Phẩm
NGŨ BÁCH ĐỆ TỬ THỌ KÝ
Ở phẩm Thí Dụ, đức Phật đã thọ ký cho Tôn giả Xá Lợi Phất, rồi
đến phẩm Thọ Ký,
Phật lại thọ ký cho các ngài Đại Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Mục Kiền
Liên, Ca Chiên Diên. Bây giờ ở phẩm này, Phật mới thọ ký cho 500
vị đệ tử như các vị Phú Lâu Na, Kiều Trần Như…về sau sẽ thành
Phật.
Học về thọ ký, người đệ tử Phật đừng quá vội mừng rằng được đức
Phật quan tâm thương xót mà thọ ký cho ta sẽ được thành Phật ở
hằng sa kiếp đời sau. Nhưng ở đây người đệ tử Phật nên hiểu rằng
thọ ký là một nền giáo lý độc đáo, đặc biệt chỉ có trong tư
tưởng Đại thừa nhằm nói lên mọi người là Phật, trong mỗi người
đã có sẵn chất Phật cho nên Phật mới thọ ký được. Nếu trong mỗi
chúng sinh không có sẵn Tri Kiến Phật (chất Phật) thì Phật không
bao giờ dám thọ ký cho ai cả. Đức Phật không bao giờ vẽ bùa, làm
phép hay thương ai thì cho họ thành Phật được. Vì trong tất cả
mọi chúng sinh đã có sẵn chất Phật, nhưng vì bị che lấp bị vô
minh phiền não nên họ không nhận biết đấy thôi. Do đó nếu dựa
theo Chánh pháp tu hành, tiêu trừ hết vô minh lậu hoặc thì sẽ
thành Phật.
Ông Phú-lâu-na sau khi nghe Phật nói về
những phương tiện tùy cơ thuyết pháp lại nghe Phật thọ ký cho
các vị đệ tử lớn, lại nghe việc nhân duyên đời trước…và sức tự
tại thần thông của chư Phật trong lòng hớn hở bèn quỳ gối đảnh
lễ Phật và bạch rằng:
-Như Lai Thế Tôn thật là hi hữu, làm việc
khó làm, thuận theo tâm tánh của vô lượng chúng sanh mà thuyết
pháp cứu vớt. Chúng con không thể dùng lời nói tuyên bày cho hết
công đức của Thế Tôn. Nhưng xin Thế Tôn biết bổn nguyện trong
thâm tâm của chúng con.
Lúc đó, Tôn giả Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử tức
là Mãn Từ Tử nghe Phật thọ ký cho các đại đệ tử Xá Lợi Phất, Mục
Kiền Liên…nên trong lòng vui mừng vì nghĩ rằng chính mình đã
được Phật khen tặng là đệ nhất thuyết pháp, là một trong mười
đại để tử Phật thì thế nào Phật cũng thương xót thọ ký cho đời
sau sẽ thành Phật. Đó là tâm khao khát được thọ ký của Tôn giả.
Phật bèn nhắc công phu tu hành của ông
Phú-lâu-na ở các tiền kiếp:
-Rằng ở 90 ức đức Phật thuở quá khứ,
Phú-lâu-na từng hộ trì, phụ trợ tuyên bày chánh pháp của
Phật. Ông là người bậc nhất trong số người thuyết pháp thuở
đó. Về nghĩa “không” của các pháp ông thông suốt tận tường, đầy
đủ “bốn trí vô ngại”, thường hay suy gẫm sâu xa, nói pháp thanh
tịnh không chỗ nghi lầm. Tuy ông đầy đủ việc làm của
Bồ-tát, mà người thời bấy giờ đều hiểu ông là Thanh Văn
thật. Ông dùng phương tiện qua hình thức Thanh Văn mà làm lợi
ích vô số chúng sanh và giáo hóa vô số người khởi lòng tin vững
chắc nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Các Tỳ-kheo, ở vào thời bảy đức Phật
quá khứ, Phú-lâu-na cũng là bậc nhất trong hàng người nói pháp,
trong tương lai ông cũng là người bậc nhất và hộ trì truyền bá
chánh pháp của vô lượng vô biên chư Phật. Vì muốn xây dựng cõi
Phật thanh tịnh mà Phú-lâu-na thường tinh tiến giáo hóa chúng
sanh lần lần đầy đủ đạo Bồ Tát. Nhờ đó mà qua vô lượng kiếp sau,
Phú-lâu-na sẽ thành Phật, hiệu là Pháp Minh, lấy hằng sa
tam thiên, đại thiên thế giới làm thành một cõi Phật, lấy
bảy báu làm đất. Cõi nước bằng phẳng như mặt bàn tay, không núi
đồi, khe rãnh, gò nổng, ghồ ghề. Đài thất bảo dẫy đầy, cung điện
của chư Thiên gần với hư không, Trời, Người giao tiếp nhau và
đều thấy được nhau, không ba đường ác
(địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh) cũng không có người nữ.
