn, bụi
bặm. Nếu nhìn về Tướng thì thì có phiền não, có khổ đau nhưng
nếu nhìn sâu vào thực Tánh của vô minh phiền não là Phật tánh.
Mà Phật tánh là bất cấu, bất tịnh, bất sinh, bất diệt…Do đó thật
tánh của cấu, của vô minh phiền não là trong sáng, là thanh tịnh
nghĩa là tự nó không có cấu, không có vô minh phiền não. Không
có cấu thì cần gì phải có tịnh vì thế mới nói thực tánh của cấu
là Không nghĩa là trong thực tánh không có tướng cấu và cũng
không có tướng tịnh. Thí dụ nhìn lên trời thì thấy trời xanh
trong sáng, nhưng vì con mắt của ta bị nhặm nên thấy có hoa đóm
trên không. Do đó hoa đóm là không thật thì hoa đóm đâu có ảnh
hưởng gì đến trời xanh trong sáng đâu. Nói một cách khác tịnh là
vì có cấu, nay tánh của cấu vốn trong sáng, thanh tịnh thì tịnh
còn dùng vào đâu được mà nói cấu với tịnh. Không cấu, không tịnh
thì không còn đối đãi, không có nhị nguyên tức là không Hai vậy.
Bồ-tát Thiện Tú nói:
-
ĐỘNG TÂM và NIỆM TƯỞNG là hai. Nếu không động tâm thì không có
niệm tưởng. Không có niệm tưởng thì không có phân biệt. Tôi
thông suốt được chân lý ấy mà thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Khi ra phố thấy có người ăn xin bên lề đường thật tội nghiệp.
Khi mắt thấy một hình ảnh, một cảnh tượng đáng thương hay ưu ái
làm cho tâm bị giao động thì gọi là động tâm. Sau khi về nhà
chúng ta nhớ lại hình ảnh của người ăn xin đáng thương kia thì
cái nhớ lại đó gọi là niệm tưởng. Vì thế niệm tưởng chỉ có khi
nào có động tâm nghĩa là nếu không thấy người ăn xin thì không
bao giờ có kỷ niệm để nhớ lại. Do đó khi niệm tưởng khởi dậy thì
tâm bắt đầu phân biệt thiện ác, tốt xấu, nghèo giàu…tức là có
Hai. Muốn thể nhập pháp môn không hai thì Bồ-tát Thiện Tú phải
bỏ tâm phân biệt, mà muốn không còn phân biệt thì đừng tưởng nhớ
và sau cùng muốn dứt hẳn cái tưởng nhớ thì đừng có động tâm. Tóm
lại nếu muốn quay về sống với Căn Bản Trí, Vô Phân Biệt Trí thì
đừng cho tâm mình bị giao động trước bất cứ hoàn cảnh nào. Tâm
như như bất động là tâm Bồ-tát, là tâm thanh tịnh và chính là
chơn tâm, Phật tánh vậy. Ngày xưa khi vua Lưu Ly xua quân tiêu
diệt cung thành Ca Tỳ La Vệ giết chết trên mấy trăm ngàn người
dòng họ Thích Ca, trước cảnh đau thương tan tóc mà Đức Phật vẫn
điềm nhiên vì Ngài nhìn cái nhân bất thiện của những người thân
thích trong khi chúng sinh thì cứ nhìn cái quả nên thấy cảnh tan
da nát thịt mà đau lòng, xót dạ.
Bồ-tát Thiện Nhãn nói:
-
Tướng NHẤT và tướng VÔ là hai. Nếu biết rõ tướng nhất tức là
tướng vô. Bấy giờ thể nhập tánh bình đẳng. Do quá trình nhận
thức như vậy, tôi thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Có
cái một là do từ nơi không có cái gì hết nghĩa là ban đầu không
có cái gì cho nên cái đầu tiên thì gọi là cái một. Thí dụ như
trong một căn phòng trống không, nếu bây giờ chúng ta đặt một
bình hoa thì cái bình hoa nầy là cái một. Chúng ta gọi bình hoa
là cái một (tướng nhất) bởi vì trong phòng trước đây không có
bình hoa cho nên cái một là do cái không (tướng vô) mà có. Tướng
nhất tức là tướng vô,
nghĩa là chính cái nầy là do cái đối đãi của cái không mà gọi
cái nầy là có. Cho nên nếu không có cái không thì không bao giờ
có cái một. Tóm lại tất cả vạn pháp đều là do đối đãi cả nghĩa
là nếu chúng ta gọi cái nầy là một là do có cái không hay nói
ngược lại có cái không là vì do cái một. Do đó cái một cũng
chẳng thật một và cái không cũng chẳng thật không. Vì nhận thức
vạn pháp duyên sanh tương quan với nhau nghĩa là cái nầy tương
quan với cái kia hay cái một tức là cái không thì thể nhập tánh
bình đẳng, không còn đối đãi, phân biệt và sau cùng chứng nhập
Pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Diệu Tý nói:
-
Tâm BỒ-TÁT và tâm THANH VĂN là hai. Quán tướng của tâm rỗng
không như huyễn hóa, cho nên tôi còn không thấy tâm Bồ-tát, tâm
Thanh văn. Do triệt tiêu tánh chấp, tôi thể nhập Pháp Môn Không
Hai.
Tâm
Bồ-tát là người làm những điều lành, việc thiện lợi ích cho
chúng sinh. Còn tâm Thanh văn là người thấy đời đầy ô nhiễm nên
xa lánh thế gian tìm nơi u tịch tu hành để thể chứng được sự an
lạc của Niết bàn cho riêng mình. Nhưng thật ra hai cái tâm nầy
không hề khác nhau, cùng một bản thể. Vì con người còn chấp
trước, còn phân biệt nên mới thấy có sự khác biệt chớ thật ra
tâm không sai khác. Thí dụ nếu có tâm phân biệt thì chúng ta
thấy có người Tàu, người Tây hay người Mỹ, nhưng thật ra tất cả
đều là con người, cùng chung giọt nước mắt mặn hay máu cùng đỏ
như nhau. Còn phân biệt là còn kỳ thị, còn đau khổ và còn tranh
chấp đưa tới chiến tranh giết hại lẫn nhau. Khi hết phân biệt
thì có tâm bình đẳng và chấm dứt phiền não khổ đau.
Bồ-tát Phất Sa nói:
-
THIỆN và BẤT THIỆN là hai. Không khởi ý niệm thiện và bất thiện,
nhận thức thấu suốt ngằn mé vô tướng của các pháp. Do vậy, tôi
thể nhập Pháp Môn Không Hai.
Trên
thế gian thì Thiện và Bất thiện rất khó mà phân biệt. Cùng một
hành động mà có người cho là thiện trong khi người khác cho là
bất thiện. Thí dụ như ở Hoa Kỳ các bậc cha mẹ nếu muốn con cái
nên người, học hành có tương lai thì cũng có lúc quở trách la
rầy. Hành động nầy hiện tại thì có vẻ như bất thiện, nhưng khi
con nên người thì việc la mắng con cái là việc tốt. Một thí dụ
khác là việc cứu tế xả hội. Ở Hoa kỳ hằng năm có rất nhiều người
được chánh phủ cho tiền eo phe. Ðây dĩ nhiên là việc thiện,
nhưng những người lãnh tiền nầy càng ngày càng lười biếng, lấy
eo phe làm căn bản cho cuộc sống mà không chịu học hành tiến
thân gây thâm thủng ngân quỷ quốc gia và phát sinh những tệ đoan
cho xả hội cho nên việc tốt, việc thiện đã bị con người lợi dụng
mà biến thành bất thiện. Vì vậy khi con người không còn tâm phân
biệt, luôn giữ tâm thanh tịnh thì sẽ không còn bị thiện ác chi
phối vì mọi việc làm đều là lợi ích cho tất cả chúng sinh. Một
khi đã sống với thể tánh thanh tịnh của mình thì những danh từ
đối đãi thiện hay bất thiện chỉ là giả huyễn trống rỗng mà
thôi.
Bồ-tát Sư Tử nói:
-
TỘI và PHƯỚC là hai. Hiểu rõ tánh của tội và phước không khác.
Dùng trí tuệ kim cương quyết đoán một cách dứt khoát trong mọi
hoàn cảnh. Cho nên không thấy có ràng buộc và cũng không thấy có
giải thoát. Do vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Trong
bài sám hối có câu:
”Tội tánh bổn không, do tâm tạo. Tâm nhược diệt thời, tội diệt
vong” nghĩa là tự tánh của tội là Không nhưng do vô minh điên
đảo bên ngoài mà tạo ra tội. Do đó khi không còn vô minh vọng
thức nghĩa là tâm biết ăn năn, sửa đổi thì tội cũng tan biến
theo. Thí dụ như có ngọn đèn đang cháy trên bàn. Nếu nóng giận,
la hét quơ tay quơ chân làm tắt ngọn đèn. Bây giờ đèn tắt tối
thui làm cơn giận tan biến nên đi kiếm cái hộp quẹt để đốt đèn
sáng trở lại. Do đó nếu trong thời điểm con người làm sai với
Căn Bản Trí của mình thì gọi là tội, nhưng nếu biết sửa sai làm
đúng trở lại thì tội hết ngay.
Thêm
nữa, tội phước nằm trong vòng tương đối của thế gian. Thí dụ như
Tổng thống Bush đem quân sang đánh Iraq giết hại bao nhiêu người
là có tội, nhưng loại bỏ được nhà độc tài Sadam Hussen và mang
lại dân chủ cho người dân Iraq là phước. Vì thế cùng một hiện
tượng mà có người nói tội kẻ khác nói phước. Do đó nếu dùng trí
tuệ Bát nhã để soi thấu thật tánh của vạn pháp thì tội phước là
Không nghĩa là không còn trói buộc và dĩ nhiện cũng không cần
giải thoát. Vì thấy không có Hai, không còn phân biệt nên Bồ-tát
Sư Tử chứng nhập Pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Sư Tử Ý nói:
-
HỮU LẬU và VÔ LẬU là hai. Có được tâm bình đẳng với các pháp thì
không khởi tưởng hữu lậu và vô lậu. Không dính mắc ở pháp tướng
cũng không trụ chấp pháp tướng. Do vậy, tôi thể nhập Pháp môn
không hai.
Hữu
lậu là do con người chạy theo trần, chạy theo cảnh nghĩa là chạy
theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh ra chấp ngã, chấp
pháp. Có chấp ngã, chấp pháp là có Hai và cũng là nguyên nhân
làm tác động phát sinh ra vô minh vọng thức dẫn tới tham-sân-si
làm cho con người đau khổ. Có vô minh vọng thức, có đau khổ tức
là có hữu lậu. Bây giờ nếu chúng sinh biết dùng trí tuệ làm cho
lục căn thường sáng tỏ nghĩa là đừng cho lục trần quyến rủ lục
căn thì con người sẽ có tâm thanh tịnh tức là vô lậu bởi vì
chính lục căn, lục trần tự nó thanh tịnh, không ô nhiễm và không
phải là nguyên nhân của tội lổi. Do đó hữu lậu thì do ta và vô
lậu thì cũng do ta vì chúng nó không có tự thể cố định. Vì thế
nếu không còn thấy có hữu lậu hay vô lậu thì có tâm bình đẳng
tức là tâm vô phân biệt nên Bồ-tát Sư Tử Ý chứng nhập pháp Môn
Không Hai.
Bồ-tát Tịnh Giải nói:
-
HỮU VI và VÔ VI là hai. Xa lìa tất cả số thì tâm rỗng lặng như
hư không. Dùng tuệ thanh tịnh mà nhìn vạn pháp cho nên không còn
có sự trở ngại nào. Do vậy, mà tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Tất
cả các hiện tượng vạn pháp là do nhân duyên sanh khởi nên gọi là
hữu vi. Đó là con người, súc vật, chim bay cá lặn, cây cỏ, núi
sông, mặt trăng, mặt trời…Nói chung bất cứ cái gì mà có hình, có
tướng đều là hữu vi cả. Ngược lại vô vi không phải là do nhân
duyên kết tạo và chính là tự tánh của hư không vũ trụ. Nói một
cách khác bất cứ cái gì trên thế gian nầy mà con người thấy biết
được là có (hữu) và không thấy biết được thì gọi là không (vô).
Khi có sự phân biệt cái có với cái không thì có và không dĩ
nhiên là đối đãi, là Hai. Nhưng thật ra cái có (hữu) chính là
không (vô) bởi vì cái có tự nó không có tự tánh nên nó là không.
