PHẦN PHỤ LỤC
SỰ PHÂN CHIA GIỮA CÁC BỘ PHÁI
Ngày nay Phật giáo trên thế giới tổ chức rất nhiều giáo hội,
nhưng trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo chưa bao giờ được
biết là có một cơ chế quyền lực trung ương theo kiểu kim tự tháp
(giống như cơ chế của tòa thành Vatican) nào cả. Vào thời đức
Phật, tuy các bộ phái gắn liền với những khu vực địa phương khác
nhau khắp các nơi ở Ấn Độ, nhưng tất cả vẫn duy trì được mối
quan hệ với nhau trong tinh thần lục hòa cho nên các tăng sĩ dễ
dàng đi lại từ tu viện này đến tu viện khác. Thời kỳ Nguyên
thủy, đức Phật giảng giải giáo pháp bằng khẩu thuyết. Vì truyền
giao bằng miệng nên một người thấu hiểu và nhớ hoàn toàn Kinh
Tạng hoặc Luật Tạng là một thử thách rất lớn, nếu không muốn nói
là không thể được. Do đó các phần khác nhau của giáo pháp được
truyền cho các vị tăng sĩ chuyên biệt, có thể học thuộc lòng
phần giáo pháp đó. Sau cùng tất cả những tăng sĩ chung một giáo
pháp hình thành một nhóm riêng với những đặc quyền riêng và có
lẽ đây chính là sự bắt đầu cho sự phân chia của tăng đoàn. Ngôn
ngữ đức Phật dùng để thuyết pháp không phải là tiếng Pali mà là
tiếng Magadhi (Ma-kiệt-đà). Thật ra ngôn ngữ Ấn Độ rất phức tạp
ngay cả bây giờ cũng đã có gần trên 15 loại được chính phủ Ấn
công nhận. Đó là Sanskrit, Urdu, Bengali, Hindi…trong khi đó
Pali không phải là ngôn ngữ thuộc nhóm Indic mà thuộc về thổ ngữ
của vùng Trung Ấn. Giới thượng lưu và thành phần vua chúa Ấn Độ
nói tiếng Sanskrit trong khi đó các thành phần dân chúng nói
tiếng Magadhi, là ngôn ngữ gốc của đức Phật, và phần lớn thành
phần hạ tiện nói tiếng Paishachi.
Không có một bằng chứng nào cho thấy vào thời đức Phật ở Ấn Độ
con người đã dùng chữ viết hay chưa. Trong thời đức Thế Tôn còn
tại thế, Ngài thuyết giảng rất nhiều trong những cuộc hành trình
dài bằng cách đi bộ trong vùng Bắc Ấn gần nửa thế kỷ, nhưng chưa
có ai nghĩ đến việc kết tập cho nên sau khi Ngài nhập diệt các
đệ tử cảm thấy bàng hoàng vì sự thiếu vắng của bậc Đạo Sư. Cuối
cùng họ quyết định kết tập những lời giảng dạy của đức Phật và
cô đọng lại thành kinh điển. Vì thế kinh điển Phật giáo được
truyền miệng gần 500 năm sau khi đức Phật nhập diệt hoàn toàn
dựa vào trí nhớ của người đọc kinh.
1)Ngay sau khi đức Phật nhập diệt, vua A Xà Thế tổ chức lần
kết tập kinh điển lần thứ nhất tại thành Vương Xá, xứ
Ma-Kiệt-Đà. Trong hội Nghị nầy có 500 vị Tỳ Kheo tham dự, trong
đó có ngài trưởng lão Đại Ca Diếp, người được trọng vọng nhất và
hai nhân vật quan trọng chuyên về hai lãnh vực khác nhau là Pháp
và Luật là ngài A Nan và Ưu Ba Ly đều có mặt. Chỉ hai phần Pháp
và Luật là được trùng tụng lại tại Đại Hội lần thứ nhất. Trong
Hội Nghị nầy, Pháp được chia làm hai phần và mỗi phần được trao
cho một vị trưởng lão cùng với đệ tử của vị ấy ghi nhớ. Pháp
được truyền khẩu từ thầy đến trò và được tụng niệm hằng ngày bởi
một nhóm Tỳ Kheo và thường được phối kiểm lẫn nhau để bảo đảm
không có sự thiếu sót cũng như không có gì thêm vào.
2)Đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai được tổ chức tại thành
Tỳ Xá Ly (Vaishali), 100 năm sau ngày đức Thế Tôn nhập diệt. Lý
do triệu tập hội nghị là vì những bất đồng về kỷ luật (phá giới)
của các sư tại Vaishali và các đệ tử của Ngài A Nan. Các sư tại
Vaishali chấp nhận cúng dường bằng tiền và vàng bạc, dù việc nầy
phạm luật. Các sư nầy còn bị cáo buộc bởi phái Yasha (một đệ tử
của A Nan) chín sự vi phạm khác, trong đó có thọ thực bất thời
tức là ăn nhiều lần trong ngày, uống rượu, giữ vàng bạc v.v. Để
trả đủa, các sư Vaishali khai trừ trưởng lão Yasha vì những lời
cáo buộc của ông. Do đó hội nghị thứ hai được triệu tập với sự
hiện diện của 700 vị A la hán và hội đồng gồm bốn sư trưởng lão
đã phán quyết rằng các sư Vaishali có tội. Các sư Vaishali đã
chấp nhận sự phán quyết mà không một lời phản kháng. Mặc dù
không chống đối với quyết định của hội đồng, nhưng sau đó các sư
Vaishali kết hợp với thành phần số đông cư sĩ ủng hộ thành lập
nhóm phát triển mà sau này gọi là Đại chúng bộ tức là tiền thân
của Phật giáo Đại thừa.
3) Vua A Dục cho tổ chức Đại Hội kết tập kinh điển lần thứ ba
tại thành Ba Tra Lợi Phất (Thành Hoa Thị, thủ đô cổ của Tích
Lan), khoảng vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch. Vua A Dục đã đích
thân chọn 60.000 vị Tỳ Kheo tham dự Hội Nghị. Trong khi đó
trưởng lão Mục Kiền Liên Tư Đế Tu đã phụng mệnh vua A Dục chọn
ra một ngàn vị Tăng tinh thông tam tạng kinh điển kết tập chánh
pháp. Hội nghị đã bàn thảo trong chín tháng về những ý kiến dị
biệt giữa những Tỳ Kheo của nhiều phái khác nhau. Tại Đại Hội
nầy, sự khác biệt không chỉ hạn hẹp trong Giới Luật, mà cũng
liên quan đến Giáo Pháp nữa. Đây không phải là một hội nghị toàn
thể mà chỉ là một cuộc nhóm họp nhỏ thôi. Lúc kết thúc Hội Nghị,
ngài Mục Kiền Liên Tư Đế Tu đã tổng hợp vào một cuốn sách gọi là
Thuyết Sự Luận (Kathavatthupakarana), bác bỏ những quan điểm và
lý thuyết dị giáo cũng như những sai lầm của một số giáo phái.
Giáo lý được phê chuẩn và chấp thuận bởi Đại Hội được biết là
Theravada hay Nguyên Thủy. Do đó danh từ Phật giáo Nguyên thủy
lần đầu tiên chính thức được tuyên bố kể từ khi đức Phật nhập
diệt. Vì thế Phật giáo Nguyên thủy vào thời vua A Dục tuy
không phải Nguyên thủy được hiểu theo kiểu vào thời đức Phật còn
tại thế, nhưng để xác định rằng truyền thống kinh điển vẫn còn
duy trì giống y như là thời đức Thế Tôn còn sinh tiền. Vi Diệu
Pháp được bao gồm trong Đại Hội nầy. Một trong những thành quả
quan trọng của Hội Nghị lần thứ ba là nhiều phái đoàn truyền
giáo đã được gởi đi khắp các xứ để hoằng dương Phật pháp. Sau
Đại Hội kết tập lần thứ ba, người con của Vua A Dục, ngài Hòa
Thượng Mahinda và người con gái tên Tăng Già Mật Đa, đã mang Tam
Tạng Kinh Điển đến Sri-Lanka (Tích Lan), cùng với những lời bình
luận của Hội Nghị nầy. Họ đã đạt được thành công rực rỡ tại đảo
quốc nầy. Những kinh điển được mang về Sri-Lanka vẫn được giữ
gìn cho đến ngày nay không mất một trang nào. Những kinh điển
nầy được viết bằng chữ Pali, căn cứ vào ngôn ngữ của xứ Ma Kiệt
Đà là ngôn ngữ của đức Phật. Thêm nữa, trong khoảng thời gian từ
năm 274 đến năm 236 trước công nguyên, chính vua A Dục đã hết
sức cổ động và ủng hộ Phật giáo và đã biến Phật giáo từ một tôn
giáo nhỏ giới hạn trong những tiểu quốc trở thành một tôn giáo
lớn trên khắp cả nước Ấn Độ.
Ngoài ra, qua những chỉ dụ của vua A Dục, chúng ta được biết
thêm về những phái đoàn truyền giáo Phật giáo được nhà vua cử đi
đến các nước xa xôi ở Á Châu, Phi Châu và Âu Châu. Phật giáo đã
trở thành một tôn giáo quan trọng của nhân loại phần lớn
là nhờ ở các hoạt động của phái đoàn nầy. Cho đến thời điểm này,
Đại thừa vẫn chưa chính thức ra đời.
Phật giáo trong thời vua A Dục được xem như là thời kỳ cực
thịnh chẳng khác lúc đức Thế Tôn còn tại thế cho đến triều đại
Mauyan. Nhưng con ma vô thường cũng không thương xót cho dù đó
là đạo Phật. Xã hội Ấn Độ vào thời đức Phật là một xã hội phong
kiến, đầy dẫy bất công. Chính đức Phật đã cực lực đả kích chế độ
giai cấp, đả kích sự kỳ thị phụ nữ và đưa ra tư tưởng bình đẳng
cho tất cả mọi người. Tuy tư tưởng đức Phật chống lại đạo Bà la
môn, nhưng Phật giáo được các vua thời ấy ủng hộ cho nên Bà la
môn không làm gì được. Tuy nhiên, đức Phật lúc nào cũng là cái
gai trong mắt của người Bà la môn vì thế khi Phật giáo suy yếu,
người Bà la môn không ngần ngại tiêu diệt Phật giáo. Trước hết
là sự suy thoái và sụp đổ của triều đại Mauyan kéo dài cho đến
cuối thế kỷ thứ hai trước công nguyên đánh đấu cho sự suy tàn
của Phật giáo trên xứ Ấn. Khi triều đại Sunga được thành lập với
sự lên ngôi của vị vua Pusyamitra (187-151 trước dương lịch),
Phật giáo đã trải qua nhiều cuộc khủng bố vô cùng dã man. Ông là
kẻ thù dữ tợn nhất của Phật giáo. Vì muốn phục hưng đạo Hindu
(tiền thân của Bà la môn và là Ấn Độ giáo ngày nay), ông tàn phá
tháp miếu, hỏa thiêu nhiều tu viện từ Madhyadesa cho đến
Jalandhar ở vùng Punjab và không ngần ngại giết chết rất nhiều
tu sĩ đức hạnh. Với sự trợ lực của các vị vua của triều đại
Sunga, Ấn Độ giáo bắt đầu khởi xướng một chiến dịch phục hưng
rầm rộ và sau cùng đạo Hindu dành được thế thượng phong và dĩ
nhiên tập quán thờ cúng đa thần được họ xiễn dương tối đa trở
lại. Trên thực tế, khuynh hướng thờ cúng thần linh đã hấp dẫn và
có sức mạnh lôi cuốn một số lượng quần chúng khổng lồ trong đó
có cả tín đồ Phật giáo. Để đối phó với vấn đề nan giải liên quan
đến sự tồn vong của Phật giáo lúc bấy giờ, vô số hình tượng Bồ
Tát khác nhau vốn được xem như là thần thánh được đưa vào trong
Phật giáo. Kết quả, kinh điển Đại thừa ra đời cũng dựa theo lý
tưởng Bồ Tát này. Ban đầu các vị triết gia Phật giáo thời ấy
nghĩ rằng Bồ Tát chỉ là những biểu tượng cho từ bi, trí tuệ và
những đức năng của đức Phật, nhưng thực tế đa số Phật giáo đồ
sau đó chỉ thích quỳ lạy, cầu xin thay vì nghiên cứu, hành trì
cầu đạo Vô thượng Bồ-đề. Thậm chí họ biết đến Quán Thế Âm Bồ Tát
còn nhiều hơn đức Phật không phải vì Bồ Tát Quán Thế Âm dạy họ
thực hành từ bi hỷ xã mà vì Bồ Tát có ngàn tay ngàn mắt, có công
năng nghe được tiếng cầu xin và dang tay ra cứu độ. Chưa hết họ
còn lầm lẫn gọi Quán Thế Âm là Phật Bà. Nếu chư Phật và chư Bồ
Tát ứng hiện để cứu giúp mỗi khi con người cầu khẩn thì còn đâu
là lý nhân duyên, còn đâu là thuyết nhân quả, còn đâu là nghiệp
báo hay nói chung còn đâu là giáo lý Phật Đà. Khi vua Lưu Ly hai
lần đem quân muốn tiêu diệt dòng họ Thích Ca, đức Phật hai lần
đích thân ngăn cản, nhưng sau cùng Ngài cũng để cho ân oán đâu
đó tự trang trải. Chính Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông
bay vào thành chọn ra 500 những người ưu tú của dòng họ Thích Ca
bỏ vào bình bát rồi ôm bình bát nhảy lên hư không. Đến nơi an
toàn, Tôn giả mở bình bát ra thì 500 người đó cũng đều bị đâm
chết, máu chảy ra đầy bình bát.
Sự giới thiệu các vị Bồ Tát (Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm,
Đại Thế Chí…) vào trong đạo Phật có lẽ là một nguyên nhân
lớn lót đường cho sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ. Vào thời đức
Phật còn tại thế có sự ngăn cách rất rõ ràng giữa Phật giáo và
đạo Bà la môn. Phật giáo chủ trương vô thần, diệt trừ bản ngã,
tự giải thoát, bình đẳng và không có cúng tế nghi lễ rườm rà
phức tạp. Ngược lại đạo Bà la môn tin rằng có tự ngã và khi chết
thì tự ngã hòa nhập vào đại ngã để có giải thoát. Vì thế con
người mới cầu xin vào đấng phạm thiên, tin tưởng đa thần nên
cúng kiến cầu xin rất phức tạp. Đặc biệt lý tưởng bình đẳng của
đức Phật là cái gai trong mắt của người Bà la môn. Để đối đầu
tương xứng với Phật giáo, Ấn Độ giáo bắt đầu cải cách bằng cách
tiếp nhận lý tưởng Bất Sát (Ahimsa) và từ bỏ việc tế súc vật và
sau đó hình thành đạo Ấn theo cách thức giống như các tu viện
Phật giáo.
Do đó khi có sự xuất hiện của các vị Bồ Tát trong Phật giáo,
Ấn Độ giáo (Hindu tức là hậu thân của đạo Bà la môn) liền thần
thánh hóa đức Phật, cho rằng đức Phật là vị tái sinh thứ 9
của vị thần Vishnu (hiện thân của thần sáng tạo ra thế gian) và
Bồ Tát Quán Thế Âm là thần Shiva. Chẳng những thế, hai tư tưởng
Bất nhị của Phật giáo Đại thừa và Ấn Độ giáo gần giống hệt như
nhau. Chính điều này đã xóa tan sự khác biệt giữa hai tôn giáo
và họ chứng minh rằng Phật giáo chỉ là một tông phái của Ấn Độ
giáo.
Ngay cả tiến sĩ Radhakrishnan cũng phải thốt lên rằng:
- Một tiến trình thâm nhập và sửa đổi từ từ đã phát triển,
như việc ủng hộ thuyết cho rằng Ðại Thừa Giáo chỉ là một giai
đoạn phân phái trong trào lưu lớn những người thờ thần Vishnu,
Tiểu Thừa Giáo, với tính chất khổ hạnh nhiều hơn, được coi như
một phái của người thờ thần Shiva. Khi tín ngưỡng Bà La Môn khắc
sâu tình thương mọi loài và sùng bái thần linh và tuyên bố rằng
Ðức Phật là hóa thân của Vishnu, hồi chuông báo tử của Phật Giáo
ở Ấn Ðộ đã vang lên.
Cũng trong đà phát triển đó, từ thế kỷ thứ ba đến thế kỷ thứ
hai trước công nguyên, giáo lý Phật Đà đã trải qua một biến
chuyển thay đổi bằng sự giới thiệu một số tác phẩm thuộc Luận
tạng được biên soạn bao gồm cả hệ Pali và tiếng Phạn. Trong đó,
đặc biệt phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvàstivàda) đưa ra khái niệm
đức Phật có hai thân. Tuy nhiên những tư tưởng cao đẳng này chỉ
được số ít học giả trí thức lưu ý, trong khi đó đại đa số quần
chúng dường như chẳng quan tâm đến. Mãi đến thời Long Thọ (thế
kỷ thứ hai sau công nguyên) thì giáo lý Pháp thân của đức Phật
mới được hoàn chỉnh. Và mãi đến thời đại của Vô Trước,
giáo lý tam thân mới thật sự hoàn tất. Đó là: Pháp Thân, Ứng
Thân và Báo Thân của đức Phật.
Tóm lại, bản chất thật sự của tất cả các vị Bồ Tát được kết
tinh từ đức hạnh của đức Phật lịch sử và sau đó được thần thánh
hóa nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của quần chúng đang bị thu
hút bởi những đường lối tu tập của những tôn giáo đa thần. Trí
tuệ (pràjnã) và từ bi (karunà) là hai biểu tượng rất quan trọng
trong Phật giáo và thường chuyển đổi hình thái cho nhau để thích
hợp với môi trường của những tôn giáo chung quanh trong một giai
đoạn nào đó của lịch sử. Không riêng gì Bồ Tát, đức Phật dần
theo thời gian cũng được thần thánh hóa trong hình thái Bồ Tát
để phù hợp với khuynh hướng đa thần đó. Vì thế vai trò trí tuệ
được thánh hóa trong hình ảnh của Bồ Tát Văn Thù (Manjusri). Từ
đó Ngài là biểu tượng của căn bản trí, vô sư trí và là người
thân cận nhất của đức Phật để giảng giải giáo pháp như trong hầu
hết kinh điển Đại thừa. Bên cạnh đó, ngài Bồ Tát Quán Thế Âm
được nhân cách hóa cho lòng từ bi và được tôn xưng, ca ngợi
trong nhân gian.
4) Đại hội kết tập kinh điển lần thứ tư được tổ chức tại thành
Ca Thấp Di La (Kashmir) khoảng năm 70 trước Tây Lịch, dưới sự tổ
chức của Vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishka), nhưng lần nầy chỉ có sự
tham dự bởi phái Nhất Thiết Hữu Bộ, chứ không được phái Nguyên
Thủy thừa nhận. Sau thời vua A Dục khoảng 300 năm tức là vào
khoảng năm 70 trước Tây Lịch, miền tây bắc Ấn Độ có vua Ca Nị
Sắc Ca (Kanishka), rất kính tin Phật pháp, thường thỉnh chư Tăng
vào triều thuyết pháp. Vì thấy pháp không đồng và luật lệ của
nhóm nầy khác với nhóm kia, nên vua bèn chọn 500 Tăng sĩ kiến
thức uyên bác đều là các bậc A la hán cộng thêm với 600 vị
Bồ-tát, và triệu thỉnh ngài Hiếp Tôn Giả (Parsvika) tổ chức hội
nghị kết tập kinh điển lần thứ tư. Hội nghị đề cử ngai Thế Hữu
(Vasumitra) làm chủ tọa, còn ngài Mã Minh được mời từ Saketa đến
để soạn thảo Luận Thư (commentaries) đồng thời là Phó chủ tọa,
địa điểm là tịnh xá Kỳ Hoàn ở Ca Thấp Di La (Kashmir). Mục đích
kỳ kết tập nầy là giải thích rõ ràng ba tạng kinh điển, gồm
300.000 bài tụng. Sau đó chế ra bản đồng, đúc chữ in lại tất
cả, cho xây bửu tháp để tàng trử kinh điển. Không phải như
ba lần kết tập trước, lần nầy nghĩa lý kinh điển được giải thích
rõ ràng.
Tuy nhiên, ngài Hiếp Tôn Giả Parsvika) là một vị đại học giả về
Hữu Bộ, vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishka) cũng tin theo Hữu Bộ, nên sự
giải thích trong lần kết tập nầy đều y cứ vào “Nhất Thế Hữu Bộ”
(Sarvastivadah). Chủ đích của Hội Nghị là phân tích lại một phần
Vi Diệu Pháp nhằm ngăn ngừa một số khuynh hướng cải cách bên
trong cộng đồng. Nghị Hội được triệu tập theo sự đề xuất của một
cao tăng uyên thâm Phật pháp là Hiếp Tôn Giả. Ngài Thế Hữu
(Vasumitra) làm chủ tịch Hội Nghị, trong khi ngài Mã Minh được
mời đến từ Saketa, làm Phó chủ tọa, và cũng là người lo biên
soạn quyển Mahavibhasa, một quyển bình giải về Vi Diệu Pháp.
Không có chứng cớ là Phật giáo Đại Thừa và Nguyên Thủy đã tham
dự.
Rồi dần theo thời gian không lâu sau đó, sự căng thẳng gia
tăng giữa thành phần cho rằng Phật pháp là phương tiện để đào
tạo một số ít các vị A la hán sống ngăn cách trong các tự viện
để nghiêm trì giới luật mà chính họ lại tùy thuộc kinh tế hoàn
toàn vào những cư sĩ ở ngoài đời và nhóm khác là những người
muốn sự giải thoát phải được nới rộng đến cho mọi người. Đây là
sự bắt đầu hình thành Đại chúng bộ, tách rời khỏi Thượng tọa bộ,
những người tự cho rằng mình cao quý và chính thống hơn. Đại
chúng bộ vẫn tiếp tục tồn tại ở Ấn Độ cho đến hết thời kỳ thứ
nhất và trong thời gian này họ cũng có những phát triển về giáo
lý đáng kể. Tất cả những phát triển của Đại chúng bộ nhằm khuyến
khích những người bình thường, những cư sĩ tại gia cùng tiến lên
đến chỗ giải thoát chớ không phải chỉ dành riêng cho các vị xuất
gia, các bậc thánh giả. Vì thế có thể nói rằng Đại chúng bộ là
cây cầu nối những khác vọng của đa số đi vào Phật giáo mà về sau
khi Đại thừa chính thức được thành lập thì sự ra đời của kinh
Duy Ma Cật có tánh cách như là cuộc cách mạng của hàng cư sĩ bởi
vì trong Thượng tọa bộ sự chứng đắc Thánh quả chỉ dành
riêng cho hàng tăng sĩ. Dựa theo tư tưởng Đại thừa, vai
trò của cư sĩ Duy Ma Cật xiễn dương tinh thần bình đẳng của nhà
Phật vì khi con người không còn xét đoán việc đời qua hình tướng
sinh diệt bên ngoài, mà quay về sống với chơn tâm, Phật tánh
vĩnh hằng thường có trong họ thì hình tướng đầu tròn áo vuông
hay xuất gia tại gia đâu có gì khác biệt. Nói cách khác sự phát
triển trí tuệ không tùy thuộc vào sự tướng mà chỉ đòi hỏi hành
giả thực hành thiền định vững chắc để chứng đạt được chân lý.
Phật giáo Nguyên thủy cho rằng đức Phật Thích Ca là một vị
Phật lịch sử. Ngài cũng bắt đầu bằng thân phận bình thường của
một con người, cũng chia sẻ tất cả mọi hệ lụy của kiếp người.
Ngài cũng phải đương đầu với sanh, lão, bệnh, tử như tất cả mọi
chúng sinh khác. Sau cùng, Ngài tìm kiếm một con đường giải
thoát và đạt đến hạnh phúc Niết bàn, chứng đắc trí tuệ viên mãn
và thoát ly sinh tử luân hồi. Ngài chỉ rõ cứu cánh này cho mọi
người biết và những ai đi theo con đường này cũng sẽ đạt đến cứu
cánh tối thượng giống như Ngài. Vì thế đức Phật là vị A la hán
đầu đàn của tất cả các vị A la hán.
Trong khi đó, Đại Chúng bộ quan niệm rằng tất cả những gì có
tính cách thế nhân, trần tục hay lịch sử đều không liên quan gì
đến đức Phật chân thật vì đó chỉ là hóa thân của Phật trong thế
giới Ta Bà này. Còn đức Phật chân thật phải là vị siêu việt,
vượt trên thế gian, hoàn toàn thanh tịnh. Ngài là bậc toàn trí,
toàn năng, vô biên và bất diệt, mãi mãi an trú trong thiền định.
Vì thế Đại chúng bộ đã biến đức Phật trở thành một đối tượng lý
tưởng của tín ngưỡng chẳng khác nào Thượng đế của Thiên Chúa
giáo. Chẳng những thế hình ảnh các vị Bồ-tát cũng lần lượt được
giới thiệu vào làm cho khoảng cách giữa hai bộ phái càng ngày
càng cách xa. Vì những tư tưởng bất đồng đó mà trong hệ thống
kinh điển của Nguyên thủy và Đại thừa cũng khác biệt khá rõ
ràng. Trong hệ Phật giáo Nguyên thủy, đức Phật lịch sử giảng
pháp trong những hoàn cảnh xã hội bình thường, những bài pháp
thoại phản ảnh phong tục, tập quán và những tư tưởng dị biệt của
những tôn giáo cùng thời. Trong đó những hình ảnh thiên nhiên
như núi rừng hùng vĩ, mùa khô nước đổ, cây cỏ, chim bay, cá lặn…
Đặc biệt từ người ăn xin, nhà tu khổ hạnh, ông hoàng bà chúa,
thương gia, phú hộ thậm chí những kẻ trộm cướp, giết người ngay
cả gái giang hồ thì ai ai cũng được đức Phật thu nhận làm đệ tử.
Đây là một bức tranh sống động trong xã hội Ấn độ lúc bấy giờ.
Ngược lại trong kinh điển Đại thừa, hoàn cảnh phản ảnh lại nền
văn hóa xứ Ấn độ bây giờ chỉ còn là một bức tranh mờ nhạt. Đức
Phật không còn là người khất sĩ, y bát tầm thường xốc xết hay
thuyết giảng cho những đệ tử bình thường trong cái xã hội đầy
bất công đau khổ. Ngược lại đức Phật bây giờ uy nghi ngồi trên
tòa sen, hào quang sáng chói chiếu rọi đến vô vàn thế giới và
chung quanh Ngài có hàng ngàn hàng vạn Bồ-tát, chư Thiên đứng
hầu. Khi Phật thuyết pháp, trái đất rung chuyển, mưa hoa mạn đà
la từ trời rơi xuống. Thật là thế giới đầy ánh sáng rực rỡ,
nhiệm mầu bí mật tuyệt đẹp không có bút mực nào diễn tả được.
Thế giới quá mầu nhiệm huyền bí vượt ngoài cái tâm nghĩ bình
thường của con người nhất là con người cách nay trên mấy ngàn
năm mà có lẽ chỉ xảy ra trong các phim thần thoại Harry Potter
của nhà viết ảo tưởng J.K. Rowling ở Anh Quốc.
Tóm lại, Phật giáo Nguyên thủy được thành lập từ khi đức Phật
còn tại thế và chỉ có một Kinh tạng và một Luật tạng. Sau khi
đức Phật nhập diệt, đạo Phật bắt đầu chia thành hai phái: một là
Thượng tọa bộ gồm những người lớn tuổi và chứng đắc A la hán và
một là Đại Chúng bộ gồm đa số còn lại, có khuynh hướng phát
triển, tiến bộ. Dần theo thời gian, các bộ phái lại tiếp tục
chia ra thành 18 bộ phái khác nữa, có lúc lên đến trên 25 bộ
phái và mỗi bộ pháp có Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng riêng
giải thích theo tư tưởng, sự hiểu biết riêng của bộ phái mình.
Vì vậy Phật giáo bộ phái không còn giống như Phật giáo Nguyên
thủy nữa.
Có hai tư tưởng rất quan trong dẫn đến những giáo lý căn bản
của Đại chúng bộ sau này:
1)Đại chúng bộ quan niệm rằng trong tất cả vạn hữu, ai cũng
đều có tự tánh thanh tịnh bản nhiên, hoàn toàn thuần khiết và
không ngăn ngại. Từ đó khái niệm về chơn tâm, Phật tánh được
hình thành. Những phiền não khách trần, những căn bản bất thiện
chỉ là bất chợt khởi lên và ở bên ngoài nên không thể nào thâm
nhập gây ảnh hưởng đến sự thuần khiết của tự tánh được.
2)Đại chúng bộ càng ngày càng gia tăng sự hoài nghi về giá trị
của những tri thức qua ngôn ngữ và khái niệm mà con người bám
chặt vào nó mà tin là thật. Họ lập luận rằng vạn pháp trên thế
gian là không thật. Thật là vì con người chấp nó thật chớ tự
tánh nó là không. Vì thế tư tưởng Bát Nhã diễn giải về “tánh
không” bắt đầu hình thành và thể hiện trong hầu hết các kinh
điển Đại thừa. Từ đó họ phủ nhận tất cả mọi thứ, cho rằng không
có Niết bàn, không có chứng đắc tất cả chỉ là ảo tưởng cũng vì
tâm con người chấp thật. Tu hành bây giờ không ngoài mục đích
trở về với chơn tâm, Phật tánh huyền diệu vốn đã có sẵn trong
tất cả mọi chúng sinh chớ không phải tìm một cái chưa bao giờ
có. Đại chúng bộ đã sớm gieo mầm cấy mống và từ đó bắt đầu nẩy
sinh ra Phật giáo Đại thừa.