Chúng sanh cõi ấy thần thông tự tại
chí nguyện bền chắc, tinh tấn và trí tuệ. Nhân dân nước ấy
thường sử dụng hai cách ăn: Một là “thiền duyệt”. Hai là
“pháp hỉ”.
Bồ tát cõi đó đông vô số, Thanh Văn
cũng vậy. Nước Phật tên là Thiện Tịnh. Kiếp tên Bảo Minh.
Phú Lâu Na sinh ra trong một gia đình thuộc
hạng giàu có ở Ấn Độ, nhưng khi lớn lên, ông nhận biết rằng ái
ân, tài bảo của thế gian là giả tạm, có lúc biệt ly tan rã. Chỉ
có một điều quan trọng nhất của cuộc đời là cầu cho mình thấu
biết một chân lý tối thượng nên mới quy y theo Phật. Vì trong
nhiều kiếp quá khứ, ông có biện tài vô ngại, tuyên duyên chánh
pháp mà trở thành “thuyết pháp đệ nhất”. Khi đã đi sâu vào Phật
pháp, con người sẽ phát sinh tứ vô ngại nghĩa là có pháp vô
ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại và lạc thuyết vô ngại.
1) Pháp vô ngại : Khi đã
thành tựu trí tuệ thì nhìn vạn pháp thấy cái gì cũng đúng với
chân lý nên khi thuyết pháp biến tất cả các pháp trở thành Phật
pháp. Thí dụ như khi thấy lá rụng, tuyết rơi thì nghĩ ngay đến
sự tạm bợ, vô thường.
2) Nghĩa vô ngại : là biết
đúng nên nói đúng, nói chánh ngữ, đúng nghĩa, không sai chân lý.
3) Từ vô ngại : là lời nói
trôi chảy, không ngăn ngại.
4) Lạc thuyết vô ngại là càng
nói càng thêm phấn khởi, dồi dào phong phú chớ không bao giờ bị
bế tắc.
Đứng về phương diện ý thức, tư tưởng thì tứ
vô ngại được gọi là tứ vô ngại trí tức là do trí tuệ mà phát
sinh ra bốn thứ vô ngại. Còn dựa trên ngôn từ diễn đạt mà nói
thì gọi là tứ vô ngại biện tức là tứ vô ngại biện tài. Sau cùng
khi chúng sinh nhìn kinh điển mà có thể nhận thức, thấy biết
ngay thì gọi là tứ vô ngại giải, nghĩa là đọc kinh thì biết ngay
ý nghĩa mà khỏi cần nghiên cứu. Chẳng những ông có biệt
tài tứ vô ngại, mà trong quá khứ, ông còn thuyết pháp thông suốt
về ý nghĩa chữ “Không” của vạn pháp.
Ngày xưa, đức Phật tọa thiền 49 ngày đêm dưới
cội Bồ Đề đến khi sao mai mọc thì Ngài chứng Lục Thông và đắc
Tam Minh trở thành bậc Vô thượng Bồ Đề cho nên Lục Thông (lục
thần thông) là sáu diệu dụng vô ngại tự tại của Phật. Đó là:
1)Thần túc thông: Năng lực
hiện thân tùy ý muốn tự tại vô ngại.