Còn cái không (vô) lại là có (hữu) vì bất biến tùy duyên nghĩa
là từ cái không mà duyên khởi sinh ra cái có. Tóm lại có tức là
không và không tức là có cho nên có và không là không Hai tức là
trở về với cái trí vô phân biệt, với căn bản trí của mình. Khi
đã hiểu chân lý nầy thì hữu và vô là không Hai nên Bồ-tát Tịnh
Giải chứng nhập Pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Na La Diên nói:
-
THẾ GIAN và XUẤT THẾ GIAN là hai. Tánh của thế gian rỗng không,
cho nên thế gian cũng tức là xuất thế gian. Trong đó không có
tướng đi vào, đi ra, không có tràn đầy, không có vơi cạn. Do
nhận thức đó, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Thông
thường con người thường hay có cái nhìn sai lầm về thế gian
chẳng hạn như thế gian tràn đầy đau khổ, đâu đâu cũng là ô
nhiễm, bất toàn nên mới hướng về cảnh giới tốt đẹp hơn là xuất
thế gian. Nhưng thật ra ngoại trần là sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp tự nó không có xấu xa tội lổi gì cả. Thí dụ như hoa có
mê hoặc ai đâu? Mê sắc là tại người chớ đâu phải tại hoa. Rượu
có làm ai say đâu? Thế mà con người chết lên chết xuống cũng vì
rượu. Ngay cả chất độc hại là Á Phiện. Các bác sĩ và bệnh viện
khắp nơi trên thế giới dùng Á Phiện để trị đau và nó chính là
chất thuốc tê hiệu nghiệm nhất. Ngược lại nếu con người say mê
nó thì tán gia bại sản, nhà tan cửa nát. Còn nội căn là mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý thì cũng chẳng có tội lổi xấu xa gì
bởi vì tự nó là thanh tịnh, không ô nhiễm. Thí dụ như con mắt
thì không ô nhiễm, nhưng khi mắt thấy nhà sang, xe đẹp thì tâm
liền phân biệt ý niệm tham muốn làm cho con người dấn thân vào
chỗ khổ. Do đó con người, vạn vật, thế gian thì tự tánh không có
xấu xa tội lổi gì cả mà tất cả những ô nhiễm, tội lổi xấu xa đều
phát xuất từ vọng niệm sai lầm. Vì thế khi tự tánh thế gian
không có gì ô nhiễm thì thế gian và xuất thế gian có khác gì
nhau. Con người vì bị vô minh che lấp nên thân khẩu ý không được
thanh tịnh mới thấy thế gian là xấu xa tội lổi, bây giờ quay về
xé tan màn vô minh hắc ám mà sống với tự tánh thanh tịnh bản
nhiên thì ở đâu cũng là cực lạc và bất cứ lúc nào cũng có Niết
bàn an lạc. Thí dụ như các vị đại A La Hán như Xá Lợi Phất, Mục
Kiền Liên, Phú Lâu Na hay Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đoạn trừ
tất cả mọi phiền não khổ đau, có được Niết bàn nghĩa là họ sống
trong cảnh giới xuất thế gian mà hằng ngày họ vẫn đi, đứng nằm
ngồi trong thế gian Ta bà tội lổi xấu xa nầy. Vậy khi có tâm
xuất thế gian thì ở đâu cũng là xuất thế gian cả, ngược lại tánh
tham, tật đố vẫn còn, lòng còn giận còn hờn, còn chấp trước thì
cho dù có ở bên cạnh Phật A Di Đà thì cũng là cảnh đau khổ của
thế gian chớ không phải là cõi Tịnh độ. Đó chính là tùy kỳ
tâm tịnh tắc Phật độ tịnh vậy. Do đó toàn bộ giáo lý của Thế Tôn
không ngoài mục đích dạy chúng sinh phải chuyển tâm chớ không
chuyển cảnh nghĩa là tâm tịnh thì có cảnh tịnh. Khi biết như thế
thì thế gian cũng là xuất thế gian tức là không Hai vậy.
Bồ-tát Thiện Ý nói:
-
SANH TỬ và NIẾT BÀN là hai. Thấy được tánh của sanh tử thì không
có sanh tử gì cả, cũng không có cột, không có mở, không có sanh,
không có diệt. Nhận thức rõ như thế, tôi thể nhập Pháp môn không
hai.
Dưới
cái nhìn của phàm phu thì sanh tử là khổ não, là đau thương vì
phải xa lìa tất cả những gì mà con người yêu thương lưu luyến.
Cũng vì có bản ngã và ngã sở nên chúng sinh thấy mình, người và
vũ trụ là thật, là chắc chắn, là của mình nên khi phải lìa xa nó
thì dĩ nhiên sẽ đau khổ vô cùng. Khi đã biết rõ những khổ đau,
bất toàn như thế thì con người cố tu luyện để lìa xa thế gian
tội lỗi nầy mà có được sự an vui tịch diệt của Niết bàn. Do đó
sinh tử và Niết bàn là Hai nghĩa là một bên là khổ đau còn bên
kia là an vui tự tại. Nhưng thật ra sinh tử và Niết bàn là không
Hai. Tại sao? Một khi con người lìa Tướng trạng mà thấy được
thật Tánh của mình thì sinh tử là Không và ngay cả Niết bàn cũng
là Không bởi vì cuộc đời là giả huyễn, là không thật nên sinh là
không, tử là không và Niết bàn cũng là không nghĩa là không có
ràng buộc thì cũng không cần giải thoát và không sanh thì không
có diệt. Thêm nữa, vì quán biết sinh tử là không nên sinh không
tham cầu và dĩ nhiên không sợ cái chết. Vô thường và bệnh chết
nó đến với mọi người bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu cho nên
người học Phật đã biết nó như thế thì không sợ vô thường và coi
thường bệnh chết. Vì thế cổ nhân cũng có câu:”Mạc
đãi lão lai phương niệm Phật, cô phần đa thị thiếu niên nhân”
nghĩa là cái bệnh chết nó đến bất cứ lúc nào và bất cứ ai cho
nên không phải già mới chết mà tuổi trẻ đầu xanh vẫn chết như
thường vì thế chúng sinh cần tu tâm niệm Phật ngay bây giờ chớ
đừng đợi đến lúc già, lúc gần chết mới tu. Khi không còn chấp
ngã thì không quan trọng cho cái thân giả huyễn nầy, sống thì an
vui tự tại, không chạy theo tham đắm ái dục và lúc ra đi cũng an
nhiên tự tại không lo không sợ, không buồn không tiếc. Tâm tự
tại là tâm thanh tịnh tức là tâm không còn phân biệt thì con
người sẽ trở về với căn bản trí của mình để chứng nhập Pháp Môn
Không Hai.
Bồ-tát Thiện Kiến nói:
-
TẬN và BẤT TẬN là hai. Vạn pháp hoặc rốt ráo tận hoặc rốt ráo
bất tận đều là tướng vô tận. Tướng vô tận tức là không. Không
thì không có tướng tận hay vô tận. Tỏ ngộ chân lý ấy, tôi thể
nhập Pháp môn không hai.
Nhìn
thế gian, vạn pháp thì thấy có ít có nhiều. Cái đếm được, biết
được, có giới hạn thì gọi là TẬN như hiện nay số người trên thế
giới là bảy tỷ, trong khu phố có năm trăm ngàn căn nhà, trái đất
có bốn đại lục và năm biển…Còn những vật thể không thể đếm được
thì gọi là BẤT TẬN hay VÔ
TẬN.
Thí dụ như nhìn lên không trung có ai đếm được có bao nhiêu vì
sao đâu? Mặc dù trái đất có năm biển nhưng có ai đo được năm
biển chứa bao nhiêu nước đâu? Tuy đếm được hay không thì vạn
pháp đều cùng chung Bản Thể, đó là Không. Nói một cách khác là
vạn pháp tuy có ít có nhiều, có to có lớn, hình tướng thay đổi,
số lượng thay đổi, nhưng tự Thể vẫn như nhau, không to không
lớn, không ít không nhiều mà bao trùm khắp cả. Khi không còn
thấy có sự khác biệt về số lượng mà chỉ còn một Bản Thể chân
không thì tất cả sẽ không có Hai tức là Bất Nhị vậy.
Bồ-tát Phổ Thủ nói:
-
NGÃ và VÔ NGÃ là hai. Ngã hãy còn không có, vô ngã càng không
thể có. Thấy được thật tướng của ngã thì không còn khởi niệm
hai. Do vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Sống
trong vô minh nên con người tin thân mình là thật nên trong ta
chắc chắn có một cái ta và vì muốn bảo vệ cái ta nầy mà tạo ra
biết bao tội nghiệp. Nhưng thân là do ngũ uẩn duyên khởi tạo
thành nên thân không có tự tánh là vô ngã tức là không. Con
người vì chấp ngã nên chạy theo sinh tử khổ đau nên chấp ngã là
sai. Nhưng nếu con người bỏ chấp ngã mà quay về chấp vô ngã tức
là chấp không thì cũng không đúng với trí tuệ bát nhã ba-la-mật
vì vẫn còn kẹt trong cái chấp cho dù đó là chấp có hay chấp
không. Cái ngã vốn không có thì cái vô ngã làm sao có thật. Nếu
thấy được thật Tánh của vạn pháp là bất sinh bất diệt, bất cấu
bất tịnh, bất tăng bất giảm nghĩa là thật Tánh của Ngã là
không có Ngã nên không còn chấp có ngã hay vô ngã nghĩa là
không còn chấp có hay chấp không tức là không còn có cái Hai.
Thấu hiểu như vậy nên Bồ-tát Phổ Thủ chứng nhập Pháp Môn Không
Hai vậy.
Bồ-tát Điển Thiên nói:
-
MINH và VÔ MINH là hai. Thật tánh của vô minh là minh. Minh cũng
không chấp thủ. Ly tất cả số. Trụ tâm trong bình đẳng không có ý
niệm hai. Do vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Vô
minh là sự mê mờ không sáng suốt của tâm thức ví như màn mây đen
phủ lên tâm trí con người từ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp và nó
chính là động lực chính làm cho con người có cái nhìn sai lạc về
bản chất thật của nhân sinh vũ trụ. Con người có lý luận sai lầm
là khi tu học Phật thì chúng sinh cố diệt vô minh và mong cầu sẽ
có được cái trí tuệ sáng suốt tức là minh. Lý luận nầy là dựa
theo Tục đế của văn tự, ngôn ngữ, của sự đối đãi loài người.
Nhưng trong thật Tánh của vô minh là minh thì lúc nào cũng có
sẳn trong chúng ta. Khi mê thì thấy có vô minh phiền não còn
tỉnh thức thì vô minh biến mất, phiền não tiêu trừ. Vì thế chúng
sinh không cần phải đi tìm minh ở đâu xa mà chỉ cần sống trong
tỉnh thức, tâm luôn giữ chánh niệm để có tâm thanh tịnh thì sẽ
không bao giờ có vô minh phiền não. Ngược lại nếu sống trong sô
bồ sô bộn, chạy theo tham-sân-si thì vô minh khởi dậy, sa hầm
sập hố vậy thôi. Thật tánh thì lúc nào cũng thanh tịnh, bất sanh
bất diệt thì làm gì có vô minh. Hiểu như thế thì vô minh và minh
là không Hai tức là chứng nhập Pháp Môn Không Hai.
Bồ-tát Hỉ Kiến nói:
-
SẮC và KHÔNG là hai. Sắc tức là không. Không phải sắc diệt mới
không. Tánh của sắc tự không. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng như
vậy. Thức là tức không. Không phải thức diệt mới không. Tánh của
thức tự không. Do quán triệt chân lý đó, tôi thể nhập Pháp môn
không hai.
Đây
là phần lập lại của Tâm Kinh:” Sắc tức là Không và Không tức là
Sắc; Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng đều như vậy”. Tất cả vạn pháp trên thế gian nầy
kể cả cái thân tứ đại của chúng ta là Sắc đều là do nhân duyên
hòa hợp tạo thành nên chúng không có chủ thể, tự tánh vì thế Sắc
là vô ngã tức là Không. Vì là vô ngã nên Sắc là vô thường nghĩa
là Sắc là sinh diệt, nay có mai không nên đừng chấp vào nó.