Giáo điều cơ bản của triết học
Phật giáo phủ nhận sự hiện hữu của “tự ngã” và khuyên con
người đừng nghĩ rằng trong ta lúc nào cũng có một “cái Ta”
trường tồn, bất biến, sống giữ chết đem theo. Ngược lại trường
phái Độc tử bộ, về sau được biết qua tên khác là Trụ tử bộ, xiễn
dương tư tưởng “hữu ngã”. Tuy tư tưởng này hoàn toàn đối
nghịch với giáo lý Phật đà, nhưng vẫn lôi cuốn được rất nhiều
tin theo. Bằng chứng là lúc ngài Huyền Trang đến Ấn Độ vào thế
kỷ thứ 7 đã đếm được đến 66,000 tỳ kheo thuộc bộ phái này trong
tổng số 250,000 tỳ kheo trên toàn cõi Ấn Độ.
Kết quả của những sự phân cách trong các bộ phái đưa đến sự
sáng tạo hàng loạt những kinh văn để đáp ứng với hoàn cảnh mới.
Bộ A-tỳ-đạt-ma rõ ràng đã được soạn sau khi có sự phân chia. Các
học giả ngày nay đã thấy sự khác biệt rõ ràng giữa cuốn
A-tỳ-đạt-ma của Nhất thiết hữu bộ và bảy cuốn của Thượng tọa bộ.
Lịch sử khảo cổ về đạo Phật cho biết rằng từ khoảng năm 220
trước công nguyên về sau, đã có rất nhiều nỗ lực để cho ra đời
những bộ sách này.
Sự bất đồng tư tưởng và lý tưởng của các bộ phái càng lúc càng
gia tăng đến chỗ quyết liệt. Họ đặt một số nghi vấn mà có lẽ chỉ
có đức Phật là người duy nhất trên thế gian mới có thể trả lời
được.
1) Cứu cánh của Thượng tọa bộ là giải thoát Niết bàn,
thế mà bây giờ các bộ phái lại nghi vấn ý nghĩa của Niết bàn. Họ
nói rằng nếu Niết bàn là vượt ngoài nhận thức, vậy thật sự Niết
bàn có tồn tại hay không? Và từ đó nó có thể tạo ra ảnh hưởng gì
không? Thật sự có sự khác biệt nào giữa Niết bàn của chư Phật và
Niết bàn của những người khác hay không? Và nếu có, thì sự khác
biệt đó là gì?
2) Vấn đề chết là một đề tài tranh luận khá sôi nổi của các bộ
phái. Có câu hỏi rằng thời điểm chết của mỗi người có luôn luôn
được xác định trước bởi nghiệp quả của người ấy, hay một cái
chết đến sớm hay muộn hơn và không được xác định trước bởi
nghiệp quả cũng có thể xảy ra? Nói cách khác con người trong quá
khứ đã tạo biết bao hành nghiệp. Mỗi nghiệp chính là một nét vẽ,
một vết mực điểm tô dần dần để hoàn thành bức tranh cho cuộc đời
của mình ở đời sau. Vì thế khi nhắm mắt lìa đời thì bức tranh do
chính tự tay họ vẽ đã hoàn tất tức là tất cả những nghiệp quả
quyết định tương lai của người đó sẽ tái sinh về đâu “tức thì”
hay phải cần thời gian để nó gom đủ trước khi chuyển theo nghiệp
lực.
Có 5 trường phái tuyệt đối tin rằng việc tái sinh vào
một thân xác mới “tức thì” xảy ra ngay sau khi chết. Trong khi
đó, cũng có 5 trường phái khác lại tin rằng phải có một giai
đoạn chuyển tiếp sau khi chết có thể kéo dài đến 49 ngày.
Và trong suốt thời gian đó, tâm thức dần dần chuẩn bị đời sống
mới cho chính mình tùy theo nghiệp lực. Ngoài ra thời gian này
được dùng để các vị thánh đạt đến Niết bàn mà khi còn sống họ
chưa đạt đến được.
Để thống nhất vấn đề văn tự các học giả thời nay đều đồng ý
rằng đạo Phật Nguyên thủy là thời kỳ đức Phật còn tại thế cho
đến lúc chưa phân chia bộ phái. Còn lại tất cả đều là đạo Phật
bộ phái. Bộ phái thứ nhất hiện hữu ở Tích Lan chính thật là
Tamrasatiya nghĩa là Đồng Diệp Bộ tức là các tu sĩ chỉ quấn y
màu đồng đỏ mà họ tự gọi là Nguyên thủy (Theravada), Nam truyền.
Bộ phái thứ hai là Nhất Thiết Hữu Bộ ở Kashmir miền Tây Bắc
Pakistan, tồn tại trong khoảng một ngàn năm, rồi truyền sang
Trung Hoa trước khi bị Hồi giáo hủy diệt. Vì thế có rất nhiều
kinh điển của Nhất Thiết Hữu Bộ được dịch sang chữ Hán. Mặc dầu
họ cũng tự gọi mình là Phật giáo Nguyên thủy, nhưng những cách
truyền thừa, cách thực hành và lối giải thích giáo lý rất khác
với đạo Phật Nguyên thủy.
CÁC THỜI KỲ CỦA PHẬT GIÁO
Phật giáo tồn tại cho đến ngày nay đã trải qua trên 2500 năm
thăng trầm trong suốt chiều dài của lịch sử nhân loại. Dựa theo
sự thay đổi và biến dạng, Phật giáo có thể được chia làm bốn
thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất là giai đoạn của Phật giáo Nguyên
thủy. Thời kỳ thứ nhì là sự phân chia thành Phật giáo bộ phái.
Thời kỳ thứ ba là Phật giáo Đại thừa. Thời kỳ thứ tư là sự phát
triển của Thiền tông và Mật tông. Và sau đó Phật giáo tuy có
thay đổi tùy theo hoàn cảnh địa phương và bối cảnh xã hội, nhưng
sự thay đổi đó gần như không gì đáng quan trọng.
Đứng về phương diện địa lý, sự hoạt động của Phật giáo ở trong
thời kỳ đầu và thứ hai rất giới hạn trong phạm vi không ra ngoài
nước Ấn Độ. Sang đến thời kỳ thứ ba, Phật giáo bắt đầu chuyển
mình sang các nước Đông Á và dĩ nhiên chính Phật giáo tự nó cũng
bị ảnh hưởng bởi những luồng tư tưởng bên ngoài Ấn Độ. Trong
suốt thời kỳ thứ tư khi Mật tông và Thiền tông phát triển rất
mạnh thì Phật giáo bị ảnh hưởng rất lớn bởi những tư tưởng dị
biệt của những quốc gia khác ngoài Ấn Độ, chẳng hạn như Trung
Hoa, Tây Tạng hay Mông Cổ.
Đứng về khía cạnh triết học, thời kỳ đầu và thứ nhì chú trọng
vào những vấn đề tâm lý. Đó là giai đoạn mà mỗi người cố gắng tự
nhiếp phục tâm ý mình. Thời kỳ thứ ba đặt trọng tâm chính về bản
chất của sự hiện hữu. Nói cách khác đây là giai đoạn tư tưởng tự
tánh và sự nhận thức của tâm về tự tánh của tất cả vạn hữu được
xem như là yếu tố chính để đạt đến sự giải thoát. Thời kỳ thứ tư
đặt nặng vấn đề vũ trụ. Đây là giai đoạn xem việc hoán chuyển tự
thân cho hòa nhịp với vũ trụ tức là sống phải tùy thuận với chân
lý vũ trụ là mấu chốt chính để đạt đến giác ngộ.
Sau cùng đứng trên phương diện giải thoát, mục tiêu tối hậu
cho thời kỳ đầu và thứ nhì là giải thoát Niết bàn, trở thành bậc
A la hán nghĩa là chuyển con người từ phàm sang Thánh, những bậc
đã đoạn trừ hết ái nhiễm, hết dục vọng và vĩnh viễn không còn
phải tái sinh trong sinh tử luân hồi. Thời kỳ thứ ba đưa người
tu Phật hướng về Bồ-tát đạo để phát tâm cứu độ tất cả chúng sinh
và đạt đến sự giác ngộ viên mãn tức là thành Phật. Thời kỳ thứ
tư nhắm vào mục đích chính là sự hòa hợp hoàn toàn với vũ trụ
nghĩa là Pháp thân thường trụ của chư Phật hòa hợp vô cùng vô
tận trong thế giới vũ trụ này.
Sự biến chuyển của đạo Phật theo những thời kỳ đã thay đổi
hình ảnh đức Phật đến nổi người đệ tử Phật đôi khi cũng không
biết vị nào là vị Phật thật còn vị nào là biểu tượng. Đức Phật
là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã chứng đắc giải
thoát giác ngộ và Ngài là một mẫu mực, một gương mẫu tối thượng
của cuộc đời. Chính Ngài đã chứng minh khả năng đạt được giải
thoát hoàn toàn tất cả mọi trói buộc của tâm, hoàn toàn thoát
khỏi khổ đau và dĩ nhiên thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Vai
trò của Ngài đối với nhân loại như là một người chỉ đường, là
đấng đạo sư giúp họ nỗ lực tinh tấn tu tập để dập tắt những ngọn
lửa tham-sân-si đang bùng cháy trong tâm của họ mà đạt đến cứu
cánh tối thượng là giải thoát Niết bàn và trở thành các bậc
Thánh giả A la hán. Như thế trong thời kỳ Nguyên thủy, đức Phật
chính là một con người lịch sử, là một bậc thầy vĩ đại, là đấng
tôn kính cho cả Trời và người, là đấng Chánh Biến Tri. Dần theo
thời gian, đức Phật không còn là hiện tượng độc nhất mà là một
trong những đức Phật đã từng xuất hiện ở thế giới Ta Bà này
trong nhiều kiếp quá khứ. Lúc đầu có bảy vị Phật gồm có đức Phật
Thích Ca và sáu vị Phật đã ra đời trước Ngài, đó là Phật
Tì-bà-thi, Phật Thi-khí, Phật Tì-xá-phù, Phật Câu-lưu-tôn, Phật
Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-Diếp. Cuối thời kỳ thứ nhất đã xuất
hiện hai vị Phật khác là đức Phật Nhiên Đăng đã thành Phật trước
đức Thích Ca 24 đời và Phật Di Lặc, một vị Phật tương lai, người
sẽ ban giáo pháp tái hiện với một sức sống mới.
Tóm lại, đạo Phật phát triển trên 2500 năm trải qua bốn thời
kỳ:
I) Thời kỳ đầu tiên là Phật giáo Nguyên thủy:
Phật giáo Nguyên thủy là Phật giáo ở thời kỳ đầu, là thời đại
giáo pháp nhất vị, giáo đoàn thống nhất, chưa phân chia bộ phái.
Thời kỳ này có thể bắt đầu từ khi đức Phật sáng lập giáo đoàn,
giảng dạy giáo lý cho đến 100 năm sau khi đức Phật nhập
diệt. Trong thời kỳ nầy, các Tỳ kheo giữ giới rất nghiêm túc,
lấy việc khất thực để tự nuôi sống và khu vực truyền bá giáo
pháp trọng yếu là vùng trung lưu sông Hằng ở Ấn Độ. Kinh điển
bao hàm hình thái nguyên thủy nhất của giáo lý Phật Đà là cơ sở
giáo lý căn bản để phát triển giáo lý Phật giáo Tiểu thừa và Đại
thừa sau này. Tuy có rất nhiều tranh cải về sự khác nhau của các
học giả cận đại về hai chủ trương Phật giáo Căn bản và Phật giáo
Nguyên Thủy, nhưng đối với phạm vi tư liệu nghiên cứu thì tất cả
đều đồng ý lấy thánh điển được tập thành vào thời đại Phật giáo
Nguyên thủy làm chính tức là ngũ bộ kinh NIKAYAS bằng tiếng Pali
hay kinh A Hàm của Phạn ngữ.
Bất luận là Phật giáo Căn bản hay Phật giáo Nguyên thủy đều
lấy tư tưởng trọng tâm của giáo pháp Phật Đà là học thuyết Duyên
khởi. Giáo pháp đó là do đức Phật ý cứ vào tư tưởng “nghiệp
luận”, “giải thoát quán” của Ấn Độ Áo Nghĩa Thư, đồng thời sử
dụng tư tưởng chúng sinh bình đẳng của Kì-na-giáo và sự sáng tạo
độc đáo của việc cầu đạo chứng ngộ dưới cội Bồ Đề. Nói chung
Luận thuyết về Duyên khởi gồm có:
1) Ba pháp ấn: Vô thường, khổ, vô ngã.
2) Mười hai nhân duyên: Vô minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục
Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão tử.
3) Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
4) Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh
Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.
Tóm lại, tất cả giáo pháp của Phật giáo đều lấy luận thuyết
Duyên Khởi làm tiêu chuẩn cho nên luận thuyết Duyên khởi là đại
biểu của Phật pháp. Cũng nên nói thêm, ở Ấn Độ, tuy các tư tưởng
triết học đã thạnh hành từ xưa, nhưng triết học Ấn Độ không có
luận thuyết Duyên khởi. Ngay cả các tôn giáo hoặc triết học khác
trên thế giới cũng không có luận thuyết Duyên khởi. Vì thế luận
thuyết Duyên khởi chính là tư tưởng đặc thù của Phật giáo, đặc
trưng cơ bản mà Phật giáo khác với các tôn giáo, các triết học
khác trên thế gian này. Nếu thiếu giáo lý căn bản này chẳng
những mất đi nét đặc trưng mà do đó cũng khó có thể gọi là Phật
giao.
II)
Thời kỳ thứ hai là đạo Phật bộ phái:
Về số lượng, nguyên nhân và niên đại phân chia bộ phái xưa nay
có rất nhiều thuyết khác nhau, đến nay vẫn chưa xác định. Theo
Dị Bộ Tông Luận, sau khi đức Phật nhập diệt khoảng 100 năm, vì
không thống nhất ý kiến nên tăng đoàn chia làm 2 bộ là Thượng
tọa bộ và Đại chúng bộ. Về sau, Đại chúng bộ chia thành 9 bộ và
Thượng tọa bộ chia thành 11 bộ.
A) Mười một bộ của Thượng tọa bộ:
1)
Tuyết sơn bộ:
Chủ trương không có “Trung hữu” tức là không có thân Trung ấm.
2)
Thuyết Nhất Thiết hữu bộ:
Bộ phái này được phân chia từ Căn Bản Thượng Tọa Bộ vào khoảng
thời gian đầu sau khi Phật nhập
diệt
300 năm. Người sáng lập là Ca-đa-diễn-ni-tử (Kãtyãyaniputra).
Theo Luận Dị Bộ Tông Luân, Tam Luận Huyền Nghĩa, sau khi Phật
nhập diệt, Thượng tọa bộ từ ngài Đại Ca Diếp, A Nan đến ngài
Ưu-bà-quật-đa đều chỉ hoằng truyền kinh giáo, đến ngài Phú lâu
na mới hơi nghiêng nặng về Tỳ-đàm (luận). Cho đến ngài
Ca-đa-diễn-ni-tử thì cho Tỳ-đàm là tối thắng và từ đó mới chuyên
hoằng truyền A-tì-đàm. Đó chính là đầu mối sự chia rẽ với nhóm
Thượng tọa bộ vì Thượng tọa bộ chủ trương lấy kinh, luật làm y
cứ chủ yếu trong khi bộ phái này lấy các luận của A-tỳ-đàm làm
chủ yếu. Bộ phái này dùng “Vô thường Vô ngã” làm nền tảng
để lập luận, chủ trương “Ba đời thật có, pháp thể hằng hữu”. Ba
đời thật có tức là quá khứ, vị lai và hiện tại đều giống nhau,
đều có thật thể. Bộ phái này dùng sắc pháp, tâm pháp, tâm sở hữu
pháp, tâm bất tương ứng hành pháp và vô vi pháp gồm có 75 pháp
để phân biệt chủng loại các
pháp cho rằng sắc pháp, tâm pháp, tâm sở hữu pháp, tâm bất
tương ứng hành pháp đều thuộc về pháp hữu vi nên bị sinh diệt
biến hóa. Chỉ riêng có Trạch diệt vô vi (Niết bàn), Phi trạch
diệt vô vi và Hư không vô vi là pháp vô vi siêu việt thời gian,
không gian nên không bị sinh diệt biến hóa. Trong khi đó, Thượng
tọa bộ tin rằng cần phải nói đến 174 pháp. Lý do con số của
Thượng tọa bộ đưa ra nhiều hơn là vì họ chia nhỏ pháp thứ 14
(Tưởng) của Nhất Thiết hữu bộ thành 89 loại thức. Nhất Thiết hữu
bộ chủ trương sinh thân đức Phật là hữu lậu và trong sự thuyết
pháp của Phật có vô ký ngữ, nhưng lấy Bát Chánh Đạo làm thể của
chính pháp luân. Họ phản đối Phật thân có Tam vô biên là lượng,
số, nhân
-
Nghĩa là thân xuất hiện ở thế gian và khi duyên hết thì nhập
tịch diệt hoàn toàn. Phái này lấy nước Ca-thấp-di-la làm trung
tâm, từng thịnh hành một thời tại Kiền-đà-la thuộc miền Trung
Tây Ấn Độ và Tây Vực, là một bộ phái có ưu thế nhất trong 20 bộ
phái Tiểu thừa. Về A-tỳ-đàm được dịch sang Hán tự rất sớm và
thời Nam Bắc triều ở Trung Hoa có bộ phái gọi là Tỳ-đàm tông, là
đại biểu cho Phật giáo Tiểu thừa tại Trung Hoa.
Vào thời kỳ thế kỷ thứ nhất, bộ phái Nhất Thiết hữu bộ đã san
định lại kinh tạng của họ và đến năm 100 họ cho ra đời bộ Tỳ Bà
Sa, là một luận giải của bộ A-Tỳ-Đạt-Ma. Khoảng năm 200, bộ Đại
Tỳ-Bà-Sa được ra đời và đây là công trình biên soạn bởi 500 vị A
la hán ở Kashmir. Sau đó nhóm bộ pháp chính thống nhất thành lập
từ Nhất Thiết hữu bộ cho ra đời Tỳ Bà Sa bộ. Tỳ Bà Sa có nghĩa
là “sự lựa chọn” để người đọc có thể lực chọn cho mình những tư
tưởng nào thích hợp nhất đối với mình. Trường phái đối nghịch
với Tỳ Bà Sa bộ là Kinh lượng bộ vì họ tin rằng bảy cuốn A Tỳ
Đạt Ma cơ bản không phải là do chính đức Phật truyền dạy và xác
định rằng bộ A Tỳ Đạt Ma được trích dẫn rải rác từ Kinh tạng là
những nền tảng có thể tin cậy được.
Tóm lại, sự sáng tạo ra bộ luận A Tỳ Đạt Ma là một trong những
thành tựu vĩ đại nhất của trí tuệ con người.
3)
Độc Tử bộ:
Lấy Bản thể luận làm trung tâm tức là dùng Bất khả thuyết tạng
để bác bỏ “Ngã tức uẩn” của phàm phu và “Ngã li uẩn” của ngoại
đạo.
4)
Pháp thượng bộ:
Pháp thắng bộ.
5)
Hiền Trụ bộ:
Hiền thừa bộ.
6)
Chính Lượng bộ:
Chủ trương “Hữu ngã luận”.
7)
Mật lâm sơn bộ:
Lục thành bộ.
8)
Hóa Địa bộ:
Bản thể luận của bộ phái này lập ra thuyết Cửu vô vi chủ trương
rằng “Phật và Nhị thừa đều đồng một đạo, cùng một giải thoát.
9)
Pháp Tạng bộ:
Lập ra thuyết Ngũ tạng: Kinh, Luật, Đối pháp (A-tỳ-đạt-ma), Minh
Chú và Bồ tát Bản hạnh sự. Đặc biệt xem trọng Minh chú tạng và
Bồ tát tạng, mở đầu mối cho Đại thừa Mật giáo ở đời sau.
10)
Ẩm quang bộ:
Chủ trương các hành đều diệt trong một sát na.
11)
Kinh lượng bộ:
Bộ phái này xem trọng kinh, cho kinh là Chính lượng nên lập ra
thuyết “Tâm vật nhị nguyên Không”. Vì trong phẩm Diệt Pháp Tâm
trong “Luận Thành Thật” có nói đến Tâm pháp câu Không. Giáo lý
của Kinh lượng bộ thường đơn giản, rõ ràng và hợp lý hơn giáo lý
của Nhất Thiết hữu bộ. Sự mâu thuẫn giữa hai trường phái liên
quan đến những vấn đề như khả năng tự tỉnh giác, hoặc là sự nhận
thức trực tiếp đối tượng hay tranh luận về hiện hành của tâm như
thấy là con mắt là ý thức, hay là tâm. Tuy ngài Thế Thân đã
nhượng bộ rất nhiều cho nhóm Kinh lượng bộ, nhưng các bộ luận
của ngài vẫn bị bộ phái chính thống Tỳ Bà Sa công kích kiệt
liệt. Và đối thủ có năng lực mạnh mẽ nhất của Kinh Lượng bộ là
ngài Chúng Hiền.
Vào thế kỷ thứ 5, ở Tích Lan có ba học giả là Phật Đà Đạt Đa,
Phật Ấm và Pháp Hộ đã dịch những bộ luận giải Tích Lan cổ xưa
nhất sang tiếng Pali. Người nổi tiếng nhất là ngài Phật Ấm
đã trình bày phần nghiên cứu tuyệt vời của ngài trong quyển luận
“Thanh Tịnh Đạo”. Đây là quyển luận tương quan về Tam tạng kinh
điển được xem là một trong những kiệt tác vĩ đại của nền
văn chương Phật giáo trong
đó trình bày rất xác thực, rõ ràng và chi tiết những phương pháp
thực hành thiền quán chính yếu của các vị tăng Du già.
B)
Chín bộ của Đại Chúng bộ:
1) Đại Chúng bộ:
(Mahãsamghikãh): Ma-ha-tăng-kỳ do ngài Đại Thiên khai sáng, dùng
Duyên khởi quán để lập luận với chủ trương “Hiện tại có thật,
quá khứ vị lai không có thật thể.
2)
Nhất Thuyết bộ
(Ekavyavaharikah): Kinh Văn Thù gọi là “Chấp Nhất Ngữ Ngôn bộ”
chủ trương pháp thế gian, xuất thế gian đều không thật, chỉ có
giả danh. Thuyết này gần giống như luận thuyết “Vô tướng giai
không” của Đại thừa Bát Nhã.
3)
Thuyết Xuất Thế bộ
(Lokottaravadinah): Chủ trương pháp thế gian từ điên đảo mà sinh
ra phiền não, từ phiền não sinh ra nghiệp, nghiệp sinh quả báo,
quả báo là khổ. Còn pháp xuất thế gian là từ đạo mà sinh, quả
sinh từ việc tu đạo, chính là Niết bàn.
4)
Kê Dận bộ:
Chủ trương “tùy nghi diệt sinh, tùy nghi ăn uống, tùy nghi trú
xứ”.
5)
Đa Văn bộ:
Tư tưởng của bộ này có xen lẫn triết học Áo Nghĩa Thư của Ấn Độ
giáo.
6)
Thuyết giả bộ:
Bộ phái này chủ trương thế giới hiện thực có hai mặt: Chân, Giả.
7)
Chế đa Sơn bộ
(Caiyasailah).
8)
Tây sơn Trụ bộ
(Aparasailah).
9)
Bắc Sơn Trụ bộ
(Uttaarasailah).
III)
Thời kỳ thứ ba là Phật giáo Đại thừa:
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau
thế kỷ thứ nhất trước công nguyên ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ
trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh” tu theo Lục độ
vạn hạnh, phát khởi đại bi nguyện dẫn dắt cứu giúp chúng sinh
cùng thành tựu Phật quả. Đại thừa là lời tự xưng của những người
theo chủ trương này để phân biệt với Phật giáo Nguyên thủy và
Phật giáo Bộ phái mà họ gọi là Tiểu thừa. Dựa theo “Đại Thừa
Phật Giáo Tư Tưởng Luận” của học giả Kimura Taiken (người Nhật)
thì có hai hạng người phát động đề xướng tư tưởng Đại thừa, đó
là những Tỳ kheo có tư tưởng tiến bộ và những cư sĩ theo chủ
nghĩa tự do. Nhưng có lẽ đặc biệt hơn hết là do sự phát triển và
bổ túc của người sau mà tư tưởng Đại thừa trở nên hoạt bát linh
động. Học giả Taiken còn cho rằng do sự phát triển các phái
triết học như Số Luận, Thắng Luận… và sự hưng thịnh của Ấn Độ
giáo (hậu thân của Bà la môn) với sự hoàn chỉnh của hai thi phẩm
nổi tiếng là Ramayana và Mahabharata cũng như sự xâm nhập của
các nền văn hóa Hi Lạp (Greek), Ba Tư (Iran) vào Ấn Độ khiến cho
Phật giáo Đại thừa được hình thành. Sự ra đời Phật giáo Đại thừa
nhằm thích ứng với nhu cầu tín ngưỡng trong một xã hội phức tạp
những triết thuyết tiến bộ lúc bấy giờ. Trung tâm phát khởi của
tông phái này là khu vực của phái Án-đạt-la thuộc Đại Chúng bộ ở
Nam Ấn Độ, nhưng về sau lại hưng thịnh ở cả Bắc, Nam.
Đại thừa Phật giáo ở Ấn Độ được chia làm 3 thời kỳ:
1) Sơ kỳ Đại thừa:
Thời kỳ này bắt đầu khoảng từ thế kỷ thứ 1 trước công nguyên đến
thế kỷ thứ 4 sau công nguyên nhằm phát huy lý luận “Giai Hữu
Tánh Không” và từ đó hình thành học phái Trung Quán của Long
Thọ và đệ tử là Đề Bà.
2)
Trung kỳ Đại thừa:
Đây là giai đoạn khoảng thế kỷ thứ 4 đến thứ 6 sau công nguyên
với sự xuất hiện của thuyết “Như Lai tạng Duyên khởi” và
A-lại-da thức Duyên khởi. Từ đó hình thành học thuyết Du già
hành tông do ngài Vô Trước và em là sư Thế Thân với tác phẩm nổi
tiếng “Thành Duy Thức Luận”.
3)
Hậu kỳ Đại thừa:
Thời kỳ này bắt đầu từ những thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ
13. Đây có lẽ là thời kỳ Phật giáo dần dần suy vi. Nhưng lúc ấy
Phật giáo Đại thừa được truyền từ Ấn Độ gọi là Phật giáo Bắc
truyền lại phát triển rực rỡ ở các nước Trung Hoa, Triều Tiên,
Nhật Bản và Việt Nam với sự xuất hiện của mười đại tông phái như
Thiền, Tịnh độ, Nhiếp Luận, Thiên Thai...
IV)
Thời kỳ thứ tư là giải đoạn phát triển của Thiền tông và Mật
tông.
(Xem chi tiết Mật tông trong phẩm Đà-la-ni).
THIỀN TÔNG:
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên
tâm tọa thiền là Thiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên Thai
và Tam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông. Nhưng từ
đời Đường về sau, Đạt Ma tông trở nên hưng thịnh vì thế từ ngữ
Thiền tông liền chuyển sang để chỉ cho Đạt Ma tông.
Lịch sử Thiền tông đã trải qua hai giải đoạn trong quá trình
truyền thừa:
1) Giai đoạn đầu từ Tổ Đại Ca Diếp đến Tổ Bồ Đề Đạt Ma
tức là Tổ thứ 28 thuộc Thiền tông Ấn Độ. Rất khó mà xác định
được khởi nguyên của lịch sử Thiền tông Ấn Độ vì lịch sử Phật
Giáo Ấn Độ không hề đề cập đến việc truyền thừa của 28 vị Tổ
Thiền tông. Đặc biệt hơn nữa là không tìm đâu ra được vị trí đặc
biệt nào của Tổ Đạt Ma trong Phật giáo Ấn Độ cả. Một lý do khác
là những bài kệ truyền pháp từ đức Phật Thích Ca đến Tổ thứ 28
không tìm thấy bản gốc bằng tiếng Pali hay tiếng Phạn để đối
chiếu. Đó là chưa kể văn khí của những bài kệ đó được sáng tác
theo phong cách thiền Trung Hoa và có lẽ sau thời Lục Tổ Huệ
Năng. Một số Ngữ Lục (là các bài Thuyết giảng do chư vị Thiền sư
giảng, được các đệ tử ghi chép lại) hay Truyền Ký có đề cập đến
lịch sử Thiền Tông cổ nhất của người Trung Hoa được biên soạn
vào đời Đường khoảng trên 1200 năm sau ngày đức Phật Niết-bàn,
và mãi đến đời nhà Tống từ niên hiệu Cảnh Đức 1004 đến niên hiệu
Gia Thái 1204 trên dưới 1700 năm sau đức Phật Niết-bàn như Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục do Đạo Nguyên soạn, Thiên Thánh Quảng Đăng
Lục do Lý Tuân Húc soạn v.v... thường là mượn các nhân vật danh
Tăng thiền đức có thực để hư cấu thêm nhằm chuyển tải thiền lý
hơn là mô tả thực kiện diễn ra trong lịch sử.
Thí dụ khi đức Phật sắp nhập diệt thì Ngài truyền y bát cho
tôn giả Đại Ca Diếp và nói một bài kệ truyền pháp như sau:
Các pháp vốn không pháp
Không pháp cũng là pháp
Nay truyền cái vô pháp
(vô tướng)
Vô pháp nào có pháp.
Câu chuyện “niêm hoa vi tiếu” tuy chỉ là huyền thoại, nhưng ý
nghĩa rất hay, rất sâu sắc. Câu “Các pháp vốn không pháp”
có nghĩa là các pháp vốn pháp
thực tánh chớ không phải là pháp khái niệm. Thí dụ
trong thế gian chỉ có một sắc pháp là tứ đại tức là đất, nước,
gió, lửa, nhưng con người lại nhìn một sắc pháp đó bằng tâm phân
biệt nào là nhà cửa, xe cộ… Vì vậy chúng ta chỉ thấy các pháp
dựa theo quan niệm của mình chớ không thấy thật tánh của các
pháp tức là “tự nó thật sự là”. Một thí dụ khác là
khi nhìn đóa hoa chúng ta cho rằng mình đang nhìn đóa hoa, nhưng
đóa hoa là tên do mình đặt cho nó chớ tự nó “không phải là”
đóa hoa “hay là” đóa hoa. Mà thật chất của nó là
sự tổng hợp của đất, nước, gió, lửa qua trùng trùng duyên khởi
kết thành hình tướng rồi chúng ta đặt tên hình tướng đó là đóa
hoa. Nói vậy thì trong đóa hoa có nước, nhưng chúng ta có thấy
trời mưa hoa rơi xuống đâu? Trong hoa có ánh sáng mặt trời,
nhưng ngoài trời đâu có rơi hoa? Trong hoa có phân bón, nhưng
trong các thùng phân bón làm gì có hoa? Do đó thật tánh của hoa
là không tánh vì hoa là do sự kết hợp của trùng trùng duyên khởi
chớ đóa hoa không tự nó có hay tồn tại được.
