Phẩm
DƯỢC THẢO DỤ
Dược là thuốc trị bệnh, thảo là thảo mộc (cỏ
khô) cũng ví như chúng sinh thế tục. Ở đây, đức Phật lại đưa ra
một thí dụ nữa lấy dược thảo là những cây thuốc làm ví dụ để
chửa bệnh thân và tâm của chúng sinh. Ngày xưa không có thuốc
chế bằng chất hóa học như thuốc Tây ngày nay, mà bằng những rễ
cây khô đủ loại thường được hiểu là thuốc Nam hay thuốc Bắc.
Trong phẩm Tín Giải, các Tôn giả Đại Ca Diếp,
Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề và Ca Chiên Diên trình bày sự kính mộ về
lòng đại từ bi và năng lực thiện xảo của đức Phật qua ẩn dụ về
anh chàng Cùng khổ. Các ngài thấu hiểu đức Phật dùng phương tiện
để dẫn dắt chúng sinh tùy theo khả năng và trình độ thể chứng
của họ, nhưng cứu cánh vẫn là Nhất thừa Phật đạo.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ông Ca-diếp và
các đại đệ tử:
-Tốt
lắm, Ca-diếp ! Ông khéo nói được công đức chơn thật của Như
Lai. Đúng như lời các ông, Như Lai còn có vô lượng vô số công
đức khác, dù các ông có nói suốt ức kiếp đi nữa cũng không hết
được.
-Ca-diếp,
nên biết ! Như Lai là vua của các pháp, nói ra lời gì đều không
sai không dối. Đối với tất cả các pháp Phật dùng sức trí
tuệ và phương tiện mà diễn nói. Pháp Phật nói phát xuất từ
“Nhất thiết chủng trí”. Như Lai biết chỗ quy thú của tất cả
pháp; rõ biết tâm hành của chúng sanh và thường đem trí tuệ mà
chỉ bày cho.
Trong mười đại đệ tử Phật, Tôn giả Phú Lâu Na
là vị giảng sư rất nổi tiếng. Mỗi khi đức Phật thuyết ngắn gọn
hoặc khó hiểu thì tôn giả giảng giải rộng nghĩa cho tất cả mọi
người. Vì thế ngài rất nổi tiếng là người nói pháp rất giỏi và
rất dài nên được đức Phật công nhận là đệ nhất thuyết pháp. Tôn
giả thuyết pháp siêu tuyệt như thế không phải là do ngài có khoa
ăn nói, cũng không phải là ngài phải có kiến thức thâm sâu về
Phật pháp mà Tôn giả có khả năng quán căn cơ của mình. Quán căn
cơ ở đây là thấy biết được căn cơ, chủng tánh của đối tượng
nghĩa là khả năng và kiến thức của đối tượng tới mức nào thì
ngài chỉ thuyết đến mức đó, không thiếu không thừa. Đối tượng có
kiến thức thấp thì không nói cao làm họ chới với, đối tượng cao
thì không nói thấp khiến họ chán nản.
Sự phát triển trí tuệ dựa theo Phật giáo Đại
thừa là tùy theo khả năng nhận biết chân tướng của nhân sinh vũ
trụ.
1)Đối với phàm nhân
thì họ nhìn cuộc đời, thế gian vũ trụ bằng nhục
nhãn tức là bằng đôi mắt thịt nghĩa là cái gì có hình sắc, kích
thước, âm thanh, mùi vị…thì họ cho là thật. Họ tin thân mình là
thật nên còn chấp ngã, tin thế gian vũ trụ là thật nên còn chấp
pháp. Vì còn chấp ngã, chấp pháp nên tham-sân-si, mạn nghi, tà
kiến phát tác mà tạo ra nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời.
2)Nhất Thiết Trí:
Các vị Thanh văn không nhìn đời bằng nhục nhãn như phàm nhân mà
họ nhìn thế gian bằng Pháp nhãn. Họ thấy thân mình là không
thật, là tạm bợ, là dơ dáy, là cội nguồn của những nỗi khổ nên
họ cố tu để chứng đắc giải thoát Niết bàn. Chẳng những nhìn thân
mình không thật mà họ còn nhìn cả thế gian vũ trụ cũng không
thật nên chán ngán cuộc đời và tránh xa bụi trần ô nhiễm. Vì thế
hàng Thanh văn không còn chấp Ngã tức là có Ngã Không,
nhưng vì còn thấy có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có
đạo quả Bồ-đề để đắc nên họ vẫn còn chấp Pháp tức là Pháp có.