Nhưng tự Tánh của Sắc là Không nghĩa là không cần phải hủy hoại
Sắc mới có không mà tự chúng đã là không rồi. Ý của đoạn kinh
nầy là mặc dầu thế gian vũ trụ nầy vẫn còn, vẫn có trước mắt,
nhưng con người đừng chấp cái có của nó, đừng tham mê luyến ái
nó thì mặc dù là có nhưng nó vẫn như không. Đó chính là thấy mà
như không thấy vậy. Ngày xưa lúc Đức Phật còn tại thế thì thế
gian, vũ trụ vẫn còn sờ sờ ở đó thế mà dưới mắt của Ngài thì tất
cả là không. Không ở đây là không phải đem đập đổ, nghiền nát
tất cả mà không chính là không chấp thủ, bám víu, tham đắm, si
mê nó. Những vị hiền nhân trên thế giới như Đức Phật, Đức Khổng
Tử, Chúa Jesus…đều là những người nghèo. Tất cả đều xem thường
vinh hoa phú quý, xa lánh tham đắm thế tục nghĩa là thấy có mà
như không tức là Sắc tức thị Không nên nhân loại mới kính phục.
Còn những kẻ tham đắm như vua Kiệt, Trụ thì thế gian nguyền rủa
đến muôn đời. Thí dụ cái bình hoa rất quý, rất đẹp và đắt tiền
chưng trong phòng khách. Nếu chấp thủ mà xem bình hoa là có thì
chúng ta phải cưng chìu, lo lắng, bảo vệ, chăm sóc cái bình hoa
hơn cả bản thân của mình. Lỡ ai làm bể thì chưỡi bới, la hét,
than khóc mà tự tạo bao phiền não khổ đau cho mình. Bây giờ thấy
bình hoa là không vì cho dù chúng ta có giữ gìn cách mấy thì một
ngày nào đó nó cũng hư hại, tan biến thì cuộc sống sẽ vô cùng
nhẹ nhàng, thanh thoát. Không buộc thì cần gì phải cởi trói. Có
càng nhiều thì lo càng to, khổ càng lớn. Công danh, phú quý cũng
như đeo ách trên vai, công danh càng cao, uy quyền càng lớn thì
ách càng nặng chớ có sướng ích gì.
Vì
Sắc là không nên Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng là không. Nói một
cách tổng quát là vạn pháp là không nên không còn dính mắc,
không còn tham đắm, lo âu, phiền não vì tất cả là không Hai.
Bồ-tát Minh Tướng nói:
-
Sự sai khác của TỨ ĐẠI và sự sai khác của KHÔNG ĐẠI là hai. Tánh
của tứ đại tức là tánh của không đại. Bởi vì thời gian trước và
thời gian sau đều không, cho nên thời gian khoảng giữa cũng
không. Hiểu biết được như thế, cũng tức là nhận thức rõ tánh của
các đại. Do vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Tứ
đại là đất, nước, gió, lửa là bốn nguyên tố căn bản tạo thành
con người, thế gian và vũ trụ. Đối ngược với tứ đại là không
đại. Nhưng tự tánh của tứ đại là không tức là không đại ngay cả
trong tự tánh cũng không có thời gian trước sau hay chính giữa.
Tại sao? Nếu đứng về phương diện Tục đế thì có trước, có sau, có
đối đãi tức là có sinh diệt. Còn đứng về phương diện Chân đế thì
tất cả là không, là bất sinh bất diệt nên không có sự đối đãi
tức là không có Hai.
Bồ-tát Diệu Ý nói;
-
NHÃN CĂN và SẮC TRẦN là hai. Biết rõ tánh của nhãn căn và tánh
của sắc trần ở giữa cắt đứt sự ái nhiễm. Thế là không còn tham,
không còn sân, không còn si. Đó là trạng thái tịch diệt. Nhĩ đối
thanh, Tỷ đối hương, Thiệt đối vị, Thân đối xúc. Ý đối với pháp
cũng như vậy. Biết rõ tánh của ý căn và tánh của pháp trần, đoạn
trừ sự ái nhiễm tham, sân, si. Đạt đến trạng thái tịch diệt. An
trụ trong tỉnh giác như vậy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Đoạn
kinh nầy cũng chính là chủ yếu của Kinh Lăng Nghiêm dạy chúng
sinh kiểm soát, làm chủ sáu căn khi tiếp xúc với sáu trần để
phát sinh ra ý niệm phân biệt của sáu thức. Nên biết rằng sáu
căn của con người tự nó thanh tịnh, không ô nhiễm, nhưng khi
tiếp xúc với sáu trần liền bị sức quyến rũ của sáu trần mà phát
sinh ra ý niệm tham-sân-si để dẫn dắt con người vào vòng sa đọa.
Thí dụ bình thường thì tự thể của con mắt đâu có tội lổi xấu xa
gì, nhưng khi mắt thấy gái đẹp, nhà sang, xe tốt, tiền nhiều…thì
tâm phát sinh ý niệm tham đắm mà xúi con người làm bất cứ điều
gì để đạt được những thứ nầy. Năm căn còn lại thì cũng thế. Tai
nghe lời dịu ngọt thì mê, nghe ai chữi thì giận, nghe lời thị
phi thì thích. Mũi ngữi đồ ăn thơm thì tham ăn, ngữi không thơm
thì đánh đổ. Lưỡi nếm mùi vị thơm ngon thì tham đắm, còn nếm mùi
cay đắng thì buồn phiền…
Do đó
cho dù sáu căn có tha hồ tiếp xúc với sáu trần, nhưng Tánh của
sáu căn và sáu trần vốn tự thanh tịnh, không ô nhiễm nên sáu
thức không phát sinh ý niệm phân biệt tham đắm. Đây chính là cái
nhìn, cái nghe, cái ngữi…của người vô tâm nghĩa là trong cái
thấy không có nhãn thức giới tức là không có cái biết của sự
thấy. Các căn còn lại thì cũng thế, đó là không có Nhĩ thức
giới, Tỷ thức giới, Thiệt thức giới, Thân thức giới và Ý thức
giới. Thí dụ như khi đi chợ thì trong chợ có hàng vạn các món
hàng khác nhau. Nếu chúng ta có tâm phân biệt tức là có cái biết
của sự thấy, nghe, ngữi…thì món nào cũng thích, cái gì cũng muốn
mua. Còn bây giờ thấy thì cái gì cũng thấy mà chẳng quan tâm cái
gì cả vì trong cái thấy không có cái biết, cái phân biệt của sự
thấy nên món nào cũng vậy. Nhà cần món nào thì mua món đó, vừa
tiết kiệm thời giờ, vừa tiết kiệm tiền bạc và vừa giảm bớt lòng
tham đắm, si mê.
Bồ-tát Vô Tận Ý nói:
-
BỐ THÍ và HỒI HƯỚNG NHẤT THIẾT TRÍ là hai. Tánh bố thí tức là
tánh hồi hướng nhất thiết trí. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định và trí tuệ cũng như vậy. Tánh trí tuệ tức là tánh Hồi
Hướng Nhất Thiết Trí. Ở trong đó hội nhập tướng Nhất. Do vậy,
tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Khi
bố thí, làm phước, làm việc thiện, việc lành thì chúng ta thường
hay hồi hướng những phước đức nầy để thành tựu nhất thiết trí
nghĩa là có trí tuệ Bồ-đề hay viên thành Phật đạo cho nên bố thí
và hồi hướng là Hai. Nhưng Tánh bố thí cũng là Tánh hồi hướng
nhất thiết trí nghĩa là bố thí bất trụ tướng hay còn gọi là bố
thí vô tướng của Kinh Kim Cang tức là bố thí mà không chấp mắc
việc làm tốt, hành động giúp người của mình nghĩa là thi ân bất
cầu báo thì phước đức, công đức kia mới lan tỏa vô cùng vô tận.
Thêm nữa, bố thí là để bớt tánh tham, nhưng trong tự tánh thanh
tịnh làm gì có tánh tham. Do đó khi bố thí làm việc thiện thì
chúng ta không cần phải hồi hướng vì Tánh bố thí tức là Tánh hồi
hướng nghĩa là khi làm việc thiện thì tự nó đã có ảnh hưởng lan
rộng tốt cho chúng ta rồi. Thí dụ như chúng ta nguyện cúng dường
xây một cảnh chùa cho bá tánh thập phương có nơi tu học Phật
pháp. Việc làm tốt nầy đã làm cho tâm của chúng ta hân hoan
khoan khoái. Cái hân hoan khoan khoái nầy chính là giúp chúng ta
quay về sống gần với chân Tánh của mình thì chính mình ngay bây
giờ đã có lợi lạc rồi đâu cần gì phải hồi hướng cho mai sau. Nói
một cách khác hằng ngày con người vì bản năng ích kỷ, không chịu
bố thí giúp người nên cuộc sống xa dần với chân Tánh của mình.
Mà càng xa chân Tánh thì càng gần với vô minh phiền não vì thế
hành động bố thí là đưa con người trở về với tự tánh thanh tịnh
bản nhiên của mình thì tự mình đã có công đức rồi. Vì thế bố thí
và hồi hướng nhất thiết trí là không Hai.
Trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ thì cũng thế.
Khi con người bị vô minh phiền não che lấp nên phải chịu sinh tử
luân hồi cho nên trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và
trí tuệ là những phương tiện giúp chúng sinh phá tan màn vô minh
hắc ám để trở về với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình. Nói
một cách khác con người còn phiền não khổ đau là vì họ sống
ngược với chân Tánh tức là Tánh chân thật vốn có của mình. Do đó
khi trì giới, nhẫn nhục... là mình đến gần hơn với chân Tánh,
với tâm thanh tịnh của chính mình nên Tánh của trì giới tức là
Tánh hồi hướng rồi vậy. Thí dụ như người giữ giới phẩm hạnh thì
chính họ đã có khinh an, giải thoát, tự tại nên mặc dù không hồi
hướng gì nhưng thật chất tự nó đã có hồi hướng rồi. Chính Đức
Phật độ vô số chúng sinh mà không hề thấy có chúng sinh mình
độ, Đức Phật làm tất cả việc làm mà không thấy có công đức mình
làm và Đức Phật chứng vô thượng Bồ-đề, vô thượng Niết bàn mà
không bao giờ nói mình chứng đắc gì cả. Đó chính là tu vô tu tu,
hành vô hành hạnh và chứng vô chứng chứng. Khi Đức Phật đạt tới
chỗ thân khẩu ý thanh tịnh thì tự nó không có vô minh, không có
phiền não khổ đau, không có sinh tử luân hồi thì gọi là chứng vô
thượng Bồ-đề, vô thượng Niết bàn chớ thật ra không có chứng đắc
gì hết bởi vì hết vô minh phiền não là con người trở về với chân
Tánh của mình, là sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình
vậy thôi. Đây chính là bản lai diện mục đã có sẳn chớ đâu phải
khi thành Phật mới có.
Bồ-tát Thâm Tuệ nói:
-
KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ TÁC là hai. Không tức là vô tướng, vô tướng
tức là vô tác. Hiểu rõ không tức là vô tướng. Vô tướng là vô tác
thì tâm, ý và thức bấy giờ công dụng trở thành một. Bấy giờ một
giải thoát môn tức là ba giải thoát môn. Quán triệt chân lý đó,
tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Đừng
nghĩ rằng Không, Vô Tướng, Vô Tác là ba bởi vì ba là theo thứ tự
của con số, là văn tự của con người. Nhưng ở đây Bồ-tát Thâm Tuệ
nói Không, Vô Tướng, Vô Tác là Hai là ám chỉ sự đối đãi của tâm
và cảnh hay giữa con người và pháp tu quán chớ không phải thứ tự
hay văn tự ngôn ngữ gì cả. Tất cả vạn pháp trên thế gian nầy từ
con người cho đến động vật, thực vật hay khoáng vật là do nhân
duyên tác tạo mà thành chớ tự nó không thể phát triển hay tồn
tại được vì thế vạn pháp là vô ngã tức là Không. Vì vô ngã nên
vạn pháp phải chịu vô thường nghĩa là có sinh tất có hoại do đó
không một ai sống đời mà không chết hay chẳng có người nào trẻ
mãi mà không già, không bệnh. Nhưng trong chân Không thì vạn
pháp bất sanh bất diệt, vô hình vô tướng cho nên thật tướng của
vạn pháp chính là Vô Tướng. Vạn pháp duyên khởi với nhau mà tạo
ra muôn sinh vạn vật do đó Vô Tác là không có ai làm nên,
không có ai là tác giả cho nên vô tác là thật tướng, là vô tướng
của vạn pháp. Tóm lại, trong chân Không thì thật tướng là vô
tướng và vô tác cũng là vô tướng cho nên Không là vô tướng và vô
tướng cũng là vô tác. Chẳng phải ba mà cũng chẳng phải một nên
đây là Bất Nhị tức là không còn đối đãi, là không Hai.