Dựa theo Luận Đại Tì Bà Sa thì có 3 thứ thần
dụng:
-Vận thân thần dụng: Thân bay
lên hư không giống như chim bay, bay nhẹ nhàng như tiên.
-Thắng giải thần dụng: Ở xa
mà thấy như gần, nương vào năng lực này thì tuy thân ở thế giới
Ta Bà mà tay với tới mặt trăng, mặt trời.
-Ý thế thần dụng: Nhãn thức
có thể lên tới những siêu việt vô biên thế giới.
Còn theo Luận Đại Trí Độ của ngài Long Thọ
thì có 3 thứ Như ý:
-Năng đáo: Thân bay đi được,
giống như chim bay vô ngại. Dời xa lại gần, không đi mà đến.
Biến mất nơi đây, xuất hiện nơi khác. Trong một niệm là đến nơi.
-Chuyển biến: Lớn biến thành
nhỏ, nhỏ biến thành lớn. Một biến thành nhiều, nhiều biến thành
một cho nên mọi vật đều có thể chuyển biến.
-Thánh như ý: Tức năng quán
vật bất tịnh không đáng ưa thích của 6 trần là tịnh, quán vật
thanh tịnh đáng ưa là bất tịnh. Pháp thánh như ý này chỉ Phật
mới có.
2)Thiên nhĩ thông: Có thể
nghe tất cả những ngôn ngữ, âm thanh, vui, sướng, khổ của chúng
sinh trong 6 đường.
3)Thiên nhãn thông: Có thể
thấy được tướng khổ, vui, sống, chết của chúng sinh trong 6
đường và thấy tất cả hình sắc, chủng loại trong thế gian không
gì ngăn ngại.
4)Tha tâm thông: Có thể biết
sự suy nghĩ của chúng sinh trong 6 đường.
5)Túc mạng thông: Có thể
biết thọ mạng, việc làm của chính mình và chúng sinh trong 6
đường, từ trăm nghìn muôn kiếp.
6)Lậu tận trí chứng thông:
Đoạn trừ hết Kiến Hoặc và Tư Hoặc trong 3 cõi, chẳng bị sự sinh
tử trong 3 cõi trói buộc mà được sức thần thông lậu tận.
Tuy nói Lục Thông, nhưng ba pháp Thiên nhãn
thông, Túc mạng thông và Lậu tận thông còn được gọi là Tam Minh.
Bây giờ hãy triển khai ý nghĩa của Lục Thông
ở trên để có thể áp dụng vào trong đời sống của chúng ta.
Thần có nghĩa bất tư nghì, việc làm mà người
thường không thể làm được. Thông có nghĩa là vô ngại, thông suốt
tức là không còn ngăn ngại.
Một ý nghĩa của Thiên nhãn thông là khi mắt
thấy biết thực tướng của vạn pháp là vô tướng nên trong cái thấy
đó không có sự ngăn ngại bởi không gian và thời gian vì thế giới
bây giờ trở thành một tức là nhất chân pháp giới.
Thế thì con người có thể đạt được Thiên Nhĩ
Thông trong cuộc đời này chăng? Nếu chúng sinh dùng lỗ tai
(thịt) để nghe thì chắc chắn sẽ bị ngăn ngại. Tại sao? Bởi vì
khi tai nghe những âm thanh, tiếng nói không hài lòng khiến tâm
bực bội, khó chịu. Ngược lại nghe những lời bùi tai thì say đắm.