Cho nên cái trí tuệ của họ không phải là trí tuệ giải thoát tự
tại mà vẫn còn dính mắc của Pháp nên trí tuệ nầy là Nhất Thiết
Trí.
3)Đạo Chủng Trí:
Đối với các vị Bồ-tát thì họ nhìn thế gian vũ trụ bằng Tuệ nhãn
tức là họ hành thâm bát nhã ba-la-mật để thấy rằng ngũ uẩn là
không. Dưới mắt của họ thì thế gian vũ trụ là do duyên khởi tạo
thành nên tất cả đều là giả huyễn, là không thật, là Không. Vì
ta là giả, là không thật nên họ có ngã không. Ta không thật thì
người và thế gian vạn vật cũng không thật nên họ có pháp không.
Vì thế dưới mắt của Bồ-tát thì thế gian vũ trụ là Không. Mặc dù
biết thế gian là Không, nhưng Bồ-tát vẫn còn chấp cái Không nên
tâm không được hoàn toàn tự tại và trí tuệ chưa hoàn toàn sáng
suốt triệt để nên cái trí tuệ nầy gọi là Đạo Chủng Trí.
4)Nhất Thiết Chủng Trí:
Hàng Thanh văn thì chấp “Pháp Có” và các vị Bồ-tát thì vẫn còn
chấp “Không”. Nếu bây giờ bỏ được chấp Pháp có và chấp Không tức
là không còn chấp có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có
quả vị Bồ-đề để thành và không còn chấp thế gian vũ trụ là Không
thì có được trí tuệ viên mãn, dung thông tự tại mà nhà Phật gọi
là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Chủng Trí thì thấy vạn pháp
là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không nhưng không phải là
không của cái trống không. Vì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên
vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã chia ly thì vạn pháp
diệt. Thế thì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên sanh sanh diệt
diệt, diệt diệt sanh sanh mà người được Nhất Thiết Chủng Trí thì
luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh của hiện tượng
vạn pháp nên không cần phải tiêu cực như hàng Thanh văn và cũng
không cần phủ nhận tất cả như các vị Bồ-tát mà phải thấy vạn
pháp nầy có mà không phải có thật. Mặc dầu không phải có thật mà
hiện giờ nó vẫn có vì thế nên người có Nhất Thiết Chủng Trí làm
bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù
chúng sinh là không có thật. Đây chính con đường trung đạo dung
thông giữa cái Có và cái Không và chỉ có Phật mới đạt được cái
trí tuệ nầy.
Đức Phật xác định với Tôn giả Đại Ca Diếp
rằng Ngài là vua của các Pháp. Lời nói của Như Lai là chân thật,
không bao giờ hư dối nghĩa là nói có là thật, nói không cũng là
thật, nói Tiểu thừa là thật mà nói Đại thừa cũng là thật. Đối
với tất cả các pháp, đức Phật luôn dùng trí tuệ, dùng phương
tiện thiện xảo mà diễn bày chánh pháp, nhưng tựu trung vẫn nhắm
thẳng vào một mục đích tối hậu là đưa người tu đạt được nhất
thiết chủng trí. Đức Phật là bậc toàn
giác nên Ngài biết nguyên nhân nào dẫn dắt chúng sinh đi trong
vòng sinh tử luân hồi, nhân nào đưa chúng sinh đến chỗ giải
thoát Niết bàn. Ngài quán thấy tận cùng cội nguồn của các pháp
hữu vi sinh diệt và pháp vô vi thanh tịnh bất sanh bất diệt xuất
thế gian. Từ đó Ngài thấy biết rất rốt ráo rõ ràng tâm sở hành
của chúng sinh tức là nguyện vọng sở cầu của chúng sinh cho nên
việc độ sinh không bị chướng ngại. Vì thế Ngài mới là vua của
các pháp, là bậc y Vương, là bậc đáng được thế gian tôn kính.
-Ca-diếp!