Cùng lý luận nầy áp dụng cho tâm, ý và thức. Nếu thấy có tâm, ý
và thức là còn thấy có ba, nhưng thật ra thức là cái biết thì
phải cần có ý niệm sanh khởi để tạo thành cái biết và muốn có ý
niệm thì phải có tâm phát khởi những ý niệm nầy nghĩa là tâm tức
là ý và ý tức là thức vậy. Vì thế tuy nói tâm, ý, thức là ba
nhưng Bản Thể Chân Như thì thấy không ba, mà cũng không thấy
một. Chẳng phải là ba, chẳng phải là một thì đây chính là Bất
Nhị tức là không Hai.
Bồ-tát Tịnh Căn nói:
-
PHẬT, PHÁP và TĂNG là hai. Phật tức là Pháp, Pháp tức Tăng. Tam
bảo đều là tướng vô vi, đồng như hư không. Tất cả pháp cũng vậy.
Tùy thuận theo chân lý đó, thi vi hành sự. Do vậy, tôi thể nhập
Pháp môn không hai.
Khi
người Phật tử nhập môn theo đạo Phật thì được truyền thọ tam
quy, đó là quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng. Tam bảo ở đây
chính là thế gian trụ trì Tam Bảo tức là Tam bảo dựa theo hình
tướng sinh diệt bên ngoài. Đối với những người sơ cơ chưa biết
Phật pháp thì họ nghĩ rằng tượng Phật bằng đồng, bằng xi măng là
Phật bảo, Pháp là kinh sách trong tủ hay những vị Tăng trong
chùa là đại diện cho Tam Bảo. Do đó nếu người Phật tử không chịu
tu học để thể nhận được chân lý mà cứ ôm lạy tượng Phật xi bằng
vàng từ Đài Loan hoặc lạy cúng kinh sách trên bàn thờ hay phàm
Tăng thời mạc pháp nói gì nghe theo nấy thì uổng phí cả cuộc đời
tu hành của mình. Một khi đã thấu hiểu Phật pháp thì bây giờ
người Phật tử tự quy lấy và được gọi là Nhất Thể Tam Bảo bởi vì
trong Bản Thể thì Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng tuy ba nhưng mà Một
nghĩa là Phật tức là Pháp và Pháp tức là Tăng. Nói một cách khác
Phật Tánh tức là Pháp Tánh và Pháp Tánh tức là Tăng Tánh. Phật
Tánh là Tánh thanh tịnh bản nhiên không có vô minh phiền não của
mình, của con người. Còn Pháp Tánh là Tánh thanh tịnh bản nhiên
của vạn pháp như cây cỏ, núi sông, xe cộ, nhà cửa, bông hoa…Thí
dụ như núi cao sông đẹp đâu có lôi cuốn quyến rủ ai đâu? Đó là
sự thanh tịnh của thiên nhiên vũ trụ, nhưng nếu con người bị vô
minh tham dục che lấp thì thấy cảnh liền mê. Do đó mê cảnh là
tại người chớ đâu phải tại cảnh. Vì thế khi con người sống với
tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình không có vô minh tham dục
thì Phật Tánh tức là Pháp Tánh vì cả hai cùng có tánh thanh tịnh
như nhau. Bây giờ Tăng Tánh là Tánh hòa hợp của Phật Tánh và
Pháp Tánh mà Phật Tánh là Pháp Tánh cho nên Phật Tánh, Pháp Tánh
chính là Tăng Tánh. Nói một cách khác khi quy y Nhất Thể Tam Bảo
thì quy y Phật tức là quy y Pháp tức là quy y Tăng rồi vậy. Vậy
Phật, Pháp, Tăng là không Hai.
Tóm
lại khi người Phật tử tu theo hình thức bên ngoài thì dễ bị
ngoại cảnh làm thối chuyển tâm Bồ-đề của mình vì hình tướng là
sinh diệt, là thay đổi. Ngược lại nếu người Phật tử thấu hiểu
Phật pháp mà thấy được bản thể thanh tịnh của mình thì sẽ có tâm
bất thối chuyển nghĩa là khi đã biết Phật tức tâm thì ở đâu cũng
có Phật và bất cứ lúc nào cũng có Phật ở trong tâm của chúng ta
cho nên con người luôn thức tỉnh và không dám làm điều bất
thiện. Mà không có nghiệp thì không còn sanh tử luân hồi tức là
chứng được vô sanh pháp nhẫn. Đây mới là chân lý giải thoát giác
ngộ vậy.
Bồ-tát Tâm Vô Ngại nói:
-
THÂN và THÂN DIỆT là hai. Thân tức là thân diệt. Thấy được thật
tướng của thân thì không còn khởi chấp thân và sự hoại diệt của
thân. Thân và sự hoại diệt của thân không khởi ý phân biệt là
hai. Vì vậy, thân sinh tồn hay hoại diệt, không kinh hãi, không
lo lắng sợ sệt. Tỏ ngộ chân lý đó, tôi thể nhập Pháp môn không
hai.
Thân
là do bốn nhân duyên đất, nước, gió, lửa tạo thành nên thân là
vô ngã, vô thường. Vì vô thường nên một ngày nào đó thân sẽ bị
hoại và sáu căn sẽ không còn sắc bén như khi còn khỏe mạnh thì
gọi là thân diệt. Hiện tượng nầy là cho tất cả chúng sinh chớ
không sót một ai vì thế bệnh, già, chết là chuyện thông thường
không có gì lo sợ. Kinh có câu:
“Dược y bất tử bệnh, Phật hóa hữu duyên nhơn” nghĩa là thuốc là
để trị bệnh không chết chớ còn bệnh chết thì không có thuốc
chửa. Cũng như Phật chỉ hóa độ chúng sinh là những người có
duyên còn những người vô duyên thì Phật cũng không hóa độ được.
Khi biết được thật tướng của thân hay của vạn pháp là không
tướng thì con người sẽ không còn lo lắng về sinh, lão, bệnh, tử
nữa. Vì trong tướng không thì vạn pháp không sanh, không diệt,
không tăng, không giảm thì làm gì phải lo có thân hay sợ thân
diệt. Vì chấp ngã nên con người sống mà luôn sợ bệnh, sợ chết,
nhưng có lo, có sợ mà con người vẫn bị bệnh, vẫn chết như thường
cho nên người biết quán vô thường thì họ coi bệnh hay chết như
trò chơi chả có gì quan tâm, kinh hãi. Biết như thế thì
thân và thân diệt là Bất Nhị, là không Hai.
Bồ-tát Thượng Thiện nói:
-
THÂN, KHẨU, Ý là hai. Ba nghiệp đều là tướng vô tác. Tướng vô
tác của thân tức là tướng vô tác của khẩu. Tướng vô tác của khẩu
tức là tướng vô tác của ý. Tam nghiệp là tướng vô tác. Tất cả
pháp cũng là tướng vô tác. Dùng tuệ vô tác nhận thức chân lý và
tùy thuận chân lý ấy, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Dựa
theo văn tự ngôn ngữ thì thân khẩu ý phải là ba, nhưng ở đây Bồ
tát Thượng Thiện nói thân khẩu ý là Hai là muốn ám chỉ cho sự
đối đãi. Đó là chính mình là mình và thân khẩu ý là của mình nên
có Hai, có sự đối đãi. Mà ba nghiệp là thân nghiệp, khẩu nghiệp
và ý nghiệp đều là tướng vô tác nghĩa là không có ai là tác giả.
Thân là tướng vô tác thì khẩu và ý nương tựa vào thân thì chắc
chắn khẩu và ý cũng là tướng vô tác. Mà tướng vô tác chính là
thật tướng, là vô tướng của vạn pháp. Nếu đã là vô tướng, thật
tướng thì tướng vô tác của thân là tướng vô tác của khẩu và cũng
là tướng vô tác của ý, tuy ba nhưng mà Một, không còn phân biệt
đối đãi tức là không Hai. Một khi tam nghiệp, thân khẩu ý là
tướng vô tác thì tất cả các pháp cũng đều là vô tướng, là thật
tướng và đều là tướng vô tác cả.
Bồ-tát Phước Điền nói:
-
LÀM PHƯỚC LÀM TỘI, LÀM KHÔNG PHƯỚC KHÔNG TỘI là hai. Thật tánh
của ba việc là vắng lặng rỗng không. Không thì không thấy có làm
phước, không thấy có làm tội, không thấy có làm không phước
không tội. Không khởi ý niệm chấp mắc ở ba việc làm. Do vậy, tôi
thể nhập Pháp môn không hai.
Thế
nào là làm phước? Phải chăng đó là chúng ta làm bất cứ việc gì
mà không trái lại với tự tánh thanh tịnh bản nhiên hay chân Tánh
của mình vậy thôi. Nói một cách khác nếu chúng ta cả đời không
làm gì sai trái với chân Tánh thì chính mình trở về sống với cái
tự tánh thanh tịnh ban đầu mà con người gọi là thành Phật. Do đó
làm phước thật sự không có cái gì thêm hay bớt cả mà cũng chỉ là
vắng lặng trống không. Cũng như nói tu hành là để chứng đắc vô
thượng Niết bàn hay vô thượng Bồ-đề. Đây chỉ là cách nói của văn
tự ngôn ngữ con người, nhưng thật ra không có cái gì gọi là
chứng đắc cả. Một khi chúng sinh biết lau sạch bụi vô minh phiền
não thì cái gương được sáng, nhưng trước khi có bụi bặm thì cái
gương rất trong sáng đâu có dơ? Vậy trước khi bị vô minh phiền
não thì chúng sinh đều là Phật, nhưng lần theo thời gian cái bụi
bặm vô minh phiền não phủ lên trí tuệ trong sáng làm cho con
người sống xa với chân Tánh của mình nên mới chịu quay cuồng
trong sinh tử khổ đau. Còn làm tội là làm đau khổ cho mình, cho
người và cho tất cả chúng sinh. Mà tánh của tội cũng rỗng không.
Nếu tội là cố định, cứng ngắt thì làm sao con người có thể tu
hành, sám hối mà trở thành toàn thiện được? Kinh lại dạy rằng:
“tội tánh bổn không, do tâm tạo; tâm nhược diệt thời, tội diệt
vong” nghĩa là khi mê thì tội lổi chất chồng, sống trong đau khổ
triền miên, nhưng khi thức tỉnh, biết sám hối, biết ăn năn thì
tội lổi tan biến. Tội là do tâm vì tâm mê nên có ý nghĩ, lời nói
hay hành động điên đảo, nay tâm thức tỉnh, biết sám hối thì tội
diệt, tội đâu còn. Như vậy nếu nhìn từ bên ngoài thì thấy có
phước, có tội, có thiện, có ác tức là sống với tâm sinh diệt,
nhưng thật Tánh của phước, của tội là rỗng không, là chân Không
thì làm tội, làm phước hay ngay cả làm không phước không tội là
chẳng phải ba mà cũng chẳng phải một là Bất Nhị tức là không
Hai. Thí dụ như chúng ta cầm một ly thuốc độc ví cũng như tội
lổi. Nếu uống hết ly thuốc độc nầy chắc chắn chúng ta phải chết,
nhưng bây giờ nếu đem ly thuốc độc nầy hòa tan vào trong cái ao
nước trong thì cho dù có uống năm ly chúng ta cũng chẳng hề hấn
gì. Tổi lổi thì cũng thế. Nếu con người vì vô minh mà tạo nhiều
tội lổi, nhưng nay biết thức tỉnh, sám hối và tạo rất nhiều việc
thiện thì tội lổi xưa từ từ tan biến. Cái khác nhau giữa Bồ-tát
và phàm nhân là Bồ-tát thì làm bất cứ việc gì có lợi cho chúng
sinh mà làm xong là bỏ, là quên hết, thi ân bất cầu báo. Ngược
lại phàm nhân thì cái gì có lợi cho mình mới làm và làm xong thì
nhớ hoài, không quên vì tâm còn mong cầu đền đáp. Vì thế khi
thấu suốt thật Tánh của mọi hành động là Không, là trống rỗng
thì sẽ không còn chấp việc làm của mình nữa. Không nhớ, không
chấp thì làm mà không chán, không mệt mỏi, ngược lại cho dù là
làm việc thiện với tâm mong cầu thì một ngày nào đó con người sẽ
không còn thích thú, hăng say hoạt động như thưở ban đầu.
Bồ-tát Hoa Nghiêm nói:
-
Từ bản ngã khởi chấp hai là hai. Biết được thật tướng của bản
ngã không khởi chấp hai. Không khởi chấp hai thì không có cái
biết và đối tượng bị biết. Quán triệt chân lý đó, tôi thể nhập
Pháp môn không hai.