Vì vậy cái thấy của Thiền tông là thấy tất cả các pháp trên
thế gian này vốn là không vì chúng không có tự tánh tức là vô
ngã. Vô Ngã của Phật giáo Đại thừa nói chung và của Thiền tông
nói riêng là cái biết bằng tri giác trong khi đó
Vô Ngã của thiền Tứ Niệm Xứ là sự thấy biết như thật trong
trí tuệ chánh niệm tỉnh giác nghĩa là sự thấy biết rốt ráo rõ
ràng từ kinh nghiệm khắp toàn thân, tâm.
Còn câu “Nay truyền cái vô pháp, vô pháp nào có pháp”
nói lên ý nghĩa của câu chuyện “niêm hoa vi tiếu” bởi vì cành
hoa trong tự tánh thì nó “đang là” chớ không phải
“đang bị nghĩ là” nghĩa là thấy biết trực tiếp
bằng tánh thấy chớ không phải qua ý thức suy nghĩ phân
biệt. Truyền cái vô pháp nghĩa là truyền cái pháp không. Pháp
không có nghĩa là pháp chưa từng có trong khái niệm bởi vì một
khi hình thành khái niệm “pháp không” thì nó trở
thành “pháp có” rồi. Thế thì Thiền tông xiễn dương
“tánh giác” là cái biết chân thật bằng trực giác, không qua khái
niệm, kiến giải mà thiền Nguyên Thủy gọi là “thấy biết như
thật” trong trí tuệ chánh niệm tỉnh giác.
2) Giai đoạn thứ hai từ Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Lục Tổ Huệ Năng.
Thiền tông Trung Hoa từ Đạt Ma Tổ Sư truyền cho Huệ Khả, Huệ
Khả truyền cho Tăng Xán, Tăng Xán truyền cho Đạo Tín. Dưới Đạo
Tín có hai người tài giỏi là Hoằng Nhẫn và Pháp Dung. Dưới ngài
Pháp Dung có ngài Trí Nghiễm, Huệ Phương, Pháp Trí. Hoằng Nhẫn
truyền lại cho Huệ Năng, nhưng bấy giờ Thiền tông Trung Hoa chia
làm hai nhánh: Nhánh Thiền tông ở phương Bắc do ngài Thần Tú, đệ
tử xuất sắc nhất của Hoằng Nhẫn, nên gọi là Bắc tông lấy Trường
An, Lạc Dương làm trung tâm, pháp vận được hưng thịnh khoảng 100
năm. Nhánh thứ hai ở phương Nam là Huệ Năng trụ tại Tào Khê tỉnh
Quảng Đông tức là Nam tông. Vì tông phong của 2 tông Nam, Bắc
khác nhau nên mới có câu: “Nam
đốn, Bắc tiệm”.
Đệ tử nói pháp của Huệ Năng có hơn 40 vị, nổi tiếng nhất là
ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng, Thanh Nguyên Hành Tư, Nam Dương Huệ
Trung, Vĩnh Gia Huyền Giác, Hà Trạch Thần Hội… Ngài Thần Hội
khai sáng “Hà Trạch tông” với chủ trương cực lực đề xướng pháp
môn đốn ngộ, lấy “một niệm “không khởi” làm TỌA và thấy rõ
“bản tánh” làm THIỀN”. Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng được Lục Tổ
truyền tâm ấn, trụ trì chùa Bát Nhã, đệ tử nói pháp có 9 vị,
đứng đầu là ngài Mã Tổ Đạo Nhất. Rồi sau đó sanh ra năm nhánh
khác là thiền sư Qui Sơn (Khai tổ tông Qui Ngưỡng), Thiền sư
Nghĩa Huyền (Khai Tổ Tông Lâm Tế), Thiền sư Văn Ích (Khai Tổ
Tông Pháp Nhãn), Thiền sư Văn Yễn (Khai Tổ Tông Vân Môn) và
Thiền sư Lương Giới (Khai Tổ Tông Tào Động). Mặc dầu Tổ sư thiền
có nhiều tông phái, có những lối hành thiền khác nhau, nhưng tựu
trung vẫn có chung một cứu cánh là “kiến tánh”.
Tuy Thiền tông có tất cả 33 vị Tổ, nhưng người được đề cao
nhiều nhất là Tổ Bồ Đề Đạt Ma bởi vì chính ngài đã tạo cho thiền
tông một sắc thái đặc biệt. Tuy nhiên Lục Tổ Huệ Năng là người
đưa thiền tông đến chỗ hưng thịnh và sau đó hệ thống thiền đốn
ngộ được truyền sang các nước lân bang như Đại Hàn, Nhật Bản và
Việt Nam.
Khi thiền bắt đầu hưng thịnh ở Trung Hoa thì thiền tông được
gọi là Tổ Sư thiền nghĩa là dòng thiền phát xuất từ các Tổ Sư.
Tiến trình hình thành Phật giáo Đại thừa đã trải qua nhiều
giai đoạn và hấp thụ từ nhiều luồng tư tưởng khác nhau của chư
Tổ. Thí dụ trong giai đoạn Sơ kỳ Đại thừa thì có tư tưởng “Giai
hữu tánh không” rồi đến sự hình thành học phái Trung Quán (Bát
Nhã) của Long Thọ và đệ tử là Đề Bà. Đến khi giáo thuyết Trung
đạo ra đời, khái niệm về nhị đế đã trở thành tiêu chuẩn của rất
nhiều học thuyết Đại thừa khác nhau. Người Trung Hoa trước khi
thu nhập hệ tư tưởng Trung Quán của Long Thọ đã không biết nhiều
về sự khác biệt giữa hai hệ tư tưởng Nguyên thủy và Đại thừa.
Chính Long Thọ đã đưa học thuyết Trung Quán vào Phật giáo Đại
thừa và tạo ra một sự khác biệt khá rõ ràng giữa hai giáo thuyết
và có lẽ sự phân cách cũng bắt đầu nẫy nở trong cộng đồng Phật
giáo Trung Hoa từ đó.
Kinh điển Đại thừa không ngần ngại chỉ trích nặng nề giáo lý
Nguyên thủy và thậm chí còn dùng những danh từ “tiêu nha bại
chũng” tức là hạt giống khô, giống chết để ám chỉ cho những vị A
la hán định tánh tức là những vị Thánh tăng không chịu hướng về
Đại thừa. Tư tưởng Long Thọ khai triển trí tuệ Bát Nhã để đạt
đến được nhận thức về Chân Không mà nơi đó sẽ không còn tùy
thuộc vào ngôn ngữ, văn tự mà chỉ trực nhận bằng bản tâm. Long
Thọ cho rằng mặc dù chân lý có hai cấp bậc (chân-tục), nhưng chỉ
có thực thể mới là chân lý tối thượng. Đó là cảnh giới bất sinh
bất diệt, không bao giờ thay đổi, luôn luôn là “cái tự bao
giờ đã là” và dĩ nhiên trong đó không còn sự khác biệt
giữa sanh tử và Niết bàn, hay phiền não và Bồ-đề. Trong Trung
Luận, chúng ta có thể thấy rõ rằng Chân lý Tánh Không của Long
Thọ được áp dụng rộng rãi qua biện chứng pháp về “Bát Không”. Đó
là “không sinh, không diệt, không thường, không đoạn,
không đồng, không dị, không lai, không khứ”. Từ đó người
tu theo Đại thừa lầm lẫn cho rằng Chân lý thế tục (Giáo lý
Nguyên thủy) mà đức Phật truyền dạy lại cho chúng sinh là giáo
lý nữa chừng, không đầy đủ vì người tu theo Nguyên thủy chưa
nhận thức được chân lý siêu việt Bát Nhã mặc dù Long Thọ ra đời
sau đức Phật gần 800 năm.
Trên căn bản, học thuyết Bát Nhã đặt trong tâm vào hai chân lý
tục đế và chân đế. Nhắc lại, vua Lương Võ Đế từng đắp cà sa, tự
giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã, cất chùa độ tăng và được người
đời tôn là vị vua có tâm Phật. Nhà vua cùng với pháp sư Lâu Ước
luận bàn về chân đế, tục đế. Tục đế thì biện minh cái “phi vô”
tức là cái chẳng phải không, còn chân đế biện minh cái “phi hữu”
tức là cái chẳng phải có. Sau cùng chân-tục chẳng phải “Hai” tức
là thánh đế đệ nhất nghĩa đế. Theo nhà vua đây chính là chỗ cực
diệu cùng huyền của hàng giáo gia. Nhưng do vọng mới có chơn cho
nên “chơn, vọng” là hai phạm trù đối đãi vừa đối lập vừa tồn tại
bất khả phân ly, nhưng tự tánh thì thường hằng bất biến, biết mà
không thể nói được. Vì thế khi Tổ Bồ-đề Đạt Ma vào yết kiến, vua
Lương Võ Đế bèn tự đắc mà hỏi Tổ rằng: “Thế nào là thánh đế
đệ nhất nghĩa đế?”. Tổ đáp: “Quách nhiên vô thánh”
nghĩa là tuyệt nhiên rỗng rang không thánh. Chân lý thì làm sao
trả lời được mà nhà vua lại hỏi? Tổ trả lời nhát gường khiến nhà
vua cảm thấy như bị Tổ tạt vào mặt một thau nước lạnh tê tái cả
lòng. Sau đó, Tổ lẳng lặng sang sông qua đất Ngụy, đi thẳng lên
núi Thiếu Thất không nói một lời.
Đến giai đoạn Trung Kỳ, Phật giáo Đại thừa xuất hiện thuyết
Như Lai Tạng Duyên Khởi rồi phái Du Già Hành Tông (Duy Thức
Luận) của Vô Trước và em là sư Thế Thân bắt đầu hình thành.
Trường phái này lấy Duy Tâm chủ nghĩa để luận giải thế giới tâm
linh trừu tượng, siêu hình.
Nói chung Phật giáo du nhập vào Trung Hoa rồi sau đó được chia
thành mười tông phái khác nhau. Trong mười tông phái đó thì Câu
xá tông và Thành thật tông thuộc về Nguyên thủy. Luật tông và
Thiền tông thì cho cả Nguyên thủy lẫn Đại thừa. Còn lại Hoa
Nghiêm tông, Mật tông, Tịnh độ tông, Thiên thai tông, Tam luận
tông và Pháp tướng tông thì thuộc hẳn về Đại thừa.
1) Luật tông, do ngài Đạo Tuyên (596-667) sáng lập.
Tông phái này không có một giáo lý riêng biệt đáng kể, mục
đích chính là thúc đẩy việc tuân thủ giới luật một cách rất
nhiêm minh, đặc biệt là việc thọ giới và khất thực. Tông phái
này nâng cao đức hạnh của người tu, nhưng chẳng bao lâu trở nên
mờ nhạt.
2) Tam luận tông, do ngài Cát Tạng (549-623) sáng lập.
Tông này là sự biến dạng theo kiểu Trung Hoa của trường phái
Trung Quán do Long Thọ đề ra của Ấn Độ. Chủ dích của tông này là
loại bỏ tất cả mọi quan niệm để tánh không có thể hiển hiện.
3) Pháp tướng tông, do ngài Huyền Trang (596-664) sáng lập.
Khi ngài Huyền Trang đem từ Ấn Độ về Trung Hoa mười cuốn chú
giải bộ Duy thức tam thập tụng của Thế Thân và sau đó kết hợp
tất cả lại thành một cuốn dựa trên Duy thức tông hay Du già hành
tông với căn bản là Thành duy thức luận theo kiểu Trung Hoa.
4) Mật tông, do ngài Bất Không (705-774) sáng lập.
5) Hoa nghiêm tông, do ngài Đỗ Thuận (557-640) sáng lập.
6) Thiên thai tông, do ngài Trí Khải (538-597) sáng lập.
7) Tịnh độ tông, do ngài Thiện Đạo (613-681) sáng lập.
8) Thiền tông, do ngài Bồ-đề Đạt Ma sáng lập vào khoảng năm
520.
Do đó khi tư tưởng Đại thừa du nhập vào Trung Quốc, người
Trung Hoa chấp nhận tất cả những luồng tư tưởng đó như là
lời Phật dạy mà không hề tìm hiểu nguồn gốc phát xuất
của nó cho nên càng đi sâu vào triết lý, văn tự, kinh điển thì
họ càng hoang mang, không biết đâu là đạo, đâu là chân lý, đâu
là phương tiện, đâu là cứu cánh nên phần lớn chấp phương tiện là
cứu cánh, ôm chặt lấy kinh điển. Đến lúc cùng đường, bí lối thì
Tổ Bồ Đề Đạt Ma xuất hiện như là vị cứu tinh với bốn câu “Giáo
ngoại biệt truyền, Bất lập văn tự, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh
thành Phật”. Từ đó Thiền tông bắt đầu nổi tiếng với pháp môn
đốn ngộ. Có thể nói rằng Phật giáo Trung Hoa chuyển mình từ hệ
thống chấp chặt kinh điển cứng ngắc nên tụng niệm rình rang tức
là chấp “Có” sang một thái cực không cần kinh điển tức là chấp
“Không”. Chấp “Có” cũng sai và chấp “Không” cũng không đúng vì
dựa theo trung đạo của Long Thọ thì Có và Không là bất tức bất
ly bởi vì vạn pháp tuy Có nhưng không phải là Có thật, còn Không
nhưng không phải là không của cái trống không. Trong khi đó, đức
Phật đã giải thích con đường Trung đạo như sau:
-Từ bỏ hai cực đoan đó, Như Lai đã chứng ngộ “Trung đạo”
(Majjhima Patipada), là con đường đem lại nhãn quan (cakkhu),
tri kiến (nana) và đưa đến an tịnh (vupasamaya), trí tuệ cao
siêu (abhinnaya), giác ngộ (sambhodhaya) và Niết bàn.
Hai cực đoan mà đức Phật nói ở đây không phải là Có hay Không
mà một bên là ép xác khổ hạnh và bên kia sống theo dục lạc.
Trong kinh Chuyển Pháp Luân, đức Phật xác định rằng con đường
Trung đạo chính là Bát Chánh đạo. Đức Phật lại dạy rằng:
-Hỡi này các Tỳ kheo! Con đường Trung đạo mà Như Lai đã
chứng ngộ, con đường đem lại nhãn quan, tri kiến, trí tuệ cao
siêu, giác ngộ, Niết bàn là gì?
-Đó chính là Bát Chánh đạo: Hỡi này các Tỳ kheo! Đó là
“trung đạo” mà Như Lai đã chứng ngộ.
Tám trăm năm sau ngày đức Phật nhập diệt, tuy Long Thọ phát
triển nền triết học khác dựa vào tư tưởng “tánh không” và “Bát
Nhã”, nhưng ngài vẫn dùng danh từ trung đạo mà đức Phật đã xiễn
dương và triết học của ngài là Trung Quán Luận (Madhyamaka
Sàstra) và Tứ Bách Luận (Catuh-Sataka) của Đề Bà, đệ tử của Long
Thọ.
Long Thọ là vị Tổ đã khai triển và hoàn thành học phái Trung
Quán. Ngài ra đời vào thế kỷ thứ hai sau công nguyên trong gia
đình Bà là môn thuộc nước Andhradesa tức là Vidarbha. Ngài đặc
biệt nghiên cứu về giáo điển Vedas (Vệ Đà) và học hỏi rất nhiều
điều trọng yếu của Bà la môn trước khi ngài xuất gia đầu Phật.
Ngài là tác giả của trên 122 bộ sách, nhưng hiện nay chỉ còn có
trên 15 bộ nguyên bản đã được dịch sang tiếng Tây Tạng và tiếng
Hán. Vì sự tiêu hoại những tu viện lớn ở Ấn Độ bởi người Hồi
giáo nên kinh điển Đại thừa bản gốc không còn dấu tích ở Ấn Độ
mà chỉ có các bản dịch ở Tây Tạng hay ở Trung Hoa.
Đó là:
1. Trung Luận (Madhyamaka-Sàtra) tức là Bát Nhã.
2. Hồi Chánh Luận (Vigrahavyvartanì).
3. Lục Thập Chánh Lý Luận (Yuktisastikà)
4. Thập Thất Tụng Không Tánh Luận (sunyatà-Sapsati) và chú
giải.
5. Duyên Khởi Tâm (Pratìyasamut-pàdahrdaya) và chú giải.
6. Tứ Tụng (Catuhstava).
7. Tu Tập Thứ Đệ (Bhàvanàkrama).
8. Bằng Hữu Thư (Suhrllekha).
9. Lưu Chuyển Chư Hữu (Bhàvasamkrànti).
10. Bảo Hành Vương Chánh Luận (Ratnàvalì.)
11. Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận (Pràjnàpàramita-Sutra
Sàstra).
12. Thập Địa Giải Thuyết Luận (Dasabhaùmivibhàsà Sàstra).
13. Nhất Kệ Luận (Eka – Sloka - Sàstra).
14. Năng Đoạt Kinh (Vaidalya Sutra) và chú giải (Prakarana).
15. Ngôn Ngữ Cứu Cánh (Vyavahara - Siddhi).
Trong 15 bộ luận đó thì bộ Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận
(Pràjnàpàramita Sutra Sàstra) và bộ Trung Luận (Madhyamaka
Sàtra) nói về trí tuệ Bát Nhã và Thập Địa Giải Thuyết Luận
(Dasabhaùmivibhàsà Sàstra) nói về tiến trình mười địa tức là
mười giai đoạn của Bồ Tát phải thực hành trước khi thành Phật.
Vì thế tư tưởng Bát Nhã và Không tánh là do Long Thọ viết ra chớ
không phải do đức Phật thuyết.
Long Thọ của thế kỷ thứ hai là vị Tổ đời thứ 14 trong số 33 vị
Tổ của Phật giáo Thiền tông. Vị Tổ thứ 33 cũng là vị Tổ sau cùng
là Lục Tổ Huệ Năng. Đến thế kỷ thứ 7 sau công nguyên ở Ấn Độ
xuất hiện một vị Tổ của Mật tông là Dược sư Long Thọ (đọc tiếp
trong phần Mật tông).
Đức Phật ngày xưa thuyết pháp ròng rã suốt 49 năm để giáo hóa
chúng sinh mà Thiền tông lại không cần kinh điển. Một điểm trớ
triêu khác là chính đức Phật ngồi thiền suốt 49 ngày đêm mới
thành phật và sau khi thành Phật rồi Ngài vẫn thiền định ngày
cũng như đêm không ngừng nghĩ thế mà chư Tổ lại chủ trương cực
lực bác bỏ ngồi thiền mà lấy một niệm
“không khởi”
làm
"TỌA"
và thấy rõ
“bản tánh”
làm
“THIỀN”.
Đạo Nhất, một vị sa-môn, hàng ngày thường tinh tấn ngồi tu
thiền, Hoài Nhượng hỏi:
- Ông ngồi thiền để làm gì?
Đạo Nhất nói:
- Tôi ngồi thiền để làm Phật.
Hoài Nhượng nhặt một viên gạch đem mài trên tấm đá trước am. Đạo
Nhất ngạc nhiên hỏi:
- Ngài mài gạch để làm gì?
Hoài Nhượng đáp:
- Mài gạch để làm gương.
- Mài gạch sao thành gương được?
- Ngồi thiền cũng đâu thành Phật được?
- Vậy làm thế nào mới đúng?
- Nếu trâu kéo xe, xe không chạy, thì đánh xe hay đánh trâu
mới đúng?
Đạo Nhất không nói được. Hoài Nhượng nói tiếp:
- Ông học ngồi thiền hay ngồi Phật? Nếu học ngồi thiền thì
thiền không phải ngồi nằm. Nếu học ngồi Phật thì Phật không
tướng, không trụ, không thủ xả. Nếu ngươi ngồi Phật tức giết
Phật, nếu chấp tướng ngồi thì không thể đạt.
Lý do là vì Thiền tông chỉ muốn cảnh báo những người quá ham
mê tọa thiền chỉ tịnh, rất dễ rơi vào trầm không trệ tịch, làm
mất tính linh động của tánh giác tự nhiên, nên không khuyến
khích tọa thiền quán tịnh.
Nhưng chính đức Phật nhờ tọa thiền mà tìm ra chân lý dưới cội
Bồ Đề và trước khi nhập diệt Ngài cũng vào các tầng thiền định
từ thấp đến cao và từ cao đến thấp rồi mới an nhiên thị tịch.
Trong Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya), phẩm 16 Kinh Đại Niết Bàn
(Mahàparinibbàna sutta) dạy rằng:
Và Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
- Này các Tỳ-kheo, nay Ta khuyên dạy các ngươi: "Các pháp
hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật".
Ðó là lời cuối cùng Như Lai.
-Rồi Thế Tôn nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, Ngài nhập
Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập Tam thiền. Xuất Tam thiền,
Ngài nhập Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Không vô biên
xứ. Xuất Không vô biên xứ, Ngài nhập định Thức vô biên xứ. Xuất
Thức vô biên xứ, Ngài nhập định Vô sở hữu xứ. Xuất Vô Sở hữu xứ,
Ngài nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất Phi tưởng phi
phi tưởng xứ, Ngài nhập Diệt thọ tưởng định.
Khi ấy tôn giả Ananda (A Nan) nói với tôn giả Anuruddha (A Na
Luật):
- Thưa Tôn giả, Thế Tôn đã diệt độ.
- Này Hiền giả Ananda, Thế Tôn chưa diệt độ. Ngài mới nhập
Diệt thọ tưởng định.(A Nan không biết vì lúc đó ngài chưa
chứng Thánh quả).
-Rồi xuất Diệt thọ tưởng định, Ngài nhập Phi tưởng phi phi
tưởng xứ định. Xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài nhập Vô sở
hữu xứ định. Xuất Vô sở hữu xứ, Ngài nhập Thức vô biên xứ định.
Xuất thức Vô biên xứ, Ngài nhập Hư không vô biên xứ định. Xuất
Hư không vô biên xứ, Ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền,
Ngài nhập định Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập định Nhị
thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền,
Ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập định Tam
thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền,
Ngài lập tức diệt độ.
Có vào sâu trong thiền định thì trí tuệ sẽ phát sinh và từ đó
hành giả mới có thể trừ hết các lậu hoặc để thoát ra khỏi vòng
sinh tử luân hồi. Thiền định là năng lượng, là sức mạnh và tuệ
là chất xúc tác để mở con mắt tâm mà chứng ngộ Chân lý. Thiếu
trí tuệ hành giả chỉ có thể kinh nghiệm được những cái gì nông
cạn, hời hợt chợt đến chợt đi trong chốt lát, chẳng giúp ích
được gì mà còn là những chướng ngại nếu hành giả cứ bám vúi vào
nó. Nhưng muốn xuất, nhập thiền định thì hành giả phải có đủ “tứ
thần túc” nếu không thì nhập được mà xuất không được đưa đến bao
cái chết oan uổn của nhiều thiền sư (Đại thừa). Muốn thành tựu
Như Lai thiền, hành giả phải thực hành ly dục và ly bất thiện
pháp bằng cách tu tập các pháp môn như Tứ Chánh Cần.
Kinh Trung A Hàm tương đương với Trung Bộ Kinh dạy rằng:
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn chánh đoạn,
Tỳ-kheo đối với pháp ác bất thiện đã sanh, vì để đoạn trừ chúng
nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ.
Đối với các pháp ác bất thiện chưa sanh, vì để chúng không phát
sanh nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn
trừ. Đối với các pháp thiện chưa sanh, vì để cho phát sanh nên
khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ. Đối
với các pháp thiện đã sanh, vì để chúng kiên trụ, không bị quên
lãng, không bị thoái hóa, được bồi bổ tăng tiến, được phát triển
rộng rãi, được viên mãn cụ túc, nên khởi ước muốn, nỗ lực hành,
tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ. A-nan, bốn chánh đoạn này, ông
hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho
các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn chánh đoạn này, họ sẽ được an ổn,
được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời
tu hành phạm hạnh.”
Tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần giúp hành giả luôn luôn ngăn ác
và diệt ác pháp nhờ đó niệm thiện có cơ hội phát sinh. Khi ngăn
được ác pháp và diệt hết ác pháp thì tâm định trên thân. Một khi
tâm định trên thân là tâm đang ở trên Tứ Niệm Xứ. Nếu hành giả
luôn sống trong Tứ Niệm Xứ một thời gian dài có thể là một tuần
lễ và tuệ tri từng sát na tất cả những biến hành của thân, thọ,
tâm, pháp dựa theo từng hơi thở ra vào thì tâm chứng đắc Chánh
Niệm. Chỉ khi nào tâm chứng đắc Chánh Niệm thì tâm mới có đủ “Tứ
Thần Túc”. Sau cùng khi tâm có đủ Tứ Thần Túc thì hành giả mới
có đủ khả năng nhập Tứ Thánh Định và trở thành Thánh giả.
Ngay cả Lục Tổ cũng nói rằng “Có xuất, nhập thì không phải
là đại định” cho nên Tổ sư thiền không chủ trương ngồi thiền
và dĩ nhiên không có xuất, nhập. Lục Tổ chủ trương con người có
thức tỉnh giác ngộ được hay không là bởi nơi tự tâm chớ không
nhất thiết do nơi ngồi thiền. Thế thì khi các Thiền sư muốn thị
tịch thì họ phải nhập bằng thứ thiền định gì?
Vì thế pháp tu của Lục Tổ Huệ Năng được tóm gọn là:
“Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc”.
Danh từ Vô niệm chỉ đặc biệt xuất hiện trong Phật giáo Thiền
tông bởi vì nếu hiểu Vô niệm theo định nghĩa thông thường thì
trên thế gian này không bao giờ có vô niệm được bởi vì khi đạt
đến chỗ vô niệm thì làm sao mình biết đó là vô niệm. Nếu biết đó
là vô niệm thì vô niệm thành ra ý niệm, bởi vì một khi hình
thành khái niệm “pháp không” thì nó trở thành “pháp
có” rồi.
Nhưng trong Pháp Bảo Đàn kinh, Lục Tổ dạy rằng:
-Vô niệm là đối với niệm mà không niệm, đối trên các cảnh mà
tâm không nhiễm. Ý của Lục Tổ trong câu trên là khi đối diện với
trần cấu thì giữ tâm đừng cho dính mắc, đừng khởi ý niệm tham
tức là thấy thì cái gì cũng thấy mà như không thấy gì hết. Cái
nghe, nếm, ngữi, biết…cũng vậy. Thế thì vô niệm mà Lục Tổ muốn
nói ở đây chính là Chánh niệm rồi.
- Thế nào là vô tướng làm thể?
Con người vì mê lầm mà nghĩ rằng thân mình tức là ngũ uẩn là
thật và vạn pháp sinh diệt cũng là thật cho nên cuộc sống mới
quay cuồng đau khổ. Bây giờ nếu chúng sinh quay lại để thấy cái
thật Tướng của con người cũng như vạn hữu là Vô tướng thì sẽ
không còn điên đảo nữa. Đây là pháp Vô Ngã tức là thân này không
là Ta và thế gian vạn vật không phải là của Ta mà Bát Nhã Tâm
Kinh gọi là ngũ uẩn giai không.
-Thế nào là Vô trụ làm gốc?
Vô trụ là tâm không dính mắc ở nơi nào tức là sáu căn không
dính mắc sáu trần. Đây là quán vạn pháp là Vô Thường, Vô Ngã
theo góc độ Chánh kiến, Chánh tư duy mà kinh Kim Cang gọi là “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, Nhược tâm hữu trụ tức vi phi trụ”
nghĩa là tâm có chỗ trụ thì không bao giờ thấy được chân lý.
Vì thế toàn bộ pháp tu của Lục Tổ Huệ Năng dựa vào Chánh niệm,
Chánh kiến, Chánh tư duy, nhưng ngài không ngồi thiền, không vào
các tầng thiền định nên không thực hành Chánh định. Chính đức
Phật và các đại đệ tử của Phật đã chứng minh rất rõ ràng rằng
phải vào sâu trong các tầng thiền định và vào Diệt Thọ Tưởng
định thì mới diệt hết lậu hoặc, đắc tam minh, trở thành A la hán
và liễu sanh thoát tử. Thế thì không một ai trong lịch sử nhân
loại không áp dụng đúng công thức của đức Phật mà thành A la hán
hay thành Phật được. Các vị độc giác Phật tuy không trực tiếp
thọ giáo từ đức Phật, nhưng họ vẫn phải thực hành giáo lý Thập
Nhị Nhân Duyên (thuyết Duyên Khởi) rồi vào các tầng thiền định
thì mới thành độc giác Phật.
Tứ thần túc là bốn tầng thiền định giúp hành giả thành tựu các
tam-ma-địa (samadhi), là thần lực cần thiết giúp hành giả xuất,
nhập thiền định bất cứ lúc nào họ muốn.
1) Dục thần túc: là tầng thiền định phát sinh do năng lực
của ý muốn, tư tưởng mà đạt được thần thông.
2)
Cần thần túc:
còn gọi là tinh tấn thần túc, là thiền định phát sinh nhờ vào
sức tinh tấn nỗ lực tu tập. Đây là giai đoạn nối tiếp của Dục
thần túc bởi vì hành giả khi đã có mong cầu thì phải tinh tấn nỗ
lực để tu tập làm thiện và đoạn trừ việc ác.
3)
Tâm thần túc:
là thiền định phát sinh nhờ sức mạnh của tâm niệm. Một lòng
chuyên tâm nhất niệm trụ nương vào sức mạnh của tâm nên định
phát sinh. Khi tâm không còn bị dục lạc chi phối thì nó có một
sức mạnh phi thường.