Thí dụ như vợ chồng, con cái bất ổn, thường hay cải vã, lời qua
tiếng lại cũng vì tư tưởng khác đồng chuyển qua lời nói làm cho
người nghe chịu không nổi, đâm ra bực tức, rồi sinh ra chửi bới,
đánh đấm…cuối cùng dẫn nhau ra tòa ly dị…hoặc vào tù ra khám. Đó
cũng tại vì chấp lời nói kia là thật nên bị ngăn ngại. Bây giờ
nếu hiểu Phật pháp thì không chấp vào lời nói thị phi của người
khác. Tại sao? Bởi vì trên thế gian này chỉ có ta mới thật sự
hiểu rõ ta mà thôi, không một người nào khác có thể biết ta bằng
ta được. Thí dụ một người chê ta là người xấu hoặc khen ta là
người tốt thì họ chỉ dựa theo kiến giải và kinh nghiệm bản thân
của họ mà so sánh, đánh giá người khác chớ làm sao họ biết ta
bằng chính ta. Mình tốt bao nhiêu mình biết, mình xấu bao nhiêu
thì cũng chính mình biết. Vì thế nếu mình là người xấu mà có
người khen tặng mình mà mình nhận chẳng khác nào chính mình tự
lừa dồi mình,sống trong ảo tưởng. Ngược lại nếu mình là người
tốt, luôn nghĩ thiện, nói lời lành và làm việc thiện mà có ai
chê ta thế này thế kia thì ta cứ mặc họ vì cuộc sống nhẹ nhàng,
thánh thoát, an vui, tự tại thì chính ta đã có rồi đâu cần người
đời trao tặng nữa. Nên nhớ những tiếng thị phi, những lời khen
chê thì ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có chẳng khác nào thời tiết
nóng lạnh bất thường. Do đó người biết tự chủ tâm mình là người
không chạy theo khách trần phiền não cho nên nghe thì nghe tất
cả mà như không nghe gì hết, trong ngoài tự tại, không còn ngăn
ngại thì chính ta đã chứng được Thiên nhĩ thông rồi.
Cùng lý luận ấy, thấy thì cái gì cũng thấy,
thấy tất cả mà như không thấy gì hết, tâm không dính mắc, không
còn ngăn ngại là có Thiên nhãn thông. Kinh điển thường nói “Nhục
nhãn ngại phi thông. Thiên nhãn thông phi ngại” nghĩa là nhìn
thấy bằng mắt thịt thì sẽ bị ngăn ngại, không thông suốt tại vì
tâm còn chấp. Ngược lại, dùng thiên nhãn tức là dùng mắt trí tuệ
để quán xét thì tất cả sẽ thông suốt, không còn ngăn ngại. Từ đó
cuộc sống sẽ được an vui tự tại.
Các thông còn lại cũng y như vậy. Vì thế
chúng sinh hằng ngày nên bồi dưỡng trí tuệ của mình bằng cách
sống trong tĩnh thức,chánh niệm để chứng từng món thông mà biến
cuộc đời từ phiền não ưu bi trở thành thanh tịnh, thánh thoát,
an vui, tự tại. Thí dụ hằng ngày mắt vẫn thấy sắc như nhà to, xe
đẹp, áo lụa, quần là…Nếu là người thường thì dễ bị nó lôi cuốn,
nhận chìm, mê hoặc vào đó, nhưng đối với người có tư duy chánh
niệm thì nhận thức được hiện tượng của vạn pháp là vô thường nên
tâm họ không hề bị dính mắc. Họ quán rằng vạn pháp là không
nghĩa là tất cả mọi vật thể trong thế gian này dù to lớn như mặt
trời, mặt trăng hay nhỏ như hạt cát như vi trần đều do duyên
khởi tác tạo mà thành chớ không vật nào tự nó sinh khởi hay tồn
tại được cho nên vật thể là vô ngã, không có tự thể nên tuy là
có, là thấy sờ sờ ở đó nhưng một ngày nào đó nó sẽ bị biến hóa,
tiêu hoại nên gọi là không. Do đó, cái không của Phật giáo là
không tham đắm, si mê, không chấp thủ chạy theo hình sắc sinh
diệt chớ không phải dùng thần thông hay quán làm biến đi tất cả.