Bây
giờ không còn hai hay ba đối tượng như những phần trên mà chỉ
còn là một, đó là bản ngã. Vậy Thế nào là bản ngã khởi chấp? Khi
nghĩ rằng cái nhà nầy là của tôi, cái xe đẹp kia là của tôi, cái
công ty đồ sộ cũng là của tôi, con cái của tôi thì thế nầy thế
kia…do đó từ một cái bản ngã mà bắt đầu khởi chấp là có sự phân
biệt, so sánh đối đãi tức là có Hai. Mà khởi chấp là do tâm sinh
diệt, tâm vọng tưởng sinh khởi tạo thành, nhưng thật Tướng của
bản ngã là không thì làm gì có cái chấp biết và đối tượng bị
biết. Khi lìa Tướng nhập Thể nghĩa là xa lánh cái tâm vọng
tưởng, biết kiểm soát sáu căn mà quay về sống với bản Thể thanh
tịnh của mình thì bản ngã đâu còn. Không còn bản ngã thì không
có cái Hai.
Bồ-tát Đức Tạng nói:
-
Có tướng sở đắc là hai. Không sở đắc thì không có tham lấy,
không chê bỏ. Do trụ trong tâm bình đẳng không lấy bỏ, tôi thể
nhập Pháp môn không hai.
Kẻ tu
hành mà thấy mình có chứng đắc là có Hai. Kinh Bát Nhã dạy
rằng:”Vô trí diệt vô đắc” nghĩa là không có cái trí tuệ hay cái
chứng đắc gì cả. Khi chúng sinh đoạn trừ hết vô minh phiền não
để có cuộc sống vô cùng an vui tự tại thì gọi là chứng đắc nầy
nọ, nhưng thật ra trước khi loại bỏ vô minh phiền não thì chúng
sinh đâu có vô minh phiền não. Vậy có an vui tự tại là cái đã có
chớ đâu phải cái chưa bao giờ có. Vì thế tu hành thì nhà Phật
gọi là hồi đầu thị ngạn nghĩa là biết thức tỉnh mà quay thuyền
trở lại bến xưa vậy thôi. Cho nên nếu thấy có chứng đắc thì vẫn
còn có tham tức là vẫn còn vô minh phiền não. Nói một cách khác
là thuyền chưa cập bến được.
Bồ-tát Nguyệt Thượng nói:
-
TỐI và SÁNG là hai. Không tối không sáng thì không hai. Ví như
nhập định diệt thọ tưởng, không còn nhận thức tối sáng. Đối với
tất cả pháp tướng cũng như vậy. Hội nhập với tâm bình đẳng ấy,
tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Nếu
có sự phân biệt đối đãi thì thấy có sự khác nhau như tối và
sáng, như trí tuệ với vô minh, như thiện với ác, như khổ và vui,
nhưng khi hội nhập với tâm bình đẳng tức là đang sống với căn
bản trí, vô phân biệt trí cũng như người nhập định diệt thọ
tưởng không còn thấy biết sự khác biệt của thế giới bên ngoài mà
tất cả chỉ hướng về nội tâm trong sáng ở trong nên tất cả là
không, là bình đẳng, là vô vi, là thanh tịnh. Như thế tối sáng
là của thế giới hữu hình, là Hai. Còn pháp Tướng của tất cả vạn
pháp là vô hình, là của thế giới vô vi thì làm gì còn có phân
biệt, có đối đãi nên không có Hai tức là Nất Nhị.
Bồ-tát Bảo Ấn Thủ nói:
-
Ham mộ NIẾT BÀN, nhàm chán THẾ GIAN là hai. Không ham mộ Niết
bàn, không nhàm chán thế gian thì không hai. Vì sao? Vì rằng: Ai
có bị trói buộc mới mong cầu mở. Người không bị buộc trói còn hy
vọng mở cái gì? Không bị buộc, không cần mở, cũng không nhàm
chán, không có ham mộ. Thâm ngộ chân lý đó, tôi thể nhập Pháp
môn không hai.
Đây
là diễn giải một chân lý siêu việt mà người tu Phật nên thấu
suốt. Nói theo lẽ thông thường thì bất cứ ai tu Phật cũng đều
nhàm chán cảnh thế gian dẫy đầy tội lổi xấu xa mà tìm về cảnh
giới an vui tịch diệt của Niết bàn. Nếu nghĩ như thế thì nhàm
chán thế gian và ham thích Niết bàn chắc chắn là Hai. Bây giờ tự
hỏi tại sao lại phải nhàm chán thế gian? Phải chăng những người
đó đang bị thế gian hoành hành, gánh chịu trăm điều phiền não
khổ đau? Nhưng tại sao lại cũng cái thế gian nầy mà có rất nhiều
người gọi nó là tội lổi xấu xa lại cũng có nhiều người sống an
vui tự tại chẳng hạn như Đức Phật, các vị A La Hán và biết bao
người khác nữa. Vậy đâu là chân lý? Hãy quay về nhìn lại có cái
gì là tội lổi xấu xa trong thế gian nầy chăng? Cây cỏ, núi sông,
nhà cửa, xe cộ, hảng xưởng, thức ăn, thức uống đâu có cái gì tự
nó là xấu xa tội lội đâu? Cái mà con người cho rằng xấu xa tội
lổi là do cái nhìn có vô minh phiền não, tham đắm của mình mà
ra. Khi tâm chất đầy tham-sân-si, ái dục thì nhìn cái gì cũng
mê, cũng thích, cũng muốn chiếm hữu và đây chính là những vẩn
đục đeo trước con mắt của họ khiến họ nhìn thế gian là bất toàn,
khổ não. Nhưng bây giờ nếu lấy cái vẩn đục kia đi và cũng nhìn
cái thế gian đó với tâm trong sáng, thanh tịnh, không còn vô
minh phiền não thì cái tội lổi khổ đau biến mất và thế giới nầy
trở thành cực lạc. Vậy ai cột trói mình? Chính mình tự cột trói
lấy mình, tự mình chuốc lấy bao hệ lụy của phiền não khổ đau,
chính mình chạy theo tham-sân-si, mạn nghi, tà kiến chớ đâu phải
thế gian. Nếu mình tự trói buộc mình thì chính mình tự cởi trói
lấy. Còn nếu sống an vui tự tại, tâm hằng thanh tịnh nghĩa là tự
mình không trói mình thì cần gì phải cởi trói.
Tóm
lại nếu không buộc thì không cần mở, không nhàm chán thế gian
thì chẳng cầu mong ham mộ Niết bàn nghĩa là không còn vô minh
phiền não tức là có Niết bàn rồi cần gì phải cầu với mong, chứng
với đắc cho nên thế gian, Niết bàn là không Hai tức là Bất Nhị.
Bồ-tát Châu Đảnh nói:
-
CHÁNH ĐẠO và TÀ ĐẠO là hai. Trụ ở chánh đạo thì không phân biệt
tà hay chánh. Do ly cái tướng hai, tôi thể nhập Pháp môn không
hai.
Tuy
đạo Phật là đạo của từ bi, nhưng không vì thế mà người nào cũng
được Đức Phật độ. Từ khi Đức Phật Thích Ca thành đạo đến nay thì
đạo Phật chỉ độ cho những ai có duyên với Phật pháp và không thể
nào độ cho người vô duyên được. Vì thế nếu theo học với chánh
pháp, sống với chánh pháp thì người đó là chánh đạo. Ngược lại
có người theo những tôn giáo khác thì gọi là ngoại đạo và nếu là
những tôn giáo cực đoan thì gọi là tà đạo. Nếu đứng về hình
tướng thì thấy có chánh có tà, có tốt có xấu vì chúng ta còn tâm
phân biệt, nhưng đứng về Thể Tánh, Thật Tướng thì tất cả chúng
sinh nào có khác gì nhau, cùng có Phật Tánh cho dù là người tà
đạo. Do đó nếu nhìn thấu suốt qua hình tướng để vào Bản Thể Chân
Như thì không thấy có chánh có tà nghĩa là chẳng phải Hai mà
cũng chẳng phải một tức là Bất Nhị, là không Hai. Mặc dù Phật
giáo không những có trước những tôn giáo khác trên năm sáu trăm
năm mà còn có thể phát triển và duy trì mà không bao giờ dùng
đến bạo lực và không hề bị hoen ố bởi những cuộc chiến tranh tôn
giáo và thánh chiến. Ngày nay có những tôn giáo rất cực đoan đã
và đang tàn sát những tôn giáo khác. Họ có những niềm tin rất
điên cuồng phát sinh từ tính độc tôn đố kỵ làm cho nhân loại
phải sống trong khổ đau như thế giới hiện nay. Cho dù thế gian
có xoay vần thế nào đi chăng nữa, Phật giáo luôn khuyên người tu
Phật luôn trụ nơi chánh đạo thì không còn phân biệt chánh hay
tà. Nói một cách khác khi trụ nơi chánh đạo là trụ nơi thật
Tướng thì vạn pháp là không. Không còn thấy tướng thì không có
phân biệt đối đãi mà sống với căn bản trí hay vô phân biệt trí
thì chẳng còn thấy chánh và cũng chẳng thấy tà tức là Bất Nhị.
Vì thế thay vì ghét hay kỳ thị tà đạo, người trụ ở chánh đạo là
người đang sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình luôn
dùng tâm từ bi mà đối xử tốt với họ vì họ là những người đáng
thương, là những chúng sinh đi lầm đường lạc lối cũng vì bị vô
minh che lấp. Nên nhớ đây là giáo lý liễu nghĩa thượng thừa để
đưa người tu viên thành Phật quả. Còn giáo lý nhân thừa hay giáo
lý hữu vi, giáo lý tục đế thì người Phật tử có biểu tình, có đấu
tranh, có chết chóc, có ta có người, có tốt có xấu tức là có
Hai. Do đó Bất Nhị là thanh tịnh, là an vui tự tại. Còn có Hai
là còn đau khổ chập chồng.
Bồ-tát Nhạo Thật nói:
-
THẬT và KHÔNG THẬT là hai. Thật thấy hãy còn không thấy thật
huống hồ không phải thật. Vì sao? Vì cái thấy của nhục nhãn
không thể thấy đúng chân lý. Chỉ có tuệ nhãn mới thấy đúng chân
lý. Tuệ nhãn không thấy gì hết nhưng không có gì không thấy. Do
tỏ ngộ chân lý đó, tôi thể nhập Pháp môn không hai.
Trước
hết hãy tìm hiểu thế nào là
thật thấy và
thấy thật. Khi mở mắt hằng ngày chúng ta thấy
tất cả vạn pháp như con người, xe cộ, nhà cửa, vật dụng, máy
bay, cây cỏ, núi sông, mặt trời, mặt trăng…thì tin chắc là
thật thấy những hiện tượng nầy. Thí dụ như nhìn
chiếc xe thì biết chắc rằng đó là chiếc xe vì nó là chiếc xe chớ
không phải cái nhà. Vật thể là của thiên nhiên, nhưng con người
đặt cho nó cái tên rồi tin chắc nó là cái tên mà họ đã đặt cho.
Thí dụ như một người khi còn ở Việt Nam có tên là Sơn, nhưng khi
qua định cư ở Mỹ liền đổi lại thành Sam như thế thì tên nào là
tên thật của anh ta? Chẳng có cái tên nào là tên thật cả. Nếu là
tên thật thì không bao giờ có thể gọi được vì là vô hình vô
tướng thì làm sao đặt tên được do đó hôm nay gọi là Sam, ngày
mai nổi hứng gọi là Jimmy hay John cũng vậy thôi. Cái mà con
người tin chắc là
thật thấy thì thật ra chỉ là giả thấy mà thôi.
Thí dụ như ra sau vườn thì thấy một đóa hoa rất xinh đẹp vừa mới
nở. Do đó ai dám bảo thấy đóa hoa là không thật thấy. Nhưng một
tuần sau thì cũng nơi đó mà đóa hoa tan tả biến mất. Thế thì cái
thật thấy nầy chỉ là cái thấy của sự biến đổi
sinh diệt của nhân sinh vũ trụ chớ không có gì là thật thấy cả.