4)
Quán thần túc:
là thiền định phát sinh nhờ sức mạnh tư duy quán chiếu Phật lý.
Khi đã thấu giải giáo lý Vô Ngã thì tất cả sự dính mắc sẽ tan
biến, dục vọng tiêu tan giúp hành giả tăng thêm nội lực để vào
thiền định.
Do đó các vị A la hán hay đức Phật muốn xuất, nhập bất cứ tầng
thiền định nào theo ý muốn rất dễ dàng. Ngay cả họ vào trong
Diệt thọ tưởng định thì họ bắt đầu diệt khẩu hành, thân hành rồi
đến ý hành. Họ diệt luôn hơi thở, nhưng không chết, trong người
vẫn còn nóng và sáu căn vẫn sáng tỏ.
Hãy lắng nghe Tôn giả Kāmabhūdiễn tả sự khác nhau giữa người
chết và người nhập Diệt thọ tưởng định:
-Ðối với người đã chết, đã mệnh chung, thân hành người ấy
được đoạn diệt, được khinh an; khẩu hành được đoạn diệt, được
khinh an; ý hành được đoạn diệt, được khinh an, thọ mạng được
đoạn tận; sức nóng được tịnh chỉ; các căn bị hủy hoại. Còn
Tỳ-kheo đã chứng đạt Diệt thọ tưởng định, thân hành được đoạn
diệt, khinh an; khẩu hành được đoạn diệt, khinh an; ý hành được
đoạn diệt, khinh an; thọ mạng không bị đoạn tận; sức nóng không
bị tịnh chỉ; các căn được trong sáng.
Khi hành giả dùng Chỉ (xam-ma-tha) (định) Quán (trí tuệ) để
chứng tứ thiền thì họ có thể đi thẳng vào Diệt Tận Định (Diệt
Thọ Tưởng Định) mà chứng được thanh tịnh Niết bàn và trở thành
bậc A la hán. Ở trong Diệt Tận Định, hành giả bắt đầu tịnh khẩu,
tịnh thân, tịnh ý và sau cùng là tịnh hơi thở. Người vào trong
định này thì hơi thở không còn, nhưng sức nóng trong người vẫn
duy trì và dĩ nhiên tất cả các căn vẫn trong sáng. Khi xuất Diệt
Tận Định thì ý hành phát khởi trước nhất, rồi đến thân hành và
sau cùng khẩu hành mới tác động. Cái khác nhau giữa người đi vào
Diệt Tận Định và người chết là người đi vào định này cũng chấm
dứt hơi thở, thân thể bất động, miệng không còn nói, nhưng hơi
ấm vẫn còn nên không chết.
Khi đắc quả A-la-hán rồi thì tất cả phiền não, các lậu hoặc
đều bị loại trừ và vị A-la-hán hoàn toàn thoát khỏi mọi khổ
đau. Khi đạt được trạng thái hoàn toàn giải thoát, vị A-la-hán
sẽ nhìn lại tâm mình và thấy rằng:
“Ta không còn phải tái sinh nữa, ta đã hoàn thành xong Bát
Chánh Đạo, những gì cần làm ta đã làm rồi, và không có gì ta cần
làm để giải thoát nữa”.
Vì thế bất cứ lúc nào khi nhân duyên độ sanh hết, các vị A la
hán chỉ nhập vào các tầng thiền định từ thấp đến cao và từ cao
đến thấp rồi an nhiên thị tịch.
Trong kinh điển Đại thừa có vài mẫu chuyện nói về các Thiền sư
an nhiên thị tịch, nhưng họ không thực hành tứ thiền, tứ không
định và Diệt Thọ Tưởng định thì họ an nhiên thị tịch bằng lối
thiền nào? Khi vào định họ có thể tịnh hơi thở được chăng? Không
đắc Tứ thần túc và không thực hành xuất, nhập nên khi nhập vào
thiền định thì làm sao xuất?
Hãy lắng nghe Hòa thượng Hư Vân thuật lại trong cuốn “Đường Mây
Trên Xứ Hoa” trang 51 rằng:
-Gần cuối năm, núi non đều đóng tuyết, hang sâu khí lạnh,
một mình ta đơn độc tu trì, thân tâm rất thanh tịnh. Ngày nọ,
sau khi bỏ khoai vào nồi, ngồi đợi khoai chín, tự nhiên ta nhập
định mà không biết thời gian cho đến qua năm mới. Trên núi có
thầy Phục hành lấy làm lạ vì sao đã lâu mà không thấy ta rời am,
nên nhân dịp năm mới rủ các thầy khác đến am chúc tết. Họ thấy
ngoài am đầy dấu chân hổ mà chẳng thấy dấu chân người. Họ đi
vào thấy ta đang nhập định, liền đánh khánh khiến xả định.
Như vậy, nếu Hòa thượng Hư Vân không nhờ các thầy đánh khánh
làm ngài chợt tỉnh thì ngài có thể tịch luôn giống như các thiền
sư khác. Vì thế chín cấp thiền định là con đường duy nhất để có
giải thoát giác ngộ và để an nhiên thị tịch.
Tại sao Tổ nói “Chẳng lập văn tự” có nghĩa là không lệ
thuộc vào chữ nghĩa kinh điển mà chính Tổ lại đem theo bộ Kinh
Lăng Già gồm bốn quyển sang Trung Hoa truyền lại cho đệ tử? Thật
ra ý của Tổ là muốn phá kiến chấp sai lầm của những người cho
rằng thông kinh hiểu nghĩa là ngộ đạo thì chẳng khác nào cho
ngón tay là mặt trăng. Còn “truyền ngoài giáo lý” là để
khai thị cho con người hiểu rằng mặt trăng không phải là ngón
tay. Đây chính là tư tưởng của Đại thừa tức là văn tự kinh điển
chỉ là chiếc bè. Mà con người còn chấp chiếc bè thì biết đến bao
giờ mới qua đến bờ bên kia tức là giác ngộ. Vì thế Tổ mới nói
đừng chấp vào kinh điển mà hãy nhìn thẳng vào tâm mình để thấy
được cái thật Tánh của mình thì sẽ được giác ngộ. Bởi vì nếu
không quay vào tâm của mình thì không biết đâu là vọng tưởng và
thế nào là chơn tâm. Đây là phần đầu của kinh Thủ Lăng Nghiêm
khi Phật hỏi A Nan bảy lần về nơi thường trụ của tâm nghĩa là
tâm là vọng tưởng còn thật tánh mới chính là bản thể chơn như
thanh tịnh sẵn có trong mỗi con người. Thật tánh là phần sau của
kinh Lăng Nghiêm khi Phật chỉ rõ chơn tánh tức là Như Lai Tạng
bản thể. Nếu thấy và sống với cái thật “Tánh” nầy thì chúng sinh
sẽ được kiến tánh tức là “sẽ thành” Phật. Nhưng kiến tánh
chỉ là Phật nhân còn đến Phật quả thì hành giả phải công phu tu
hành cho đến khi diệt hết Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Vô Minh Hoặc thì
mới thành Phật được. Vì thế ngày xưa các Thiền sư đánh đập, la
hét hay dùng mọi phương tiện để cho đệ tử nhận ra tánh giác hay
bản lai diện mục của mình tức là họ áp dụng phương thức “chỉ
thẳng tâm người”. Tuy nhiên nếu thấy tánh liền thành Phật thì 33
vị Tổ Thiền tông đều đã là Phật cả rồi, nhưng đúng ra thì thấy
tánh chỉ thành Tổ thôi. Vì sao vậy? Bởi vì khi nhận ra
tánh giác rồi, người tu phải tiếp tục tinh tấn thực hành Chánh
niệm (Samma-Sati) để xả trừ vọng tưởng và thực hành Chánh định
đến khi nào hoàn toàn sống với tánh giác hằng sáng thì lúc đó
mới được chứng ngộ. Đối với Phật giáo, chỉ có chứng ngộ mới có
thể thoát khỏi sinh tử luân hồi còn đốn ngộ của các Thiền sư chỉ
mới là Chánh kiến (Samma Ditthi) tức là phần đầu của Bát Chánh
Đạo (Ariya Mayya).
Tại sao Tổ Bồ-Đề lại bảo là “giáo ngoại”?
Phật giáo có hai phương pháp là “giáo nội”
và “giáo ngoại”. Khi dùng ngôn ngữ để truyền đạo
theo khuôn khổ của Phật giáo Ấn Độ thì gọi là giáo nội pháp. Khi
bỏ ngôn ngữ mà chỉ lấy Phật tâm để in thẳng vào tâm người khác
thì gọi là giáo ngoại pháp mà thiền gia gọi là “truyền tâm ấn”.
Vậy Thiền tông là giáo ngoại pháp.
Sau lần yết kiến vua Lương Võ Đế với hy vọng sẽ được nhà vua
tận lực giúp đỡ trong việc truyền bá Phật giáo ở Trung Hoa,
nhưng vì nhận thấy căn cơ của vua còn thấp và sự tín ngưỡng của
nhà vua chỉ có tánh cách hình thức bề ngoài nên Tổ Bồ-Đề đã từ
giã vua đến tu tại chùa Thiếu Lâm ở Trung Sơn. Ngài ngồi xoay
mặt vào tường tham thiền trong chín năm mới trao ấn chứng cho Tổ
thứ hai của Thiền tông ở Trung Hoa là ngài Huệ Khả. Huệ Khả
truyền cho Tam Tổ Tăng Xán. Rồi đến Tứ Tổ Đạo Tín và Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn và sau cùng truyền lại cho Lục Tổ Huệ Năng.
Vì Tổ sư thiền chủ trương không dùng ngôn ngữ mà chỉ thẳng tâm
người tức là “truyền tâm ấn” để dạy để tử nên dần theo thời gian
phương pháp đánh đập, lên gối, thụt cùi chỏ hay la hét bị
thất truyền vì thế ngày nay thiền sinh muốn học theo
công án, thoại đầu, nghi tình hay tìm người đánh đập, la hét để
cho mình được ngộ thì gần như không còn nữa. Bởi vì công án,
thoại đầu, đánh đấm, la hét là những phương tiện thiện xảo mà
các thiền sư ngày xưa tùy người áp dụng, tùy bịnh cho
thuốc vì thế trong Thiền tông có rất nhiều mẫu chuyện
nói về sự ngộ đạo của các thiền sư và dĩ nhiên không có mẫu
chuyện nào giống mẫu chuyện nào hết.
Tổ Lâm Tế có lần đã nói, “Người không ngôi vị sống trên máu
thịt các ông, ra vào các cửa trên mặt các ông đấy. Ai không
chứng kiến sự thật này, hãy khám phá nó ngay đi!” Một ông tăng
đứng lên hỏi, “Ai là người không ngôi vị?” Lâm Tế liền bước
xuống tòa, nắm cứng cổ áo ông tăng, hét, “Nói! Nói!” Ông tăng
đứng ngơ ngáo một lúc, vì vậy Lâm Tế đánh ông ta một tát tai,
“Người không ngôi vị này thật vô tích sự.”
Do đó một phương pháp tuy huyền diệu cách mấy cũng không thể
áp dụng cho tất cả mọi người. Chư Tổ không để lại phương thức tu
tập đặc biệt nào cả vì trái với “bất lập văn tự” cho nên Thiền
tông dần theo thời gian cũng theo chư Tổ biến mất.
Bây giờ hãy lấy câu chuyện ngộ đạo của ngài Đức Sơn làm thí dụ:
Ngài Đức Sơn là người tinh thông Kinh Luật nghe phương Nam
Thiền tông rất hưng thịnh nên bất bình nói rằng “Kẻ xuất gia
muôn vạn kiếp họa oai nghi tế hạnh của Phật mà chẳng được thành
Phật. Thế mà những kẻ ma ở phương Nam dám nói “Trực chỉ nhân tâm
kiến tánh thành Phật”. Ta phải nhổ tận hang ổ của chúng, diệt
hết những giống ấy để đền ơn Phật”. Sư khăn gói lên đường mang
theo bộ Thanh Long Sớ Sao. Trên đường đi gặp một bà bán bánh
và bảo bà lấy ít bánh điểm tâm.
Trước khi lấy bánh, bà già hỏi:
-Thầy thường giảng kinh gì?
-Kinh Kim Cang.
Bà nói:
-Tôi xin hỏi một câu, nếu thầy đáp được tôi xin cúng dường bánh
điểm tâm. Bằng đáp chẳng được, mời thầy đi nơi khác.
Sư thuận lời.
Bà già hỏi:
-Kinh Kim Cang nói: Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất
khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc. Vậy Ngài điểm tâm nào?
Sư đáp không được nên lên đường đi tìm đến Long Đàm.
Đến Long Đàm, Sư nói:
-Lâu nay nghe danh Long Đàm, nhưng đến nơi Đàm (đầm) chẳng
thấy mà Long (rồng) cũng không hiện?
Sùng Tín bảo:
-Ngươi đã gần đến Long Đàm.
Sư không đáp được, liền dừng ở lại đây.
Một đêm Sư đứng hầu, Sùng Tín bảo:
-Đêm khuya sao chẳng xuống?
Sư kính chào bước ra rồi lại trở vào thưa,
-Bên ngoài trời tối đen.
Sùng Tín thắp đèn cầy đưa cho Sư. Sư toan tiếp lấy thì Sùng Tín
liền thổi tắt.
Ngay lúc đó, Sư liền đại ngộ, lễ lại.
Sùng Tín hỏi:
-Ngươi thấy cái gì?
Sư thưa:
-Từ nay về sau chẳng còn nghi ngờ về thiền đốn ngộ nữa.
Vậy Sư Đức Sơn ngộ cái gì?
Sư nói “Bên ngoài trời tối” là ngụ ý nói rằng tâm Sư đang mù
mịt không biết làm sao ngộ được bản tánh của mình. Sư than tối,
Sùng Tín cho đèn, nhưng tại sao Sư vừa cầm đèn thì Sùng Tín liền
thổi tắt? Khi tâm người đã tối thì có cho đèn cũng không làm cho
tâm sáng tỏ cho nên Sùng Tín thổi đèn với dụng ý là nhắc nhở Sư
rằng đèn sáng tức là trí tuệ thì phải tự nơi mình phát ra
chớ không thể do người khác trao tặng được. Hiểu được ý
ấy Sư liền đại ngộ. Vì thế đại ngộ ở đây chỉ mới là Kiến ngộ tức
là Văn, là bước đầu tiên trong tiến trình Văn, Tư, Tu, là Phật
nhân. Đến khi đốn sạch cái gốc tham sân si thì mới Liễu ngộ,
viên thành Phật quả tức là thành Phật.
Các thiền sinh ngày nay cố học thuộc lòng những bài kệ, câu
thơ của các Tổ chẳng khác nào nhai đi, nhai lại những cặn bả của
kẻ khác mà chẳng có kết quả gì vì thâm ý của chư Tổ là tùy bệnh
cho thuốc nên toa thuốc đó đâu phải ai cũng dùng được; đó là
chưa kể chính mình đi sai đường lối của Tổ sư thiền là “bất lập
văn tự” mà phải “chỉ thẳng tâm người”.
Một ông tăng hỏi Huyền Sa, “Khi các sư xưa giảng Pháp không
lời bằng cái chùy hay cây phất tử, thì các ngài có chỉ bày đạo
lý tối hậu của Thiền không?” Huyền Sa đáp, “Không.” Ông tăng hỏi
tiếp, “Vậy lúc ấy các ngài chỉ bày cái gì?” Huyền Sa giơ cây
phất tử lên. Ông tăng hỏi, “Thế nào là đạo lý tối hậu của
Thiền?” Huyền Sa đáp, “Đợi đến khi ông ngộ đã.”
Do vậy, ngày nay Tổ sư thiền gần như biệt tích mặc dầu có một
vài thiền sư cũng cố gắng phục hồi và phổ biến, nhưng không có
người la hét, đánh đập mà mong có ngày được đốn ngộ là một ảo
tưởng. Tại sao? Vì thiền là phải thực hành, phải tự mình chiêm
nghiệm để biết rõ ràng rốt ráo những biến hành của tâm thức thì
mới hy vọng thấy được tự tánh. Nhưng tại sao lại phải la hét,
đánh đập? Bởi vì chơn tâm, tự tánh là chân lý tuyệt đối, bất khả
thuyết, bất khả tư nghì cho nên hành giả phải tự mình quay về
trong để nhận biết (chỉ thẳng) cái bổn tánh.
Tể tướng Vu Địch hỏi sư Đạo Thông, “Thế nào là Phật?” Sư
gọi đột ngột, “Đại nhân!” “Dạ,” vị tể tướng đáp một cách ngây
thơ. Rồi sư nói, “Ngài còn tìm gì khác?”
Trong khi đó ngôn ngữ, văn tự thuộc về ý thức tức là thế giới
tương đối cho nên càng nói nhiều thì càng đi xa chân lý. Lý luận
là dành cho học giả để thỏa mãn khả năng phân tích lý giải của
họ thuộc thế giới trí thức sinh diệt. Ngày nay thiền sư thì có
mà người ngộ đạo thì không cho nên tìm người ngộ đạo để la hét
hay đánh đấm cho mình đốn ngộ theo họ là chuyện mò kim đáy
biển.
Một ông tăng hỏi Hoa Nghiêm, “Người giác ngộ trở lại thế
gian mê hoặc như thế nào?” Sư đáp, “Gương vỡ không phản chiếu,
hoa rơi chẳng về cành.”
Do đó, ngày nay nếu chính mình không ngộ đạo, không biết con
đường đốn ngộ, cho dù có đánh đệ tử đến u đầu bể trán thì cũng
không thể nào làm cho nó đốn ngộ được.
Thế thì ngộ đạo hay giải ngộ tức là kiến tánh
dựa theo Thiền tông chỉ là bước đầu trong tiến trình tu Phật. Do
đó, kinh Pháp Hoa xác định rằng “Khai, thị, ngộ, nhập
Tri Kiến Phật” nghĩa là “ngộ” rồi mới tinh tấn tiếp tục
tiến tu đến khi “nhập” mới thôi. Vì thế “đốn ngộ” hay
“kiến tánh” đã là rất khó, nhưng nó mới chỉ là Chánh kiến
trong Bát Chánh Đạo mà “thâm nhập” tức là “thực hành
Chánh niệm, Chánh định cho đến khi
liễu ngộ tức là chứng ngộ thì mới được hoàn toàn giải thoát sinh
tử luân hồi.
Vậy cái gốc Thiền tông phát xuất từ đâu?
Thiền tông là do chư Tổ sáng lập và truyền xuống nên gọi là Tổ
sư thiền tức là thiền đốn ngộ và phương thức xây dựng Thiền tông
của chư Tổ là dựa theo tư tưởng và nếp sinh hoạt của chính người
dân Trung Hoa mà sáng tạo nên. Danh từ “thiền đốn ngộ” làm cho
mọi người dễ hiểu lầm là nếu tu theo pháp thiền này thì sẽ mau
giác ngộ bởi vì tu nhất kiếp, ngộ nhất thời hay tu vạn kiếp ngộ
nhất thời.
Trong khi đó thiền Tứ Niệm Xứ là do chính đức Phật Thích Ca
khai sáng để chỉ bày dạy cho đệ tử cách nay trên 2500 năm nên
gọi là Như Lai thiền, là dòng thiền cổ xưa nhất của Phật giáo.
Pháp hành này lấy thân, thọ, tâm, pháp làm đối tượng quán chiếu.
Hành giả nhận ra tất cả những cảm thọ và chuyển động trên thân
cũng như tâm, giữ tâm quân bình và tỉnh thức để đoạn trừ hết
tham, sân, si và đạt đến giải thoát giác ngộ. Tứ Niệm Xứ là một
pháp quán hành thiền mà chính đức Phật đã thực hành để thành
Phật và tất cả các đệ tử Phật đều phải thực hành theo đó mà đắc
quả A la hán (quả vô sanh). Từ những thăng trầm của Phật giáo
tại Ấn Độ, dòng thiền này đã được truyền bá sang nhiều quốc gia
lân cận mà Miến Điện được xem là quốc gia giữ gìn pháp tu này
một cách cẩn mật nhất với những vị thiền sư nhiều đời tiếp nối.
Trong kinh Niệm Xứ (Satipatthnasutta) đức Phật dạy rằng:
-Này các Tỳ kheo! Đây là con đường độc nhất đưa đến
thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu,
thành tựu chánh tri, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ.
Thế thì thiền Tứ Niệm Xứ là một phuong pháp tu tập giúp hành
giả đạt đến chỗ giải thoát ngay trong đời này. Phương pháp này
chính đức Phật ngày xua đã thực hành và tất cả đệ tử của Ngài
cũng đều nương theo đó mà có giải thoát giác ngộ. Do đó bất cứ
ai không tu tập đúng theo pháp Tứ Niệm Xứ là nguời đó không đi
đúng con đuờng giải thoát mà đức Phật đã giảng bày. Ngày nay cho
dù là tu theo Phật giáo Đại thừa hay Nguyên thủy mà không thực
tập theo Tứ Niệm Xứ thì nguời đó mất điểm tựa để tiến về huớng
giải thoát giác ngộ của đức Phật.
Đối với Phật giáo Đại thừa thì kinh Pháp Hoa là vua của các
kinh và Bát Nhã là trí tuệ của ba đời chư Phật, ngay cả kinh Hoa
Nghiêm, Đại Niết Bàn thì cũng là kinh khai triển từ kinh Tứ Niệm
Xứ mà ra. Có thể nói rằng tất cả những kinh điển cao siêu của
Đại thừa mà chúng ta có đuợc ngày nay cũng ví như những cành,
những chiếc lá, những bông hoa tươi thắm mà cái gốc cây chính là
kinh Tứ Niệm Xứ. Kinh điển Đại thừa cũng ví như những nhánh cây,
bông hoa trên cây, nhưng thành phần quan trọng nhất mà ít ai
chịu để ý đến là gốc cây, là sức sống của cây. Do đó dần theo
thời gian con nguời cho rằng kinh điển Đại thừa là hay, là tuyệt
vời, là cao siêu, nhưng họ quên rằng những nụ hoa đẹp trên nhánh
cây, những lá cây xanh muớc là đều do gốc cây nuôi duỡng mà có.
Vì thế kinh Tứ Niệm Xứ là gốc cây mà con nguời thuờng bỏ quên mà
chỉ ngắm nhìn trầm trồ khen tặng vẽ đẹp của nhánh cây, hoa quả
trên cành. Đó là lý do ngày nay nguời tu theo Đại thừa chỉ biết
nhánh cây, cành cây, hay hoa quả trên cây mà quên mất đi gốc
cây, là thành phần chính, là sức sống của cây. Nói cách khác
ngày nay con nguời cho rằng kinh điển Đại thừa là hay, là tuyệt
vời, là cao siêu nên không còn mấy ai chú ý và thực hành Tứ Niệm
Xứ nữa. Tuy nhiên, nếu hành giả thật sự muốn theo dấu chân
đức Phật để có giải thoát giác ngộ và không màn những triết học
trừu tuợng siêu hình để tranh luận về nhân sinh vu trụ thì Tứ
Niệm Xứ sẽ là con đuờng duy nhất để thành tựu bản nguyện của
mình.
Tuy thiền Tứ Niệm Xứ là “con đường duy nhất” đưa người tu đến
chỗ giải thoát giác ngộ, nhưng sau khi đức Phật nhập diệt, pháp
quán thiền này dần dần bị lãng quên nên dần theo thời gian người
chứng đạo (không phải đốn ngộ mà là liễu ngộ) gần như không có.
Từ ngày Thiền tông xuất hiện ở Trung Hoa, Việt Nam và Nhật Bản
thì thiền Tứ Niệm Xứ càng bị lãng quên, nhưng ngày nay người đệ
tử Phật có nhiều phương tiện để nghiên cứu, truy tầm tận gốc nên
phương pháp thiền này bắt đầu hưng thịnh trở lại và không còn
quá xa lạ đối với Phật tử Việt Nam nữa.
Tổ sư thiền thật ra chẳng có gì mới lạ bởi vì chư Tổ chỉ biến
hóa và áp dụng Như Lai thiền tức là thiền Tứ Niệm Xứ theo một
đường hướng, một góc độ khác thế thôi nếu không thì Tổ sư thiền
là thiền ngoại đạo rồi. Nhưng thật ra không thực hành đúng mà
biến chế thì cũng là thiền ngoại đạo chớ đâu phải thiền nguyên
chất do chính đức Phật chế ra. Đó là quán chiếu sự biến hành của
bốn niệm xứ là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp.
Thí dụ các thiền sư thường nói nấu cơm, gánh củi là thiền
nghĩa là trong mỗi cử động của thân thể như đi, đứng, nằm, ngồi
đều giữ theo chánh niệm nghĩa là không cho tâm chạy theo vọng
tưởng thì đó chính là niệm pháp.
Các thiền sư đánh đấm, lên gối, la hét đệ tử để đánh thức họ
quay về bên trong tức là niệm thọ. Khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma bảo Huệ
Khả đem tâm ra ta an cho thì Huệ Khả mới chịu trở về tìm tâm thì
đây là niệm tâm. Khi nghe tiếng nước reo, suối chảy hay nhìn
thấy hoa nở mà nhận ra bổn tánh thì đây là niệm pháp. Tuy các
thiền sư nói rằng “Đói thì ăn, mệt thì ngủ” nhưng đối với họ đói
ăn, mệt ngủ mà không có tính toán, đòi hỏi nghĩa là họ không
chạy theo vọng tưởng thì họ đang niệm thân vậy. Các Thiền sư
thực hành “đói ăn, mệt ngủ” có vẽ rất tự tại, nhưng thật ra họ
vẫn còn làm nô lệ cho bản Ngã vì phải thỏa mãn những dục vọng
của thân nghĩa là thân đòi ăn thì phải cho nó ăn, thân muốn đi
ngủ thì phải cho nó đi ngủ. Ngày xưa đức Phật ngày chỉ ăn một
bửa chớ đâu có đói thì ăn. Ăn như vậy là phá giới rồi. Sự an vui
tự tại chỉ thực sự có khi nào hành giả hoàn toàn làm chủ thân,
tâm của mình.
Câu chuyện “Đói ăn, mệt ngủ” là dựa theo cuộc
đàm luận của gia đình cư sĩ Bàng Uẩn ở Trung Quốc.
Trong cuộc bàn luận về tiến trình tu học và chứng diệu pháp
giữa ông, bà vợ và cô con gái thì ông nói rằng: “Nan! Nan!
Nan! Thập hộc chi ma thụ thượng nan!” nghĩa là Khó! Khó!
Khó! Như mười hộc mè rải đều lên cây. Nghe ông chồng than khó,
bà vợ bèn nói: “Dị! Dị! Dị! Bách thảo đầu thượng tổ sư ý.
Niêm lai vô bất thị, thúy trúc hoàng hoa, vô phi Bát Nhã”
nghĩa là Dễ! Dễ! Dễ! Như ý tổ sư trên đầu trăm ngọn cỏ, cứ nhón
lấy, không chỗ nào là chẳng phải. Trúc biếc, hoa vàng, không gì
chẳng phải là Bát Nhã. Ý bà nói: Những điều gì mắt mình trông
thấy, không thứ gì chẳng phải là ý tổ sư. Những vật mình thuận
tay nắm lấy, không gì chẳng phải là diệu pháp. Nghe xong cô con
gái Linh Chiếu thốt lên rằng: “dã bất nan, dã bất dị, cơ lai
ngật phạn, bì lai thùy!” nghĩa là cũng chẳng dễ, cũng chẳng
khó, đói ăn cơm, mệt thì ngủ.
Xét cho cùng thì Tồ sư thiền chỉ áp dụng một vài khía cạnh đặc
biệt trong Tứ Niệm Xứ để giúp hành giả đốn ngộ cho nên sự đốn
ngộ này chưa được rốt ráo bởi vì ngày xưa đức Phật và các đệ tử
của Ngài quán biết tức là tuệ tri tất cả từ niệm thọ,
niệm thân, niệm pháp đến niệm tâm để biết rốt ráo, rõ ràng từng
sát na những biến hành của toàn thân chớ không phải chỉ tuệ tri
niệm tâm hay niệm pháp mà thôi. Khác với Tổ sư thiền là “bất lập
văn tự mà phải chỉ thẳng tâm người” nên phương pháp Tổ sư thiền
là một cái gì quá bí mật cho nên người được đốn ngộ rất ít nếu
không muốn nói là không có bao nhiêu. Ngược lại Như Lai thiền
tức là thiền Tứ Niệm Xứ được đức Phật giảng giải rất tỉ mỉ, rõ
ràng từng bước một chẳng khác một tấm hải đồ hay chiếc máy GPS
cho nên bất cứ ai cũng thực hành được vì thế vào thời đức Phật
còn tại thế có hàng ngàn, hàng vạn người chứng đạo nhờ pháp
thiền này một cách yên lặng tỉnh mặc mà không cần la hét, đánh
đấm, bể trán u đầu chi hết. Khác với Tổ sư thiền chỉ đạt đến “kiến
tánh” là tối đa mà kiến tánh chỉ là Phật nhân chớ chưa phải
là Phật quả thì Như Lai thiền đưa hành giả thẳng đến giải thoát
giác ngộ ngay trong đời này nếu thực hành đúng. Nói ngay trong
đời này là nói một cách tổng quát chớ kinh Tứ Niệm Xứ xác định
rằng nếu hành giả thực hành đứng đắn quán thân trên thân, quán
thọ trên thọ, quán pháp trên pháp, quán tâm trên tâm để thấy như
thật thì họ có thể chứng ngộ ngay trong một sát na.
Vì thế ngày xưa đức Phật dạy thiền dựa theo Tứ Niệm Xứ là thả
lỏng mọi trạng thái thân tâm chớ không phải tập trung. Khi thân
tâm nghẹ nhàng khinh an, mở rỗng thì lúc đó hành giả mới vào
thiền và nhập định đuợc cho nên nếu hành giả còn dính mắc thì
nguời đó dầu có thực hành thiền, nhưng không bao giờ vào định
đuợc. Khi thân đuợc mở rỗng thì thân và hư không sẽ không còn là
hai đối tuợng mà trở thành một. Lúc đó khí thở sẽ thông một cách
rất kỳ lạ. Đến đây một luồng khí hít vào hay thở ra sẽ rất dài
hơn và hành giả có cảm tuởng như là không còn chỗ để hơi thở ra
vào và hơi thở bây giờ mong manh như một sợi
chỉ mành thì ngay thời điểm đó tâm thức bắt đầu ngừng giao động.