Người có tư duy, chánh niệm khi thấy đóa hoa đẹp thì họ vẫn biết
cái đẹp của hoa đấy chứ, nhưng họ quán rằng đóa hoa là do trùng
trùng duyên khởi mà thành vì vậy đến tuần sau đóa hoa bắt đầu
héo úa, tàn phai rồi trở thành phân bón cho nên nhìn đóa hoa thì
họ cũng nhìn, cũng biết nó đẹp, nhưng không đắm nhiễm say mê,
lúc nào cũng tự tại với sắc đẹp. Lấy đóa hoa làm tiêu chuẩn để
nhìn tất cả những hình sắc khác trên thế gian này cho nên tuy
mắt có nhìn các loại trân châu bảo ngọc quý báu, đẹp đẽ đến đâu
thì nó cũng là loại vô thường hoại diệt. Ngược lại nếu nhìn theo
con mắt của phàm nhân thì tham đắm, say mê rồi chấp thủ đem về
làm của riêng cho mình đưa đến tranh chấp, chiến tranh giết hại
lẫn nhau. Nói tóm lại, người biết đạo thấy đẹp thì cũng biết là
đẹp, nhưng họ biết vật chất đó từ “Không” mà “Có” vì thế một
ngày nào đó từ “Có” sẽ trở thành “Không” cho nên thấy tất cả vật
chất nhưng không bị chúng lôi cuốn nhận chìm nên họ mới có an
nhiên tự tại được. Đó chính là “Kiến sắc phi can sắc” vậy. Người
học Phật không những thấy biết rõ ràng sự hoại diệt, vô thường
của thế gian mà còn thấy rốt ráo sự trường tồn vĩnh cửu tức là
tánh vô sanh vô diệt của vạn pháp nữa. Bởi vì lúc đóa hoa tàn úa
thì từ cái diệt này bắt đầu cho sự sanh khác để tạo thành đóa
hoa mới. Đó là hiện tượng quy về bản thể và bản thể duyên khởi
thành ra hiện tượng cho nên không có cái gì là thật sinh hay cái
gì là thật diệt nghĩa là sinh để rồi diệt, diệt rồi lại sinh,
sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận nên sinh diệt, sống chết là
chuyện thường, chẳng có gì quan trọng nên không còn lo sợ, buồn
phiền. Chúng sinh khi thấy mình già yếu, bệnh tật thì đau khổ,
lo âu, sợ sệt. Ngược lại, đối với người biết đạo thì sống chết
là chuyện bình thường, tử sanh là trò dâu biển nằm trong chu kỳ
bất biến tùy duyên rồi tùy duyên bất biến thế thôi. Vì vậy với
Phật nhãn của chư Phật thì nhìn vạn pháp sanh mà không thật sanh
và diệt nhưng không phải là mất hẳn nghĩa là sinh để rồi diệt và
diệt rồi để lại sanh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận.
Tóm lại thần thông được hiểu là bất tư nghì,
vô ngại tự tại. Vô ngại tự tại đối với những việc khó tự tại để
vượt qua những thử thách mà người thường không thể nào tự tại
được. Vì vậy người có thần thông là người mà lục căn được sức tự
tại vô ngại một cách bất tư nghì (không thể nói được) mà đối với
một người thường không nghĩ đến được, không thực hành được,
không thể chiến thắng được những dục vọng làm ô nhiễm tâm ý của
mình. Đó là mắt đối với sắc, tai đối âm thanh, lưỡi đối với mùi
vị, mũi đối với hương vị, thân đối với cảm xúc và ý đối với pháp
trần mà vẫn được tự tại vô ngại một cách bất tư nghì thì người
đó chứng được lục thông.
Đối với Phật giáo, việc gì đến sẽ đến, khỏi
trông chờ mong đợi chi hết cũng như khi đào ao xong có nước
trong thì ánh trăng hiện xuống hay mây tan thì trời chiếu sáng
vậy thôi.Vì thế nếu hành giả tu theo chánh pháp mà tâm cứ mong
cầu đạt được các thứ thần thông thì những tham vọng này sẽ che
lấp tâm thanh tịnh của mình. Cái tâm mong cầu này gọi là Vũ tâm
trong sáu mươi tướng vọng tâm sai biệt của phàm phu (Lục Thập
Tâm).