Ví như trong cõi tam thiên đại thiên đất đai sông núi sanh ra
cây cối lùm rừng và các thứ cỏ thuốc, chủng loại, tên gọi, màu
sắc đều khác. Một vầng mây đen, bủa giăng trùm khắp và mưa xuống
khắp nơi nhuần thắm. Cây cối, lùm rừng, các thứ cỏ thuốc, cây
lớn, cây vừa, cây nhỏ, thứ nên thuốc, thứ không nên thuốc,
tùy hạng thượng, trung, hạ mà hấp thụ nước khác nhau. Một
vầng mây tuôn mưa, tùy giống loại mà sanh trưởng, đơm bông kết
trái. Dù một cõi đất sanh, một trận mưa thấm mà cây cỏ đều sai
khác.
Thế giới chúng ta đang sống nằm trong Thái
Dương Hệ chỉ có một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, bốn
châu thiên hạ. Một ngàn thế giới như thế là một tiểu thiên thế
giới. Một ngàn tiểu thiên thế giới trở thành trung thiên thế
giới và sau cùng một ngàn trung thiên thế giới mới thành một đại
thiên thế giới. Thế mà kinh nói trong cõi tam thiên đại thiên
thế giới nghĩa là có đến ba ngàn tỷ thế giới chúng ta đang sống.
Ở trong sơn, hà, đại địa, mặt đất sinh ra đủ
loại cây cối, hoa, cỏ màu sắc, tên gọi khác nhau. Tinh thần Pháp
Hoa là tinh thần bình đẳng cho nên Phật ví dụ ở đây cũng thế.
Cho dù thế giới có rộng biết bao, bầu trời che phủ khắp ba ngàn
tỷ thế giới vẫn như nhau, mưa xuống cũng đều như nhau. Tất cả
cây cối từ nhỏ đến lớn, bé nhất là những loài cỏ và to lớn như
những cây đại thụ cũng từ đất sinh ra và cũng nhận nước của trận
mưa rưới đều. Cây lớn có thân lớn rễ lớn thì hấp thụ nước nhiều
hơn, cây nhỏ có thân nhỏ rễ nhỏ thì dĩ nhiên hấp thụ nước ít
hơn. Tuy hấp thụ lượng nước ít nhiều khác nhau, nhưng tất cả cây
cỏ đều phát triển hay đơm hoa kết quả như nhau. Ở đây, kinh ví
dụ ba loại cây cỏ dược thảo khác nhau. Loại cây cỏ lớn ví như
tâm hồn, tư tưởng của các bậc Bồ tát, những cây cỏ bậc trung ví
cho tư tưởng của hàng Duyên Giác và sau cùng những cây cỏ, loại
dược thảo nhỏ bé ám chỉ cho tư tưởng của hàng Thanh Văn. Cho dù
có ba loại cây cỏ, loại dược thảo khác nhau từ lớn đến bé, nhưng
tất cả cũng đều hưởng những giọt nước mưa như nhau mặc dầu ba
loại cây cỏ đó hấp thụ nước mưa trưởng dưỡng khác nhau bởi vì
căn tánh khác nhau, chủng tánh khác nhau. Thậm chí ngoài ba loại
cây cỏ từ bé xíu đến to lớn ở trên còn có những loài cỏ cây
không phải là dược thảo mà là những loài cỏ dại, lùm rừng ví như
hạng bạc địa phàm phu cũng vẫn tiếp nhận được những giọt mưa như
những loài cây khác mà không mang lại sự lợi ích gì cho thế gian
nghĩa là họ cũng nghe chân lý từ đức Phật, nhưng suốt đời vẫn
chìm đắm trong lục dục thất tình, lấy khổ làm vui nên lăn lộn
trong sinh tử luân hồi.
Đức Phật ví dụ căn cơ của chúng sinh có cao
có thấp cũng như cây cỏ có giống nhỏ giống lớn. Nhưng tất cả cây
cỏ cũng từ đất sinh ra cũng như chúng sinh tuy có căn tánh bất
đồng, nhưng ai ai cũng đều có Tri Kiến Phật giống y như Phật.