Nhịp tim lúc đó sẽ rất chậm bởi vì khí thở chậm thì nhịp tim đập
cũng chậm lại. Thời điểm này hành giả bắt đầu vào định và toàn
thân mở rỗng hoàn toàn. Thế thì quán không phải là tập trung để
soi chiếu lại thân này mà quán bây giờ phải đuợc hiểu như là sự
phản chiếu của một tấm gương. Đó là sự chiếu soi thuần khiết,
thanh tịnh, nhẹ nhàng, khinh an mà không phải tập trung. Trong
kinh Tứ Niệm Xứ, đức Phật dạy rất rõ rằng khi chúng ta hít vào
thì chúng ta tuệ tri hít vào. Hoặc khi thở ra thì chính mình
cung phải tuệ tri mình đang thở ra. Nói một cách chi tiết là khi
mới hít vào thì chúng ta tuệ tri chúng ta mới hít vào. Khi hít
vào một phần hơi thở chúng ta tuệ tri mình đang hít vào một phần
hơi thở. Khi hít vào nửa hơi thở chúng ta tuệ tri chúng ta đang
hít vào nửa hơi thở. Khi hít vào ba phần tư hơi thở chúng ta tuệ
tri chúng ta hít vào ba phần tư hơi thở. Và khi hít vào tròn vẹn
hơi thở chúng ta tuệ tri chúng ta đang hít vào toàn vẹn hơi thở
đó. Đến khi hơi thở tạm dừng lại thì chúng ta cũng tuệ tri chúng
ta tạm dừng hơi thở. Sau đó toàn thân chuẩn bị để chuyển hơi ra
thì chúng ta tuệ tri chúng ta chuẩn bị để thở hơi ra. Nếu công
phu của hành giả cao thì nguời đó sẽ thấy rất rõ có một khoảng
cách giữa hơi thở vô và hơi thở ra. Nói cách là truớc khi hít
hơi vô và chuyển hơi ra toàn thân có sự chuẩn bị truớc cho nên
đức Phật dạy chúng ta nên tuệ tri để biết sự chuyển vận đó. Khi
thở ta hết thì chúng ta tuệ tri đã thở ra hết và sau đó thân
chuẩn bị để hít hơi mới vào thì chúng ta cũng tuệ tri biết rằng
thân chuẩn bị để hít hơi mới vào. Nói chung thở ra hơi ngắn
chúng ta tuệ tri thở ra hơi ngắn hay hít vào hơi ngắn chúng ta
tuệ tri hít vào hơi ngắn. Hoặc thở ra hơi dài chúng ta tuệ tri
thở ra hơi dài, hít vô hơi dài chúng ta tuệ tri hít vô hơi dài.
Khi quán hơi thở như thế với chánh niệm tỉnh giác thì toàn thân
sẽ sáng suốt và có thể xa lìa mọi tham đắm, chấp truớc trong
cuộc sống này và sau đó đạt đến cứu cánh tột đỉnh là giải thoát
giác ngộ. Đấy chỉ là quán hơi thở mà đã có lợi ích như thế. Thế
thì hơi thở thô chúng ta tuệ tri hơi thở thô, hơi thở tinh tế
chúng ta tuệ tri hơi thở tinh tế. đến khi hơi thở tinh tế và
chậm dần chúng ta tuệ tri hơi thở tinh tế và chậm dần cho đến
lúc hơi thở tinh tế nhỏ nhiệm nhất, chúng ta tuệ tri hơi thở
tinh tế nhỏ nhiệm. Đến khi chúng ta đi vào định bằng hơi thở
này. Vì thế hành giả nếu muốn vào định thì nguời đó phải khéo
biết để điều động hơi thở cho nên nếu điều động hơi thở cho đúng
thì có thể trở thành thánh giả. Do đó từ việc sống chết, tu hành
và giải thoát đều gắn liền với hơi thở của chúng ta. Thí dụ nếu
thở ra mà không hít vào là mất mạng. Tất cả những “loạn” và
“động” trong tâm thức cũng đều do hơi thở và dĩ nhiên sự sinh tử
luân hồi hay giải thoát giác ngộ của con nguời cũng từ hơi thở
mà ra. Tâm sân, si, tham đắm cũng từ hơi thở bởi vì hơi thở là
nguồn mạch sống chính của con nguời. Thí dụ khi tâm sân hay tham
đắm phát khởi thì hơi thở mạnh hơn và tim đập nhanh hơn vì thế
cứ mỗi một ý niệm biến đổi từ tâm thì đó là sự giao động của hơi
thở. Và mỗi sự giao động của hơi thở làm tâm của chúng ta biến
động cho nên bất cứ biến hành “tịnh” hay “động” của tâm cũng đều
phát xuất từ hơi thở. Nói một cách tổng quát, con nguời có vào
Niết bàn cũng do hơi thở hay chìm đọa vào phiền não khổ đau cũng
do hơi thở. Khởi niệm tham đắm cũng bắt đầu từ hơi thở vì thế
hơi thở là nguồn mạch sống chính của con nguời.
Toàn bộ giáo lý Phật Đà là giúp chúng sinh tu tập thân tâm cho
trong sạch để chuẩn bị vào định bởi vì không vào định thì vĩnh
viễn trí tuệ không phát sinh mà trực nhận đuợc chân lý. Có trực
nhận chân lý thì mới có giải thoát giác ngộ. Thế thì một nguời
tu thiền Tứ Niệm Xứ nếu biết điều hòa hơi thở thì sẽ vào định dễ
dàng. Nguợc lại nếu không điều hòa đuợc hơi thở thì khó lòng vào
định đuợc. Tại sao? Bởi vì thân và khí thở là không hai, bất khả
phân ly.
Kinh Tứ Niệm Xứ, đức Phật dạy rằng:
Khi hơi thở bắt đầu vào lỗ mũi thì chúng ta “tuệ tri” tức là
biết hơi thở bắt đầu vào và cứ như thế chúng ta tuệ tri từng
biến hành của hơi thở theo từng giai đoạn một cho đến khi hơi
thở đuợc vào hoàn toàn. Sau đó chúng ta cũng tuệ tri để biết hơi
thở đó loan ra khắp tế bào rồi đến toàn thân. Khi hơi thở chuyển
từ duỡng khí (O2) sang thán khí (CO2) để bắt đầu thở ra
thì chúng ta cũng tuệ tri nó. Khi thán khí chuyển nguợc từ những
tế bào trên khắp thân thể rồi sang đến buồng phổi chúng ta cũng
tuệ tri. Đến khi phổi chuẩn bị để thở ra thì chúng ta cũng tuệ
tri cho đến khi toàn hơi thở đuợc thở ra thì chúng ta cũng tuệ
tri luôn. Chúng ta tuệ tri để thấy như thật từng diễn biến xảy
ra trong từng giai đoạn. Thấy như thật không phải là theo dỏi
giống tùy sổ tức tức là hơi thở đến đâu thì mình theo dỏi đến
đó. Thiền Tứ Niệm Xứ không thực hành nhu vậy. Ở đây đức Phật dạy
tuệ tri là cái biết rốt ráo rõ ràng và cái biết này không phải
do đức Phật trao tặng cho mình hay mình có là do thực hành thiền
Tứ Niệm Xứ. Nó không lệ thuộc hay qua bất cứ cánh cửa nào của
tâm thức. Đó là cái biết mà không thông qua “căn, trần” cho nên
đức Phật mới xác định là nếu thực hành đúng thì chỉ cần trong
sát na là có giải thoát giác ngộ là ở chỗ này. Trên thế gian này
ngoài Tứ Niệm Xứ, không có pháp môn nào mà thành tựu trong sát
na đuợc. Vì thế pháp tu này không phải là pháp tu từ từ mà là
pháp thiền đốn ngộ. Đây mới chính là thiền đốn ngộ thứ thiệt do
chính đức Phật dạy ngay từ ban đầu. Thế nhưng nếu hành giả không
có khả năng thì tu một ngày, một tuần, một tháng hay một năm vẫn
đạt đến cứu cánh tối thuợng giải thoát. Khi đã có tuệ tri rồi
thì bất cứ sự động niệm nào trên thân cho dù là nhỏ nhặt nhất
chúng ta cũng biết. Nên nhớ đây là “tuệ tri” hoàn toàn khác hẳn
với “thức tri” là cái biết do ý thức phát hiện mà trong đó ý
thức phân biệt giữa chủ thể và đối tuợng xuất hiện rồi. Nói cách
khác tuệ tri là trí tuệ để biết chớ không dùng ý thức để biết.
Thí dụ khi ta hít vào, thở ra hay đưa tay lên, để tay xuống thì
chúng ta tuệ tri để biết, nhưng nếu bây giờ chúng ta nhầm lẫn
tuệ tri là dùng công phu để quán chiếu và theo dỏi hơi thở hay
hành động của cánh tay tức là chúng ta đẵ rơi xuống tầng của ý
thức tức là thức tri chớ không còn tuệ tri nữa. Do đó nếu hành
giả rơi vào thức tri thì con đuờng giải thoát vẫn còn xa mù
mịt. Vì thế ngay ban đầu nếu chúng ta có tuệ tri thì ngay trong
sát na đó chúng ta đa có giải thoát rồi. Đó là trên lý thuyết,
còn trên thực tế từ truớc đến nay chưa có ai đuợc tuệ tri trong
sát na cả vì không có một ai có đủ khả năng tuệ tri ngay tức thì
đuợc mà phải cần thời gian thực tập và từ kinh nghiệm bản thân
mà thay đổi dần. Tóm lại, đức Phật dạy chúng sinh nên tuệ tri
từng sát na để thấu biết bằng trí tuệ thật rõ ràng từng biến đổi
của hơi thở nghĩa là chúng ta tuệ tri từng biến đổi rất nhỏ của
hơi thở. Đó là hít vô phần nào thì biết phần đó, chưa hít thì
chưa biết.
Ở đây, đức Phật không dạy tuệ tri để tập trung ngay hơi thở vì
nếu chỉ tập trung ngay hơi thở thì đây không còn là tuệ tri hay
tuệ giác nữa. Bởi vì đức Phật dạy quán để thấy như thật của thân
nghĩa là không nhất thiết chỉ thấy như thật của riêng hơi thở mà
thôi mà phải thấy như thật của toàn thân. Quán thân trên thân để
thấy như thật thân nghĩa là không phải chỉ thấy hơi thở vào lỗ
mũi mà phải thấy tất cả khí thở đi vào rồi sau đó thấy sự thay
đổi nơi toàn thân. Thí dụ như lúc khí thở vào mà thân đang ngứa
ở lưng, đang đau ở bàn tay hay đang nóng ở ngực…nghĩa là ngay
thời điểm đặc biệt đó chúng ta tuệ tri hết những biến đổi khắp
trên toàn thân. Khi đã rõ biết những thay đổi của toàn thân thì
trong đó bao gồm hơi thở của chính mình. Mặc dầu đức Phật dạy
quán hơi thở là chính, nhưng ở đây chúng ta tuệ tri cái thân của
chúng ta, đang quán chiếu để thấy như thật thân cho nên bất cứ
cái gì xảy ra trên thân thì chúng ta phải thấy như thật. Vậy thế
nào là thấy như thật? Đức Phật dạy rằng thấy như thật là truớc
đó một sát na thì chúng ta không thấy và sau một sát na xảy ra
rồi chúng ta cũng không thấy. Thế thì thấy như thật là ngay vào
thời điểm đó sự hiện hữu xảy ra thì chúng ta cũng ngay thời điểm
đó tiếp nhận sự hiện hữu đó chớ không phải một sát na truớc hay
một sát na sau. Vậy thì cứ mỗi sát na toàn thân của chúng ta có
sự thay đổi, chuyển hóa nhỏ mà chúng ta thấy biết như thật. Nếu
chúng ta thấy sự chuyển hóa ở sát na truớc mà chúng ta vuớng lại
thì chúng ta sẽ không biết sự chuyển hóa của sát na sau cho nên
cái thấy biết này không còn thấy như thật nữa mà là cái thấy
biết củ. Thí dụ ngay lúc này chúng ta bắt đầu hít một hơi thở,
nếu chúng ta không sống đúng như thật để quán thân trên thân thì
cái thấy biết này không còn như thật vì nó đã chạy sang một chút
của sát na sau rồi. Vì vậy nếu chúng ta trụ ở phần hơi thở đó
thì phần kế tiếp hơi thở chúng ta không biết đuợc. Do đó nguời
tu theo Tứ Niệm Xứ phải khéo léo, thức tỉnh từng sát na thì mới
thấy biết rõ ràng như thật đuợc. Như vậy những tiếp nối từng
khoảnh khắc của hơi thở thì chúng ta cũng phải thấy như thật
từng khoảnh khắc tiếp nối, xảy ra liên tục của từng hơi thở cho
đến hết hơi thở đó. Trong từng khoảnh khắc rất nhỏ đó, chúng ta
phải tuệ tri từng khoảnh khắc rất nhỏ đó. Nói một cách tổng
quát, mỗi hơi thở chúng ta có hàng trăm ngàn hay hàng tỷ khoảng
cách rất nhỏ như thế thì chúng ta phải tuệ tri hàng trăm ngàn
hay hàng tỷ cái biết như thật. Đây mới là tuệ tri như thật,
không lầm lẫn. Mỗi một chuyển động nhỏ, mỗi một vận hành nhỏ hay
mỗi sự giao động nhỏ ở nơi toàn thân chúng ta thì chúng ta phải
rõ biết như thật.
Nên nhớ đây là phần tuệ tri thì nó biết tất cả, nhưng nếu rơi
vào thức tri thì cái biết đó không đủ, không toàn vẹn. Có thể ví
sự tuệ tri trong những biến hành như những độ tăng dt của toán
học. Nhìn một hình vẽ toán học, nếu chúng ta chọn thời điểm bắt
đầu là t1 và sau đó cứ cộng thêm một phần rất nhỏ là dt
(increment) thì có t2 và sau đó cộng t2 với dt thì có t3 và cứ
như vậy cộng hoài cho đến khi có toàn hình vẽ. Ở đây tuệ tri
cũng thế, cứ mỗi thời điểm tức là từng sát na chúng ta cũng tuệ
tri và sát na sau đó tuệ tri tiếp và cứ như thế tuệ tri cho đến
khi quán việc đó hoàn tất. Vì thế nếu thực hành để hiểu thì
chúng ta vô tình rơi vào thức tri chớ không còn tuệ tri nữa. Sự
rõ biết một cách rõ ràng rốt ráo để biết toàn thân mà trong đó
có hơi thở ra vào, chuyển động của tay, của chân hay của toàn
thân thể từ đầu tới chân thì chúng ta tuệ tri một luợt từ đầu
tới chân và hơi thở ra vô. Nếu hành giả chỉ biết hơi thở hay
biết sự chuyển vận của tay hay chân thì đây là sự biết có sự
phân chia tức là sự biết của thức chớ không phải biết của trí
tuệ. Do đó nếu chúng ta quán thân trên thân mà chia sẽ từng phần
thì chúng ta rớt vào tầng sâu của tâm thức thì việc thực hành dĩ
nhiên không có kết quả. Vì thế tuệ tri là cái biết tất cả toàn
thân và hơi thở ra vào chớ không cô lập ở bất cứ phần nào. Tóm
lại khi tập trung là chúng ta rơi và tâm thức cho nên muốn thành
công thì cứ thả lỏng, đừng cô đọng ở bất cứ thành phần nào, thì
sẽ rõ biết tất cả.
Vì thế tu theo Tứ Niệm Xứ dựa trên quán hơi thở là một công
phu tuyệt vời. Đối với loại thiền này, tâm hành giả không tập
trung mà cũng chẳng tán tâm, loạn động. Tại sao? Bởi vì sự rõ
biết bằng trí tuệ không phải tán tâm hay tập trung cho nên nếu
hành giả chú tâm thì nguời đó tức thì rơi xuống tầng tâm thức
rồi. Hoặc tán tâm thì nguời đó lúc bây giờ đã ra ngoài những
hiện hữu mà họ đang quán. Do đó ở ngay hiện hữu này mà không
phải tán tâm, không phải chú tâm thì là tuệ tri tức là trí tuệ
đang rõ biết. Vì trí tuệ không phải là thức nên nó không tập
trung. Đây là buớc rất căn bản, tối cần thiết để đi vào căn nhà
Phật pháp. Vì thế chỉ cần thực hành đúng buớc đầu này, hành giả
sẽ cảm thấy an lạc, giải thoát khỏi mọi ràng buộc của phiền não
khổ đau ngay. Đó là lý do tại sao đức Phật xác định rằng thiền
Tứ Niệm Xứ giúp hành giả giải thoát giác ngộ trong một sát na là
nhu vậy. Vì thế thực hành đúng thì chúng ta sẽ chuyển hóa thân
tâm từng sát na và như thế không có phút giây nào mà chúng ta
không đạt đến sự an lạc. Khi đã có tuệ tri thì từng sát na đó
hành giả huởng sự an lạc. Nguợc lại nếu không thực hành đúng thì
cả đời hành giả không bao giờ huởng đuợc hương vị an lạc như thế
nào.
Nếu thực hành đứng đắn chánh niệm tỉnh thức tinh cần thì hành
giả sẽ loại đuợc tất cả mọi tham đắm chấp truớc nơi trần gian.
Tại sao? Thí dụ khi ta hít vào thì chúng ta tuệ tri chúng ta hít
vào và khi thở ra chúng ta tuệ tri chúng ta thở ra cho nên chúng
ta không dính vào cái hơi hít vào. Và khi thở ra xong thì chúng
ta tuệ tri hơi thở sắp hít vào chớ không dính vào hơi thở ra.
Nói thế thì sự vận hành luôn luôn mới nơi mình. Con nguời lầm
lẫn cho rằng hơi thở hít vô thở ra là chuyện làm củ lập đi lập
lại, nhưng trên thực tế mỗi hơi thở cho dù là hít vô hay thở ra
là hoàn toàn mới vì mỗi lần hít vô chúng ta đem duỡng khí (O2)
vào nuôi thân và khi thở ra chúng ta đem thán khí (CO2) ra
ngoài. Do đó nếu củ thì làm sao con nguời sống đuợc. Do đó nếu
ta quán sát rất tinh tế thì mỗi sát na chúng ta luôn có sự thay
đổi mới hơn, từng luồng duỡng khí (O2) hít vào tuy rất nhỏ nhưng
cũng đem đến cho ta sự sống mới. Thở ra cũng vậy, khi thở ra thì
từng hơi mới tiếp tục đi ra và khi hít vào thì cung từng hơi mới
từ từ đi vào. Nói cách khác co thể chúng ta thay đổi từng giây
từng phút hay nói đúng ra nó thay đổi từng sát na và do đó sự
sống cũng hiện hữu trong cái mới này. Vậy thì dựa theo Tứ Niệm
Xứ đời sống con nguời không có sát na nào dừng lại cái cũ cả bởi
vì dừng lại là làm phá vở đời sống hiện thực của chính mình rồi.
Như thế dựa theo quán niệm Tứ Niệm Xứ thì hiện thực đời sống của
con nguời lúc nào cũng mới, không bao giờ dừng lại, và nó thể
hiện sức sống mảnh liệt của vũ trụ cho nên nếu con nguời làm
dừng lại bất cứ một hiện tuợng nào thì nguời đó vô tình phá vở
những hiện thực đang xảy ra. Tại sao? Bởi vì cái hiện thực đang
tiếp tục xảy ra không hề có một phút giây cũ vì nó chỉ biến
chuyển theo một chiều đến của thời gian cho nên giây phút qua đi
thì chúng ta không bao giờ có thể nắm bắt nó lại đuợc. Nói theo
toán học thì thời điểm t2 = t1 + dt thành thử cứ một sát na (dt)
xảy ra thì sẽ không cách nào tìm thấy t1 trở lại vì nó đa qua
rồi. Vì thế đức Phật dạy rằng: “Quá khứ đa qua đi không bao giờ
nắm bắt lại đuợc”. Con nguời thường hay có quan niệm lầm lẫn
rằng hơi thở là chỉ lập đi lập lại
nên chẳng có gì mới lạ, nhưng dựa theo thiền Tứ Niệm Xứ thì tuy
hơi thở lập đi lập lại nhưng nó không hề cũ vì mỗi hơi thở hít
vô là mang theo duỡng khí mới và khi thở ra là đem thán khí mới
ra ngoài cho nên hơi thở lúc nào cũng mới. Hơi thở mới mang theo
duỡng khí nương theo dòng máu chạy khắp tế bào trong cơ thể cho
nên toàn thân cũng vì thế mà chuyển mới theo. Từ nhận diện những
biến hành của hơi thở chúng ta có thể trực nhận đuợc bộ mặt thật
của cuộc đời và nhận ra mọi quan hệ của đời sống rất rõ ràng. Đó
là không những chỉ riêng con nguời mới sống với cái mới từng sát
na mà thế gian vũ trụ cũng thế. Từ nhân sinh vũ trụ, chim bay cá
lặn bất cứ vật gì thuộc thế giới hữu vi đều chuyển mình theo cái
mới hết. Thế thì nếu chúng ta sống đúng với cái mới trong từng
sát na thì chúng ta sẽ nhận biết rất rõ ràng thế gian cũng đang
biến chuyển theo cái mới giống như chúng ta vậy. Đây là một điều
rất tế nhị mà lại rất quan trọng mà con nguời không bao giờ để ý
đến. Thí dụ như hiện tại chúng ta đang nhìn một nguời bạn. Nếu
sau một giờ mà bạn vẫn nhìn nguời bạn đó như vừa mới gặp nhau
một tiếng đồng hồ truớc là bạn không thực hành thiền Tứ Niệm Xứ.
Tại sao? Bởi vì con nguời thay đổi mới hơn theo từng sát na cho
nên mỗi sát na nguời bạn đó đã thay đổi mới rồi chớ đâu có giống
như khi nảy. Thời gian không bao giờ ngừng lại, luôn huớng về
phía truớc nên mỗi hơi thở là đã thay đổi rồi. Tuy dáng điệu
nguời bạn đó không thay đổi mấy, nhung trong khoảng thời gian
một tiếng đồng hồ đó thì nguời đó đã hít thở biết bao nhiêu lần
làm cho thân thể, máu me, nhịp tim, thần kinh, tế bào ngay cả ý
niệm thay đổi đến ngần ấy lần chớ đâu có y nguyên như chúng ta
thường nghĩ. Cứ một giây hay một khoảnh khắc là họ đã là một con
nguời mới hoàn toàn. Nếu biết quán chiếu sâu rộng như thế thì ta
và toàn thế giới truớc mắt ta lúc nào cũng mới, cũng biến chuyển
cho nên cuộc đời làm gì còn chán chường nữa. Một trong những
thành phần đưa đến phiền não khổ đau là sự nhàm chán. Thí dụ lái
chiếc xe này hoài lâu ngày sinh ra nhàm chán, mất hứng thú. Ở
lâu một nơi nào cũng sinh ra nhàm chán. Vợ chồng hằng ngày thấy
nhau hoài sinh ra nhàm chán muốn gây gổ. Bây giờ hiểu thiền Tứ
Niệm Xứ thì biết rằng đời sống luôn thay đổi không dừng lại. Cứ
mỗi giây phút trôi qua, con nguời thay đổi theo giây phút mới
đó. Vì thế chính hơi thở đem sự sống đến với con nguời cho nên
mỗi hơi thở mới sẽ đem lại sự sống mới lại cho chúng ta. Biết
đuợc như thế thì làm gì còn nhàm chán, còn đâu là nguyên nhân
của khổ đau, của bất bình bất mãn và dĩ nhiên thực hành đứng đắn
Tứ Niệm Xứ sẽ đưa hành giả thẳng đến cứu cánh tối thuợng là giải
thoát giác ngộ.
Vậy thế nào quán thọ trên thọ để thấy nhu thật thọ?
Cũng giống như quán thân trên thân để thấy như thật thân nghĩa
là hành giả quán từng hơi thở trôi qua để biết như thật con
nguời thay đổi theo từng hơi thở ra vào. Ở đây cảm thọ cũng thế.
Bất cứ sự cảm thọ nào cũng đều mới cả vì mỗi sát na mới thì cái
cảm thọ cũ mất đi. Thí dụ như trong khi đi, chúng ta cảm thấy
đau chân thì cứ mỗi sát na chúng ta tuệ tri để cảm thọ cái đau
thì cái đau cũ mất đi và đuợc thay thế bằng cái đau mới. Khi
chúng ta tuệ tri thì chính sự tuệ tri đó giúp hành giả thoát
ngoài sự cảm thọ khổ vui hay đớn đau. Thọ là cảm nhận nơi thân
cho nên bất cứ sự xảy ra nào nơi thân thì chúng ta biết, nhưng
cái xảy ra và cái biết không hề dính dáng gì với nhau. Thí dụ
cái đau truớc không phải là cái đau sau và cái đau sau cũng
không hề dính gì với cái đau sau đó nữa. Tại sao? Bởi vì nếu
mình giữ cái cảm nhận của cái đau truớc thì mình sẽ không biết
cái đau sau, nhưng những cái đau cứ xảy ra liên tục từng sát na
chớ đâu có dừng lại khiến chúng ta rõ biết cái đau từng sát na
vậy. Thậm chí cái đau cứ tăng lên đến khi chúng ta không đi đuợc
nữa. Tóm lại cái biết không liên quan đến cảm thọ đau nhức cả
bởi vì cái thọ luôn luôn thay đổi vì cái biết ở ngoài cho nên
chúng ta mới biết sự thay đổi từng sát na. Do đó nhờ tuệ tri mà
chúng ta biết cảm nhận những cái khổ vui của thân thể chúng ta
một cách tuờng tận không nhầm lẫn để thấy như thật thọ nghĩa là
thấy những cảm giác khổ vui hay không khổ vui của thân xác mình.
Vì thế trong cuộc sống khi chúng ta nghe ai nói những lời chua
xót, tay bị chảy máu hay đầu đang bị đau…để chúng ta có cảm nhận
những cái khổ vui đến thì chúng ta tuệ tri tất cả những chuyện
đó. Khi tuệ tri cái khổ thì sự khác nhau là chính mình tuệ tri
cái khổ chớ chính mình không phải là cái khổ. Con nguời thuờng
hay lầm lẫn khi có chuyện đau buồn thì chúng ta trở thành sự đau
buồn chớ không phải chúng ta đang tuệ tri sự đau buồn khiến họ
có cảm giác buồn khổ. Bây giờ nếu thực hành Tứ Niệm Xứ thì chúng
ta tuệ tri chuyện buồn đó nghia là giữ khoảng cách giữa tuệ tri
và cái buồn. Thí dụ khi giúp đở một nguời nào đó mà không đạt
những thành quả như ý muốn nên mình cảm thấy buồn, không hài
lòng. Buồn là vì mình đồng hóa với cái buồn đó nghĩa là chính
mình cho rằng cái buồn đó là một thành phần của ta chớ chúng ta
không tách hẳn mà đứng ngoài cảnh giới của tuệ tri. Vì nếu chúng
ta tuệ tri thì bất cứ chuyện gì xảy ra cho thân tâm không dính
dáng gì đến tuệ tri cả.
Một thí dụ khác là áp dụng tuệ tri vào trong giấc ngủ. Khi ngủ
nếu chúng ta tuệ tri có nghia là thả lỏng toàn thân thì chúng ta
rõ biết thân đang thả lỏng mà đừng thêm hay bớt gì hết. Ngay lúc
đó, chúng ta có thể quán sát thân của chúng ta nó ngủ nhu thế
nào. Nói cách khác tuệ tri giống như một nguời khác đang quan
sát từng biến hành của nguời đang nằm ngủ, nhưng ở đây nguời
khác đó chính là ta đang quan sát chính ta. Vì chúng ta tuệ tri
toàn thân nên biết rất rõ những biến hành của thân để chuyển dần
dần theo giấc ngủ. Chúng ta biết rõ ràng bắt đầu từ chân đến tay
rồi đến đầu,
bắt đầu ngủ từ từ. Đến đây chúng ta nhận diện đuợc cánh cửa của
ngủ và thức. Nếu chúng ta có thể công phu kiên trì thì sẽ nhận
định rất rõ ràng giữa bắt đầu ngủ cho đến khi ngủ và từ ngủ tới
thức có một ranh giới rõ ràng. Và nếu ít nhất trong cuộc đời
chính mình kinh nghiệm giữa thức và ngủ thì chính mình mới thật
sự thấy mình ngủ đuợc cũng như một nguời khác đang nhìn mình ngủ
vậy. Khi thân còn mê mờ trong giấc ngủ thì cái trí tuệ đó sẽ
tương đồng với vấn đề thấy đuợc sự sống chết nghĩa là giây phút
chúng ta bỏ thân này chẳng khác nào đi từ thức tới ngủ, không
sai biệt mấy. Vì thế nếu trong đời sống này chúng ta thực tập từ
tỉnh tới mê, từ thức tới ngủ một cách rõ ràng thì chúng ta tuệ
tri thân của chúng ta đang đi từ tỉnh tới mê, từ thức tới ngủ.
Nói cách khác khi chúng ta tuệ tri chúng ta đang ngủ thì ngay
thời điểm đó chúng ta không còn là nguời đang ngủ đó nữa. Đến
lúc chết cung vậy. Hành giả thực hành Tứ Niệm Xứ tuệ tri thân từ
sống đến khi chết từ từ nghĩa là thân chết tới đâu chúng ta tuệ
tri thân chết tới đó. Đến khi thân chết hẳn thì chúng ta
tuệ tri thân chết hẳn và nguời tuệ tri lúc bây giờ không phải là
nguời chết. Lúc đó chúng ta rời hẳn chuyện sống chết của thân
xác này. Tuy nói dài dòng, nhưng nguời tuệ tri vẫn không
quên tuệ tri từng hơi thở thì mới biết những sự biến hành của
thân đuợc. Vì thế đời nguời chỉ trong một hơi thở cho nên quán
hơi thở là điều tối quan trọng. Thí dụ mình đang giận ai mà bây
giờ điều hòa hơi thở trở lại thì cơn giận kia tức thì tan biến.