Vì ngay trong thời điểm chúng ta thấy vật đó thì chính nó đang
tự hủy hoại rồi. Còn
thấy thật thì như thế nào? Tất cả vạn pháp trên
thế gian vũ trụ nầy là do duyên sanh mà thành chớ không có vật
gì tự nó có thể phát triển hay tồn tại được nên tất cả vạn pháp
là vô ngã, là sinh diệt tức là Không. Khi thấy rằng thật tướng
của vạn pháp là không tướng tức là tướng không sanh, không diệt
thì cái thấy nầy mới gọi là
thấy thật. Cái thật tướng nầy là tướng vô, là
không có hình tướng thì mắt thường làm sao thấy được. Nhưng cũng
chính cái tướng vô nầy mà do nhân duyên hòa hợp lại tạo thành
tất cả. Do đó muốn
thấy thật cái tướng
vô nầy thì phải dùng con mắt trí tuệ (tuệ nhãn) để tư duy, quán
chiếu mà nhận biết nó thì cái thấy biết nầy mới là
thấy thật vậy. Khác với nhục nhãn là thấy biết
những hiện tượng sinh diệt, tuệ nhãn có thể thấy biết không
tướng, thật tướng của vạn pháp. Vì là không tướng, không hình
không sắc nên không thấy gì hết, nhưng chính cái không tướng nầy
là chân Không bao trùm khắp vũ trụ nên mặc dù không thấy nhưng
đây mới chính là thấy tất cả. Các vị Phật và Bồ-tát thì các Ngài
đâu có mở mắt lớn như phàm nhân mà họ thấy tất cả, thấy thấu
suốt cả tam thiên đại thiên thế giới cũng vì các Ngài dùng tuệ
nhãn và Phật nhãn. Còn chúng sinh thì lúc nào mắt cũng mở to mà
thấy biết lầm lẩn, cái thấy là thấy bởi vô minh vọng thức nên
mặc dù chúng sinh có thấy thật nhưng không thật thấy. Nói tóm
lại mọi vật thể trên thế gian là giả tạm, là sinh diệt, là mong
manh nên mất đi rất dễ dàng vì thế con người thật thấy hình
tướng diện mạo của nó mà thật ra là không thấy thật. Chỉ khi nào
con người thấy được chân Không, thật Tướng của vạn pháp thì bây
giờ mới gọi là thấy thật, thấy đúng chân lý, thấy không có phân
biệt đối đãi là Bất Nhị tức không Hai.
Tóm
lại, Bồ Tát Hỷ Kiến đốt thân là đốt đi ý niệm chấp Ngã và đốt đi
cả hai tay là đốt đi tất cả những phạm trù đối đãi nhị nguyên
tức là không còn thương ghét, phải quấy, tốt xấu, thân sơ…mà
phải nhìn thế gian vũ trụ với tinh thần bình đẳng vô ngã vị tha.
Các
Bồ-tát, trời, người A-tu-la… thấy vậy đều sầu khổ buồn
thương. Bồ-tát ở trong đại chúng, bèn lập thệ: Ta bỏ 2 tay ắt sẽ
được thân Phật. Nếu quả đúng như vậy, thì xin cho 2 tay ta tự
nhiên trở lại, ấy là nhờ phước đức và trí tuệ thuần hậu của
Bồ-tát.
Kinh
nói đốt hai tay là đốt đi những cặp phạm trù đối đãi. Đó là ngã
và pháp tức là chủ thể và đối tượng. Thân và sơ là hai cho nên
xóa bỏ những ý niệm giúp người thân bỏ người sơ là bất nhị.
Thương và ghét là Hai cho đến đốt luôn ý niệm thương người này
ghét người kia là bất nhị. Những cặp phạm trù khác là phải quấy,
hơn thua, tốt xấu, khôn dại…cần phải đốt hết tức là mình đã đốt
hai cánh tay rồi đấy chớ đâu phải đốt cánh tay của mình thật.
Sau khi đốt hết những phạm trù đối đãi phân biệt nhị nguyên thì
những bất bình đẳng thiện ác, tốt xấu sẽ vĩnh viễn biến mất
trong tâm hồn của chúng ta. Vì thế khi bỏ được những cội gốc
phát sinh ra vô minh phiền não tham, sân, si thì hành giả mới
tiến về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là thành Phật được.
Tóm
lại, thâm ý của kinh về đốt thân hay đốt hai cánh tay là đốt hết
những quan hệ về chấp ngã và những cặp phạm trù đối đãi phân
biệt nhị nguyên là nguồn gốc phát sinh ra vô minh phiền não để
hoàn thành Phật đạo bởi vì không còn sống trái với chân lý thì
nguyên nhân gây ra đau khổ sẽ không có nên từ đó mới có thể
thành Phật, chớ Phật không bao giờ kêu gọi bất cứ ai đốt thân
hay bất cứ phần nào trong thân thể của mình để cúng dường Phật
cả. Nên nhớ bất cứ vật gì trong thế giới hữu vi quý báu như kim
cương, vàng bạc hay thân thể thì cũng đều là những thứ hoại
diệt, nay có mai không nên chẳng có giá trị gì đối với bậc giác
ngộ. Ngày xưa đức Phật đâu cần lầu vàng gác tía mà Ngài rất
thảnh thơi tự tại ở dưới gốc cây. Thấu hiểu được chân lý đó thì
hay cánh tay trở lại nghĩa là thấy biết tất cả mà không chấp vào
đó. Biết thân, biết cảm thọ nhưng không chấp nó là ta, là của
ta. Biết thế gian biến đổi khôn lường, nhưng đừng chấp tốt xấu,
thân sơ, phải quấy, thiện ác cho nên đốt là xóa sạch những ý
niệm phân biệt đối đãi chớ có đốt thiệt đâu mà cần phải hoàn
lại. Phật là đấng đại từ đại bi nên không bao giờ Ngài xúi bảo
ai hy sinh bất cứ cái gì cho Ngài ngoại trừ xóa bỏ tâm tham,
sân, si để chính mình có cuộc sống an lạc thế thôi chớ Phật
chẳng được cái gì.
Đức Phật Thích Ca hỏi Bồ-tát Tú Vương Hoa:
-Ý
ngươi nghĩ sao?
-Bồ-tát
Hỉ Kiến thuở xưa đâu phải ai lạ, chính nay là Bồ-tát Dược Vương
đó. Ông ấy đã xả bỏ, bố thí, vô lượng số thân như thế. Này Tú
Vương Hoa, ai phát tâm muốn được Đạo vô thượng mà đốt ngón tay
hay ngón chân cúng dường Tháp Phật, còn hơn người dùng nước,
thành, vợ, con cùng trân bảo trong 3.000 đại thiên thế giới mà
cúng dường. Còn ai dùng bảy báu trong khắp 3.000 đại thiên thế
giới mà cúng dường Phật, Bồ-tát, Duyên Giác, La-Hán, cũng không
có công đức bằng người thọ trì kinh Pháp Hoa, chừng một bài kệ
bốn câu.
Đến
đây đức Phật Thích Ca mới bật mí cho Bồ Tát Tú Vương Hoa biết
rằng Bồ Tát Hỷ Kiến chính là tiền thân của Bồ Tát Dược Vương đó.
Đối với Phật giáo, đời người chẳng khác nào một điểm trên một
con đường thẳng không biết nơi nào là điểm bắt đầu và nơi đâu là
điểm chót. Vì thế sinh để rồi diệt và diệt để rồi lại sinh nên
sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận cho nên đức Phật dạy rằng: “Trong
cõi tam thiên đại thiên thế giới này, không có nơi nào mà không
có dấu chân ta và cũng không có chỗ nào mà không có xương ta để
lại”. Đây mới chính thật là cuộc hành trình vô
cùng vô tận với tâm nguyện cứu độ tất cả chúng sinh còn lặn hụp
trong biển đời sinh tử trầm luân của chư Bồ-tát từ lúc mới phát
tâm đến khi đạt được đạo quả viên tròn.
Vì
vậy người học Phật biết sinh tử triền miên nên chết không phải
là mất hẳn cho nên sống không tham luyến mà chết không sợ. Chẳng
những thế việc thiện ta làm không bao giờ mất, ngược lại những
điều ác ta làm cũng không bao giờ mất. Nói chung chẳng có gì mất
trong thế gian này cả bởi vì hiện tượng trở về bản thể và bản
thể duyên sanh ra hiện tượng. Thí dụ nhà bác học Albert Einstein
phát minh ra công thức về năng lượng E=mc2 . Sự liên
hệ giữa năng lượng E và (sức nặng của) vật chất đã được nghiên
cứu, tính toán và phát minh bằng một phương trình toán học rõ
ràng. Năng lượng là bản thể vô hình trong khi vật chất (mass) là
hiện tượng cho nên một lần nữa tâm kinh dạy rằng “Sắc tức là
Không” nghĩa là vật chất là năng lượng và “Không tức là Sắc”
nghĩa là năng lượng là vật chất. Nói theo Phật học thì hiện
tượng trở về bản thể và bản thể duyên sanh ra hiện tượng nên
chẳng có cái gì là thật có hay thật mất trong thế gian này. Đức
Phật giới thiệu thuyết “Duyên Khởi” để xác định rằng mọi vật thể
trong thế giới của con người luôn luôn biến đổi, thay hình đổi
dạng, từ Có thành Không và từ Không thành Có vô cùng vô tận.
Khi
chúng sinh đã nắm được diệu lý của kinh Pháp Hoa thì sẽ phát tâm
đốt cho hết những nguyên nhân gây ra những căn bản phiền não
tham, sân, si và những cặp phạm trù đối đãi nhị nguyên. Đốt ngón
tay, đốt ngón chân hay đốt thân là đốt cho hết chấp Ngã về
Ta và cái của Ta. Chấp Ngã không còn thì chấp pháp biến mất,
trong ngoài mới tự tại được. Ngày nay cũng có ngưởi bắt chước
kinh Pháp Hoa đốt ngón tay, hay ngón chân của mình để cúng dường
Phật. Nhưng sau khi đốt xong rồi mà công danh, sự nghiệp, tiền
tài, danh lợi, địa vị không bỏ xuống được phần nào, ngã không,
pháp không chưa quán triệt được thì cho dù bạn có đốt cả thân
xác cũng chẳng có lợi ích gì chớ đừng nói chi là chỉ đốt ngón
tay, ngón chân. Do đó đốt ở đây là đốt bản ngã, đốt cái ngã sở
hữu, không để cho nó lôi kéo, nhận chìm vào trong biển trầm luân
đau khổ. Nên nhớ cái thân này đối với vạn pháp đâu có tội lỗi gì
mà phải đốt nó vì vạn pháp là tự tánh thanh tịnh bản nhiên nên
không có vật gì là tội lỗi cả. Tội lỗi là vì con người nhìn sai
đối tượng và áp dụng sai lầm cho nên vật tốt trở thành vật xấu
thế thôi. Thí dụ cần sa, á phiện đâu phải là những thứ xấu xa,
nhưng nếu con người sử dụng sai lầm thì nó sẽ biến thành thứ độc
hại, ngược lại nếu dùng đúng chỗ thì nó sẽ biến thành thuốc
chống đau, thuốc tê thần diệu đấy chứ.
Phật
giáo Đại thừa vì chịu ảnh hưởng rất lớn của kinh Pháp Hoa cho
nên trong các giới đàn thường thấy các giới tử sau khi quỳ xuống
và đốt 9 huyệt bằng ngãi cứu ở trên đỉnh đầu để cúng dường chư
Phật và biểu lộ chí nguyện của mình. Như vậy sự đốt hương trên
đỉnh đầu để cúng dường chư Phật bắt nguồn từ kinh Pháp Hoa vậy.
v
Tú Vương
Hoa, trong các dòng nước, biển là bậc nhất. Cũng thế, trong các
kinh của Như Lai nói, kinh Pháp Hoa là sâu lớn hơn hết.
v
Trong
các thứ núi, núi Tu-di là bậc nhất. Trong các thứ kinh, Kinh
Pháp Hoa là cao hơn hết.
v
Trong
các tinh tú, mặt trăng là bậc nhất. Trong các kinh, Kinh Pháp
Hoa là sáng soi hơn hết.
v
Như mặt
trời năng trừ mọi thứ tối tăm. Kinh Pháp Hoa năng phá tất cả
những tối tâm của cái chẳng lành.
v
Trong
các hàng Tiểu vương, Đại-đế là bậc nhất. Trong các thứ kinh,
Kinh Pháp Hoa đáng tôn trọng hơn hết.
v
Như Đế
Thích làm vua thống ngự 33 cõi trời, Kinh Pháp Hoa và vua các
kinh.
v
Như Phạm
Thiên là cha của tất cả chúng sanh. Kinh Pháp Hoa là cha của tất
cả Hiền Thánh.
v
Trong
hàng Phàm-phu, Tứ Thánh và Duyên Giác là bậc nhất. Trong tất cả
các kinh do Như Lai, Bồ-tát, Thanh Văn nói, Kinh Pháp Hoa là bậc
nhất trong hàng chúng sanh.
v
Trong
tất cả Thanh Văn và Duyên Giác, Bồ-tát là bậc nhất. Trong tất cả
các kinh, Kinh Pháp Hoa là bậc nhất.
v
Như Phật
là vua các pháp, kinh nầy là vua của các kinh.