Ngày nay với đà phát triển của văn minh khoa
học, con người có thể trực tiếp nói chuyện với người thân tận
bên kia quả địa cầu. Xa hơn nữa, con người có thể lên cung trăng
thăm chị Hằng, chú Cuội. Có những chiếc tàu ngầm chạy bằng
nguyên tử lực có thể lặn sâu ở dưới lòng đại dương cả năm trời.
Thế thì thần thông không nhất thiết phải là thấy xa, nghe rộng
hay là bay cao nhảy xa giống như ảo thuật mà phải được hiểu là
khả năng đoạn trừ mọi tham đắm, si mê, không bị lôi cuốn nhận
chìm trong ái dục và dĩ nhiên lúc nào cũng sống trong tĩnh thức
chánh niệm tức là luôn làm chủ tâm mình. Đây mới chính là những
thứ tự tại vô ngại, bất khả tư nghì mà người thường không thể
làm được.
Vì có được tứ vô ngại nên tôn giả tuy thuyết
pháp nhưng tâm không rời pháp giới tánh. Đức Phật biết ông có
tài biện thuyết lớn lao nên dạy ông tu hạnh thuyết pháp. Do
thuyết pháp đứng đắn, đúng với chân lý, dùng ngọn lưỡi thay ánh
thép quét sạch tà ma ngoại đạo nên ông đắc quả A la hán.
Tuy Tôn giả bên ngoài là A la hán, nhưng việc làm và trí tuệ bên
trong chẳng khác gì một vị Bồ Tát. Đó là ngài không đề cao mình,
giản dị hóa cuộc sống, không câu nệ để gần gủi với quần chúng mà
có dịp giáo hóa họ. Trong biết bao đời trong quá khứ, ngài đã
từng giúp đở chư Phật trong việc giáo hóa và làm lợi ích cho vô
lượng chúng sinh nên sau này sẽ thành Phật hiệu là Pháp Minh Như
Lai trong cõi nước Thiện Tịnh.
Trong thế giới Thiện Tịnh của Pháp Minh Như
Lai thì chúng sinh nhờ tu đầy đủ hạnh thanh tịnh nên có đủ
nguyện lực mà được hóa sanh đến đây nên không có tướng nam nữ.
Khác với thế giới Ta Bà chúng ta đang sống, đói phải ăn thực
phẩm thì ở cõi Thiện Tịnh chỉ cần chánh pháp và thiền định chớ
không ăn uống cơm gạo như chúng ta. Đó là khi đói thì họ nghe
pháp hoặc tọa thiền khiến tâm hoan hỉ liền được no. Chúng đệ tử
toàn là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát nhiều vô lượng không thể
đếm hết được và tuổi thọ dài vô biên.
Để lập lại nghĩa trên, đức Phật nói một
bài kệ…
Bấy giờ 1.200 vị La-Hán, những vị tâm
được tự tại nghĩ rằng: Nếu Phật đều thọ ký cho mình như đã thọ
ký cho các vị đệ tử lớn thì sung sướng biết bao. Đức Phật biết
tâm nịêm đó, bèn lần lượt thọ ký cho 500 vị A-la-hán. Trước hết
là tỳ-kheo Kiều-Trần-Như và tất cả đều sẽ thành Phật đồng một
hiệu là Phổ Minh.
Sau khi đức Phật thọ ký cho Tôn giả Phú Lâu
Na sẽ được thành Phật hiệu là Pháp Minh Như Lai, 1.200 vị A la
hán còn lại mong rằng các ngài cũng sẽ được Phật thọ ký. Lý do
các ngài đều mong được Phật thọ ký vì các ngài đã thâm hiểu bản
hoài của Phật, đã thấu hiểu Phật thừa và dĩ nhiên các ngài tự
mình muốn tiến thẳng đến cứu cánh tối
thượng là thành Phật chớ không an phận ở Thánh quả A la hán. Đức
Phật biết được tâm niệm (tha tâm thông) của các ngài nên lần
lượt thọ ký từ các đệ tử lớn như Tôn giả Kiều Trần Như rồi đến
500 vị A la hán khác như Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Dà Gia Ca Diếp,
Nan Đề Ca Diếp, A Na Luật…đều sẽ thành Phật và tất cả cùng chung
một Phật hiệu là Phổ Minh Như Lai nghĩa là vị Phật có trí tuệ
phóng ra khắp cùng.