Cũng như trong lòng đang khởi niệm tham làm hơi thở dồn dập. Bây
giờ điều hòa hơi thở trở lại thì niệm tham biến mất. Nói chung
trong cuộc sống có rất nhiều lúc chúng ta phải đối diện với
những việc bất toại ý, nhưng nếu biết điều hòa hoi thở thì có
thể hóa giải hết những buồn phiền rất dễ dàng.
Nên nhớ A la hán là quả vị tối cao trong Phật giáo vì chính
đức Phật cũng là vị A la hán, nhưng vì Ngài là người chứng ngộ
đầu tiên và là thầy của tất cả các vị A la hán khác nên danh vị
Phật chỉ dành riêng cho Ngài mà thôi. Vì thế dựa theo tinh thần
Phật giáo Nguyên Thủy thì không có Hóa thành hay Bảo sở vì
chứng Thánh quả A la hán là bảo sở tức là đến chỗ trân quý nhất
rồi.
Chánh niệm là biết rất rõ mọi biến hành của thân và tâm. Ngược
lại người không sống trong tỉnh thức chánh niệm thì ăn không
biết mình ăn, mặc không biết mình đang mặc, thở không biết mình
đang thở. Thiền tông nói giác ngộ là nhận ra ông chủ hay
bản lai diện mục, nhưng dựa theo tinh thần Tứ Niệm Xứ thì giác
ngộ là nhận biết được bản chất thực tại, vô thường, vô ngã mà
muốn đạt đến chỗ này thì phải thực hành Chánh niệm.
Chánh niệm là trạng thái trước khi biểu tượng hình thành và nó
vượt ra ngoài mọi lý luận của ý thức. Chánh niệm phản chiếu
những gì đang xảy ra ngay trong sát na hiện tại và không có chút
thiên vị vì vượt ra ngoài tầng ý thức phân biệt. Chánh niệm là
sự quan sát không có phán đoán, là sự theo dõi vô tư, không bị
mê đắm bởi những trạng thái tâm tốt và không cố gắng lẫn tránh
những trạng thái tâm không tốt và nó cũng không bám theo theo sự
dễ chịu hay trốn chạy cảm giác khó chịu. Vì thế Chánh niệm không
phải là ý thức suông việc làm của mình mà phải thấu biết rõ ràng
tức là tuệ tri những biến hành từng sát na cho nên Chánh
niệm phải được thực hiện rất tỉ mỉ từng giây, từng phút, từng
sát na theo từng hơi thở ra vô cho nên nó đòi hỏi hành giả thực
hành tính nhẫn nhục, kiên trì một cách rốt ráo. Nói chung Phật
dạy chánh niệm để đối trị với những tâm hành sinh diệt, nhưng
cốt tủy vẫn đưa chúng sinh đến một cứu cánh tột đỉnh là thức
tỉnh tức là “BIẾT”. Vậy biết cái gì? Khi tâm tham phát khởi là
biết có tham, không tham thì cũng biết trong tâm không có tham.
Sân và si cũng vậy. Do đó khi lục căn tiếp xúc với sắc thanh
hương vị xúc pháp thì vọng tâm dấy khởi. Ở đây đức Phật dạy
chúng sinh thực hành chánh niệm để biết rốt ráo tận cùng những
biến đổi của tâm mà không cần phải tiêu diệt chúng. Thí dụ thấy
tiền nhiều tâm tham liền nổi dậy, nhưng nếu có chánh niệm thì
biết ngay sự hiện hữu hình thành trạng thái tham của tâm cho nên
tâm tham bây giờ không còn tác động hoành hành được nữa. Vì thế
bất cứ một ý niệm vừa khởi lên, chánh niệm cho ta “biết” đó là
vọng tưởng. Khi đã biết bộ mặt thật của ý thức thì con người chỉ
cần không theo vọng thì vọng tự mất mà không cần phải tiêu diệt
chúng nghĩa là không theo vọng, vọng tự tiêu tan tức là mê biến
thì thời điểm đó giác tự hiển bày.
Thế thì Thiền tông nghiêng về “Lý” (nói) mặc dù chư Tổ nói
“Bất lập văn tự” trong khi đó thiền Tứ Niệm Xứ không nói lý
thuyết cao siêu mà có một kết quả siêu việt vì nó nghiêng về
thực hành. Có thực hành mới có thực chứng để thoát khỏi sinh tử
luân hồi chớ đức Phật đâu có muốn chúng sinh thành Tổ. Kiến tánh
chưa ra khỏi sinh tử luân hồi vì chưa diệt được Tư Hoặc tức là
vẫn còn lậu hoặc. Vì thế mà Tứ Niệm Xứ được đức Phật xác định là
con đường duy nhất để có giải thoát giác ngộ.
Mục đích tu thiền là diệt vọng tưởng, nhưng muốn diệt vọng
tưởng thì hành giả phải có chánh niệm. Mà thực hành Chánh niệm
(Samma-Sati) tức là thực hành Tứ Niệm Xứ vì thế Tứ Niệm Xứ là
pháp thực hành căn bản của thiền. Mà Chánh niệm là chi thứ bảy
của Bát Chánh Đạo.
Dựa theo Kinh Trung Bộ (bài kinh số 10) thì Pháp Tứ Niệm Xứ
thường được hiểu là “Con đường duy nhất” để tiến đến giải thoát
giác ngộ, nhưng thật ra “Con đường duy nhất” đã được đức Phật
nhắc đến không phải là Tứ Niệm Xứ mà chính là Bát Chánh Đạo.
Trong kinh Pháp Cú (273-274), đức Phật dạy rằng:
Trong tất cả các con đường
Con Đường Tám Chánh là thù thắng nhất
Đây là con đường duy nhất
Không có con đường nào khác
Để đi đến tri kiến thanh tịnh
Vì thế con đường duy nhất để đi đến giải thoát giác ngộ là Bát
Chánh Đạo mà Tứ Niệm Xứ với bốn nền tảng của Chánh niệm chỉ là
một phần của con đường đó. Bát Chánh Đạo gồm có:
Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh tinh tấn, Ba chi của Chánh
giới là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng,
- Chánh
niệm (Tứ Niệm Xứ) và Chánh định.
Mỗi chi là một điều kiện tối quan trọng để đạt đến chỗ giải
thoát cho nên hành giả phải nghiêm túc thực hành mỗi chi cho đến
chỗ hoàn hảo, trọn vẹn như là “một con đường duy nhất”. Vì thế
muốn thực hành pháp Tứ Niệm Xứ để có kết quả nhanh chóng đưa đến
chỗ giải thoát giác ngộ dựa theo phương pháp của đức Phật thì
hành giả phải hành trì trọn vẹn bảy chi kia của Bát Chánh Đạo.
Đức Phật đưa ra con đường tám nhánh là muốn nhấn mạnh rằng mỗi
nhánh liên hệ mật thiết đến bảy nhánh kia và ngược lại cho đến
khi hành giả thực hành trọn vẹn thì tám nhánh trở thành Thánh
đạo.
Trong Bát Thánh Đạo, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, hình
thành con đường đạo đức căn bản cho người cần thực hành Giới
(Sīla). Để có thể thực hành Giới (Sīla), người đó phải hiểu rõ
ba Thánh đạo được đề cập ở trên. Chỉ khi nào người đó biết rõ
về Giới, thì mới có thể giữ gìn Giới đức cẩn thận và trong
sạch. Không có tri thức thiết yếu này về con đường Giới hạnh,
thì hành giả không thể nào thực hành Giới đức trong sạch và trọn
vẹn được.
Có được sự thiết lập vững chắc về Giới và thực hành đầy đủ,
hảnh giả cần phải tiến hành thực hành con đường thiền Định
(Samādhi), là phần cuối cùng của Bát Thánh Đạo. Thực hành
Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định tạo ra các chi đạo về
Định (Samādhi) và con đường dẫn tới phát triển Định.
Bước tiếp theo, là phải được thực hành để phát triển hai chi
đạo về Tuệ (Paññā) là Chánh kiến và Chánh tư duy để có thể phát
triển được Tuệ minh sát. Chỉ có những người đại thiện như vậy
mới có thể đạt được một nội tâm tĩnh lặng và phát triển được Tuệ
minh sát.
Thêm nữa, muốn thực hành thiền Tứ Niệm Xứ để đạt đến kết quả
mỹ mãn, hành giả phải tuân giữ chặt chẽ ngũ giới và đoạn diệt
ngũ triền cái là tham lam, sân hận, hôn trầm, trạo hối và nghi
ngờ. Rồi sau đó mới hành thiền Quán Niệm. Đây là bước đầu tiên
để tận diệt phiền não vì một khi giới đã trong sạch, hành giả có
thể bắt đầu thực tập thiền Định hay thiền Trí tuệ. Khi tâm đã an
trú trong chánh niệm để biết rốt ráo những biến hành của thân,
thọ, tâm, pháp thì hành giả có thể quán chiếu rất sâu thẳm trong
tâm thức để nhận biết tính chất vô thường của cái “Tự Ngã” mà
con người thường bám víu
vào đó. Kiến tánh hay đốn ngộ chưa diệt được Tư Hoặc nghĩa là
thập triền, thập sử vẫn còn nên chưa đạt được Ngã không. Vì Ái
dục và Niết Bàn là kẻ thù của nhau cho nên còn ái dục thì không
bao giờ có Niết Bàn, có giải thoát.
Khi hành giả có tâm định và chánh niệm vững chắc thì sẽ thấy
các hiện tượng vật chất và tâm sinh diệt từng sát na một. Hành
giả sẽ thấy rất rõ ràng tất cả những hiện tượng vật chất và tâm
này không kéo dài liên tục mà chúng chỉ tạm thời khởi sinh rồi
hoại diệt. Thật vậy, các hiện tượng vật chất và tâm khởi sinh
một cách đơn độc rồi mất tức khắc một cách đơn độc. Hành giả sẽ
thấy một cách rõ ràng chúng không độc lập, chúng bị đàn áp bởi
sinh diệt, không toại nguyện và không có linh hồn, tự ngã và
không cốt lõi. Hành giả không thể kiểm soát sự sinh diệt của
chúng bởi vì chúng diễn ra theo những duyên liên hệ của chúng.
Thế thì tất cả ngũ uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn,
thức uẩn, đều mang đặc tính là vô thường, khổ, và vô ngã
mà Bát Nhã Tâm Kinh gọi là ngũ uẩn giai không. Khi thấy được ba
đặc tính đó, hành giả hãy tiếp tục quán sát cho đến khi chín
mùi. Nhờ quán sát các hiện tượng vật chất và tâm, cuối cùng ngũ
uẩn sẽ bị loại trừ.
Mục đích tối thượng của thiền Tứ Niệm Xứ là đưa hành giả dần
dần vào các tầng thiền định và thiền na để sau cùng trí tuệ bừng
sáng mà nhận chân rằng:
-Thân thể này không phải là tôi, là của tôi.
-Những cảm thọ sướng khổ cũng chẳng liên quan gì đến cái tôi.
-Cái tâm đang quán sát cũng không phải là linh hồn của tôi.
-Và tất cả những đối tượng của tâm như ý thức và hành thức cũng
không phải là của tôi.
Chính đức Phật dạy rằng:
-Này các Tỳ kheo, đối với bất cứ những gì là thân xác,
là cảm giác, thuộc về nhận thức, thói quen thường nhật, là
tri thức dù thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, thuộc
nội tâm hay bên ngoài, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay
tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng
đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng :
"Đấy không phải là của tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng
không phải là cái Ngã của tôi".
-Này các Tỳ kheo, nếu biết nhìn mọi sự vật bằng cách như
thế thì một người đệ tử hiểu biết sẽ không còn bám víu vào
thân xác, không còn bám víu vào giác cảm, không còn bám víu vào
sự nhận thức, không còn bám víu vào thói quen thường nhật, không
còn bám víu vào tri thức.
Khi loại bỏ được chúng thì sẽ không còn tham vọng nữa. Khi nào
không còn bám víu nữa thì người đệ tử ấy cũng sẽ tự giải thoát
cho mình khỏi mọi dục vọng. Khi đã tự giải thoát khỏi mọi dục
vọng thì người đệ tử ấy cũng sẽ chợt nhận ra rằng : "[Thế
ra] sự giải thoát cũng chính là như thế đấy !", và người
đệ tử ấy cũng sẽ hiểu được là : "Tất cả mọi sự tái sinh
đã bị hủy diệt, chỉ có Con đường Đạo hạnh tinh khiết là tồn tại,
những gì phải chấm dứt đã chấm dứt, không còn bất cứ gì lưu lại
để chờ đợi được thực hiện, không còn lại gì nữa để mà hình
thành".
Vì thế một khi đã thực sự nhận biết rốt ráo rõ ràng rằng trong
ta không hề có “Cái Ta” hay “Cái của Ta” thì lúc
đó hành giả sẽ khám phá một chân lý tuyệt vời độc nhất vô nhị,
là tinh hoa cốt tủy của Phật giáo mà ngày xưa chính đức Phật đã
chứng dưới cội Bồ Đề là Chân lý Vô Ngã.
Tuy căn bản của phiền não là Kiến hoặc và Tư hoặc, nhưng cái
gốc để tạo ra những phiền não đó chính là chấp Ngã. Chấp Ngã đã
phá thì chấp pháp cũng theo đó mà diệt bởi vì trong thì Ngã
Không và ngoài thì Pháp Không, trong ngoài tự tại tức là có giải
thoát. Vì thế nếu diệt được chấp Ngã (Vô Ngã) thì tất cả những
vô minh phiền não cũng tan biến theo.
Sau khi tâm đã an trú trong Tứ Niệm Xứ (Chánh niệm) bây giờ
hành giả có thể đem tâm an trú vào các tầng thiền na tức là
Chánh định (chi thứ tám của Bát Chánh Đạo). Từ đó hành giả có
thể vào thiền Chỉ (an định) và sau cùng vào thiền Minh Sát (trí
tuệ) để chứng ngộ chân lý. Nên nhớ thiền an định (Chỉ) và thiền
Minh Sát (Quán) phải đi đôi với nhau, không thể tách rời được,
bất khả phân ly vì có định thì trí tuệ mới phát sinh và ngược
lại. Ngày nay rất nhiều người tu thiền Minh Sát mà không lo dẹp
vọng tưởng, chấp trước thì không bao giờ có trí tuệ được. Do đó
nếu hành giả thực hành giới luật trang nghiêm, chuyên tu
Chỉ-Quán (Samatha-Vipassana) thì sẽ chứng nghiệm Chân lý. Thiền
định (Chỉ) (Samatha) chỉ có thể đưa hành giả đến những cơn định
(Samàdhi) mà trong đó hành giả hưởng sự an lạc nhất thời. Vì tâm
định nên hành giả không tạo thêm nghiệp mới, nhưng trí tuệ không
phát triển nên những gốc của vô minh phiền não chưa diệt được.
Trong khi đó, thiền Tứ Niệm Xứ thuộc về thiền tuệ giúp hành giả
phát sinh trí tuệ, thấy rõ được thật tướng của vạn hữu và diệt
trừ tận gốc vô minh phiền não đưa người tu thẳng đến giải thoát
giác ngộ. Đây là liễu ngộ, chứng ngộ chớ không phải đốn ngộ của
Tổ sư thiền.
Như vậy, thiền Tứ Niệm Xứ đưa hành giả thành tựu tri kiến thật
(tuệ tri) bằng cách quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán
tâm trên tâm và quán pháp trên pháp để thấy như thật thân, như
thật thọ, như thật tâm, như thật pháp. Nếu hành giả chuyên cần
vào đó cả ngày lẫn đêm không ngừng nghĩ, không vướng vào tham
tâm, sân tâm, si tâm thì người đó sẽ có tâm thật thanh tịnh an
lạc và có giải thoát giác ngộ. Đến đây hành giả thấu triệt thật
tướng của vạn pháp, hoàn toàn nhận thức bản chất thật sự của ngũ
uẩn nên không còn dính mắc, bám víu
vào bất cứ thứ gì trên thế gian.
Ngày xưa đức Phật không để ý đến lý luận, không chạy theo ý
thức, không cần nói chuyện siêu hình mà hoài bảo của Ngài là tìm
con đường giải thoát vì thế toàn bộ giáo lý Phật Đà diễn tả lại
những pháp hội rất đơn giản, rất dễ hiểu, nhưng đi thẳng vào vấn
đề để giúp đệ tử Ngài dễ thực hành mà có thực chứng. Cốt lũy của
giáo lý Phật Đà là Tứ Diệu Đế mà Bát Chánh Đạo là tám nhánh đưa
hành giả từ phàm đến Thánh thì Tứ Niệm Xứ là chi thứ bảy tức là
Chánh Niệm. Thông thường con người có thói quen thấy biết vạn
pháp bằng tưởng tri hoặc thức tri, nghĩa là thấy biết qua ký ức
hay kiến thức mà phần lớn là thủ đắc từ vay mượn bên ngoài, nên
chỉ thấy được nghĩa khái niệm hay danh tự khái niệm mà phần lớn
chỉ là ảo tưởng không thật, chứ không thấy được thực tánh hay
chân diện mục của pháp. Trong khi đối tượng của trí tuệ thiền
tuệ dưới hình thức tuệ tri trong chánh niệm tỉnh giác thì đó
chính là “thực tánh pháp”.
Do đó không có một hành giả nào trên thế gian này từ
ngày đức Phật thành đạo cho đến nay mà muốn đạt đến cứu cánh tối
thượng giải thoát giác ngộ mà không thực hành Tứ Niệm Xứ.
SỰ XUNG ĐỘT GIỮA ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA.
Khi Phật giáo Đại thừa xuất hiện thì tất cả những bộ phái
không phải là Đại thừa đều được gọi chung là Tiểu thừa. Từ đó có
sự tranh chấp, đôi co giữa hai bên. Bên Đại thừa tự hào cho rằng
mình là cỗ xe lớn có thể chở được nhiều người cùng đến chổ giải
thoát trong khi Tiểu thừa là cổ xe quá nhỏ không thể chở được
ai, giỏi lắm là chỉ được một vài người. Chưa hết, kinh điển Đại
thừa dùng danh từ “tiêu nha bại chủng” nghĩa là những hạt giống
chết, hạt giống thối nát chỉ làm thối những hạt giống tốt của
đạo Phật để gọi người Tiểu thừa, đặc biệt những vị A la hán định
tánh là những người không chấp nhận Đại thừa mà danh từ Đại thừa
gọi họ là những người “không hồi tiểu hướng đại”. Đã cùng là
đệ tử Phật, tại sao có những quan điểm cực đoan như vậy? Vào
thời đại Long Thọ, Phật giáo Đại thừa có khuynh hướng đã phá
Tiểu thừa rất nặng, đặc biệt là Đề Bà đệ tử Long Thọ, để phát
huy Đại thừa vì họ lý luận rằng những người Tiểu thừa thọ hưởng
hạt giống từ bi, trí tuệ, giải thoát và giác ngộ từ đạo Phật mà
lại không tiếp tục gieo trồng và phát triển để những hạt giống
Bồ-đề này trở thành những gì tốt đẹp cho thế giới nhân loại. Nếu
hành trì đạo Phật theo lối này thì Phật Pháp sẽ không còn tồn
tại trên cõi đời này nữa. Vì thế Đại thừa giới thiệu kinh Duy Ma
Cật như là một loại hỏa tiển liên lục địa để chọc thủng vào hàng
tuyến của những người Thanh văn, buộc họ kéo cờ trắng đầu hàng,
gia nhập vào đại gia đình Đại thừa và xóa tên Nguyên thủy trong
bản đồ Phật giáo.
Vậy lý luận trên có cơ sở vững chắc không? Dựa theo lịch sử
truyền giáo của đạo Phật, chính đức Phật và biết bao đệ tử của
Ngài mà điển hình nhất là tôn giả Phú Lâu Na, người đã xin phép
đức Phật sang nước Du Lô Na, một nước thuộc vùng biên địa hoang
dã để hoằng pháp bất chấp sự an nguy cho bản thân mình. Thêm
nữa, không có nơi nào ở Ấn Độ mà không có dấu chân đức Phật.
Ngài và chư đệ tử đã đem ánh đạo vàng và rưới nước từ bi xuống
cho tất cả mọi người không phân biệt cung vua, phủ chúa hay mái
tranh nghèo của người nông phu. Thêm nữa, sau lần kết tập kinh
điển lần thứ ba, vua A Dục cử đi những phái đoàn truyền giáo đến
tận các nước xa xôi ở Á Châu, Phi Châu và Âu Châu, đặc biệt là
sự phát triển rất lớn mạnh tại đảo Tích Lan cho đến ngày nay. Sự
lên án về tính ích kỷ, thiếu lòng vị tha của Đại thừa không phải
ở cấp độ chống đối các bậc A la hán mà có lẽ là sự chống đối
giới Tỳ kheo của Thượng tọa bộ vì xuyên qua lối sống của họ đã
làm cho hình ảnh các vị A la hán trở thành lý tưởng ích kỷ và từ
đó khiến cho cuộc sống tâm linh thánh thiện của những bậc Thánh
giả này trở thành phi thực tế.
Phải chăng tư tưởng Bát Nhã và tín ngưỡng của Đại thừa mà cội
nguồn phát xuất từ ý niệm về Pháp thân đã tạo ra sự căng thẳng?
Phật giáo Nguyên thủy cho rằng đức Phật chỉ là một người bình
thường như trăm vạn người khác trên quả địa cầu này, nhưng nhờ
dũng mãnh tu tập thiền định đoạn trừ tận gốc tham-sân-si, lậu
hoặc, tâm trí bừng sáng khiến Ngài đắc thành chánh quả, có được
giải thoát Niết bàn. Vì thế bất cứ ai cũng có thể noi theo con
đường đức Phật đã đi và đạt được những thành quả như Phật. Bằng
chứng là vào thời đức Phật đã có hàng vạn vị A la hán chớ đâu
chỉ có mình đức Phật chứng Thánh quả. Chính đức Phật là vị A la
hán đầu tiên trong số các vị A la hán. Ngược lại Đại thừa lý
luận rằng đức Phật lịch sử chỉ là ứng thân của chư Phật trong
thế giới này vì Ngài đã thành Phật từ vô thỉ. Nói cách khác Pháp
thân mới đúng là thân Phật, còn nhục thân thì chưa đích thật là
Phật thân. Khi Đại thừa biến đức Phật từ một người bình thường
thành một siêu nhân, một Superman của thế giới, của vũ trụ thì
tự nhiên giữa chúng sinh và Phật có sự xa cách. Tại sao lại có
sự xa cách? Bởi vì Ngài không phải là người bình thường như muôn
vạn chúng sinh trong thế giới này cho nên những điều Phật làm,
chỉ có Phật mới thực hiện được, còn phàm nhân thì đành bó tay,
đừng nên mơ ước viễn vong. Việc thần thánh hóa đức Phật đã khiến
cho người đệ tử Phật trở thành tiêu cực, thay vì tinh tấn nỗ lực
tu hành giống như các vị A la hán ngày xưa để trở thành Thánh
giả, đa số Phật giáo đồ trở thành người cầu xin, van vái, lệ
thuộc vào tha lực.
Mãi đến mấy thế kỷ sau đó, vào thời đại của Vô Trước, Thế Thân
thì các sư mới lấy giáo lý Tiểu thừa làm nền tảng để xây dựng
Đại thừa và có lẽ đây là điểm đặc thù nhất về sự dung hòa của
Phật giáo thuộc thời kỳ này.
Ngày nay, các bộ phái Nguyên thủy rất hăng say hoằng pháp độ
sanh để đáp ứng đòi hỏi tâm linh của đa số quần chúng. Thí dụ
như Thái Lan có những trung tâm thiền có sức chứa đến cả triệu
tín đồ. Nhưng sự thay đổi cho thích ứng với hoàn cảnh xã hội đôi
khi cũng là thử thách lớn đối với họ trên con đường tu tập. Một
khi hành giả rời đời sống độc cư, an trú hoàn toàn trong thiền
định để hòa nhập vào trong đời sống hổn tạp của xã hội thì con
đường giải thoát rất khó thành đạt như các vị Thánh giả ngày xưa
vì thế càng ngày càng có ít người chứng quả A la hán hơn trước
nếu không muốn nói là không có.
Để có sự khác biệt với giáo lý Nguyên thủy, Phật giáo Đại thừa
giới thiệu 5 tư tưởng mới và sau đó họ dần dần chinh phục trọn
vẹn những quốc gia phía Bắc như Tây Tạng, Mông Cổ, Nepal, Trung
Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản và Việt Nam. Đó là:
1) Chuyển lý tưởng Niết bàn của các vị A la hán thành ra lý
tưởng Bồ-tát.
2)Giới thiệu Lục độ Ba-la-mật mà trong đó hạnh nguyện từ bi được
xếp ngang hàng với trí tuệ.
3) Phật giáo Nguyên thủy là con đường tự giác, không tín ngưỡng.
Vì thế trong kinh Pháp Cú, đức Phật dạy rằng: “Các con hãy tự
thắp đuốc lên mà đi! Các con hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy
theo Pháp của ta mà tu giải thoát! Đừng tìm sự giải thoát ở một
kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài
các con”. Ngược lại, Đại thừa bây giờ xem đức tin là quan
trọng bằng cách đưa ra một loạt các vị Thánh, các vị Bồ-tát, các
chư Phật có khả năng cứu rỗi chúng sinh.
4) Phương tiện thiện xảo trở thành thiết yếu vì thế những cảnh
giới bất tư nghì, thế giới chư Phật hay chư Phật hiện ra như
Phật Đa Bảo hay đức Phật vận dụng thần thông làm cho thế giới
rung chuyển trong kinh Pháp Hoa hay Duy Ma Cật.
5) Để thích hợp với giáo lý bản thể của thế giới vô vi, Đại thừa
giới thiệu tư tưởng tánh không và định nghĩa lại tất cả những lý
thuyết về chữ “không” cho phù hợp với giáo lý mới để có sự khác
biệt với Nguyên thủy. Tư tưởng đại thừa là “vạn pháp giai
không, duyên sanh như huyễn” nên không chấp vào sự hiện hữu
của thế gian vũ trụ nghĩa là tuy vạn pháp có đó mà trong tâm vẫn
cứ như không. Vì không chấp nên Bồ tát không cần xa lánh thế
gian mà vẫn không hề bị thế gian đắm nhiễm, tâm hằng tự tại,
thanh tịnh niết bàn. Nói cách khác dưới nhãn thức của Phật giáo
Nguyên thủy thì cuộc đời vô thường, hoại diệt, nay có mai không
nên họ cố tu để chứng đắc Niết bàn, giải thoát sinh tử luân hồi.
Ngược lại dưới tuệ nhãn của Bồ tát thì vạn pháp giai không nghĩa
là thế gian vũ trụ tuy có mà vẫn như không, sinh rồi lại diệt,
diệt để rồi sinh vô cùng vô tận. Không sợ sinh tử nên họ sống an
vui tự tại, không chấp có chấp không nên lòng họ không tham
luyến.
Phật giáo Nguyên thủy nhìn đức Phật bằng một góc độ rất thực
tế, dựa trên con người lịch sử. Vì thế đức Phật đối với họ là vị
A la hán đầu tiên của tất cả các vị A la hán. Trong ngũ bộ kinh
Nikayas, đức Phật đã nhiều lần xác nhận rằng hằng trăm nếu không
muốn nói hằng ngàn đệ tử thuộc hàng Thánh giả của Ngài cũng
chứng đắc các cấp độ tâm linh ngang bằng với đức Phật. Trong
kinh Bộ Tương Ưng, đức Phật tuyên bố chính Tôn giả Xá Lợi Phất
(Sariputa) đã chứng ngộ và thâm hiểu giáo lý Duyên Khởi
(Pratiyasamutpada) rất sâu thẳm như chính Thế Tôn vậy. Ngoài ra,
còn có những bậc Thánh giả khác như các Tôn giả Đại Ca Diếp
(Mahkassapa), Mục Kiền Liên (Maggallana), Phú Lâu Na…cũng chứng
đắc một số khả năng về những lãnh vực như giảng giải thuyết
pháp, xuất nhập các cấp độ thiền, thi thố thần thông ngang bằng
đức Phật. Đức Phật trong ngũ bộ kinh Nikayas không hề phát biểu
lời tuyên bố nào để phân biệt sự khác nhau giữa Ngài và các vị A
la hán ngoại trừ lời nói sau đây trong kinh Tương Ưng:
-Này các Tỳ kheo! Như Lai là vị A la hán, bậc chứng ngộ
hoàn toàn. Như Lai là người đã khiến cho con đường trước kia
chưa sinh khởi nay sinh khởi, đưa ra con đường trước kia chưa
được đưa ra, làm hiển lộ con đường trước kia chưa từng hiển lộ,
là vị nhận biết con đường, hiểu rõ con đường và là vị thiện xảo
trong con đường. Và giờ đây, này các Tỳ kheo, hàng đệ tử là
người đi theo con đường của Như Lai. Này các Tỳ kheo! Đó là nét
đặc biệt, sự đặc thù để phân biệt Như Lai, bậc A la hán, vị
chứng ngộ hoàn toàn với các Tỳ kheo đã giải thoát.
Vì vậy, đức Phật không chỉ là vị A la hán với vài điểm đặc
biệt, mà chính những nét đặc biệt đó đã nâng Ngài lên tầm mức
phi thường, trở thành đấng vô thượng đạo sư của cả thế giới và
dĩ nhiên đứng trên tất cả các vị A la hán khác.