Mưa là ám chỉ cho giáo pháp đức Phật dạy chung cho tất cả chúng
sinh. Chúng sinh vì căn cơ không đồng, kẻ cao người thấp nên sự
nhận biết sâu hay cạn chớ Phật pháp bình đẳng không cao không
thấp. Do đó, căn cơ chúng sinh sai biệt nên pháp trở thành sai
biệt. Thí dụ trong một pháp hội, vị pháp sư thuyết giảng nhưng
có người nghe rất thích thú say mê còn có người buồn chán buồn
ngủ. Vị pháp sư chỉ giảng một âm thanh, một đề tài tức là Phật
pháp bình đẳng, nhưng sự lãnh thọ khác nhau nên kết quả không
giống nhau, kẻ thích người không.
Đến đây chúng ta thấy rằng Phật quở rầy Thanh
Văn, Duyên Giác mà tại sao trước đây Phật lại dạy thành Thanh
Văn, Duyên Giác? Tại sao chính Phật lại tự mâu thuẩn chính mình?
Đoạn kinh này giải thích rõ ràng rằng trước đây vì căn cơ chủng
tánh của họ còn thấp, chưa thể hấp thụ tư tưởng Đại thừa nên
Phật dùng phương tiện chỉ dạy họ thành Thanh Văn, Duyên Giác. Lý
do Phật quở là vì khi các vị thành Thanh Văn, Duyên Giác thì
tưởng mình đã thành tựu quả vị cứu cánh tối thượng nên không
muốn tiến tu nữa. Nhưng đối với đức Phật, bản hoài và nhân duyên
Ngài xuất hiện trên thế gian này là đưa chúng sinh tiến thẳng về
Đại thừa để hoàn thành Phật đạo chớ không dừng lại ở Thanh Văn,
Duyên Giác.
Lịch sử truyền pháp của đức Phật cũng thế,
Phật pháp vốn bình đẳng không sai khác, nhưng căn tánh chúng
sinh không giống nhau nên Phật mới nói pháp Thanh Văn, Duyên
Giác. Nhưng cho dù là ở cung vua phủ chúa hay mái tranh nghèo
của người nông phu, cũng như
cây đại thọ trong rừng già hay cộng cỏ bé xíu bên lề đường thì
cũng hấp thụ cơn mưa giống nhau. Cây lớn, cộng cỏ cũng từ đất
cũng như chúng sinh vốn đã có sẵn tri kiến Phật cho nên cây lớn
hấp thụ nhiều nước mưa hơn cộng cỏ, nhưng cả hai đều nhờ nước
mưa mới phát triển được nghĩa là nếu không có tri kiến Phật thì
không bao giờ có thể tu thành Phật. Cho dù hấp thụ nhiều nước
hay ít nước vì cây lớn hay cộng cỏ cũng như Tiểu thừa hay
Đại thừa, nhưng cứu cánh vẫn như nhau là tiến thẳng về Nhất thừa
Phật đạo để thành Phật. Trong đạo Phật, chỉ có một vị là vị giải
thoát cũng như nước mưa có một công năng là nuôi dưỡng các loài
thảo mộc, làm cho mọi loài được sinh trưởng. Pháp Phật cũng thế,
tuy Phật có nói tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng sinh diệt,
nhưng cứu cánh rốt ráo vẫn là đưa chúng sinh thành tựu nhất
thiết chủng trí tức là thành Phật.
Dựa theo tinh thần Phật giáo Đại thừa, chúng
sinh phải tin vào Phật tánh, vào Tri Kiến Phật, vào Chơn tâm
thường trú của chính mình cho nên nếu tu hành theo lời Phật dạy
là trở về với Chơn tâm, Phật tánh của mình toàn vẹn chớ Phật
không cho ai cái gì hết. Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo tự giác
cho nên chúng sinh không cần phải cầu nguyện, van xin, cầu lạy
ai hết bởi vì bớt được một phần phiền não có được một phần an
lạc Niết bàn, hóa giải được một phần vô mình thì có được một
phần trí tuệ thế thôi. Bằng chứng là trong kinh Lăng Nghiêm, khi
Phật thọ trai mà các tỳ kheo không no nghĩa là Phật ăn chỉ có
Phật no, còn tỳ kheo nếu muốn no thì phải tự mình đi khất thực
chớ Phật không làm phép cho họ được. Cũng như cả đời Tôn giả A
Nan tuy làm thị giả cho đức Phật mà không chịu tu Thiền na mà
chỉ lo học rộng hiểu nhiều cho đến lúc đức Phật nhập diệt vẫn
chưa chứng được Thánh quả A la hán. Do đó học Phật không thành
Phật được mà học Phật để rồi thực hành mới tu chứng thành Phật
được.