Được thọ ký xong, 500 A-la-hán vui mừng
lễ Phật thưa:
Bạch Thế Tôn ! Từ trước tới nay chúng con
cứ tưởng là mình được diệt độ rồi. Nay mới biết chúng con vô
trí. Vì sao? Vì đáng được trí tuệ của Như Lai mà cứ bằng lòng
với trí nhỏ của mình cho là đủ. Rồi các vị đồng tâm, trình
lên Phật một thí dụ:
Trong kho tàng Phật báu, chúng con mới
được một phần mà tự cho là đủ. Chắng khác một người nghèo đến
chơi nhà bạn thân giàu lớn. Tiệc rượu xong, anh nghèo say vùi
nằm ngủ. Bạn giàu vì có việc đi xa gấp, bèn lấy một viên ngọc vô
giá buộc vào vạt áo của bạn say để tặng. Hết say, anh nghèo ra
đi, không hay trong người có ngọc. Đến một nước khác, cầu y cầu
thực làm ăn vất vả, mỗi khi được một ít của cải tự cho là đủ,
không dám mong một tình cảnh tốt đẹp hơn. Về sau anh bạn giàu
gặp trở lại anh bạn nghèo, thấy bạn khốn khổ quá mới trách: Sao
không dùng viên ngọc trong vạt áo để kinh doanh, tạo cho
mình cuộc sống giàu sang. Chừng ấy anh nghèo mới hay là mình
giàu, liền dùng vốn ấy mà kinh doanh và trở nên giàu có.
Các vị A-la-hán kết luận: chúng con cũng
như vậy, từ lâu xưa, Thế Tôn thường giáo hóa cho. Vậy là Thế Tôn
đã gieo trong lòng chúng con hạt giống Vô Thượng Chánh Đắng
Chánh Giác. Thế mà chúng con vô trí không hay không biết, được
chút phần Niết Bàn cho là đủ rồi, không cần gì nữa. Nay Phật
giác ngộ cho chúng con, dạy cho biết phải được Phật tuệ Vô
thượng mới thật là Diệt Độ.
Sau khi được Phật thọ ký, 500 vị A la hán vừa
vui mừng vừa thầm trách cho sự hiểu biết nông cạn của mình. Đó
là các ngài đều có khả năng thành Phật và đã được Phật thọ ký
thế mà bấy lâu nay lại an phận với quả vị A la hán. Các ngài
biết hối lỗi tự trách nên cùng nhau đến trước đức Phật đảnh lễ
sám hối dưới chân Phật. Cũng giống như thí dụ anh
chàng Cùng tử ở chương trước, ở đây các ngài cũng bạch lên Phật
một thí dụ Bảo châu trong áo.
Tâm trạng của họ chẳng khác nào anh chàng
nghèo khổ, một hôm đến nhà thăm một người bạn thân. Người nghèo
khổ ví cho chúng sinh còn bạn thân là chỉ cho đức Phật. Trong
tiệc, người nghèo khổ uống rượu đến say mèm rồi lăn ra ngủ li
bì. Say là chỉ cho rượu ngũ dục lạc mê hoặc làm cho con người
mất trí tuệ, sống trái với chân lý cũng như người say thì thường
siêu đình ngã quán. Chủ nhà vì có việc phải đi xa một thời gian
nhưng thương người bạn nghèo nên trước khi ra đi lấy nhiều viên
ngọc rất quý cột vào chiếc áo của bạn rồi may rất kỹ trước khi
lên đường. Sau khi tỉnh rượu, người nghèo khổ thấy bạn mình đã
đi rồi nên bỏ đi lang thang đến nước khác. Vì cuộc sống nên phải
cố sức lao động rất khổ nhọc, nếu có chút ít tiền bèn cho là đủ.