Do đó, A la hán là quả vị tối thượng của người đi trên con
đường giải thoát giác ngộ. Ngược lại, Đại thừa chủ trương A la
hán chỉ là sự chứng đắc nửa đường tức là hóa thành mà cứu cánh
tối thượng phải là đạt thành Phật quả tức là thành Phật (bảo
sở). Mặc dù giáo lý Thập Địa xuất hiện đầu tiên trong kinh Thập
Địa Giải Thuyết Luận (Dasabhaùmivibhàsà Sàstra) của Long Thọ,
nhưng ý nghĩa của nó chưa rõ ràng, chỉ có một vài yếu tố về Thập
Địa được đưa ra. Khi kinh Hoa Nghiêm được thành lập thì kinh mới
có một phẩm riêng nói về Thập Địa của một vị Bồ tát. Đó là phẩm
Thập Địa. Nhưng mãi đến thời đại của Vô Trước, Thế Thân thì giáo
lý Thập địa mới đạt đến trình độ cao nhất. Thập địa là mười giai
vị trong quá trình tu hành của người đệ tử Phật trên con đường
tiến đến quả vị Phật. Địa nghĩa là trụ xứ, sinh thành.
Kinh Đại Phẩm Bát Nhã có giải thích về Cộng Thập Địa mà Thiên
Thai tông gọi là Thông Giáo Thập địa tức là 10 địa chung cho cả
ba thừa.
1) Càn Huệ địa: Giai vị này chỉ có Tuệ mà chưa có Định,
tương đương với Tam Hiền vị của Thanh Văn và Giác vị của Bồ tát
từ Sơ phát tâm cho đến trước khi được Thuận Nhẫn.
2)
Tinh địa:
Giai vị tương đương với Tứ Thiện Căn vị của Thanh Văn và Thuận
Nhẫn của Bồ tát tức là tuy đắm trước thật tướng các pháp nhưng
không khởi tà kiến, đầy đủ trí tuệ và thiền định.
3)
Bát Nhân địa:
Tương đương với Tu Đà Hoàn hướng trong 15 tâm kiến đạo của Thanh
Văn và Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ tát.
4)
Kiến địa:
Tương đương với Tu Đà Hoàn và giai vị Bất thoái chuyển
(A-bệ-bạt-trí) của Bồ tát.
5)
Bạc địa:
Là giai vị của các vị Tu Đà Hoàn hoặc Tư Đà Hàm. Cũng chỉ cho
giai vị Bồ tát đã đoạn các phiền não, nhưng vẫn còn các tập khí
mỏng tức là giai vị Bất thoái chuyển trở lên cho đến trước quả
Phật.
6)
Ly Dục địa:
Là giai vị hết phiền não, tương đương với quả A Na Hàm và giai
vị Bồ tát ly dục chứng được ngũ thần thông.
7)
Dĩ Tác địa:
Là giai vị được tận trí, vô sanh trí, chứng được quả A la hán
của hàng Thanh Văn hoặc giai vị thành tựu Phật địa của Bồ tát.
8)
Bích Chi Phật địa:
Tức hàng Duyên giác quan sát pháp 12 nhân duyên mà thành đạo.
9)
Bồ tát địa:
Chỉ cho giai vị từ Càn Huệ địa cho đến Ly Dục địa ở phần trước
hoặc từ Hoan Hỉ địa cho đến Pháp Vân địa tức là giác vị từ sơ
phát tâm cho đến trước khi thành đạo.
10)
Phật địa:
Giai vị hoàn toàn đầy đủ các pháp của chư Phật, thành tựu Nhất
thiết chủng trí.
Trong khi đó kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa nói lên mười giai vị
của Bồ tát là:
1) Hoan hỷ địa (Sơ địa) (Pramudità): Khác với lý
tưởng của Nguyên thủy là tìm sự giải thoát Niết bàn cho riêng
mình thì ở đây Đại thừa giới thiệu một lý tưởng cao đẹp hơn nhằm
giúp cho tất cả mọi chúng sinh giải thoát mọi phiền não vô minh.
Khi diệt được các pháp tướng mê lầm, chỗ giác ngộ đã đến cùng
tột, diệt trừ được phân biệt ngã chấp, pháp chấp nên tâm bắt đầu
có được pháp lạc nên mới gọi là hoan hỷ địa tức là sơ địa.
2)
Ly cấu địa
(Uimada): là giác vị lìa bỏ tâm sai lầm, phá giới, phiền não
cấu.
3)
Phát quang địa
(Prabhàkari): đến đây Bồ-tát thấu biết tánh vô thường của tất cả
vạn vật trong thế gian vũ trụ nên nội tâm càng thanh tịnh thì
trí tuệ càng sáng suốt.
4)
Diệm huệ địa
(Arcismati): trong giai đoạn này, Bồ-tát bắt đầu thực hành sự an
nhiên tự tại và cắt dứt những thứ ô nhiễm, vô minh. Đến giai vị
này hành giả đã lìa bỏ kiến giải phân biệt, dùng lửa trí tuệ
thiêu đốt củi phiền não nhờ đó mà ngộ được bản thể trí tuệ. Lúc
ấy trí tuệ được sáng suốt tỏ tường và dĩ nhiên sự giác ngộ được
viên mãn.
5)
Nan thắng địa
(Sudurjayà): Đến đây, Bồ-tát bắt đầu phát huy tinh thần bình
đẳng đồng nhất và giác ngộ nhờ vào thiền định giúp Bồ-tát biết
thấu suốt tục đế và chân đế viên dung bất nhị. Giác vị này đã
thành tựu trí xuất thế gian, nương vào năng lực phương tiện tự
tại mà cứu độ các chúng sinh khó cứu độ.
6)
Hiện tiền địa
(Abhimukhi): Khi vào được giai đoạn này, Bồ-tát sẽ trực diện với
thực tại và sẽ ý thức được sự đồng nhất của tất cả mọi hiện
tượng. Và bấy giờ Bồ-tát sẽ nhận biết rằng vô vi chân như hoàn
toàn không nhiễm, không tịnh, thường hằng hiện tiền tức là tự
tánh của chân như hiện rõ có được đại trí.
7)
Viễn hành địa
(Dùrangamà): Đến đây Bồ-tát có đủ dữ kiện để tiến vào giải thoát
Niết bàn, nhưng họ dừng lại vì còn trách nhiệm cứu giúp tất cả
chúng sinh cùng được giải thoát như mình. Họ biết rằng đến đây
tất cả đều là chân như, không có gì không phải là chân như, vô
cùng vô tận.
8)
Bất động địa (Acalà):
Đến đây Bồ-tát thấu biết rốt ráo sự bất sinh của tất cả hiện
tượng vạn hữu trong thế gian. Khi đã trải qua “vô sanh pháp
nhẫn” Bồ-tát thấu biết sự tiến hóa và thoái hóa của nhân sinh vũ
trụ. Vì vậy, tâm Bồ-tát thường trụ không thay đổi, tuyệt đối
không bị phiền não làm lay động.
9)
Thiện huệ địa
(Sàdhumti): Đến đây Bồ-tát có thể phát hiện ra vô số thân để hóa
độ chúng sinh với đấy đủ bốn trí vô ngại. Đó là Ý thức thành ra
Diệu Quan Sát Trí, tiền ngũ thức thành ra Thành Sở Tác Trí, Mạt
na thức trở thành Bình Đẳng Tánh Trí và A Lại da thức sẽ thành
Đại Viên Cảnh Trí. Bồ tát dùng năng lực vô ngại để thuyết pháp,
hoàn thành hạnh lợi tha và trí tuệ được tự tại.
10)
Pháp vân địa
(Dharmameghà): Khi Bồ-tát công phu đầy đủ, công đức trí tuệ và
từ bi viên mãn có thể che chở cho vô lượng chúng sinh thì gọi là
nhập vào Pháp vân địa tức là Thập địa Bồ-tát vậy. Lúc ấy Bồ tát
được đại pháp thân, có năng lực tự tại.
Đến đây Bồ-tát đã có đồng một giác tánh bình đẳng với Như Lai
nên gọi là Đẳng giác Bồ-tát. Sau cùng Bồ-tát chỉ cần giác ngộ
sinh tướng vô minh thì tức thì chứng được Nhân địa Như Lai tức
là đạt được Diệu giác. Bồ-tát chuyển Dị Thục thức thành ra Bạch
Tịnh thức rồi vào Kim Cương địa mà phát sinh Nhất thiết chủng
trí, Nhất thiết chủng
trí, tùy duyên hóa hiện, độ thoát chúng sinh mà không rời tự
tánh thanh tịnh Niết bản cho đến tột đỉnh nhân quả đồng thời là
hoàn thành Phật đạo tức là thành Phật. Đây là luận thuyết của
trường phái Mật tông dựa theo hai bộ kinh Đại Nhật và Kim
Cương.
Chưa hết lần lượt các vị Phật được tin là hiện hữu khắp mọi nơi
trong không gian hiện hữu. Về hướng Đông có Phật A Súc tức là
Phật không bất động. Hướng Tây có Phật A Di Đà. Hình tượng Phật
A Di Đà có rất nhiều điểm tương đồng với thần mặt trời của nước
Iran (Ba Tư). Có lẽ do nguồn gốc từ đế quốc Kushana ở vùng biên
giới giữa Ấn Độ và Ba Tư. Và dĩ nhiên còn hằng hà vô số những vị
Phật khác nữa trong thế giới vũ trụ.
Phật giáo Đại thừa được chia làm hai trường phái triết học chính
là phái Trung Luận của triết gia Long Thọ và phái Du già của sư
Vô Trước.
Tại Ấn Độ, những kinh điển liên quan đến Đại thừa hoàn toàn bị
thất lạc, có lẽ do sự tàn phá hũy diệt tất cả những tu viện lớn
của đạo quân Hồi giáo vào thế kỷ thứ 12. Ngày nay chỉ còn những
bản dịch sang Hoa ngữ, Nhật ngữ và Tạng ngữ vẫn còn được lưu
giữ. Vào năm 1833, ông Brian Houghton Hodgson được cử làm đặc sứ
tại Kàthamandu ở Nepal cho đến năm 1843. Trong thời gian ở tại
Nepal, ông phát hiện được 381 cuốn kinh Phật bằng Phạn văn
nguyên bản. Điều đặc biệt là kinh Phật bằng tiếng Phạn rất khác
với kinh điển tiếng Pali và kinh tiếng Phạn này lại rất giống
với các bộ kinh Phật giáo tại các nước Trung Hoa, Nhật Bản và
Tây Tạng. Trong số những Phạn kinh có bộ Trung Luận (Madhyamaka
Sàtra) của Long Thọ và bản chú thích Minh Cú Luận (Prasannapadà)
của Nguyệt Xứng (Candrakìrti).
Phái Trung Quán được thành lập bởi ngài Long Thọ vào những năm
150 sau dương lịch. Ngài được xem là một trong những kỳ tài vào
thời đại đó của xứ Ấn Độ. Chính tư tưởng Trung Quán là xương
sống cho Phật giáo Đại thừa khi truyền sang Trung Hoa và cũng là
yếu chỉ cho Phật giáo Mật tông Tây Tạng. Triết lý Trung Quán
Luận là một học thuyết biện luận đưa đến sự hoài nghi tất cả mọi
hiện sinh và cho rằng tất cả mọi sự vật đều là giả tạo vì chúng
không có tự tánh, không có chủ thể. Vì thế con đường giải thoát
là phải buông bỏ hết cho đến khi chỉ còn lại cái tánh không
tuyệt đối thì lúc ấy giải thoát sẽ được đạt đến.
Khi đức Phật còn tại thế, giáo lý của ngài là con đường Trung
đạo hay Bát Chánh đạo. Trung đạo không phải là con đường nằm
giữa hai thái cực mà con đường vượt lên hai thái cực. Trung có
nghĩa là bất nhị, là tuyệt hết đối đãi, là đạo trung hòa không
thiên lệch bên này bên kia. Đức Phật đã giải thích con đường
Trung đạo như sau:
-Từ bỏ hai cực đoan đó, Như Lai đã chứng ngộ “Trung đạo”
(Majjhima Patipada), là con đường đem lại nhãn quan (cakkhu),
tri kiến (nana) và đưa đến an tịnh (vupasamaya), trí tuệ cao
siêu (abhinnaya), giác ngộ (sambhodhaya) và Niết bàn.
-Trong
kinh Chuyển Pháp Luân, đức Phật xác định rằng con đường Trung
đạo cũng chính là Bát Chánh đạo. Đức Phật lại dạy rằng:
-Hỡi này các Tỳ kheo! Con đường Trung đạo mà Như Lai đã chứng
ngộ, con đường đem lại nhãn quan, tri kiến, trí tuệ cao siêu,
giác ngộ, Niết bàn là gì?
-Đó chính là Bát Chánh đạo: là Chánh kiến (samma ditthi),
Chánh tư duy (samma samkappa), Chánh ngữ (samma vaca), Chánh
nghiệp (samma kammanta), Chánh mạng (samma ajiva), Chánh tinh
tấn (samma vayama), Chánh niệm (samma sati) và Chánh định (samma
samadhi). Hỡi này các Tỳ kheo! Đó là “trung đạo” mà Như Lai đã
chứng ngộ.
Tám trăm năm sau đó, tuy Long Thọ phát triển nền triết học
khác dựa vào tư tưởng “tánh không”, nhưng ngài vẫn dùng danh từ
trung đạo mà đức Phật đã xiễn dương cho dù triết học của ngài là
Trung Quán hoặc Trung Luận gồm hơn 400 bài tụng tán ca.
Dựa theo triết lý Trung Quán, Long Thọ đã giới thiệu lý tưởng
“PHÁP THÂN” và sau đó Vô Trước của phái Du Già Hành Tông
(Duy Thức) đề ra khái niệm về “BÁO THÂN”. Long Thọ phủ
nhận quan niệm của Nguyên thủy về đức Phật lịch sử cho rằng đức
Phật cũng bắt đầu bằng thân phận bình thường của một con người,
cũng chia sẻ tất cả mọi hệ lụy của kiếp người. Ngài cũng phải
đương đầu với sanh, lão, bệnh, tử như tất cả mọi chúng sinh
khác. Sau cùng, Ngài tìm kiếm một con đường giải thoát và đạt
đến hạnh phúc Niết bàn, chứng đắc trí tuệ viên mãn và thoát ly
sinh tử luân hồi. Ngài chỉ rõ cứu cánh này cho mọi người biết và
những ai đi theo con đường này cũng sẽ đạt đến cứu cánh tối
thượng giống như Ngài. Vì thế đức Phật là vị A la hán đầu tiên
của tất cả các vị A la hán. Ở đây, Long Thọ cho rằng đức Phật
lịch sử chỉ là ứng thân của Phật vào trong thế giới Ta Bà
để cứu độ chúng sinh. Vì vậy dựa theo Long Thọ, đức Phật không
phải là một nhân vật lịch sử, mà đức Phật chân chính là một thực
thể siêu việt, vượt hiện thế, vĩnh hằng và vô hạn tức là “Pháp
thân”. Cho nên đức Phật lịch sử chỉ là nhân vật được “đức
Phật chân chính” gởi đến với thế gian để tạo thành một nhân
vật có hình thể là một con người, có một đời sống sinh hoạt
giống hệt như một con người thường tục để thuyết giảng Chánh
Pháp cho nhân thế. Do đó đức Phật đã thành Phật từ vô
lượng kiếp trước chớ không phải mới thành Phật tại thế giới này
nhờ công phu tu thiền định. Từ quan điểm này mới phát sinh ra
tín ngưỡng trong Phật giáo Đại thừa.
Ở Ấn Độ trường phái Du Già được gọi là Du Già hành tông, nhưng
tại Trung Hoa và Việt Nam thì thường gọi là Duy thức tông hay
Duy thức học. Nói chung cả hai trường phái Trung quán tông của
Long Thọ và Du Già hành tông của Vô Trước, Thế Thân đều cùng
chung một ý niệm rằng tất cả vạn hữu trên thế gian này được tạo
thành đều không có tự tánh cho nên không có vật gì trường tồn
bất biến cả. Tư tưởng Du Già đã bắt đầu hình thành vào thời Long
Thọ, nhưng mãi đến mấy thế kỷ sau triết lý này mới được
phát huy đến mức tận cùng bởi Vô Trước và người em là sư Thế
Thân. Phái Du Già tin vào chủ nghĩa “duy tâm siêu hình”
mà theo đó tâm thức sáng tạo ra đối tượng của nó nhờ vào những
năng lực tiềm ẩn nội tại. Thế Thân lý luận rằng tất cả vạn hữu
trong thế giới hữu vi này mà con người biết được, trong thực tế
đều chỉ là cấu trúc của tâm thức bởi vì những vật thể đó cũng
chỉ là sự thông giải do tâm trí của con người đặt ra. Dưới mắt
các học giả Tây phương, Du Già là một triết học mang tính duy
tâm chủ nghĩa (idealism) vì nó lấy sự thông giải tâm thần các
kinh nghiệm của con người làm điểm phát xuất. Nói cách khác, tâm
thức tự nó hiện hữu mà không cần có bất cứ đối tượng nào. Sự
giải thoát chỉ có thể thực hiện được khi nào con người có thể
tạo ra được một nhận thức thuần túy nghĩa là chỉ thuần có tâm
thức và không lệ thuộc vào phạm trù đối đãi của nhị nguyên.
Chẳng những Vô Trước là nhà biện luận xuất sắc, sư có người em
là Thế Thân tài trí cũng không kém. Công trình chính của Thế
Thân là hệ thống hóa tư tưởng Du Già hành tông của sư huynh Vô
Trước thành Duy thức tông và là tác giả cuốn Duy thức tam thập
tụng mà một trong những công dụng là giải thích những khúc ẩn
trong bát thức tâm vương, đặc biệt là Mạt-na thức và A-lại-da
thức. Ngài Huyền Trang đến Ấn Độ tu học vào thế kỷ thứ 7 tại tu
viện Na Lan Đà đã chú giải bộ Duy Thức Tam thập tụng của sư Thế
Thân và khi về lại Trung quốc đã dịch lại là Thành duy thức
luận.
Dựa theo tư tưởng Trung Quán của Long Thọ và Du Già của Vô
trước thì chúng ta đang sống trong cái thế giới đa dạng và phong
phú với những hóa tướng, tập tục và truyền thống cho nên nó đã
thối thúc con người đi tìm sự bí mật về chân tướng của sự vật,
cái thực tại tuyệt đối. Họ khẳng định rằng cái thực tại này
chính là ở ngay trong những hóa tướng này. Trong khi Nguyên thủy
chỉ chú trọng vào Tứ Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo), phái Du Già (Duy
Thức) của Vô Trước chú trọng đến tam tánh (viên thành Phật tánh,
y tha khởi tánh, biến kế sở chấp tánh) thì Trung Quán tông của
Long Thọ đưa ra những lý luận rất sâu sắc về Nhị Đế (Tục Đế,
Chân Đế). Trong tác phẩm Trung Quán Luận, Long Thọ viết rằng:
-Vì chúng sinh, chư Phật đã y cứ vào Nhị Đế (hai chân lý) để
thuyết giảng giáo pháp. Nhị Đế đó là Thế Tục Đế và Đệ Nhất Nghĩa
Đế (Chân Đế).
-Nếu người nào đối với Nhị Đế mà không có khả năng tri nhận,
phân biệt để liễu giải toàn vẹn sự hổ tương quan hệ của nó thì
kẻ đó không thể tri nhận được ý nghĩa chân thật của giáo pháp
sâu xa vi diệu của chư Phật. (Trung Luận XXIX.8,9).
Trong tác phẩm “Bảo Tàng Tri Kiến” , ngài Thế Thân giảng giải
rằng:
-Một sự vật sau khi bị hủy hoại hay được tách rời những đặc
tánh của chúng ta, khiến tri thức của ta không còn nhận ra chúng
thì sự vật đó được coi là thuộc về Tục Đế. Ngược lại là những sự
vật thuộc về Chân Đế.
Từ đó, Tục Đế được định nghĩa là:
-Đó là một hiện tượng giới mà nếu khi chúng bị hủy hoại về
mặt vật chất hay tách rời các đặc tánh của chúng ta, những nhận
thức về chúng không còn hiện hữu nữa..
Và Chân Đế được định nghĩa như sau:
-Ðó là một hiện tượng giới mà nếu khi chúng bị hủy hoại về
mặt vật chất hay tách rời những đặc tánh của chúng ra thành
những phần khác, những nhận thức về chúng không bị loại trừ.
Ngài Thế Thân cho rằng sắc pháp là một thí dụ của Chân Đế.
Trong cuốn Bảo Tàng Tri Kiến, Thế Thân giải thích như sau: “Ngay
cả khi sắc được phân ra thành các phân tử cực kỳ vi tế, hoặc các
đặc tánh của nó được phân ra thành các hiện tượng giới chẳng hạn
như mùi vị, sự nhận biết về bản tánh của sắc vẫn tồn tại.” Nếu
ta hủy diệt sắc trên bình diện vật lý biến nó trở thành những
vật thể khác thì kết cục những phần này tự nó cũng vẫn là sắc,
và như vậy ý thức nắm bắt về sắc vẫn không bị loại trừ. Ngay cả
nếu ta có khả năng cô lập từng đặc tánh cá biệt của sắc như mùi,
vị, xúc, v.v..., ý thức nắm bắt về sắc vẫn tồn tại, bởi vì mỗi
một đặc tánh này lại là một sắc.
Tóm lại, phái Du Già chú trọng về mặt tâm lý và tin rằng cái
tuyệt đối nếu đứng về phương diện thực dụng thì có thể được diễn
tả như là tâm, ý hay thức. Do đó, lý thuyết của Du Già là một
thứ chủ nghĩa duy tâm siêu hình. Hai trường phái Trung
quán và Du già rõ ràng là hoàn toàn khác biệt nhau về con đường
cũng như cứu cánh giải thoát cho nên sự tranh cải giữa hai tư
tưởng thường hay xảy ra. Đối với những người tin theo phái Trung
luận thì cho rằng giáo lý của phái Du Già có vẽ như là một sự
sai lầm, quá ảo tưởng nên không thể hiểu được. Trong khi đó,
phái Du Già xem giáo lý Trung luận chỉ là điểm khởi đầu, nhưng
đã đi chênh lệch đường hướng chân lý và cốt tủy bí truyền của
Phật giáo. Long Thọ phát triển những giáo lý thâm diệu của “tánh
không” từ Văn Thù Sư Lợi, trong khi đó Vô Trước và Thế Thân đi
theo con đường “Duy thức” của Bồ Tát Di Lặc.
Sở dĩ tư tưởng Như Lai tạng được thành lập là vì Đại thừa muốn
thuyết minh cái “khả năng tánh” thành Phật tức là cái “bản giác”
đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Đặc biệt tư tưởng A lại
da thức được ra đời với chủ đích thuyết minh cái khuynh hướng
trở về cảnh “ngộ” mà những kinh Lăng Già và kinh Mật Nghiêm lấy
nó làm trung tâm điểm. Mặc dù tư tưởng Như Lai tạng và A lại da
thức được ra đời sau Long Thọ, nhưng những tư tưởng đó đã manh
nha ngay từ trong những tư tưởng của Thượng tọa bộ và Đại Chúng
bộ. Tư tưởng Như Lai tạng phát xuất từ thuyết “Tâm tính bản
tịnh” của Đại chúng bộ và A lại da thức có rất nhiều điểm tương
quan với thuyết “Sinh cơ - Sinh mệnh” của Thượng tọa bộ.
Sau thời đại của Long Thọ, trong những kinh Giải Thâm Mật,
kinh A-Tỳ-Đạt-Ma Đại thừa có khuynh hướng giới thiệu tư tưởng
Như Lai Tạng và A lại da thức, nhưng trên thực tế về ý nghĩa các
kinh đó vẫn chưa đạt chỗ triệt để. Mãi đến khi sự xuất hiện và
thông giải của Vô Trước và Thế Thân thì ý nghĩa của nó mới được
thấu hiểu tột cùng.
Hãy nghe lời giải thích của Thế Thân về A-lại-da thức như sau:
-Dòng chảy của các biến cố tâm thần mà bạn trải nghiệm, để lại
hạt mầm (chủng tử) của nghiệp trong thức lưu trử nên gọi là Tàng
thức (A-lại-da thức). Các hạt mầm được tồn trử trong nhà kho đó
cho tới sau cùng, khi hội đủ các điều kiện thích đáng, chúng
chín muồi và rồi ảnh hưởng lên các biến cố về sau.
A-lại-da thức chứa đựng mọi kinh nghiệm trong kiếp sống của
mỗi con người và nguồn gốc của tất cả các quan niệm tinh thần.
Theo quan niệm của Pháp tướng tông thì A-lại-da thức là nơi tập
hợp mọi nghiệp quá khứ rồi tới một thời đểm nhất định, tác động
lên kiếp tái sinh. Và cá thể thật ra chỉ là dòng sinh diệt tiếp
nối của vô số chủng tử của nghiệp. Do đó, trong ta không có một
bản ngã cố định.
Nếu dựa trên lập trường Duy Tâm Luận của Vô Trước, Thế Thân
thì A-lại-da thức là nguồn gốc của vạn hữu, là nơi nương tựa của
vạn vật, là nguyên lý của mỗi cá nhân và cũng là nguyên lý của
vũ trụ. Mặc dù Vô Trước, Thế Thân lấy A lại da thức làm trung
tâm để biện chứng rằng tất cả đều do thức biến hiện, nhưng tư
tưởng này tức là “Tam giới duy tâm” đã có trong Hoa Nghiêm thức
rồi. Nhưng quan trọng hơn hết và cũng là chủ đích của Du
Già Phật giáo là làm thế nào để chuyển hóa A lại da thức hữu lậu
trở thành chủng tử vô lậu nghĩa là chủng tánh Bồ-tát tức là đắc
thành Phật quả. Tiến trình này rất phức tạp thường được
gọi là “Ngũ trùng duy thức quán” nghĩa là dùng
pháp quán tưởng để soi vào nội, ngoại tướng phần, kiến phần tâm
vương, tâm sở, thức tướng dần dần đi từ thô đến tế sau cùng đến
được chân như. Nói cách khác, hành giả phải lấy Thập địa làm nền
tảng, phá trừ hết phiền não chướng và sở tri chướng, tiêu diệt
cho hết tất cả những chủng tử tập khí khiến cho tất cả chủng tử
hữu lậu trong A lại da thức hoàn biến mất mà chỉ còn lại độc
nhất cái trí tuệ vô lậu thuần khiết.
Vậy thế nào là A lại da thức?
A lại da là âm của tiếng Phạn Alaya có nghĩa là cái kho mà
danh từ Hán-Việt gọi là tàng. Tất cả mọi chủng tử không phân
biệt thiện ác, tốt xấu, sanh tử và niết bàn, mê ngộ và khổ vui,
ngay cả vô ký đều được chứa đựng trong tàng thức này. A lại da
thức có khả năng tiếp nhận, duy trì và làm các hạt giống chủng
tử trăng trưởng, chuyển biến cho đến khi đầy đủ nhân duyên thuần
thục chín mùi thì mới được đi tái sanh vào những thế giới thích
hợp với căn nghiệp của mình. Tùy theo nghiệp lực của mỗi chúng
sinh mà được thọ sanh vào trong lục đạo hoặc sinh về những cõi
trời trong những cõi Sắc giới và Vô sắc giới. Nếu nhân trong A
lại da thức chứa nhiều chủng tử thiện thì khi đầy đủ nhân duyên
chín mùi thì sẽ chuyển biến và hiện khởi ra quả báo là người hay
là trời. Ngược lại nếu chứa nhiều chủng tử bất thiện thì sẽ hiện
khởi ra quả báo trong ba đường ác là súc sanh, ngạ quỷ và địa
ngục. Vì các sự huân tập và chuyển biến trong A lại da thức thật
tiềm ẩn và vi tế nên người chưa đắc đạo không thể biết được mình
sẽ thọ thân làm loài gì và ở trong quốc độ nào.
Thức thứ tám này cũng còn được gọi là A-đà-na thức. Vậy cái
tên này xuất xứ từ đâu?
Trong kinh Giải Thâm Mật có bài tụng rằng:
A-đà-na thức thậm thâm tế
Tập khí chủng tử như bộc lưu
Ngã ư phàm ngu bất khai diễn
Khủng bỉ phân biệt chấp vi ngã
Dịch là:
Thức A-đà-na rất thậm thâm và tế nhị
Các tập khí chủng tử của nó sinh diệt như dòng nước thác
Ta
(Phật) đối với chúng phàm phu và nhị thừa không nói thức này
Vì sợ chúng phân biệt chấp làm ngã.
Thức này là căn bản của chơn và vọng vì thế thánh phàm đều
nương ở nơi đây. Do đó thức A-đà-na rất thâm sâu và tế nhị. Nó
chứa nhóm các tập khí chủng tử từ vô thỉ đến nay. Nó làm chủ giữ
gìn báo thân của hữu tình chúng sinh sống trong một thời kỳ.
Cũng như dòng nước thác, ở xa thấy như điềm tịnh mà kỳ thật nó
chảy rất mau. Chẳng những chúng phàm phu không biết mà ngay cả
hàng Tiểu thừa Thanh văn cũng mê lầm thức này. Đức Phật đối với
hai hạng này chẳng hề giảng nói đến thức A-đà-na vì sợ họ mê lầm
chấp làm Ngã.
A-đà-na thức còn được tìm thấy trong Nhiếp Đại thừa luận, Hiển
dương thánh giáo luận, Thành Duy Thức luận và Du Dà Sư Địa luận…
Trong Thành Duy Thức Luận quyển ba giải thích thức A-đà-na có
ba công năng như sau:
1) Giữ gìn (chấp trì) chủng tử của các
pháp: Các pháp nói ở đây là chỉ cho tất cả các pháp hữu vi. Đó
là “hữu lậu hữu vi” tức là các pháp tạp nhiễm thuộc về chúng
sinh và “vô lậu hữu vi” tức là các pháp thanh tịnh thuộc về
Thánh hiền. Tuy nhiên “chủng tử” chỉ có công năng tiềm tàng (ẩn
núp) mà không khởi hiện. Nếu không có một cái gì để chứa giữ thì
chủng tử của các pháp phải bị tản mất. Nếu chủng tử các pháp bị
tản mất thì các pháp hiện hành ở thế gian và xuất thế gian cũng
chẳng còn. Do đó phải có thức A-đà-na, tánh vô phú vô ký, nhất
loại sinh diệt tương tục mới có thể duy trì chứa giữ chủng tử
của các pháp.