-Ca-diếp,
nên biết ! Như Lai hiện ra đời ví như vầng mây lớn nổi lên ấy.
Giữa trời, người, A-tu-la… trong ba ngàn thế giới,
Phật đường hoàng tuyên bố:
-Ta là đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Người chưa được độ thì làm
cho được độ. Người chưa tỏ ngộ thì làm cho ngộ. Người chưa an
thì làm cho an. Người chưa có Niết Bàn thì làm cho chứng. Đời
nầy và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc nhất thiết
trí, bậc nhất thiết kiến, là bậc tri đạo, bậc khai đạo, bậc
thuyết đạo. Hàng trời, người, A-tu-la đều nên đến để nghe và học
pháp.
Bấy giờ có vô số chúng sanh đến với Phật để nghe pháp. Như Lai
xét căn tánh thông minh hay ám độn, tinh tấn hay giải đãi, tùy
cơ, vừa sức mà nói pháp, khiến các chủng lọai đều được sự lợi
lành. Hiện đời được an ổn, lần lần tiến lên đường
đạo, đời sau được sanh vào quốc độ thánh thiện an vui.
Đến đây chúng ta thấy hình như đức Phật vẫn còn cái “Ta” tức là
tự khen mình, nhưng kỳ thật không phải như vậy chỉ vì đức Phật
muốn chỉ cho chúng sinh những công đức rộng lớn của đấng Như
Lai. Ngài đã làm lợi ích cho chúng sinh trong vô số kiếp mới
thành Phật. Đức Phật Thích Ca cũng phải tu hành trải qua ba A
tăng kỳ kiếp nghĩa là chính Ngài cũng phải thực hành Bồ-tát Vạn
hạnh rốt ráo để cứu độ chúng sinh trải qua hằng hà vô số kiếp
thì mới thành Phật. Vì thế Phật dạy rằng : ”Trong cõi
tam thiên đại thiên thế giới này, không có nơi nào mà không có
dấu chân ta và cũng không có chỗ nào mà không có xương ta để lại”.
Đây mới chính thật là cuộc hành trình vô cùng vô tận với tâm
nguyện cứu độ tất cả chúng sinh còn lặn hụp trong biển đời sinh
tử trầm luân của chư Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đến khi đạt được
đạo quả viên tròn. Do đó muốn thành tựu đạo quả Bồ-đề, chư
Bồ-tát phải trải thân ra cứu độ chúng sinh trong hằng hà vô
lượng kiếp thì mới thực hành Lục độ Vạn hạnh được viên mãn.
Thế nào là Như Lai? Tiếng Phạn là Thatãgata có thể chia làm hai
phần: Thứ nhất nghĩa là nương theo đạo Chân như để đến Phật quả
Niết bàn. Nghĩa thứ hai là từ Chân lý mà đến (như thật mà đến)
và thành Chánh giác. Vì đức Phật theo Chân lý mà đến và từ Chân
như mà hiện thân nên tôn xưng đức Phật là Như Lai.
-Ứng Cúng: Đáng được hưởng sự cúng dường của trời và người.
-Chánh Biến Tri: Biết vạn pháp duy tâm là chánh tri, biết tâm
sinh vạn pháp là biến tri.
-Minh Hạnh Túc: Có trí tuệ quang minh, tu hành công hạnh trọn
vẹn tròn đầy.
-Thiện Thệ: Đã đi đến nơi tốt lành.
-Thế Gian Giải: Thông hiểu mọi kiến giải của thế gian một cách
tự tại.
-Vô Thượng Sĩ: Bậc không ai sánh bằng.
-Điệu Ngự Trượng Phu: Bậc đại trượng phu điều phục và chế ngự
được tất cả chúng sinh.
-Thiên Nhân Sư: Thầy của chư thiên và loài người.
-Phật: Đấng hoàn toàn giác ngộ.
-Thế Tôn: Là bậc tôn kính ở thế gian và xuất thế gian.