Tỉnh rượu là chỉ cho sự thức tỉnh biết rằng cuộc đời giả tạm phù
du, càng chạy theo dục vọng thì càng bị ràng buộc bởi thế tình
cho nên cố gắng làm ăn là chỉ cho tinh tấn nỗ lực tu hành. Sau
cùng có chút ít vốn mà cho là đủ là chỉ cho hàng Thanh Văn chứng
Niết bàn, đắc A la hán mà tự mãn nghĩ mình đã đạt đến cứu cánh
tối thượng là thành Phật.
Thời gian mười mấy năm sau đó, người nghèo
khổ vẫn mang chiếc áo rách cũ và tình cờ gặp lại người bạn thân
thuở nào. Thấy dáng nghèo khổ, rách rưới người đó thốt lên rằng
“Tại sao anh lại nghèo khổ đến thế nầy? Từ hôm gặp gở lần trước,
vì anh quá say nên trước khi ra đi tôi có may vào trong chiếc áo
của anh nhiều viên ngọc quý mà”. Vừa nói anh vừa vạch vạt
áo của bạn mình ra rất đổi ngạc nhiên “Những viên ngọc quý vẫn
còn đây, tại sao anh không đem chúng bán đi mà lại sống một đời
sống bần cùng rách rưới như thế?”. Thời gian sau tái ngộ với
người bạn nghèo của mình cũng như đức Phật thuyết giảng kinh
Pháp Hoa cho tất cả đệ tử tại núi Linh Thứu. Viên ngọc là chỉ
cho Phật tánh (Tri Kiến Phật) vốn sẵn có trong mỗi chúng sinh.
Tuy con người không biết là trong ta lúc nào cũng có sẵn cái
Phật tánh thiêng liêng huyền diệu cũng như anh chàng nghèo khổ
tuy mang viên ngọc quý báu trong vạt áo mà không hề hay biết nên
sống trong lầm than khổ cực. Đức Phật đã may vào trong vạt áo
của con người rất nhiều viên bảo ngọc mà không ai hay biết nên
cứ mãi sống một cuộc đời cùng khổ. Vì thế đây chính là thời điểm
để thức tỉnh mà phát hiện những viên bảo ngọc mà đức Phật đã để
vào trong chiếc áo của chúng ta. Từ đây chúng ta sẽ giả từ cuộc
sống bần cùng nghèo khó và bắt đầu có cuộc sống mới sung túc,
giàu có và hạnh phúc viên mãn.
Tóm lại, học kinh Pháp Hoa là thấu hiểu bản
hoài của chư Phật muốn cho tất cả chúng sinh “khai,
thị, ngộ, nhập Phật tri kiến”nghĩa
là đức Phật muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm
nhập cái thấy biết của Phật và cũng chính là cái thấy
biết của Pháp Hoa vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Đó
là ai ai cũng có đầy đủ tri kiến Phật, là trí tuệ bổn lai đều
giống như Phật. Vậy Phật tri kiến mà đức Phật muốn nói ở đây
chính là chơn tâm, là Phật tánh thường có vĩnh hằng, nhưng vì bị
vô minh che lấp nên con người không thấy biết chơn tánh hằng
giác của mình. Cái bổn tánh này ví như mỏ vàng đang đợi khai
phá, chưa được hiển lộ. Vì thế đức Phật muốn chúng sinh thanh
lọc chất vàng trong mỏ tức là khai mở tri kiến Phật của mình để
có sự thanh tịnh, an lạc ngay trong cõi đời có tan có hợp này
cũng giống y như Phật vậy. Một khi chúng sinh đã ngộ nhập cái
Phật tri kiến này thì chỉ cần nương theo con đường duy nhất là
Phật thừa để hoàn thành Phật đạo tức là thành Phật.
∆ TOP |
NEXT
|