Đức
Phật khẳng định rằng tất cả các loại bố thí tuy có phước đức rất
lớn, nhưng chúng cũng là phước đức hữu lậu có đó rồi mất đó nên
không bằng thọ trì kinh Pháp Hoa. Đó là “khai,
thị,
ngộ,
nhập Phật tri kiến”nghĩa
là đức Phật muốn
khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm
nhập cái trí tuệ Phật để trở thành Phật vì vậy
kinh Pháp Hoa mới là bậc nhất và là vua của tất cả kinh.
Tú Vương
Hoa ! Kinh nầy có thể cứu tất cả chúng sanh, làm cho chúng sanh
xa rời các khổ não; Kinh nầy có thể cho chúng sanh nhiều lợi
ích, làm thoả mãn những mong cầu của chúng sanh, như ao
nước trong có thể làm thoả mãn người khát nước. Như người lạnh
được lửa, như trần truồng được quần áo, như đi buôn gặp người
dẫn mối,
như con gặp mẹ, như muốn qua sông gặp thuyền, như bệnh gặp thầy,
như tối được đèn, như nghèo được báu, như dân được vua, như hàng
hải gặp biển, như đuốc trừ tối. Kinh Pháp Hoa nầy cũng thế, có
thể làm cho chúng sanh xa lìa mọi thứ thống khổ, mọi thứ bệnh
tật, có thể cởi mở sự trói buộc của sanh tử.
Ai nghe
được kinh nầy, hoặc tự mình chép, hoặc bảo người chép, thì được
công đức nhiều cho đến nỗi trí tuệ Như Lai cũng không ước tính
được. Nếu chép kinh này mà còn dùng các thứ hoa hương, đèn dầu
cúng dường, cũng được vô lượng công đức như thế.
Kinh
Pháp Hoa là kinh nói về trí tuệ của Phật nên công dụng của nó
thật là vô lượng, không thể nghĩ bàn. Một khi chúng sinh biết áp
dụng triệt để cái trí tuệ này thì trên đời này chẳng còn bất cứ
thứ trở ngại nào. Con người có đau khổ, có buồn phiền, có bất
toại ý cũng vì không sống đúng với chân lý, sống xa dần với chân
tánh của mình nên thân khẩu ý không được thanh tịnh mà phiền não
có cơ hội phát sinh. Bây giờ nếu biết thọ trì kinh Pháp Hoa
nghĩa là biết sống với trí tuệ Phật vốn có sẵn trong tất cả mọi
người thì làm gì còn buồn khổ, trí tuệ sáng suốt nên không tạo
nghiệp tức là thoát khỏi sinh tử luân hồi. Nên nhớ thọ trì kinh
Pháp Hoa là sống với trí tuệ Phật của mình thì sẽ không còn tai
họa, không còn khổ ách vì sự sáng suốt thức tỉnh của mình chớ
không phải thọ trì kinh Pháp Hoa thì sẽ được chư Phật hộ trì mà
cho ta
không bị
tay bay
họa gởi, không còn bệnh tật và thoát ra khỏi sinh tử luân hồi.
Có người nói rằng nhờ Phật gia hộ nên có phước đức sống trên 80
tuổi mà vẫn khỏe mạnh như thường. Thế thì còn những người mới
bốn mươi, năm mươi tuổi mà bệnh tật triền miên thì không lẽ Phật
nhẫn tâm để họ gánh chịu đau khổ như thế hay sao? Lòng từ bi
bình đẳng của Phật để đâu? Phật trời không hề dính dáng gì đến
nhân duyên phước báu, ân oán nhân quả của mỗi người trên
thế gian này vì thế hạnh phúc hay khổ đau, mạnh khỏe hay bệnh
tật đều là do nhân duyên quả báo của mỗi cá nhân. Mình tạo nhân
gì thì trước sau sẽ gặt lấy quả báo đó, không sai không khác chỉ
có vấn đề là nó đến sớm hay muộn mà thôi. Phật trời không bao
giờ can dự đến chuyện ân oán nhân quả của chúng sinh. Bằng chứng
là khi vua Lưu Ly đem quân tàn sát cung thành Ca tỳ la vệ, đức
Phật dùng lời từ bi ba lần ngăn cản, nhưng sau cùng Ngài vẫn để
cho ân oán được phân minh khiến cho mấy trăm ngàn gia tộc quyến
thuộc của đức Phật bị giết chết. Ở đây chúng ta không thấy đức
Phật cởi áo nâu sòng
trở về cầm quân giết giặc rồi sau đó trở lại kiếp người tu. Bởi
vì sát sanh là giết người cho dù người thân của mình hay kẻ
địch. Người tu hành phải có cái nhìn sâu rộng hơn bởi vì mình
thương đồng bào của mình rồi đi giết đồng bào của người khác mà
cho rằng hợp lý thế thì đồng bào của mình là chúng sinh còn đồng
bào của kẻ địch không là chúng sinh thì là gì?
Ở
đoạn kinh trên Bồ Tát Hỷ Kiến đốt thân, đốt hai cánh tay là để
phá chấp Ngã và giết chết những cặp phạm trù đối đãi nhị nguyên.
Phá chấp Ngã là không còn thấy Ta và cái của Ta vì tất cả đều là
nhân duyên giả hợp mà thành tức là vạn pháp giai không. Còn
không phân biệt nghĩa là không thấy đó là người của mình và đây
là kẻ địch vì tất cả đều là chúng sinh mà chúng sinh đều bình
đẳng vì ai cũng đều có Phật tánh như nhau cho nên nếu giết kẻ
địch thì chính mình đã giết biết bao vị Phật rồi.
Vì
vậy chuyện tranh chấp, chiến tranh xảy ra từ ngàn xưa từ Đông
qua Tây không có gì mới mẻ cả, nhưng đây là chuyện của phàm nhân
chớ không phải của kẻ tu hành vì xuất gia là phải xuất tức là
lìa xa nhà thế tục.
Nếu
chỉ cần đọc kinh cầu nguyện mà thoát hết tai nạn thì luật nhân
quả của đạo Phật còn dùng vào chỗ nào và dĩ nhiên ngày xưa đức
Phật thuyết pháp ròng rã suốt 49 năm để làm gì? Vì thế đọc kinh
thì phải hiểu ý nghĩa của kinh vì Phật giáo không nói chuyện
hoang đường, không có chuyện siêu hình mà lời văn chỉ là văn dĩ
tải đạo để chở một triết lý sâu thẳm bên trong. Cốt tủy của kinh
Pháp Hoa là “khai, thi, ngộ, nhập” nghĩa là đức Phật muốn
khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập tức là
thực hành cái trí tuệ Phật thì mới có giải thoát giác ngộ chớ
kinh đâu có nói về tụng niệm cầu nguyện.
Tú Vương
Hoa ! Ai nghe phẩm “ Bồ-tát Dược Vương Bổn Sự”
này cũng được vô biên công đức. Nếu là đàn bà
thì sau khi dứt báo thân, không còn trở lại làm đàn bà nữa. Năm
trăm năm sau Phật diệt độ, người nữ nào nghe kinh nầy và tu hành
đúng theo lời kinh dạy, khi mạng chung, được vãng sanh nơi thế
giới thanh tịnh và an lạc.
Khi
nói về đàn bà, kinh muốn ám chỉ những đức tính như mềm yếu, non
dạ, yếu lòng dễ bị cuốn theo dòng nước ái vì thế người nào sau
khi nghe kinh Pháp Hoa rồi thì sẽ không trở lại làm người nữ nữa
có nghĩa là họ đã nhận thức được chân lý nên lúc nào cũng sống
trong tỉnh thức chánh niệm vì thế những đức tính non dạ, yếu
lòng không còn nữa. Nếu sống hoàn toàn với trí tuệ thì những
tình cảm yếu đuối sẽ biến mất chớ đức Phật không hề kỳ thị nam
nữ bởi vì dưới tuệ nhãn của bậc giác ngộ thì ai ai cũng đều có
Phật tánh cho nên nam hay nữ cũng đều có khả năng thành Phật.
Bằng chứng trong phẩm Đề Bà Đạt Đa có nàng Long nữ mới vừa tám
tuổi con gái của Long Vương đã thành Phật và vào thời đức Phật
có biết bao Tỳ kheo ni trở thành A la hán là những thí dụ cụ
thể.
Chết
mà kinh Phật thường nhắc đến không phải là chết thật mà chỉ là
“Bất tư nghì biến dịch sanh tử” nghĩa là chết đi tất cả những
thói hư tật xấu, những căn bản tham, sân, si, những giai đoạn
làm ác xấu, những chấp ngã chấp pháp làm ô nhiễm tâm thức của
con người. Bây giờ thấu biết chân lý nên không đi vào con đường
củ nữa, không sa vào hố tội lỗi đau thương mà sống đời sống
mới lương thiện hơn, trong sáng hơn, thánh thiện hơn thì chính
mình đã sống lại tức là phục sinh. Quá khứ không tốt đẹp nên cho
nó chết đi tức là chết để chuyển sang đời sống hiện tại thanh
cao thánh thiện hơn vậy. Do vậy hàng ngày cứ để cho có chết,
chết càng nhiều càng tốt cho đến khi trí tuệ sáng suốt, thân tâm
thường an lạc.
Nếu
nói rằng học kinh Pháp Hoa rồi sẽ không còn tái sinh làm người
nữ nữa thì mai sau thế giới này sẽ vắng bóng đàn bà, không còn
ai làm chuyện truyền giống truyền nòi thì nhân loại sẽ bị hủy
diệt. Tư tưởng Tây phương nói rằng đàn bà là bông hoa trang điểm
cho cuộc đời thêm tươi thắm. Đức Phật là đấng toàn giác thì Ngài
dư sức biết chuyện đó nên Ngài không bao giờ nói những gì phản
khoa học, phản sự tiến hóa của con người nghĩa là không có con
người thì đạo Phật dùng để làm gì? Nước Trung Hoa hiện nay đang
bị nạn nhân mãn trầm trọng nên chính quyền chỉ cho phép mỗi gia
đình có một người con, nhưng truyền thống người Trung Hoa lại
trọng nam khinh nữ cho nên người mẹ khi đi khám siêu âm để biết
con mình là gái hay trai thì có rất nhiều bé gái bị giết chết
trước khi chào đời. Vì thế dần theo thời gian xã hội Trung Hoa
lại phải đối phó với một nan vấn khác là nam nhiều nữ ít cho nên
ngày nay thanh niên Trung Hoa muốn đi chọn vợ là chuyện rất khó
khăn.
Bây giờ, các đức Phật đồng khen:
-Hay
thay! Lành thay! Này thiện nam tử, ngươi có thể trong pháp của
Phật Thích Ca mà thọ trì, đọc tụng, suy gẫm Kinh Pháp Hoa và nói
cho người khác nghe, ngươi đặng công đức vô lượng vô biên, lửa
chẳng đốt được, nước chẳng làm trôi, phá được giặc ma, đánh bại
quân sanh tử và diệt trừ các quân thù khác. Thiện nam tử, trăm
ngàn đức Phật sẽ hộ trì ngươi, tất cả trời, người, không ai bằng
ngươi, trừ Như Lai, không Bồ-tát, Duyên Giác, Thanh Văn nào có
trí tuệ bằng ngươi.
Người
đọc tụng, thọ trì rồi thực hành kinh Pháp Hoa thì có công đức vô
lượng bất khả tư nghì. Như vậy nếu thọ trì kinh Pháp Hoa rồi quý
vị thấy có căn nhà đang cháy lớn liền chạy vào trong đó thì thân
có bị cháy không? Hay những người đi biển, gặp sóng gió phong ba
mà nước chẳng làm trôi quý vị? Bắt đầu từ đoạn này sang đến phẩm
Phổ Môn, người đệ tử Phật phải sáng suốt chiêm nghiệm thật rõ
ràng lời Phật dạy để biết thế nào là “Lý” thế nào là “Sự” và
đừng bao giờ lầm lẫn giữa Lý và Sự thì sẽ không bao giờ rơi vào
mê tín vì đạo Phật không bao giờ nói chuyện hoang đường.