Đức Phật có những đức hạnh và năng lực toàn hảo như thế khiến
cho chúng sinh chưa đạt được trạng thái tâm thức tự tại khi phải
đối đầu với những đổi thay của cuộc sống đạt được trạng thái tâm
thức tự tại. Khiến cho người chưa được Niết bàn có được Thường,
Lạc, Ngã, Tịnh tức là có được cái vui “Tịch diệt”. Đức Phật biết
hiện tại, quá khứ và cảnh giới vị lai đúng như sự thật. Ngài
biết mọi sự vật một cách hoàn hảo, hiểu rõ thực trạng của mọi sự
vật, thấy được con đường tu đạo để khai ngộ, giảng kinh thuyết
pháp, khai diễn mọi pháp môn tu hành. Những ai chưa đạt được
chứng ngộ sẽ đạt được chứng ngộ ấy. Đừng nên hiểu câu kinh “Người
chưa được độ thì làm cho được độ. Người chưa tỏ ngộ thì làm cho
ngộ. Người chưa an thì làm cho an. Người chưa có Niết Bàn thì
làm cho chứng” theo tinh thần tiêu cực là “Phật độ,
Phật cho, Phật thưởng” mà nên thấu hiểu trên phương diện tích
cực nghĩa là Phật giúp chúng sinh phương tiện, Phật nói giáo
pháp, Phật chỉ cách tu hành để chúng sinh đạt thành cứu cánh còn
thực hành hay không là tùy ở chúng sinh. Do đó, nếu chúng sinh
không y giáo phụng hành, không có ngộ, không có chứng, không có
Niết bàn thì họ phải chịu khổ thế thôi chớ Như Lai không hề đau
khổ. Đó là có đi mới có đến, có ăn mới no chớ người khác không
ăn cho mình no được. Vì thế Như Lai thương tất cả chúng sinh mà
như không thương ai hết, coi như không thương ai hết mà thương
tất cả. Có như thế thì tâm Ngài mới thường trụ Vô thượng Niết
bàn được chứ. Bằng không, thấy người khổ mình cũng khổ theo thì
làm gì còn Niết bàn. Cũng như ánh sáng mặt trời chiếu xuống thế
gian, ánh sáng chiếu rọi cùng khắp mà như không chiếu cho riêng
ai, không hề chiếu rọi cho ai mà chiếu soi cho tất cả.
Sau khi đức Phật nhập diệt, các đại đệ tử của Ngài ghi nhớ và
500 năm sau đó ghi chép lại thành tam tạng kinh điển truyền lại
cho đời sau. Nhờ đó tuy ngày nay, chúng ta không có duyên
đối diện với đức Thế Tôn, nhưng chúng sinh cũng được gặp Phật
pháp. Tuy chúng ta không tỏ ngộ như người xưa, không được Niết
bàn an vui vĩnh viễn như người xưa, nhưng người đệ tử Phật ngày
nay cũng có những giờ phút an lạc, cũng biết buông xả vật chất
giả tạm phù du mà không luống tiếc, cũng biết mở rộng tâm Bồ đề
để cứu giúp chúng sinh, cũng biết hướng dẫn mọi người cùng tới
chỗ an lạc tự tại. Khi tâm được tự tại thì chắc chắn thể chất
cuộc sống của con người tự nhiên sẽ thay đổi tốt hơn.
Phật nói Ngài là bậc Nhất Thiết Trí tức là trí tuệ Phật biết
cùng khắp tất cả. Ngài là bậc Nhất Thiết Kiến là thấy được tất
cả. Ngài là bậc Tri Đạo nghĩa là người hướng đạo để dẫn chúng
sinh đến nơi an lạc Niết bàn. Ngài là bậc Khai Đạo nghĩa là
người mở đường cho chúng sinh nương theo đó mà đi. Ngài là bậc
Thuyết Đạo tức là người nói con đường cho chúng sinh biết để đi.
Vì thế chúng sinh hãy đến để nghe, nghe rồi để biết, biết rồi để
tu hành mà thành tựu trí tuệ Bồ đề. Đức Thế Tôn thấu biết ai là
người độn căn, giải đãi, ai là bậc thượng trí lợi căn nên Ngài
tùy theo căn cơ chủng tánh của họ mà giảng nói để mọi người cùng
có lợi ích. Ngài không bỏ sót một ai, người thông minh Phật độ,
kẻ dại khờ Phật cũng độ, người siêng năng Phật độ, kẻ lười biếng
Phật cũng độ. Cho nên bất ai đến với Phật đều có lợi lành, thân
tâm được an ổn, cuộc sống thanh thoát nhẹ nhàng và dĩ nhiên
tương lai sẽ vô cùng tươi sáng ví cũng như đám mưa rưới khắp tất
cả cỏ cây, không phân biệt lớn nhỏ, tùy theo giống của mỗi loại
mà hấp thụ và từ đó phát triển đơm hoa kết quả.