2)
Giữ chịu
(chấp thọ) sắc căn và thế giới: Đây là muốn chỉ cho cái
công năng giữ gìn báo thân của chúng sinh hữu tình được tương
tục tồn tại trong một thời kỳ không tan hoại.
3)
Giữ lấy
(chấp thủ) việc kết nối đời sau:
Tức là “kiết sanh tương tục” là do ba pháp: phiền não,
nghiệp và sanh. Con người vì sống trong vô minh phiền não nên
tạo ra nghiệp mà phải kết nối đời sau để thọ khổ. Chữ “kiết
sanh” có nghĩa là thọ sanh tức là bắt đầu từ khi kết thai
cho đến lúc sanh ra vậy. Tiến trình kết nối đời sau bắt đầu từ
thân đang sống đến thân đang chết. Rồi từ thân đang chết đến
thân trung ấm (thân mới chết chưa đầu thai). Và sau cùng từ thân
trung ấm đến thân đời sau. Nếu các thân được tương tục không
gián đoạn như thế ắt phải có một cái gì thường lưu hành và giữ
gìn (chấp thủ). Cái đó chính là thức A-đà-na. Thật vậy, nếu
không có thức thứ tám này để nắm giữ việc “kết nối đời sau” thì
khi một người chết rồi phải mất luôn, không còn tái sanh được
nữa. Như thế thành ra bị rơi vào thuyết Đoạn diệt của ngoại đạo
rồi. Đây là câu trả lời cho vua Ba tư nặc về thuyết Đoạn diệt
của bọn ngoại đạo Ca chiên Diên.
Thêm nữa tất cả những chủng tử tốt xấu đều được gieo vào mảnh
đất A lại da trong trạng thái tiềm ẩn. Các chủng tử này được
huân tập, chuyển biến, tương sanh, tương duyên, tương diệt liên
tục. Tất cả những sự chuyển biến này xảy ra liên tục và tức
thời, chớp nhoáng và liên tiếp. Cái này diệt thì cái kia sinh,
tương tức tương tục liên miên bất tận nên được gọi là Sát Na
Sinh Diệt. Sát Na Sinh Diệt có thể được ví như những khối nước
liên tục chuyển động chảy trong dòng thác lũ. Khối nước trước đổ
qua thì có khối nước khác đổ tới, tiếp nối liên tục không ngừng
nghĩ và dĩ nhiên dòng nước cũ không thể chẩy trở lại nơi mà nó
đã chẩy qua. Sự sinh diệt triền miên đó cũng có thể ví như những
đợt sóng dạt dào trên biển cả. Đợt sống này đẩy đợt sóng kia,
đợt sóng mới đẩy đợt sóng củ. Bởi có gió vọng tưởng thổi sóng
dạt dào trên biển cả làm các ngọn sóng liên tiếp nhồi lên lặn
xuống không ngừng nghĩ cho nên ngọn sóng này diệt thì ngọn sóng
mới khởi sanh.
Khi chúng sinh biết tu tập làm cho tâm được thanh tịnh thì các
chủng tử vô lậu được huân tập, tăng trưởng và phát sinh ra hiện
hành. Các hiện hành này được huân tập trở vào thức A lại da
thành các chủng tử vô lậu mới. Tùy theo tánh chất của các chủng
tử vô lậu mới này mà chủng tử hữu lậu tiềm ẩn sẳn có trong tàng
thức bị suy thoái và tiêu diệt hoặc các chủng tử vô lậu sẳn có ở
trong đó được tăng trưởng và phát sinh thêm. Nếu chúng sinh trì
công tu tập có nghĩa là tiếp tục huân tập các chủng tử vô lậu
thanh tịnh đến khi tất cả các chủng tử và hiện hành hữu lậu hoàn
toàn bị tiêu diệt thì lúc đó họ sẽ chứng đắc được bát địa Bồ-tát
của Đại thừa. Đến đây thì tàng thức chỉ chứa toàn các chủng tử
vô lậu. Các hạt giống hữu lậu của phiền não, nghiệp báo luân hồi
sinh tử không còn nữa và A lại da thức bây giờ chuyển thành “Vô
cấu thức”. Vô cấu thức cũng còn cái tên khác là Yêm-ma-la thức,
Bạch tịnh thức, Thanh tịnh thức, Chân như thức, Như Lai tạng
thức hay thức thứ chín. Tuy có rất nhiều tên như thế nhưng chúng
quy cũng chỉ có một ý nghĩa “thanh tịnh”.
Tóm lại, một khi chúng sinh đạt đến quả vị bát địa Bồ-tát thì
các chủng tử hữu lậu làm chướng ngại chân tâm sẽ bị hủy diệt,
nhưng thật ra vẫn còn những chủng tử hữu lậu vi tế nằm tiềm ẩn
trong thức thứ tám này. Chỉ khi nào các vị bát địa Bồ-tát tiếp
tục tiến tu pháp tối thắng vô phân biệt trí, được gọi là Thắng
Pháp Không Quán, để vượt qua khỏi bậc Bồ-tát Thập địa mà đến bậc
Đẳng Giác và khởi Kim Cang Dụ Định mà đạt tới Phật quả thì thức
thứ tám này mới xóa tan hoàn toàn tất cả các vô lậu thậm thâm vi
tế và chuyển thành Ðại Viên Cảnh Trí. Khi đó các chủng tử vô
lậu, cấu nhiễm đã hết, thức này chuyển thành trí thanh tịnh
chiếu khắp mười phương các cõi nhiều như vi trần nên gọi là Đại
Viên Cảnh Trí. Đây chính là cái thể thanh tịnh của Chơn Tâm cũng
như mặt gương sáng chiếu soi tất cả vạn pháp một cách chân thật
mà nhà Phật gọi là “như thị bất khả tư nghì”.
Trường phái Du Già đã sáng tạo ra phần cuối cùng của giáo lý
về Tam thân Phật. Pháp thân là tuyệt đối, là chân lý. Báo thân
là thân Phật thị hiện cho các vị Bồ-tát và hàng thánh giả được
nhìn thấy và thuyết pháp cho họ nghe ở các cõi trời, tạo ra sự
vui thú và ưa thích các Pháp. Sau cùng Ứng thân là thân chúng
sinh có thể nhìn thấy thị hiện vào những thời điểm nhất định ở
thế gian, vốn là thân hư ảo do Phật hóa hiện ra để thực hiện
công việc hóa độ trên thế gian.
Vậy Phật giáo Nguyên thủy nhận định thế nào về giáo lý Đại thừa?
Phật giáo Nguyên thủy rất hoài nghi gần như miễn cưỡng khi đề
cập đến những tư tưởng Đại thừa, đặc biệt là Trung Quán của Long
Thọ và Du Già của Vô Trước. Nguyên thủy từ chối, không chấp nhận
những kinh điển Đại thừa chính là lời Phật dạy. Họ phủ nhận hoàn
toàn những kinh điển Đại thừa và cho rằng đây là những tác phẩm
“tưởng tượng”, một loại fiction giống như Harry Potter, của
những triết gia Vô Trước, Long Thọ.
Đối với Phật giáo Nguyên thủy, đức Phật là vị A la hán đầu
tiên và sau đó có biết bao vị A la hán cũng đắc đạo như đức
Phật. Đức Phật mô tả sự thành đạo của Ngài như sau: Trước hết
Ngài đắc Tứ thiền và sau đó trong canh ba của đêm ấy Ngài chứng
Tam minh, thành tựu Nhất Thiết Trí. Trong kinh Trung Bộ
(Majjhima Nikàya), Tập II,
71. HT Thích Minh Châu Việt dịch. Kinh dạy
Vacchagotta về Tam Minh (Tevijjavacchagotta sutta)như
sau:
-Này Vaccha, những ai nói như sau: “Sa-môn Gotama là bậc
nhứt thiết trí, là bậc nhứt thiết kiến”. Ngài tự cho là có tri
kiến hoàn toàn: "Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta
thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, liên tục". Thì đấy là họ nói
về Ta không đúng với điều đã được nói, họ đã vu khống Ta với
điều không thực, hư ngụy.
-Ông phải giải thích: "Sa-môn Gotama là bậc có ba minh
(tevijja)", thì này Vaccha, Ông mới là người nói về Thế Tôn đúng
với điều đã được nói, mới không vu khống Thế Tôn với điều không
thực, mới giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp, và mới
không có một đồng pháp hành nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ
để quở trách.
Dựa theo Phật giáo Nguyên thủy, khi hành giả đoạn diệt hết các
lậu, tâm trí sáng suốt, chứng được tam minh trở thành A la hán
và đây chính là cứu cánh tối hậu cho người đi trên con đường
giải thoát giác ngộ.
1)
Túc mạng minh,
Phật dạy rằng:
-Này Vaccha, khi nào Ta muốn, Ta sẽ nhớ đến nhiều đời sống quá
khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, hai mươi
đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một
trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp. Ta nhớ rằng:
"Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai
cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này,
tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi tại chỗ kia, ta được sanh
ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như
thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc
như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ
nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy Ta sẽ nhớ đến những đời sống
quá khứ, cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
2)
Thiên Nhãn Minh,
Phật dạy tiếp:
-Này Vaccha, nếu Ta muốn, với thiên nhãn thuần tịnh, siêu
nhân, Ta thấy sự sống chết của chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao
sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do
hạnh nghiệp của họ. Ta nghĩ rằng: "Thật sự những vị chúng sanh
này thành tựu những ác hạnh về thân, thành tựu những ác hạnh về
lời nói, thành tựu những ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh,
theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau
khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục. Còn những vị chúng sanh này thành tựu những thiện hạnh
về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những
thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến,
tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân
hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, Thiên giới, trên
đời này". Như vậy, Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy
sự sống chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rõ rằng chúng sanh,
người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may
mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.
3)
Lậu Tận Minh,
đức Phật dạy rằng:
-Này Vaccha, với sự đoạn diệt các lậu hoặc, Ta ngay trong hiện
tại, tự mình với thượng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú, vô
lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Và với sự giải thích: "Sa-môn Gotama là bậc có ba minh," này
Vaccha, người ấy mới là người nói về Thế Tôn đúng với điều đã
được nói, mới không vu khống Thế Tôn với điều không thực, mới
giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp, và mới không có một
vị đồng hành pháp nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ để quở
trách.
Khi được nói vậy, du sĩ Vacchagotta bạch Thế Tôn:
-Tôn giả Gotama, có thể có vị tại gia nào không đoạn trừ kiết sử
tại gia mà khi thân hoại mạng chung lại có thể đoạn tận khổ
đau?
- Này Vaccha, không có người tại gia nào không đoạn trừ kiết sử
tại gia mà khi thân hoại mạng chung lại có thể đoạn tận khổ
đau.
Đức Phật đã khẳng định rằng con người cũng giống như cái cây,
bóng cây hướng nào thì cây sẽ ngả về hướng đó nghĩa là sống mà
không đoạn trừ được kiết sử (tham sân si mạn nghi) thì chết sẽ
không bao giờ có được giải thoát. Do đó tôn chỉ của đạo Phật là
phải tự giác, tự độ ngay trong đời này, chớ đừng mơ ước ảo huyền
mà trông chờ mong đợi vào tha lực nào hết. Nếu đời này chưa
thành tựu thì những duyên lành đó sẽ đưa họ tiếp tục vào những
đời kế tiếp.
Khi đức Phật còn tại thế, một hôm Tỳ kheo Man Đồng Tử đặt ra
những câu hỏi siêu hình để hỏi Thế Tôn rằng:
1. Như Lai có tồn tại sau khi chết?
2. Như Lai không tồn tại sau khi chết?
3. Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?
4. Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?
Nếu Thế Tôn thấy và biết thì nói thấy và biết. Nếu không, trả
lời là không. Nếu các vấn đề này không được giải thích thỏa mãn,
ông ta cảnh báo sẽ từ bỏ phạm hạnh này, sẽ không theo Phật nữa.
Những câu hỏi trên là sản phẩm của tư duy nhị nguyên đầy ngã
tính. Trả lời những câu hỏi trên là chấp nhận thế giới là thường
hoặc là vô thường, v.v... như vậy là rơi vào chấp thủ: chấp
thường hoặc là chấp đoạn, hoặc chấp Năm thủ uẩn. Nhưng đức Phật
lại chủ trương trung đạo, đoạn tận ái, thủ. Do đó, Như Lai không
trả lời.
Rồi một chiều khác, Tôn giả Xá-lợi-phất đặt lại bốn câu hỏi
trên với Tôn giả Kiều-thi-ca (Mahà Kotthika) đã được Tôn giả
Kiều-thi-ca (Mahà Kotthika) trả lời rằng lý do Thế Tôn không trả
lời là:
-Chỉ với ai chưa đoạn trừ tham dục, tham ái đối với sắc, thọ,
tưởng, hành và thức mới có quan điểm Như Lai có tồn tại sau khi
chết, hoặc Như Lai không tồn tại sau khi chết, v.v...
-Chỉ với ai còn ái lạc Hữu, ái lạc Thủ, ái lạc Ái thì mới có
những quan điểm "Như Lai còn tồn tại sau khi chết”.
Tuy đức Phật không giải thích, nhưng một hôm Tỳ kheo ni Khemà
cắt nghĩa cho vua Ba tư nặc như sau:
-Bởi vì Thế Tôn đã đoạn tận gốc rễ sắc, thọ, tưởng, hành và
thức, làm cho như cây ta-la bị chặt đứt không thể tái sanh trong
tương lai. Như Lai là thâm sâu vô lượng, đã giải thoát ước lượng
của sắc, của thọ, của tưởng, của hành và của thức, nên không thể
định nghĩa Như Lai ngang nhiên chấp nhận sự kiện cho rằng: Như
Lai có tồn tại sau khi chết. Tương tự, không thể chấp nhận sự
kiện Như Lai không tồn tại sau khi chết v.v..
Khác với những triết gia Long Thọ, Vô Trước và Thế Thân cố tìm
ra những triết lý, luận thuyết để giải thích những hiện tượng về
thế giới siêu hình, ở đây đức Phật vẫn điềm nhiên im lặng không
trả lời cho Tỳ kheo Man Đồng Tử. Không phải là Ngài không biết,
không thể trả lời, nhưng đó không phải là cứu cánh của đạo Phật.
Do đó thay vì trả lời những câu hỏi siêu hình của tôn giả Man
Đồng Tử, đức Phật kể cho ông ta nghe câu chuyện một người bị mũi
tên độc. Đối với Phật giáo khi thấy một người bị nhiễm tên độc
thì vấn đề cấp thiết là giải phẩu để giải độc ngay mà cứu sống
họ. Còn vấn đề tìm cho ra ngọn ngành mũi tên và người bắn mũi
tên thì không quan trọng. Bởi vì nếu không lo cứu chữa, thì
người trúng tên độc sẽ chết trước khi biết được tông tích của
hung thủ. Do đó vấn đề cấp thiết của con người và cũng là trọng
tâm của đạo Phật là nhỗ mũi tên “khổ đau” chớ không phải
đi tìm những câu trả lời cho các vấn đề siêu hình không thiết
thực.
Đối với đạo Phật, thời gian là vô thường nên Xuân qua Hè đến
có trôi qua nhanh hoặc tuy khoa học ngày nay tiến xa rất nhiều
có thể đưa con người gần gủi với nhau hơn và dĩ nhiên trí thức
của nhân loại trong thế kỷ 21 đã được nâng lên rất cao, nhưng
nói chung nỗi khổ của chúng sinh trước sau vẫn không thay đổi,
chẳng những không giảm mà có lẽ còn tăng thêm. Tuy đức Phật dạy
chúng sinh biết đời là khổ, nhưng Ngài không bao giờ dạy chúng
sinh nên khước từ những lạc thú của trần gian, vào rừng tìm nơi
thanh vắng để tu hành. Nói cách khác giáo lý đức Phật đặt trên
nền tảng đau khổ, nhưng không bao giờ Ngài phủ nhận những lạc
thú trong đời. Bằng chứng trong bộ Tăng Nhất A Hàm có liệt kê
rất nhiều những hạnh phúc mà chúng sinh có thể thọ hưởng. Đức
Phật khuyên con người không tìm cách xa lánh những hạnh phúc vật
chất, nhưng hiểu biết rằng nó chỉ là tạm bợ nhất thời. Nói cách
khác, con người có quyền thọ hưởng những lạc thú vật chất nhưng
không làm nô lệ cho thể xác. Phật giáo dạy ta nên tận lực cố
gắng, kiên trì nỗ lực, luôn luôn giữ tâm trong sạch và thận
trọng thu thúc dục vọng. Khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, đức Phật
chứng được Lậu Tận Minh giúp Ngài tìm ra chân lý thoát khổ.
Chính lậu tận minh đã soi sáng cho Ngài thấu biết tường tận rốt
ráo tận nguồn căn gốc rễ của những nỗi khổ đau đã ẩn núp trong
tâm của con người và Ngài là người đầu tiên trong lịch sử nhân
loại đã tìm ra chân lý thoát khổ tức là chân lý Tứ Diệu Đế.
Không riêng gì đạo Phật chủ trương “Phật pháp tại thế gian không
lìa thế gian giác” mà ngay cả đức Khổng Tử cũng không bàn đến
chuyện siêu hình. Ngài dạy rằng: “Vi trí sinh, yên trí tử” nghĩa
là chưa biết hết được chuyện sống, làm sao biết được việc chết.
Nói cách khác một người chưa chết mà nói vanh vách, rõ ràng rành
mạch chuyện của thế giới bên kia là người sống trong ảo tưởng,
hoang đường, thiếu thực tế (tưởng tri).
Chẳng những giáo lý Đại thừa không làm Nguyên thủy nao núng,
mà Nguyên thủy tiếp tục phát triển truyền thống giáo lý riêng
của mình, chủ yếu là làm sáng tỏ thêm những hàm nghĩa trong bộ
luận A-tỳ-đạt-ma của họ và dĩ nhên vẫn duy trì hệ thống Ngũ Bộ
Kinh Nakiyas. Việc biên soạn và hệ thống hóa bộ luận này phải
mất hết gần bốn thế kỷ đầu công nguyên. Đến đây, Nguyên thủy đạt
đến mức hoàn hảo nhất trong việc hoàn chỉnh lại kinh điển và cứ
thế cho đến nay kinh điển Nguyên thủy gần như không có gì thay
đổi cả.
Hiện nay, Phật giáo Nguyên thủy có đủ Ngũ Bộ Kinh Nikayas bằng
tiếng Pali là:
1)
Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya) gồm 36 phẩm trong 3 phần.
2)
Trung Bộ Kinh (Majjhima) gồm 153 phẩm.
3)
Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya) gồm 56 chương xếp
theo từng loại chủ đề.
4)
Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara) các phẩm đánh số theo thứ tự
các con số.
5)
Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) gồm 15 kinh trong đó có
kinh Pháp Cú và các bài kệ của tăng ni đả đạt thánh quả A la
hán. Các kinh này phát xuất từ nhiều bộ phái trước khi Nguyên
thủy bị phân hóa, dù phần lớn vẫn được xem là Nguyên thủy.
Phật giáo vào thời Nguyên Thủy chỉ có Kinh tạng và Luật tạng.
Mãi sau thời kỳ phân chia các bộ phái thì Luận tạng mới được
thêm vào và bộ A-tỳ-đàm được xem là bộ luận dành cho Nguyên
Thủy. A-tỳ-đàm là bộ thuyết minh rộng về giáo nghĩa của Phật
giáo Bộ Phái tức là Phát Trí Luận và Lục Túc Luận của A-tỳ-đàm
Tạng.
Nói chung các bộ kinh thuộc hệ Nguyên Thủy nói về Chân lý Tứ
Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên chứa đựng trong ngũ bộ
kinh Nikayas. Còn các bộ luật của Phật giáo Nguyên Thủy từ xưa
đã có 5 bộ: Tứ Phần của Đàm-vô-đức, luật Thập tụng của
Tát-bà-đa, luật Ngũ Phần của Di-sa-tắc-bộ, luật Giải Thoát của
Ca-Diếp-di và luật Ma-ha-tăng-kì của Ma-ha-tăng-kì.
Trong khi đó, viết bằng tiếng Phạn (Sanskrit) có kinh tương
đương với Ngũ Bộ Kinh Nikayas là kinh A Hàm (Agamas), được biên
tập khoảng 5 thế kỷ sau khi đức Phật nhập diệt. Sau đó kinh A
Hàm được dịch sang chữ Hán. Agamas có nghĩa là truyền thừa.
Nguyên bản tiếng Phạn đã mất dấu tích vì bị đạo quân Hồi giáo
hũy diệt. Nhưng các bản dịch chữ Hán, chữ Nhật, chữ Tây Tạng vẫn
còn.
1) Trường A Hàm (Dirgha-Agama) (30 kinh) tương đương với Trường
Bộ Kinh (Pali).
2) Trung A Hàm (Madhyamagama) gồm 222 kinh, tương đương với
Trung Bộ Kinh.
3) Tạp A Hàm (Samyuktagama) gồm 1361 kinh, tương đương với Tương
Ưng Bộ Kinh.
4) Tăng Nhất A Hàm (Ekottarragama) gồm 481 kinh tương đương với
Tăng Chi Bộ Kinh.
5) Ksudraka-Agama tương đương với Tiểu Bộ Kinh.
Kinh điển Phật giáo Đại thừa có rất nhiều, nhưng đại để cũng
thuộc về năm loại chính sau đây:
1) Bát Nhã (Prajnaparamita – Perfection of Wisdom) gồm trên 600
quyển mà Bát Nhã Tâm Kinh (Heart Sutra) là cốt tủy và kinh Kim
Cang là kinh rút gọn lại. Học giả Tây phương gọi Bát Nhã là The
Mother of all Mothers.
2) Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka-Flower Ornament) có ba bộ lớn mà
một bản có tên là Gandavyuha (World Array Sutra).
3) Kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti Sutra) nhấn mạnh vai trò của cư
sĩ Bồ-tát Duy Ma Cật.
4) Kinh Đại Niết Bàn (Nirvara-Parinivara) diễn tả lại những ngày
cuối cùng của đức Phật trước khi Ngài nhập diệt.
5) Kinh Pháp Hoa (Sadharma pundarila – The Lotus Sutra), Kinh
Lăng Già (Lankavatara) và Kinh A Di Đà hay Vô Lượng Thọ
(Sukhavati –vyuha).
Mặc dù kinh điển chỉ được thực hiện bằng chữ viết lần đầu tiên
sau lần kết tập kinh điển lần thứ tư khoảng năm 70 trước công
nguyên nghĩa là gần trên 500 năm sau khi đức Phật nhập diệt. Tuy
thế mức độ khả tín của Ngũ Bộ Kinh Nikayas (Pali) tương đối khá
cao dù trong quá trình truyền miệng qua nhiều thế hệ thì thế nào
cũng có chuyện sai lạc ít nhiều, tam sao thất bản là chuyện
thường. Trong khi đó, mức độ khả tín của kinh điển Đại thừa trầm
trọng hơn nhiều. Vì sự tiêu hoại những tu viện lớn ở Ấn Độ bởi
người Hồi giáo nên kinh điển Đại thừa bản gốc không còn dấu tích
ở Ấn Độ mà chỉ có các bản dịch ở Tây Tạng hay ở Trung Hoa. Ngay
cả giới luật cũng sai khác rất nhiều bởi vì lúc khởi nguyên,
đoàn thể tăng già Đại thừa chưa được thành lập nên chưa có giới
luật. Về sau, khi các đoàn thể tăng già được thành lập như ở tu
viện Nalanda, Vikramasila, giới luật mới dẩn dần được thiết
lập.
Có một điểm khá tế nhị khác là những tác phẩm nổi tiếng của
các luận sư khởi xướng Đại thừa ở Ấn Độ thì được xếp vào luận
như: Đại Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh; Trung Quán Luận và Đại
Trí Độ Luận của Long Thọ; Đại Thừa Nhiếp Luận Tông, A Tỳ Đạt Ma
Tập Luận, Du Già Sư Địa Luận của Vô Trước ngay cả tác phẩm của
Tổ Bồ-đề Đạt Ma là Tuyệt Quán Luận (Đạt Ma Tổ Sư Luận). Trong
khi đó, ở Trung Hoa tác phẩm của Lục Tổ thì gọi là Pháp Bảo Đàn
Kinh?
Dựa theo học giả Mizuno, kinh Bát Nhã tương truyền là do sư
Long Thọ chế biến từ thế kỷ thứ 2 sau công nguyên rồi sau đó
những kinh điển khác như Pháp Hoa cũng lần lượt ra đời. Ở Ấn Độ
sự tranh chấp giữa Nguyên thủy và Đại thừa có phần quyết liệt vì
Nguyên thủy cho rằng Đại thừa đem những tư tưởng tín ngưỡng, thờ
đa thần của Ấn Độ giáo vào để phá hoại giáo pháp chính thống của
đức Phật vốn không hề có tín ngưỡng. Nhắc lại, một nguyên
nhân lớn lót đường cho sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ là Ấn Độ
giáo (Hindu là hậu thân của đạo Bà la môn) đã thần thánh hóa Đức
Phật và họ còn đưa ra một số thần và nữ thần Ấn Độ giáo vào làm
các vị thần Phật giáo dưới dạng những Bồ-tát làm cho Phật giáo
không còn khác biệt với các thần thánh của Ấn Độ giáo. Chính
điều này đã xóa tan sự khác biệt giữa hai tôn giáo và họ chứng
minh rằng Phật giáo chỉ là một tông phái của Ấn Độ giáo.
Nhưng ở Trung Hoa, đoàn thể tăng già lại chấp nhận kinh điển
Đại thừa như phản ảnh lời dạy chân thật của đức Phật mà không hề
có nghi vấn dựa theo tiến trình phát triển lịch sử. Phật giáo
Đại thừa Trung quốc không dựa theo giới luật Nguyên thủy mà dựa
vào kinh Phạm Võng, một kinh được xem như là tác phẩm của Trung
Hoa. Mizuno viết tiếp, ở Trung Hoa có một số tăng như Huệ Tạo,
T’an Le và Seng Yuan chỉ trích những kinh Bát Nhã, kinh Pháp Hoa
và kinh Đại Bát Niết Bàn nhưng các sư này bị bịt miệng ngay,
không cho phép nói lên sự thật.
Nhắc lại, Bản Khai Nguyên Thích Giáo Lục do ngài Trí Thăng
biên soạn năm 730 sau công nguyên là bản mục lục ghi lại tất cả
rất chi tiết những kinh được dịch từ nguyên bản tiếng Phạn sang
chữ Hán là 1076 kinh. Trong đó có đến 392 là kinh giả và 14 kinh
khác có nguồn gốc đáng nghi ngờ. Như thế số kinh giả và không
đáng tin cậy đã chiếm đến một phần ba. Nếu con số nêu trên là
đúng thì kinh điển Đại thừa thật sự có vấn đề. Để có một ý tưởng
rõ ràng về chân hay giả, hãy quay về nghe lại những lời đức Phật
dạy trong kinh Kalama rằng:
"Không được tin bất cứ gì Ta nói là đúng, chỉ vì đấy là do
Ta nói. Trái lại phải mang ra thử nghiệm những lời giáo huấn của
Ta giống như một người thợ kim hoàn thử vàng. Nếu sau khi quán
xét các lời dạy của Ta mà nghiệm thấy là đúng, thì lúc ấy mới
nên mang ra thực hành. Dầu sao thì nhất định cũng không phải là
vì kính trọng ta mà mang ra thực hành".
Do đó muốn tự mình nhận biết kinh nào phát xuất từ kim khẩu,
kinh nào do người sau sáng chế thì chỉ có một con đường duy nhất
là nghiên cứu đọc kỹ lại Ngũ Bộ Kinh NiKayas rồi so sánh với
những kinh điển Đại thừa. Nếu giáo lý nào không có trong Ngũ Bộ
Kinh thì phần đó được chư Tổ thêm vào ở những thế hệ về sau. Mặc
dù chư Tổ có những kiến giải rất thâm sâu về thế giới siêu hình
về vũ trụ, nhưng kiến giải của chư Tổ không thể nào so sánh với
trí tuệ Chánh Biến Tri của đức Phật được. Bằng chứng là cần trải
qua nhiều thế kỷ và nhiều thế hệ, những tư tưởng về thế giới
siêu hình Như Lai tạng và A lại da thức mới được hoàn chỉnh. Tuy
thế cho đến ngày nay những tư tưởng này vẫn chưa đồng nhất về lý
thuyết cũng như cách hành trì. Ngược lại chân lý cứu khổ do đức
Phật nói ra cách nay trên 2500 năm lúc nào cũng đúng, ở đâu cũng
đúng, bất cứ ai cũng có thể áp dụng được, không có gì huyền bí
cả. Giáo lý đức Phật là đơn giản, không phức tạp, dễ áp dụng,
nhưng thực hành để thành tựu trí tuệ Bồ-đề thì không dễ đòi hỏi
hành giả phải có một ý chí sắc đá để viễn ly. Viễn ly những thói
hư tật xấu, viễn ly những tham đắm dục tình, viễn ly những tham
vọng đê hèn, viễn ly những ý nghĩ bất thiện… Nói chung, hành giả
phải viễn ly cho hết những dục vọng tham-sân-si, tẩy sạch hết
tập khí ngã mạn. Càng viễn ly thì con người càng gần với an lạc
thanh tịnh Niết bàn. Đức Phật dạy chúng sinh đời là bể khổ vì
Ngài thấy biết như thế, nếu đức Phật là đấng thần linh thì Ngài
chì cần niệm “Úm ba di bát nhị hồng” rồi phảy cái phất trần thì
thế gian làm gì còn đau khổ. Biết đời là bể khổ, con người lặn
hụp trong biển trầm luân, nhưng chính Ngài không thể hóa giải
nỗi khổ của chúng sinh mà mỗi người phải tự mình giải thoát ra
khỏi mọi gông cùm của phiền não khổ đau mà giáo lý đức Phật
chính là tấm hải đồ giúp chúng sinh đến được bờ an lạc.
NamMô Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật
Lê Sỹ Minh Tùng
HẾT
∆ TOP |