Lời Phật dạy không sai, chỉ vì chúng sinh hiểu chưa thấu nên áp
dụng sai lầm. Bởi vì nếu hiểu theo “sự tướng” thì làm sao thành
tựu được, chẳng những không được mà còn rơi vào mê tín dị đoan
trái với luật nhân quả khách quan của nhà Phật. Nhưng thành tựu
ở đây là Phật nói về Lý Tánh. Bởi vì một khi đã sống với Tri
Kiến Phật là sống với chân tánh của mình mà tánh giác là cái thể
chân thật của mỗi người, không có hình dáng, tướng mạo. Nếu đã
không có hình dáng tướng mạo thì lửa làm sao đốt hay nước nào
nhận chìm được. Nước mà kinh nói ở đây là nước ái, nước non lòng
yếu dạ mà con người thường bị nhận chìm trong bể ái sông mê. Còn
lửa là lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa dục vọng đang bừng cháy
trong tâm của chúng ta chớ không phải lửa lò hay lửa nhà cháy.
Con
người của chúng ta hiện nay là một hiện sinh của biết bao sự
sinh tử trong quá khứ cho nên sinh để rồi chết và chết để rồi
lại tái sinh vì thế cuộc sống con người chẳng khác nào một điểm
trên một con đường thẳng không có điểm bắt đầu và không có ngày
cùng tận. Vì thế người thực hành Tri Kiến Phật tức là đang sống
với Trí Tuệ Phật thì làm gì còn sanh tử, tâm hằng thanh tịnh tự
tại Niết bàn.
Ai nghe
phẩm “Dược Vương Bổn Sự” này mà biết tuỳ hỉ khen ngợi, người đó
trong đời hiện tại, miệng thường thoảng mùi thơm hoa sen, và các
lỗ chân lông thường tiết mùi trầm.
Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa là vua của tất cả các kinh cho nên người biết
nghe mà tùy hỷ thì chính họ đã có biết bao lợi ích. Biết sống
với Trí Tuệ Phật thì cuộc đời sẽ không còn đau khổ, tất cả vô
minh phiền não dần dần tan biến cho nên nếu người đó đem kinh
PhápHoa nói cho mọi người nghe thì mọi người cũng đều có rất
nhiều lợi ích vì thế lời nói Phật pháp cũng như miệng thoảng mùi
thơm (Phật pháp) là vậy. Ngược lại nếu mình sống trong vô minh
bất giác, làm nô lệ cho tư kỷ cá nhân, chạy theo tham đắm dục
tình, cho dù mình có đánh răng bằng những loại kem thơm nhất
trên thế gian thì lời nói mình cũng không ai nghe, chẳng thơm
tho chi hết. Còn lỗ chân lông thường tiết mùi thơm là người biết
nói kinh Pháp Hoa làm cho mọi người thích thân cận, gần gũi với
họ. Trong khi có người mặc đồ thời trang nhất, mắc tiền nhất,
sang trọng nhất mà có ý nghĩ bất tịnh, xấu xa thì chẳng có ai
thích đến gần.
Tú Vương
Hoa, ta giao phó phẩm “Dược Vương Bổn Sự” cho ngươi: Năm trăm
năm sau khi ta diệt độ, phải đem ra truyền bá nói rộng ở cõi
Diêm-phù-đề và đem sức thần thông mà giữ gìn, vì đây là phương
thuốc hay cho người bệnh thế gian, ai bệnh mà nghe được kinh này
thì bệnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết.
Có
thật ai bệnh mà nghe được kinh này thì bệnh liền biến mất và còn
không già không chết? Có phải kinh này là thuốc thần, thuốc
trường sinh bất tử chăng? Thế thì cứ đem kinh vào bệnh viện đọc
hết cho bệnh nhân nghe thì thế gian này tìm đâu ra người bệnh.
Nhưng kinh Pháp Hoa ra đời gần mấy ngàn năm mà tại sao ngày nào,
giờ nào cũng có người bệnh và giây phút nào cũng có người già,
người chết? Vậy ý nghĩa của nó là gì?
Thế
thì chúng sinh có bệnh gì? Phàm là con người thì ai cũng phải có
bệnh về thân và bệnh về tâm. Nếu là thân bệnh thì đã có thuốc,
có bác sĩ, có bệnh viện. Còn tâm bệnh như là cực tham, cực sân,
cực si mà cái gốc của nó là do chấp Ngã mà ra. Do đó ở phần
trước Bồ Tát Hỷ Kiến đốt thân hay đốt hai cánh tay là đốt hết
những quan hệ về chấp ngã và những cặp phạm trù đối đãi phân
biệt nhị nguyên là nguồn gốc phát sinh ra vô minh phiền não. Vì
thế nếu biết thực hành kinh Pháp Hoa đứng đắn thì tất cả những
bệnh tham, sân, si sẽ bị tiêu diệt, biến mất và hành giả sẽ trở
về sống với chân tánh, Phật tánh của mình tức là có giải thoát
giác ngộ và chấm dứt chu kỳ sinh, lão, bệnh, tử của luật vô
thường. Con người vì chạy theo ái dục nên tạo nghiệp và phải
chịu sinh tử luân hồi đến khi diệt sạch Ngã-pháp thì chặt đứt
dây sinh tử luân hồi.
Trong
tam độc tham, sân, si thì con rắn si mê là độc hại hơn hết bởi
vì người không có trí tuệ khi họ làm việc đúng thì họ không biết
là họ làm đúng và làm việc sai thì họ cũng không biết là họ đang
làm việc sai. Họ gây ra nhân mà không hề biết cái quả sẽ xảy ra
như thế nào. Muốn trừ con rắn si mê thì người đệ tử Phật phải có
Chánh niệm, luôn sống trong tỉnh thức sáng suốt để quán biết
những biến hành của tâm. Trong kinh Niệm Xứ (Satipatthnasutta)
đức Phật dạy rằng:
-Này
các Tỳ kheo! Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho
chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh
tri, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ.
Nhưng
thế nào là Tứ Niệm Xứ? Đức Phật dạy tiếp rằng:
-Này
các Tỳ kheo! Ở đây Tỳ kheo sống “quán
thân”
trên
thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời;
sống “quán
thọ”
trên các
thọ, nhiệt tâm tỉnh giác; chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời;
sống “quán
tâm”
trên
tâm, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời;
sống “quán
pháp”
trên các
pháp, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Nói
chung trong phần này Phật dạy chánh niệm để đối trị với những
tâm hành sinh diệt, nhưng cốt tủy vẫn đưa chúng sinh đến một cứu
cánh tột đỉnh là thức tỉnh tức là “BIẾT”. Vậy biết cái gì? Khi
tâm tham phát khởi là biết có tham, không tham thì cũng biết
trong tâm không có tham. Sân và si cũng vậy. Nói cách khác khi
lục căn tiếp xúc với sắc thanh hương vị xúc pháp thì vọng tâm
dấy khởi. Ở đây đức Phật dạy chúng sinh thực hành chánh niệm để
biết rốt ráo tận cùng những biến đổi của tâm mà không cần phải
tiêu diệt chúng. Thí dụ thấy tiền nhiều tâm tham liền nổi dậy,
nhưng nếu có chánh niệm thì biết ngay sự hiện hữu hình thành
trạng thái tham của tâm cho nên tâm tham bây giờ không còn tác
động hoành hành được nữa. Nói cách khác, bất cứ một ý niệm vừa
khởi lên, chánh niệm cho ta “biết” đó là vọng tưởng. Khi đã biết
bộ mặt thật của ý thức thì con người chỉ cần không theo vọng thì
vọng tự mất mà không cần phải tiêu diệt chúng. Nói cách khác,
không theo vọng, vọng tự tiêu tan tức là mê biến thì thời điểm
đó giác tự hiển bày.
Thấy ai
thọ trì kinh nầy, Tú Vương Hoa nên dùng hoa sen xanh đựng đầy
hương bột rải trên người ấy và nghĩ rằng: Người này chẳng bao
lâu quyết định sẽ trải cỏ ngồi nơi Đạo tràng, phá các ma quân,
thổi ốc pháp, đánh trống pháp, độ thoát tất cả chúng sanh
ra khỏi sanh già bệnh chết ưu bi khổ não.
Người
thọ trì kinh Pháp Hoa nghĩa là trong thì phá chấp Ngã ngoài thì
phá chấp pháp, trong ngoài tự tại thì người đó sẽ ngồi đạo tràng
và được mọi người cúng dường các thứ hoa báu. Tu theo Pháp Hoa
là tu thành Phật nên hành giả thọ trì kinh Pháp Hoa đến chỗ rốt
ráo thì sẽ thành Phật và sẽ nói pháp độ chúng sinh ra khỏi sinh,
già, bệnh, chết.
Lúc đức Phật nói phẩm “Dược Vương Bổn Sự” nầy có 84.000 Bồ-tát
được Đà-la-ni “Giải nhất thiết chúng sanh ngôn ngữ”.
Đức Phật Đa Bảo trong tháp báu khen Tú Vương Hoa Bồ-tát:
-Lành
thay! Lành thay! Tú Vương Hoa, ngươi thành tựu những công đức
không thể nghĩ bàn mới hỏi được đức Phật Thích Ca việc như
thế, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Phẩm Chúc Lụy nói rằng Phật Đa Bảo hoàn nguyên bản vị tức là đã
về lại chỗ củ thế mà bây giờ kinh lại nói Phật Ða Bảo ở trong
tháp khen ngợi Bồ Tát Tú Vương Hoa? Vậy kinh có nhầm lẫn không?
Phật Ða Bảo là Pháp thân Phật mà Pháp thân là bản thể chân như,
bao trùm khắp cả cho nên không có nơi nào trong thế gian vũ trụ
mà vắng bóng Ngài.
Tóm lại, phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự là phẩm rất quan trọng
của kinh Pháp Hoa vì nó phản ảnh giai đoạn cuối cùng của kinh là
“Nhập” tức là thực hành để tiến thẳng về cứu cánh tối thượng là
thành Phật. Phẩm này đã giới thiệu hai nguyên lý cốt lũy của
giáo lý Phật Đà là chấp “Ngã” và những cặp phạm trù đối đãi phân
biệt nhị nguyên là nguồn gốc phát sinh ra vô minh phiền não đưa
con người trôi nổi triền miên trong sinh tử luân hồi. Vì thế
hành giả đi trên con đường giải thoát giác ngộ phải chứng Ngã
Không, Pháp Không và phải lìa xa tất cả vô ngôn, vô thuyết, vô
thị, vô thức lìa cả nơi vấn đáp để chính mình thực nghiệm rõ
ràng cái thực thể bất sinh bất diệt Tri Kiến Phật vốn đã có sẵn
trong tất cả mọi chúng sinh. Sau đó Bồ Tát Dược Vương thành tựu
được một tam muội khác là Giải Nhất Thiết Chúng Sinh Ngôn Ngữ Đà
La Ni nghĩa là ngài có khả năng thấu hiểu được ngôn ngữ của tất
cả mọi loài chúng sinh. Hiện nay trên thế giới loài người có
trên mấy trăm quốc gia và mỗi quốc gia có rất nhiều thổ ngữ. Thí
dụ ở Trung Hoa ngôn ngữ chính là Quang Thoại ngoài ra còn có
trên trăm thổ ngữ khác nhau. Ở Việt Nam tiếng Việt là chính,
nhưng dân thiểu số vẫn có những ngôn ngữ riêng cho họ. Ở Hoa Kỳ
hay Úc Đại Lợi cũng thế, ngoài tiếng Anh còn có rất nhiểu thổ
ngữ từ những bộ lạc trải khắp mọi nơi. Vì đã thực hành tánh nghe
và biết lắng nghe đến chỗ rốt ráo nên Bồ Tát Dược Vương có thể
hiểu được tất cả ngôn ngữ của con người. Tuy con người có sống
trong những môi trường gia đình, xã hội khác nhau, nhưng nếu
chúng ta biết lắng nghe tiếng nói phát xuất từ trong tự tâm,
biết nhận thức sâu sắc những tâm tư của kẻ khác thì chúng ta sẽ
không bị kẹt vào những hình thức của ngôn ngữ và kết quả sẽ đưa
con người gần lại với nhau hơn. Nói cách khác nếu nhìn theo sự
tướng thì thế gian có biết bao ngôn ngữ, nhưng bây giờ cùng quay
về với Tri Kiến Phật tức là bản thể chân như trùm khắp thì mọi
người cùng nói và sống bằng một ngôn ngữ là chơn tâm, Phật tánh.
∆ TOP
|
NEXT
|