Như Lai thuyết pháp chỉ có một tướng,
một vị, nghĩa là tướng giải thoát, tướng viễn ly, tướng Niết Bàn
tịch diệt, quy về tướng KHÔNG, rốt ráo đến bậc “ Nhất
thiết chủng trí”, vì Như Lai biết chủng tánh, thể tướng của
chúng sanh nhớ gì, nghĩ gì, tu gì, nhớ thế nào, nghĩ thế nào, tu
thế nào, Như Lai đều thấy biết đúng như thật, còn cây cối lùm
rừng cỏ thuốc không tự biết tánh thượng, trung, hạ của nó. Phật
biết như vậy, rồi xem xét tâm ưa muốn của từng đối tượng mà dắt
dẫn, cho nên không dạy liền cho chúng sanh về “Nhất thiết chủng
trí”.
Pháp Phật chỉ có một tướng, một vị là tướng
giải thoát, vị giải thoát. Con người có khổ, có biết bao phiền
não, có lặn hụp trong biển sinh tử cũng bởi vì không thể viễn
ly. Mà viễn ly cái gì?
Giáo lý đức Phật là đơn giản, không phức tạp,
dễ áp dụng, nhưng thực hành để thành tựu trí tuệ Bồ-đề thì không
dễ đòi hỏi hành giả phải có một ý chí sắc đá để viễn ly. Viễn ly
những thói hư tật xấu, viễn ly những tham đắm dục tình, viễn ly
những tham vọng đê hèn, viễn ly những ý nghĩ bất thiện…Càng viễn
ly thì con người càng gần với an lạc thanh tịnh Niết bàn. Khi đã
biết nó là những nguyên nhân của đau khổ, là những sợi dây trói
buộc thì con người chỉ cần buông xả, cắt bỏ thì đau khổ chấm
dứt, phiền não tiêu trừ. Nên quán rằng thật tướng của vạn pháp
là vô tướng tức là tướng Không nên lòng không dính mắc bởi vì
thế gian là phù du giả tạm, có đó rồi mất đó, duyên kết là có
duyên tan là mất không có chi là bền chắc cả. Vì thế tướng giải
thoát là tướng lìa xa tham sân si, phiền não, chấp trước, lìa xa
sắc, tài, danh, lợi. Tướng diệt là diệt sạch hết mọi vọng niệm
để tâm được thanh tịnh tự tại mà hướng đến bậc Nhất Thiết Chủng
Trí tức là trí tuệ viên mãn tròn đầy của đức Phật. Nhờ trí tuệ
này, Ngài biết tất cả nguyên nhân, nguồn gốc của vạn pháp, của
các loài từ hữu tình đến vô tình chúng sinh. Vì thế giáo lý Nhân
Duyên là Chân lý của đạo Phật. Trên thế gian này không có cái gì
tự nhiên mà có mà tất cả đều do nhân duyên kết hợp, tác tạo mà
thành. Đó là cái này cái kia tác động, duyên khởi sinh ra cái
nọ. Cứ như thế mà trùng trùng duyên khởi kiến tạo cái thế giới
hữu hình này. Trong Phật giáo, nhân quả là nói về thời gian
nghĩa là có nhân thì một ngày nào đó sẽ thành quả. Còn nhân
duyên là nói về không gian, có nhân duyên kết tụ thì sẽ có kết
quả hình thành. Khi cộng nhân quả và nhân duyên lại với nhau thì
có vũ trụ tức là bao trùm gồm cả không gian vô cùng vô tận và
thời gian vô thỉ vô chung.
Phật biết căn cơ chủng tánh chúng sinh, từ
độn căn đến thượng trí, nên Ngài chỉ dẫn dắt từng phần chớ chưa
thể đem trí tuệ của Phật ra dạy được. Một lần nữa, Phật xác định
có giáo lý tam thừa chỉ là phương tiện của Như Lai, nhưng có một
điều quan trọng là trong khi Như Lai dạy giáo lý tam thừa thì
vẫn có mầm của giáo lý Đại thừa trong đó chỉ vì chúng sinh không
hề để ý đến đó thôi.
Những gì đức Phật dạy phát xuất từ đời sống
kinh nghiệm và chứng đắc của bản thân vì thế Ngài dạy chúng sinh
những ý chí sắc đá, trí tuệ cao siêu, đức sống vị tha, sự thoát
ly và đặc biệt là sống đời gương mẫu làm lợi ích cho mình, cho
người. Con người vĩ đại đó, tấm lòng đại từ đại bi đại trí tuệ
đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã làm cho
thế giới kính phục Ngài như một đạo sư siêu việt nhất trong lịch
sử nhân loại. Đạo Phật là đạo thực hành nên đức Phật không dạy
chúng sinh những giáo lý ảo tưởng, hoang đường mà Ngài dạy những
phương trình, những công thức rất thực dụng để chúng sinh tùy
theo căn cơ, sở nguyện của mỗi người mà áp dụng để có thực
chứng. Càng loại bỏ các lậu hoặc, các tập khí con người càng an
lạc mà không cần phải cầu nguyện, cúng tế chi cả. Đức Phật khi
còn tại thế đã cực lực chống đối lối cúng tế nghi lễ phức tạp
của Bà la môn và tôn thờ thần thánh một cách mù quáng. Đó là một
trong những nguyên nhân đạo Phật ra đời để thổi một luồng sinh
khí mới vào trong xã hội phong kiến, đẳng cấp, kỳ thị của Ấn độ
lúc bấy giờ. Ngài xiễn dương tình thần khách quan bình đẳng qua
tư tưởng Pháp Hoa vì ai cũng đều có máu đỏ và nước mắt cùng mặn,
vì ai cũng có Tri Kiến Phật giống y như Phật cho nên thay vì kỳ
thị, xua đuổi thì con người nên gần lại
với nhau, cùng nhau xoa dịu những mãnh đời bất hạnh.
-Ca-diếp! Sự nhận thức của các ông hi
hữu. Các ông đã biết rõ Như Lai tùy cơ nghi nói pháp khó tin,
khó hiểu, nay mà các ông đã tin tốt và tiếp nhận tốt.
Đến đây, đức Phật tán thán các Tôn giả Đại Ca
Diếp, Ca Chiên Diên, Mục Kiền Liên và Tu Bồ Đề về sự hiểu biết
thâm ý của Như Lai. Đó là chỗ Phật tùy cơ nghi nói pháp cho nên
mới có tam thừa, nhưng cứu cánh vẩn là Phật thừa để đưa tất cả
chúng sinh cùng hướng về Phật quả.
Đức tin mà Phật nói ở đây là tin vào giáo lý
Phật Đà, tin vào lời dạy chân thật của đức Phật vì Ngài là người
đã chứng đạo thấy cứu cánh giải thoát giác ngộ, là vị thầy cao
cả và sau cùng tin rằng mình đi theo đúng con đường Phật vạch ra
thì sẽ có được giải thoát giác ngộ như Phật. Vì thế giáo lý đạo
Phật rất khó nghe, khó hiểu, khó tin, khó hành, nhưng nếu chúng
sinh nghe được, hiểu được, tin được và hành được thì đây chính
là sự cúng dường Phật, Pháp cao thượng nhất.
Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên
bằng một bài kệ:
Ca-diếp ! Ông
nên biết
Ta dùng các
nhân duyên
Và nói nhiều
thí dụ
Để chỉ bày
đạo Phật
Đó là phương
tiện của ta
Các đức Phật
cũng thế
Nay ta vì các
ông
Nói việc chân
thật nầy
Quả chứng của
Thanh Văn
Chưa phải
thật diệt độ
Đạo sở hành
của các ông
Phải là Bồ
tát đạo
Học tu tiến
lên dần
Tất cả sẽ
thành Phật.
Tóm lại, bản hoài của Phật là muốn tất cả
chúng sinh viên thành Phật đạo tức là thành Phật chớ không phải
tu theo Thanh Văn, Duyên Giác. Mà muốn đạt thành bổn nguyện đó,
chúng sinh phải trải thân hành Bồ Tát đạo, tu Lục độ Vạn hạnh
viên mãn, chuyển bánh xe Đại thừa.
∆
TOP |
NEXT
|